Những khó khăn khi ứng dụng

TMĐT ở Việt Nam

Thương mại điện tử (TMĐT) là một con dao hai lưỡi đối với các nước

đang phát triển: Nếu được triển khai ở giai đoạn đầu và với sự tham gia

đông đảo của cộng đồng kinh doanh trong nước, TMĐT có thể thúc đẩy

sự phát triển chung, thậm chí đối với cả những doang nghiệp không liên

quan trực tiếp tới TMĐT.

Các hình thức phát triển diễn ra ở Việt Nam có thể miêu tả vắn tắt như sau:

Catatlog đầu tiên xuất hiện vào khoảng giữa năm 90. Hình thức đặt hàng qua

thư chưa xuất hiện. Trừ các đơn hàng nhỏ giữa các đối tác thương mại đã có

quan hệ với nhau thì hình thức đặt hàng qua điện thoại vẫn chưa hề phổ biến.

Rất ít công ty đưa ra một chào hàng rõ ràng về sản phẩm của mình trên

Internet. Có ít doanh nghiệp sử dụng email để đều đặn thông báo cho khách

hàng về các mức giá cả hiện thời. Thực tế này đã khá bi quan cho đất nước

đã nối mạng Internet từ năm 1997 và có số lượng thuê bao tăng mạnh trong

thời gian qua. Dựa trên kinh nghiệm của các nhà tài trợ quốc tế, các dự án

phát triển TMĐT tại Việt Nam cho tới nay chủ yếu tập trung vào việc làm

thế nào để hỗ trợ bước đi cuối cùng tới TMĐT: Tăng số người dùng máy vi

tính, cung cấp cơ sở hạ tầng về Internet và ngân hàng, giúp các công ty sử

dụng Internet như một hình thức liên lạc mới và tư vấn cho các nhà lập pháp

ban hành những quy định và luật lệ tạo thuận lợi cho sự phát triển của

thương mại điện tử.

Khi so sánh sự phát triển của thương mại từ xa và TMĐT với tình hình phát

triển ở Việt Nam, chúng ta rút ra kết luận là các quy định cụ thể quan trọng

nhất để TMĐT ra đời đã sẵn có: Luật Dân sự năm 1995 đã quy định rõ, hợp

đồng có thể dưới dạng nói, viết hoặc thông qua việc thực thi những hành

động nào đó. Hành động nào đó có thể là việc gửi email hoặc là click vào

một nút nào đó trên website. Luật Thương mại năm 1997 qui định hợp đồng

có thể dưới dạng nói, viết hoặc bằng hành vi cụ thể. Bộ luật này cũng quy

định điện báo, điện tín, fax, email và các hình thức liên lạc điện tử khác

được coi là dưới dạng văn bản. Các công ty có thể đăng ký dùng thẻ tín dụng

ở Việt Nam mà không gặp nhiều khó khăn. Giao dịch từ doanh nghiệp tới

doanh nghiệp (B2B) chiếm phần lớn trong TMĐT và ở Việt Nam, Internet

cũng sử dụng các tiêu chuẩn, quy định như trên thế giới. Nghị định mới

55/CP của Chính phủ về Internet đã cho phép các công ty thương mại tự đưa

trang web của mình lên Internet mà không cần tới vai trò can thiệp sâu của

ISP hay ICP vào như trước. Mặc dù vậy, cho tới nay vẫn chưa có một công

ty nào của Việt Nam sử dụng một giải pháp Internet hoàn chỉnh hay chấp

nhận đơn đặt hàng cố định. Lý do chính là hầu như không thể tiến hành

Thương mại từ xa ở Việt Nam mà không có thương mại từ xa thì không thể

tiến hành thương mại điện tử.

Hiện nay, một khi hoá đơn được ký phát thì việc huỷ bỏ nó là rất khó khăn.

Do vậy, ở Việt Nam, hình thức Mua hàng thử (với đảm bảo cho phép người

mua hoàn trả vô điều kiện) là gần như không thể áp dụng. Do đó, người bán

sẽ gặp nhiều rủi ro: họ sẽ phải trả thuế đánh vào các khoản doanh thu mà

trên thực tế chưa bao giờ tồn tại. Ngoài ra, người mua thường viện nhiều lý

do để trả lại hàng trong thương mại từ xa hơn là mua hàng ở cửa hàng thực.

Do vậy, các qui định liên quan cần được sửa đổi để tạo điều kiện dễ dàng

hơn cho việc huỷ bỏ hoá đơn.

Các giao dịch được giữ kín, một trong những nền tảng cơ bản của Thương

mại từ xa và TMĐT, hiện nay chưa được thực thi tại Việt Nam do, xét về

mặt kỹ thuật, việc mã hoá làm phạm luật ở Việt Nam. Chí ít thì việc mã hoá

https (cho các website bảo mật) cần được chính thức cho phép càng nhanh

càng tốt. Ngay khi những yêu cầu này được đáp ứng thì các doanh nghiệp sẽ

có thể áp dụng thương mại từ xa, bước tiến quan trọng đầu tiên vào ngưỡng

cửa TMĐT.

Để có thể giúp các nhà kinh doanh TMĐT và loại bỏ những khó khăn có thể

vướng với hải quan và thuế vụ, xin thử nêu một số giải pháp sau: Hiện tại,

các doanh nghiệp Việt Nam thông thường không có quyền mở tài khoản ở

nước ngoài. Đối với những gì không được nêu ra bằng văn bản thì các công

ty và các quan chức có xu hướng hiểu các đạo luật theo hướng mọi thứ mà

không được quy định rõ ràng được phép làm tức là bị cấm. Chí ít, chừng nào

các ngân hàng của Việt Nam chưa sẵn sàng cấp các tài khoản thương mại

hoạt động qua Internet (mặc dug điều này có thể tiến hành dễ dàng) thì văn

bản luật nên quy định cho phép các công ty được phép mở các tài khoản

ngân hàng ở nước ngoài, nếu như điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho họ

nhận tiền thanh toán. Tại các nước khác tương tự Việt Nam, việc sử dụng

các tài khoản ở nước ngoài là rất phổ biến, đặc biệt là ở những nước mà trình

độ phát triển của khu vực ngân hàng chậm hơn chu cầu phát triển của nền

kinh tế.

Pháp lệnh về Hợp đồng kinh tế năm 1990 có những nội dung gây ra một số

nhầm lẫn do nó phần nào mâu thuẫn với Bộ Luật dân sự năm 1995 và Luật

Thương mại năm 1997. Hoặc là pháp lệnh đó phải được xoá bỏ hoàn toàn

hoặc là được điều chỉnh bổ sung với các bộ luật ban hành trong thời gian gần

đây, chủ yếu là liên quan tới lĩnh vực Thương mạ từ xa và TMĐT. Trong bối

cảnh thiếu một khung pháp lý hoàn chỉnh hơn, chúng ta cần hiểu rằng, sẽ có

nhiều rủi ro hơn cho các đối tác kinh doanh. Tuy nhiên, theo như kinh

nghiệm của các nước khác trên thế giới, các doanh nghiệp đều sẵn sàng chấp

nhận rủi ro ở mức hạn chế (chẳng ai sử dụng TMĐT trong một thương vụ trị

giá hàng triệu USD với một đối tác không biết mặt), đặc biệt khi lợi ích tiềm

năng của TMĐT là rất lớn. Nhà nước có thể đưa ra lý do để kiểm soát chặt

chẽ các công ty quốc doanh, nhưng nhà nước không nên cấm các doanh

nghiệp tư nhân chấp nhận rủi ro, thậm chí nếu như điều đó khiến cho khu

vực tư nhân có thêm một số lợi thế cạnh tranh so với khu vực nhà nước.