
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA HÓA HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
KHẢO SÁT THÀNH PHẦN HÓA HỌC
CAO ETHYL ACETATE LÁ CÂY ME RỪNG
PHYLLANTHUS EMBLICA
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Ánh Tuyết
Sinh viên thực hiện : Bùi Thị Hồng Lĩnh
Mã số sinh viên : K38.201.062
Tp Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2016

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG:
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................
.............................................................................................

Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Hồng Lĩnh
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, chất lượng cuộc sống ngày càng
cao, con người càng quan tâm hơn đến việc chăm sóc sức khoẻ. Thế nhưng bệnh tật
không vì thế mà giảm đi, tỷ lệ mắc bệnh tăng lên từng ngày xuất phát từ nhiều nguyên
nhân do ô nhiễm môi trường, do hóa chất trong thực phẩm, hay cũng có thể do di truyền
và nhiều nguyên nhân khác…
Trước tình trạng đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành tìm kiếm các loại
thuốc có nguồn gốc từ thiên nhiên với hi vọng những tìm ra những hợp chất mới có thể
trị bệnh một cách an toàn, thân thiện với sức khỏe con người.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên được thừa hưởng nguồn thiên
nhiên vô cùng phong phú với nhiều loài dược liệu quí. Các hợp chất thiên nhiên thể
hiện hoạt tính sinh học rất đa dạng nên là một trong những định hướng để nghiên cứu,
chiết xuất và tìm ra các loại thuốc mới bằng con đường tổng hợp.
Nhằm đóng góp một phần hiểu biết thêm về thành phần hóa học của cây thuốc dân
gian, chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát thành phần hóa học cao ethyl acetate lá cây me
rừng”.
Me rừng là một loài cây mà hầu hết các bộ phận rễ, thân, lá, hoa, quả, hạt đều có thể
dùng làm thuốc trị bệnh. Rễ me rừng trị viêm ruột, đau bụng đi ngoài, cao huyết áp, hạt
được sử dụng để trị hen hay viêm khí quản, lá dùng làm thuốc trị phù thũng, viêm da mẩn
ngứa, eczema hay dùng nấu nước tắm rửa phòng trị bệnh ngoài da, quả me cũng được chế
thành thuốc long đờm, hạ nhiệt, lợi niệu, trị tiêu chảy, chống bệnh thiếu vitaminC…. Hi
vọng với đề tài này có thể đóng góp một phần nhỏ những chứng cứ khoa học có giá trị
vào kho dược liệu của Y học dân tộc Việt Nam.
1

Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Hồng Lĩnh
Chương I
TỔNG QUAN
1.1. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT
Me rừng còn gọi là chùm ruột núi hay du cam tử, ngưu cam tử, dư cam tử
Tên khoa học: Phyllanthus emblica Linn
Thuộc họ thầu dầu Euphorbiaceae. [1]
Hình 1.1 Cây me rừng Hình 1.2 Quả me rừng
Cây me rừng phân bố chủ yếu ở những khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Malaysia. Ở nước ta, cây me rừng mọc phổ biến trên các đồi
trọc, các bãi hoang, trong các rừng thưa [1].
Me rừng là cây ưa ánh sáng, chịu được khô hạn, cây nhỡ cao 3m, phân nhiều cành nhỏ
mềm, có lông, dài 20cm. Hoa nhỏ, cụm hoa thành xim co mọc ở nách lá phía dước của
cành, gồm rất nhiều hoa đực và vài hoa cái. Hoa mọc từ tháng 3 đến tháng 11. Lá xếp
thành hai dãy trên các cành nhỏ trông giống một lá kép lông chim, cuống lá rất ngắn. Lá
kèm rất nhỏ hình ba cạnh. Quả hình cầu trước mọng, sau khô thành quả nang, hạt hình ba
cạnh, màu hồng nhạt[1].
1.2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ DƯỢC TÍNH
1.2.1 Dược tính theo y học cổ truyền
Ở Việt Nam:
2

Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Hồng Lĩnh
Quả có vị chua, ngọt, đắng, tính mát, có tác dụng nhuận phế, hóa đờm, sinh tân,
chữa cảm, phát sốt ho, đau cổ họng [1].
Rễ có tác dụng trị viêm ruột, đau bụng đi ngoài, cao huyết áp: ngày dùng 15-20g
rễ sắc uống [1].
Lá có tác dụng trị lở loét, mẩn ngứa [1].
Ở Ấn Độ:
Cây me rừng là một trong những loài thảo dược được sử dụng phổ biến ở Ấn Độ
và được coi như một nguồn cung cấp vitamin C. Quả tươi là một vị thuốc mát, lợi tiểu,
nhuận tràng , quả khô dùng chữa lỵ, ỉa chảy.
Cây có tác dụng hạ men gan, tăng hấp thụ thức ăn, cân bằng lượng acid trong dạ
dày, tăng cường phổi và hệ miễn dịch, kích thích nhuận tràng, hỗ trợ hệ tiết niệu, tốt cho
da, mắt và tóc.[3]
1.2.2 Một số nghiên cứu về dược tính
+ Hoạt tính kháng herpes simplex virus (HSV) loại 1 và loại 2.
Năm 2011, Yangfei Xiang và các cộng sự [16] đã thử nghiệm khả năng kháng
viêm nhiễm HSV-1 và HSV-2 của hợp chất 1,2,4,6-tetra-O-galloyl-
β
-D-glucose
(1246TGG) (62) được cô lập từ cây me rừng. Kết quả cho thấy 1246TGG ở nồng độ
31,70 µM có khả năng ức chế sự phát triển của virus Herpes và có thể được dùng trong
điều trị HSV.
+ Tác dụng gây độc tế bào ung thư.
Năm 2011, Xiaoli Liu cùng với các cộng sự [15] đã tiến hành nghiên cứu khả năng
điều hòa miễn dịch và gây độc tế bào ung thư của một số hợp chất phenol được cô lập từ
quả me rừng. Kết quả cho thấy hai hợp chất isocorilagin (49) và geraniin (50) có khả
năng gây độc tế bào ung thư vú (MCF-7) ở người với IC50 lần lượt là 13,2 và 80,9 µg/ml.
Ngoài ra, isocorilagin (49) còn có tác dụng gây độc tế bào ung thư phổi (HELF) ở người
với IC50 51,4 µg/ml.
+ Tác dụng phục hồi tổn thương tinh hoàn do tác dụng phụ của thuốc động kinh.
3