Những hướng nghiên cứu mới của Việt ngữ học và cách

tiếp cận liên ngành

Việc nghiên cứu tiếng Việt hiện nay vẫn là sự tiếp nối của những thành tựu

trong các giai đoạn trước, trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến một số

phương diện nghiên cứu gần đây thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà ngôn

ngữ học, như các vấn đề về Ngữ dụng học và Ngữ pháp chức năng, Xã hội ngôn

ngữ học, Tâm lí ngôn ngữ học, Ngôn ngữ học tri nhận, Ngôn ngữ học ứng

dụng, đặc biệt là những vấn đề về mối liên quan giữa ngôn ngữ và văn hoá. Về

cách tiếp cận mới đối với tiếng Việt tất nhiên còn có những vấn đề cần tiếp tục

nghiên cứu, thảo luận, thậm chí cả việc xác định đối tượng nghiên cứu và tìm kiếm

các mô hình và lí thuyết thích hợp với tiếng Việt. Nhưng với những kết quả nghiên

cứu này, phần nào cho thấy những đặc trưng của tiếng Việt, mà nếu chỉ nghiên

cứu thuần tuý dưới góc độ ngôn ngữ học, hoặc theo các phương pháp nghiên cứu

truyền thống, thì có nhiều điểm chưa sáng tỏ; bởi trong khoa học hiện đại, những

phạm vi đối tượng nghiên cứu giáp ranh và có tính liên ngành thường đem lại

những phát hiện mới. Có thể cho rằng: Việc nghiên cứu phương diện chức năng

của ngôn ngữ, nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với sự hành chức của nó, với xã hội,

văn hoá, tâm lí, nhận thức và chủ thể người sử dụng ngôn ngữ là những hướng tiếp

cận mới đối với tiếng Việt. Những hướng nghiên cứu mới này được thấy khá rõ

trong Việt ngữ học, từ những năm cuối của thế kỉ trước đến những năm đầu của

thế kỉ XXI.

1. Về hướng nghiên cứu Ngữ dụng học và Ngữ pháp chức năng

Ngữ dụng học và ngữ pháp chức năng quan tâm đến việc sử dụng ngôn ngữ và các

phạm vi của giao tiếp lời nói. Với phương diện nghiên cứu này, ngữ dụng học và

ngữ pháp chức năng hi vọng tìm kiếm những bản chất mới của ngôn ngữ mà

những quan điểm thiên về bản thân kí hiệu ngôn ngữ, coi lời nói chỉ có tính cá

nhân trong lí thuyết của F. de Saussure tỏ ra không thích hợp. Bởi vì, theo M.A.K.

Halliday thì một sự giải thích cuối cùng đối với các hiện tượng ngôn ngữ là nằm ở

trong việc sử dụng ngôn ngữ.

Ở Việt Nam những vấn đề ngữ dụng học và ngữ pháp chức năng được quan

tâm từ những năm 80-90 của thế kỉ XX, như trong một số chuyên đề ở các trường

đại học, hay trong một số công trình của một số tác giả, như Hoàng Phê, Cao Xuân

Hạo, Trần Ngọc Thêm, Hồ Lê, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức

Dân. Trên một số tạp chí nghiên cứu cũng đăng tải nhiều bài của các tác giả

Hoàng Phê, Lê Đông,... Đã có một hội nghị về ngữ dụng học tại Đại học ngoại

ngữ Hà Nội (1996), và một số luận án tiến sĩ về ngữ dụng học.

Công trình sau này của Đỗ Hữu Châu Đại cương Ngôn ngữ học (Tập II: Ngữ

dụng học[2]), có thể xem là một công trình tiêu biểu trong việc nghiên cứu ngữ

dụng học ở Việt Nam. Trong công trình này cũng như ở những công trình của một

số tác giả khác (Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức Dân) những vấn đề trung tâm

của ngữ dụng học đã được trình bày một cách hệ thống và phân tích trên cứ liệu

tiếng Việt như: chiếu vật và chỉ xuất, hành vi ngôn ngữ, lí thuyết lập luận, lí thuyết

hội thoại, ý nghĩa hàm ẩn và tường minh. Có thể thấy điểm nổi bật của việc nghiên

cứu ngữ dụng học là khảo sát về ngữ cảnh và việc giao tiếp. Hướng nghiên cứu

này có thể xem là đối lập với cấu trúc luận. Bởi vì các nhà nghiên cứu ngữ dụng

học cho rằng các yếu tố bên ngoài, thuộc về ngữ cảnh giao tiếp có quan hệ chặt

chẽ với các yếu tố bên trong của hệ thống ngôn ngữ. Trong đó, phạm vi cấu trúc

thông tin của phát ngôn trong tiếng Việt có những đặc điểm riêng, liên quan đến

cái gọi là cấu trúc “đề - thuyết” của câu. Đây là một phương diện được một số tác

giả, tiêu biểu là Cao Xuân Hạo, quan tâm và có thể cho đó là một hướng nghiên

cứu mới trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt hiện nay. Trên quan điểm ngữ pháp

chức năng, Cao Xuân Hạo cho rằng tiếng Việt là ngôn ngữ thuộc loại hình không

phải có kết cấu chủ - vị, mà là thuộc loại hình có kết cấu đề - thuyết [1].

Về quan niệm đề - thuyết và quan niệm kết cấu chủ - vị trong những năm vừa

qua đã liên tiếp có những tranh luận cả trên các báo chí lẫn trong các hội thảo khoa

học về ngữ pháp tiếng Việt ([3], số 14/2004). Có thể thấy những quan điểm khác

nhau của một bên tiêu biểu là Đỗ Hữu Châu, Lê Xuân Thại,... bên kia là Cao Xuân

Hạo và một số người khác. Thực chất của hai quan điểm nêu trên là: Một bên cho

rằng cấu trúc chủ - vị là cấu trúc của các ngôn ngữ phương Tây, khác với loại hình

đơn lập tiếng Việt; còn bên kia cho rằng cấu trúc đề - thuyết là không tiêu biểu cho

thực tế của tiếng Việt và có tính khiên cưỡng. Gần đây Hoàng Văn Vân lại vận

dụng một hướng tiếp cận của ngữ pháp chức năng hệ thống đối với ngữ pháp tiếng

Việt mà theo ông thì những nghiên cứu ngữ pháp của tiếng Việt, cũng như ngữ

pháp chức năng của Cao Xuân Hạo, mặc dù có những thành tựu nhưng vẫn không

tỏ ra có sức mạnh giải thích ngữ pháp tiếng Việt [18]. Chúng tôi cho rằng, những

quan điểm nêu trên của ngữ pháp chức năng, ngữ dụng học, ngữ pháp chức năng

hệ thống đều cho thấy những phương diện khác nhau của cơ cấu ngữ pháp tiếng

Việt và dường như càng ngày chúng ta càng tiến gần đến một đối tượng phức tạp,

đó là Ngôn ngữ - tiếng Việt và người sử dụng nó.

2. Về hướng nghiên cứu Ngôn ngữ học xã hội

Ở Việt Nam, những vấn đề về ngôn ngữ học xã hội đã được đề cập đến trong

những công trình nghiên cứu về chính sách ngôn ngữ, chuẩn hoá ngôn ngữ, song

ngữ, đa ngữ, phương ngữ, v.v... của các tác giả: Hoàng Phê, Hoàng Tuệ, Nguyễn

Kim Thản, Hoàng Thị Châu, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Lợi, Lí Toàn Thắng,

Hoàng Văn Hành, Phạm Đức Dương, Bùi Khánh Thế, Hồ Lê, v.v... Song

cuốn Ngôn ngữ học xã hội: Những vấn đề cơ bản[11] của Nguyễn Văn Khang là

công trình đầu tiên giới thiệu ngôn ngữ học xã hội với tư cách là một bộ môn khoa

học một cách hệ thống và toàn diện nhất. Công trình nghiên cứu này cho thấy một

cách tổng quan không chỉ những quan điểm đáng chú ý trong lĩnh vực ngôn ngữ

học xã hội, mà cả một số vấn đề cấp bách trong tiếng Việt hiện nay cũng được tác

giả lí giải và phân tích, so sánh đối chiếu với các ngôn ngữ khác.

Một phạm vi quan trọng khác của ngôn ngữ học xã hội vĩ mô, đó là kế hoạch

hoá ngôn ngữ được trình bày trong cuốn: Kế hoạch hoá ngôn ngữ - ngôn ngữ học

xã hội vĩ mô[12] của Nguyễn Văn Khang. Trong đó tác giả đã giới thiệu và phân

tích một cách hệ thống các công việc kế hoạch hoá ngôn ngữ với những nội dung

cơ bản là: kế hoạch hoá vị thế ngôn ngữ, kế hoạch hoá bản thể ngôn ngữ, kế hoạch

hoá uy tín ngôn ngữ. Ở đây kế hoạch hoá uy tín ngôn ngữ được coi là một khung

tổng thể về kế hoạch hoá ngôn ngữ.

Như chúng tôi trình bày ở mục ngữ dụng học và cả ở phần dưới đây về tâm lí

ngôn ngữ học, vấn đề giao tiếp được ngôn ngữ học xã hội đặc biệt quan tâm. Khảo

sát về lớp từ xưng hô trong tiếng Việt, cũng như các vấn đề về giới tính và yếu tố

lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ, tác giả cho thấy tiếng Việt có những đặc thù và

khuynh hướng riêng trong việc sử dụng ngôn ngữ. Yếu tố lịch sự trong giao tiếp

cũng được nhiều tác giả khác như Nguyễn Thiện Giáp [10], xem xét như một

chiến lược quan trọng cùng với “nguyên lí cộng tác”, yếu tố này chi phối cả quá

trình cũng như kết quả giao tiếp. Khảo sát những vấn đề trên dưới góc độ ngôn

ngữ học xã hội còn cho thấy những đặc trưng văn hoá - xã hội của người Việt

trong giao tiếp.

3. Về hướng nghiên cứu Tâm lí ngôn ngữ học và Ngôn ngữ học tri nhận

Cũng như tình hình chung của các bộ môn có tính liên ngành ở Việt Nam, những

vấn đề về tâm lí ngôn ngữ học và ngôn ngữ học tri nhận gần đây đã thu hút sự chú

ý của nhiều nhà nghiên cứu.Trong một số giáo trình đại học và chuyên khảo đã đề

cập đến các vấn đề tâm lí ngôn ngữ học. Chẳng hạn như sưu tập chuyên đề Một số

vấn đề cơ bản của tâm lí ngôn ngữ học[15]; những bài về ngôn ngữ trẻ em tại các

hội nghị khoa học nghiên cứu nuôi dạy trẻ ở Hà Nội (1978, 1986, 1991).

Việc nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em ở Việt Nam tuy còn mới mẻ nhưng đã thu

được một số kết quả nhất định, như đưa ra những chỉ số phát triển về ngữ âm, ngữ

nghĩa, ngữ pháp, vốn từ; về khả năng ngôn ngữ trẻ em và những cách tiếp cận tâm

lí ngôn ngữ học, ngôn ngữ học xã hội đến đối tượng này.

Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: hướng tiếp cận ngôn ngữ trẻ em theo

cách mà nó hình thành (Ontogenez) đã thu hút sự chú ý của các nhà tâm lí học và

ngôn ngữ học trên thế giới. Hướng tiếp cận này cho phép làm sáng tỏ phương diện

bên trong của tổ chức của khả năng ngôn ngữ, không phải về mặt “định lượng”,

mà quan trọng là ở mặt “định tính” và sự phát triển kế tiếp nhau của các thành tố

trong khả năng ngôn ngữ của đứa trẻ. Đây là hướng nghiên cứu được chúng tôi

triển khai trong nhiều năm và đã công bố trong một số công trình tại Viện Ngôn

ngữ học, Viện HLKH Liên Xô (1989, 1990), ở Việt Nam (2001, 2005), và một số

hội nghị khoa học quốc tế (1996, 2004). Lần đầu tiên ở Việt Nam với công

trình Từ hoạt động đến ngôn ngữ trẻ em [14], chúng tôi đã không chỉ xác định cơ

sở tâm lí ngôn ngữ học của sự tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em người Việt, mà còn

nêu lên những đặc điểm của tổ chức, hoạt động của khả năng ngôn ngữ trẻ em nói

một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập là tiếng Việt.

Trong Tâm lí ngôn ngữ học và việc nghiên cứu ngôn ngữ ở trẻ em Việt Nam[9],

chúng tôi đã cố gắng tổng kết những thành tựu trong việc nghiên cứu ngôn ngữ trẻ

em Việt Nam không chỉ trên phương diện “định lượng” là quá trình phát triển của

các phương diện ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của trẻ em, mà còn nêu lên những

đặc trưng của quá trình tiếp thu và sản sinh phát ngôn của trẻ em người Việt. Đó là

sự hình thành và phát triển các cấu trúc nền tảng thuộc các cấp độ ngữ âm, ngữ

nghĩa, cú pháp được biểu hiện trong các giai đoạn phát triển sớm trong hoạt động

lời nói của trẻ em. Chúng tôi cho rằng sự sản sinh phát ngôn lời nói ở trẻ em gắn

liền với sự tri nhận của trẻ đối với thế giới xung quanh, mà trực tiếp là tri nhận về

hoạt động thực tiễn của đứa trẻ cũng như những thao tác của đứa trẻ đối với đối

tượng