
Ngày nhận bài: 27-08-2024 / Ngày chấp nhận đăng bài: 14-09-2024 / Ngày đăng bài: 16-09-2024
*Tác giả liên hệ: Lâm Vĩnh Niên. Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. E-mail: nien@ump.edu.vn
© 2024 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.tapchiyhoctphcm.vn 23
ISSN: 1859-1779
Nghiên cứu Y học
Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 27(4):23-28
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04
Khảo sát nồng độ Ethanol trong máu tử thi
bằng phương pháp sinh hóa, phương pháp
GC-FID và sự liên quan với nồng độ Lactate,
Lactate Dehydrogenase (LDH)
Nguyễn Thị Thanh Xuân1, Lê Thị Xuân Thảo1, Nguyễn Thanh Trầm1,
Nguyễn Lê Hà Anh1, Lâm Vĩnh Niên1,*
1Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Xét nghiệm định lượng nồng độ ethanol trong máu tử thi có ý nghĩa quan trọng công tác giám định pháp y.
Tuy nhiên, dữ liệu mô tả định lượng ethanol bằng phương pháp sinh hóa và phương pháp sắc ký khí (GC-FID) liên quan
với nồng độ lactate và LDH còn hạn chế.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, dữ liệu về xét nghiệm ethanol bằng phương pháp
sinh hóa và phương pháp sắc ký khí (GC-FID) của 110 trường hợp đã giám định tại Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí
Minh.
Kết quả: Nồng độ ethanol có giá trị trung vị khi phân tích bằng phương pháp GC-FID và phương pháp sinh hóa tương
ứng là 0,48 (0,20 – 14,11) mg/100mL và 4,77 (0,86 – 63,20) mg/100mL. Có sự tương quan giữa lactate với nồng độ ethanol
định lượng bằng phương pháp sinh hóa (p <0,001). Có sự tương quan giữa nồng độ lactate, LDH và chênh lệch nồng độ
ethanol khi định lượng bằng phương pháp sinh hóa và phương pháp GC-FID (p <0,05).
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy phương pháp GC-FID có độ chính xác tốt trong định lượng ethanol, và LDH là chỉ số có
ảnh hưởng đến nồng độ ethanol.
Từ khóa: ethanol; GC-FID; enzym; lactate; LDH; máu; tử thi
Abstract
ETHANOL CONCENTRATION IN CUMID BLOOD USED BY BIOCHEMISTRY
METHOD, GC-FID METHOD AND CORRELATION WITH LACTATE
CONCENTRATION AND LACTATE DEHYDROGENASE (LDH)

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
24 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04
Nguyen Thi Thanh Xuan, Le Thi Xuan Thao, Nguyen Thanh Tram,
Nguyen Le Ha Anh, Lam Vinh Nien
Objective: Quantitative testing of the ethanol concentration in the blood of a corpse is important for forensic
examination. However, data describing ethanol quantification by biochemical methods and gas chromatography (GC-
FID) in relation to lactate and LDH concentrations are limited.
Method: We conducted cross-sectional study using data on ethanol testing using biochemical methods and gas
chromatography (GC-FID) in 110 cases examined at the Ho Chi Minh City Forensic Center.
Results: The median ethanol concentration when analyzed by the GC-FID method and biochemical method is 0.48
(0.20–14.11) mg/100 mL and 4.77 (0.86–63), respectively. There is a correlation between lactate and ethanol
concentrations quantified by biochemical methods (p <0.001). There is a correlation between lactate concentration,
LDH, and the difference in ethanol concentration when quantified by the biochemical method and the GC-FID method
(p <0.05).
Conclusion: The study shows that the GC-FID method has good accuracy in ethanol quantification, and LDH is an index
that affects ethanol concentration.
Keywords: ethanol; GC-FID; enzyme; lactate; LDH; blood; costume
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nghiên cứu pháp y, việc xác định nồng độ ethanol
trong máu tử thi là một yếu tố quan trọng để đánh giá nguyên
nhân và hoàn cảnh tử vong. Phương pháp sinh hóa và phương
pháp sắc ký khí với bộ phận phát hiện ion hóa lửa (GC-FID)
là hai phương pháp chính được sử dụng để đo lường nồng độ
ethanol [1, 2]. Tuy nhiên, việc liên kết giữa nồng độ ethanol
với các chỉ số sinh hóa khác như lactate và lactate
dehydrogenase (LDH) trong máu tử thi vẫn còn nhiều yếu tố
chưa được xác định rõ. Nồng độ lactate cao có thể chỉ ra tình
trạng thiếu oxy cục bộ hoặc sốc, trong khi hoạt động LDH
tăng lên có thể phản ánh tổn thương tế bào hoặc nhiễm trùng.
Khi kết hợp với nồng độ ethanol, những chỉ số này có thể
cung cấp những nhận định rõ ràng hơn về tình trạng sinh lý
của một người ở thời điểm trước khi qua đời. Điều này đặc
biệt quan trọng trong các trường hợp tử vong do ngộ độc
ethanol – là vấn đề mà việc phân biệt giữa tử vong do ngộ độc
cấp tính và các nguyên nhân khác rất phức tạp [3-5]. Các báo
cáo trường hợp đã nhận định xét nghiệm nồng độ ethanol
trong máu bằng phương pháp enzym không phù hợp đối với
giám định sau khi chết vì nồng độ của LDH và lactate có trong
máu tăng tuyến tính theo thời gian [3-5]. Trong một báo cáo,
nồng độ ethanol tăng bất thường từ 100 mg/100 mL lên 2360
mg/100 mL tương ứng sự tăng nồng độ LDH từ 1567 U/L đến
88443 U/L và lactate từ 15,6 mmol/L đến 33,1mmol/L tại thời
điểm 2 giờ và 24 giờ sau chết, nhưng khi sử dụng màng siêu
lọc (loại bỏ LDH và lactate) và phân tích bằng phương pháp
GC thì kết quả âm tính với ethanol [6]. Nồng độ LDH và
lactate tăng cao được cho rằng là nguyên nhân gây nhiễu, và
với nồng độ LDH từ 2000U/L trở lên hoặc nồng độ lactate từ
15 mmol/L trở lên có thể dẫn đến dương tính giả với ethanol.
Với nguyên nhân tử vong là do đa chấn thương, nhiễm trùng
huyết hoặc đuối nước cũng dẫn đến tăng nồng độ lactate và
LDH, và thể hiện kết quả dương tính giả với ethanol [7, 8].
Một nghiên cứu khác thì cho rằng nồng độ ethanol đo được
bằng xét nghiệm enzym tương quan tốt với phương pháp GC,
với mức chênh lệch cao nhất là 22%, phương pháp enzym
được đề nghị có thể sử dụng trong các phòng xét nghiệm của
bệnh viện để xác định nồng độ ethanol ở người bị chấn thương
[8, 9]. Ngoài hai yếu tố lactate và LDH tăng cao ảnh hưởng
đến độ tin cậy của phương pháp oxy hoá enzym, thì một số
yếu tố khác như sự hoại tử tế bào gan do quá liều
acetaminophen, dehydrogenase nội sinh và các chất nền
không phải LDH và lactate cũng có thể liên quan đến việc sản
xuất NADH gây ra kết quả xét nghiệm dương tính giả với
ethanol [10].
Hiện nay, chưa có chứng cứ rõ ràng về ảnh hưởng của
lactate và LDH đến nồng độ ethanol cũng như so sánh phương
pháp sinh hóa và phương pháp GC-FID trong định lượng
ethanol trong máu tử thi. Đây cũng là mục tiêu chính được

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 25
trình bày trong bài báo này.
2. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những ca tử thi do Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí
Minh thực hiện khám nghiệm và giám định nồng độ ethnol
trong máu năm 2022.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn
Những ca tử thi giám định nồng độ cồn (ethanol) trong
máu, được lấy mẫu giám định độc chất, giải phẫu bệnh để
chẩn đoán nguyên nhân tử vong, và có vị trí thu thập mẫu là
máu tim hoặc máu tĩnh mạch đùi.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại
Tử thi chết trên 3 ngày hoặc đang phân huỷ, tử thi chưa rõ
thân nhân lai lịch.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.2.2. Cỡ mẫu
Thu thập tất cả mẫu bệnh án thỏa các tiêu chí lựa chọn.
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
Chọn mẫu thuận tiện.
Hồi cứu tất cả trường hợp được giám định nồng độ cồn
(ethanol) trong máu và thu thập dữ kiện những hồ sơ thỏa tiêu
chí lựa chọn. Thông tin thu thập bao gồm: tuổi, giới tính, thời
gian tử vong, và nguyên nhân tử vong.
Quy trình thu thập mẫu gồm: sử dụng ống tiêm 5 mL chọc
qua da để lấy máu, vị trí tốt nhất là tĩnh mạch đùi và ở thời
điểm trước khi khám nghiệm tử thi. Mẫu máu được bảo quản
trong ống có chứa natri fluoride và đặt trong túi lạnh 0oC khi
vận chuyển về nơi phân tích. Điền giấy yêu cầu xét nghiệm,
ghi rõ thông tin về số hiệu tử thi, năm sinh, giới, ngày giờ lấy
mẫu, thời điểm tử vong (nếu có), và nguyên nhân tử vong.
Mẫu sau khi tách huyết tương sẽ được chia làm hai ống: ống
1 gửi Trung Tâm Y Khoa MEDIC Thành phố Hồ Chí Minh
để định lượng nồng độ lactate, LDH và ethanol bằng phương
pháp oxy hoá enzyme; ống 2 định lượng nồng độ ethanol
bằng phương pháp GC-FID tại Trung tâm Pháp y Thành phố
Hồ Chí Minh. Quy trình phân tích định lượng nồng độ lactate,
LDH và ethanol tại Trung Tâm Y Khoa MEDIC và quy trình
định lượng nồng độ ethanol bằng phương pháp GC-FID tại
Trung tâm Pháp y thành phố Hồ Chí Minh là quy trình thao
tác chuẩn.
2.2.4. Phân tích thống kê
Nhập liệu bằng phần mềm Excel và phân tích số liệu bằng
STATA 14.2. Các biến số định lượng (tuổi, nồng độ lactate,
LDH) được trình bày bằng trung bình và độ lệch chuẩn (nếu
phân phối bình thường), hoặc trung vị và khoảng tứ phân vị
(nếu phân phối lệch).
Biến số nhị giá và thứ tự được mô tả bằng tần số và tỉ lệ
phần trăm. Phân tích tương quan được thực hiện bằng các
phép kiểm t-test, kiểm định chi bình phương, Anova với
khoảng tin cậy 95% và có ý nghĩa thống kê khi giá trị p <0,05.
3. KẾT QUẢ
Nghiên cứu đã thu thập số liệu nồng độ ethanol bằng phương
pháp sắc khí GC-FID và phương pháp sinh hóa của 110 mẫu
máu tử thi, kết quả thể hiện ở Bảng 1.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ ethanol
của phương pháp sinh hóa và phương pháp sắc khí với
p <0,001.
Bảng 1. Nồng độ ethanol trong máu tử thi (n=110)
Nồng độ ethanol
(mg/100mL) Trung vị (khoảng tứ vị) p
Phương pháp sắc khí 0,48 (0,20 – 14,11) <0,001
Phương pháp sinh hóa 4,77 (0,86 – 63,20)
Bảng 2. Phân nhóm nồng độ ethanol trong máu tử thi bằng
phương pháp sắc khí (theo quyết định 320/QĐ-BYT của Bộ Y
tế) (n=110)
Nồng độ ethanol
(mg/100mL) Tần số Tỉ lệ %
< 50
50 - 100
100 - < 400
≥400
87
0
23
0
79,1
0
20,9
0
Bảng 2 cho thấy đa số dân số nghiên cứu có tỉ lệ phân nhóm
nồng độ ethanol dưới 50 mg/100 mL, đây là ngưỡng ethanol
bình thường trong máu. Có 23 trường hợp có nồng độ ethanol
cao trong máu, chiếm tỉ lệ 20,9%.

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
26 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04
Hình 1. Phân bố nồng độ ethanol trong máu cao
(>100mg/100mL) tử vong do tai nạn giao thông theo nhóm tuổi
Bảng 3. Mối liên quan giữa nồng độ lactate, LDH với nồng độ
ethanol định lượng bằng phương pháp sắc khí (GC-FID) và
phương pháp sinh hóa (n=110)
Ethanol r p
Phương pháp GC-FID
Lactate 0,09 0,3
LDH 0,03 0,7
Phương pháp sinh hóa
Lactate 0,05 0,5
LDH 0,48 <0,001
Tương quan Spearman
Không có sự tương quan giữa lactate, LDH với nồng độ
ethanol trong máu tử thi định lượng bằng phương pháp
GC-FID, hay lactate với nồng độ ethanol định lượng bằng
phương pháp sinh hóa. Tuy nhiên, có sự tương quan có ý nghĩa
thống kê với p <0,001 giữa LDH với nồng độ ethanol định
lượng bằng phương pháp sinh hóa (Bảng 3).
Bảng 4. Mối liên quan giữa nồng độ lactate, LDH với sự chênh
lệch nồng độ ethanol định lượng bằng phương pháp sắc sắc khí
(GC-FID) và phương pháp sinh hóa (n=110)
Chênh lệch ethanol r p
Lactate 0,23 0,013
LDH 0,67 <0,001
Có sự tương quan yếu giữa nồng độ lactate và chênh lệch
nồng độ ethanol với hệ số tương quan r là 0,23 (p=0,013). Có
sự tương quan mạnh giữa nồng độ LDH và chênh lệch nồng độ
ethanol với hệ số tương quan r là 0,67 (p <0,001) (Bảng 4).
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu này thực hiện so sánh hai phương pháp phổ
biến trong định lượng ethanol là phương pháp GC-FID và
phương pháp sinh hóa, đồng thời đánh giá sự chênh lệch nồng
độ ethanol của hai phương pháp này nhằm mục đích cung cấp
các số liệu khách quan trong giám định ethanol ở mẫu máu tử
thi. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể
nồng độ ethanol ở phương pháp sắc khí (GC-FID) và phương
pháp sinh hóa, cụ thể giá trị trung vị nồng độ ethanol của
phương pháp sinh hóa cao gấp 9,9 lần so với phương pháp
GC-FID. Theo Điều 35 của Luật Phòng, chống tác hại của
rượu, bia năm 2019 quy định cấm tuyệt đối điều khiển
phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu
hoặc hơi thở có nồng độ cồn, và mức phạt nồng độ cồn khi lái
xe cũng được quy định rõ ở Nghị định 123/2021/NĐ-CP. Do
đó, xét nghiệm nồng độ ethanol trong máu cần đảm bảo độ
chính xác cao và tuân thủ vấn đề pháp lý, đặc biệt là trong
pháp y. Phương pháp sinh hóa thường cho kết quả nhanh
chóng, dễ dàng áp dụng nhưng độ đặc hiệu đối với định lượng
ethanol thấp. Nguyên lý của phương pháp sinh hóa (trong
định lượng ethanol) là quá trình oxy hóa ethanol thành
acetaldehyde bởi xúc tác của ADH và sau đó lactate cũng bị
oxy hóa thành pyruvate bởi LDH. Trong các mẫu khám
nghiệm tử thi, có thể giả định rằng vật liệu nội bào bao gồm
lactate và LDH đã được giải phóng vào máu. Do vậy, với sự
tăng cao của lactate và LDH sau khi chết, việc phân tích nồng
độ ethanol dựa trên enzym thường không đáng tin cậy, và
thường được sử dụng phương pháp sắc ký [2]. Ngoài ra, xét
nghiệm nồng độ ethanol bằng phương pháp sinh hóa có thể bị
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố có thể gây nên sai lệch kết quả.
Một số nguyên nhân có thể gây dương tính giả với ethanol và
ảnh hưởng sự hiện diện của ethanol trong cơ thể bao gồm
phản ứng xúc tác của ADH chuyển acetaldehyde thành
ethanol, vi sinh vật ở đường tiêu hóa tạo ra, hoặc các loại thực
phẩm lên men (bánh mì, nước trái cây,…) [7]. Bên cạnh đó,
trong máu cũng hiện diện nồng độ ethanol nội sinh với giá trị
trung bình là 0,14±0,35 mg/100 mL, cao nhất là 1,53 mg/100
mL, và điểm cut-off để xác định nồng độ ethanol dương tính
về pháp lý là 30 mg/100 mL. Ngoài ra, nồng độ ethanol nội
sinh có thể cao hơn khi có các rối loạn chuyển hóa như đái
tháo đường, nhịn ăn và nhiễm trùng [11]. Ngưỡng định lượng
các xét nghiệm nồng độ trong máu từ phương pháp GC-FID
và phương pháp sinh hóa là 0,01 mg/100 mL. Do vậy, ethanol
nội sinh trong máu cũng sẽ được định lượng và ghi nhận kết
quả nhầm lẫn là dương tính với ethanol. Trong độc chất học
pháp y, để giảm thiểu một số tác động gây sai lệch kết quả,
nồng độ ethanol <10 mg/100 mL được khuyến cáo là nên báo
cáo âm tính. Có thể nhận thấy, nếu chỉ dựa vào phương pháp

Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024
https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.04 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 27
sinh hóa để xác định nồng độ ethanol trong máu thì 100%
mẫu xét nghiệm trong nghiên cứu là dương tính với ethanol
với giá trị trung vị là 4,77 mg/100 mL, nếu sử dụng phương
pháp GC-FID thì giá trị trung vị là 0,48 mg/100mL, và áp
dụng khuyến cáo thì tỉ lệ dương tính với ethanol giảm còn
25%. Đối với khoảng chênh lệch nồng độ ethanol của hai
phương pháp, Daglıoglu N đã báo cáo sự khác biệt trung bình
là 4,9% giữa phương pháp enzyme và phương pháp HS/GC
và hai phương pháp được cho là hoàn toàn tương thích vì sự
sai lệch nằm trong giới hạn sai số có thể chấp nhận được [12].
So với nghiên cứu hiện tại thì khoảng chênh lệch giữa hai
phương pháp là khá cao, điều này có thể là do nghiên cứu
trước đây không sử dụng mẫu máu toàn phần và các mẫu
được khảo sát không có nguồn gốc từ con người.
Phương pháp sắc ký khí hoặc sắc ký khí/khối phổ
(GC-FID) được xem là “tiêu chuẩn vàng” để định tính và định
lượng ethanol trong các mẫu vật sinh học ở cả phòng xét
nghiệm lâm sàng và pháp y [2, 9]. Ưu điểm quan trọng nhất
của phương pháp này là phân tích ethanol cũng như các chất
dễ bay hơi khác như metanol, ethylene glycol, diethylene
glycol, axeton và rượu isopropyl. Sắc ký khí là phương pháp
được dùng để tách các chất khí, lỏng, rắn dễ bay hơi và bền ở
nhiệt độ cao. Nguyên lý của phương pháp này là tách một
hoặc nhiều chất cần phân tích dựa trên tính chất vật lý và hóa
học riêng của chất phân tích. Do ái lực khác nhau giữa chất
phân tích và pha tĩnh mà chúng di chuyển với tốc độ khác
nhau và tách ra khỏi nhau. Vì vậy, phương pháp GC-FID có
độ đặc hiệu cao, không bị ảnh hưởng bởi các thành phần khác
có trong mẫu [1-4]. Những luận điểm này cũng thể hiện sự
phù hợp của kết quả nghiên cứu không tìm thấy sự liên quan
giữa nồng độ lactate, LDH với nồng độ ethanol trong máu tử
thi. Theo Ozturk A, phương pháp enzym và phương pháp GC
có sự thống nhất trong phạm vi đo lường 10–600 mg/dL và
phương pháp enzym được xác định có giá trị tuyến tính trong
khoảng từ 0 đến 498 mg/dL [13]. Trong khi đó, Daglıoglu N
chứng minh rằng hai phương pháp có sự khác biệt đáng kể,
phần trăm chênh lệch giữa nồng độ ethanol trong máu được
xác định bằng phương pháp HS/GC và phương pháp enzyme
dao động trong khoảng từ -166% đến 17% [12]. Trong nghiên
cứu hiện tại, không tìm thấy sự liên quan giữa nồng độ lactate
và nồng độ ethanol trong máu tử thi bằng phương pháp sinh
hóa nhưng có sự tương quan mức độ trung bình giữa nồng độ
LDH và nồng độ ethanol bằng phương pháp GC-FID. Mặt
khác, có sự liên quan giữa nồng độ lactate, LDH với sự chênh
lệch nồng độ ethanol bằng phương pháp sinh hóa và phương
pháp GC-FID. Điều này có nghĩa nồng độ LDH càng tăng thì
nồng độ ethanol xét nghiệm bằng phương pháp sinh hóa có
sự chênh lệch càng cao so với phương pháp GC-FID. Hiện
nay, chưa có chứng cứ xác thực về sự tương quan giữa lactate,
LDH và chênh lệch nồng độ ethanol trong máu tử thi. Tóm
lại, kết quả nghiên cứu đã thể hiện được vai trò và ảnh hưởng
của nồng độ lactate và LDH đối với ethanol trong máu tử thi,
đồng thời khẳng định độ tin cậy của xét nghiệm định lượng
ethanol bằng phương pháp GC-FID.
Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là do cỡ mẫu nhỏ, mẫu
khảo sát có nhiều nguyên nhân tử vong nên trong giới hạn của
phương pháp hồi cứu dữ liệu không thể xác định được
ngưỡng giá trị cut-off về sự tương đồng kết quả của hai
phương pháp cũng như một số yếu tố gây nhiễu khác có thể
ảnh hưởng đến kết quả định lượng ethanol từ phương pháp
sinh hóa.
5. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp sắc ký khí GC-
FID luôn đảm bảo độ tin cậy trong định lượng ethanol trong
máu tử thi, tuy nhiên, phương pháp sinh hóa là phương pháp
đơn giản và có thể ứng dụng tốt sau khi đã kiểm soát ảnh
hưởng từ sự gia tăng nồng độ lactate và LDH sau khi chết.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm ơn Đại học Y Dược TP. Hồ
Chí Minh đã hỗ trợ và tạo điều kiện để chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này.
Nguồn tài trợ
Nghiên cứu nhận được kinh phí tài trợ từ Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh theo hợp đồng số 126/2023/HĐ-
ĐHYD.
Xung đột lợi ích
Không có xung đột lợi ích nào liên quan đến nghiên cứu này.
ORCID
Lâm Vĩnh Niên
https://orcid.org/0009-0003-2161-8523