ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

------------

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẬT GIÁO VỚI

TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT

Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGÀNH : TRIẾT HỌC

KHÓA : 60 (2015 - 2019)

HỆ : CHÍNH QUY

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS ĐẶNG THỊ LAN

1

Hà Nội - 2019

LỜI CẢM ƠN

Đề tài “Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” là nội dung nghiên cứu và làm khóa

luận tốt nghiệp của tôi tại khoa Triết học - trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn.

Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận này, lời

đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến cô PGS.TS Đặng Thị Lan

thuộc Khoa Triết học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Cô

đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi

hoàn thiện khóa luận này. Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô

trong khoa Triết học và các Thầy, Cô trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn đã tận tình truyền đạt kiến thức bổ ích, kinh nghiệm sống trong suốt

những năm em học tập.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh

nhất. Nhưng do hạn chế về kiến thức và quá trình nghiên cứu nên không

tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất

mong nhận được sự đóng góp của các Thầy, Cô để bài khóa luận được hoàn

chỉnh hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019

Sinh viên

2

Trần Thị Hồng Nhung

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi

dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đặng Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu trong

khóa luận này hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các tài liệu

tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về khóa

luận của mình.

Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019

Sinh viên

3

Trần Thị Hồng Nhung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG I. KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU

CỦA NGƯỜI VIỆT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ .................................. 8

1.1. Qúa trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam............................ 8

1.1.1. Sự ra đời và phát triển Phật giáo ở Việt Nam .................................... 8

1.1.2. Giáo lý cơ bản của Phật giáo ........................................................... 13

1.1.3. Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam .................................................. 15

1.1.4. Vai trò của phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam .................... 18

1.2. Khái quát về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc bộ ........................ 21

1.2.1. Cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc Bộ .......... 21

1.2.2. Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu .................................................. 24

1.2.3. Nghi lễ, tổ chức, nơi thờ cúng của tín ngưỡng thờ Mẫu .................. 26

1.2.4. Vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ...................................................... 30

CHƯƠNG II. MỘT SỐ BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA

PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG

BẰNG BẮC BỘ ............................................................................................... 34

2.1 Cơ sở cho mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ................................................................... 34

2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế và cơ sở tâm lý cho mối quan hệ giữa

Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ...................................... 34

2.1.2 Cơ sở triết lý của Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu ......................... 36

2.2 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt ở đồng bằng Bắc bộ .................................................................... 37

2.2.1 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua tục thờ Nữ thần 37

2.2.2 Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng

4

Bắc bộ thể hiện thông qua việc thực hành tín ngưỡng Tam phủ. ............. 43

2.3 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo .............................................. 49

2.3.1 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với quá trình phát triển của

Phật giáo Việt Nam thể hiện qua không gian thờ cúng. ........................... 49

2.3.2 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng

Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo được thể hiện qua thực hành

nghi lễ thờ cúng .......................................................................................... 52

2.4 Giá trị của mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ................................................................... 56

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ........................................................ 64

5

PHỤ LỤC ẢNH

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng và tôn giáo như

Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo…Trong đó, Phật giáo là một tôn giáo lớn, có

vai trò quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước suốt chiều dài lịch

sử dân tộc, và là một học thuyết có tính triết học sâu sắc và giá trị nhân văn

cao cả. Trước khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, người Việt Nam đó có tín

ngưỡng dân gian truyền thống của mình, Với tinh thần “Tùy duyên nhi giáo”

thì Phật giáo đã nhanh chóng kết hợp với tín ngưỡng bản địa của người Việt

cổ làm cho Phật giáo hóa tín ngưỡng bản địa và bản địa hóa Phật giáo. Một

trong những biểu hiện của sự hòa nhập và dung hợp của Phật giáo với các tín

ngưỡng bản địa là tục thờ Mẹ hay tục thờ Nữ thần của người Việt.

Mặt khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng hòa quyện với Phật giáo để bổ

sung cho mình những triết lý nhân sinh, nhân bản, lòng từ bi hỷ xả vượt ra

ngoài biên giới quốc gia, nâng triết lý nhân sinh lên một tầm cao mới. việc

nghiên cứu, tìm hiểu về mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở

Đồng bằng bắc Bộ là một vấn đề tuy không còn mới nhưng hết sức cần thiết,

vì giờ đây, chúng ta có điều kiện hơn để nhìn nhận lại quá trình này như một

trong những con đường văn hóa Việt Nam lưu giữ bản sắc riêng, cùng với

việc nhìn nhận ra sự dung hợp, mối quan hệ giữa Phật giáo đối với tín ngưỡng

Thờ Mẫu.

Từ đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu

cuả người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ là để khẳng định bản sắc riêng của

Phật giáo Việt Nam, nhằm khai thác các giá trị văn hóa dân tộc, nhằm góp

phần xây dựng nên nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, củng cố

khối đại đoàn kết toàn dân. Tất cả những khía cạnh trên là cơ sở để tôi lựa

chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người

1

Việt ở đồng bằng Bắc Bộ” làm đề tài khóa luận của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt và nhiều dân tộc thiểu số khác ở

Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời. Tín ngưỡng thờ Mẫu

lấy việc tôn thờ người phụ nữ làm đấng sáng tạo và sinh thành ra vũ trụ, đất

nước và con người. Chính vì thế thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân

gian khá tiêu biểu và mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Khi đạo Phật du

nhập vào Việt Nam thì nó đã nhanh chóng dung hợp với tín ngưỡng bản địa

của người dân Việt Nam tạo nên nét đặc sắc riêng của Phật giáo Việt Nam.

Vấn đề đạo Phật với tín ngưỡng thờ Mẫu luôn được các nhà nghiên cứu

trong và ngoài nước quan tâm, mỗi công trình đều làm sáng tỏ, sâu sắc và

phát hiện thêm nhiều giá trị mới. Nghiên cứu về Phật giáo với Tín ngưỡng thờ

Mẫu đã có các công trình tiêu biểu sau:

Nguyễn Lang với tác phẩm: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn

học, Hà Nội, 1992) đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào

Việt Nam, vai trò của các thiền sư trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ở

mỗi giai đoạn, tác giả đều đi sâu vào phân tích các nội dung tư tưởng của Phật

giáo và các đại diện tiêu biểu cho từng trường phái và đã khái quát đặc điểm

nổi bật của Phật giáo Việt Nam gắn với các thời kỳ tương ứng. Đây là một

công trình nghiên cứu rất chi tiết về Phật giáo Việt Nam từ khi mới du nhập

vào nước ta cho đến thế kỉ XX.

Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (Nxb. Thuận Hoá, 1999

Huế) đã phác họa một cách rõ nét diện mạo của Phật giáo Việt Nam qua

những đặc điểm và các trường phái cơ bản.

Nguyễn Duy Hinh và cộng sự (2011), trong tác phẩm Phật giáo trong

văn hóa Việt Nam, Về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam in trong Về tín

ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay. Hai tác phẩm này đã bàn sâu về hai đặc

điểm cơ bản của phật giáo Việt Nam, đó là tính dân gian và tính thống nhất.

Công trình Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh (Nxb.

2

Hội Nhà văn,Hà Nội 1999) đi sâu nghiên cứu nội dung tư tưởng Phật giáo

Việt Nam. Từ đó, tác giả lý giải những đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt

Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có

tiếp thu tôn giáo ngoại nhập.

Cùng với đó còn có các tạp chí, luận văn, luận án liên quan đến Phật

giáo như:

Phan Đại Doãn - Lê Văn Mỹ, Phật giáo dân gian vùng Dâu (Hà Bắc),

Tạp chí văn hóa dân gian, số 1- 1987.

Luận án Tiến sĩ Triết học của Tạ Chí Hồng: “Ảnh hưởng của đạo đức

Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay”, Hà Nội,

2004.

Vấn đề tín ngưỡng thờ Mẫu đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều

học giả như: Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Đăng Duy, Đặng Văn Lung, Đỗ Thị

Hảo,… đã công bố các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng Mẫu gắn với đời

sống văn hoá, lịch sử, tôn giáo… Ngô Đức Thịnh với cuốn “Đạo Mẫu ở Việt

Nam” (2 tập), Nhà xuất bản Văn hóa dân gian, Hà Nội, 2002 được coi là một

tác phẩm nghiên cứu một cách cơ bản và tương đối hoàn chỉnh về tín ngưỡng

Mẫu ở Việt Nam và đã tiếp cận tín ngưỡng này dưới góc độ văn hóa và phần

nào cũng chỉ ra được ở góc độ tín ngưỡng tôn giáo.

Tục thờ đức thánh Mẫu và đức thánh Trần của Vũ Ngọc Khánh (Nxb

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2005) đã trình bày về sự phát triển từ nguyên lý

Mẹ của văn hóa Việt Nam phát triển đến tín ngưỡng thờ Mẫu và phát triển

thành tín ngưỡng thờ Tam phủ - Tứ phủ. Cuốn sách đã phân tích và chỉ ra vị

trí của Đức Mẫu Liễu Hạnh trong đời sống tín ngưỡng Việt Nam nói chung,

tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ nói riêng thông qua các nguồn thư tịch cổ về Bà

trong dân gian.

Văn hóa Thánh Mẫu, của Đặng Văn Lung (Nxb Văn hóa -Thông tin,

Hà Nội, 2004) cũng đã đưa ra một “Văn hóa Thánh Mẫu” của người Việt trên

cơ sở phân tích sự hình thành và phát triển của các biểu tượng Thánh Mẫu.

3

Tuy nhiên, tác phẩm này mới chỉ dừng lại ở việc tìm ra sự phát sinh, hình

thành, truyền bá và sự sửa đổi cốt truyện, lễ hội theo lôgic - lịch sử - chính trị

- văn hóa - xã hội của đất nước.

Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc với cuốn Các Nữ thần Việt Nam (Nxb

Phụ nữ, Hà Nội, 1984) cũng đã cung cấp đủ rất nhiều thông tin về hệ thống

các Nữ thần ở Việt Nam. Thông qua việc trình bày thần tích của các vị nữ

thần ở Việt Nam, công trình đã cung cấp một nguồn tư liệu rất phong phú và

bổ ích về các Nữ thần và sự phân chia nữ thần ở Việt Nam thành các Nữ thần

trong thần thoại, Nữ thần của các dân tộc thiểu số, các Thánh Mẫu, các Chư

thần. Để từ đó các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về hệ thống nữ thần ở

Việt Nam.

Bên cạnh đó có thể kể đến các công trình như: “Việt Nam phong tục”

của Phan Kế Bính, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997; “Nữ Thần và Thánh Mẫu

Việt Nam” do Vũ Ngọc Khánh chủ biên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002,

“Các hình thái tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy , Nxb

Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 2001; “Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện

nay” do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên , Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.

Về báo, tạp chí về tín ngưỡng thờ Mẫu có thể kể đến bài viết của một

số tác giả như: Nguyễn Hữu Toàn với bài “Một số sinh hoạt văn hoá - tín

ngưỡng ở vùng Dâu”, Tạp chí Di sản văn hoá, số 17, 2004; Nguyễn Quốc

Phẩm với bài “Góp bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan”, Tạp chí

Văn hoá nông thôn, số 11, trang 11 – 13, 1998; Đinh Gia Khánh với bài “Tục

thờ Mẫu và những truyền thống văn hoá dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn

hoá, số 5, trang 7 - 13, 1992...

Nhìn chung, khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu, các tác giả đã

tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như tôn giáo học, văn học, nghệ thuật,

lịch sử… Ở các góc độ này, các công trình đã cung cấp một lượng thông tin

phong phú về sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống thần linh cùng

các thần tích của tín ngưỡng thờ Mẫu, các không gian thờ cúng, những giá

4

trị về mặt văn học, nghệ thuật của tín ngưỡng thờ Mẫu. Từ đó, đã chỉ ra

những tác động của nó đến văn hóa, xã hội của người Việt cả trong lịch sử

cũng như ở hiện tại.

Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ của Phật giáo với tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt có các công trình như:

Luận án Tiến sĩ Triết học của Đặng Minh Châu về “Mối quan hệ giữa

Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam (qua nghiên cứu một số ngôi

chùa tiêu biểu của phật giáo Bắc tông)”(Hà Nội, 2015).

Đức Thiện - Tín ngưỡng thờ tứ pháp - hiện tượng tiếp biến văn hóa Ấn

Độ, số 6 - 2002.

Luận văn Thạc sỹ của Phan Thị Kim: "Tìm hiểu mối quan hệ giữa

phật giáo với tín ngưỡng thờ mẫu ở vùng đồng bằng bắc bộ" (Hà Nội, 2011)

Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Huyền Trang "Sự dung thông giữa Phật

giáo với tín ngưỡng dân gian Việt Nam thời kì đầu du nhập" (Hà Nội ,2013)

Nguyễn Hữu Thụ với bài viết: “Đôi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo

và tín ngưỡng thờ mẫu qua truyền thuyết Phật mẫu Man Nương và Thánh

mẫu Liễu Hạnh”, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 4 – 2009...

Các công trình nghiên cứu trên đều vấn đề mối quan hệ Phật giáo với

tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ vẫn chưa được

nghiên cứu nhiều và chưa nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu. Do đó,

khóa luận này sẽ định hướng nghiên cứu làm rõ hơn về mối qua hệ giữa Phật

giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: Trên cơ sở trình bày một cách khái quát về Phật giáo và tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, khóa luận làm rõ

mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Đồng

bằng Bắc Bộ từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam và rút ra một số giá trị

của mối quan hệ này.

5

- Nhiệm vụ:

+ Phân tích, khái quát những nội dung cơ bản của Phật giáo và tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ.

+ Trình bày phân tích những biểu hiện cơ bản của mối quan hệ biện

chứng giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực Đồng

bằng Bắc Bộ.

+ Phân tích một số giá trị của mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng

thờ Mẫu của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu về mối quan

hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ.

- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tìm hiểu mối quan hệ giữa Phật giáo

với tín ngưỡng thờ Mẫu ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ qua 2 thời kỳ cơ bản là

thời kỳ du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và thời kỳ phát triển của Phật

giáo ở Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên cơ sở là quan điểm của chủ nghĩa

Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng và Nhà

nước về tôn giáo và tín ngưỡng. Khóa luận cũng dựa trên một số lý thuyết

nghiên cứu của tôn giáo học hiện đại như lý thuyết về giao lưu, tiếp biến...

Đồng thời khóa luận cũng kế thừa những kết quả của những công trình nghiên

cứu trước đó.

- Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp luận của

triết học Mác Lê-nin trong nghiên cứu những vấn đề của đời sống xã hội, có

kết hợp một số phương pháp nghiên cứu: logic và lịch sử, phân tích- tổng

hợp, khái quát, so sánh, đối chiếu…

6. Đóng góp của khóa luận

- Trên cơ sở trình bày khái quát chung về Phật giáo và tín ngưỡng thờ

Mẫu ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ khóa luận chỉ ra mối quan hệ mật thiết

6

giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực Đồng bằng

Bắc Bộ như: tín ngưỡng thờ Mẫu trong tâm thức người dân Đồng bằng Bắc

Bộ qua thực hành nghĩ lễ ở chùa, mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với

quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam.

- Khóa luận đã phân tích mối quan hệ, sự tác động hai chiều của Phật

giáo lên tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và

ngược lại, từ đó chỉ ra những giá trị của mối liên hệ này trong văn hóa tín

ngưỡng nước ta.

7. Ý nghĩa của khóa luận

- Khóa luận đã góp phần sáng tỏ về mối quan hệ giữa các hình thái ý

thức xã hội với nhau mà cụ thể là mối quan hệ giữa một tôn giáo ngoại nhập

với một hình thái tín ngưỡng dân gian Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử khác

nhau của dân tộc.

- Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu Phật

giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu, cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo

của Đảng và nhà nước hiện nay.

8. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,

7

nội dung chính của khóa luận gồm 2 chương 6 tiết.

CHƯƠNG I

KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA

NGƯỜI VIỆT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

1.1 . Qúa trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam

1.1.1 Sự ra đời và phát triển Phật giáo ở Việt Nam

Ấn Độ là quê hương của Phật giáo. Xã hội Ấn Độ cổ đại xuất hiện từ

rất sớm, vào khoảng thế kỉ XXV trước công nguyên. Xã hội Ấn Độ thời cổ

đại được phân chia thành bốn đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do

và nô lệ cung đình. Mỗi giai cấp giữ một thế sinh hoạt riêng và có sự phân

biệt sâu sắc giữa các giai cấp từ đó đã dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các đẳng

cấp trong xã hội. Trong khi những người Bà La Môn có uy tín tuyệt đối trong

quần chúng và hưởng rất nhiều đặc quyền thì giai cấp tiện nô lại sống cuộc

sống cơ cực lầm than, không có quyền ăn nói cũng như đóng góp ngang hàng

với mọi người.

Nhìn rõ được cảnh khổ của chúng sinh, Đức Phật Thích Ca vốn là Thái

tử của Ấn Độ lúc bầy giờ, Ngài đã quyết xuất gia tầm đạo để giải thoát khổ

đau cho con người trong xã hội. Ròng rã sáu năm tu hành khổ hạnh trong

rừng sâu và 49 ngày nhập định dưới gốc cây Bồ Đề, Đức Phật đã giác ngộ

được đạo quả vô – thượng, chính – đẳng, chính – giác. Phật giáo ra đời trong

làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-La-Môn và chế độ đẳng cấp. Phật

giáo đã lí giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người

khỏi nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội.

Đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực Á-Phi,

gần đây được truyền tới các nước Âu -Mỹ. Trong quá trình truyền bá của

mình, đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa

để hình thành rất nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng

8

với đời sống xã hội và văn hoá của rất nhiều quốc gia.

Con đường du nhập của Phật giáo vào Việt Nam

Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý đặc biệt – đó là nằm trên trục giao

thông từ Nam Á lên Bắc Á, gần như nằm giữa các nước Đông Nam Á và là

cái lưng của bán đảo Ấn Trung – vị trí nằm gữa Ấn Độ và Trung hoa. Với địa

thế này, Việt Nam không những chịu ảnh hưởng của kinh tế mà còn có cả văn

hóa và tôn giáo của hai nền văn minh cổ xưa này, trong đó có Phật giáo.

Phật giáo đã có mặt ngay tại nước ta từ những năm đầu sau công

nguyên, nếu không nói là sớm hơn. Quá trình du nhập đó của Phật giáo được

thực hiện thông qua hai con đường:

Phật Giáo du nhập qua con đường bộ (Ấn Độ - phía bắc Việt Nam) còn

gọi là con đường tơ lụa. Những người Ấn phát xuất từ Trung Ấn còn dùng

tuyến đường bộ quang qua đèo Hasse Des Trois Pagodes, theo sông Kanburi

xuống châu thổ sông Menam, từ đó đến sông Mêkông qua đất Lào rồi vào

Thanh Hóa, Nghệ An và đến Luy Lâu của Giao Châu. Trong cuốn Lịch sử

Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát từ

Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông

Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối

liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông

Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông

Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do

những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn

Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây

vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".

Phật Giáo du nhập qua con đường biển (Ấn Độ - phía nam Việt Nam):

Qua những tài liệu người ta đã tìm thấy những di tích, di chỉ của quá trình

truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Do đó, người ta đã kết luận rằng những

bước đầu văn minh và tôn giáo từ Ấn Ðộ đã truyền qua Indonesia phải xảy ra

9

trước công nguyên và hệ luận đương nhiên là nền văn minh và tôn giáo từ Ấn

Ðộ xuôi buồm đến Giao Châu cũng cùng thời điểm và cùng đi theo đường

biển lên phương Bắc.

Hơn nữa, từ những thế kỷ trước công nguyên Ấn Ðộ vẫn mua được

vàng ở Xibêri nhưng từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên vì các đợt di dân lớn

ở Trung Á đã làm chướng ngại con đường chuyên chở đó. Sau đó họ chuyển

hướng nhập vàng từ La Mã thế nhưng chẳng bao lâu La Mã không bán vàng

ra nước ngoài nữa nên Ấn Ðộ mới chuyển qua các nước phía Ðông và lên tận

Giao Châu để mua những tiêu, quế, gỗ trầm hương, vàng bạc và các loại ngọc

thạch.

Vì địa thế của Việt Nam nằm trên trục giao thông từ Nam Á lên Bắc Á

và gần như nằm giữa các nước Ðông Nam Á nên các tàu buôn Ấn Ðộ theo gió

Tây Nam lên trước khi đến Trung Quốc họ phải ghé qua Giao Châu như trạm

dừng chân để nghỉ ngơi cũng như học Hán văn và làm quen với phong tục của

Việt Nam và Trung Hoa trước khi đi sâu vào lục địa Trung Quốc.

Như vậy, Phật giáo được du nhập nước ta (thời bấy giờ là Giao Châu)

trực tiếp từ Ấn Độ, và vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên, Phật giáo đã

trở nên thịnh hành ở nước ta với một cơ sở mạnh mẽ thể hiện qua hệ thống

những cứ liệu về số lượng Tăng sĩ, chùa chiền, thành quả của công tác dịch

thuật kinh điển... tại trung tâm Luy Lâu.

Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam

Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ

nước của dân tộc Việt Nam, nó đã hòa quyện vào đời sống nhân dân và góp

phần vào việc xây dựng nền văn hóa truyền thống của dân tộc. Phật giáo Việt

Nam chia làm 4 thời kỳ khác nhau, nhưng lúc nào Phật giáo cũng tìm mọi

cách thích ứng để có những đóng góp thiết thực nhất cho dân tộc.

Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ du nhập và hình thành Phật giáo Việt Nam

(từ thế kỉ thứ II đến thế kỉ thứ V): Với sự nỗ lực truyền giáo của các tăng sĩ Ấn

Độ, tại Luy Lâu, nơi đây đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn nhất trong

10

vùng. Với sự truyền đạo của nhà sư Khâu Đà La thì đã xuất hiện hình tượng

Thạch Quang Phật và Phật Mẫu Man Nương - là một mô hình Phật giáo Việt

Nam đầu tiên. Sang thế kỉ thứ III, có thêm ba nhà sư đến truyền giáo vào

nước ta tại Giao Châu là ngài Khương Tăng Hội, ngài Chi Cương Lương Tiếp

và ngài Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Độ). Sang thế kỷ thứ V, có 2 thiền sư xuất

hiện là: Đạt Ma Đề Bà người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V và

thiền sư Huệ Thắng là người địa phương.

Thời kỳ thứ hai, Phật giáo Việt Nam thời kỳ phát triển ( từ thế kỷ VI đến

thế kỷ IX). Sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn

truyền giáo từ Trung Quốc và có ba tông phái chính được truyền vào nước ta

đó là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông.

Thiền tông có nghĩa là tập trung khả năng, trí tuệ để tìm ra chân lý và

được Phật Thích Ca tại Ấn Ðộ truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt

cho đến Tổ thứ 28 Ấn Ðộ là Bồ Ðề Ðạt Ma. Ðến năm 520 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma,

là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là Bát Nhã

Ða La, Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa để truyền bá Phật pháp. Tại nơi đây,

Thiền Tông đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh.

Tịnh Ðộ Tông: chủ trương phải dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Chính

Ðức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến giác ngộ thì cần phải

giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Sự giúp đỡ đó còn cho

thấy bản thân của người tín đồ là phải thường xuyên đi chùa dâng hương,

cúng dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên

niệm danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà, trong lúc niệm Phật phải hình dung, quán

tưởng về thế giới cực lạc để tâm mình hướng tới.

Mật tông: Là một tông phái chủ trương sử dụng những hình ảnh cụ thể

và những mật ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật

Tông do Phật Ðại Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Ðại Nhật

và Kinh Kim Cương. Mật tông khi truyền vào Việt Nam đã nhanh chóng hòa

vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các nghi lễ truyền thống như chẩn tế,

11

cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có

dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng

chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này.

Ở Việt Nam, không có tông phái Phật giáo nào thuần khiết. Dòng Thiền

Tì-ni-đa-lưu-chi thì pha trộn với Mật tông, nhiều thiền sư phái này nhất là

những vị sống vào thời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh

Không đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài biến hóa thần thông. Cùng với

đó, Phật giáo Việt Nam cũng tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự lực

và tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh Độ tông.

Thời kỳ thứ ba, thời kỳ Phật giáo Việt Nam phát triển cực thịnh (từ thế

kỷ X đến thế kỷ XIII). Chính trong thời kỳ này, Phật giáo đã phát triển cực

thịnh và có nhiều đống góp cho đất nước. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng

định giai cấp cho các tăng sĩ và chính thức tiếp nhận Phật giáo làm nguyên tắc

chi đạo tâm linh cho chính sự. Các thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Ngô

Chân Lưu,... đã được phong làm cố vấn chính sự. Chính vì thế, Phật giáo Việt

Nam thời Kỳ này đã Phát triển tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Đặc biệt có thể

coi thời Trần là thời đại thống nhất của Phật giáo khi ba thiền phái Tỳ Ni Đa

Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường sát nhập thành một và đưa tới sự

phát triển của thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy nhất dưới thời Trần.

Thời kỳ thứ tư, thời kỳ phục hưng của Phât giáo Việt Nam trong thế kỷ

XX. Dưới thời Lý – Trần Phật giáo Việt Nam đã phát triển cực thịnh, nhưng

đến thời Hậu Lê dưới sự phát triển của Nho giáo thì Phật giáo đã phải nhường

bước để Nho giáo chiếm vị trí độc tôn.

Đến đời vua Tự Đức dưới sự đô hộ của Pháp thì Việt Nam đã tiếp nhận

thêm một tôn giáo mới ở phương Tây đó là Ky Tô giáo từ đó đã làm cho Phật

giáo càng suy tàn hơn. Mặc dù tinh thần khai phóng, dung hợp của Phật giáo

trong suốt mấy thế kỷ qua nhưng Phật giáo vẫn là một tôn giáo chính của dân

tộc Việt Nam, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực tranh chấp, góp phần xây

12

dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia.

Vào khoảng những năm 1920 – 1930, cùng với phong trào chấn hưng

Phật giáo trên thế giới, các tăng sĩ và cư sĩ cũng đã phát động phong trào chấn

hưng Phật giáo tại Việt Nam và đã đưa đến sự thành lập Tổng hội Phật giáo

Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 ở chùa Quán Sứ, ở miền Trung vào

năm 1934 ra mắt tại chùa Từ Đàm, tại miền Nam vào năm 1920 hội nghiên

cứu Phật học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn,...

1.1.2 . Giáo lý cơ bản của Phật giáo

Nội dung giáo lý cơ bản của Phật giáo được tập chung hết trong kinh

sách Phật giáo. Sinh thời đức Phật không viết sách mà tất cả các kinh sách

này là do học trò của Người đã kế tục và phát triển, trải qua bốn lần kết tập

kinh điển để xây dựng thành một học thuyết tôn giáo hoàn chỉnh. Kinh sách

của Phật giáo được chia làm ba bộ phận gọi là Tam tạng gồm Kinh, Luật,

Luận.

Kinh là những sách ghi lời giảng của Phật về giáo lý, gồm năm bộ.

Luật là sách ghi những giới luật do Phật chế định làm khuôn phép cho

những người đệ tử, những người xuất gia tu hành.

Luận là các tác phẩm luận bàn các chú giải các vấn đề Phật giáo của

các học giả cao tăng về sau.

Phật giáo phản ánh đối tượng về thế giới và con người, quan niệm này

có hệ thống chặt chẽ và mang tính triết học sâu sắc, trên cơ sở tiếp thu nhiều

yếu tố của đạo Bà la môn và các trào lưu triết học Ấn Độ cổ đại. Quan niệm

về thế giới, theo Phật giáo các sự vật hiện tượng trong vũ trụ không phải do

một đấng siêu nhiên nào tạo ra. Các sự vật, hiện tượng ấy không đứng in mà

luôn luôn chuyển động, biến đổi không ngừng, và các sự vật, hiện tượng ấy

đều do nhân duyên mà thành. Khi bàn về không gian và thời gian, Phật giáo

cho rằng thời gian là vô cùng, không gian là vô tận nhưng Phật giáo cũng thừa

nhận giới hạn của không gian và thời gian, tức là có khởi đầu và có kết thúc.

Trong quan niệm về con người, Phật giáo cũng như các tôn giáo khác là

13

bàn đến vấn đề sinh tử của con người, đặc biệt là bàn đến nỗi khổ và con

đường giải thoát nỗi khổ đó. Con người bao gồm phần sinh lý, phần tâm lý và

là sự kết hộ của "ngũ uẩn". Và con người mất đi chẳng qua chỉ là sự tan rã của

"ngũ uẩn" theo quy luật "sinh - trụ - dị - diệt" mà thôi. Bên cạnh đó thì Phật

giáo lại quan niệm con người sau khi chết đi có thể đầu thai ở một khiếp khác.

Quá trình ấy như vòng luân hồi không dứt, "luân hồi nghiệp báo" đó là quy

luật nhân quả của con người tồn tại trong vũ trụ.

Như vậy, cuộc sống cũng như cái chết của con người luôn đi theo quy

luật luân hồi, không có bất cứ sự can thiệp nào của đấng thần linh. Từ đó,

Phật giáo đi tới phủ nhận linh hồn bất tử. Bản chất của con người ai cũng như

ai. Phật đã từng nói: "Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau,

không có đẳng cấo trong giọi nước mắt cùng mặn. Mỗi người sinh ra không

phải mang sẵn trong bào thai dây chuyền hay dấu tin - ka giữa trán"[5;115].

Phật giáo chủ trương kêu gọi con người phải biết yêu thương, đùm bọc nhau

trên tinh thần "từ bi hỉ xả".

Giáo lý cơ bản của đạo Phật được tập trung trong "tứ diệu đế", nghĩa là

bốn chân lý tuyệt diệu. Chân lý đầu tiên là "khổ đế" gồm 8 nỗi khổ là sinh,

lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn. Nhìn chung

trong Phật giáo ngoài khổ đau thì không tồn tại điều gì khác.

Chân lý thứ hai là "tập đế" là chỉ ra nguyên nhân của mọi sự khổ đau

của con người. Có nhiều nguyên nhân dẫn con người tới khổ đau nhưng quy

lại thì có 3 nguyên nhân cơ bản của con người đó là: "tham, sân, si".

Chân lý thứ ba là "diệt đế". Phật giáo khẳng định nỗi khổ có thể tiêu

diệt được đó là tiêu diệt nguyên nhân gây ra sự khổ đau ấy. Tức là thoát khỏi

vô minh, thoát khòi vòng luân hồi sinh tử của con người.

Chân lý thứ tư là "đạo đế" là con đường lên cõi Niết Bàn, là giải thoát

khỏi vòng luân hồi. Có tám giải pháp chính để trở thành chính quả là: chính

kiến, chính tư duy, chính nghiệp, chính ngữ, chính mệnh, chính tinh tiến,

chính niệm và chính định. Phật giáo nêu cao tinh thần từ bi, bác ái, thiện tâm

14

là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội. Chính vì thế, Phật

giáo đã ra đời để đáp ứng được nguyện vọng mong mỏi của quần chúng nhân

dân và được lan truyền rộng rãi khắp Ấn Độ và còn lan rộng đến nhiều nước

khác trên thế giới.

1.1.3 Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam

Do vị trí địa lý của Việt Nam là nằm ở tận cùng phía đông nam châu Á

nên nước ta thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp, trồng trọt điển hình. Tất

cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp, trông trọt đều

được thể hiện rất rõ trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.

Vì nghề nông nhất là nghề nông nghiệp lúa nước phải phụ thuộc vào

nhiều yếu tố tự nhiên như: thời tiết, nước, khí hậu,… từ đó dân gian đã có

câu: “Trông trời, trông đất, trông mây, Trông mưa, trông gió, trông ngày,

trông đêm,…”. Từ đó, bề mặt nhận thức của người Việt đã hình thành nên lối

tư duy tổng hợp, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính. Người Việt đã tích

lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm

thì mưa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…

Hơn nữa, bản tính của người Việt là cởi mở, bao dung chứ không hẹp

hòi kỳ thị, khép kín nên dù là tín ngưỡng nào, tôn giáo nào, đến từ đâu thì

cộng đồng người Việt cũng sẵn sang tiếp nhận - miễn là nó không vi phạm

đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại với truyền thống văn hóa dân tộc. Khác

với một số nước phương Tây, ở Việt Nam không có một tôn giáo nào giữ vai

trò thống trị suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trò của từng tôn giáo

gắn liền với sự hung thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến trong tiến

trình phát triển của lịch sử dân tộc. Chính vì thế khi Phật giáo du nhập vào

Việt Nam với khế lý, khế cơ của mình, đã hòa nhập, thích nghi kết hợp với

đời sống tâm linh, văn hóa của người dân Việt Nam nên nó có những đặc

điểm riêng biệt làm cho Phật giáo Việt Nam trở nên linh hoạt và phong phú.

Thứ nhất, tính dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian, dung

15

hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác

Khi mới vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng

truyền thống của dân tộc, và do vậy đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với

chúng. Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là

thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là

Tứ pháp: Mây – Mưa - Sấm - Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật

hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp

Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn

điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng

tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế,

những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn,... Các hệ thống thờ phụ này

tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu Thần" hay "tiền Phật,

hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thành hoàng thổ

địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu,

bát nhang cho các linh hồn đã khuất.

Các chùa phía Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng

mấy chục pho tượng Phật, Bồ Tát, La hán của các tông phái khác nhau. Ở

phía Nam, Đại thừa và Tiểu thừa kết hợp mật thiết với nhau: nhiều chùa mang

hình thức tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo

lý Đại thừa, bên cạnh Phật Thích Ca lớn vẫn có nhiều tượng nhỏ, bên cạnh áo

vàng vẫn có đồ nâu lam.

Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công

nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo.

Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả

ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có

cùng một mục đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã

hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con

người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni

ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi

16

người Việt.

Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo

khác để hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên

nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".

Thứ hai, Phật giáo có tính hài hòa âm dương

Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác

của lối tư duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm

cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính.

Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam biến thành

Phật Ông – Phật Bà. Bồ tát Quán Thế Âm đã được biến thành Phật Bà Quan

Âm với nghìn mắt nghìn tay – vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông

nước Đông Nam Á (nên còn gọi là Quan Âm Nam Hải). Ở một số vùng, ngay

cả Phật tổ Thích Ca cũng được coi là phụ nữ. Ngoài ra người Việt còn có

những vị Phật riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật

Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu

Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).

Dưới con mắt của một số tín đồ Phật giáo thì Phật Bà Quan Âm có khi

còn gần gũi, thân thiết và quan trọng hơn cả Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhiều nơi

như đền, miếu, phủ… trở thành là nơi hương hoa, oản quả nhằm thờ phụng

những bậc thánh thần thuộc giới nữ.

Thứ ba, Phật giáo Việt Nam có tính linh hoạt

Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín

ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa:

“Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời

Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân” (Ca dao)

làm nên mây mưa sấm chớp để mùa màng tốt tươi (hệ thống chùa Tứ

pháp); ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa cầu tự: Tay bưng quả

nếp vô chùa, Thắp nhang lạy Phật xin bùa em đeo); ban lộc cho người bình

17

dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ phật và hái lộc lúc giao

thừa); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu

kinh và làm lễ tiễn đưa người chết).

Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa với những tên gọi rất

dân gian: ông Nhịn ăn mà mặc (Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di-

lặc to béo), ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc quăn)… Nhiều pho tượng được tạc theo

lối ngồi không phải trên tòa sen mà là chân co chân duỗi rất thoải mái, giản

dị. Trên đầu Phật Bà chùa Hương còn lấp ló lọn tóc đuôi gà truyền thống của

phụ nữ Việt Nam.

1.1.4 Vai trò của phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam

Phật giáo là một hệ thống triết học uyên thâm, tư tưởng rộng lớn, lý

luận phong phú... với bao thế hệ tu sĩ hoằng pháp, hành đạo. Có thể thấy

rõ vai trò của của Phật giáo thể hiện trong xã hội qua những biểu hiện cơ

bản sau:

Thứ nhất, tạo cho người Việt một đời sống tâm linh sâu sắc

Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian cổ

truyền. Ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật,

chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với

nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá làng. Có thể nói Phật giáo

đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào

đó chỉ làm cho tư tưởng văn hoá Việt Nam khô cứng thì Phật giáo lại có phần

làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa, hội làng là tiêu biểu

cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm,

hoà cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó.

Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Đạo phật có

thể mất đi như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật

giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn. Trong mấy

chục năm gần đây Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi

lễ của mình. Họ hay lên chùa trong các ngày lễ, họ trân trọng thành kính trong

18

khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện.

Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo

Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu

siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui

định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách

riêng biệt.

Thứ hai, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam

Phật giáo du nhập vào Việt Nam trở thành một tôn giáo gắn bó mật

thiết, thể hiện được tinh thần nhập thế. Phật giáo Việt Nam có truyền thống

yêu nước, gắn bó với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh

chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Trong Phật giáo Việt Nam đã ghi

nhận hai trường hợp đặc biệt: Lý Công Uẩn – một vị sư xả pháp, xuất tu để ra

đời làm bậc quân vương khai mở triều đại nhà Lý, và Trần Nhân Tông – một

vị hoàng đế từ bỏ ngai vàng để vào núi ẩn tu trở thành một vị Tổ sư của Phật

giáo đời Trần. Trong thời kỳ hội nhập, Phật giáo luôn chia sẻ những khó

khăn, hỗ trợ những người gặp hoàn cảnh khốn khó, gặp thiên tai, địch họa để

chung tay cùng đất nước góp phần ổn định xã hội, xóa đói giảm nghèo và phát

triển kinh tế xã hội. Đồng hành cùng dân tộc Việt, Phật giáo có cơ hội phát

huy tư tưởng đoàn kết của mình, tạo ra một sợi dây liên kết để cả dân tộc

đồng lòng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.

Thứ ba, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho kiến trúc và lễ

hội ở Việt Nam

Về kiến trúc : Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam đã đem theo các kiểu

kiến trúc chùa tháp, lầu chuông, gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ,

Miến Điện và Trung Hoa. Tuy nhiên, tinh thần khai phóng của Phật giáo phối

hợp cùng với lối tư duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một mô hình kiến

trúc rất riêng cho Phật giáo ở Việt Nam như: Chùa tháp ở Việt Nam mái chùa

bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay ở một nơi có cảnh

19

trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng.

Về điêu khắc : Ngày nay, những cốt tượng, phù điêu của Phật

giáo được trưng bày trong viện bảo tàng là một niềm tự hào của nền văn hóa

dân tộc Việt và cũng là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật giáo có

mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn

mắt nghìn tay. Chùa Hạ (Vĩnh Phú cao 3,2m), 16 pho tượng tổ gỗ của

chùa Tây Phương (Hà Tây), tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây), Bộ

tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam, Đà Nẵng),

Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho).

Thứ tư, góp phần điều chỉnh hành vi xã hội theo chuẩn mực đạo đức

truyền thống

Phật giáo Việt Nam đã xây dựng và giáo dục được nền đạo đức tốt

đẹp, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần giảm bớt tiêu cực và tệ

nạn xã hội, hướng dẫn tín đồ tu tâm dưỡng tính, làm những việc thiện, tránh

những việc ác. Biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, thể hiện đức tính tốt

đẹp của những người con Phật. Thông qua đó, còn giúp con người tránh vô

minh, chế ngự dục vọng, lòng tham lam để mang lại sự sáng suốt, an

lạc, hạnh phúc và sẵn sàng làm mọi việc vì nước, vì dân, vì cộng đồng, góp

phần ổn định xã hội. Đạo Phật là tôn giáo có tình thương bao la bát ngát nhất

trong các tôn giáo.

Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam đã tích cực tham gia các phong trào

như đền ơn đáp nghĩa, tri ân các thương binh liệt sĩ, gắn liền với đạo lý:

“Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam, tham gia các chiến dịch nhân

đạo ủng hộ đồng bào bị thiên tai lũ lụt, các công tác từ thiện, nuôi dưỡng, giúp

đỡ người nghèo, người già không nơi nương tựa, người khuyết tật, người bị

ảnh hưởng chất độc màu da cam, nuôi dạy trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi; vận

động tài chính, lương thực, đồ dùng để giúp đỡ người nghèo, tặng quà cho Bà

20

mẹ Việt Nam anh hùng, người có công với cách mạng,...

1.2 Khái quát về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc bộ

1.2.1 Cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc Bộ

Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng bản địa của người Việt, có từ lâu

đời. Về nguồn gốc của tín ngưỡng này trước tiên nó được bắt nguồn từ tín

ngưỡng thờ Mẹ sau đó cùng với truyền thống đề cao vai trò, vị trí của người

phụ nữ của dân gian và ảnh hưởng từ một số tôn giáo khác mà hình thành,

phát triển và hoàn thiện như hiện nay.

Mẫu là một danh từ gốc Hán - Việt được hiểu là mẹ, mụ, mạ,... dùng để

chỉ người phụ nữ đã sinh ra ai đó, là cách xưng hô của người con với người đã

sinh thành ra mình. Bên cạnh đó “Mẫu” cũng có thể được hiểu theo nghĩa

rộng hơn đó là sự tôn vinh một nhân vật nữ nào đó có thể có thật hoặc không

như Mẫu Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh,... dùng để chỉ những người phụ nữ có vị trí

cao (mẫu nghi thiên hạ). Tuy nhiên chúng ta cũng có thể hiểu “Mẫu” là một

từ dùng để chỉ sự sinh sôi, nảy nở của vạn vật để rồi xuất hiện những danh

xưng: mẹ đất, mẹ nước,... Hay còn có sự đồng nhất giữa Mẹ - Mẫu với tự

nhiên (bà Mây, bà Mưa, bà Sấm, bà Chớp – Vân, Vũ, Lôi, Điện), với bản thể

vũ trụ (bà Kim, bà Mộc, bà Thủy, bà Hỏa, bà Thổ). Nhưng suy cho cùng

trong tâm niệm của người Việt chúng ta Mẫu ở đây không phải người mang

tính sáng thế mà mang tính sinh sôi, tính đùm bọc, che chở.

Tín ngưỡng thờ Mẹ: Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác về tôn giáo thì

tôn giáo chỉ ra đời khi trình độ nhận thức của con người đạt đến một trình độ

nhất định – trình độ tư duy lý tính, tư duy trừu tượng. Ý thức tôn giáo đầu tiên

ra đời chỉ là sự mơ hồ về một thế giới vô hình đang tồn tại và chi phối họ, đó

là thế giới thần linh. Niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo đầu tiên ra đời do sự tác

động của nhiều yếu tố mà chủ yếu là sự bất lực của con người trong cuộc đấu

tranh với tự nhiên. Ph.Angghen viết: “Trong thời đại nguyên thủy, tôn giáo

sinh ra từ những biểu tượng hết sức ngu nguội, tối tăm và nguyên thủy của

21

con người, về bản thân của chính họ và về tự nhiên bên ngoài bao quanh họ”.

“Trên thực tế lịch sử văn hóa Việt cho thấy Việt Nam là một dân tộc

nông nghiệp với những hằng số nông dân – nông thông – nông nghiệp;

phương châm “dĩ nông vi bản” có thể coi là phương châm chiến lược trong

ứng xử truyền thống của người nông dân Việt. Sự hiện diện của thương

nghiệp nhưng bị đặt ở hàng thứ tư trong thang bậc xã hội, người làm thương

nghiệp cũng hầu hết là phụ nữ, đàn ông chỉ tập trung vào đi học, đi thi và đi

phu, đi lính, nếu có tham gia thì cũng chỉ hai lĩnh vực buôn trâu và buôn

luồng; hình ảnh người phụ nữ thắt lưng buộc bỏ que, vắn váy quai cổng

“quanh năm buôn bán ở mom song” (Tú Xương) đã trở nên rất đỗi quen

thuộc”[40; tr.31]. Như vậy, có thể nói dù là làm nông nghiệp hay thương

nghiệp thì người phụ nữ trong xã hội cổ truyền đều có vai trò cực kỳ quan

trọng chính vì thế người dân Việt Nam thường chọn linh tượng là nữ thần

chứ không phải là nam thần. Điều đó chúng ta có thể thấy rất rõ trong lịch sử

dân tộc.

Với người làm nông điều mà họ mong mỏi nhất đó chính là sự sinh

sôi, nảy nở của cây trồng, vật nuôi. Khi mà điều kiện, khả năng canh tác còn

chưa cao, năng suất còn thấp, người Việt đã hướng tới việc tôn thờ tự nhiên,

mong tự nhiên che chở cho họ, cho họ được cuộc sống tốt đẹp hơn. Và với

mong ước ấy, người Việt đã “nữ tính hóa” tự nhiên. Sở dĩ họ lại “nữ tính hóa”

tự nhiên bởi họ cho rằng đầu tiên là đặc trưng sinh lý của người phụ nữ là có

khả năng sinh sản mà người làm nông luôn mong mỏi sự sinh sôi, nảy nở của

cây trồng, vật nuôi. Tiếp theo bản tính tự nhiên của người mẹ là luôn luôn che

chở, bảo bọc cho con cái, hy sinh vì con cái. Chính vì thế mà người Việt xưa

đã tôn thờ, “nữ tính hóa” tự nhiên. Người mẹ tự nhiên sẽ giúp cho mọi thứ

sinh sôi, luôn che chở cho con người, ban phát cho con người một cuộc sống

tốt đẹp hơn. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, người mẹ đầu tiên mang hình tượng

Mẫu chính là mẹ Âu Cơ – thủy tổ của người Việt. Mẹ Âu Cơ với truyền

thuyết sinh bọc trăm trứng, nuôi dưỡng năm mươi người con khôn lớn đã sớm

22

trở thành biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở để cư dân nông nghiệp tôn thờ.

Cụ thể như đến nay vẫn còn rất nhiều di tích, đền thờ các vị Nữ thần,

các vị danh nhân nữ, hay như theo quan niệm của người xưa trong số 27 vị

tiên có nguồn gốc thuần Việt thì có tới 14 vị là tiên nữ, đặc biệt trong cuốn

“từ điển di tích văn hóa Việt Nam” mới xuất bản của viện Hán Nôm trong số

1000 di tích văn hóa, thì đã có tới 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh

nhân là nữ…

Bên cạnh đó, qua sự quan sát của mình, người Việt đã sớm cho rằng

mọi hiện tượng tự nhiên hay rộng lớn hơn là sự phân chia về thế giới này có

thể quy vào miền: trời, đất, núi, sông. Và đứng đầu bốn miền này là bốn

người mẹ:

“Trời phải có Mẹ Trời

Đất phải có Mẹ Đất

Núi phải có Mẹ Núi

Sông phải có Mẹ Sông.”

Người Việt đã sớm hình thành ra bốn cõi giữa vũ trụ này và mỗi cõi

như thế đều có một mẹ để từ đó làm nên các mẹ lên làm các Mẫu: Mẫu Thiên

(mẹ Trời), Mẫu Đất (mẹ Đất), Mẫu Thượng Ngàn (mẹ Rừng núi), mẫu Thoải

(mẹ Nước).

Tục thờ Mẫu thần và tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ có quan hệ

mật thiết với tục thờ Nữ thần, tuy nhiên chúng không phải là đồng nhất. Nói

cách khác Mẫu thần đều là Nữ thần nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là

Mẫu thần, mà chỉ một số các Nữ Thần được tôn vinh là Mẫu Thần. Cũng

tương tự như vậy, ta có thể nói về tục thờ Mẫu thần và tín ngưỡng thờ Mẫu

Tam Phủ, Tứ Phủ. Rõ ràng, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ gắn liền

với tục thờ Mẫu thần dân gian, nhưng như thế không có nghĩa là mọi Mẫu

thần đều thuộc điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ tức Tam

tòa Thánh Mẫu là một bước phát triển “nâng cao”, “lên khuôn” từ một số

hành vi tôn thờ rời rạc đến một thứ tín ngưỡng, một “đạo” có tính hệ thống

23

hơn. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tức là việc tôn thờ Thánh Mẫu,

tôn thờ những người cai quản những miền khác nhau trong vũ trụ, có thể chở

che và ban phát cho con người sức khỏe và tài lộc.

Tuy nhiên như chúng ta biết trong điện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam

phủ, Tứ phủ hiện nay các vị thần linh không chỉ thuần túy là Nữ thần mà còn

có cả nam thần, và ngay cả trong nghi lễ lên đồng cũng được chia thành nghi

lễ của hai dòng thánh cha tức thờ Đức Thánh Trần và dòng đồng cốt là thờ

Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh . Trong quá trình phát triển của mình, để từ tôn

thờ Nữ thần phát triển thành tôn thờ Mẫu thần và phát triển hoàn thiện thành

tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì những ảnh hưởng của Đạo giáo

Trung Quốc có vai trò quan trọng. Từ việc tôn thờ các vị thần là nữ sau này bị

ảnh hưởng khi Đạo giáo Trung Hoa du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc tín

ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu

ảnh hưởng của nó trên nhiều phương diện. “Đó là các quan niệm về tự nhiên,

đồng nhất con người với tự nhiên về quan niệm Tam phủ, Tứ phủ, một số vị

Thánh của Đạo giáo bắt đầu thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc

Hoàng, Thái Thượng Lão quân, Nam Tào, Bắc Đẩu…Đó là các truyện thần

tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ tà ma….”[41; tr.62].

Đặc biệt trong hệ thống thờ của tín ngưỡng thờ Mẫu còn thờ vua cha Đức

Thánh Trần như một đối trọng tạo nên sự hòa hợp âm dương với Thánh Mẫu

Liễu Hạnh bởi quan niệm vũ trụ luận phương Đông cổ đại nói chung và Việt

Nam nói riêng vẫn là âm dương tương khắc, tương sinh. Chính vì vậy, “các

thần linh tứ phủ còn được phân chia thành một bên là các nữ thần và bên kia

là nam thần, tuy thứ bậc chính của mỗi vị Thánh trong điện thần phụ thuộc

vào việc họ thuộc hàng nào từ trên xuống dưới, như Thánh Mẫu – Vua Cha,

các Quan, các Chầu, Ông Hoàng, các Cô, Cậu…”[41; tr.94].

1.2.2 . Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu

Thứ nhất, tín ngưỡng thờ Mẫu Đồng Bằng Bắc Bộ xuất phát từ hiện

24

tượng thờ Nữ Thần có nguồn gốc lâu đời của người Việt.

Tín ngưỡng thờ Mẫu có lịch sử lâu đời ở Việt Nam, không hướng đến

cuộc sống sau khi chết mà hướng đến cuộc sống thực tại của con người với

ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh

của người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức thu hút mọi

tầng lớp trong xã hội.

Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng Bằng Bắc Bộ mang tính tiểu nông dân dã

và quần chúng, bắt nguồn từ dân cứ trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa

cho nên từ quan niệm đến lỗi sống của người Việt trong tiềm thức người ta

đều quan niệm tôn thời Thần Đất, Thần Lúa,… đều đồng nhất với âm và nhân

hóa thành nữ tính - Mẹ. Tín ngưỡng thờ Mẫu thu hút mọi người bằng nhiều

hình thái văn hóa dân gian như nhảy múa, bài trí điện thờ rực rỡ không theo

một quy luật nào. Những người đi lễ đến nơi thờ Mẫu họ đến để cầu xin làm

ăn buôn bán có lãi, con cháu được bình an, tai qua nạn khỏi. Họ cho rằng Mẫu

có thể cứu hộ độ trì cho muôn vàn chúng sinh không phân biệt sang hèn, giàu

nghèo… Đây là kết quả tất yếu của nền văn hóa nông nghiệp ở trình độ thấp.

Tuy nhiên sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn là loại hình sinh hoạt động

văn hóa mang đậm tính dân dã bình dân, không phải học thuộc một điều răn

hay điều cấm kỵ nào, không lễ nghi cầu kỳ phức tạp, không có những giáo

lý,… nên nó dễ đi vào quần chúng dễ chấp nhận.

Giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu là chữ Tâm, hướng con người

sống thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ

tiên và biết ơn những người có công với dân, với nước.

Thứ hai, nơi thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ có tính hỗn dung với các

tính ngưỡng tôn giáo khác: Đây là tín ngưỡng thờ Đa Thần. Ở tất cả các làng

xã ở Đồng bằng Bắc bộ đều có dền miếu đình chùa, giao thoa với Phật – Nho

- Lão thì tín ngưỡng thờ Mẫu có mối quan hệ chặt chẽ, chúng đan xen thâm

nhập vào nhau và cùng tồn tại. Trong đó các thánh Mẫu luôn được khẳng định

25

ở một vị trí quan trọng nhất.

Thứ ba, tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính phổ biến. Đây là loại hình Tín

ngưỡng dân gian nên có vai trò vị trí khá quan trọng, đáp ứng nhu cầu trong

đời sống thường nhật của một bộ phận quần chúng nhân dân. Thờ Mẫu có mặt

ở khắp mọi nơi trên khắp nước ta, từ miền xuôi xuống miền ngược. Trong

cuốn sách “Các Nữ Thần Việt Nam” bước đầu đã tập hợp được 75 vị nữ thần

tiêu biểu ở nước ta, trong đó có nhiều vị được phong làm mẫu, thánh mẫu.

Hiện nay các Mẫu được thờ trong nhiều hình thức tôn giáo tín ngưỡng khác

nhau, đó là được thờ ở trong chùa, phủ, điện, miếu, đền...

Thứ tư, niềm tin trong tín ngưỡng phải được vật chất hóa tức nó được

gửi vào vật tin và nó là niềm tin cảm xúc nên chấp nhận những cái phi lý và

đây cũng là đặc điểm của văn hóa dân gian.

Thứ năm, trong tín ngưỡng thờ mẫu, các mẫu luôn có sự kết hợp đan

xen giữa tư duy mang tính vũ trụ luận, tư duy huyền thoại và tư duy lịch sử.

Ngoài ra, các mẫu còn được nhân dân tạo cho một lý lịch , một quyền năng

đối với con người. Thông thường các Mẫu được người dân gắn cho những đặc

tính siêu nhiên huyền bí như: Thánh Mẫu Liễu Hạnh bà có thể che chở, giúp

đỡ, trừng phạt,,,, đối với người khi tin và đi theo tín ngưỡng Mẫu này.

1.2.3 . Nghi lễ, tổ chức, nơi thờ cúng của tín ngưỡng thờ Mẫu

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu hệ thống nghi lễ và lễ hội rất phong phú và

đa dạng mang nhiều sắc thái độc đáo, có thể phân biệt với tôn giáo khác. Tuy

nhiên tập trung và điển hình nhất vẫn là nghi lễ Đội bát nhang và lễ Hầu đồng.

Lễ Hầu đồng được coi là một nghi lễ chính, tiêu biểu và đặc trưng nhất

của tín ngưỡng thờ Mẫu, đây là nghi lễ nhập hồn của các vị thánh vào thân

xác các ông Đồng, bà Đồng. Thông qua thân xác của các ông Đồng, bà Đồng

mà Thánh sẽ phán truyền, chữa bệnh, ban phúc cho các tín đồ. Lên đồng là

hiện tượng nhập hồn nhiều lần của các vị thần linh, trong đó thời gian mỗi lần

một vị thần linh nhập hồn rồi làm việc quan, xuất hồn, được gọi là một giá

đồng. Trong một buổi lễ, có thể thực hiện được nhiều giá đồng khác nhau,

26

ứng với mỗi giá đồng là một loại đồ lễ, trang phục,.. đặc biệt trong nghi lễ hẫu

đồng người ta thường sử dụng kết hợp nhiều loại hình âm nhạc với múa hát,

diễn xướng. Nội dung của các bài hát, diễn xướng và âm nhạc trong nghi lễ

thường nói về thần tích, sự mầu nhiệm, tính cách và ca ngợi công đức của các

vị thánh đang giáng đồng.

Trên nền nhạc diễn xướng, người lên đồng thường múa quạt, múa chèo

đò,... để thể hiện tính cách, đặc điểm của các vị thánh. Chẳng hạnm với các vị

thánh hàng Quan thường có múa kiếm, long đao, xích,... với các vị tánh hàng

Chầu bà thường múa mồi, múa quạt theo điệu Xá thượng, Xá giây lệch,..với

các thánh hàng ông Hoàng thường múa cung, múa hèo theo nhịp lưu thủy, bát

bộ, với các thánh hàng Cô thường múa mồi, múa quạt, múa chèo đò, múa thêu

hoa, dệt gấm, hái quả, hái hoa,... với các thánh hàng Cậu thường múa hèo,

múa lân theo điệu lưu thủy có đệm theo nhịp chống sư tử.

Khi diễn xướng bất cứ ai nếu có căn đồng (theo quan niệm) đều có thể

nhập đồng và biểu diễn các giá đồng, gồm 36 giá. Mỗi giá đồng thể hiện một

nhân vật cụ thể, với tên tuổi và tính cách khác nhau. Ví dụ: giá bà chúa Bắc

Lệ phải khác với Mười Đồng Mô, giá các Đức Ông thì phải oai phong, lẫm

liệt, múa kiếm, bắn cung; giá các Cô bé thì phải điệu đàng, duyên dáng; giá

các cậu thì nhí nhảnh, nghịch ngợm... Trong khi hầu đồng, người được nhập

đồng múa các điệu chầu văn, lời ca mô tả nhân vật của giá đồng, tả quang

cảnh nhân vật xuất hiện, kể sự tích và công đức của các Thánh. Nghi lễ hát

lên đồng được chia ra các phần: Mời Thánh nhập, kể sự tích, công đức; xin

Thánh phù hộ và đưa tiễn. Do đó, cuối mỗi giá đồng cung văn đều tấu câu

“Xe loan Thánh giá hồi cung”. Ban nhạc chầu văn thường có các nhạc cụ: đàn

nguyệt, trống ban (trống con), nhị sáo, phách, thanh la... Đặc biệt giai điệu và

tiếng hát chầu văn lảnh lót, mê đắm lòng người. Toàn bộ phần diễn xướng

khiến người xem như lạc vào thế giới siêu nhiên của các vị Thánh.

Rõ ràng, lên đồng, hát văn là phần không thể thiếu của một tín ngưỡng

tâm linh, thuộc về dân tộc Việt Nam, mà chan hòa trong đó là những giá trị

27

văn hóa, đạo đức, tinh thần đậm đà bản sắc dân tộc.

Lễ tôn nhang: là lễ bốc và đặt bát nhang thờ những vị thần thánh là

quân gia thị thần của Mẫu cho những người được coi là: “Cao căn nặng số”.

Lễ được thực hiện tại điện Mẫu và người được bốc bát nhang được gọi là

“Con nhang”. Đối với các tín đồ của tín ngưỡng Mẫu thì những vị thần thánh

trên là những quân gia thị thần của Thánh Mẫu. Vì vậy, cần phải đến điện

Mẫu để cầu khấn mong được “giải hạn”. Trong trường hợp tín đồ đã cầu khấn

mà vẫn chưa tai qua, nạn khỏi, chưa thoát khỏi “hạn” thì tín đồ người có “căn

số nặng”, cần phải thực hiện nghi lễ “đội bát nhang” thì mới có thể hi vọng

giải hạn được.

Không gian thờ Mẫu rất đa dạng và phong phú nhưng luôn tuân theo

chuẩn tắc chung. Thờ Mẫu là sự phát triển của tục thờ Nữ Thần, Mẫu Thần,

đến Tam Phủ-Tứ Phủ. Thờ Tam Phủ, Tứ Phủ chính là mức phát triển cao về

nhiều mặt từ thờ Mẫu Thần. Ở tín ngường thờ Tam Phủ - Tứ Phủ đã có sự

chắt lọc từ tín ngưỡng đa nữ thần về một số vị thần nữ cơ bản gọi là Mẹ, Mẫu.

Bao gồm: Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu

Địa. Bốn vị Mẫu trên đại diện cho bốn không gian địa lý khác nhau. Trong

đó, Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ cai quản vùng trời, Mẫu Thoải cai quản vùng

sông nước, Mẫu Địa cai quản vùng đất. Trong đông đảo các Nữ thần không

phải ai cũng được tôn xưng là Mẫu và càng ít Thánh Mẫu.

Thờ cúng tín ngưỡng thờ Mẫu được tiến hành tại các phủ, điện, hay đền

và chùa. Không gian thờ Mẫu rất đa dạng, tùy thuộc vào đặc điểm của từng

vùng văn hóa và nhu cầu tâm linh mỗi vùng mà khác nhau. Không gian thờ

Mẫu đôi khi là am, miếu nhỏ cạnh một ngôi đền hay một ngôi chùa theo kiểu

tiền Phật hậu Mẫu, hoặc tiền Mẫu hậu Phật, nhưng cũng có khi được xây

dựng thành những khu thờ tự riêng biệt như Phủ dầy, Phủ tây Hồ, Đền

Sòng,… Tuy không phổ biến thành thiết chế văn hóa như ở khắp các ngôi

đình thờ thần làng, nhưng thờ Mẫu lại được phổ biến theo cách của nó. Điều

28

này khẳng định, đặc trưng cho không gian thờ Mẫu chính là “tính nữ”.

Các điện thờ Mẫu thường được xây dựng bên cách nguồn nước như

sông, suối, hồ hoặc các cửa biển. Ví dụ: phủ Tây Hồ đặt cạnh Hồ Tây, đền

Bắc Lệ (Lạng Sơn) đặt cạnh suối,.. nếu như địa lý các điện Mẫu không có

nguồn nước thì người ta sẽ xây dựng những tụ thủy nhân tạo như hồ, ao,

giếng,.. trước cửa điện. Bên cạnh các điểm tụ thủy thì còn có các hòn giả sơn

cũng được dựng lên. Vì trong tâm thức dân gian nước mang yếu tố âm, núi

mang yếu tố dương.

Điện Mẫu có kết cấu ba tầng: tầng trên không, tầng ngang trên ban thờ

và tầng dưới gầm ban thờ (ban hạ). Tầng trên có bày trí một đôi Mãng xà ,

một con màu trắng, một con màu xanh, ngang phía trước bên trên ban thờ. ở

tầng giữa là ban thờ chính điện. Hệ thống các thần được thờ trong Điện Mẫu

được xếp theo thứ tự:

Ngọc Hoàng

|

Phật Bà Quan Âm

|

Thánh Mẫu (Tam tòa Thánh Mẫu)

(Thiên, Địa, Thoải, Nhạc)

|

Quan (Ngũ vị quan lớn)

(từ 5 – 10 vị quan)

|

Chầu (Tứ vị Chầu bà)

(từ 4 – 6 – 12 chầu Bà)

|

Ông Hoàng

(từ 5 – 10 ông Hoàng)

|

29

(12 Cô)

|

Cậu (Cậu quận)

(10 Cậu)

|

Ngũ Hổ

|

Ông Lốt (rắn) [39; tr.56].

1.2.4 Vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu

Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất hiện từ rất sớm, nó đã tồn tại cùng chiều

dài lịch sử của dân tộc. Vì vậy, nó có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời

sống xã hội:

Một là, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống văn hóa,

tâm linh của người Việt

Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng tôn giáo trong đó

tín ngưỡng thờ Mẫu thu hút rất nhiều người với các sinh hoạt tín ngưỡng diễn

ra công khai tới chính sách tự do tín ngưỡng và tôn giáo của nhà nước.

Sinh hoạt Tín ngưỡng thờ Mẫu được một số người coi là thứ trở lực xã

hội gây hao tổn thì giờ tiền bạc mà đi đến bài trừ cấm đoán tín ngưỡng dân

gian này, từ đó có thể dân đến vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.

Tín ngưỡng thờ Mẫu còn có vai trò dung nạp các tin ngưỡng, tôn giáo

khác ở Việt Nam góp phần trong việc hòa đồng các tôn giáo tín ngưỡng để

phù hợp lộ trình cho con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn có vai trò liên kết

tinh thần giữa những người có cùng một niềm tin vào các Thần trong Tín

ngưỡng thờ Mẫu.

Tín ngưỡng thờ Mẫu còn là nơi gửi gắm niềm tin hy vọng, là chỗ dựa

30

tâm linh cho một bộ phận dân cư, đã giúp liên kết mọi người, thậm chí còn

vượt qua khỏi tư tưởng định kiến tôn giáo hoặc sự cục bộ địa phương để cùng

hướng về một đối tượng linh thiêng, với một lễ hội thống nhất.

Hai là, vai trò của Tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần và

đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Khi xã hội phát triển toàn diện thì

đời sống của nhân dân cũng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt từ đó tín

ngưỡng cũng trở nên quan trọng đối với một bộ phận dân cư có nhu cầu về

đời sống tâm linh của họ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu cái đẹp của lễ hội là đề

cao những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng, các hình tượng nhân vật trong

tín ngưỡng thờ Mẫu thực chất là tinh hoa và thể hiện khát vọng của cộng

đồng tích tụ lại trong đó.

Ba là, tín ngưỡng thờ Mẫu góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam

Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt hình thành và

phát triển trên nền tảng của tín ngưỡng thờ nữ thần. Đây là một hình thức thờ

cúng người mẹ hóa thân ở các miền (trời, sông nước, rừng núi), sự hỗn dung

tôn giáo bản địa của người Việt và một số yếu tố của tôn giáo du nhập như

Đạo giáo, Phật giáo.

Từ thế kỷ 16, việc thực hành tín ngưỡng này trở thành một sinh hoạt

văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức người dân

Việt Nam.Trong quá trình phát triển, Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam

phủ của người Việt có những biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã

hội. Tuy nhiên, dù ở giai đoạn nào, tín ngưỡng này vẫn luôn hướng đến cuộc

sống thực tại của con người với ước vọng về sức khỏe, tài lộc, may mắn -

những ước muốn vĩnh hằng của con người.

“Chính điều này góp phần quan trọng tạo nên màu sắc văn hóa bản địa,

sự khác biệt của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ so với những tín ngưỡng khác”

giáo sư Ngô Đức Thịnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Văn

hóa Tín ngưỡng Việt Nam cho hay.

Phân tích sâu hơn về vấn đề này, ông Ngô Đức Thịnh cho biết, tín

31

ngưỡng thờ Mẫu (tên gọi khác của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ theo hướng

tiếp cận từ góc độ văn hóa) coi tự nhiên là một người Mẹ, tôn thờ với tư cách

là vị thần tối cao, có quyền năng sáng tạo, cai quản, phù trợ cho con người,

mang lại cho con người sức khỏe, tài lộc trong đời sống trần gian.

Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt phân bố ở

nhiều địa phương trong cả nước như: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ, Bắc Trung

Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó, Nam Định được coi là trung tâm

với gần 400 điểm thờ cúng Thánh Mẫu.

“Thông qua việc kết hợp một cách nghệ thuật các yếu tố văn hóa dân

gian (trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn xướng dân gian trong lên

đồng và lễ hội), Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ như một “bảo tàng

sống” lưu giữ lịch sử, và bản sắc văn hóa của người Việt. Qua đó, người Việt

thể hiện quan niệm của mình về lịch sử, văn hóa, vai trò của giới và bản sắc

tộc người. Sức mạnh và ý nghĩa của Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ

chính là đáp ứng nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con

người: cầu tài, cầu lộc, cầu sức khỏe,” đại diện Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch) cho biết.

Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh cho biết, trong điện thần Tam phủ,

Thánh Mẫu Liễu Hạnh luôn đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, ngồi chính

giữa và mặc trang phục màu đỏ, bên trái là Mẫu Thoải (trang phục màu trắng)

và bên phải là Mẫu Thượng Ngàn (trang phục màu xanh).

Về nguồn gốc, bà là tiên nữ giáng trần, sau đó quy y Phật giáo và được

tôn vinh là “Mẫu nghi thiên hạ,” một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt.

Mẫu Liễu Hạnh và Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc

Tuấn) đã trở thành biểu tượng của sự kết hợp giữa thần linh và đời thường,

giữa nhu cầu tâm linh, khát vọng hướng về các giá trị chân - thiện - mỹ với

khát với việc chữa bệnh trừ tà, giúp đỡ con người trong những hoàn cảnh

khó khăn…

Các Thánh Mẫu có nguồn gốc không chỉ là người Kinh mà còn thuộc

32

các dân tộc thiểu số như người Tày, Nùng, Dao… Bên cạnh đó, trong khoảng

50 vị thần mà tín ngưỡng thờ Mẫu tôn thờ, có nhiều vị vốn là những nhân vật

lịch sử, được thần linh hóa như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão…

Điều đó cho thấy di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của

người Việt thể hiện rất rõ truyền thống uống nước nhớ nguồn, chủ nghĩa yêu

nước được tâm linh hóa, ý thức về sự giao lưu văn hóa và mối quan hệ bình

đẳng, gắn bó giữa các dân tộc.

Việc UNESCO ghi danh di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam

phủ của người Việt vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của

nhân loại khẳng định những nỗ lực của các cấp, các ngành và cộng đồng trong

việc bảo tồn kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc.

Tiểu kết chương I: Phật giáo ra đời cách đây trên 2000 năm , nhưng

đến nay vẫn là một tôn giáo lớn thu hút được đông đảo tín đồ tin theo, Phật

giáo không chỉ phát triển ở châu Á mà còn phát triển mạnh mẽ cả ở Phương

Tây. Với giáo lý từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha của Phật giáo đã luôn đáp ứng

được nhu cầu bù đắp tinh thần của nhân loại. Phật giáo Viẹt Nam là sự phát

triển giữa giáo lý sâu sắc của Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa cùng

với phong tục tập quán, tín ngưỡng và tôn giáo của dân tộc từ hàng ngàn năm

nay. Từ khi du nhập vào Việt Nam đầu tiên ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ Phật

giáo đã thích ứng với phong tục tập quán và tín ngưỡng của người Việt nơi

đây. Đặc biệt với tín ngưỡng thờ Mẫu - một loại hình tín ngưỡng độc đáo của

cư dân Bắc bộ được thực hiện trên nền tảng thờ Nữ Thần và Mẫu Thần để

hình thành nên Tam Phủ - Tứ Phủ. Phật giáo dung hợp với tín ngưỡng thờ

Mẫu phải trải qua quá trình gắn liền với các giai đoạn phát triển từ sơ khai

đến khi hoàn thiện mang tính hệ thống trong lịch sử tín ngưỡng thờ Mẫu và có

những tiếp biến hòa quyện một cách hài hòa. Điều này được thể hiện ở từng

33

thời kỳ du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam ở Đồng bằng Bắc Bộ .

CHƯƠNG II

MỘT SỐ BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẬT

GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT Ở

ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

2.1 Cơ sở cho mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu

của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ

Trên thế giới, có nhiều loại hình tiếp xúc văn hóa với những dạng thức

khác nhau và đem lại những kết quả khác nhau. Trong đó có:

Tiếp biến văn hóa: là sự tiếp xúc giao lưu văn hóa về chủng tộc, địa lý

hoặc lịch sử và thường tồn tại nghiêng về phát triển lịch sử và không gian văn

hóa. Quá trình tiếp biến sẽ diễn ra theo một dòng chảy có định hướng, được

diễn ra bằng hai hình thức cưỡng bức hoặc tự nguyện.

Đồng hóa văn hóa: là một hiện tượng tiếp biến văn hóa ở mức cực

đoan, tiêu cực khi phải chung sống lâu dài, trong đó, thực thể văn hóa đã bị

tiêu diệt bởi sức ép và sự xâm thực của nền văn hóa thống trị.

Hỗn dung hay lai tạo văn hóa là sự kết hợp, pha trộn với nhau giữa yếu

tố bản địa và yếu tố ngoại sinh, để từ đó tạo ra nhiều sắc thái và nguồn gốc,

nhưng vẫn của riêng mình.

Trong lịch sử nước ta, đã có nhiều quá trình tiếp xúc văn hóa ngoại sinh

nhưng loại hình bền vững nhất vẫn là loại hình thứ ba hồn dung và lai tạo văn

hóa. Quá trình hỗn dung và lai tạo văn hóa cũng chính là quá trình tiếp xúc

giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu để tạo ra một loại hình văn hóa mới.

Quá trình này cần những cơ sở và điều kiện nhất định như:

2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế và cơ sở tâm lý cho mối quan hệ

giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt

Về điều kiện tự nhiên: Việt Nam nằm giữa ngã ba giao lưu của khu

34

vực Đông Nam Á. Việt Nam có trên 3200 Km bờ biển, nằm trên ngã tư

của các tuyến giao thương đường biển trong suốt thời kỳ lịch sử, vị trí rất

thuận lợi cho sự giao lưu với các nước lân cận. Từ vị trí thuận lợi này, đã

hình thành nên một lối sống cởi mở, không khép kín tạo điều kiện thuận

lợi cho các tôn giáo khác như: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo du nhập vào

Việt Nam.

Việt Nam là một nước mà người dân phải chịu khí hậu nóng ẩm, mưa

nhiều, thường xảy ra lũ lụt, vỡ đê.. do vậy, tính cố kết cộng đồng, tính đồng

cam cộng khổ, đoàn kết của người Việt được hình thành từ rất sớm và rất

mạnh mẽ.

Điều kiện kinh tế: Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa,

nóng, nhiều ao hồ, đầm lầy nên rất thích hợp cho việc trồng trọt. Hoạt động

kinh tế của người Việt cổ chủ yếu dựa vào nông nghiệp lúa nước nên lao động

sản xuất phải phụ thuộc vào thiên nhiên, do đó, người Việt rất tôn trọng tự

nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, hòa hợp với con người. Chính với cơ sở

kinh tế thuần nông đó đã thấy được vai trò quan trọng của người phụ nữ trong

gia đình. Từ đó, hình thành tâm lý coi trọng Mẹ, sống thiên về Mẹ - Mẫu với

lối sống tình cả, mềm dẻo, khoan dung, độ lượng.

Cơ sở tâm lý xã hội: từ thời cổ đại, người Việt đã có một chuẩn hệ tư

duy và nhận thức mang tính nông nghiệp. Đó là lối tư duy phồn thực, đề cao

yếu tối sinh, dưỡng, dục, là những yếu tố thuộc tính Mẫu. Tính Mẫu là cơ sở

tâm lý cho sự hình thành lối sống linh hoạt, du di, xuề xòa, tương đối, chính

bỏ làm mười của người Việt. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa coi trọng

những giá trị tinh thần, tâm linh hơn giá trị vật chất, duy lý. Như vậy, người

Việt trong xã hội truyền thống thường đa tín, dị tín đền mức mê tín, nhưng

không bao giờ cuồng tín.

Như vậy, tất cả các yếu tố từ điều kiện tự nhiên, kinh tế đến cơ sở tâm

lý đã tạo ra một cơ sở,một mảnh đất đầy màu mở cho sự tiếp thu tư tưởng tôn

35

giáo ngoại la, đặc biệt là Phật giáo.

2.1.2 Cơ sở triết lý của Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu

Cơ sở triết lý của Phật giáo

Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng

thực hiện hai điều đó là “khế lý”, “khế cơ” và “tùy duyên phương tiện”. Nếu

thiếu đi một trong số các yếu tố này thì Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo

nữa. Duy trì và phát triển các yếu tố này nên Phật giáo đã được truyền vào

Việt Nam và các quốc gia khác.

“Khế lý” thì dù ở thời gian, không gian nào thì giáo lý Phật đà vẫn luôn

kết hợp với chân lý, tư tưởng; vẫn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được

bản chất của mình và chỉ có một vị là vị giải thoát.

“Khế cơ” thì dù trong hoàn cảnh nào và ở quốc gia nào thì sự sinh hoạt,

truyền đạt cũng luôn đa dạng. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia

mà truyền bá. Nhưng cũng không làm mất đi gốc Phật giáo nguyên thủy và

phai mờ tính bản địa của các tôn giáo, tín ngưỡng.

Bên cạnh đó, Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vô thần, có yếu tố

duy vật và tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người

suy nghĩ và làm thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân nhân. Và

những tư tưởng xã hội Phật giáo đã phản ánh đúng thực trạng xã hội đẳng

cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ- trung đại. Phật giáo cũng nói lên được

sự tự do, bình đẳng trong xã hội. Đây chính là cơ sở triết lý cho những tư

tưởng Phật giáo được phổ biến trong đời sống của đông đảo quần chúng

nhân dân người Việt.

Cơ sở triết lý của tín ngưỡng thờ Mẫu

Triết lý ăn sâu trong đời sống của người Việt về tín ngưỡng thờ Mẫu

chính là phản ánh nhu cầu, khát vọng trong đời sống thường nhật của người

dân vùng nông nghiệp lúa nước. Tín ngưỡng thờ Mẫu với các nghi lễ thờ các

vị Thánh và Thánh Mẫu được sinh ra từ mong muốn được mưa thuận gió hòa,

36

cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Về nghệ thuật dân gian, đây là hình thức diễn

xướng trong văn hóa tâm linh. Như vật, ở đây, tín ngưỡng thờ Mẫu phản ánh

ý thức xã hội của người dân ở trình độ tâm lý xã hội.

Như vậy những tư tưởng từ bi, hỉ xả trong giáo lý nhà Phật khá gần gũi

với tinh thần vị tha đùm bọc, yêu thương lẫn nhau trong đạo lý, truyền thống

của người Việt cũng như các tín ngưỡng bản địa trong đó có tín ngưỡng thờ

Mẫu. Bên cạnh đó Phật giáo cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu kết hợp với nhau

đã đáp ứng một cách trọn vẹn nhu cầu của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu

giúp thỏa mãn về thế giới hiện thực, Phật giáo thỏa mãn nhu cầu về cuộc sống

ở thế giới bên kia. Vì vậy Phật Giáo đã nhanh chóng hòa nhập với các tín

ngưỡng bản địa trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu mà khởi thủy là tục thờ Nữ

thần, Mẫu thần để trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của

người dân Việt.

2.2 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ

2.2.1 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua tục thờ Nữ thần

Phật giáo được truyền vào nước ta khi người Việt đang sống cảnh nước

mất nhà tan, kẻ thù đang quyết tâm bằng mọi biện pháp: Văn hóa - quân sự

thuyết phục và cưỡng bức nhằm đồng hóa tiêu diệt người Việt. Khác với Nho

giáo, đạo Phật vào Việt Nam với tinh thần từ bi, hỷ xả, cứu khổ cứu

nạn…trong giáo lý Phật giáo khá gần gũi với tinh thần vị tha, bao dung, yêu

thương, đùm bọc lẫn nhau,... Từ đó, Phật giáo đã từng bước đi vào đời sống

cộng đồng của người dân Việt để cứu nhân độ thế, xây dựng xã hội thánh

thiện, làm thiện tránh ác vào giàu lòng nhân ái. Đạo Phật đã rất coi trọng

những yếu tố bản địa để đưa tinh thần của Phật vào đời sống của người dân

bản địa. Phật giáo vào Việt Nam cũng phải hòa quyện với tín ngưỡng dân

gian Việt Nam trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu, mối quan hệ này trong lịch

37

sử dân tộc còn có tính chất giao thoa dung hòa, bổ sung và nâng đỡ nhau.

Ngay từ khi hội nhập vào đất Việt, Phật giáo đã chọn con đường kế

hợp, tôn trọng, hòa hợp với tín ngưỡng thờ Mẹ của người Việt Nam. Về mẹ

Sông Nước trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, trong kinh sách Phật giáo

có nhắc đến Thủy Thiên. Theo từ điển Phật học: “Thủy Thiên là một trong 12

vị trời của Mật giáo, 1 trong 8 vị trời hộ chiếu thế gian ở tám phương là vị

thần thủ hộ phía Tây, là vua của dòng họ rồng. Thủy tiên gốc là vị thần Thiên

không của Bà La Môn giáo ở Ấn Độ thời cổ, đứng đầu các sông ngòi, coi về

cúng tế, giữ gìn đạo đức, thưởng thiện phạt ác,...”. Từ đó, trong Phật giáo,

truyền thống nữ giới không thể thành Phật bị phá vỡ. Như vậy, tín ngưỡng thờ

Mẫu ở Việt Nam dễ chấp nhận Phật giáo để cùng hòa quyện, chuyển hóa

niềm tin dân gian đến với niềm tin Phật Đà.

Sự tích Man Nương được ghi trong Cổ Châu Phật Bản Hạnh, một tác

phẩm thơ Nôm được tìm thấy sớm nhất ở Đồng bằng Bắc Bộ đã phản ánh

sinh động sự gặp gỡ và gắn kết mật thiết giữa Phật giáo với tục thờ Nữ thần

của người Việt. Nguồn gốc của Tứ Pháp được nhiều người biết đến nhất được

ghi lại trong truyện Man Nương sách “Lĩnh Nam Chích Quái” và giữa thế kỉ

XVII mới được in thành sách riêng. Hiện bản “Cổ Châu Phật Bản Hạnh Ngữ

Lục” khắc gỗ tại chùa Dâu được khắc vào năm thứ 13 niên hiệu Cảnh Hưng

(1752) còn lưu lại chuyện Tứ Pháp: “Ở bên kia sông Đuống, thuộc bờ Bắc,

trong chùa Linh Quang, xã Phật Tích, phủ Tiên Du trấn Kinh Bắc có vị sư

Khâu Đà La lập am truyền đạo. Bên này sông có một gia đình tên là Tu Định

có một người con gái tên là Man Nương. Thấy Khâu Đà La có nhiều môn đệ

theo học, Tu Định liền cho con gái mình đến học đạo và hàng ngày nấu cơm

nước, giúp việc cho nhà sư. Một lần nọ, Khâu Đà La đi giảng đạo về khuya,

nàng Man Nương nấu cháo xong, chờ không được bèn ngồi tựa vào cửa và

ngủ thiếp đi. Khâu Đà La về thấy Man Nương ngủ ở cửa phòng, người “vô ý”

bước qua. Thế là Man Nương có thai. Hay tin, Tu Định tỏ ý trách nhà sư, nhà

sư chỉ nhẫn nhục chịu đựng. Sau 14 tháng vào ngày mồng 8 tháng 4, Man

38

Nương sinh hạ được một bé gái và mang đến trả nhà sư. Nhà sư bèn bế đứa

bé đến một gốc cây cổ thụ ở ngã ba sông và lấy cây gậy chỉ vào thân cây làm

phép, tức thì thân cây tách làm đôi, nhà sư bỏ đứa trẻ vào đó và cây ghép trở

lại như cũ. Trước khi chia tay, Khâu Đà La trao cho Man Nương một chiếc

gậy và rặn rằng khi nào có hạn hán thì cắm chiếc gậy xuống đất, thì sẽ có

nước để cứu dân. Về sau, nhiều lần trời hạn hán, nhớ lời nhà sư, Man Nương

đem cây gậy ra dùng thì đều ứng nghiệm. Vào một bữa nọ, có một trận mưa

to, gió lớn, cây cổ thụ bị đổ và trôi theo dòng nước đến khúc sông ở làng bà

Man Nương thì dừng lại. Trai làng túm vào kéo mà không tài nào di chuyển

được, bà Man Nương ra sông chỉ kéo nhẹ mà cây đã ngoan ngoãn theo vào

bờ. Thấy sự lạ, người làng cưa thân cây ra làm 4 đoạn và tạc thành 4 pho

tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và đưa vào thờ trong 4 ngôi

chùa. Khi đẽo tới giữa cây, người ta thấy có một phiến đá rất cứng, búa của

thợ đều bị sứt hết. Ném phiến đá xuống nước thì thấy phiến đá phát ra ánh

sáng. Dân làng bèn rước vào điện Phật mà thờ, đặt tên là Thành Quang

Phát”. Bà Man Nương sau khi chết được tôn thờ là Phật Mẫu và được thờ ở

chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay.

Chùa Dâu gắn với sự tích phật Mẫu Man Nương và Tứ Pháp là biểu

hiện sinh động về sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tín ngưỡng dân gian của

người Việt với Phật giáo khi mới du nhập. Trước khi có sự du nhập của Phật

giáo vào nước ta thì các Nữ thần này được thờ ở các đền miếu dân gian, được

tôn vinh là các vị thần nông nghiệp trông coi về Nước - là yếu tố quan trọng

bậc nhất trong sản xuất lúa nước. Vì vậy, dân gian ta có câu: “Nhất nước, nhì

phân, tam cần, tứ giống”. Man Nương được nhân dân tôn làm mẹ và đã là mẹ

thì dễ dung thứ những lỗi lầm của con và luôn dang tay giúp đỡ con khi con

cần đến mẹ. Phật Mẫu trong lòng nhân dân là như thế. Đến khi Phật giáo du

nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng dân gian hóa thu nhận tín ngưỡng thờ Tứ

Pháp của người Việt cổ, dẫn đến các ngôi đến, miếu, am thờ thần cũng

chuyển hóa thành chùa chiền. Cụm di tích Tứ Pháp ở Bắc Bộ có 4 ngôi chùa

39

riêng biệt ở 4 thôn cạch nhau trong làng xã cổ truyền. Làng Dâu (nay thuộc

huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có 5 ngôi chùa thờ 5 mẹ con bà Man

Nương: Bà Man Nương (Phật Mẫu) thờ ở chùa Mãn Xá, Bà Dâu (Pháp Vân)

thờ ở chùa Dâu (Khương Tự), Bà Đậu (Pháp Vũ) thờ ở chùa Đậu (Thành

Đạo), Bà Tướng (Pháp Lôi) thờ ở chùa Phi Tướng (Thanh Tương), Bà

Dàn(Pháp Điện ) thờ ở chùa Phương Quan (Phương Quan). Ngoài ra, tượng

Phật Tứ Pháp còn được thờ ở nhiều ngôi chùa khác vùng đồng bằng Bắc Bộ

như: chùa Thanh Xá thờ Pháp Vũ (Mỹ Hào, Hưng Yên), chùa Đậu thờ Pháp

Vũ (Thường Tín, Hà Nội), chùa Ôn Xá thờ Phật Tứ Pháp (Văn Lâm, Hải

Dương),...

Nhưng cũng là chùa nhưng điện thần của các ngôi chùa thờ Tứ Pháp

không giống với những ngôi chùa thờ Phật bình tường. Tọa ở vị trí trung tâm

chính địa ở chùa thờ Tứ Pháp không phải các tượng Phật Thích Ca, La Hán,..

mà ở đây, các Bà giữ vai trò chủ điện, tượng Phật Thích Ca đáng nhẽ ra là

tượng chính trong thờ cúng Phật giáo thì ở chùa Tứ Pháp, Ngài cũng không

được xem trọng. Tượng các Bà Mây – Mưa – Sấm - Chớp là tượng chính,

được làm to hơn cả và được đặt ở chính điện, các tượng Phật Thích Ca, La

Hán, Bồ Tát có kích cỡ nhỏ hơn và chỉ được đặt ở phụ bên cạnh, phía bên

ngoài và trước mặt các tượng Tứ Pháp. Từ đó cho thấy sức sống và xu hướng

đề cao vai trò của Nữ thần, đề cao vai trò các Bà Mẹ - Mẫu của tín ngưỡng

bản địa của cư dân lúa nước trước sự xâm nhập của đạo Phật vào đất Việt.

Việc thờ phụng Phật ở đây đã mờ nhạt đi và bị đặt xuống hàng thứ yếu tuy

nhiên về thực chất đây vẫn là đền thờ thần linh bản địa. Trong điện thờ của

chùa Tứ Pháp còn phối thờ với nhiều tượng của các tín ngưỡng khác như ở

chùa Dâu là các tượng Đức Thạch Quang Phật, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Đức

Thánh Hiền, Đức Ông...

Như vậy, điện thần chùa Tứ Pháp mang một sắc thái riêng độc đáo,

đậm màu sắc của những ngôi đền thờ Nữ thần, là tiền thân của Tín ngưỡng

thờ Mẫu. Hiện tượng Tứ Pháp đã ghi lại một mốc quan trọng đánh dấu thời

40

điểm Phật giáo truyền từ Ấn Độ vào nước ta bắt đầu từ Luy Lâu.

Việt Nam là quê hương của nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước.

Theo các nhà khảo cổ học, người Việt chuyển từ nền kinh tế hái lượm sang

nền kinh tế trồng trọt cách ngày nay hàng vạn năm. Gia đình người nông dân

(gia đình tiểu nông) trở thành một đơn vị sản xuất. Công việc nhà nông bao

gồm nhiều khâu, nhiều việc nên cần một sự hợp tác, phân công chặt chẽ giữa

đàn ông, đàn bà như ca dao đã phản ánh: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,

chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” (Ca dao). Đối với nền nông nghiệp lúa

nước mà từng hộ gia đình chỉ có một mảnh nhỏ, nằm rải rác, manh mún thì

không cần nhiều đến sức lao động của đàn ông mà cần chính là sức lao động

dẻo dai, sự chăm chỉ, khéo léo của người phụ nữ. Chính vì thế mà nông

nghiệp chính nằm trong sự quản lý, chăm sóc của người phụ nữ. Không chỉ

làm chủ trong nông nghiệp mà người phụ nữ còn nắm giữ vai trò chủ yếu

trong nền tiểu thương của Việt Nam. Bên cạnh việc chăm sóc đồng áng,

người phụ nữ Việt còn chăn nuôi thêm các loại gia súc, gia cầm,... nhằm tăng

thêm thu nhập, phục vụ cho cuộc sống của gia đình. Nào là tằm lấy tơ để dệt

quần áo, để bán, trâu bò làm sưc kéo, lợn và gà thì để bán hoặc thịt. Công việc

vô cùng bận rộn “nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”.

Trong quan niệm về vũ trụ, theo quan niệm Âm - Dương thì người Việt

cổ cho rằng trời là Cha – là đấng hóa sinh làm nên mọi sự xoay vần của vũ trụ

như: mây, mưa, sấm, chớp và tạo nên sự chuyển động trong không gian và

thời gian. Và đất là Mẹ, luôn thu nhận mọi nguồn sinh lực từ Cha làm nảy

sinh vạn vật và muôn loài. Chính vì thế mà người Việt xưa đã tôn thờ, “nữ

tính hóa” tự nhiên. Người mẹ tự nhiên sẽ giúp cho mọi thứ sinh sôi, luôn che

chở cho con người, ban phát cho con người một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong

tín ngưỡng thờ Mẫu, người mẹ đầu tiên mang hình tượng Mẫu chính là mẹ Âu

Cơ – thủy tổ của người Việt. Mẹ Âu Cơ với truyền thuyết sinh bọc trăm

trứng, nuôi dưỡng năm mươi người con khôn lớn đã sớm trở thành biểu tượng

cho sự sinh sôi, nảy nở để cư dân nông nghiệp tôn thờ. Đó chính là cơ sở hình

41

thành nên hệ thống tín ngưỡng dân gian bản địa đặc biệt là tín ngưỡng thờ

Mẫu là nền tảng vững chắc cho sự phát triển văn hóa dân tộc sau này, khi tiếp

xúc giao lưu với tín ngưỡng, tôn giáo từ bên ngoài, trong đó sớm nhất phải kể

đến đạo Phật.

Như vậy, có thể thấy rằng tục thờ Nữ Thần và nguyên lý Mẹ là một nét

văn hóa độc đáo trong dòng chảy văn hóa xuyên suốt lịch sử văn hóa tín

ngưỡng Việt Nam. Việc Phật giáo đưa Man Nương lên làm Phật Mẫu đã

chứng tỏ mối tơ duyên gắn bó giữa 2 loại hình tín ngưỡng tôn giáo này. Tuy

vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu không vì thế mà bị đồng hóa bởi đạo Phật, nó vẫn

tồn tại song song và phát triển. Từ những điều đó trước sự du nhập của đạo

Phật, sức sống của tín ngưỡng Mẹ không những không bị mai một mà còn trở

nên mãnh liệt hơn. Tục thờ sinh thực khí và tín ngưỡng phồn thực, thờ Tứ

Pháp ở Bắc Bộ đã cho thấy trong thời kỳ đầu Phật giáo du nhập thì tục thờ Nữ

thần, nguyên lý Mẹ ở Bắc Bộ lúc bầy giờ rất phát triển.

Ở chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng có một ngôi miếu thờ thần Thổ Địa

bên cạnh chùa. Đến đời sư Đa Bảo, sư định triệt bỏ đi ngôi miếu vì cho rằng

đây là nơi thờ thần nhảm nhí thì Thần Thổ Địa ứng hiện bài thơ này:

“Phật Pháp ai hay hộ

Giữ đức tại Kỳ viên

Nếu không ta đây giống

Sớm theo xứ khác thiên...” [35, tr.28]

Dịch nghĩa:

“Ai có thể hộ trì được Phật Pháp,

Xin hãy tới trụ trì ở Kỳ Viên,

Nếu không phải là hạt giống của ta,

42

Thì sớm rời đi nơi khác...” [37; tr.212-213].

Như vậy, theo bài thơ thì Thần Thổ Địa đã hiển linh đuổi Phật đi nơi

khác, bởi Thần là chủ Đất này. Qua bài thơ thì Thần Thổ Địa muốn nói với

nhà sư Đa Bảo rằng, ai muốn độ trì Phật Pháp thì hãy sang Ấn Độ mà thờ, còn

nơi đây không phải là hạt giống của Thổ Địa thì xin mời đi nơi khác. Phải

chăng đây là một nét tính cách, một phản ứng tâm lý lớn của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ trước sự du nhập của Phật giáo thời kỳ đầu khi mà chưa có

sự kết hợp văn hóa với tín ngưỡng dân gian bản địa. Từ đó thấy được qua sự

du nhập của các tín ngưỡng ngoại lai thì tục thờ Mẹ Đất, tín ngưỡng thờ Nữ

thần vẫn phát triển thành tục thờ Thành hoàng làng và rất được coi trọng

không chỉ trong các làng bình thường mà còn cả ở những ngôi chùa như chùa

Dâu, chùa Phù Đổng,...

Nhìn chung trong thời kỳ đầu du nhập, ở nhưng trung tâm Phật giáo tục

thờ Nữ thần, thờ nguyên lý Mẹ, các thiên thần đều không bị tan rã vì tục thờ

Mẹ đã có gốc rễ sâu xa trong tâm trí người dân Bắc Bộ. Mẫu không những đã

duy trì lòng tin tưởng cho nhân dân Đồng bằng Bắc Bộ mà còn chấp nhận

giáo lý của Phật giáo, nho giáo để hoàn chỉnh thêm niềm tin đó.

Như vậy, qua đó cho thấy, sự hội nhập của đạo Phật thời kì du nhập

với tục thờ Nữ thần, Mẫu thần của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng là

một trong những yếu tố tiên quyết góp phần hình thành và hoàn thiện hệ

thống tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ như ngày nay.

2.2.2. Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng

bằng Bắc bộ thể hiện thông qua việc thực hành tín ngưỡng Tam phủ.

Trải qua suốt thời kỳ du nhập từ thế kỷ VI đến thời kỳ nhà Lý, Phật

giáo đã chiếm vị trí không nhỏ trong đời sống xã hội của cư dân Đồng bằng

Bắc Bộ, cùng với đó là tốc độ dân tộc hóa của Phật giáo diễn ra mạnh mẽ. Từ

ảnh hưởng của nguyên lý Mẹ, tục thờ Mẫu trong Phật điện đã xuất hiện thêm

nhiều vị phật Nữ nữa như: Phật Bà Ỷ Lan được thờ ở chùa Vùng Gia Lâm

(Hà Nội), hoặc Nhị vị Bồ Tát, và sau này có Quan âm Thị Kính cũng được

43

thờ ở rất nhiều ngôi chùa làng ở khắp vùng châu thổ Bắc Bộ. Như vậy, Phật

giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, nhưng khi du nhập vào nước ta trải qua quá

trình đồng hóa với tín ngưỡng dân gian bản địa, đặc biệt là tín ngưỡng thờ

Mẫu, đạo Phật đã mang tính dân tộc Việt Nam khá rõ nét. Đức Phật (Buddha)

trong tâm thức dân gian đã không còn nguyên vẹn, tính chất của đấng giác

ngộ trong giáo lý Phật giáo mà trở thành Bụt - một vị thần cứu nhân độ thế,

một vị thần linh có đủ sức mạnh cao siêu để cứu khổ cứu nạn cho những ai tin

tưởng vào Ngài. Cùng với đó, trong tâm thức dân gian có khi còn đồng nhất

ông Trời với Đức Phật nên người ta hay tụng niệm câu “lạy Trời, lạy Phật”,

“A Di Đà Phật”. Do vậy, Đạo Phật đã hiểu rõ nét tâm lý, lòng mong ước và

thế giới quan của cư dân nông nghiệp của Việt Nam là rất mộc mạc, chất

phác, đơn giản, dung dị mà dễ hiểu. “Điều đó chứng tỏ, Phật giáo khi du nhập

vào nước ta đã chủ động tự điều chỉnh và biến đổi ít nhiều so với đạo gốc

mang đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và trở thành Phật giáo dân tộc” [27;

tr.71].

Tín ngưỡng thờ Mẫu được hình thành và hoàn thiện bởi sự du nhập của

Đạo giáo vào nước ta. Theo các nguồn tài liệu, thì tín ngưỡng thờ Mẫu là kết

quả của mối giao duyên giữa Đạo giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa, mà

Đạo giáo lại có nguồn gốc từ Trung Quốc du nhập vào đất Việt khoảng những

năm đầu công nguyên. Người Việt đã tiếp nhận Đạo giáo như tiếp nhận thêm

một niềm tin vào các vị thần linh mới, có uy lực siêu phàm đối với cuộc sống

và vận mệnh của họ, cũng như tiếp nhận thêm một phương thức giao cảm mới

với các đấng siêu nhiên đó. Như vậy, Đạo giáo khi du nhập vào Việt Nam

cungc đã tự điều chỉnh và biển đổi thông qua việc phong tục hóa và dân gian

hóa trở thành hai dòng tín ngưỡng mới của Đạo giáo trên mảnh đất Việt: Đạo

Thần Tiên và Đạo Phù Thủy[27; tr.52].

Đến thế kỷ XVII xã hội Việt Nam khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn

thân phận người phụ nữ bị đè nặng thì trong đời sống tâm linh của người Việt

ở Đồng bằng Bắc Bộ lại xuất hiện thêm một số linh hồn bất tử nữa đó là vị

44

Nữ thần quê ở làng Vân Các (Vụ Bản Nam Định) - là Mẫu Liễu Hạnh công

chúa. Sự linh thiêng của Mẫu Liễu Hạnh cùng với việc ảnh hưởng của tín

ngưỡng Tam phủ đã được dân gian bổ sung vào thần điện để tôn thờ thành tín

ngưỡng Tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh được dân gian tôn vinh là thánh Mẫu là vị

thần cai quản cõi nhân gian. Đạo Tứ Phủ được dân chúng gọi là tín ngưỡng

thờ Mẫu và nhanh chóng ăn sâu vào tâm thức dân gian của người Việt trên đất

Bắc Bộ, và hội nhập với tín ngưỡng tôn giáo khác, nhất là với Phật giáo.

Việc xuất hiện thánh Mẫu Liễu Hạnh gắn liền với các truyền tích và

gắn liền với những truyền tích và liên quan đến tín ngưỡng Phật giáo để rồi

hoàn thiện hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu cho thấy phản ảnh của xã hội nông

nghiệp chưa nhất quán. Chính vì vậy, từ cuối thời Trần khi mà Phật giáo

đang trong giai đoạn phát triển cực thịnh, nhiều trí thức dân tộc đã muốn

phục hồi Nữ thần nguyên thủy. Điều này được thể hiện qua 2 bộ sưu tập:

Việt điện u linh đề cao hào khí anh linh và Lĩnh Nam chích Quái ca ngợi các

Nữ thần.

Theo nghiên cứu của giáo sư Ngô Đức Thịnh, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam

phủ - Tứ phủ là sự phát triển về sau của tục thờ Nữ thần, Mẫu thần, có thêm

ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa. Sau khi hình thành rồi thì tín ngưỡng thờ

Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ lại tác động ảnh hưởng theo xu hướng Tam Phủ-Tứ

Phủ hóa tín ngưỡng thờ Mẫu Thần, Nữ Thần. Sự xuất hiện của Thánh Mẫu

Liễu Hạnh vào cuối nhà Lê, giai đoạn mà Phật giáo được đẩy mạnh đi vào

dân gian, cũng là lúc vị trí Phật giáo tại cung đình bị giảm sút hơn so với thời

kỳ trước. Chuyện kể rằng vào đầu thời Lê, Vua Trời có một cô công chúa đặt

tên là Liễu Hạnh, xinh đẹp có tài năng, nhưng tính tình ương bướng, cô

thường không chịu theo khuân phép hoàng gia, đến nỗi làm cho Thượng đế

nổi giận đầy xuống trần gian trong thời hạn ba năm. Xuống cõi trần , Liễu

Hạnh biến thành một cô gái đẹp mở quán bán hàng ở vùng Đèo Ngang. Hàng

của cô rất đông người qua lại. Cô buôn bán thành thạo, niềm nở với mọi

người và vẫn giữ tính tình phóng khoáng thường hay trêu trọc bọn quan

45

khách. Thấy người đẹp có vẻ lả lơi nhiều anh chàng giở thói bờm xơm những

kẻ đó vừa rời khỏi quán hàng thì hoặc phát điên hoặc lăn ra chết. Hoàng tử

vua Lê nghe tiếng nàng, đã giấu vua và Hoàng hậu cải trang vào tìm người

đẹp. Liễu Hạnh đã biết trước liền dùng phép để cho hoàng tử một bài học. Từ

đó Hoàng Tử trở thành điên dại, các thầy thuốc đành chịu bó tay. Vua phải

mời 8 vị đạo sĩ ( Bát Vị Kim Cương ) làm phép mới chữa khỏi bệnh cho con

trai được. Thấy Liễu Hạnh lộng hành như vậy, vua sai quan quân và cả bọn

pháp sư cùng mấy vị Kim Cương đến hỏi tội. Tám Vị Kim Cương đều thua

dưới tay Liễu Hạnh, thì họ đi nài nỉ Phật bà mượn được một cái túi, và trở lại

giao chiến. Lần này Liễu Hạnh bị thua rơi gọn vào túi Phật bà. Vua sai đưa

nàng về kinh tra xét. Nàng trả lời rất đường hoàng cứng cỏi. Nàng chỉ trừng

trị những kẻ nào xấu và luôn hàm ơn cho người chịu khổ chịu nạn thì làm gì

nên tội? Vua đuối lý phải tha. Cũng đúng lúc này, thời hạn dưới trần của nàng

đã hết. Nàng trở về trời, để lại một đứa con trai mỗi bàn tay có 6 ngón , gửi lại

cho nhà sư dưới chân núi Hồng Lĩnh (Nghệ An) nuôi hộ.

Ở trên Trời, nhưng lòng người chưa nguôi. Liễu Hạnh lại xin Thượng

Đế cho xuống cõi nhân gian. Nàng về đến Ba Dội, vẫn hóa thành cô gái lập

quán bán hàng giao du với các danh sĩ. Liễu Hạnh lại sinh đứa con thứ 2, gửi

nhờ ni cô chùa Bà Đỏ nuôi. Còn mình vân du nơi này nơi khác. Nàng thường

giúp kẻ khó, nên được nhiều nơi thờ phụng, xem như một bà Thánh Mẫu.

Khi Bà Liễu Hạnh tung hoành ở núi sông, vua quan bị thất bại nhiều

lần, phải tìm vào lăng Từ Minh (nơi thờ các Thánh Nội, Đạo Tràng) nhờ ba

ông cứu viện. Mấy vị Thánh đã giúp vua Lê Chúa Trịnh lập mẹo đánh thắng

bà Liễu Hạnh. Sau những ngày đại chiến kinh hoàng khủng khiếp ở Núi Sòng.

Tiền quân Thánh đã bắt được Bà Liễu Hạnh. Nhưng cả Vua và Thánh Nội

Đạo cũng không sử phạt được. Đức phật hiện ra giải cứu cho công chúa Liễu

Hạnh con Vua Ngọc Hoàng. Bà Liễu Hạnh được phong thân tên Mã Vàng

Công Chúa rồi Chế Thắng Đại Vương. Những Đền Thờ Chúa Liễu Hạnh

46

được xây dựng lại.

Theo Thần tích, thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ ba đã

quy y Tam bảo, sự kiện này được xem là điểm mốc mở đường cho sự hội

nhập giữa tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian và Phật giáo.

Các điện mẫu nhờ thế đã đi vào chùa của Phật giáo và đồng thời Phật

giáo cũng đã thấm sâu vào trong các đình thờ Mẫu. Sự hội dung này tạo ra

một dạng phổ biến trong cách bố trí của gian thờ Tổ và thờ Mẫu Tam phủ -

Tứ phủ.

Trong các lễ hội thờ Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ nhất là lễ hội Phủ Dầy

(Nam Định) bên cạnh những nghi lễ thờ phụng với mẫu Liễu còn có các cuộc

rước thỉnh kinh gắn với Phật giáo như mùng 5 tháng 3 âm lịch có lễ rước Mẫu

từ phủ Vân Cát sang chùa Dần, mùng 6 tháng 3 âm lịch có lễ rước từ Phủ

Tiên Hương đến chùa Gôi và ngược lại.

Trên thực tế tín ngưỡng thờ Mẫu mặc dù phát triển nhanh chóng, có khi

mang dáng vẻ chính thống. Nhưng thật ra, nó chỉ là kết quả lựa chọn vừa phải

của dân gian, dân gian tiếp thu Nho - Phật - Đạo nhưng lấy tín ngưỡng thờ

Mẫu, thờ Thành hoàng làng làm gốc. Chính vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu vừa dễ

đứng vững để rồi biến đổi hoàn thiện để dần phổ biến phù hợp với tâm thức

dân gian. Tín ngưỡng thờ Mẫu với nội dung cầu sinh lực vũ trụ, nảy nở và

sinh sôi người an vật thịnh và đưa thêm vào đó đạo Thánh hiền chọn lấy cái

trung dung của Khổng Tử để phát triển lý thuyết “giải thoát” của Phật Tổ Như

Lai cứu chúng sinh ra khỏi vòng nghiệp chướng. Dạy con người phải chăm

sóc, yêu thương san sẻ đùm bọc lẫn nhau, không tranh đua giành giật mà lo trị

bệnh cứu người. Người dân Đồng bằng Bắc Bộ coi đó là một đạo lý mới từ đó

hy vọng có thể xóa bỏ bệnh tật áp bức bất công giữa con người trong xã hội,

tất cả đề cao tình yêu thương như con một mẹ, đó là chân lý của dân tộc ta:

“Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.

Cùng với việc phát triển và củng cố tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng

thờ Mẫu đã có sự hội nhập với đạo Phật để cùng nằm trong không gian thờ

47

cúng của ngôi chùa. Truyền thống văn hóa cổ lâu đời ở Bắc Bộ đã được lưu

truyền lại trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, Việt Nam Thục

Lục… đã mô tả sự ra đời của các Hoàng đế của người Việt bắt nguồn từ mẹ

Âu Cơ, mẹ Mặt Trời qua đó cho thấy trong tâm thức người Việt dòng dõi tâm

linh luôn là điểm đáng tự hào. Suốt hàng ngàn năm, các Mẹ giữ vai trò là sợi

dây liên kết toàn dân, làng xóm được gắn kết thắt chặt lại dưới uy lực của

Thành hoàng làng.

Ở dưới thời Lý - Trần, Phật giáo giữ vị trí chủ lực và phát triển thịnh

vượng trong đời sống xã hội, tín ngưỡng thờ Mẫu dường như chỉ phát triển

thầm lặng trong dân gian và cũng chưa trở thành hệ thống thì đến cuối thời

Trần vào đầu thời Lê khi Phật giáo bắt đầu nhường chỗ cho Nho giáo thì đồng

thời đó cũng là sự trỗi dậy của phong trào Tam giáo đồng nguyên. Lúc này,

đến thời Trần, Mẫu có khi bị gọi là tà thần, dâm thần. Sang đến thời Lê, thì

các Mẫu đã được phong thần, có nhiều Mẫu được phong Thượng đẳng thần,

kèm theo đó là các danh hiệu. Có nhiều triều đại đã sắc phong Mẫu Liễu

Hạnh thành Tứ Bất Tử trong đời sống tâm linh Việt Nam. Việc sắc phong này

là hoàn toàn đúng, bởi các Mẫu trong tâm thức dân gian đều là tự sinh, tự

dưỡng, vừa dương, vừa âm, vừa nam, vừa nữ vì các bà là Mẹ khởi thủy sinh

ra muôn loài.

Giáo lý Sắc - Không cũng chỉ ra rằng Sắc là danh từ chỉ sự vật hiện

tượng ở trạng thái có hình tướng trong không gian mà con người nhận biết

được vậy là có, Không là chỉ trạng thái sự vật ở hiện tương không có hình

tướng mà con người không nhận biết được. Như vậy, trong giáo lý của nhà

Phật cũng đồng nghĩa với quan điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu trong vấn đề hài

hòa âm dương vũ trụ nghĩa là trong âm có dương và ngược lại, trong cái có có

cái không. Đây cũng là cơ sở cho việc hội nhập của đạo Phật trong tín ngưỡng

thờ Mẫu trong đời sống tâm linh của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ.

Như vậy đối với cư dân nông nghiệp Bắc Bộ, Quá trình dân gian hóa

đạo Phật được biểu lộ song song với quá trình hoàn thiện hóa tín ngưỡng thờ

48

Mẫu từ tầng lớp Nữ thần lên tầng lớp Mẫu thần đó là một quá trình diễn ra

phức tạp lâu dài cóc khi trành giành ảnh hưởng lẫn nhau nhưng xu hướng

chung vẫn là sự dung hợp và hòa quyện để tồn tại lên sắc thái độc đáo cho

dân tộc Việt Nam.

2.3 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo

2.3.1 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với quá trình phát triển

của Phật giáo Việt Nam thể hiện qua không gian thờ cúng.

Hàng trăm năm nay, tục thờ Mẫu đã lan nhanh sắp vùng châu thổ Bắc

Bộ. Bên cạnh những đền thờ các Thánh Mẫu, Chầu Bà, Đức Ông, các Cô,

Cậu vẫn song song tồn tại trong không gian ngôi chùa, cùng với Tam Tòa

Tam bảo của điện thờ Phật. Như vậy ngôi chùa ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ có

không gian theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Thờ Mẫu là một loại hình tín

ngưỡng dân gian phản ánh rõ nét tâm hồn người Việt ở Bắc Bộ và một sức

sống mãnh liệt, dẻo dai, uyển chuyển, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Theo

quan niệm dân gian một Mẫu đầy sức mạnh siêu nhiên quyền năng vô hạn đã

hóa thân phân thân thành các vị thần linh tối thượng tỏa khắp không gian ngôi

chùa như Phật Quan Âm Bồ tát với khuôn mặt của Nữ Thần. Đó là đức Phật

Bà Quan Âm “Thiên Thủ Thiên Nhãn” (nghìn tay, nghìn mắt) và một số vị

thần Nữ khác cũng tham gia vào việc cai quản các chùa được thờ phụng phổ

biến trong nhiều ngôi chùa ở Bắc bộ như chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa

Mía (Sơn Tây), chùa Nành (Hà Nội)…

Một trong những nét tương hợp với giữa đạo Phật và Đạo Mẫu được

thể hiện qua không gian ngôi chùa là cả 2 đều là sự kết hợp giữa dân gian bản

địa là cả hai cùng thờ Mẹ, thờ Nữ Thần với tục thờ Tứ Pháp để tạo ra Phật

Mẫu (Phật Mẫu Man Nương), Phật Tứ Pháp hay Phật Bà Quan Âm được thờ

phụng ở nhiều chùa khắp đồng bằng Bắc Bộ. Theo sách Phật thì Quan Âm là

một vị Bồ Tát nam giới nhưng khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, Trung

Quốc thì dung hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa của cư dân nông nghiệp là

49

luôn đề cao Mẹ Đất – Nước với các yếu tố âm nên khi Quan Âm khi vào Việt

Nam đã chuyển thành nữ thánh Phật Bà Quan Âm. Trong không gian bài trí

của các chùa ở Bắc Bộ, tay và mắt của Phật bà thường được biểu trưng bằng

những con số ước lệ, có thể là 8, 10, 12, 14...hoặc 36, 38, 40,... tay lớn và

nhiều tay nhỏ khác mọc cân xứng ra ở hai bên sườn.

Mối quan hệ giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu còn được xem xét

thờ Mẫu từ góc độ không gian bài trí trong việc thờ Phật và điện thờ Mẫu

sắp làng quê Bắc Bộ. Ngoài không gian thờ cúng là chính điện thờ Phật thì

các ngồi chùa ở Đồng bằng Bắc Bộ còn có điện thờ Mẫu và nhà thờ Tổ...

Trong điện thờ Phật có tòa Tam Bảo, Tam Tôn Di Lặc,.. thì ở điện Mẫu có

Tam Tòa Thánh Mẫu, Tam Phủ - Tứ Phủ, Tam vị Đức Vua Cha,... Theo

quan niệm dân gian con số 3 là con số vừa để biến đổi, vừa để cân bằng

thường được viện vào nhiều vấn đề cuộc sống, số 3 là số lẻ, vì lẻ thì chuyển

động và biến đổi không ngừng để phát triển. Vì vậy con số 3 được dùng

nhiều trong không gian bài trí, sắp đặt tượng thờ ở điện Phật và điện Mẫu.

Trong suốt quá trình đạo Phật dung hợp với tín ngưỡng thờ Mẫu đã có mỗi

quan hệ tương giao, dung hòa, nương tựa bổ sung cho nhau để cùng tồng tại

và phát triển trở thành phổ biến rộng khắp trong đời sống tâm linh của

người dân Đồng bằng Bắc Bộ.

Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với Phật giáo được thể hiện

trong không gian ngôi chùa là rất đa dạng phong phú, đã có sự tích hợp lẫn

nhau để hình thành nên quần thể không gian thờ cúng đa màu sắc. Là nơi lưu

trữ sinh hoạt văn hóa của cả động đồng cư dân Đồng bằng Bắc Bộ. Điều này

được thể hiện ở quần thể di tích đền, chùa, phủ ở Phủ Dầy (Nam Định).

Trong không gian thờ cúng ở đây có thể thấy sự tồn tại của nhiều loại

hình di tích tôn giáo có mối liên hệ chặt chẽ với nhau như chùa thờ Phật,

đình thờ Thành Hoàng Làng, đền thờ Vua, phủ thờ Mẫu… Sự song song tồn

tại của các lọai hình di tích này trong không gian thờ cúng tâm linh của

người Việt ở Bắc bộ phản ánh sự hỗn dung tôn giáo trong một làng quê, điều

50

này cũng đã chứng tỏ Phủ Dầy có đặc điểm tín ngưỡng chung với phần lớn

các làng của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ và có nhưng hệ thống tín

ngưỡng riêng.

Hệ thống di tích thờ Mẫu trong không gian thờ cúng của Phủ Dầy

(Nam Định) có chùa thờ Phật cũng như mọi làng quê Việt Nam, các làng ở xã

Kim Thái đều có chùa. Trong đó, có thể kể đến 3 ngôi chùa gắn với ba làng:

Chùa Báng ở làng Báng, chùa Tiên Hương ở làng Tiên Hương, chùa Long

Vân ở làng Vân Cát. Chùa thờ Phật chùa nào cũng có ban thờ Tam Bảo,

tượng Phật Bà Quan Âm, tượng Đức Thánh Hiền, ban thờ Tổ... Trong cá ngôi

chùa này thì các chùa đều có ban thờ Mẫu, ban thờ Mẫu của chùa Bạc (làng

Bạc) nằm trong gian phía ngoài của chùa cùng với ban thờ Tổ và thờ Vong.

Ban thờ Mẫu của chùa Tiên Hương lại nằm ở vị trí sau nhất của chùa, phía

sau là tòa Tam Bảo. Ngoài ra, trong không gian thờ cúng của xã Kim Thái

còn có cả đền thờ Vua Lý Nam Đế và đền thờ các vị thần tự nhiên.

Trung tâm của không gian thờ cúng Phủ Dầy là những di tích thờ Mẫu

Liễu Hạnh đó là phủ Tiên Hương, phủ Vân Các và Lăng Mẫu. Phủ Tiên

Hương (Phủ Chính) bao gồm các cung Đệ Tứ, cung Đệ Nhị, Đệ Tam và Đệ

Nhất. Các cung này tách biệt hẳn với bên ngoài bởi một hệ thống cửa ngăn

với cung Đệ Nhị tạo nên không gian linh thiêng. Cung là nơi thờ Tam Tòa

Thánh Mẫu và Tổ Phụ Tổ Mẫu. Năm pho tượng trong 5 án nhỏ đặt trong một

phản to. Mẫu đệ nhất đặt ở giữa mặc áo đỏ đồng nhất với Mẫu Liễu Hạnh.

Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn áo xanh và mẫu Đệ Tam Thờ Phủ đặt ở hai bên.

Tiếp đến, Phủ Vân Cát và Lăng Mẫu Liễu Hạnh cũng là các di tích quan trong

trong tâm thức dân gian người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ. Sự hòa lẫn giữa

không gian thờ cúng của chùa với không gian thờ cúng của điện, Phủ Mẫu ở

Đồng bằng Bắc Bộ là một xu thế được chấp nhận không chỉ trong tâm thức

người dân Phủ Dầy mà ngay cả các phủ khác ở nhiều địa phương ở Đồng

bằng Bắc Bộ cũng chấp nhận điều này.

Có thể kể đến phủ Tây Hồ (Hà Nội) trong không gian thờ cúng bên

51

cạnh các án cung thờ Mẫu, động Sơn Trang, miếu Cô, miếu Cậu,... thờ tất cả

các vị chư linh của vũ trụ thì trong cung Đệ Tam cũng có cả ban thờ Phật và

ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Trong đó, ban thờ Phật được đặt trong cùng,

trên có hai pho tượng Phật Tổ Như Lai và Phật Bà Quan Âm.

Tóm lại, qua không gian thờ cúng của tín ngưỡng thờ Mẫu và Đạo Phật

phần nào chứng minh cho mối quan hệ giữa đạo Phật với tín ngưỡng thờ Mẫu

là một quá trình phát triển lâu dài, có sự bổ sung cho nhau để cùng hướng tới

sự tồn tại và phát triển trong đời sống tâm linh của người dân Đồng bằng Bắc

Bộ. Không chỉ dừng lại trong không gian thờ cúng mà mối quan hệ đó còn

được bao trùm sang cả việc thực hành nghi lễ thờ cúng.

2.3.2 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng

bằng Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo được thể hiện qua thực

hành nghi lễ thờ cúng

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình ở Đồng bằng

Bắc Bộ đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu luôn gắn bó và có mối quan hệ tương

tương giao lẫn nhau và cùng nương tựa lẫn nhau, dung hòa bổ sung cho nhau.

Do đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu đều được hình thành và phát triển ở vùng

đồng bằng Bắc Bộ dựa trên nền tảng của hệ tín ngưỡng nông nghiệp nên đã

chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa tương đồng.

Trong thực hành nghi lễ thờ cúng ở các lễ hội, ở các ngôi chùa ở Đồng

bằng Bắc Bộ nhất là ở Nam Định là một dẫn chứng tiêu biểu cho mối quan hệ

giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu, điều này được thể hiện trong lễ hội

Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào tháng ba âm lịch. Trong việc thực hành

nghi lễ thờ cúng trong hội ở các chùa Thông, chùa Dần và chùa Vôi được đặt

trong quần thể tín ngưỡng và có mối quan hệ đặc biệt với Phủ Trình thờ Đức

Mẫu Liễu ở Tiên Hương (Phủ Dầy Nam Định).

Hằng năm các chùa ở Tiên Hương mở hội từ mùng 1 đến mùng 10

tháng 3 âm lịch, gọi là Phủ Dầy hội Thánh Mẫu Vân Hương. Đây là một trong

những lễ hội nổi tiếng nhất miền Bắc, thông qua hội thể hiện rất sâu sắc mối

52

quan hệ giữa đạo Phật với sự phát triển của Phật giáo ở Việt Nam trong việc

thực hành nghi lễ thờ cúng tại chùa phủ. Hội được mở rất linh đình nhộn nhịp

thu hút một lượng lớn dân chúng. Sinh hoạt nghi lễ được tổ chức như sau:

Lễ tế theo nghi thức được tổ chức từ ngày mùng 1, mùng 2, mùng 3.

Mồng một làm lễ nhập hội ở Phủ chính (Tiên Hương) để mở các cửa phủ đền,

để mừng lễ tế, mừng hội. Sáng hôm sau khi chiêng trống nổi lên, các vị dự tế

mặc áo thụng quần ống sớ, đội khăn lượt, đi hài thêu, có mấy vị tiên nữ mặc

áo vàng, mũ giát bạc, quần lụa, tất trắng, mang tua vải màu cánh sen hoặc

xanh nõn chuối, tay cần quạt, dáng khoan thai cùng tiến vàoo nơi hành lễ. Sau

lễ tế là đến lễ tạ. Các giá đồng biểu diễn, các trò vui rộn ràng sân phủ, đường

đi chật ních khách thập phương hồ hởi sôi nổi tham dự.

Ngày mồng hai, làng Tiên Hương làm lễ mộc dục để lau chùi, rồi thay

khăn áo cho các tượng thánh. Lễ này cũng tương tự như lễ mộc dục trong

Phật giáo, có nhiều điểm tương đồng trong ngày Phật đản của Phật giáo. Lễ

mộc dục do bốn cô gái đồng trinh tiến vào nơi ngự của Thánh Mẫu, các cô lấy

khăn lụa đỏ nhúng vào nước giếng đựng trong một chiếc chậu thau đồng, lau

mình tượng. Sau đó, lau lại bằng một thứ nước được nấu sẵn bởi năm thứ lá:

trạch lan (đỏ tía), trầm hương (vàng), uất kim cương (xanh), an tức (đen) và

nhân long. Ở cung Đệ Nhị và trước cửa Đệ Tam, những người dự lễ chen

chúc nhau để chờ tranh được một mảnh khăn lụa đỏ hoặc một chén nước lau

mình thánh. Dải khăn này họ sẽ man trong mình để làm bùa hộ mệnh. Phải

chăng nghi thức này cũng giống nghi thức của đạo Phật khi du nhập vào,

trong lễ mộc dục, tắm Phật ngày mùng 8 tháng 4 người ta cũng tranh nhau vải

đỏ tắm Phật và mang bên người để tránh tà ma, xui xẻo.

Ngày mồng ba tháng ba – ngày giỗ Mẫu được tiến hành theo nghi thức

quốc lễ. Cuộc tế lễ được tiến hành theo nhiều nghi thức. Trước tiên chủ tế

khấn Phật rồi đọc văn tế thánh Mẫu Liễu Hạnh:

“Nam mô A Di Đà Phật.

Nam mô A Di Đà Phật.

53

Nam mô A Di Đà Phật....”

Các ngày tiếp theo, làm đám rước thỉnh kinh linh đình. Mồng bốn rước

từ Phủ Giáp Ba sang chùa Thông. Mồng năm từ Vân Cát sang chùa Dần.

Mồng sau từ Phủ chính Tiên Hương đến chùa Gôi và ngược lại. Lễ rước thỉnh

kinh ngày mùng 6 là đám rước thỉnh kinh lớn nhất trong ngày hội Phủ Dầy.

Đi đầu đám rước là các cô các bà mặc quần áo đẹp, tiếp đến là những người đi

cà kheo cao lênh khênh, rồi các phường múa rồng nổi tiếng của xã. Tất cả

những hành động nghi lễ đó vừa gây hưng phấn cho ngày hội vừa mục đích

mở đường rước Thánh. Tiếp dến là vị hòa thượng trụ trì chùa Tiên Hương

mặc lễ phục Phật giáo tay cầm tràng hạt, miệng tụng kinh niệm Phật. Sau đó

là 4 chiếc kiệu rước Thần Thánh, trên kiệu là những sắc phong và bát hương

thờ bà Chúa Liễu. Những âm thanh của các điệu hành văn, lưu thủy tăng thêm

không khí tưng bừng trên dọc đường. Từ đây đổ lại là đoàn người đi bộ. Đám

người xiên lình, đám các thanh đồng vừa đi vừa khấn vái, có người nhập đồng

nhảy múa, hò hét... Hai bên đường là các vãi già mặc áo nâu, miệng luôn

niệm “Nam mô A Di Đà Phật” và các con nhang đệ tử cùng nhân dân đi hành

hương, trẩy hội. Đám rước kéo dài hàng ngàn cây số từ sáng tới trưa. Lễ thỉnh

kinh do hòa thương chủ trì, hòa thượng đọc kinh, mọi người cùng tụng niệm,

sau khi thỉnh kinh đám rước lại được trả ngược về phủ chính để tham gia phần

hội với nhiều trò chơi dân gian phong phú.

Như vậy điều đó cho thấy rằng trọng sự phát triển của đạo Phật, tín

ngưỡng thờ Mẫu nói chung luôn có sự hỗ trợ đan xen lẫn nhau. Thậm chí

trong tín ngưỡng thờ cúng của thờ Mẫu phần nào cũng vay mượn đạo Phật và

ngược lại. Những nghi lễ trong đạo Phật lại là sư dung hợp và cải biến từ tín

ngưỡng thờ Mẫu. Đây là quá trình giao thoa văn hóa về mặt nghi lễ và thực

hành niềm tin tín ngưỡng. Niềm tin Mẫu luôn song hành và hòa cùng niềm tin

Phật giáo. Khi xét ở một chừng mực nào đó, nghi lễ thờ cúng trong tín

ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ thờ cúng trong đạo Phật tuy là khác biệt nhưng

trong chúng có sự vay mượn lẫn nhau, phảng phất lẫn nhau. Chính vì vậy,

54

trong thực hành nghi lễ của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ tại chùa, hay tại

đền Mẫu, Phủ... đặc biệt, trong văn khấn đôi khi là đồng nhất trong cách mở

đầu. Văn khấn ở những nơi này đều tụng niệm danh hiệu Di Đà: “Nam mô A

Di Đà Phật”.

Không chỉ riêng các chùa ở khu vực Nam Định mà nhiều chùa ở các

địa phương khác trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, việc thực hành nghi lễ trong

chùa không thể tách rời giữa lễ Phật và Mẫu. Hiện nay, hầu hết các chùa đều

có nhà Mẫu, cùng nằm trong một hệ thống không gian thờ cúng, nghi lễ thờ

cúng vừa khác lại vừa giống nhau, thể hiện sự dung hợp rõ rệt. Chùa thờ Phật,

lại thờ cả Thánh và Mẫu.

Nghi lễ thờ cúng tại chùa khá đơn giản, thường người ta dâng lễ tại

chính điện trước, rồi đến ban Đức Ông, ban Thánh Hiền, nhà Tổ, rồi đến nhà

Mẫu. Nghĩa là lễ Phật, Bồ Tát, Ngọc Hoàng trước rồi mới đến các ban điện

khác. Nghi lễ trong điện thờ Phật hay Tổ, họ cũng đều vái 3 hay 5 vái. Có

người còn đọc văn khấn xin sự phù hộ cho mình và gia đình. Hàng năm, nhân

dẫn lễ Phật theo các ngày mồng một, ngày rằm và các ngày lễ tết trong năm

và dường như theo một thông lệ đã lên chùa lễ Phật là mọi người đều qua nhà

Mẫu lễ Mẫu. Ở nhiều chùa, nhà Mẫu có khi sinh hoạt nghi lễ tấp nập. Nghi lễ

trình đồng, hầu đồng tại nhà Mẫu trong chùa cũng diễn ra rất quan trọng.

Trước khi diễn ra buổi hầu là công tác chuẩn bị rất kĩ càng, trong đó việc

quan trọng nhất đó là lễ thỉnh kinh Phật, sau lễ thỉnh kinh rồi mới đến lễ hầu

đồng.

Việc sắm sửa, dâng lễ và khấn vái Mẫu tại chùa được chuẩn bị một

cách kĩ càng. Hầu như việc lễ Mẫu là do con nhang đệ tử sắm sửa nhưng cũng

có khi co các vãi chuyên phục vụ tại chùa sắm sửa. Sắm lễ bao gồm hương

hoa, oản, quả và những đồ mặn như gà, lợn nấu chín hay đồ sống như gạo,

muối, cua, ốc,... đặt tại ban Ngũ Hổ, Thanh Xà, Bạch Xà. Riêng đối với cỗ

mặn Sơn Trang thì gồm cua, ốc, bún, chanh, ớt,... được sắm theo số mười

lăm. Nghĩa là lễ vật được chia thành mười lăm phần. Trong lễ ban thờ cô, cậu

55

gồm hương, hoa, oản, quả...và các thứ đồ vàng mã. Nhưng điều cơ bản là lễ

Mẫu không nhất thiết phải toàn là đồ mặn, mà có cả đồ chay. Thông thường,

nghi lễ hầu đồng tổ chức trong điện Mẫu của chùa diễn ra rất tốn kém trong

việc sắm lễ, nặng nề về mã gồm voi, ngựa, quần, áo...

Thứ tự lễ ban được người dân đồng bằng Bắc Bộ thực hiện khá linh

hoạt. Thường làm lễ trình Phật, sau đó rồi đến thổ địa, rồi mới vào dâng lễ

Mẫu. Trong khi tiến hành dâng lễ Mẫu, thường kết hợp nhiều hình thức nghệ

thuật diễn xướng tâm linh: nhảy, múa, hát chầu văn ứng với mỗi giá đồng.

Nội dung các bài hát chầu văn ca ngợi cảnh quan thiên nhiên có cây, núi,

sông, tán dương công lao dẹp giặc, trừ ma quỷ, chừa bệnh cứu người của các

Mẫu, các Cô, các Quan,... Nhìn chung, các hoạt động thực hành nghi lễ trong

chùa thể hiện rõ mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Tuy hai hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác

nhau về hệ tư tưởng nhưng lại có nhiều điểm chung và hoàn toàn có thể tích

hợp lại trong cùng một không gian thờ cúng, và có nhiều điểm tương đồng

trong nghi lễ thờ cúng. Mặt khác, thông qua nghi lễ thờ cúng cũng phần nào

thể hiện được những giá trị sinh hoạt văn hóa tâm linh truyền thống của người

dân Bắc Bộ.

2.4 Giá trị của mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu

của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ

Thứ nhất, mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã góp phần làm nên đặc thù của Phật

giáo Việt Nam.

Phật giáo truyền vào nước ta từ đầu công nguyên, đã có vị trí đáng kể

trong tín ngưỡng và tinh thần của người Việt. Với một lịch sử tồn tại đến nay

gần 2000 năm, Phật giáo từ cái ngoại lai trở thành cái bản địa, từ cái xa lạ trở

thành cái truyền thống thân thuộc với mọi người. Người Việt Nam tiếp thu

Phật giáo, đưa niềm tin Phật giáo vào gia tài tinh thần của mình, đồng thời họ

cũng trở thành chủ thể sáng tạo ra biết bao các công trình văn hóa của dân tộc

56

mang cốt cách Phật giáo Việt Nam, kể cả văn hóa vật thể lẫn văn hóa phi vật

thể như trong các lĩnh vực: Nông nghiệp, y học, âm nhạc, hội họa, kiến trúc,

điêu khắc,...

Con người Việt Nam tìm đến Phật giáo không chỉ thấy ở đấy sự che

trở, an ủi, giúp đỡ, giải thoát... mà mỗi khi đặt chân tới chốn cửa chùa người

ta có cảm giác thanh thoát nhẹ nhàng như rũ bỏ được phần nào những bụi

bặm của cuộc sống trần tục, gần gũi với thế giới xa lạ, huyền hảo nhưng đầy

hấp dẫn. Trong điều kiện nước ta hiện nay khi mà hiện tượng tiêu cực trong

xã hội còn phát triển, tệ nạn xã hội chưa ngăn chặn được, nạn than nhũng

ngày một gia tăng... Ở một mức đô nào đấy sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo

Việt Nam còn như một biểu hiện phản kháng lại tệ nạn xã hội đó và ít nhiều

ngăn chặn những tiêu cực xã hội đang nảy sinh.

Trải qua quá trình lịch sử, dựng nước và giữ nước, Phật giáo được nhân

dân ta đón nhận và tiếp thu phù hợp với tâm lý truyền thống của dân tộc và có

đặc điểm không tách rời tư tưởng “cứu quốc”. “Theo quan sát cuộc đấu tranh

của dân tộc từ trước đến nay không tư tưởng nào hơn Phật giáo, trừ chủ nghĩa

Cộng sản. Bình minh của lịch sử dân tộc đã gắn liền với Phật giáo”[11, tr.15].

Những chiến công oanh liệt, những thành tựu rực rỡ về chính trị văn hóa, xã

hội... Thời Lý - Trần tuy không thể hoàn toàn ghi công của Phật giáo, xong

không thể phủ nhận vai trò và những đóng góp to lớn của Phật giáo đối với

lịch sử dân tộc thời kỳ này khi nó trở thành Quốc giáo. Đương thời nhiều

thiền sư có vai trò rất lớn trong việc tham gia tích cực vào đời sống chính trị -

xã hội... của đất nước, hoặc làm cố vấn cho nhà vua, hoặc giữ chức vụ quan

trọng trong triều đình như: Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh...

Mối quan hệ giữa Phật giáo với Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc

Bộ đã tạo ra những nét riêng của Phật giáo Việt Nam, đạo Phật đã dung nạp

tục thờ Nữ thần, tục thờ Tứ Pháp vào thờ trong chùa từ khá sớm dưới dạng

Phật Mẫu và Phật Tứ Pháp cho thấy mối quan tâm đầu tiên của các nhà truyền

giáo là muốn truyền bá được đạo Phật vào người Việt thì phải hòa đồng với

57

tín ngưỡng bản địa. Sang đến thời Lý thì các vị sư được thờ trong chùa theo

lối kiến trúc “Tiền Phật hậu Thánh” và đến thế kỷ XVI trở đi đã an vị các vị

thần của Đạo giáo (Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu,...) Phật Bà Quan Âm

tọa sơn, Quan Âm Thị Kính thờ trong chùa Việt ở miền Bắc và nó trở thành

một nét văn hóa Phật giáo đặc sắc của Việt Nam mà các nước theo Phật giáo

đều không có đặc điểm này.

Trước khi có sự du nhập của Phật giáo vào nước ta thì các vị nữ thần

được thờ ở các đền miếu dân gian và được tôn vinh là các vị thần nông nghiệp

trông coi về Nước là yếu tố quan trọng bậc nhất trong sản xuất nông nghiệp

lúa nước. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam đã nhanh chóng dân gian hóa, thu

nhận tín ngưỡng thờ Tứ Pháo của người Việt cổ, dẫn đến các ngôi đền, miếu

chuyển hóa thành các chùa chiền[21]. Trong các lễ hội chùa thờ Tứ Pháp

người ta vẫn duy trì lễ tục Rước Nước(cầu Nước) của cư dân nông nghiệp với

ý nghĩa “cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu”. Có thể nói tục thờ Mẫu

và Tứ Pháp được đạo Phật dung nạp vào được thờ từ khá sớm, dưới dạng Phật

Mẫu và Phật Tứ Pháp, đây cũng là đặc điểm nổi bật của Phật giáo ngay từ ban

đầu du nhập vào văn hóa Việt Nam

Về lĩnh vực điêu khắc, khi tác tượng Phật Bà Quan Âm, các nghệ nhân

điêu khắc tượng tròn, tạc khuôn mặt của Phật Bà đã lột tả được nội tâm của

người phụ nữ Việt, với đặc điểm: Khuôn mặt trái xoan, mắt đen tròn, cổ cao

ba ngấn, môi dày, tà áo bó sát người... Từ đó hình tượng Phật Bà Quan Âm

tọa sơn hay Quan Âm Thị Kính đã được phối thờ trong chùa tại gian nhà tiền

đường ở một số ngôi chùa. Theo sách của nhà Phật, ở Ấn Độ thì Phật Quan

Âm vốn là nam giới nhưng khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, Việt Nam

đã chuyển hóa thành nữ giới là do Phật giáo có mối quan hệ với tín ngưỡng

dân gian của cư dân nông nghiệp là luôn đề cao bà Mẹ Đất – Nước – Núi với

các yếu tố nữ tính của tín ngưỡng thờ Nữ Thần và thờ Mẫu[4].

Thứ hai, mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu góp phần

58

làm nên bản sắc của Văn hóa Việt Nam

Trong số những tín ngưỡng bản địa, tục thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ

được cho là có sức sống dai dẳng và sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới đời

sống tinh thần của người Việt. Ngay cả vào thời kỳ Phật giáo, Nho giáo trở

nên cường thịnh, tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn được đông đảo dân chúng thực

hành thường xuyên. Không chỉ góp phần “bản địa hóa” tôn giáo ngoại lai

(Phật giáo), tín ngưỡng thờ Mẫu còn như một sự kháng cự “ngầm” với công

cụ cai trị của kẻ cầm quyền phong kiến phương Bắc (Nho giáo).

Điều này thể hiện rõ nhất qua sự xuất hiện của điện thờ Mẫu trong các

ngôi chùa ở Bắc Bộ. Từ vài trăm năm nay, tục thờ Mẫu không chỉ được thực

hành ở những đền (phủ hay điện) mà còn ở trong các khuôn viên chùa thờ

Phật. Hầu như các ngôi chùa ở khắp làng quê Việt Nam, do sự chi phối mạnh

mẽ của tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian, thông qua mối quan hệ mật thiết với

đạo Phật mà thường có kiến trúc theo kiểu “Tiền Phật, hậu Mẫu”. Dường như

việc thờ Mẫu là một bảo đảm chắc chắn cho sự tồn tại của ngôi chùa, khiến

đạo Phật có chỗ dựa vững chắc trong đời sống tâm linh ở cộng đồng người

Việt.

Dưới sự đô hộ hàng ngàn năm của phong kiến Phương Bắc, Nho giáo

được xem như công cụ cai trị, đồng hóa của giới cầm quyền. Tuy nhiên, dưới

chế độ phong kiến Bắc thuộc hà khắc, sự phát triển mạnh mẽ không ngừng

của tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa - nơi người phụ nữ được tôn thờ - như là một

thách thức với hệ tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” của Nho giáo.

Tín ngưỡng thờ Mẫu là nơi mà ở đó người phụ nữ gửi gắm những ước

vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, trói buộc của xã hội Nho

giáo phong kiến. Dân gian có câu: “Thứ nhất ngồi đồng, thứ nhì lấy chồng

làm quan”. Trở thành bà lớn là ước muốn xa xỉ của người phụ nữ trong xã hội

cũ nhưng vẫn chưa thể lớn hơn giấc mộng được ngồi chiếu đồng. Những

người đàn bà vốn chỉ quẩn quanh trong nhà, với ruộng đồng, bếp núc, chưa

khi nào có tiếng nói trong gia đình, xã hội, nhưng khi ngồi trên chiếu hầu lại

59

có xác phàm, hồn tiên với một quyền năng vô cùng huyền bí. Trong một xã

hội chịu sự chi phối của lời răn Khổng Mạnh, kìm kẹp nữ giới thì tính nữ

quyền trong tín ngưỡng thờ Mẫu chính là sự đối kháng rõ rệt nhất.

Với những giá trị nhân sinh tích cực, sự kết hợp của Phật giáo với tín

ngưỡng dân gian đã thẩm thấu vào đời sống đạo đức của người Việt thông

qua chức năng giáo dục, hướng con người tới các giá trị tốt đẹp, nhân văn.

Người Việt Nam đến với các ngôi chùa của đạo Phật là đến với cõi thanh

bình, an lạc. Ở đó, người ta không chỉ tìm được sự bình yên của tâm thức mà

còn bắt gặp sự gần gũi trong quan niệm tín ngưỡng của mình trong chùa Phật.

Để lấy lại cân bằng cũng như truyền trao dạy dỗ cho thế hệ trẻ về

truyền thống, về các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, để trở thành một

người công dân tốt có ích cho xã hội thì các ngôi chùa, hay các tụ điểm sinh

hoạt tín ngưỡng của Phật giáo đang trở thành điểm thu hút và có tác động

không nhỏ góp phần củng cố và duy trì nền đạo đức truyền thống.

Sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt

góp phần làm cho văn hóa, tâm thức người Việt trở nên hoàn chỉnh hơn,

phong phú hơn và sâu sắc hơn. Không chỉ làm giàu thêm những giá trị văn

hóa tín ngưỡng bản địa, tạo diện mạo mới, sắc mới cho tín ngưỡng thờ Mẫu

hoàn chỉnh hơn mà những giáo lý, nghi lễ của đạo Phật trở thành chân giá trị,

định hướng đạo lý cho mỗi người Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam

nhân văn, mang đậm căn tính “từ, bi, hỉ, xả”, tinh thần yêu nước, chuộng hòa

bình của Phật giáo.

Mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu qua các ngôi chùa

của Phật giáo cho chúng ta thấy rõ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể

rất có giá trị. Nó không chỉ cho ta thấy được những đặc điểm của phật giáo

Việt Nam mà quan trọng hơn còn giúp cho chúng ta thấy được dòng chảy và

những dấu ấn của lịch sử văn hóa, tư tưởng Việt Nam qua dấu ấn các ngôi

chùa. Chùa không chỉ là trung tâm trong các sinh hoạt tôn giáo mà còn là nơi

các tín ngưỡng dân gian được khai mở, phát triển và khẳng định nét đặc thù

60

của mình. Các ngôi chùa của Phật giáo Việt Nam không chỉ là nới thờ Phật,

thực hành tín ngưỡng Tam Phủ - Tứ Phủ mà còn là một quần thể kiến trúc đa

dạng, đẹp và nên thơ. Đó là sự hòa quyện của sự uyên thâm của giáo lý Phật

giáo với những triết lý gần gũi, đời thường của người dân Việt, tạo thành

những giá trị văn hóa vật thể rất có giá trị.

Tiểu kết chương 2: Tín ngưỡng thờ Mẫu là hiện tượng văn hóa tâm

linh độc đáo trong hệ thống tín ngưỡng tâm linh đa thần của Việt Nam. Trong

tiến trình hình thành và phát triển của mình tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian đã

có mối quan hệ tương hỗ tương sinh cho các hiện tượng tông giáo khác, đặc

biệt với Phật giáo dân tộc từ ngàn xưa đến nay. Vì vậy ngườ ta tôn thờ tin

tưởng vào các đấng thần linh tối thương để cầu mong cho sự phù hộ độ trì che

trở cho kiếp sống của con người ở trần gian. Cũng nhờ có đức tin cao cả đó

mà con người ta luôn hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống là cái

chân thiên mỹ, giúp cho con người luôn hướng tới tu nhân tích đức khuyến

thiện trừ ác hòa thuận thương yêu giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh cuộc

sống. Đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu là 2 tín ngưỡng tôn giáo đã tích tụ bảo

lưu hàm chưa nhiều giá trị tiêu biểu của lịch sử và văn hóa truyền thống, góp

phần giữ gìn lưu truyền và phát huy những tinh hóa văn hóa dân tộc độc đáo

61

và bản sắc Việt Nam.

KẾT LUẬN

Sự dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu đã đáp ứng nhu

cầu của quần chúng nhân dân ở Đồng bằng Bắc Bộ. Tin vào sự phù hộ độ trì

của Phật và cả Thánh Mẫu thể hiện niềm tin của nhân dân khi đến chùa. Đây

là một đức tin không chỉ bó hẹp ở nông thôn mà còn phổ biến ở thành thị.

Nếu như người dân tinh tưởng vào sự thiêng liêng phù hộ độ trì của

Phật đó là cầu mong sự bình an may mắn, cầu mong sự tốt lành,đề cao chữ

“Tâm”. Thì, tin tưởng vào sự thiêng liêng, phù hộ độ trì của Mẫu đó là truyền

thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, tôn vinh những người có công với nước.

Tín ngưỡng thờ Mẫu đề cao hình tượng Mẫu – người Mẹ nhằm tôn vinh thờ

phụng và tạo nên niềm tin giá trị nhân bản giá trị đạo đức và truyền thống

Việt Nam. Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu là hình tượng của người mẹ Việt

Nam, hình tượng của một đấng thần linh luôn luôn cứu độ chúng sinh thoát

khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc sống. Nét đặc trưng trong tín ngưỡng thờ

Mẫu là nghi thức hầu đồng, với 36 giá đồng, Mẫu đã hóa thân vào tất thảy để

giúp cho nhân dân, cầu cho nhân dân vượt qua mọi khó khăn, xây dựng cuộc

sống ấm no, tốt đẹp hơn. Đặc biệt, tín ngưỡng thờ Mẫu luôn ca ngợi, tôn vinh

công đức của những danh nhân, những người có công xây dựng và bảo vệ tổ

quốc, giúp đỡ nhân dân thoát khỏi những tai ương trong cuộc sống.

Bên cạnh ý nghĩa tín ngưỡng mối quan hệ giữa đạo Phật và tín ngưỡng

thờ Mẫu còn thể hiện sự tích hợp văn hóa nghệ thuật gồm: văn học dân gian,

diễn xướng, tạo hình trong các lễ hội, nghi lễ tôn giáo. Đây cũng là một sinh

hoạt văn hóa cộng đồng, thu hút rất nhiều người, đặc biệt là các bà mẹ tham

gia. Đặc biệt đối với tín ngưỡng thờ Mẫu, trong quá trình hình thành, phát

triển của tín ngưỡng thờ Mẫu có hàng trăm bài chầu được dân gian sáng tác.

Các bài văn chầu với nội dung mô tả ca ngợi công đức, cảnh tỉnh, răn dạy

62

người đời. Tín ngưỡng thờ Mẫu sản sinh ra những hình thức diễn xướng riêng

bắt nguồn từ dân gian, mang sắc thái dân gian độc đáo, không bị trộn lẫn với

bất kì hình thức diễn xướng nào.

Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu không chỉ đáp ứng

nhu cầu tâm thức nhằm phong phu đời sống tâm linh của nhân dân Đồng bằng

Bắc Bộ mà đó còn là quá trình bổ sung lẫn nhau giữa Phật giáo và tin ngưỡng

thờ Mẫu. Phật giáo một mặt tiếp thu tín ngưỡng thờ Mẫu để phù hợp với tâm

thức người Việt nói chung. Mặt khác tín ngưỡng thờ Mẫu hòa quyện cùng

Phật giáo để bổ sung cho mình những triết lý nhân sinh, nhân bản, tư tưởng từ

bi hỷ xả. Đó là quá trình dung hợp sự tương tác qua lại giữa tín ngưỡng bản

địa và tôn giáo ngoại nhập. Quá trình tiếp biến giữa tín ngưỡng thờ Mẫu và

Phật giáo làm giàu thêm giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, hướng con

người tới cái thiện cái đẹp đẽ. Đó là quá trình tín ngưỡng Mẫu và Phật giáo

63

khẳng định căn tính của Việt Nam, bản sắc của Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Ngọc Anh (2016): Sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng

thờ Mẫu của người Việt, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội,

Việt Nam

2. Phan Kế Bính (1997): Việt Nam phong tục, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.

3. Trần Lâm Biền (1996): Chùa Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

4. Trần Lâm Biền (1994): Cục di sản văn hóa Việt Nam, bài giảng cho sinh

viên khoa bảo tồn - bảo tàng, trường Đại học Văn hóa, Hà nội.

5. Bùi Hạnh Cẩn – Lê Chân ( 1993): Chợ Viềng và hội phủ, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

6. Võ Đình Cường (1986): Mấy suy nghĩ về tính chất nhân bản của Phật

giáo, mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết

học, Hà Nội.

7. Nguyễn Mạnh Cường (2000): Chùa Dâu – Tứ pháp và hệ thống các

chùa Tứ pháp, Nxb Khoa học – Xã hội, Hà Nội.

8. Đặng Minh Châu (2015): Mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân

gian Việt Nam (qua nghiên cứu một số ngôi chùa tiêu biểu của phật giáo

Bắc tông), luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.

9. Nguyễn Đăng Duy (2001): Các hình thái tôn giáo tín ngưỡng ở Việt

Nam, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.

10. Nguyễn Đăng Duy (1996): Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội.

11. Phan Đại Doãn - Lê Văn Mỹ (1987): Phật giáo dân gian vùng Dâu (Hà

Bắc), Tạp chí văn hóa dân gian, số 1.

12. Trần Văn Giàu (1986): Đạo Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng

Việt Nam, mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện

64

Triết học, Hà Nôi.

13. Nguyễn Hùng Hậu (2002): Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam (tập

1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (1984): Các Nữ thần Việt Nam, Nxb

Phụ nữ, Hà Nội.

15. Tạ Chí Hồng (2004): Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống

đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội.

16. Nguyễn Duy Hinh và cộng sự (2011): Phật giáo trong văn hóa Việt Nam,

Về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam

17. Đỗ Quang Hưng (2005): Về vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam,

Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Đinh Gia Khánh (1992): Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hoá

dân gian ở Việt Nam, Tạp chí Văn hoá, số 5, trang 7 – 13.

19. Vũ Ngọc Khánh (2005): Tục thờ đức thánh Mẫu và đức thánh Trần, Nxb

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

20. Vũ Ngọc Khánh (2002): Nữ Thần và Thánh Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

21. Vũ Ngọc Khánh (2006): Đạo Thánh ở Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông

tin, Hà Nội.

22. Vũ Ngọc Khánh, Ngô Đức Thịnh (1991): Tứ bất tử, Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

23. Đặng Văn Kim (2016): Tiếp biến và hội nhập văn hóa Việt Nam, Nxb

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

24. Phan Thị Kim (2011): Tìm hiểu mối quan hệ giữa phật giáo với tín

ngưỡng thờ mẫu ở khu vực đồng bằng bắc bộ, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.

25. Nguyễn Lang (1992): Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học,

Hà Nội.

26. Vũ Tự Lập (Chủ biên – 1991): Văn hóa và cư dân đồng bằng Sông

65

Hồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Quang Lê (1994): Thử tìm hiểu mối quan hệ giữa lễ hội với các

tín ngưỡng dân gian, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1,4.

28. Đặng Văn Lung (1991): Tam tòa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa dân tộc.

29. Đặng Văn Lung (2004): Văn hóa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa -Thông tin,

Hà Nội.

30. Nguyễn Đức Lữ (1994): Vị trí người phụ nữ trong tôn giáo tín ngưỡng ở

Việt Nam, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 4, tr. 1-3.

31. Nguyễn Ngọc Mai (2011): Hiện tượng lên đồng trong bối cảnh mới, luận

án tiến sĩ hóa học.

32. Phan Ngọc (2002): Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học.

33. Nguyễn Quốc Phẩm (1998): Góp bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín

dị đoan, Tạp chí Văn hoá nông thôn, số 11, trang 11 – 13.

34. Lê Mạnh Thát (1999): Lịch sử Phật giáo Việt Nam (3 tập), Nxb Thuận

Hoá, Huế.

35. Lê Mạnh Thát (1999): Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Đại học Vạn Hạnh,

Sài Gòn.

36. Vũ Hồng Thuật (1999): Đôi điều về nghi lễ thờ Mẫu của người Việt ở

đồng bằng Bắc Bộ, Tạp chí dân tộc học, số 2, tr. 39-46.

37. Thơ văn Lý – Trần (1977), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

38. Ngô Đức Thịnh (2002): Đạo Mẫu ở Việt Nam (2 tập), Nxb Văn hóa dân

gian, Hà Nội.

39. Ngô Đức Thịnh (2009): Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1), Nxb Tôn giáo,

Hà Nội.

40. Ngô Đức Thịnh (2004): Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc

người ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

41. Ngô Đức Thịnh (2008): Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận,

Nxb Thế Giới, Hà Nội.

42. Đức Thiện (2002): Tín ngưỡng thờ tứ pháp - hiện tượng tiếp biến văn

66

hóa Ấn Độ, số 6 .

43. Nguyễn Hữu Thụ (2009): Đôi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo và tín

ngưỡng thờ mẫu qua truyền thuyết Phật mẫu Man Nương và Thánh mẫu

Liễu Hạnh, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 4.

44. Nguyễn Tài Thư (1993): Lịch sử Phật Giáo Việt Nam, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

45. Nguyễn Hữu Toàn (2004): Một số sinh hoạt văn hoá - tín ngưỡng ở

vùng Dâu, Tạp chí Di sản văn hoá, số 17.

46. Nguyễn Huyền Trang (2013): Sự dung thông giữa Phật giáo với tín

ngưỡng dân gian Việt Nam thời kì đầu du nhập, Hà Nội.

47. Lê Hữu Tuấn (1999): Ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật giáo

trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam, Luận án tiến sĩ

Triết học, Hà Nội.

48. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1996): Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam

hiện nay, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Thanh Long, Tín ngưỡng thờ Mẫu trong mối quan hệ với tín ngưỡng tôn

giáo khác. Truy cập trên:

http://btgcp.gov.vn/plus.aspx/vi/news/38/0/240/0/11577/Tin_nguong_tho_Ma

u_trong_moi_quan_he_voi_tin_nguong_ton_giao_khac

50. http://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/su-kien-van-de/12011-

Vai-tro-cua-nguoi-phu-nu-trong-van-hoa-Phat-giao-Viet-Nam.html

51. http://tuphuthanhmau.blogspot.com/p/van-khan-tu-phu.html

67

52. Giới thiệu kinh sách Phật giáo. Truy cập trên : https://thuvienhoasen.org/

PHỤ LỤC ẢNH

68

Tượng Tứ Pháp: Pháp Vân-Pháp Vũ-Pháp Lôi-Pháp Điện

69

Lễ hội Phủ Dầy, Nam Định

Phủ chính Tiên Hương rực sáng với màn pháo bông trong đêm rước lửa.

Nơi đây là trung tâm các hoạt động của Lễ hội Phủ Dầy

Đàn tràng với các lễ vật tiến cúng trên ban thờ trong một nghi lễ trình đồng,

70

mở phủ.

Rước kiệu của các xã trong hội Phủ Dầy

Rước Thánh Mẫu trong Lễ hội Phủ Dầy đi đầu là hoà thượng cùng 2 vị sư

71

niệm kinh Phật

Đoàn rước Mẫu Đệ Nhất được phủ khăn màu đỏ với những phu kiệu mặc

trang phục cùng màu tạo nên vẻ trang nghiêm, kính cẩn

72

Kiệu rước Mẫu Đệ Nhị (Mẫu Thượng Ngàn)

Kiệu Mẫu Đệ Tam (Mẫu Thoải)

73

Đoàn rước Mẫu trở về phủ chính Tiên Hương

74

Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ tại Phủ Dầy-Vụ Bản-Nam Định

Lễ khai hội tại Phủ Tây Hồ - Hà Nội

75

Đồ mã trong nghi lễ hầu đồng

Ban thờ Đức Thánh Hiền

76

Đồng Thầy Nguyễn Đức Hiển hầu giá Quan Hoàng Mười.