ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT VÀ TÓM TẮT NỘI DUNG HỌC PHẦN
CƠ SỞ LÍ LUẬN BÁO CHÍ
Số tín chỉ: 03 (36 tiết lí thuyết, 9 tiết thảo luận)
Khoa phụ trách: Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN
Mã số học phần: 3170243
Dạy cho ngành: Cử nhân Báo chí
1. Mô tả học phần:
Cơ sở lí luận báo chí là môn học trang bị cho sinh viên những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của hoạt động báo chí. Đây cũng là môn học cơ bản trong khối kiến thức ngành, tạo cơ sở giúp sinh viên tiếp thu tốt các học phần khác thuộc khối kiến thức chuyên ngành báo chí. Môn học được bố trí vào học kì thứ 2 trong chương trình đào tạo.
Trên cơ sở trang bị cho sinh viên những vấn đề cơ bản nhất của lí luận báo chí, học phần giúp sinh viên xác lập quan điểm, nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội của nhà báo, giúp hình thành phương pháp luận khoa học cho hoạt động báo chí.
2. Điều kiện tiên quyết: Không
3. Mục tiêu môn học:
3.1. Mục tiêu chung:
Học xong môn học này, sinh viên có được:
* Về kiến thức:
- Lĩnh hội được hệ thống kiến thức cơ bản của lí luận báo chí, như: khái niệm, đặc điểm báo chí, bản chất hoạt động báo chí, chức năng của báo chí, nguyên tắc hoạt động của báo chí, chủ thể hoạt động của báo chí, công chúng báo chí,…
* Kĩ năng:
- Kỹ năng tìm kiếm và sử dụng các nguồn tài liệu phục vụ cho việc nghiên
cứu các tiểu luận, các chuyên đề về lí luận báo chí – truyền thông.
- Biết cách vận dụng các quan điểm, cách tiếp cận khác nhau vào việc nghiên
Page 1 of 25
cứu, lí giải các vấn đề của lí luận và thực tiễn báo chí đương đại.
* Thái độ:
- Yêu thích môn học, ngành học.
- Xác lập quan điểm, nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội
của nhà báo và nghề báo trong tương lai.
3.2. Mục tiêu khác:
- Góp phần phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo, khám phá tìm tòi.
- Góp phần trau dồi, phát triển năng lực đánh giá.
4. Nội dung chi tiết môn học và hình thức dạy học:
4.1. Nội dung cụ thể:
Chương 1. Khái quát về truyền thông (4 tiết)
1.1 . Những khái niệm cơ bản về truyền thông
Truyền thông
Là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng bằng một hệ thống ký hiệu, quy ước nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức
Truyền thông đại chúng
Truyền thông đại chúng có thể được hiểu là hệ thống (hoặc mạng lưới) các phương tiện truyền thông hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền, cả nước, khu vực hay cộng đồng quốc tế) để thông tin, chia sẻ, nhằm lôi kéo và tập hợp, giáo dục thuyết phục và tổ chức đông đảo công chúng xã hội và nhân dân nói chung tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - văn hóa – xã hội đã và đang đặt ra.
(Nguyễn văn Dững)
Phương tiện truyền thông
• Phương tiện truyền thông là khái niệm chỉ các phương tiện vật chất mà con
người dùng để thông tin – giao tiếp với nhau
Phương tiện truyền thông đại chúng
Page 2 of 25
• Phương tiện truyền thông đại chúng (còn có thể gọi là phương tiện thông tin đại chúng - mass media) là khái niệm chỉ các phương tiện vật chất, kỹ thuật
(hay những kênh truyền, phương tiện trung gian) mà nhờ đó, người ta có thể thực hiện quá trình truyền thông đại chúng
Truyền thông đa phương tiện
• Là KN chỉ sự kết hợp giữa văn bản (text), số liệu (data), hình ảnh (image), âm thanh (sound), đồ họa và hệ thống các kỹ thuật khác nhau trên một môi trường thông tin kỹ thuật số là internet làm cho nội dung truyền thông trở nên đa diện, thuyết phục và tăng khả năng tương tác đối với người tiếp nhận.
Tích hợp truyền thông
(1) chỉ sự kết hợp các phương tiện truyền thông khác nhau (như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử trong một cơ quan hay tổ chức truyền thông) = cùng một thông tin nhưng cơ quan hay tổ chức truyền thông truyền tải với nhiều mức độ và hình thức qua các phương tiện truyền thông khác nhau
(2) chỉ sự tập trung sở hữu truyền thông đại chúng = hiện tượng các công ty, tập đoàn truyền thông sở hữu nhiều loại hình kinh doanh báo chí khác nhau; hoặc hiện tượng các loại hình báo chí liên kết, sáp nhập thành một tổ chức truyền thông mới với quy mô và thế lực kinh tế - tài chính lớn mạnh hơn.
1.2. Những quan điểm quy ước về truyền thông
Các yếu tố của quá trình truyền thông
Nguồn thông tin
Thông điệp
Kênh truyền
Người nhận/Nơi nhận
Phản hồi
Nhiễu
Hiệu lực và hiệu quả truyền thông
Các mô hình truyền thông cơ bản
Mô hình của Harold Lasswel
Mô hình của Claude Shannon
Page 3 of 25
Quá trình truyền thông
3 giai đoạn:
+ Giai đoạn phát thông tin: S M E C
+ Giai đoạn nhận thông tin: D R
+ Giai đoạn phản hồi thông tin: R F S
Bản chất của hoạt động truyền thông là một mô hình khép kín, sơ đồ:
Chương 2. Những vấn đề chung của báo chí (4 tiết)
2.1. Khái niệm báo chí
Theo cách hiểu thông thường
Nguồn góc thuật ngữ
Từ điển hiểu theo nghĩa hẹp/rộng
2.2. Khái lược sự ra đời và phát triển của báo chí
• Những hình thức truyền thông sơ khai
• Máy in ra đời báo in TK 17 TK 18 – 19 –
• Việt Nam:
• 1861: Nam kỳ viễn chinh công báo;
• 1865: Gia Định báo
• TK 20: Phát thanh, truyền hình, internet
Những nhân tố hình thành và phát triển báo chí
• Nhu cầu thông tin giao tiếp
• Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ.
• Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội
• Chế độ chính trị - xã hội
• Mối quan hệ, giao lưu quốc tế
2.3. Vị trí và vai trò của báo chí
Vị trí của báo chí trong 6 phương diện
Vai trò của báo chí trong các lĩnh vực: Chính trị, Kinh tế, Văn hóa-xã hội
Page 4 of 25
Chương 3. Bản chất của hoạt động báo chí (4 tiết)
3.1. Báo chí – loại hình hoạt động truyền thông đại chúng
Báo chí là một trong những loại hình truyền thông đại chúng đặc biệt, do vậy, bản chất của hoạt động báo chí cũng bao gồm bản chất của hoạt động truyền thông nói chung. Đó là, phương tiện và phương thức thông tin – giao tiếp xã hội, liên kết xã hội, can thiệp xã hội. Do những đặc trưng tính chất vốn có của mình, báo chí thể hiện rõ nhất các khía cạnh bản chất xã hội của truyền thông; đồng thời, có thể nhấn mạnh thêm một số điểm chính sẽ phân tích ở sau.
Báo chí là những kênh, những loại hình mang rõ nét nhất, đặc trưng nhất tính chất của truyền thông đại chúng. Bản chất của hoạt động này là hình thành dòng thông tin đại chúng, hướng tác động vào đông đảo công chúng nhằm lôi kéo và tập hợp, giáo dục, thuyết phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đang đặt ra theo định hướng chính trị nhất định; hoặc tạo lập diễn đàn xã hội rộng rãi thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân vào bàn luận những vấn đề thiết thực, liên quan đến đời sống cộng đồng. Ở chiều ngược lại, bản chất hoạt động này cũng ghi nhận sự tham gia của công chúng vào hoạt động báo chí. Đây chính là mối quan hệ hai chiều giữa báo chí và công chúng.
Mối quan hệ giữa báo chí và công chúng ngày càng thể hiện rõ, đặc biệt là trong giai đoạn những năm gần đây, báo chí được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, cổ vũ không chỉ vì thông tin báo chí rộng rãi, chính xác, kịp thời và đặc biệt là báo chí đã đóng góp công sức quan trọng trong công cuộc chóng tham nhũng, tiêu cực. Bản chất hoạt động truyền thông đại chúng chi phối hoạt động của nhà báo cũng như hoạt động lãnh đạo quản lý nói chung. Do vậy, trong quá trình hoạt động, cần thiết lưu ý các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nhà báo ý thức rõ ràng và nhất quán về tinh thần và thái độ phục vụ công chúng của mình, nhân dân mình, vì lý tưởng chính trị và lợi ích cộng đồng. Đây là khía cạnh biểu hiện rõ nhất tính chuyên nghiệp của báo chí; nhà báo không lợi dụng nghề nghiệp để trục lợi cá nhân; hoặc các thế lực khác không được sử dụng, chi phối báo chí để bảo vệ lợi ích nhóm.
Thứ hai, đòi hỏi nhà báo lựa chọn sự kiện, vấn đề và góc độ tiếp cận thông tin đối với các sự kiện và vấn đề đã và đang diễn ra với hàm lượng văn hóa cao nhất có thể, và vì lợi ích cộng đồng và xã hội. Với tính chất đại chúng
Page 5 of 25
của thông tin báo chí, mỗi sự kiện, vấn đề đưa lên diễn đàn báo chí cần phải cân nhắc khía cạnh lợi hại từ các bình diện khác nhau (cả pháp luật và đạo đức) liên quan đến cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước. Cái khó của nhà báo trong hoạt động hàng ngày không chỉ là tìm kiếm thông tin, sự kiện mà còn phải cân nhắc có được phép thông tin hay không (theo luật pháp) và có nên thông tin hay không (ở khía cạnh đạo đức, văn hóa). Thực tế thông tin báo chí hiện nay bảo đảm tính nóng hổi, nhanh nhạy khá tốt, nhưng có những biểu hiện thiếu chọn lọc thông tin, lại ít phân tích thông tin để có sức thuyết phục công chúng; thậm chí không ít biểu hiện làm cho bức tranh thông tin báo chí về hiện thực cuộc sống có lúc bị méo mó, sai lệch.
Thứ ba, các cơ quan báo chí cần có cơ chế mở, thu hút, tập hợp sự tham gia của công chúng càng nhiều càng tốt. Sự tham gia của công chúng càng tích cực và chủ động bao nhiêu, năng lực và hiệu quả truyền thông càng cao bấy nhiêu.
Thứ tư, hướng ưu tiên chủ yếu của báo chí vừa tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, đồng thời cần phản ánh tâm tư nguyện vọng và những vấn đề bức xúc của nhân dân, của cộng đồng. (Ở các đài phát thanh truyền hình địa phương hiện nay, tỉ lệ thông tin về hội họp và hoạt động của các quan chức địa phương trong các chương trình thời sự chiếm khoảng 2/3 thời lượng các chương trình thời sự).
Thứ năm, báo chí ngày càng có điều kiện, nhà báo ngày càng có năng lực khai thác triệt để các phương tiện và kỹ thuật truyền thông – nhất là truyền thông số trong quá trình thu thập, xử lý, sản xuất tin tức và sản phẩm báo chí nói chung.
3.2. Báo chí – loại hình hoạt động chính trị - xã hội
3.2.1. Hoạt động báo chí là hoạt động chính trị
Xã hội dù thay đổi đến đâu, công nghệ làm báo có thay đổi thế nào thì bản chất giai cấp, bản chất chế độ và bản chất nghề báo không hề thay đổi. Mặc dù hoạt động báo chí là quá trình thu thập, xử lý và truyền bá thông tin nhưng nội dung thông tin của báo chí lại do chính chế độ xã hội hay giai cấp cầm quyền xác định và chi phối. Bất cứ chế độ nào, giai cấp nào, thế lực cầm quyền nào cũng sử dụng báo chí như một công cụ, vũ khí sắc bén để truyền bá tư tưởng, bảo vệ quyền lợi và duy trì vai trò thống trị của mình. Nói cách khác, giai cấp nào – báo chí đó, chế độ nào – báo chí đó, báo chí bao giờ cũng
Page 6 of 25
thuộc về một lực lượng chính trị nhất định. Vì vậy, trên thực tế, không có nền báo chí nào đứng ngoài, đứng trên chính trị.
Nội dung thông tin chính trị của báo chí gồm các vấn đề chính sau:
- Báo chí phản ánh, phân tích, bình luận, đánh giá các mối quan hệ
chính trị: đối nội, đối ngoại, các chính sách dân tộc.
- Báo chí phản ánh, phân tích, bình luận các tổ chức chính trị hay hệ
thống chính trị.
- Báo chí phản ánh, phân tích, bình luận, truyền bá đường lối chính trị.
3.2.2. Hoạt động báo chí là hoạt động xã hội
Ở góc độ lý luận, nói báo chí là hoạt động thông tin mang tính xã hội
bởi:
Báo chí ra đời một phần do bổn phận nghĩa vụ xã hội của nó đối với cộng đồng, do đòi hỏi khách quan từ cuộc sống. Nói cách khác, báo chí hình thành và phát triển trên cơ sở các điều kiện, nhu cầu thông tin tự thân và điều kiện kinh tế xã hội, kỹ thuật, khoa học công nghệ, quan hệ thực tiễn. Báo chí là công cụ, phương tiện, cơ quan ngôn luận của chế độ, giai cấp, tổ chức chính trị - xã hội. Báo chí phản ánh tất cả các lĩnh vực của xã hội, và người làm báo cũng tiếp xúc, va chạm, cọ xát với tất cả các lĩnh vực của xã hội trong sự phản ánh đa dạng của nó.
3.3. Báo chí – loại hình hoạt kinh tế - dịch vụ
Trong kinh tế thị trường, hoạt động báo chí không chỉ được coi là hoạt động truyền thông đại chúng và hoạt động chính trị - xã hội, mà còn là hoạt động kinh tế - dịch vụ, là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trên nhiều khía cạnh, cả về nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế thị trường phát triển, cơ quan báo chí được coi như một doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Quản lý cơ quan báo chí coi như quản trị doanh nghiệp. Sản phẩm báo chí là sản phẩm hàng hóa; dịch vụ báo chí là dịch vụ xã hội, bao gồm dịch vụ công ích và dịch vụ thương mại. Các thế lực chính trị chi phối hoạt động, chức năng kinh tế của báo chí được thừa nhận từ lâu. Trên thực tế, nền công nghiệp báo chí - truyền thông của họ đóng một vai trò rất quan trọng trong
Page 7 of 25
phát triển kinh tế xã hội. Ở ta, do điều kiện lịch sử, cho đến những năm gần đây, hoạt động báo chí mới được xem xét ở khía cạnh hoạt động kinh doanh.
Chương 4. Đặc điểm cơ bản của thông tin báo chí (4 tiết)
4.1. Thông tin và thông tin báo chí
Khái niệm thông tin
Thông tin trong báo chí
Thông tin tiềm năng; Thông tin tiếp nhận; Thông tin hữu ích
4.2. Những đặc điểm cơ bản của thông tin báo chí
Tính thời sự
Tính công khai
Tính mục đích
Tính đa dạng
Tính định kỳ
Tính phổ cập (dễ nhớ, dễ hiệu, dễ làm theo)
Tính tương tác
Tính đa phương tiện
Chương 5. Chức năng của báo chí (7 tiết)
5.1. Những vấn đề chung về chức năng của báo chí
5.1.1. Nhận thức về chức năng của báo chí
Thuật ngữ chức năng (xuất phát từ tiếng Latinh: functio, còn có nghĩa là mục đích, công dụng, tác dụng) được hiểu là tổng hợp của tất cả vai trò, vị trí, tác dụng của một hoạt động nào đó trong đời sống xã hội.
Những tri thức về chức năng có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Đó là cơ sở để nghiên cứu những mối liên hệ của các sự kiện, hiện tượng, quá trình; đồng thời, xác định phương hướng và biện pháp hành động một cách có hiệu quả.
Nói đến chức năng của báo chí chính là nói đến mục đích của hoạt động báo chí, nói đến vấn đề người ta viết báo để làm gì; vì sao công chúng đọc, xem, nghe tác phẩm báo chí; ý nghĩa xã hội của báo chí ra sao… Thực ra
Page 8 of 25
khi phân tích vị trí, vai trò của báo chí, ít nhiều cũng đã đề cập đến các chức năng của báo chí, nói đến lí do tồn tại và sức sống không gì thay thế được của báo chí trong đời sống.
Tuy nhiên, báo chí nói riêng, truyền thông đại chúng nói chung là một hiện tượng tinh thần độc đáo, phức tạp, muốn xác định chức năng của nó cần phải xem xét trên nhiều quan hệ khác nhau.
5.1.2. Hướng tiếp cận chức năng của báo chí
Do tính chất phức tạp của hoạt động báo chí và do sự đa dạng về quan điểm, phương pháp, mục tiêu nghiên cứu báo chí của các nhà khoa học trong nước cũng như nước ngoài, việc xác lập chức năng của báo chí khó tìm được tiếng nói chung. Vì thế, để hạn chế sự tùy tiện và cảm tính trong nghiên cứu về chức năng của báo chí, cần chú trọng đến mấy điểm:
- Phân biệt chức năng/nhiệm vụ
- Về số lượng và tên gọi các chức năng
- Các chức năng có quan hệ chi phối, phụ thuộc lẫn nhau
- Báo chí là một trong những những loại hình tham gia thực hiện các chức năng chung trong xã hội
- Chức năng có tính lịch sử
5.2. Các nhóm chức năng cơ bản của báo chí
Chức năng thông tin – giao tiếp
Chức năng tư tưởng
Chức năng tổ chức quản lý và giám sát xã hội
Chức năng khai sáng và giải trí
Chức năng kinh tế - dịch vụ
Chương 6. Nguyên tắc hoạt động báo chí (7 tiết)
6.1. Quan niệm chung về nguyên tắc hoạt động báo chí
6.1.1. Khái niệm nguyên tắc
Theo từ điển tiếng Việt: nguyên tắc là những điều cơ bản được định ra
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm.
Page 9 of 25
Trong cuộc sống, con người tổ chức và tham gia nhiều hình thức hoạt động khác nhau như các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chính trị, xã hội, sáng tạo nghệ thuật, giáo dục, nghiên cứu khoa học, báo chí… Mỗi hoạt động đảm nhận vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đều hướng đến mục tiêu chung là duy trì và phát triển xã hội. Để giảm thời gian, chi phí, công sức và đạt hiệu quả cao trong hoạt động của mình, con người xác lập cho mỗi loại hoạt động một nguyên tắc cụ thể. Nói cách khác, bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của con người cũng đều dựa trên những nguyên tắc tương ứng tạo thành những chuẩn mực của hành vi, của hoạt động.
Nguyên tắc giao tiếp, hoạt động của cá nhân do mỗi người tự xác định. Nếu mỗi người xác định nguyên tắc giao tiếp, hoạt động cá nhân phù hợp với môi trường xung quanh và phù hợp với những phẩm chất cá nhân thì những nguyên tắc ấy sẽ giúp việc mở mang hoạt động và sẽ là tiền đề thực hiện một cách hiệu quả các hoạt động của cá nhân, nếu không thì kết quả sẽ ngược lại. Mỗi gia đình đều có nguyên tắc sống và giao tiếp với môi trường xung quanh và cộng đồng nói chung. Những nguyên tắc, nền nếp của gia đình được duy trì, phát triển và truyền đạt qua các thế hệ gọi là gia phong. Mỗi làng, bản ở nước ta đều có những nguyên tắc ứng xử chung, gọi là lệ làng. Mỗi cơ quan, đơn vị đều có nội quy, quy chế bảo đảm cho mọi hoạt động diễn ra một cách trật tự, nền nếp, hiệu quả.
Báo chí là một hoạt động thông tin đại chúng phổ biến trong xã hội, hàng ngày hàng giờ tác động đến tư tưởng, tình cảm của đông đảo nhân dân, do vậy, báo chí càng cần tuân thủ những nguyên tắc nhất định.
6.1.2. Nguyên tắc của hoạt động báo chí
Nguyên tắc của hoạt động báo chí là những quy tắc, chuẩn mực, phương pháp mà người làm báo ý thức tuân thủ để thực hiện tốt chức năng, vai trò, nhiệm vụ của mình đối với đời sống xã hội. Nói cách khác, những quy tắc và chuẩn mực chung của hoạt động báo chí giúp cho báo chí thực hiện được những chức năng xã hội của mình chính là những nguyên tắc của hoạt động báo chí. Nó là một hệ thống quy ước hợp thành bởi nhiều nhân tố, trong đó có phần do quy luật khách quan của cuộc sống, có phần khát vọng của công chúng và có phần thuộc lương tâm trách nhiệm của người làm báo.
Cụ thể, đối với hoạt động báo chí, nguyên tắc được thể hiện như là những quan điểm cơ bản để xác định mối quan hệ với thực tiễn, quan điểm cơ bản
Page 10 of 25
trong việc đánh giá các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội, là quy tắc, chuẩn mực của hành vi, của hoạt động. Như vậy cũng có nghĩa là nguyên tắc vừa là cơ sở lý luận, vừa là cơ sở phương pháp luận của hoạt động báo chí.
Nhận thức được nguyên tắc hoạt động báo chí, người làm báo sẽ tự tin, tự giác và dễ gặt hái thành công trên con đường nghề nghiệp của mình. Bởi nguyên tắc giúp người làm báo xác định được phương hướng thu thập xử lý thông tin, chọn lựa đề tài, thể loại, bố cục, ngôn ngữ, giọng điệu để thể hiện tác phẩm báo chí đạt được giá trị thông tin hiện thực một cách tối ưu. Nhà báo thành công là nhà báo có ý thức sâu sắc và tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc đúng đắn.
Với bản chất là một hoạt động tổng hợp: hoạt động thông tin, hoạt động chính trị, hoạt động xã hội… báo chí cũng tuân thủ nhiều nguyên tắc khác nhau. Dựa trên nền tảng lí luận Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, hệ thống các nguyên tắc của hoạt động báo chí nước ta hiện nay bao gồm: tính khuynh hướng (đỉnh cao là tính Đảng), tính khách quan chân thật, tính nhân dân, dân chủ, tính dân tộc và quốc tế, tính nhân văn, nhân đạo. Hệ thống những nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và cùng thể hiện trong môi trường, điều kiện cụ thể của quá trình hoạt động báo chí.
6.2. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động báo chí
Tính khuynh hướng
Tính chân thật, khách quan
Tính nhân dân – dân chủ
Tính nhân đạo – nhân văn
Tính dân tộc – quốc tế
Chương 7. Pháp luật và đạo đức báo chí (4 tiết)
7.1. Luật pháp và báo chí
7.1.1. Khái niệm luật pháp và luật pháp báo chí
Khái niệm Luật pháp theo Từ điển tiếng Việt: “Luật pháp là những quy phạm hành vi do nhà nước ban hành và mọi người dân buộc phải tuân theo nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội”.
Page 11 of 25
Theo Từ điển Bách khoa Luật học (Maxcơva 1984): “Luật pháp là một hệ thống những chuẩn mực xã hội có tính bắt buộc được Nhà nước dùng sức mạnh đảm bảo”.
Những quy định về hoạt động báo chí được xác định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Theo đó, pháp luật báo chí là những quy tắc, hành vi của công dân do nhà nước quy định, ban hành, buộc phải tuân theo, không được làm trái, không được vi phạm. Mọi công dân đều phải chấp hành pháp luật, làm đúng pháp luật, làm trái pháp luật sẽ bị trừng trị theo luật định. Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (được Quốc Hội thông qua ngày 28-11-2013), điều 25 quy định: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc quy định các quyền này do pháp luật quy định.
7.1.2. Mối quan hệ hai chiều của luật pháp và báo chí
Báo chí và luật pháp có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau, phối hợp và hỗ trợ cùng nhau để hoàn thành trách nhiệm trước xã hội. Mối quan hệ hai chiều được thể hiện như sau:
Báo chí với luật pháp
- Báo chí tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật của nhà nước
cũng như của ngành tư pháp để nhân dân hiểu và thực hiện;
- Trong quá trình vận động thực thi pháp luật, báo chí góp phần xây dựng luật mới, bổ sung những bộ luật, những điều khoản chưa hợp lý, đề xuất huỷ bỏ những điều luật không đi vào thực tiễn;
- Báo chí cung cấp thông tin một cách khách quan, trung thực, chính xác để giúp các cơ quan chức năng phanh phui các tệ nạn xã hội, đặc biệt là các vụ việc tham nhũng, tiêu cực - một vấn đề đang nhức nhối trong xã hội ta. (Luật Hình sự công nhận: Thông tin trên báo chí là một trong 5 cơ sở để khởi tố một vụ án hình sự: Ngày 30/9/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm vụ án “mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy”, tuyên phạt 237 năm tù giam cho 28 bị cáo. Vụ án gây chấn động do các hành vi mua bán ma túy này xảy ra trong Trại giam số 3 (huyện Tân Kỳ, Nghệ An), các bị cáo là những người đang phải chấp hành hình phạt tù. Phiên tòa đã khép lại sau gần hai năm, nhưng đến tận bây giờ, ít ai biết rằng xuất xứ của những bức ảnh trên tra công phu nhưng không được đăng. là
từ một bài báo điều
Page 12 of 25
(Nguồn:http://baophapluat.vn/phong-su-dieu-tra/ky-1-chung-cu-quyet-dinh-trong-phien-toa-cac-bi- cao-dong-loat-phan-cung-188460.html);
- Thông qua các kết quả điều tra, báo cáo của các cơ quan chức năng về . các vụ việc, báo chí phân tích, đánh giá, bình luận để làm rõ hơn, sâu hơn vấn đề nhằm giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm;
- Báo chí cũng là người giám sát việc thực thi pháp luật của chính các
cơ quan pháp luật.
Luật pháp với báo chí:
- Trước hết, pháp luật là cơ sở, hành lang pháp lý cho nhà báo yên tâm
hoạt động;
- Pháp luật bảo vệ nhà báo về nhân phẩm, tài sản, tính mạng trong
trường hợp nhà báo hoạt động đúng luật mà bị đe doạ, uy hiếp;
Với những gì báo chí giúp cho luật pháp thời gian qua, luật pháp cũng đã ngày càng gần gũi, ủng hộ và đứng về phía nhà báo, bênh vực, bảo vệ nhà báo trong những điều kiện tác nghiệp nguy hiểm, không để nhà báo cô độc trong cuộc dấn thân chống cái xấu nhằm làm trong sạch xã hội;
- Pháp luật cung cấp cho báo chí các kết luận, kết quả điều tra để báo
chí phân tích, đăng tải;
- Pháp luật tạo điều kiện, cơ hội để báo chí tham gia vào các cuộc truy quét, các vụ xử án, các hội nghị tổng kết để nhà báo trực tiếp sống trong không khí của luật pháp và thu nhận thêm nguồn tư liệu sinh động và phong phú;
- Luật pháp cũng nghiêm khắc xử lý các nhà báo và các cơ quan báo
chí vi phạm pháp luật.
7.1.3. Sự cần thiết am hiểu luật pháp của nhà báo
Theo quy định của pháp luật thì nhà báo cũng là một công dân, vì thế, bản thân nhà báo cũng phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật.
Tuy nhiên, theo sự phân công lao động xã hội, hoạt động báo chí là một nghề, vì vậy, với trách nhiệm nghề nghiệp, nhà báo phải tuyên truyền, giải thích pháp luật để mọi người hiểu, từ đó, tổ chức và vận động họ sống và làm Page 13 of 25
việc theo pháp luật. Vậy, nhà báo là con người công dân với nghĩa vụ công dân; nhà báo cũng là con người xã hội với trách nhiệm xã hội.
Đối với nhà báo, sự am hiểu và vận dụng pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp là hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi vì hoạt động báo chí là một hoạt động có tính đặc thù. Trong quá trình tác nghiệp, nhà báo phải tiếp xúc, va chạm với nhiều vấn đề, nhiều người, nhiều mối quan hệ phức tạp và tế nhị. Sự am hiểu pháp luật giúp nhà báo ứng xử có tình có lý, tạo sức thuyết phục và độ tin cậy cao.
Am hiểu pháp luật giúp nhà báo hoạt động chủ động tự tin, biết người
biết ta, vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ người khác.
Am hiểu luật pháp nói chung và luật báo chí nói riêng giúp nhà báo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; đồng thời hướng dẫn nhân dân hiểu được quyền lợi của họ và thực hiện theo pháp luật.
7.2. Đạo đức báo chí
7.2.1. Khái niệm đạo đức và đạo đức báo chí
Khái niệm đạo đức:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Cùng với nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người, đạo đức đánh giá hành vi con người theo chuẩn mực và các giá trị như thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, đúng và sai, cái phải làm và cái không được làm, không nên làm… Việc yêu nước, thương dân, kính trên nhường dưới, hiếu thuận với cha mẹ, đối xử chan hòa với anh em, bạn bè, hàng xóm… đều do các chuẩn mực của đạo đức xã hội chi phối các hành vi cá nhân. Chuẩn mực đạo đức là phương thức điều chỉnh ưu việt và đặc thù của xã hội loài người, giúp con người có khả năng tự hoàn thiện mình và phát triển ngày một văn minh, tiến bộ.
Đạo đức được cấu thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội được hình thành từ thực tiễn đạo đức cá nhân. Trong quá trình sinh
Page 14 of 25
sống của mỗi cộng đồng người, những nguyên tắc, chuẩn mực, quan niệm và lý tưởng đạo đức được hình thành như là hệ thống giá trị chung được mọi thành viên tin tưởng và noi theo. Đến lượt mình, hệ thống giá trị chung này tác động đến đạo đức cá nhân, điều chỉnh hành vi cá nhân theo yêu cầu của đạo đức xã hội.
Đạo đức cá nhân là biểu hiện của đạo đức xã hội trong những cá nhân riêng biệt, cụ thể. Do vậy, có thể coi sự hình thành đạo đức cá nhân là quá trình xã hội hóa cá nhân về mặt đạo đức. Mức độ xã hội hóa đánh dấu trình độ phát triển của đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Phương thức chuyển đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân là thông qua hệ thống giáo dục đạo đức (bao gồm cả tự giáo dục).
Đạo đức nghề nghiệp:
Do sự phân công lao động xã hội, với đặc điểm của từng ngành nghề, trên cơ sở những nguyên tắc đạo đức chung, đã xuất hiện đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm những yêu cầu, quy tắc và chuẩn mực trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh các hành vi của các thành viên trong nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp gắn với các nguyên tắc đạo đức xã hội, tạo điều kiện cho mỗi người hoàn thành tốt hơn công việc của mình.
Nghề nghiệp nào cũng cần đạo đức, tuy nhiên có một số nghề nghiệp mà vấn đề đạo đức được coi trọng và đề cao như nghề y, nghề giáo, nghề luật, nghề báo… Với những nghề này, bên cạnh những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung cho tất cả các quốc gia thì mỗi nước, trong mỗi thời kỳ lịch sử, lại đề ra những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp riêng cho người hành nghề ở nước mình.
Đạo đức nghề nghiệp nhà báo:
Xuất phát từ cách hiểu đạo đức nghề nghiệp, có thể hiểu: Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp.
Các mối quan hệ nghề nghiệp của nhà báo bao gồm: Các mối quan hệ nền tảng (là quan hệ của nhà báo với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng Cộng sản); Các mối quan hệ trong môi trường xã hội (là quan hệ của nhà báo với
Page 15 of 25
công chúng, với nguồn tin, với nhân vật trong tác phẩm); Các mối quan hệ trong môi trường nghề nghiệp (là quan hệ của nhà báo với ban biên tập, với đồng nghiệp trong và ngoài tòa soạn, với cộng tác viên, thông tin viên)
Trên thực tế, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau với ý nghĩa đồng nhất, đó là: đạo đức nghề báo, đạo đức nhà báo, đạo đức báo chí, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo. Dù gọi bằng tên gì, chúng ta cũng cần hiểu hai khía cạnh tồn tại chung trong một con người, đó là đạo đức con người và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
7.2.2. Đạo đức báo chí Việt Nam
Đạo đức báo chí Việt Nam được xác lập hoàn toàn thống nhất với đạo đức báo chí toàn cầu và dựa trên cơ sở thực tiễn hoạt động báo chí Việt Nam.
Ở Việt Nam, năm 1995, Đại hội đại biểu Hội Nhà báo Việt Nam lần VI đã thông qua Bản quy ước về tiêu chuẩn và đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam, gồm 10 điều, được giới báo chí hoan nghênh và được công chúng đón nhận.
Trong bối cảnh mới, để phù hợp hơn, quy ước về tiêu chuẩn và đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam được chỉnh lý và sửa đối thành Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam và được thông qua tại Đại hội VIII Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 13 tháng 5 năm 2005.
Những điều trong quy ước đạo đức báo chí được xem như “lời thề HYPO CRAT” của người làm báo. Mà nếu làm đúng những quy tắc đạo đức, người làm báo sẽ cảm thấy rất hạnh phúc, được khích lệ, tự hào, phấn khởi; còn nếu không, họ sẽ chịu đựng sự tự xỉ vả, xấu hổ, tự kết tội của lương tâm, sự sỉ nhục về danh dự và bị đồng nghiệp, dư luận lên án.
Đạo đức – cái gốc của nghề nghiệp, đặc biệt là nghề báo – “Một nghề đòi hỏi cao tính trung thực, lòng dũng cảm, đức khiêm tốn. Một nghề không được nói dối, ko được nói sai, không được lợi dụng để vụ lợi, đồng thời cũng không được để ai lợi dụng để làm điều sai trái, phi pháp. Một nghề mà chữ tâm-đức-tài- tầm luôn gắn quyện với nhau trong đó chữ Đức luôn được đặt lên hàng đầu. “Danh vọng không thể có ở nơi không có đạo đức”. Câu danh ngôn ấy là lời dạy chí thiết, chí tình với mỗi người làm báo được Đảng tin, dân mến, xã hội nể trọng”1. Đạo đức nghề báo luôn bị đặt trước những thách
1 Nguyễn Uyển, Báo chí, uy lực và cám dỗ, Tạp chí Người làm báo số 1/2006.
Page 16 of 25
thức nghiệt ngã. Đó là trong bối cảnh kinh tế thị trường, nơi mà thế lực đồng tiền có thể làm đảo lộn mọi giá trị, nơi mà “ranh giới giữa đúng đắn và sai sót, giữa tốt và xấu, giữa trung thành và phản bội... đan xen nhau, ranh giới không thật rõ nét. Vì vậy, tìm cho mình một chỗ đứng đúng đắn giữa mảnh đất trắng đen còn dễ lẫn lộn là điều không dễ... Hơn nữa, kẻ thù như con bạch tuộc trăm vòi thò vào khắp nơi... dùng tiền bạc, dục vọng lôi kéo người cầm bút. Sự sa ngã đôi lúc chẳng có chủ định”2. Mặt khác, trước áp lực cạnh tranh thông tin trong môi trường làm báo ngày nay, nhà báo dễ bị trượt ra khỏi ngưỡng văn hoá, đạo đức chỉ vì sự thiếu hiểu biết, thiếu chín chắn mà việc khen chê một chiều, việc đưa những hình ảnh tang thương quá mức, hay đưa hình ảnh một em bé bị xâm hại tình dục lên báo... là những biểu hiện cụ thể trên thực tế. Nhà báo Dương Thanh Tùng lý giải: “Khi sự chính xác, trung thực bị xem thường, khi các thao tác nghiệp vụ cơ bản bị bỏ quên trước áp lực chạy đua thông tin, nhà báo thường bị trượt ngã bởi không ít vỏ chuối nghề nghiệp lăn lóc dọc đường...”3.
Trách nhiệm xã hội và trách nhiệm đạo đức của nhà báo luôn là vấn đề nóng hổi. Một chữ TÂM viết hoa đúng nghĩa luôn là mục tiêu để nhà báo phấn đấu đạt được và gìn giữ nâng niu suốt chiều dọc cuộc đời.
7.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và luật pháp báo chí
Đạo đức và luật pháp tuy là hai lĩnh vực khác nhau nhưng tác động hỗ trợ lẫn nhau, đều hướng tới cái chung là điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm bảo toàn và phát triển xã hội, giúp con người sống và làm việc tốt đẹp, vì người, vì mình. Vì vậy, thực hiện tốt luật pháp cũng là biểu hiện của đạo đức. Ngược lại, có đạo đức cũng là một biểu hiện của chấp hành luật pháp.
Hoạt động của nhà báo xét đến cùng được thực hiện trên một hành lang dựa trên hai cơ sở: luật pháp về báo chí và đạo đức của người làm báo. Nếu người nào vi phạm pháp luật dù nặng hay nhẹ cũng đều là hành vi vi phạm đạo đức. Ngược lại, vi phạm đạo đức nghề nghiệp đến một mức độ nào đó, có biểu hiện vi phạm pháp luật thì bị xử lý bằng pháp luật. Chỉ có điều, pháp luật sẽ xử lý vi phạm theo các chế tài có tính bắt buộc, còn đạo đức ở khía cạnh động viên, khuyến khích, giáo dục, cổ vũ, vận động - xử phạt bằng “tòa án lương tâm”.
2 Đinh Phong, Nhà báo phải biết cảnh giác và tự trọng, Tạp chí Người làm báo số 6/2006. 3 Đôi khi vấp té, NLB số 7/2008
Page 17 of 25
Chương 8. Nhà báo – nghề báo và lao động báo chí (7 tiết)
8.1. Nhà báo
Nhà báo - Theo hình dung của mỗi người
Nhà báo - Theo định nghĩa của các Từ điển
Nhà báo - Theo quan niệm của các nhà khoa học
Nhà báo trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam trước nay được công chúng gọi những người làm báo có uy tín, có đóng góp đáng kể cho báo giới và xã hội, cao hơn một bậc so với những người “viết báo” đơn thuần.
8.2. Nghề báo
8.2.1. Nghề nghiệp và nghề nghiệp báo chí
Để tồn tại, duy trì và phát triển cuộc sống, mỗi người trong xã hội đều cần một nghề nghiệp nhất định. Nghề nghiệp có thể được hiểu là hoạt động lao động chính thức được xã hội thừa nhận, đồng thời có hệ thống kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm đặc thù làm cơ sở cho hoạt động ấy tồn tại và phát triển.
Nghề báo là một loại hình lao động đặc biệt, đòi hỏi kỹ năng chuyên môn, định hình trong điều kiện xã hội có sự phân công lao động. Như mọi nghề khác, nghề báo có thiên chức, đạo đức nghề nghiệp và sức cuốn hút riêng của nó. Tất nhiên, nó cũng có những mặt trái, những mầm mống rủi ro mà người hành nghề phải thường xuyên đối mặt và nổ lực vượt qua.
8.2.2. Tính chất nghề báo
Nếu chỉ được phép dùng một cụm từ để nói về nghề báo, có thể nói gọn rằng: đây là một nghề cao quý và hấp dẫn nhưng cũng đầy thách thức và nguy hiểm.
8.3. Lao động báo chí
8.3.1. Đặc thù lao động của nghề báo
Nghề báo là nghề thông tin nhưng thông tin không là độc quyền của nghề báo. Nghề văn, nghề xuất bản, nghề quảng cáo,… cũng mang lại thông tin cho xã hội và những nghề này ít nhiều có quan hệ mật thiết với nghề báo. Tuy nhiên, với tư cách là một hoạt động sáng tạo chuyên nghiệp, nghề báo có những yêu cầu và đặc trưng riêng được quy định bởi mục
Page 18 of 25
đích, chức năng, phương tiện, phương thức thông tin của nó: Sáng tạo bằng quan sát trực tiếp; Hoạt động có tính tập thể; Hoạt động có tính chu kỳ (định kỳ); Hoạt động có tính liên tục.
8.3.2. Lao động sáng tạo tác phẩm của nhà báo
Ở góc độ thực tiễn, sáng tạo tác phẩm báo chí là quá trình chuyển hóa những quan sát, ghi chép, nhận thức, tình cảm, lý tưởng, huyết mạch của nhà báo thành những “văn bản” vừa mang nội dung thông tin thời sự vừa có tính thẩm mỹ. Ở góc độ lý luận truyền thông, sáng tạo tác phẩm báo chí thực chất là quá trình sắp xếp, tổ chức các sự kiện, tư liệu thu thập được thành một dạng vật chất cụ thể theo một cấu trúc và hệ thống phương tiện, chất liệu nhất định, chứa đựng thông tin tiềm năng và có giá trị giả định. Đó là quá trình chuyển hóa từ sự kiện bản thể thành sự kiện nhận thức. Ở góc độ tâm lý học, sáng tạo tác phẩm báo chí là một trạng thái tinh thần đặc biệt, phong phú và phức tạp. Ở đó đòi hỏi có sự thống nhất, hài hòa giữa hiện thực khách quan và khát vọng chủ quan; giữa bổn phận nghề nghiệp và sở thích cá nhân; giữa trách nhiệm công dân và nhu cầu biểu hiện bản ngã; giữa những áp lực bên ngoài và những thôi thúc bên trong của nhà báo.
Như vậy có thể nói, sáng tạo tác phẩm vừa là bổn phận, trách nhiệm, vừa là nhu cầu nội tại của nhà báo. Ở đó có sự tập trung lý trí và tình cảm của nhà báo để cho ra đời những đứa con tinh thần toàn vẹn nhất.
Về quy trình sáng tạo tác phẩm của nhà báo, so với các hoạt động khác, ở khía cạnh nào đó, có thể nói sáng tạo tác phẩm báo chí là hoạt động vừa có tính cưỡng bách vừa có tính tự do. Một mặt, nhà báo phải tuân thủ kế hoạch của tòa soạn, phải hoàn tất tin bài trong thời gian hạn định để lấp đầy diện tích, thời lượng được phân công hay tự đăng kí trước đó. Mặt khác, không ai buộc anh ta phải viết lúc nào, viết ở đâu và viết như thế nào. Mỗi nhà báo làm việc theo một kiểu riêng, không hề có cẩm nang chung cho tất cả. Mặc dù vậy, các nhà lý luận vẫn khái quát quá trình sáng tạo tác phẩm của nhà báo thành các công đoạn điển hình, gồm: Phát hiện, xác định đề tài, chủ đề và thể loại; Thu thập thông tin, dữ liệu; Xử lý thông tin, tài liệu và thể hiện tác phẩm; Lập dàn bài; Sửa chữa, hoàn thiện tác phẩm4. Trên thực tế, các khâu hay công đoạn này thường không phân biệt một cách rạch ròi mà chúng
4 (Cụ thể các công đoạn sáng tạo tác phẩm báo chí sẽ được phân tích và làm rõ trong các học phần khác nhau về các loại hình báo chí cụ thể, các thể loại báo chí cụ thể trong chương trình học).
Page 19 of 25
có thể xen kẻ nhau hoặc gia giảm ít nhiều tùy vào loại hình báo chí và thói quen, sở trường, phong cách của nhà báo. Nhà báo thường có nhiều con đường và phương cách khác nhau để sáng tạo nên những đứa con tinh thần của mình, miễn sao chúng được công chúng đón nhận. 8.3.3. Các loại lao động báo chí
Theo Nguyễn Văn Dững5, có thể phân chia lao động báo chí thành bốn loại sau: Lao động tổ chức, quản lý; lao động biên tập; lao động tác giả; lao động kinh tế - dịch vụ.
8.4. Tư chất và con đường phát triển nghề nghiệp báo chí
8.4.1. Tư chất của nhà báo
Tư chất là cái vốn có của con người. Từ tư chất sẽ hình thành nên năng khiếu, là khả năng hiểu biết nhanh hơn, chính xác hơn người khác về một lĩnh vực nào đó. Mỗi người có một tư chất khác nhau, chẳng ai giống ai. Trong đó, có một số tư chất thích hợp với nghề làm báo (…?)
8.4.2. Con đường phát triển nghề nghiệp của nhà báo
Việc trau dồi để trở thành nhà báo chuyên nghiệp và tài năng đòi hỏi một quá trình lâu dài, liên tục, bao gồm nhiều phương diện. Trong đó, có các phương diện chủ yếu sau:
Trang bị lập trường, quan điểm tiến bộ
Tích lũy vốn sống, trải nghiệm cuộc đời
Mở rộng vốn tri thức và văn hóa
Trau dồi kỹ năng nghiệp vụ
Tóm lại, tư chất năng khiếu chỉ làm nên một nhà báo có triển vọng. Còn muốn trở thành một nhà báo chuyên nghiệp và tài năng, phóng viên phải thường xuyên trau dồi lập trường, quan điểm; vốn tri thức văn hóa; các kỹ năng nghiệp vụ bằng nhiều con đường và nhiều phương pháp khác nhau.
Chương 9. Công chúng báo chí (4 tiết)
5 Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lao Động, tr277.
Page 20 of 25
9.1. Công chúng trong đời sống báo chí
9.1.1. Nhận diện công chúng báo chí
Công chúng (audience) là khái niệm dùng để chỉ những người đọc, nghe, xem các sản phẩm truyền thông hay các chương trình văn hóa nghệ thuật như báo chí, văn chương, điện ảnh, sân khấu… Đó là số đông con người không thuần nhất về thành phần, lứa tuổi, giới tính, không gian sống nhưng có thể có những liên hệ nhất định sau khi cùng tiếp nhận, thưởng thức một sản phẩm hay chương trình truyền thông đại chúng cụ thể.
Còn công chúng báo chí là khái niệm dùng để chỉ những người tiếp nhận sản phẩm báo chí. Như vậy, công chúng báo chí được xem xét trong mối quan hệ với tác phẩm báo chí, với cơ quan báo chí và với nhà báo. Nó cũng có những đặc trưng của công chúng truyền thông như tính chất quảng đại (đông đảo), tính không đồng nhất (bao gồm nhiều giới và tầng lớp khác nhau) và tính chất nặc danh (không ai biết ai).
9.1.2. Vai trò của công chúng đối với báo chí
9.2. Công chúng và quá trình tiếp nhận thông tin báo chí
9.2.1. Bản chất của tiếp nhận báo chí
Khi sáng tạo tác phẩm, nhà báo thực hiện việc mã hóa các nhận thức, xúc cảm, lý tưởng của mình vào một chất liệu, một hình thức vật chất cụ thể để chuyển đến công chúng. Khi công chúng đọc, nghe, xem tác phẩm, thực chất là họ làm công việc giải mã nó để sao cho lĩnh hội được nội dung thông điệp mà nhà báo muốn gửi. Mức độ thành công của việc giải mã này phụ thuộc vào nhiều yếu tố và quá trình, trong đó đáng chú ý các yếu tố: cách tổ chức, thể hiện nội dung và hình thức của thông điệp; các thiết bị kỹ thuật dùng vào việc giải mã; môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh; trình độ, năng lực, thị hiếu của công chúng. Những yếu tố này có thể gây nên hiện tượng tạp nhiễu trong quá trình truyền thông, làm méo mó, biến dạng nội dung thông điệp, khiến việc tiếp nhận của công chúng thiếu trọn vẹn, đầy đủ.
9.2.2. Quá trình tiếp nhận thông tin của công chúng
Có thể thấy mỗi thông điệp truyền thông hoàn chỉnh, được phát qua một kênh truyền, đến người nhận, thực chất là quá trình chuyển từ thông tin tiềm năng đến thông tin hiện thực. Vì thế, hiệu quả của hoạt động báo chí cần được xem xét trong mối quan hệ giữa thông tin tiềm năng và thông tin hiện thực. Trong đó, chủ thể truyền thông và chủ thể tiếp nhận có vai trò quan
Page 21 of 25
trọng như nhau. Công chúng tiếp nhận thông tin báo chí thường trải qua hai bước: Lựa chọn thông tin tiềm năng Xử lý thông tin hiện thực
9.2.3. Các kiểu loại và cấp độ tiếp nhận báo chí
Ở từng cá nhân hay phạm vi xã hội, tùy trình độ, mục đích, kinh nghiệm, kỹ năng của công chúng mà hình thành nên những kiểu loại và cấp độ tiếp nhận hết sức đa dạng. Mỗi kiểu loại, cấp độ tiếp nhận đều có ưu điểm và hạn chế của nó.
4.2. Hình thức tổ chức dạy học:
Số
Số tiết
Số tiết
Số tiết
tiết
lí
thảo
bài
Tên chương
Tài liệu tham khảo cần thiết
thực
thuyết
luận
tập
hành
Chương 1.
Tài liệu số [1] (tr.11-52);
Khái quát về truyền
Tài liệu số [3] (tr.13-227);
thông
Tài liệu số [4] (tr.13-34);
4
Tài liệu số [5] (tr.11-35);
Tài liệu số [6] (tr.7-22);
Tài liệu số [7] (tr.5-29);
Chương 2.
Tài liệu số [1] (tr.53-65);
Những vấn đề chung
Tài liệu số [4] (tr.81-103);
của báo chí
Tài liệu số [6] (tr.23-50);
4
Tài liệu số [7] (tr.37-55);
Tài liệu số [8] (tr.12-39);
Tài liệu số [10];
Tài liệu số [11].
Chương 3.
Tài liệu số [1] (tr.90-100);
Bản chất của hoạt
Tài liệu số [4] (tr.104-133);
4
động báo chí
Tài liệu số [6] (tr.51-72);
Tài liệu số [7] (tr.75-79);
Page 22 of 25
Tài liệu số [9] (tr.7-53);
Tài liệu số [10];
Tài liệu số [11].
Chương 4.
Tài liệu số [1] (tr.66-89);
Đặc điểm của thông
Tài liệu số [6] (tr.51-72);
tin báo chí
4
Tài liệu số [7] (tr.86-102);
Tài liệu số [10];
Tài liệu số [11].
Chương 5.
Tài liệu số [1] (tr.155-210);
Chức năng của báo chí
Tài liệu số [4] (tr.134-160);
Tài liệu số [6] (tr.73-94);
Tài liệu số [7] (tr.105-111);
4
3
Tài liệu số [8] (tr.80-123);
Tài liệu số [9] (tr.54-115);
Tài liệu số [10];
Tài liệu số [11].
Chương 6.
Tài liệu số [1] (tr.211-248);
Nguyên tắc hoạt động
Tài liệu số [4] (tr.161-195);
báo chí
Tài liệu số [6] (tr.95-128);
4
3
Tài liệu số [7] (tr.112-137);
Tài liệu số [8] (tr.146-170);
Tài liệu số [10];
Tài liệu số [11].
Chương 7.
Tài liệu số [6] (tr.153-168);
Luật pháp và đạo đức
Tài liệu số [7] (tr.138-177);
báo chí
4
Tài liệu số [8] (tr.124-145; tr.192-
222);
Tài liệu số [10];
Page 23 of 25
Tài liệu số [11].
Chương 8.
Tài liệu số [1] (tr.271-324);
Nhà báo – nghề báo và
Tài liệu số [2] (tr.7-60; tr257-
lao động báo chí
293);
Tài liệu số [4] (tr.96-305);
Tài liệu số [5] (tr.36-61);
4
3
Tài liệu số [6] (tr.191-246);
Tài liệu số [7] (tr.194-235);
Tài liệu số [10];
Tài liệu số [11].
Chương 9.
Tài liệu số [1] (tr.131-142);
Công chúng báo chí
Tài liệu số [4] (tr.306-313);
4
Tài liệu số [7] (tr.56-61);
Tài liệu số [10];
Tài liệu số [11].
5. Tài liệu tham khảo:
5.1. Tài liệu chính:
5.2. Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lao Động, Hà
Nội.
[2] Nguyễn Văn Dững, Hoàng Anh (biên dịch) (1998), Nhà báo – bí quyết kỹ
năng – nghề nghiệp, NXB Lao Động, Hà Nội.
[3] Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2006), Truyền thông - lý thuyết và kỹ năng
cơ bản, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
[4] Nguyễn Văn Hà (2011), Giáo trình cơ sở lý luận báo chí, NXB Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[5] Đinh Thị Thúy Hằng (2008), Báo chí thế giới – xu hướng phát triển,
Page 24 of 25
NXB Thông tấn, Hà Nội.
[6] Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận
Báo chí truyền thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[7] Dương Xuân Sơn (2012), Giáo trình lí luận báo chí truyền thông, NXB
Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội.
[8] Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (1995), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Văn hoá –
Thông tin, Hà Nội.
[9] E.P.Prôkhôrốp (2004), Cơ sở lý luận của báo chí (tập 1 & 2 - bản dịch từ
tiếng Nga), NXB Thông tấn, Hà Nội.
[10] Vụ Báo chí - Bộ Văn hoá- Thông tin (1998) Các quy định pháp lý về
báo chí.
[11] Cẩm nang công tác tư tưởng, lý luận chính trị và báo chí trước yêu
cầu mới, (2007) NXB Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.
6. Phương pháp đánh giá học phần
Trọng số:
Chuyên cần: 0,1
Thảo luận : 0,1
Kiểm tra giữa học phần: 0,2
Thi kết thúc học phần 0,6
Cộng 1,0
Tính theo thang điểm: A, B, C, D, F
Ngày tháng năm 2016
Trưởng nhóm giảng dạy
Duyệt của Khoa (hoặc bộ môn)
Page 25 of 25
ThS. Phạm Thị Hương