Hợp đồng và khế ước trong
kinh tế thị trường
Trong giaou dân sự, kinh tế, thương mại,
pháp luật của nhiều nước nền kinh tế thị
trường phát triển đều sử dụng hai hình thc
kết hợp đồng hoặc kết khế ước.
nước ta, vào ng cuộc đổi mới trên 20 năm, năm 2005, Quc hội đã
thông qua Bluật Dân sự làm nền tảng cho các mối giao lưu dân sự, kinh
tế.
Đáng chú ý là tất cả các mi giao lưu kể trên đều được Luật Dân sự vàc
đạo luật khác quy định chỉ dùng hình thức hợp đồng, không dùng hình
thức khế ước. Nói riêng B luật Dân sự gồm 777 điều đã tới 205 điều
tđiều 388 đến 593 n định về các loại hợp đồng, nội dung cụ thể của
từng chủng loại, quyền nghĩa vụ các bên tham gia, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại...
Luật về nhà (2005), Luật kinh doanh bất đng sản (2006) cùng sdụng
hình thức hợp đồng trong tất cả các mối giao lưu về bất động sản và nhà ở.
Hình thức khế ước tuy không xuất hiện trong c đạo luật nhưng đã được
sdụng trong đời sống thực tiễn của dân ta từ lâu đời như việc mua bán
ruộng đất, nhà cửa trước đây chúng ta phòng quản văn khế, (giấy tờ
khế ước) hoặc trong một thời gian sau giải phóng miền Nam phòng
chưởng khế, nay các tỉnh gọi là phòng ng chứng chức năng chính
chứng thực các giấy tgiao dịch dân sự (các giao dịch bằng khế ước).
Vậy nên chẳng cần phân biệt hình thức hợp đồng với hình thc khế ước
xem tác dụng thực tiễn gì, nếu không phân biệt thì nó có tác hại như
thế nào trong đời sống kinh tế thị trường, trong hoạt đng của Nnước
pháp quyền và xây dựng xã hội dân sự ở nước ta.
T những giao lưu n sự nhỏ trong ng việc thường ngày đến những
mối quan hệ lớn tầm bao quát mô, giữa nhân với các nhân, tổ
chc với t chức, nhân với tổ chức i chung, được thhiện 3 mối
quan hệ lớn.
1. Quan hệ cạnh sinh
Quan hcạnh sinh (antibiose) được hiểu như nếu hai bên ký 1 văn bản
hợp đồng hoặc khế ước thì quyền của bên này phải là nghĩa vụ của bên
kia, quyền của bên kia phải là nghĩa v của bên này. Quyền, lợi ích và
nghĩa vụ của hai bên nợc chiều, lợi ích của bên y thit hại của
n kia (và ngược lại).
Trong quan hmua bán, nời mua muốn mua được giá thấp, người bán
lại muốn bán với giá cao, hai bên lợi ích ngược chiều nên mỗi bên đều
nlực bảo vệ lợi ích của mình, u thuẫn với lợi ích bên kia. Trong quan
hệ giữa chủ nợ với người đi vay, giữa người thuê với người cho thuê, giữa
người đi cầm cố, thế chấp tài sản với người nhận cầm c, thế chấp đều là
các mi quan hệ ngược chiều qua lại về quyền và nghĩa vụ giữa 2 bên.
Trong quan hgiữa các doanh nghiệp dù quan h quốc nội hay quốc tế,
trong bất kỳ lĩnh vực nào: mua bán ng hoá, cung cấp dịch vụ, bảo vệ
quyền shữu trí tuệ, bản quyền hay thương quyền... mỗi n đu phải giữ
được lợi thế của mình, tăng sức cạnh tranh nên c quyền, li ích, nghĩa
vụ giữa các bên đều quan hệ ngược chiều, ngược hướng.
Đã những quan hệ cạnh sinh thì hai bên cần kết một bản khế ước
(contrat) không nên mt bản hợp đng (convention). Vì sao cần có s
phân bit? Hãy xem một bn hợp đng điều gì khác với mt bản khế
ước.
2. Quan hệ cộng sinh
Quan hcng sinh (symbiose) được hiểu khi hai bên mt n bản hợp
đồng hoc khế ước thì hai bên đều ng ởng, cùng chịu, cùng chia s
các hot động, thụ hưởng kết quả. Gặp khó khăn các bên gặp nhau tìm
bin pháp khắc phục bao gồm cả những biện pháp lợi hoặc không có
lợi cho mình. Trong quan h cng sinh, các quyền, lợi ích và nghĩa vụ
phn lớn là thuận chiều, cùng chiều, ít trái ngược hoặc không trái
ngược.
Trong quan hthành lập một công ty như công ty trách nhiệm hữu hạn,
ng ty c phần, ng ty hợp danh hoặc 1 hợp tác xã, mt liên doanh với
nước ngoài, các thành viên tham gia đều cùng chung mt mục đích, cùng
thực hiện các nghĩa vụ, cùng hưởng các lợi ích theo điều lệ, được coi như
1 bản hợp đồng gốc.
Trong quan h thành lp c hội, các hiệp hội hiện nay, theo pháp luật
nước ta, các bên tham gia đều các quyền, nghĩa vụ cùng chiu, cùng
hưởng, không có mi quan hệ ngược chiều giữa các thành viên.
Những quan h cộng sinh cần được kết bằng một bản hợp đng
(convention) không thể ký bằng một bản khế ước.
Do thói quen của mấy thập kỷ hoạt động theo chế độ bao cấp, các mối
quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại đều được giao lưu trong quan hệ cộng
sinh, mi hoạt động đều tuân theo các chỉ tiêu kế hoạch, c bên đu cùng
chung mt mục đích phục vnền kinh tế tập trung, lợi nhuận nhiều hay b
thua l, hưởng nhiều ởng ít đều được chia sẻ qua lại. Đã c quan h
cng sinh, nhà lập pp coi hình thức hợp đồng hay hơn hình thức khế
ước, coi nhẹ các quan hệ cạnh sinh của kinh tế thị trường nên không đ
cập đến hình thức khế ước là mt hình thc cần có bên cạnh hình thức hợp
đồng.
Hợp đồng là hình thức pháp luật chủ yếu của các quan hệ cộng sinh khế
ước là hình thc pháp luật chủ yếu của các quan hệ cạnh sinh.
Đương nhiên khi muốn giao ước hợp tác trong một lĩnh vực nhất định, hai
n ththoả thuận lựa chọn hình thức hợp đồng hay khế ước miễn là
cân nhắc kcác mối quan hệ cộng sinh hay cạnh sinh trong giao ước. Sự
lựa chọn linh hoạt giữa 2 hình thc hợp đồng hoặc khế ước được áp dụng
nhiều trong hoạt động dịch vụ như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ xây dựng
nhà ở, dịch vụ y tế, quan hệ tặng cho tài sản...
Các quan hmua bán hàng hoá, i sản, vay mượn, thuê mướn, cầm cố,
thế chấp tài sản thì cn thiết phải dùng hình thức khế ước, không thể sự
lựa chọn giữa 2 hình thc, không nên dùng hình thức hợp đồng.
3. Quan hệ phụ thuộc
Quan hphthuộc (subordination) được hiểu như hai n giao ước, trong
đó bên này phthuộc hoàn toàn vào bên kia.
Các tập đoàn kinh tế lớn một số nước thành lập ra ng ty mẹ, ng ty
con, các chi nhánh, văn phòng đại diện nước ngoài, mối quan hệ nội bộ
đó đều là các quan hệ phụ thuộc.
ớc ta, doanh nghiệp ớc ngoài và doanh nghiệp các thành phần kinh
tế đang có xu hướng thành lp công ty mẹ, công ty con.