Kết quả cách viết một bài
báo khoa học
Tiếp theo phần phương pháp là phần trình bày kết quả nghiên cứu. Một khó khăn mà
phần lớn nghiên cứu sinh mắc phải là không biết trình bày kết quả ra sao và như thế
nào trong đống rừng dữ liệu thí nghiệm thu thập và phân tích. Vì thế, trong phần này,
tôi sẽ chỉ cho các bạn một vài mẹo nhỏ và cách thức viết phần kết quả sao cho thuyết
phục và nhất là phải ăn khớp với phần dẫn nhập. Đây là phần 4 của loạt bài này, mà
tôi đã "mắc nợ" với rất nhiều bạn nghiên cứu trên thế giới vì trót hứa là phải "ra lò"
mỗi bài một tuần!
Chỉ dẫn chung
Về nguyên tắc, trong phần kết quả, tác giả phải trả lời cho được câu hỏi “Đã phát
hiện những gì?” (Tức là trả lời câu hỏi "What did you find?") Cần phải phân biệt rõ
đâu là kết quả chính và đâu là kết quả phụ. Phần kết quả phải có biểu đồ và bảng số
liệu, và những dữ liệu này phải được diễn giải một cách ngắn gọn trong văn bản.
Những số liệu phải được trình bày để lần lượt trả lời các mục đích nghiên cứu (hay
câu hỏi nghiên cứu) mà tác giả đã nêu ra trong phần dẫn nhập.
Phần kết quả phải được viết một cách ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề nêu ra trong
phần dẫn nhập. Tất cả các bảng thống kê, biểu đồ, và hình ảnh phải được chú thích rõ
ràng; tất cả những kí hiệu phải được đánh vần hay chú giải một cách cụ thể để người
đọc có thể hiểu được ý nghĩa của những dữ kiện này. Trong phần kết quả, tác giả chỉ
trình bày sự thật và chỉ sự thật (facts), kể cả những sự thật mà nhà nghiên cứu không
tiên đoán trước được hay những kết quả “tiêu cực” (ngược lại với điều mình mong
đợi). Tác giả không nên bình luận hay diễn dịch những kết quả này cao hay thấp, xấu
hay tốt, v.v.. vì những nhận xét này sẽ được đề cập đến trong phần thảo luận
(Discussion).
Chỉ dẫn cụ thể
Phần kết quả có thể ví von là “trái tim” của một bài báo khoa học. Cái khó khăn lớn
nhất là làm sao trình bày rất nhiều dữ liệu và phân tích trong vòng vài trang giấy.
Thông thường, tác giả có thể bắt đầu trình bày những dữ liệu đơn giản nhất, những dữ
liệu dễ hiểu nhất, và dần dần cung cấp những dữ liệu phức tạp n. Sau đây là một số
chỉ dẫn cụ thể để các bạn có thể trình bày phần kết quả một cách thuyết phục:
1. Trước hết, sắp xếp những kết quả quan trọng trong một loạt bảng số liệu và biểu
đồ mà tác giả muốn đưa vào bài báo khoa học. Tác giả nên viết xuống giấy những kết
quả được xem là thú vị, là quan trọng, nhưng chưa có cơ sở vững vàng. Những kết
quả này sẽ là đầu đề để bàn luận sau này. Nếu kết quả nghiên cứu đơn giản (như bao
nhiêu nam, bao nhiêu nữ, độ tuổi trung bình, v.v…), thì không cần phải trình bày
trong bảng số liệu, mà chỉ cần mô tả trong bài báo là đủ. Nhưng những kết quả mang
tính phức tạo thì cần phải cần đến bảng số liệu và biểu đồ.
Làm sao biết nên chọn cách trình bày bằng bảng số liệu hay biểu đồ? Kinh nghiệm
của tôi cho thấy nếu số liệu chính xác quan trọng cho bài báo, thì nên dùng bảng số
liệu; nếu xu hướng (pattern) là quan trọng hơn là độ chính xác thì nên trình bày bằng
biểu đồ. Dù là bảng số liệu hay biểu đồ, cần phải cẩn thận đặt tên và ghi chú cẩn thận,
sao cho người đọc không cần đọc phần chi tiết trong bài báo vẫn có thể nắm được ý
nghĩa của dữ liệu.
Ví dụ: bảng số liệu sau đây có tiêu đề rõ ràng, chỉ ra năm thu thập dữ liệu, địa điểm,
và nội dung của dữ liệu:
Biểu đồ dưới đây, tác giả giải thích các kí hiệu trong biểu đồ một cách ngắn gọn
người đọc có thể nắm lấy những nét chính của mô hình:
Cố nhiên, những bảng số liệu và biểu đồ bắt buộc phải đề cập trong phần kết quả.
Dùng chữ số để đề cập đến biểu đồ hay bảng số liệu. Ví dụ, nên viết: "An
exponential increase in egg production of Acartia tonsa was found for algal
concentrations between 10 and 1,000 cells per ml r2 =0.779, p= 0.05 (Figure 1)",
thay vì viết "Figure 1 shows an exponential increase in egg production of Acartia
tonsa was found for algal concentrations between 10 and 1,000 cells per ml r2
=0.779, p= 0.05."
2. Phần kết quả nên trình bày những dữ liệu để “yểm trợ” cho các mục tiêu đề ra
trong phần dẫn nhập.Phần kết quả chính là nơi để tác giả trình bày cái “ca” của
mình. Do đó, sự khúc chiết ở đây rất quan trọng. Tác giả cần phải thuyết phục người
đọc rằng lí giải của mình là logic. Nếu người đọc cảm thấy lẫn lộn do dữ liệu trình
bày, hoặc không thể nào theo dõi những diễn giải của tác giả, họ có thể không chấp
nhận kết luận của tác giả (và đó là một điều nguy hiểm).
Chẳng hạn như tác giả đặt câu hỏi “chiều cao của nam sinh viên bằng chiều cao của
nữ sinh viên theo học ngành sinh học”, thì việc đầu tiên tác giả phải thu thập chiều cao
từ một nhóm sinh viên được chọn ngẫu nhiên trong các khoa sinh học. Sau đó tác giả
tính toán các chỉ số thống kê (trung bình, độ lệch chuẩn, v.v…) và thể hiện các dữ liệu
này bằng biểu đồ. Giả dụ rằng sau khi phân tích tác giả phát hiện nam sinh viên cao
hơn nữ sinh viên 12.5 cm, và đó chính là câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu.
Cần phải nhìn vào dữ liệu và suy nghĩ cẩn thận về ý nghĩa của chúng là gì. Nếu tác
giả mà không biết dữ liệu mình nói gì, thì người đọc cũng khó có thể hiểu được ý
nghĩa của dữ liệu. Một khi tác giả đã biết dữ liệu của mình nói lên ý gì, thì mới có thể
thiết kế một cách trình bày cho thích hợp và rõ ràng.
3. Khi mô tả kết quả nghiên cứu, cần phải đề cập đến xu hướng khác biệt
(directionality) và mức độ khác biệt (magnitude). Trong phần kết quả, tác giả nên
cung cấp thông tin quan trọng về mối liên hệ, và khác biệt. Hai đặc điểm cần chú ý là
xu hướng và mức độ khác biệt. Chẳng hạn như không nên viết "groups A and B
were significantly different". Câu hỏi đặt ra là khác biệt như thế nào? Do đó, câu
văn trên cần phải viết lại cho có thông tin hơn, ví dụ như: "Group A individuals were
23% larger than those in Group B", hay, "Group B patients gained weight at
twice the rate of Group A patients."
4. Khi mô tả một bảng số liệu, tránh cách viết liệt kê. Một bảng số liệu có khi có rất
nhiều số liệu phức tạp, mà tác giả có khi cảm thấy lúng túng không biết nên mô tả số
liệu nào trước, và số liệu nào sau. Nguyên lí là chọn số liệu nào nổi trội, quan trọng,
và có liên quan đến mục tiêu nghiên cứu để trình bày. Nói chung, khi trình bày bảng
số liệu, cần (a) tối thiểu hóa lặp lại những con số trong bảng số liệu; (b) cung cấp cho