TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 478 - THÁNG 5 - S 1 - 2019
59
KHUYN NGH: Tăng cường giáo dc v các
nguyên tắc điều tr lao hu qu ca vic
không tuân th điu tr cho người bệnh lao đang
điu tr giai đoạn cng c ti nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bnh vin Lao Bnh phi tỉnh Nam Đnh
(2016), Báo cáo tng kết năm 2015.
2. Uông Th Mai Loan, H Th Hiền Lưu Thi
Liên (2009), "Thc Trng tuân th các nguyên
tắc điều tr ca bnh nhân lao phi ti phòng khám
ngoi trú quận Hai Bà Trưng năm 2009", Tạp chí y
hc thc hành. 23.
3. Nguyễn Đc Chính (2014), "Rào cn tiếp cn
dch v chng lao ti khu vc Tây Bc, Tây Nguyên
qua mt nghiên cứu điều hành", Tp chí lao
bnh phi, 16, tr. 37.
4. Nguyn Xuân Tình (2013), Thc trng tuân th
điu tr ca bnh nhân lao và mt s yếu t lin
quan ti phòng khám ngoi t bnh vin lao
bnh phi bc giang, luận văn thạc s qun
bnh viện, trường đại hc y tế công cng.
5. Alvarez G.C, Alvarez G.JF and Dorantes J.JE
(2009), "Educational strategy for improving
patient compliance with the tuberculosis treatment
regimen in Chiapas, Mexico", Rev Panam Salud
Pública 14(6), p. 402-8.
6. Honey.P and Mumford.A (1982), Manual of
learning style, London.
KHO SÁT VIC TUÂN TH S DNG THUC CHỐNG LOÃNG XƯƠNG
TRÊN BNH NHÂN SAU GÃY C ƠNG ĐÙI TI BNH VIN
CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH TP. H CHÍ MINH
Bùi Thị Hương Quỳnh1,2, Nguyễn Ngọc Khôi1,
Nguyễn Văn Cảnh1,3, Nguyễn Như Hồ1,4
TÓM TẮT16
Mc tiêu ca nghiên cu khảo sát sự tuân thủ
xác định một số yếu tố có liên quan đến tuân thủ
đầy đủ thuốc điều trị loãng xương bệnh nhân sau
gãy cổ ơng đùi. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu
tả cắt ngang tra cứu hồ bệnh án nội trú của bệnh
nhân trên 60 tuổi đã điều trị gãy c xương đùi từ
tháng 1/2016 đến tháng 6/2016 tại Bệnh viện Chấn
thương chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh, được ít
nhất một thuốc chống loãng xương khi xuất viện.
Tuân thủ đầy đủ được định nghĩa tỷ lệ số ngày
sử dụng thuốc chống loãng xương ở trên tổng số ngày
được khảo sát đạt từ 80% trở lên. Tỷ lệ bệnh nhân có
tuân thủ đầy đủ giảm dần theo thời gian 6 tháng, 12
tháng, 18 tháng và 24 tháng lần lượt là 27,5%, 5,8%,
1,4% 0%. Kết quả hồi quy logistic đa biến cho
thấy, trình độ học vấn từ trung học sở trlên (OR:
1,879; 95% CI: 1,191 - 2,955; p = 0,007) kinh
nghiệm đã từng sử dụng thuốc chống loãng xương
(OR: 15,8; 95% CI: 1,841 - 135,576; p = 0,012)
yếu tố làm tăng tuân thủ đầy đủ thuốc chống loãng
xương trên bệnh nhân. Cần tư vấn cho bệnh nhân về
tầm quan trọng của tuân thủ thuốc nhất bệnh nhân
mới điều trị và có trình độ học vấn thấp.
Từ khóa:
gãy cổ xương đùi, loãng xương, thuốc,
tuân thủ.
1Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh,
2Bệnh viện Thống Nhất, TP. Hồ Chí Minh,
3Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình, TP. Hồ Chí Minh
4Bệnh viện Nguyn Trãi, TP. Hồ Chí Minh.
Chịu trách nhiệm chính: Nguyn Như Hồ
Email: nhnguyen@ump.edu.vn
Ngày nhận bài: 5.2.2019
Ngày phản biện khoa học: 9.4.2019
Ngày duyệt bài: 16.4.2019
SUMMARY
INVESTIGATING THE OSTEOPOROTIC
MEDICATION ADHERENCE IN PATIENTS
AFTER FEMORAL NECK FRACTURE AT
HOSPITAL OF TRAUMATOLOGY AND
ORTHOPAEDICS, HO CHI MINH CITY
The aim of this study was to investigate the
osteoporotic medication adherence and factors
assocciated with good adherence in patients after
femoral neck fracture. We conducted a cross-sectional
study in patients aged 60 years or older who suffered
from femoral neck fractures from January 2016 to
June 2016 at Hospital of Traumatology and
Orthopaedics, Ho Chi Minh City, and prescribed at
least one osteroporotic medication. The good
medication adherence was defined when the rate of
days using osteoporotic drugs among total
observational days was 80% or higher. The
prevalence of patients with good adherence decreased
over time at 6, 12, 18, and 24 months after discharge
(27.5%, 5.8%, 1.4% and 0%, respectively). The
result of multivariate logistics regression analysis
showed that the patients with secondary education or
higher (OR: 1.879; 95% CI: 1.191 2.955; p = 0.007)
and experience of osteroporotic drug used (OR: 15.8;
95% CI: 1.841 135.576; p = 0.012) were factors
associated with good medication adherence. Patients,
especially naïve patients and patients with low
education, need to be consulted about the
importance of medication adherence.
Keywords:
femoral neck fracture, osteoporosis,
drugs, adherence.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy cổ xương đùi hậu quả hay gặp đứng
hàng thứ ba của loãng xương [4]. Hiện nay tỷ lệ
người cao tuổi ngày càng tang, số người loãng
vietnam medical journal n01 - MAY - 2019
60
xương ngày càng nhiều, do đó tỷ lệ gãy cổ
xương đùi cũng giang. Gãy cổ xương đùi được
coi một trong những vấn đ của sức khỏe
cộng đồng, làm tăng tlệ tử vong tỷ lệ tàn
phế và làm giảm chất lượng cuộc sống của người
bệnh. Sau y cổ xương đùi chỉ khoảng 20 -
60% bệnh nhân phục hồi được chức năng vận
động. khoảng 10 - 20% bệnh nhân nữ t
vong sau 6 tháng khoảng 30 - 40% trường
hợp bị tàn phế khó di chuyển [4]. Ngày nay
phương pháp điều trị gãy cổ xương đùi chủ yếu
phẫu thuật. bệnh nhân được phẫu thuật
thay khớp nhưng nếu không điều trị sau phẫu
thuật thì tình trạng gãy xương sẽ tái phát và làm
tăng nặng n nữa nguy tử vong [5]. Để
giảm thiểu các biến chứng nghiêm trọng trên,
những bệnh nhân sau gãy cổ xương đùi có loãng
xương cần điều trị bằng thuốc chống loãng
xương đầy đủ [5]. Tuân thủ điều trị bằng thuốc
yếu trất quan trọng giúp bệnh nhân hiệu
quả điều trị tốt. Nghiên cứu được tiến hành
nhằm khảo sát việc tuân thủ điều trị thuốc chống
loãng xương và xác định một số yếu tố liên quan
đến mức độ tuân thủ thuốc trên bệnh nhân sau
gãy cổ xương đùi tại Bệnh viện Chấn thương
chỉnh hình TP. Hồ Chí Minh.
II. ĐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CU
2.1 Đi tưng nghiên cu
Tiêu chuẩn chọn mu
- Bệnh nhân điều trị gãy cổ xương đùi từ
tháng 1/2016 đến tháng 6/2016 tại khoa Khớp
khoa Chi dưới Bệnh viện Chấn thương chỉnh
hình Thành phố Hồ Chí Minh.
- Từ 60 tuổi trở lên.
- Bệnh nhân có chẩn đoán loãng xương và chỉ
định ít nhất một loại thuốc chống loãng xương
khi xuất viện.
- đối tượng bệnh nhân bảo hiểm y tế,
nhận thuốc tại bệnh viện.
- Bệnh nhân đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân kng có khng nghe hay trlời.
- Bệnh nhân không cung cấp đầy đủ thông tin
hoặc không trả lời đầy đủ trong bảng câu hỏi.
2.2 Thiết kế nghiên cu: Thiết kế nghiên
cứu cắt ngang tả. Thu thập thông tin bằng
cách phỏng vấn bệnh nhân thu thập trên hồ
sơ bệnh án điện tcủa bệnh nhân. Kiểm tra đơn
thuốc ra viện, đơn thuốc tái khám của bệnh
nhân từ đó tính số ngày bệnh nhân sử dụng
thuốc chống loãng xương. Tính tỷ lệ số ngày sử
dụng thuốc chống loãng xương so với tổng số
ngày được khảo sát (180 ngày, 365 ngày, 540
ngày, 730 ngày).
Tỷ lệ ngày sử dụng thuốc
Đánh giá tuân thủ sử dụng thuốc theo
phương pháp của García-Sempere A cộng sự,
dựa trên tlệ ngày sử dụng thuốc chống loãng
xương [3]. Tỷ lệ số ngày sử dụng thuốc chống
loãng xương < 20% được xem không tuân
thủ, từ 20 - 80% tuân thủ một phần, 80%
tuân thủ đầy đủ. Nghiên cứu cũng xác định
các yếu tố liên quan đến tuân thủ đầy đủ
thuốc điều trị trên bệnh nhân.
2.3 Xử s liệu: Dữ liệu phân tích bằng
phần mm SPSS 20.0. Sử dụng thốngtả để
tính tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc sau 6 tng, 12
tháng, 18 tháng 24 tháng kể từ ngày xuất
viện. Phân tích hồi qui logistics đa biến đ xác
định các yếu tố liên quan đến sự tuân thủ đầy đủ.
- Biến ph thuc: Tuân th đầy đủ (có/không)
- Biến độc lp: Tui (biến liên tc), gii nh
(nam/nữ), trình đ hc vn (t trung học sở
tr lên/dưới trung hc), s loi thuc điều tr
(biến liên tc), tn sut s dng thuc (biến liên
tc, s ln/ngày), gp ít nht 1 tác dng không
mong mun (có/không), kinh nghim s dng
thuc chng loãng xương trước gãy xương
(có/không tng s dng thuc chng loãng
xương trước khi gãy xương).
Vấn đ y đc trong nghiên cu: Nghiên
cứu được thông qua Hội đồng Nghiên cu khoa
hc Bnh vin Chấn thương chỉnh hỉnh TP. Hồ
Chí Minh. Mọi thông tin của bệnh nhân đều được
bảo mật.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
138 bệnh nhân thoả mãn được chọn vào
nghiên cứu, 76,5% bệnh nhân nữ 23,5%
bệnh nhân nam. Bệnh nhân đ tuổi trung
bình 75,35 ± 8,52 tuổi. Bệnh nhân thừa cân
chiếm tỷ lệ 27,1%, o phì 24,7%. Đa số bệnh
nhân đều mắc bệnh kèm theo (chiếm 94,9%).
Bệnh nhân mắc từ 3 bệnh kèm trở lên chiếm t
lệ cao nhất 52,2%. Trong đó, tăng huyết áp
chiếm tỷ lệ cao nhất 55,8%. Đa số bệnh nhân có
trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên
(68,8%), sbệnh nhân có trình độ tiểu học hoặc
thấp hơn là 31,2%.
Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ đầy đủ thuốc chống
loãng xương giảm dần theo thời gian (từ 27,5%
sau 6 tháng xuống 0% sau 24 tháng), mức độ
tuân thủ sử dụng thuốc của bệnh nhân càng
kém dần. Phân bố bệnh nhân theo mức độ tuân
thủ sử dụng thuốc sau 6 tháng, 12 tháng, 18
tháng 24 tháng được thể hiện trong bảng 1
và hình 1.
TP CHÍ Y HC VIT NAM TP 478 - THÁNG 5 - S 1 - 2019
61
Bảng 1. Tỷ lệ tuân thủ sử dụng thuc (n = 138)
Mc tuân thủ
Sau 6 tháng
Sau 12 tháng
Sau 18 tháng
Sau 24 tháng
Không tuân thủ (< 20%)
18,8%
43,5%
64,5%
72,5%
Tuân thủ một phần (20 80%)
53,6%
50,7%
34,1%
27,5%
Tuân thủ đầy đủ (≥ 80%)
27,5%
5,8%
1,4%
0%
0
20
40
60
80
Sau 6 tháng Sau 12 tháng Sau 18 tháng Sau 24 tháng
Tỷ lệ %
Không tuân th Tuân th một phn Tuân th đầy đủ
Hình 1. Sự tuân thủ sử dụng thuc theo thời gian
Kết quả phân tích hồi quy logistic cho thấy có 2 yếu tố liên quan đến sự tuân thủ sử dụng thuốc là
trình độ học vấn kinh nghiệm sử dụng thuốc chống loãng xương (Bảng 2). c yếu tố khác như
tuổi, giới, số lượng thuốc sử dụng, tác dụng không mong muốn của thuốc không liên quan đến việc
tuân thủ đầy đủ thuốc điều trị loãng xương (p > 0,05).
Bảng 2. Yếu t liên quan đến sự tuân thủ đầy đủ
OR
Khoảng tin cậy 95%
Giá trị p
1,876
1,191 - 2,955
0,007
15,800
1,841 - 135,576
0,012
IV. BÀN LUẬN
Bàn luận vmc độ tuân thủ điều trị:
Tỷ
lệ bệnh nhân tuân thủ sử dụng thuốc đầy đủ
giảm dần theo thời gian. Tỷ lệ bệnh nhân không
tuân thủ sử dụng thuốc sau 12 tháng trong
nghiên cứu của chúng tôi (43,5%) cao hơn trong
nghiên cứu của tác giả García-Sempere A
(19,5%) [3].
Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ đầy đủ trong
nghiên cứu của chúng tôi sau 12 tháng (5,8%)
thấp hơn nghiên cứu của các tác giả García-
Sempere A (46,3%) [3] Tarantino U (21,1%)
[7]. Việc tuân thủ kém hơn thể do tuổi trung
bình trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn
những nghiên cứu tham khảo. Tuy khác nhau về
tỷ lệ nhưng về xu hướng tuân thủ sử dụng thuốc
đều giảm dần theo thời gian. Theo nghiên cứu
của García-Sempere A, tỷ lệ bệnh nhân không
tuân th 19,5% sau 12 tháng tăng lên
mức 26,7% sau 48 tháng [3]. Theo kết quả của
tác giả Seoyoung CK, tỷ lệ bệnh nhân không
tuân thủ sử dụng thuốc tăng lên theo thời gian
tất cả các quốc gia [6].
Bàn luận về các yếu tliên quan đến
tuân thủ:
Bệnh nhân trình độ học vấn từ
trung học sở trở lên mức độ tuân thủ đầy
đủ thuốc điều trị loãng xương cao hơn so với
nhóm còn lại (OR: 1,879; 95% CI: 1,191 -
2,955; p = 0,007). Trình độ học vấn ảnh hưởng
đến nhận thức của bệnh nhân về bệnh, về thuốc
điều trị, cũng như về việc hiểu những nhắc
nhở của bác sĩ. Do đó trình độ học vấn ảnh
hưởng đến tuân thủ sử dụng thuốc [3]. Điều này
nghĩa các bác hoặc nhân viên y tế cần
phải giải thích, nhắc nhở kỹ càng hơn về bệnh,
về thuốc ng như các vấn đ liên quan cho
bệnh nhân, đặc biệt bệnh nhân có trình độ
học vấn thấp để họ hiểu từ đó cải thiện sự
tuân thủ sử dụng thuốc.
Bệnh nhân đã từng s dụng thuốc chống
loãng xương trước khi xuất viện tuân thủ đầy đủ
tốt hơn so với nhóm n lại (p = 0,002). Kết quả
này tương tự với kết quả của tác giả Aníbal
García-Sempere, tỷ lệ bệnh nhân không tuân th
sử dụng thuốc nhóm không kinh nghiệm
25,2% nhóm kinh nghiệm 14,9% [3].
Kinh nghiệm sử dụng thuốc chống loãng xương
trước gãy xương thể tạo thói quen sử dụng
thuốc hàng ngày cho bệnh nhân. Bên cạnh đó
việc sử dụng thuốc chống loãng xương trước gãy
xương giúp bệnh nhân hiểu được tầm quan
trọng của loãng xương đến gãy xương gãy
xương thứ phát, tđó nâng cao sự tuân thủ sử
dụng thuốc. Do đó, cần phải chương trình
nâng cao nhận thức cộng đồng về loãng xương
gãy xương. Thông qua các chương trình này,
vietnam medical journal n01 - MAY - 2019
62
nhận thức về tầm quan trọng của việc thăm
khám và điều trị loãng xương ở người có nguy cơ
cao tăng lên. Từ đó những người nguy cao
đi khám để được điều trị sớm bằng thuốc chống
loãng xương khi cần thiết. Việc sử dụng thuốc
chống loãng xương một mặt điều trị loãng xương
phòng ngừa gãy xương, mặt khác làm tăng
mức độ tuân thủ sử dụng thuốc ở bệnh nhân sau
gãy xương.
Bàn luận về các yếu t không liên
quan đến tuân thủ đầy đủ:
Trong nghiên cứu
này tuổi không phải yếu tố liên quan đến sự tuân
thủ sử dụng thuốc. Kết qucủa nghiên cứu này
khác với nghiên cứu của tác giả García-Sempere
A cho thấy tỷ lệ bệnh nhân không tuân thủ
nhóm tuổi 75 - 84 cao gấp 1,51 lần và nhóm tuổi
85 cao gấp 2,14 lần so với lứa tuổi 65 74
[3]. Có nhiều nghiên cứu về sự tuân thủ sử dụng
thuốc người lớn tuổi cho kết quả không thống
nhất. Đa phần các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
không tuân thủ sử dụng thuốc người lớn tuổi
khá cao khoảng 30 - 70% (trung bình 50%).
Theo nghiên cứu của Yasein NA, độ tuổi trung bình
của nhóm bệnh nhân mức độ tuân thủ trung
nh hoặc thấp (64,7 năm) cao hơn đáng kể so với
tuổi trung bình của nhóm tuân thủ cao (62,5 tuổi)
(p = 0,029) [8]. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho
kết quả ngược lại, tỷ lệ tuân thủ sử dụng thuc
ơng đương hoặc cao n người lớn tuổi so với
những nhóm tuổi trẻ hơn [1].
Về giới tính, tỷ lệ tuân thủ sử dụng thuốc
giữa bệnh nhân nam nữ khác biệt không ý
nghĩa thống , giới tính không ảnh hưởng đến
tuân thủ sử dụng thuốc. Kết quả nghiên cứu này
khác với kết quả của tác giả García-Sempere A
cho thấy t lệ bệnh nhân nam không tuân thủ
cao gấp 1,89 lần so với bệnh nhân nữ [3].
S lượng thuốc điều trị cũng không phải yếu
tố liên quan đến sự tuân thủ sử dụng thuốc.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy số lượng
thuốc càng nhiều thì sự tuân thủ càng kém.
Theo nghiên cứu của c giả Chapman RH
cộng s nhóm bệnh nhân sử dụng từ 6 thuốc trở
lên có tuân thủ sử dụng thuốc kém hơn nhóm s
dụng 0 - 1 thuốc (p < 0,001) [2].
Tần suất sử dụng thuốc không liên quan
đến tuân thủ đầy đủ. do thể do tất cả
các bệnh nhân đều được chỉ định dùng thuốc 2
lần/ngày hoặc 3 lần/ngày. Điều này không dẫn
đến sự khác biệt về sự phức tạp trong sử dụng
thuốc của bệnh nhân.
Bệnh nhân gặp tác dụng không mong muốn
cũng không phải yếu tố liên quan đến tuân th
thuốc đầy đủ. Theo một số nghiên cứu, tác dụng
không mong muốn yếu tố liên quan ý
nghĩa thống đến skhông tuân thủ thuốc
những bệnh nhân [6,8].
V. KẾT LUẬN
Tuân thủ đầy đủ thuốc điều trị loãng xương
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp xu
hướng giảm dần theo thời gian. Sau 24 tháng
xuất viện, bệnh nhân không n quay lại bệnh
viện tái khám s dụng thuốc điều trị loãng
xương. Trình đhọc vấn ng cao bệnh nhân
kinh nghiệm sử dụng thuốc điều trị loãng
xương lâu hơn sẽ mức độ tuân thủ điều trị
đầy đủ tốt hơn những nhóm bệnh nhân còn lại.
Do bác sĩ, dược cần tư vấn cho bệnh nhân
tầm quan trọng của tuân thủ điều trị, nhất
bệnh nhân mới được chỉ định thuốc bệnh
nhân có trình độ học vấn dưới trung học cơ sở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Beckman AG et.al. (2007), “Medication
management and patient compliance in old age”,
Department of neurobiology, caring sciences and
society, Karolinska Institutet, Stockholm, Sweden,
pp. 1-20.
2. Chapman RH, Petrilla AA, Benner JS,
Schwartz JS, Tang SS Drugs Aging (2008),
“Predictors of adherence to concomitant
antihypertensive and lipid-lowering medications in
older adults: a retrospective, cohort study”, Drugs
Aging, 25(10), pp. 885-892.
3. García-Sempere A, Hurtado I, Sanfélix-
Genovés J, Rodríguez-Bernal CL, Gil RO,
Peiró S (2017), “Primary and secondary non-
adherence to osteoporotic medications after hip
fracture in Spain. The PREV2FO population-based
retrospective cohort study”, Scientific Reports,
7(11784).
4. Goldacre MJ, Roberts SE, Yeates D (2002),
“Mortality after admission to hospital with fractured
neck of femur: database study”, BMJ, 325, pp.
868-869.
5. Ip TP, Leung J, Kung AWC (2010), Management
of osteoporosis in patients hospitalized for hip
fractures”, Osteoporos Int, 21(4), pp. 605-614.
6. Seoyoung CK (2015), Use of osteoporosis
medications after hospitalization for hip fracture:
a cross-national study”, Am J Med, 128(5), pp.
519-526.
7. Tarantino U, Ortolani S (2011), “Analysis of
the costs and consequences of adherence to
therapy in hip fracture patients. Results of a
longitudinal analysis of”, Clin Cases Miner Bone
Metab, 8(1), pp. 57-62.
8. Yasein AY, Barghouti FF, Shroukh WA, Sharif
S, (2013), “The Use of Bisphosphonates by
Postmenopausal Osteoporotic Women: Adherence
and Side Effects”, Journal of Biological Sciences,
13, pp. 163-167.