Ngày nhận bài: 27-08-2024 / Ngày chấp nhận đăng bài: 14-09-2024 / Ngày đăng bài: 16-09-2024
*Tác giả liên hệ: Lâm Vĩnh Niên. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. E-mail: nien@ump.edu.vn
© 2024 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.tapchiyhoctphcm.vn 23
ISSN: 1859-1779
Nghn cứu Y học
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 27(4):23-28
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04
Khảo sát nồng độ Ethanol trong máu t thi
bằng phương pháp sinh hóa, phương pháp
GC-FID sliên quan với nồng độ Lactate,
Lactate Dehydrogenase (LDH)
Nguyễn ThThanh Xn1, Thị Xuân Thảo1, Nguyễn Thanh Trầm1,
Nguyễn Anh1,m nh Niên1,*
1Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Đặt vấn đ: Xét nghiệm địnhợng nồng độ ethanol trong máu tử thi ý nghĩa quan trọngng tác giám định pháp y.
Tuy nhiên, dữ liệu tả định lượng ethanol bằng phương pháp sinh hóa pơng pp sắc ký k (GC-FID) liên quan
với nồng đ lactate LDH còn hạn chế.
Đốing và pơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang tả, dữ liệu về xét nghiệm ethanol bằng pơng pháp
sinh hóa phương pháp sắckhí (GC-FID) của 110 tờng hợp đã giám định tại Trungm Pháp y Thành phố Hồ Chí
Minh.
Kết qu: Nồng độ ethanol giá trị trung vị khi phân tích bằng phương pháp GC-FID và phương pháp sinh hóa tương
ng 0,48 (0,20 14,11) mg/100mL 4,77 (0,86 63,20) mg/100mL. sự ơng quan giữa lactate với nồng đethanol
định lượng bằng pơng pháp sinh hóa (p <0,001). Có sơng quan giữa nồng độ lactate, LDH chênh lệch nồng độ
ethanol khi địnhợng bằng pơng pháp sinh hóa phương pp GC-FID (p <0,05).
Kết luận: Nghiên cu cho thấy phương pháp GC-FID có độ chính xác tốt trong địnhợng ethanol, và LDH là chỉ số có
nhởng đến nồng đethanol.
T khóa: ethanol; GC-FID; enzym; lactate; LDH; máu; tử thi
Abstract
ETHANOL CONCENTRATION IN CUMID BLOOD USED BY BIOCHEMISTRY
METHOD, GC-FID METHOD AND CORRELATION WITH LACTATE
CONCENTRATION AND LACTATE DEHYDROGENASE (LDH)
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
24 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04
Nguyen Thi Thanh Xuan, Le Thi Xuan Thao, Nguyen Thanh Tram,
Nguyen Le Ha Anh, Lam Vinh Nien
Objective: Quantitative testing of the ethanol concentration in the blood of a corpse is important for forensic
examination. However, data describing ethanol quantification by biochemical methods and gas chromatography (GC-
FID) in relation to lactate and LDH concentrations are limited.
Method: We conducted cross-sectional study using data on ethanol testing using biochemical methods and gas
chromatography (GC-FID) in 110 cases examined at the Ho Chi Minh City Forensic Center.
Results: The median ethanol concentration when analyzed by the GC-FID method and biochemical method is 0.48
(0.20–14.11) mg/100 mL and 4.77 (0.86–63), respectively. There is a correlation between lactate and ethanol
concentrations quantified by biochemical methods (p <0.001). There is a correlation between lactate concentration,
LDH, and the difference in ethanol concentration when quantified by the biochemical method and the GC-FID method
(p <0.05).
Conclusion: The study shows that the GC-FID method has good accuracy in ethanol quantification, and LDH is an index
that affects ethanol concentration.
Keywords: ethanol; GC-FID; enzyme; lactate; LDH; blood; costume
1. ĐT VẤN Đ
Trong nghiên cứu pháp y, việc c định nồng độ ethanol
trong máu tử thi là một yếu tquan trọng để đánh giá nguyên
nhân hoàn cảnh tử vong. Phương pháp sinh hóa phương
pháp sắc ký khí với bộ phận phát hiện ion hóa lửa (GC-FID)
là hai phương pháp chính được sử dụng để đo lường nồng đ
ethanol [1, 2]. Tuy nhiên, việc liên kết giữa nồng độ ethanol
với c ch s sinh a khác như lactate và lactate
dehydrogenase (LDH) trong máu tử thi vẫn n nhiều yếu tố
chưa được xác định rõ. Nồng độ lactate cao có thể chỉ ra tình
trạng thiếu oxy cục bộ hoặc sốc, trong khi hoạt động LDH
tăng lên thphản ánh tổn thương tế bào hoặc nhiễm trùng.
Khi kết hợp với nồng độ ethanol, những chỉ số y có th
cung cấp những nhận định rõ ràng hơn về tình trạng sinh
của một người thời điểm trước khi qua đời. Điều này đặc
biệt quan trọng trong các trường hợp t vong do ngộ độc
ethanol vấn đề mà việc phân biệt giữa tvong do ngđộc
cấp tính và c nguyên nn kc rất phức tp [3-5]. Các báo
o trường hợp đã nhận định t nghiệm nồng độ ethanol
trong máu bằng phương pháp enzym không phù hợp đối với
giám định sau khi chết nồng độ của LDH lactate trong
máu tăng tuyến tính theo thi gian [3-5]. Trong một báo cáo,
nồng độ ethanolng bất thường từ 100 mg/100 mLn 2360
mg/100 mL ơng ứng sự ng nồng độ LDH từ 1567 U/L đến
88443 U/L lactate từ 15,6 mmol/L đến 33,1mmol/L tại thời
điểm 2 giờ 24 giờ sau chết, nhưng khi sử dụng màng siêu
lọc (loại bỏ LDH và lactate) và phân tích bằng phương pháp
GC thì kết quâm tính với ethanol [6]. Nồng độ LDH
lactate tăng cao được cho rằng nguyên nhân gây nhiễu, và
với nồng độ LDH từ 2000U/L trở lên hoặc nồng độ lactate từ
15 mmol/L trở lên thể dẫn đếnơngnh giả với ethanol.
Với nguyên nhân tử vong là do đa chấn thương, nhiễm trùng
huyết hoặc đuối ớc cũng dẫn đến tăng nồng độ lactate
LDH, thhiện kết qudương tính givới ethanol [7, 8].
Một nghiên cứu khác thì cho rằng nồng độ ethanol đo được
bằng xét nghiệm enzym tương quan tốt với phương pháp GC,
với mức chênh lệch cao nhất 22%, phương pháp enzym
được đề nghị có thsử dụng trong các phòng xét nghiệm của
bệnh viện để xác định nồng độ ethanol nời bị chấn thương
[8, 9]. Ngoài hai yếu tố lactate và LDH tăng cao ảnh ởng
đến độ tin cậy của phương pháp oxy henzym, thì một số
yếu t khác n sự hoại tử tế o gan do quá liều
acetaminophen, dehydrogenase nội sinh và các chất nền
không phải LDH lactate cũng thể liên quan đến việc sản
xuất NADH gây ra kết quả xét nghiệm dương tính givới
ethanol [10].
Hiện nay, chưa chứng cràng về ảnh hưởng của
lactate LDH đến nồng độ ethanol cũng như so nh pơng
pháp sinh hóa và phương pháp GC-FID trong định ợng
ethanol trong máu tthi. Đây ng mục tiêu chính được
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 25
tnh bày trong i báoy.
2. ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những ca tthi do Trung tâm Pháp y Thành phHồ Chí
Minh thực hiện khám nghiệm giám định nồng độ ethnol
trong máu năm 2022.
2.1.1. Tu chuẩn chọn
Những ca tử thi giám định nồng độ cồn (ethanol) trong
máu, đưc lấy mẫu giám định độc chất, giải phẫu bệnh để
chẩn đoán nguyên nhân tử vong, và có vị trí thu thập mẫu là
máu tim hoặc máunh mch đùi.
2.1.2. Tu chuẩn loại
Tử thi chết trên 3 ngày hoặc đang phân huỷ, tử thi chưa
tn nhân lai lịch.
2.2. Pơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.2.2. Cỡ mẫu
Thu thập tất cả mẫu bệnh án thỏa các tiêu chí lựa chọn.
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
Chọn mẫu thuận tiện.
Hồi cứu tất cả trường hợp được giám định nồng độ cồn
(ethanol) trong máu thu thập dữ kiện những hthỏa tiêu
chí lựa chọn. Thông tin thu thập bao gồm: tuổi, giới tính, thời
gian tvong, và nguyên nhân tử vong.
Quy trình thu thập mẫu gồm: sử dụng ống tiêm 5 mL chọc
qua da để lấy máu, vị ttốt nhất nh mạch đùi thời
điểm trước khi khám nghiệm tử thi. Mẫu máu được bảo quản
trong ống chứa natri fluoride và đặt trongi lạnh 0oC khi
vận chuyển về nơi phân tích. Điền giấy yêu cầu t nghiệm,
ghi thông tin về số hiệu tthi, năm sinh, giới, ngày giờ lấy
mẫu, thời điểm tử vong (nếu có), nguyên nhân tử vong.
Mẫu sau khich huyết tương sẽ được chia làm hai ống: ống
1 gửi Trung Tâm Y Khoa MEDIC Thành phố Hồ Chí Minh
để định ợng nồng độ lactate, LDH ethanol bằng phương
pháp oxy henzyme; ống 2 định ợng nồng độ ethanol
bằng phương pháp GC-FID tại Trung tâm Pháp y Thành phố
Hồ Chí Minh. Quy trình phân tích định ợng nồng độ lactate,
LDH và ethanol tại Trung Tâm Y Khoa MEDIC và quy tnh
định lượng nồng độ ethanol bằng phương pháp GC-FID tại
Trung tâm Pháp y thành phố Hồ Chí Minh là quy trình thao
tác chuẩn.
2.2.4. Phânch thống
Nhập liệu bằng phần mềm Excel và phân tích số liệu bằng
STATA 14.2. c biến số định lượng (tuổi, nồng độ lactate,
LDH) được trình bày bằng trung bình và độ lệch chuẩn (nếu
phân phối bình thường), hoặc trung vị khoảng tứ phân vị
(nếu phân phối lệch).
Biến số nhị giá và thtự được mô tbằng tần số tỉ lệ
phần trăm. Phân ch tương quan được thực hiện bằng các
phép kiểm t-test, kiểm định chi bình phương, Anova với
khoảng tin cậy 95% và ý nghĩa thống khi gtrị p <0,05.
3. KẾT QUẢ
Nghiên cứu đã thu thp sliệu nồng độ ethanol bằng phương
pp sắc khí GC-FID và phương pháp sinh hóa của 110 mẫu
máu tthi, kết quả thể hiện Bảng 1.
Có sự kc biệt có ý nga thống kê giữa nồng đethanol
của phương pháp sinh a phương pháp sắc khí với
p <0,001.
Bảng 1. Nồng đethanol trongu tử thi (n=110)
Nồng độ ethanol
(mg/100mL) Trung vị (khoảng tứ vị) p
Phương pháp sắc khí 0,48 (0,2014,11) <0,001
Phương pháp sinh hóa 4,77 (0,86 – 63,20)
Bảng 2. Pn nhóm nồng độ ethanol trong u t thi bằng
phương pháp sắc khí (theo quyết định 320/QĐ-BYT của Bộ Y
tế) (n=110)
Nồng độ ethanol
(mg/100mL) Tần số T l%
< 50
50 - 100
100 - < 400
400
87
0
23
0
79,1
0
20,9
0
Bảng 2 cho thấy đa số n số nghiên cứu tỉ lphân nhóm
nồng độ ethanol dưới 50 mg/100 mL, đây ngưỡng ethanol
nh thường trong máu. 23 trường hợp nồng độ ethanol
cao trong máu, chiếm tỉ lệ 20,9%.
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
26 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04
nh 1. Pn b nồng độ ethanol trong u cao
(>100mg/100mL) tử vong do tai nạn giao thông theo nhóm tuổi
Bảng 3. Mối liên quan giữa nồng đlactate, LDH với nồng độ
ethanol định ợng bằng phương pp sắc khí (GC-FID) và
phương pháp sinh hóa (n=110)
Ethanol r p
Phương pháp GC-FID
Lactate 0,09 0,3
LDH 0,03 0,7
Phương pháp sinh hóa
Lactate 0,05 0,5
LDH 0,48 <0,001
ơng quan Spearman
Không có stương quan giữa lactate, LDH với nồng đ
ethanol trong máu t thi định ợng bằng phương pháp
GC-FID, hay lactate với nồng độ ethanol định ợng bằng
phương pháp sinh hóa. Tuy nhn, sự tương quan có ý nga
thống kê với p <0,001 giữa LDH với nồng đethanol định
lượng bằng pơng pháp sinh hóa (Bảng 3).
Bảng 4. Mối liên quan giữa nồng độ lactate, LDH với schênh
lệch nng đethanol định ợng bằng pơng pp sắc sắc k
(GC-FID) phương pháp sinh hóa (n=110)
Chênh lệch ethanol r p
Lactate 0,23 0,013
LDH 0,67 <0,001
Có s ơng quan yếu giữa nồng độ lactate và chênh lệch
nồng độ ethanol với hệ số tương quan r là 0,23 (p=0,013). Có
s ơng quan mạnh gia nồng độ LDH chênh lch nồng độ
ethanol với hsố tương quan r 0,67 (p <0,001) (Bng 4).
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu y thực hiện so sánh hai phương pháp ph
biến trong định lượng ethanol phương pháp GC-FID và
phương pháp sinh hóa, đồng thời đánh giá sự chênh lệch nồng
độ ethanol của hai phương pháp y nhằm mục đích cung cấp
c số liệu kch quan trong giám định ethanol mẫu máu tử
thi. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể
nồng độ ethanol phương pp sắc khí (GC-FID) phương
pháp sinh hóa, cụ thgiá trị trung vị nồng độ ethanol của
phương pháp sinh a cao gấp 9,9 lần so với phương pháp
GC-FID. Theo Điều 35 của Luật Phòng, chống tác hại của
ợu, bia năm 2019 quy định cấm tuyệt đối điều khiển
phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu
hoặc hơi thnồng đcồn, và mức phạt nồng độ cồn khi lái
xe cũng được quy định Nghị định 123/2021/NĐ-CP. Do
đó, xét nghiệm nồng độ ethanol trong máu cần đảm bảo độ
chính xác cao tuân thvấn đpháp , đặc biệt trong
pháp y. Phương pháp sinh hóa thường cho kết quả nhanh
chóng, dễ dàng áp dụng nhưng độ đặc hiệu đối với định ợng
ethanol thấp. Nguyên của phương pháp sinh hóa (trong
định lượng ethanol) là quá trình oxy hóa ethanol thành
acetaldehyde bởi xúc c của ADH sau đó lactate cũng bị
oxy hóa thành pyruvate bởi LDH. Trong các mẫu khám
nghiệm tử thi, có thể giả định rằng vật liệu nội bào bao gồm
lactate và LDH đã được giải phóng vào máu. Do vậy, với sự
tăng cao của lactate và LDH sau khi chết, việc phân tích nồng
độ ethanol dựa trên enzym thường không đáng tin cậy, và
tờng được sử dụng phương pháp sắc ký [2]. Ngoài ra, xét
nghiệm nồng độ ethanol bằng phương pp sinh hóa có thbị
ảnh ởng bởi nhiều yếu tố có thể gây nên sai lệch kết quả.
Một số nguyên nhân có thểy dương nh giả với ethanol
ảnh ởng shiện diện của ethanol trong thbao gồm
phản ứng c c của ADH chuyển acetaldehyde thành
ethanol, vi sinh vật đường tiêu hóa tạo ra, hoặc các loại thực
phẩm n men (bánh mì, nước trái cây,…) [7]. Bên cạnh đó,
trong máung hiện diện nồng độ ethanol nội sinh với gtr
trung bình 0,14±0,35 mg/100 mL, cao nhất 1,53 mg/100
mL, và điểm cut-off để xác định nồng độ ethanol dương tính
vpháp 30 mg/100 mL. Ngoài ra, nồng độ ethanol nội
sinh có thcao n khi các rối loạn chuyển hóa như đái
to đường, nhịn ăn và nhiễm trùng [11]. Ngưỡng định ợng
c xét nghiệm nồng độ trong máu từ phương pháp GC-FID
và phương pháp sinh hóa 0,01 mg/100 mL. Do vậy, ethanol
nội sinh trong u cũng sẽ được định lượng ghi nhận kết
qunhầm lẫn là dương tính với ethanol. Trong độc chất học
pháp y, để giảm thiểu một số c động gây sai lệch kết quả,
nồng độ ethanol <10 mg/100 mL được khuyến cáo nên báo
o âmnh. Có thể nhận thấy, nếu chỉ dựa vào phương pháp
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 27
sinh hóa để c định nồng độ ethanol trong máu thì 100%
mẫu t nghiệm trong nghiên cứu là dương tính với ethanol
với giá trị trung vị là 4,77 mg/100 mL, nếu sử dụng phương
pháp GC-FID thì giá trị trung vị 0,48 mg/100mL, áp
dụng khuyến o thì tlệ ơng tính với ethanol giảm còn
25%. Đối với khoảng chênh lệch nồng đethanol của hai
phương pháp, Dagoglu N đã báo cáo sự khác biệt trung bình
là 4,9% giữa phương pháp enzyme phương pháp HS/GC
và hai phương pháp được cho là hoàn toàn tương thích vì s
sai lệch nằm trong giới hạn sai số thchấp nhận được [12].
So với nghiên cứu hiện tại thì khoảng chênh lệch giữa hai
phương pháp là khá cao, điều này thể là do nghiên cứu
tớc đây không sử dụng mẫu máu toàn phần và các mẫu
được khảo sát kng có nguồn gốc từ con người.
Phương pháp sắc ký k hoặc sắc khí/khối phổ
(GC-FID) được xem “tiêu chuẩn vàngđể định tính định
lượng ethanol trong c mẫu vật sinh học cả phòng t
nghiệm lâm sàng và pháp y [2, 9]. Ưu điểm quan trọng nhất
của phương pháp này phân tích ethanol cũng như các chất
dễ bay hơi khác như metanol, ethylene glycol, diethylene
glycol, axeton và rượu isopropyl. Sắc khí là phương pháp
được dùng để chc chất khí, lỏng, rắn dễ bay hơi bền
nhiệt độ cao. Nguyên của phương pháp này tách một
hoặc nhiều chất cần phân tích dựa trên tính chất vậta
học riêng của chất phân ch. Do ái lực khác nhau giữa chất
phân ch pha nh chúng di chuyển với tốc độ khác
nhau và tách ra khỏi nhau. vậy, phương pháp GC-FID
độ đặc hiệu cao, không bị ảnh hưởng bởi các thành phần khác
trong mẫu [1-4]. Những luận điểm này cũng thhiện sự
phù hợp của kết quả nghiên cứu không tìm thấy sự liên quan
giữa nồng độ lactate, LDH với nồng độ ethanol trongu t
thi. Theo Ozturk A, phương pháp enzym và phương pp GC
sự thống nhất trong phạm vi đo ờng 10–600 mg/dL và
phương pháp enzym được c định giá trị tuyến tính trong
khoảng từ 0 đến 498 mg/dL [13]. Trong khi đó, Dagoglu N
chứng minh rằng hai phương pháp skhác biệt đáng kể,
phần trăm chênh lệch giữa nồng độ ethanol trong u được
xác định bằng phương pháp HS/GC và phương pháp enzyme
dao động trong khoảng từ -166% đến 17% [12]. Trong nghiên
cứu hiện tại, không tìm thấy sự liên quan giữa nồng độ lactate
và nồng độ ethanol trong u tử thi bằng phương pháp sinh
hóa nhưng có sự ơng quan mức độ trung bình giữa nồng độ
LDH nồng độ ethanol bằng phương pháp GC-FID. Mặt
khác, sự liên quan giữa nồng độ lactate, LDH với sự chênh
lệch nồng độ ethanol bằng phương pháp sinh hóa và phương
pháp GC-FID. Điều này nga nồng độ LDH càng tăng thì
nồng độ ethanol xét nghiệm bằng phương pháp sinh hóa
schênh lệch càng cao so với phương pháp GC-FID. Hiện
nay, chưa chứng cxác thực về sự ơng quan giữa lactate,
LDH và chênh lệch nồng độ ethanol trong máu tử thi. Tóm
lại, kết qunghiên cứu đã thể hiện được vai tảnh ởng
của nồng độ lactate và LDH đối với ethanol trong máu tử thi,
đồng thời khẳng định độ tin cậy của xét nghim định lượng
ethanol bằng phương pháp GC-FID.
Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là do cỡ mẫu nhỏ, mẫu
khảo t nhiều nguyên nhân tử vong nên trong giới hạn của
phương pháp hồi cứu dữ liệu không th xác định được
ngưỡng g trị cut-off về sự ơng đồng kết qu của hai
phương pháp cũng như một số yếu tgây nhiễu khác có thể
ảnh ởng đến kết quđịnh lượng ethanol từ phương pháp
sinh hóa.
5. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp sắc ký khí GC-
FID luôn đảm bảo độ tin cậy trong định lượng ethanol trong
máu tử thi, tuy nhiên, phương pháp sinh hóa phương pháp
đơn giản thể ứng dụng tốt sau khi đã kiểm soát ảnh
ởng từ sự gia tăng nồng độ lactate và LDH sau khi chết.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm ơn Đại học Yợc TP. Hồ
Chí Minh đã hỗ trợ và tạo điều kiện để chúng tôi thực hiện
nghiên cứuy.
Nguồn tài trợ
Nghiên cứu nhận được kinh phí i trợ từ Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh theo hợp đồng s126/2023/HĐ-
ĐHYD.
Xung đột lợi ích
Không có xung đột lợi ícho liên quan đến nghiên cứu này.
ORCID
Lâm Vĩnh Niên
https://orcid.org/0009-0003-2161-8523