TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA HÓA HỌC
===
===
NGUYỄN THỊ ÁNH
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC CẶN
HEXAN CỦA LOÀI SAO BIỂN ĐỎ
ANTHENEA ASPERA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Hóa học hữu cơ
HÀ NỘI - 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA HÓA HỌC
===
===
NGUYỄN THỊ ÁNH
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC CẶN
HEXAN CỦA LOÀI SAO BIỂN ĐỎ
ANTHENEA ASPERA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Hóa học hữu cơ
Người hướng dẫn khoa học
GV NGUYỄN ANH HƯNG
HÀ NỘI - 2017
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy
Nguyễn Anh Hưng đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận
tốt nghiệp, cùng các anh (chị) phòng Hóa sinh hữu cơ -Viện Hóa học các Hợp
chất thiên nhiên đã giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Hóa học các Hợp chất
thiên nhiên - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tạo điều
kiện cho em hoàn thành đề tài khóa luận tại Viện Hóa học các Hợp chất thiên
nhiên.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Hóa học-
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tận tình truyền đạt kiến thức trong
những năm em học tập. Đồng thời, em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới gia đình,
bạn bè, những người đã động viên, khuyến khích, tạo mọi điều kiện để em có
thể thực hiện khóa luận thành công.
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, khó tránh khỏi sai sót,
rất mong các thầy, cô bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh
nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài khóa luận không thể tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp thầy, cô để em học thêm
được nhiều kinh nghiệm và để đề tài của em được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Người thực hiện
Sinh viên
i
Nguyễn Thị Ánh
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em và được
sự hướng dẫn khoa học của thầy Nguyễn Anh Hưng.
Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và
chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận
xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ
trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào em xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Trường đại học sư phạm Hà Nội 2 không liên quan đến những vi
phạm tác quyền, bản quyền do em gây ra trong quá trình thực hiện (nếu có).
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Người thực hiện
Sinh viên
ii
Nguyễn Thị Ánh
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ............................................................................. 4
1.1 Đặc điểm sinh học và phân bố của sao biển Anthenea aspera ................... 4
1.2. Thành phần hóa học các loài thuộc lớp sao biển Asteroidea ..................... 6
1.2.1. Các hợp chất steroid ................................................................................ 7
1.2.2. Nhóm hợp chất ceramide và cerebroside .............................................. 15
1.2.3. Lipid, axit béo và axit amin................................................................... 20
1.2.4. Một số hợp chất khác ............................................................................ 24
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM ...................................................................... 26
2.1. Nguyên liệu. ................................................................................................................................. 26
2.2. Các phương pháp chiết mẫu. .................................................................... 26
2.2.1. Chọn dung môi chiết. ............................................................................ 26
2.2.2. Quá trình chiết. ...................................................................................... 28
2.3 Các phương pháp sắc kí trong phân lập các hợp chất hữu cơ. .................. 30
2.3.1. Đặc điểm chung của phương pháp sắc kí .............................................. 30
2.3.2. Cơ sở của phương pháp sắc kí. ............................................................. 31
2.3.3. Phân loại các phương pháp sắc kí. ........................................................ 31
2.4. Một số phương pháp hoá lý xác định cấu trúc của các hợp chất hữu cơ. 33
2.4.1. Phổ khối lượng (Mass spectroscopy, MS). ........................................... 34
2.4.2. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy NMR). ....................................................................................... 35
2.5. Phương pháp phân lập các hợp chất. ........................................................ 37
2.5.1. Sắc kí lớp mỏng (TLC). ........................................................................ 30
2.5.2. Sắc kí lớp mỏng điều chế. ..................................................................... 31
2.5.3. Sắc kí cột (CC). ..................................................................................... 38
iii
2.6. Quy trình phân lập các hợp chất .............................................................. 38
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
2.7. Dữ liệu phổ của các chất phân lập được. ................................................. 39
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN. ................................................. 41
3.1. Xác định cấu trúc của hợp chất SD5 ........................................................ 41
3.2. Xác định cấu trúc của hợp chất SD6 ........................................................ 46
KẾT LUẬN .................................................................................................... 52
iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 53
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
VIẾT TẮT
DANH MỤC CHỮ
13C NMR
Độ quay cực Specific Optical Rotation [α]D
1H - NMR
Carbon-13 Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy Phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân cacbon 13
1H 1H COSY
1H 1H chemical shift correlation Spectroscopy
Proton Magnetic Resonance Spectroscopy
Two-Dimensional NMR
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân hai chiều 2D-NMR
Sắc ký cột column chromatography CC
Distortionless Enhancement by polarisation Transfer DEPT
Phổ khối lượng va chạm electron EI-MS
Electron Impact Mass Spectrometry
Phổ khối lượng bắn phá nguyên tử nhanh FAB-MS
Fast Atom 13 om bardment Mass Spectrometry
Phổ khối lượng bắn phá nguyên tử nhanh phân giải cao
Heteronuclear Multiple Quantum coherence HMBC
HR-FAB-MS
Spectrometry
IR
Me Hight Resolution Fast Atom Bombardment Mass Phổ hồng ngoại Infrared Spectroscopy Nhóm Metyl
MS Phổ khối lượng Mass Spectroscopy
NOSY Nucler Overhauser Effect Spectroscopy
Sắc ký lớp mỏng Thin Layer chromatography
TLC
v
HSQC Heteronuclear Single-Quantum Correlation
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Bảng 3.1: Dữ liệu phổ của hợp chất SD5 ................................................................................... 45
Bảng 3.2: Dữ liệu phổ của hợp chất SD6 ................................................................................... 50
vi
DANH MỤC BẢNG
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Hình 2.1. Ảnh minh họa mẫu sao biển Anthenea aspera. ................................................... 27
Hình 3.1. Phổ 1H NMR của hợp chất SD5 ................................................................................ 43
Hình 3.2 Phổ 13C-NMR và DEPT của hợp chất SD5 .......................................................... 44
Hình 3.3 Phổ HSQC và HMBC của hợp chất SD5 ................................................................ 45
Hình 3..4. Phổ 1H NMR của hợp chất SD6 ............................................................................... 48
Hình 3.5 Phổ 13C-NMR và DEPT của hợp chất SD6 ........................................................... 49
Hình 3.6 Phổ HSQC và HMBC của hợp chất SD6 ................................................................ 50
vii
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
MỞ ĐẦU
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ tây của Biển Đông, với bờ
biển dài khoảng 3.260km trải dài trên 13 vĩ độ, có tỷ lệ chiều dài đường biển
trên diện tích đất liền cao nhất Đông nam á, vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2 với trên bốn nghìn đảo lớn, nhỏ trải dọc từ
Bắc vào Nam và hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí đặc
biệt quan trọng về địa chính trị và địa kinh tế. Việt Nam được đánh giá là một
trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và là một trong 20 vùng biển có
nguồn lợi hải sản giàu có nhất toàn cầu. Như vậy, ngoài ý nghĩa về quân sự,
về an ninh quốc phòng và an ninh khu vực, kinh tế biển còn quyết định phần
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhận thấy tầm quan trọng đó, công tác
điều tra nghiên cứu môi trường và tài nguyên sinh vật biển Đông ngày càng
được đẩy mạnh, khẳng định những ý nghĩa quan trọng với đất nước nhất là
trong giai đoạn mới.
Hòa chung với sự phát triển của ngành hóa học các hợp chất thiên
nhiên trên thế giới, việc nghiên cứu các chất có hoạt tính sinh học từ nguồn
sinh vật biển Việt Nam đã được triển khai bài bản, bắt đầu từ các nhiệm vụ
nghiên cứu cơ bản, đến các nhiệm vụ trọng điểm và nhiệm vụ nghiên cứu cơ
bản định hướng ứng dụng. Từ các sinh vật biển như các loài hải miên
(sponges), san hô mềm (soft corals), da gai (echinoderms) và ngay cả các loài
vi sinh vật biển, các nhà khoa học đã tìm ra được nhiều hợp chất. Tuy nhiên,
so với nguồn tiềm năng sinh vật biển ở nước ta thì đến nay những công trình
nghiên cứu trong nước vẫn quá ít và tản mát, đặc biệt là những nghiên cứu về
lớp Sao biển (Asteroidea) .
Khoảng 1.800 loài sao biển còn sống hiện diện trong tất cả các đại
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
1
dương của thế giới, bao gồm cả Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Dương, Bắc Cực và các vùng đại dương phía Nam. Sao biển có mặt ở trên
một phạm vi sâu rộng từ các bãi triều đến độ sâu thẳm (6.000 m).
Nghiên cứu cho thấy có nhiều hợp chất được phân lập từsao biển có cấu
trúc hóa học đa dạng và thể hiện hoạt tính sinh học thú vị khác nhau
như:chống khối u, tan máu, kháng viêm, giảm đau, giảm huyết áp, gây độc tế
bào, kháng khuẩn, kháng nấm, chống tăng đường huyết và kháng một số dòng
tế bào ung thư, kháng virus như virus HIV, HSV, CoxB, EMCV và VSV….
Một số công trình nghiên cứu về sao biển đã được xuất bản như nghiên
cứu động vật không xương sống trong khu hệ động vật đáy vùng biển Đông
Dương của Dawydoff (1952), báo cáo của Trần Ngọc Lợi (1967), nghiên cứu
khu hệ động vật và điều kiện sống ở vịnh Bắc Bộ của Gurjanova (1972).
Những báo cáo ở giai đoạn tiếp theo chủ yếu của Đào Tấn Hỗ như Sơ bộ
nghiên cứu về động vật da gai ở quần đảo Trường Sa (1991), ở vùng đảo Phú
Quốc và Thổ Chu (1992), động vật da gai ở vùng biển tỉnh Khánh Hòa (2002)
hay sinh vật đáy vùng biển Thuận Hải – Minh Hải (Nguyễn Văn Chung và
cs., 1991). Kết quả tổng hợp từ các nghiên cứu cho thấy, có khoảng 56 loài
sao biển được ghi nhận ở vùng biển Việt Nam (Đào Tấn Hỗ, 2002; Lane và
cs., 2000). Báo cáo gần đây của Antokhina và cs., 2012 tổng hợp từ các báo
cáo trước và kết quả thu mẫu trong giai đoạn từ 2003-2011 đưa ra một danh
mục gồm 79 loài sao biển được ghi nhận vùng ven bờ biển Việt Nam. Tuy
vậy, số liệu trên vẫn còn khá khiêm tốn so với 236 loài sao biển ở vùng biển
Đông (Đào Tấn Hỗ, 2002; Chao, 2000; Lane và cs., 2000; Liu và cs., 2006;
Antokhina và cs., 2012). Điều này cho thấy khả năng có thể tìm thấy thêm
nhiều loài sao biển ở vùng biển Việt Nam.
Anthenea asperalà một loài sao biển có thành phần hóa học đa dạng với
nhiều hoạt tính sinh học khác nhau đã tìm thấy ở Việt Nam. Tuy nhiên, số
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
2
công trình nghiên cứu về Anthenea aspera còn hạn chế. Do đó chúng tôi tiến
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
hành đề tài “Nghiên cứu thành phần hóa học cặn hexan của loài sao biển
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
3
đỏ Anthenea aspera”.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1 Đặc điểm sinh học và phân bố của sao biển Anthenea aspera
Sao biển Anthenea aspera thuộc chiAnthenea, họ Oreasteridae, lớp
Asteroidea, ngành Echinodermata (động vật da gai).
Hiện nay, chi Anthenea có khoảng 31 loài. Chúng phân bố ở tất cả đại
dương trên thế giới, đặc biệt phải kể đến các vùng biển Australia, Đông Thái
Bình Dương, Bắc Mỹ và vùng biển nhiệt đới Ấn Độ - Thái Bình Dương [1].
Danh sách một số loài Sao biển chi Anthenea:
1. Anthenea acanthodes H.L.Clark, 1938
2. Anthenea aspera Döderlein, 1915
3. Anthenea australiae Döderlein, 1915
4. Anthenea conjugens Döderlein, 1935
5. Anthenea crassa H.L.Clark, 1938
6. Anthenea crudelis Döderlein, 1915
7. Anthenea diazi Domantay, 1969
8. Anthenea edmondi A.M.Clark, 1970
9. Anthenea elegans H.L.Clark, 1938
10. Anthenea flavescens (J.E.Gray, 1840)
11. Anthenea godeffroyi Döderlein, 1915
12. Anthenea grayi Perrier, 1875
13. Anthenea mertoni Koehler, 1910
14. Anthenea mexicana A.H.Clark, 1916
15. Anthenea obesa H.L.Clark, 1938
16. Anthenea pentagonula (Lamarck, 1816)
17. Anthenea polygnatha H.L.Clark, 1938
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
4
18. Anthenea regalis Koehler, 1910
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
19. Anthenea rudis Koehler, 1910
20. Anthenea sibogae Döderlein, 1915
21. Anthenea tuberculosa J.E.Gray, 1847
22. Anthenea viguieri Döderlein, 1915
23. Anthenea difficilis Liao Liao & Clark, 1995
24. Anthenea acuta Perrier, 1869
25. Anthenea chinensis Gray, 1840
26. Anthenea globigera Döderlein, 1915
27. Anthenea granulifera Gray, 1847
28. Anthenea nuda Döderlein, 1915
29. Anthenea obtusangula Döderlein, 1915
30. Anthenea pentagonula Studer, 1884
31. Anthenea spinulosa Gray, 1847
Loài sao biển Anthenea aspera phân bố từ Namibia đến Durban trên bờ biển
Nam Phi, bán thủy triều đến 82m.
Sao biển Anthenea aspera có cấu tạo điển hình của động vật da gai- hình sao,
có đối xứng tỏa tròn bậc 5, gồm có một đĩa trung tâm và 5 hay nhiều cánh xếp
xung quanh.Đường kính của một con sao biển Anthenea aspera trường thành
khoảng 15-20 cm. Mặt lưng của chúng hơi lồi lên, màu sắc của chúng thay đổi
từ cam đến đỏ, bụng phẳng, có miệng. Lỗ miệng có màu sặc sỡ. Bên trong
quanh miệng là vòng ống nước, từ đó phát ra năm ống nước nhánh hình nan
quạt tỏa ra năm cánh, mỗi ống nước nhánh có hai dãy chân ống.
Sao biển di chuyển được là nhờ hệ thống ống dẫn nước chứa đầy dịch lỏng.
Nước qua lỗ tấm sàng tập trung vào ống đá có thành là đá vôi và đổ vào ống
dẫn nước quanh miệng. Sau đó nước từ ống dẫn nước quanh miệng tỏa ra 5
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
5
ống dẫn nước phóng xạ trong 5 cánh. Từ ống dẫn nước phóng xạ này, nước
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
lại vào các ampun và chân ống, sau đó xuyên qua tấm chân ống để ra ngoài.
Trong khi di chuyển thì sao biển sẽ dồn nước từ ống dẫn nước vào chân ống
làm chân ống kéo dài ra, bám vào giá thể rồi co lại để kéo cơ thể nhờ dồn
nước vào ampun. Tiếp tục chân ống rời giá thể để thực hiện một bước mới.
Sao biển di chuyển rất chậm, một phút chỉ đạt được khoảng 5-8 cm. Lỗ miệng
của sao biển nằm giữa mặt miệng, có môi bé và mềm. Không có cơ quan
chuyên hóa để bắt mồi hay nghiền mồi. Sao biển đỏ là nhóm ăn thịt, thức ăn
của chúng là cá, trai, ốc hoặc san hô, các loài cá nhỏ, mực, tôm và các loài
thân mềm khác. Nếu con mồi lớn, chúng sẽ lộn dạ dày ra ngoài và tiêu hóa
ngoài cơ thể. Khi thiếu thức ăn chúng ăn thịt cả đồng loại. Cơ quan hô hấp là
mang da, là các phần lồi của da có chứa một phần thể xoang bên trong,
thường nằm trên cực đối miệng hay ở 2 bên rãnh chân ống. Ngoài ra thành
chân ống cũng là nơi trao đổi khí.
Một số loài phát triển rất nhanh là nguyên nhân gây mất cân bằng sinh thái
[2].
1.2. Thành phần hóa học các loài thuộc lớp sao biển Asteroidea
Theo thống kê của tác giả Guang Dong và cộng sự trong giai đoạn từ
năm 1997- 2007 đã có khoảng 98 loài sao biển trên toàn thế giới được nghiên
cứu về thành phần hóa học. Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng các hợp chất thứ
cấp có mặt trong sao biển bao gồm: các steroid, steroid glycoside (glycoside
của polyhydroxysteroid, asterosaponin và cyclic steroid glycoside), các hợp
chất thuộc nhóm glycosphingolipid (cerebroside và ganglioside). Ngoài ra còn
một số các hợp chất khác như: anthraquinon, alkaloid, phospholipid, peptid và
acid béo. Các thành phần hóa học này thể hiện rất nhiều các hoạt tính quý báu
như: hoạt tính gây độc tế bào, hoạt tính làm tan máu, chống virut, kháng nấm,
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
6
kháng vi sinh vật, kháng viêm…
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
1.2.1. Các hợp chất steroid
Steroid là các chất chuyển hóa quan trọng bao gồm các polyhydroxy
steroid và sulfonylate polyhydroxy steroid. Ngoại trừ bọt biển (hải miên)
thì sao biển là một nguồn cung cấp các steroid có nguồn gốc thiên nhiên
hết sức dồi dào. Các hợp chất steroid phân lập từ sao biển thường là các
hỗn hợp rất phức tạp tuy nhiên có thể nhận thấy cấu trúc khung chính của
các steroid này là: 3β,6α(β),8,15α(β),16β- pentahydroxycholestane, hoặc
đôi khi bắt gặp các hợp chất có thêm nhóm OH ở vị trí 4β,5α,7α(β), hoặc
ở vị trí 14α. Ở phần mạch nhánh thường có dạng (25S)-26- hydroxy, đôi
khi cũng bắt gặp các hợp chất mà vị trí C-26 có đính nhóm chức
cacboxylic. Có 4 loại hợp chất sterol chính thường gặp trong các loài sao
biển là 3α- sterol, 3β-O-Sulfonylated sterol, 3β-OH,6α-OH-sterol và 3β-
OH,6β-OH-sterol.
Năm 1993, từ loài sao biển Styracaster caroli thu thập ở độ sâu
2000m tại Thio và Lifou (New Caledonia), Riccardis và cộng sự đã phân
lập được 3 polyhydroxysteroid là carolisterol A-C (1-3) [3]. Các hợp chất
này được nhận biết là các polyhydroxycholanic acid trong đó nhóm chức
24-COOH được thay thế bởi một dẫn xuất amid của D-cysteinolic acid.
Tiếp tục nghiên cứu trên loài sao biển này, đến năm 1994, nhóm nghiên
cứu lại phân lập thêm 10 steroid trong đó có 8 hợp chất mới (4-11) [4] và
năm 1996 phân lập được thêm 2 hợp chất nữa là 24- ethyl-5α-cholest-22-
en-3β,5,6β,8,15α,25,26-heptol 26-sulfate (12) và 24-ethyl-5α- cholestane-
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
7
3β,5,6β,15α,25,26-heptol 26-sulfate (13)[5].
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Từ loài Archaster typicus năm 1986, nhóm nghiên cứu của Riccio và
cộng sự đã phân lập được 9 hợp chất (14-22), đây là các hợp chất với rất
nhiều nhóm thế hydroxy trong phân tử (7 nhóm), 4 trong số 9 hợp chất
này có khung 27-nor- cholestane. Đây là dạng khung rất hiếm gặp trong
động vật và nó mới chỉ được tìm thấy với một lượng rất nhỏ từ loài hải
miên Axinella cannabina [6, 7]. Tiếp tục nghiên cứu trên loài sao biển
Archaster typicus được thu thập tại Quảng Ninh, Việt Nam, năm 2010
nhóm nghiên cứu của Ivanchina và cộng sự đã phân lập được 10
polyhydrosteroid trong đó có 4 hợp chất mới (23-26) [8].
Đến năm 2011 cũng từ loài sao biển này, nhóm nghiên cứu của Yang và
cộng sự lại tiếp tục phân lập được 5 hợp chất mới (27-31) và 14 hợp chất đã
biết. Trong số các hợp chất mới này có 3 hợp chất có khung 27-nor-
cholestane [9]. Như vậy các hợp chất khung 27-nor-cholestane có thể là đặc
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
8
trưng cho loài sao biểnnày.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Năm 1988, từ loài sao biển Asterina pectinifera được phân bố khá phổ
biển ở các vùng biển Bắc Thái Bình Dương, Higuchi và cộng sự đã phân
lập được 8 hợp chất steroid, trong đó có một hợp chất mới là 5α-
cholestane- 3β,4β,6α,7α,8β,15β,16β,26-octol (32) [10]. Đến năm 1991,
nhóm nghiên cứu của Honda và cộng sự đã phân lập được hợp chất
(20S,24S,25R)-3β,6α,20-trihydroxy-24-methyl-26-homo-5α-cholest-
9(11)-en-23-one (33). Cấu hình tuyệt đối của hợp chất này được xác định
bằng phương pháp X-ray và phương pháp tổng hợp [11]. Tiếp tục các
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
9
nghiên cứu hóa học trên loài sao biển này, năm 2005 Zhang và cộng sự đã
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
phân lập được một isopropylidenedioxy steroid (34) với cấu trúc khá đặc
biệt [12].
Năm 2010, cũng từ loài A. pectinifera, Peng và cộng sự đã phân lập
được 6 polyhydroxysteroid trong đó có 1 hợp chất mới là (25S)-5α-
cholestane-3β,6α,7α,8,15α,16β-hexahydroxyl-26-O-14'Z-eicosenoate (35).
Hợp chất này tương tự như hợp chất (25S)-5α-cholestane-
3β,6α,7α,8,15α,16β,26-hexahydroxyl steroid đã được phân lập lần đầu tiên
từ sao biển Protoreaster nodosu năm 1982 [13] chỉ khác ở chỗ hợp chất
(35) có đính thêm mạch nhánh 20 cacbon enoyl -
COCH2(CH2)11CH=CHCH2(CH2)3CH3. Ngoài ra các hợp chất đã biết
được xác định là (25S)-5α-cholestane-3β,6α,7α,8,15α,16β,26-heptol,
(25S)-5α-cholestane-3β,4β,6α,7α,8,15α,16β,26-octol,(25S)-5α-cholestane-
3β,4β,6α,7α,8,15β,16β,26- octol, cholest-7-en-3-sodium sulfate, (24S)-5α-
cholestane-3β,6α,8,15α,24-pentol. [14].
Năm 1993, từ loài sao biển Tremaster novaecaledoniea thuộc New
Caledonia, Riccardis và cộng sự đã phân lập được 10 polyhydroxysterol
(36-44). Trong đó hợp chất 3α,15α,16β,26-tetrahydroxy-5β-cholestane
(36) có dạng cis-A/B đây là dạng khung thường được tìm thấy trong các
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
10
loài thuộc lớp Ophiuroidea nhưng rất hiếm khi gặp trong lớp sao biển [15,
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
16]. Hợp chất Tremastrol D (37) có chứa nhóm phospho và các hợp chất
38-44 có chứa nhóm sulfate trong phân tử [17].
Trong năm 2003, Wang và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu trên loài
sao biển Certonardoa semiregularis, các tác giả này đã phân lập được 15
polyhydroxysterol trong đó có 13 hợp chất mới là Certonardosterol A-M
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
11
(45-57) [18].
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Năm 2004 cũng từ loài sao biển này nhóm nghiên cứu của Wang và
cộng sự tiếp tục phân lập được 23 polyhydroxysterol là Certonardosterol
D2, D3, N1, O1, P1, E2, E3, D4, C2, B2, A2, Q1- Q7, B3, A3, A4, B4,
D5 (58-80) trong đó các hợp chất 69-75 làcác hợp chất 15-keto steroid rất
hiếm gặp ở các loài sao biển [19, 20].
Năm 2005, từ loài sao biển Hippasteria phrygiana, Levina và cộng sự đã
phân lập được hai steroid (81, 82) trong đó hợp chất phrygiasterol (82) là
một steroid có chứa vòng cyclopropane lần đầu tiên được phân lập từ ngành
Da gai mặc dù một số dẫn xuất sterol chứa vòng cyclopropane cũng đã được
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
12
tìm thấy trong một số loài hải miên, san hô mềm và san hồ sừng. [21, 22].
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Năm 2005, nhóm nghiên cứu Phạm Quốc Long và cộng sự đã bước đầu
nghiên cứu về thành phần hóa học loài sao biển Anthenea pentagonula, thuộc
họ Oreasteridae trong bộ Valvatida, phân lập được hai hợp chất steroid là 5α-
cholestan-3α-ol (83); 5α-cholest-7-en-3β-ol (84) và một cụm phân tử
22
26
21
24
22
18
26
20
25
23
21
24
18
25
20
23
12
27
17
11
13
19
12
27
16
11
13
17
19
14
15
16
14
1
15
9
1
2
10
8
9
2
8
3
5
7
3
10 5
7
6
6
HO
HO
4
4
(83) 5α-cholestan-3α-ol
(84) 5α-cholest-7-en-3β-ol
cerebroside [23].
Năm 2005, từ loài sao biển Culcita novaeguineae nhóm nghiên cứu Tang
HF và cộng sự đã phân lập được một loạt các hợp chất asterosaponin mới, kí
hiệu là novaeguinoside A (85), novaeguinoside I (86), novaeguinoside II (87)
[24].
Ở hợp chất 87, phần mạch cacbonhydrat lại có mặt của L-arabinosyl.
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
13
Đây là trường hợp rất hiếm xảy ra ở các hợp chất asterosaponin.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Từ dịch chiết BuOH của loài sao biển này cũng đã phân lập được thêm 3
hợp chất asterosaponin mới khác kí hiệu là 88, 89, 90[25].
(85) Novaeguinoside A
(86) Novaeguinoside I R=CH3
(87) Novaeguinoside II R=H
(88)
(89)
(90)
Năm 2015, tại hội nghị khoa học kỉ niệm 40 năm thành lập viện hàn
lâm khoa học và công nghệ Việt Nam tiểu ban đa dạng sinh học và các chất
có hoạt tính sinh học đã trình bày một số kết quả nghiên cứu được như :
Hai asterosaponin là thornasteroside A và natri 6α - [(O-β-D-fucopyranosyl-
(l.2)] - O-β-D-xylopyranosyl- (l4) -O- [ Β-D-quinovopyranosyl- (l2) -
O-β-D-galactopyranosyl- (l3) -O-β-D-quinovopyranosyl) oxy] -5α-pregn-9
-ene-20 -one-3β-yl-sulfate, đã được phân lập từ các methanol chiết xuất của
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
14
sao biển Acanthaster planci.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Ba polyhydroxylated steroid diglycosides là linckoside B, halityloside
A và halityloside B đã được phân lập từ một chất chiết methanol của con sao
biển Culcita novaeguineae.
1.2.2. Nhóm hợp chất ceramide và cerebroside
Có hơn 90 dẫn xuất ceramide đã được phân lập và xác định từ 16 loài
sao biển. Ceramide là dạng đơn giản nhất của các sphingolipid. Các ceramide
là một họ lipid có cấu tạo bởi một axit béo mạch dài gắn với các aminoancol
kiểu sphingosine qua các liên kết amit, một trong những thành phần cơ bản
cấu thành sphingomyelin ở lớp lipid kép ở màng tế bào.
Cerebroside là glycosphingolipid – thành phần quan trọng trong cơ
động vật và màng tế bào thần kinh. Các glycosphingolipid (GSL) là các
glycolipid có cấu tạo từ một chuỗi mạch dài aminoacohol (sphingoid) hoặc
một mạch dài đơn lẻ. Sự liên kết của một nhóm amin và sphingoid sẽ tạo nên
một ceramide. Phần tử đường phía đầu của sphingolipid được nối với mạch
ceramide thông qua nhóm alcol bậc một của chuỗi sphingoid. Hợp phần
đường có thể là glucose hoặc galactose, và vì thế hai loại cerebrosie chính
được gọi là glucocerebroside và galactocerebroside. Glucocerebroside là
cerebroside chính được tìm thấy ở sao biển còn galactocerebroside thì rất
hiếm khi có mặt . Một số lượng lớn các glucocerebroside được phân lập và
nghiên cứu hoạt tính từ sao biển trong số đó có các chất có hoạt tính gây độc
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
15
tế bào.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Cerebroiside
Ceramide Phytosphingosine
Năm 1988, từ loài sao biển Acanthaster planci, Kawano cùng các cộng
sự đã phân lập được các hợp chất đều là các glucocerebroside, đặt tên là
acanthacerebroside A (tên gọi khác là 1-glucopyranosyl-2-(2-hydroxy tetraco-
sanoylamino)-1,3,4-hexadecanetriol) (91); acanthacerebroside C (1-
glucopyranosyl -2-(2-hydroxyhexadecanoylamino)-13-docosene-1,3,4-triol)
(92); acantha-cerebroside D (93); acanthacerebroside E (94);
acanthacerebroside F (95) [26] và hai hợp chất acathalactoside A,
acathalactoside B (96-97), các hợp chất này được phân lập và chứng minh bởi
sự nghiên cứu của nhóm tác giả Sugiyama và các cộng sự.
Năm 1990, Kawano nghiên cứu về loài sao biển Acanthaster planci đã
phân lập được một ceramide khác là acanthaganglioside A (98) [27].
92
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
16
91
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
94 93
96 95
98 97
Năm 1994, từ loài sao biển Ophidiaster ophidianus, Jin và cộng sự đã
phân lập được 5 glycosphingolipid là ophidiacerebroside A-E (99-103)
[28]
Từ loài sao biển Oreaster reticulates thu thập tại đảo Grand Bahama
(Bahamas), đã có 12 hợp chất được phân lập, trong đó 9 hợp chất mới là
oreacerebroside A-I (104-112) và 3 hợp chất đã biết ophidiacerebroside
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
17
C-E (101-102)
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
[29] . Các hợp chất oreacerebroside D-I là các galactocerebroside lần đầu tiên
được phân lập từ sao biển, trước đó nó mới chỉ được tìm thấy trước đó từ các
loài sao biển Culcita novaeguineae [30].
Từ phần chiết chloroform/methanol của loài sao biển Protoreaster
nodosus thu thập tại Okinawa, Nhật bản, Pan và cộng sự đã phân lập được
21 hợp chất galactocerebroside trong đó có 16 hợp chất mới (113-128)
[31].
99
m = 17
101
m = 19
104 m = 19, R=Glu 107 m = 19, R=Gal
100 m = 18
102
m = 20
105 m = 20, R=Glu 108 m = 20, R=Gal
103
m = 21
106 m = 21, R=Glu 109 m = 21, R=Gal
116
110 m = 19
113 m=16
n = 9
m= 18
n = 8
111 m = 20
114 m = 17 n = 8
117
m= 17
n = 10
112 m = 21
115 m= 17 n = 9
118
m= 18
n = 9
119 m=16 n = 8
121 m=17 n = 8
120 m=17 n = 7
122 m=18 n = 7
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
18
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
123 m=16
n = 7
126 m= 17 n = 8
124 m = 16 n = 8 125 m = 17 n = 7
127 m= 18 n = 7 128 m= 18 n = 8
Năm 2002, từ loài sao biển Luidia maculata thu được ở vùng biển
Hakata, Fukuoka, Nhật Bản, Satoshi và các cộng sự đã phân lập được hai hợp
chất glucocerebroside mới là luidiacerebroside A (129), luidiacerebroside B
(130) và các hợp chất cerebroside đã biết là: (1-O-(β-D-glucopyranosyl)-
(2S,3R,4E)-2-[(2R)-2-hydroxydocosanoylamino]-14-methyl-4-hexadecene-
1,3-diol) (131), astrocere-broside B (132), acathacerebroside B (133) [32].
Gần đây năm 2006, từ loài Sao biển Luidia maculata, Masanori và
cộng sự đã phân lập được các hợp chất ceramide, ký hiệu là: LM Cer-1-1 (134);
LM Cer-2-1 (135) và LM Cer-2-6 (136). Trong đó, hợp chất (134) lần đầu tiên
được phân lập từ loài sao biển này. Các hợp chất trên đều thể hiện khả năng
chống sự tăng lượng đường trong máu [33].
129
130
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
19
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
132
131
134
133
135
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
20
136
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
1.2.3. Lipid, axit béo và axit amin 1.2.3.1. Lipid
Lipid là thành phần quan trọng trong cơ thể sống, nó có chức năng là
chất dự trữ năng lượng, khi oxy hóa. Một gam lipid có thể thu được 9,3Kcal,
trong khi đó 1 gam gluxit hoặc protein chuyển hóa chỉ cho 4Kcal. Lipid cung
cấp năng lượng rất cao cho cơ thể, gấp 2,5 lần so với protein. Trong màng
sinh học, lipid ở trạng thái liên kết với protein tạo thành hợp chất lipoproteid
cấu tạo nên màng tế bào. Chính nhờ các tính chất của hợp chất này đã tạo cho
màng sinh vật có được tính thẩm thấu chọn lọc, tính cách điện. Đó là những
hợp tính hết sức quan trọng của tế bào sinh vật. Ngoài ra, lipid còn có thể liên
kết với nhiều chất đơn giản khác thành những hợp chất có tính chất sinh học
khác nhau. Những phức hợp đó có vai trò quan trọng trong các hoạt động thần
kinh và bắp thịt.
Lipid không tan với nước, nhưng chúng có khả năng hòa tan nhiều loại
vitamin quan trọng như : A, K, D, E và giúp ruột hấp thụ tốt hơn các loại sinh
tố này. Vì thế nếu khẩu phần thiếu lipid lâu ngày thì động vật dễ mắc các
bệnh thiếu vitamin đáng kể trên.
Năm 2003, nhóm nghiên cứu của tác giả GS. TS Phạm Quốc Long và
cộng sự đã tiến hành nghiên cứu hàm lượng lipid tổng của 3 loài Sao biển:
Sao biển Linckia laevigata, sao biển Culcita novaeguineae, sao biển
Protoraester nodosusthu được ở vùng biển Quảng Ninh cho hàm lượng lipid
tổng khá cao lần lượt là 2,32%, 1,59%, 1,85%.
Năm 2013 nhóm nghiên cứu của tác giả Đoàn Lan Phương và cộng sự
đã tiến hành nghiên cứu phân tích hàm lượng lipit tổng thu nhận được cho
thấy trong năm loài sao biển ( Arachaster typicus, Acanthasterplanci, Linckia
laevigata, Culcita noveaguineae, Athenea aspera) được đưa vào phân tích thì
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
21
có mẫu sao biển Anthenea aspera thu tại Cô Tô có hàm lượng lipit cao nhất
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
1,34%, và thấp nhất là sao biển Linckia laevigata thu tại Hải Vân-Sơn Trà
0,84%. Hàm lượng lipit các mẫu sao biển Culcita noveaguineae, Acanthaster
planci và Arachaster typicus thu được lần lượt là 1,21; 0,90 và 0,95% so với
trọng lượng mẫu tươi. Nhìn chung, các loài sao biển khác nhau có hàm lượng
lipit tổng khác nhau, nhưng đều có hàm lượng lipit thấp.
Năm 2016 nhóm nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thu Thủy và các
cộng sự đã chỉ ra rằng năm loài sao biển ( Arachaster typicus,
Acanthasterplanci, Linckia laevigata, Culcita noveaguineae, Athenea
aspera) được thu thập từ vùng biển Việt Nam có thành phần lipid, axit amin
và nguyên tố vi lượng. Thành phần axit béo của chúng giàu các axit béo
1.2.3.2. Axit béo
không no thuộc nhóm ω-6 và ω-3 (20-40%) có lợi cho sức khỏe con người.
Axit béo là hiđrocacbon no hoặc không no liên kết với một hoặc nhiều
nhóm chức acid (-COOH). Phân tử tồn tại ở dạng mạch thẳng, mạch nhánh
hay mạch vòng, có phân tử lượng lớn. Axit béo thường gặp là những axit béo
có số C chẵn, mạch thẳng, có thể no hoặc không no. Ngoài nhóm chức axit,
nó còn liên kết với một số nhóm chức khác như: rượu, xeton…
Trong tế bào sống, các axit béo thường không tồn tại ở dạng tự do mà
hầu hết ở dạng kết hợp trong các lipit khác nhau như: triaxiglixerol, sáp,
steric, các lipid phức tạp khác nhau.
Khi nghiên cứu sao biển Culcita novaeguineae thu được tại vùng biển
Nha Trang và sao biển Archaster typicus thu được tại vùng biển Quảng Ninh,
nhóm nghiên cứu GS. TS. Phạm Quốc Long đã xác định thành phần axit
palmitic (137) với hàm lượng khá cao tương ứng là 13,814% và 13,014%.
Tuy nhiên, cùng loài sao biển đỏ trên thu được tại vùng biển Quảng Ninh lại
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
22
cho hàm lượng axit palmitic thấp hơn nhiều (2,535 %).
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
137
Thành phần axit stearic (138) của 3 loại sao biển: sao biển Archaster
typicus, sao biển đỏ Protoraester nodosus và sao biển Anthenea asper, thu
được tại vùng biển Quảng Ninh, được nghiên cứu bởi nhóm nghiên cứu
GS.TS. Phạm Quốc Long và cộng sự năm 2010 cho kết quả lần lượt là:
8,851%, 7,780% và 7,330%.
138
Thành phần axit oleic (139) của sao biển Linckia larvigata và sao biển
Culcita novaeguineaethu được tại vùng biển Quảng Ninh, được nghiên cứu
bởi nhóm nghiên cứu GS. TS Phạm Quốc Long và cộng sự năm 2010 cho kết
quả lần lượt như sau: 19,044% và 18,113%.
139
1.2.3.3. Axit amin
Axit amin hay amino axit là hợp chất hữu cơ có chứa nhóm cacboxyl (-
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
23
COOH) và nhóm amin (NH2), vừa có tính axit, vừa có tính bazơ. Theo quan điểm dinh dưỡng người ta chia axit amin thành 2 nhóm: axit amin không thay thế và axit amin thay thế. Động vật và con người không có khả năng tổng hợp một số axit amin mà phải lấy qua thức ăn, đó là các axit amin cần thiết hoặc không thay thế được như: arginine, methionine, phenyl alanine,… Các axit amin này tham dự vào nhiều quá trình chuyển hóa trong cơ thể như tổng hợp các chất dẫn truyền thần kinh, đổi mới các sợi cơ bắp,… Do vậy, nhu cầu cho
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
cơ thể bao giờ cũng chỉ đáp ứng đủ, thừa hoặc thiếu đều gây nên bất lợi cho cơ thể.
Một số axit amin có trong các loài sao biển như axit amin glutamic (6,25 – 7,85 %), α-amino propionic (2,24 – 3,62 %), glycine (7,3 – 10,4 %), lysine (0,29 – 9,87 %), phenylalanine (0,17 -3,82 %), tuy nhiên cũng thấy rằng thành phần hàm lượng là có khác biệt.
Năm 2013 nhóm nghiên cứu của tác giả Đoàn Lan Phương và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu phân tích hàm lượng axit amin tổng thu nhận được cho thấy trong năm loài sao biển ( Arachaster typicus, Acanthasterplanci, Linckia laevigata, Culcita noveaguineae, Athenea aspera)tất cả các mẫu sao biển đều chứa 09 loại axit amin thiết yếu là lysine, leucine, isoleucine, methionine, phenylalanine, thrionine, valine, tyrosine và histidine. Nhìn chung hàm lượng các axit amin thiết yếu trong năm loài sao đều chênh lệch không nhiều.
Năm 2016 nhóm nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuyến Anh và các cộng sự đã nghiên cứu năm loài sao biển ( Arachaster typicus, Acanthasterplanci, Linckia laevigata, Culcita noveaguineae, Athenea aspera) được thu thập từ vùng biển Việt Nam có 17 amino axit bao gồm 9 amino axit thiết yếu được tìm thấy trong tất cả các mẫu sao biển với hàm lượng cao. Ngoài ra còn có thành phần nguyên tố vi lượng được xác định ở mức độ khác nhau và cho thấy các loài sao biển này có chứa nhiều các vi khoáng thiết yếu.
1.2.4. Một số hợp chất khác
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
24
Những nghiên cứu về thành phần hóa học của các loài sao biển cho thấy ngoài các steroid, ceramide và cerebroside thì còn có thể tìm thấy các hợp chất thứ cấp khác như isoquinoline alkaloid, glycolipit, icosanoid, dẫn xuất taurine, dipeptid, anthraquinone, pyrrol và dẫn xuất triterpenoid.dẫn tetrodoxin, alkaloid, glycolipid, anthraquinon, xuất mycosporine, xanthosine, các dẫn xuất pyrrole và triterpen… 1,2,3,4-tetrahydro-1- methyl-β-carboline-3-carboxylic acid (140) là một alkaloid được phân lập từ loài sao biển Lethasterias nanimensis chelifera [34] hay một chuỗi các
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
anthraquinone (141-144) được phân lập từ loài Echinaster brasiliensis [35]. Từ loài sao biển A. pectinifera một hợp chất pyrrole tetrasaccharide
(145) đã được phân lập [36]. Một hợp chất khác có chuỗi 4 phân tử đường cũng đã được tìm thấy từ loài A. rollentoni tuy nhiên phần aglycon của nó là một triterpen (146)[37].
140 141Pr
145 142MeCH2CH(OH)
143MeCH(OH)CH2
144HO(CH2)3
146
Năm 1957, từ loài sao biển Asterina pectinifera Wickberg và cộng sự đã phân
lập được hợp chất 2-amino-3-hydroxy-1-propanesulfonic axit (147)vàasterina
O
O
HO3SO
OH
N
H N
HO
OH
NH2
HO
HO
330 (palythine-3-N-(2-hydroxyethyl) (148) [38].
147
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
25
148
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Nguyên liệu
Mẫu sao biển được thu thập tại đảo Vạn Bội tháng 06/2012 và được
PGS.TS. Đỗ Công Thung - Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện
HLKHCNVN xác định tên khoa học là Anthenea aspera. Tiêu bản được lưu
giữ tại Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên.
Hình 2.1. Ảnh minh họa mẫu sao biển Anthenea aspera.
2.2. Các phương pháp chiết mẫu.
Sau khi tiến hành thu mẫu và làm khô mẫu, tuỳ thuộc vào đối tượng chất
có trong mẫu khác nhau (chất phân cực, chất không phân cực, chất có độ
phân cực trung bình…) mà ta chọn dung môi và hệ dung môi khác nhau.
2.2.1. Chọn dung môi chiết.
Thường thì các chất chuyển hoá thứ cấp trong sinh vật biển có độ phân
cực khác nhau. Tuy nhiên những thành phần tan trong nước ít khi được quan
tâm. Dung môi dùng trong quá trình chiết cần phải được lựa chọn rất cẩn
thận.
Điều kiện của dung môi là phải hoà tan được những chất chuyển hoá thứ
cấp đang nghiên cứu, dễ dàng được loại bỏ, có tính trơ (không phản ứng với
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
26
chất nghiên cứu), không độc, không dễ bốc cháy.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Những dung môi này nên được chưng cất để thu được dạng sạch trước
khi sử dụng. Nếu chúng có lẫn các chất khác thì có thể ảnh hưởng đến hiệu
quả và chất lượng của quá trình chiết. Thường có một số chất dẻo lẫn trong
dung môi như các diankyl phtalat, tri-n-butyl-axetylcitrar và
tributylphosphat. Những chất này có thể lẫn với dung môi trong quá trình
sản xuất hoặc trong khâu bảo quản như trong các thùng chứa hoặc các nút
đậy bằng nhựa.
Methanol và chlorofrom thường chứa dioctylphtalat [di-(2-etylhexyl)-
phtalat hoặc bis-2-etylhexyl-phtalat]. Chất này sẽ làm sai lệch kết quả phân
lập trong các quá trình nghiên cứu hoá thực vật, thể hiện hoạt tính trong thử
nghiệm sinh học và có thể làm bẩn dịch chiết của cây. Chlrofrom, metylen
clorit và methanol là những dung môi thường được lựa chọn trong quá trình
chiết sơ bộ một phần của cây như: lá, thân, rễ, củ, quả, hoa…
Những tạp chất của chlorofrom như CH2Cl2, CH2ClBr có thể phản ứng
với một vài hợp chất như các ancaloit tạo muối bậc 4 và những sản phẩm
khác. Tương tự như vậy, sự có mặt của lượng nhỏ axit clohiđric (HCl) cũng
có thể gây ra sự phân huỷ, sự khử nước hay sự đồng phân hoá với các hợp
chất khác. Chlorofrom có thể gây tổn thương cho gan và thận nên khi làm
việc với chất này cần được thao tác khéo léo, cẩn thận ở nơi thoáng mát và
phải đeo mặt nạ phòng độc. Metylen clorit ít độc hơn và dễ bay hơi hơn
chlorofrom.
Methanol và ethanol 80% là những dung môi phân cực hơn các
hiđrocacbon thế clo. Người ta cho rằng các dung môi thuộc nhóm rượu sẽ
thấm tốt hơn lên màng tế bào nên quá trình chiết với các dung môi này sẽ thu
được lượng lớn các thành phần trong tế bào. Trái lại, khả năng phân cực của
chlorofrom thấp hơn, nó có thể rửa giải các chất nằm ngoài tế bào. Các ancol
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
27
hoà tan phần lớn các chất chuyển hoá phân cực cùng với các hợp chất
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
phân cực trung bình và thấp. Vì vậy, khi chiết bằng ancol thì các chất này
cũng bị hoà tan đồng thời. Thông thường dung môi cồn trong nước có những
đặc tính tốt nhất cho quá trình chiết sơ bộ.
Tuy nhiên cũng có một vài sản phẩm mới được tạo thành khi dùng
methanol trong suốt quá trình chiết. Thí dụ trechlonolide A thu được từ
trechlonaetes aciniata được chuyển thành trechlonolide B bằng quá trình
phân huỷ 1-hydroxytropacocain cũng xảy ra khi erythroxylum
novogranatense được chiết trong methanol nóng.
Người ta thường ít sử dụng nước để thu được dịch chiết thô từ cây mà
thay vào đó là dùng dung dịch nước của methanol.
Dietyl ete hiếm khi được dùng cho các quá trình chiết thực vật vì nó rất
dễ bay hơi, bốc cháy và rất độc, đồng thời nó có xu hướng tạo thành peroxit
dễ nổ. Peroxit của dietyl ete dễ gây phản ứng oxi hoá với các hợp chất không
có khả năng tạo cholesterol như các carotenoid. Tiếp đến là axeton cũng có
thể tạo thành axetonit nếu 1,2-cis-diol có mặt trong môi trường axit. Quá
trình chiết dưới điều kiện axit hoặc bazơ thường được dùng với quá trình
phân tách đặc trưng, cũng có khi xử lí các dịch chiết bằng axit-bazơ có thể
tạo thành những sản phẩm mong muốn.
Sự hiểu biết về những đặc tính của những chất chuyển hoá thứ cấp trong
cây được chiết sẽ rất quan trọng để từ đó lựa chọn dung môi thích hợp cho
quá trình chiết, tránh được sự phân huỷ chất bởi dung môi và quá trình tạo
thành chất mong muốn.
Sau khi chiết, dung môi được cất ra bằng máy cất quay ở nhiệt độ không quá 30-400C, với một vài hoá chất chịu nhiệt có thể thực hiện ở nhiệt độ cao
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
28
hơn.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
2.2.2. Quá trình chiết.
Hầu hết quá trình chiết đơn giản được phân loại như sau:
- Chiết ngâm.
- Chiết sử dụng một loại thiết bị là bình chiết Xoclet.
- Chiết sắc với dung môi nước.
- Chiết lôi cuốn theo hơi nước.
Chiết ngâm là một trong những phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất
trong quá trình chiết thực vật, sinh vật biển bởi nó không đòi hỏi nhiều công
sức và thời gian. Thiết bị sử dụng là một bình thuỷ tinh với một cái khoá ở
dưới đáy để điều chỉnh tốc độ chảy thích hợp cho quá trình tách rửa dung
môi. Dung môi có thể nóng hoặc lạnh nhưng nóng sẽ đạt hiệu quả chiết cao
hơn. Trước đây, máy chiết ngâm đòi hỏi phải làm bằng kim loại nhưng hiện
nay có thể dùng bình thuỷ tinh.
Thông thường quá trình chiết ngâm không được sử dụng như phương
pháp chiết liên tục bởi mẫu đươc ngâm với dung môi trong máy chiết
khoảng 24 giờ rồi chất chiết được lấy ra. Thông thường quá trình chiết một
mẫu chỉ thực hiện qua 3 lần dung môi vì khi đó cặn chiết sẽ không còn chứa
những chất giá trị nữa. Sự kết thúc quá trình chiết được xác định bằng một
vài cách khác nhau.
- Khi chiết các ancaloit, ta có thể kiểm tra sự xuất hiện của hợp chất
này bằng sự tạo thành kết tủa với những tác nhân đặc trưng như tác nhân:
Đragendroff và tác nhân Maye.
- Các flavonoid thường là những hợp chất màu. Vì vậy, khi dịch chiết
chảy ra mà không có màu sẽ đánh dấu sự rửa hết những chất này trong cặn
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
29
chiết.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
- Khi chiết các chất béo thì nồng độ trong các phần của dịch chiết ra và sự
xuất hiện của cặn chiết tiếp theo sau đó sẽ biểu thị sự kết thúc quá trình
chiết.
- Các lacton của sesquitecpen và các glicozid trợ tim, phản ứng Kedde có
thể dùng để biểu thị sự xuất hiện của chúng hoặc khi cho phản ứng với
aniline axetat sẽ cho biết sự xuất hiện của các hydrat cacbon và từ đó có thể
biết được khi nào quá trình chiết kết thúc.
Như vậy, tuỳ thuộc vào mục đích cần thiết lấy chất gì để lựa chọn dung
môi cho thích hợp và thực hiện quy trình chiết hợp lí nhằm đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra, có thể dựa vào mối quan hệ của dung môi và chất tan của các lớp
chất mà ta có thể tách thô một số lớp chất ngay trong quá trình chiết.
2.3. Các phương pháp sắc kí trong phân lập các hợp chất hữu cơ.
Phương pháp sắc kí(Chromatography) là một phương pháp phổ biến và
hữu hiệu nhất hiện nay, được sử dụng rộng rãi trong việc phân lập các hợp
chất hữu cơ nói chung và các hợp chất thiên nhiên nói riêng.
2.3.1. Đặc điểm chung của phương pháp sắc kí.
Sắc kí là phương pháp tách các chất dựa vào sự khác nhau về bản chất
hấp phụ và sự phân bố khác nhau của chúng giữa hai pha: pha động và pha
tĩnh.
Sắc kí gồm có pha động và pha tĩnh. Khi tiếp xúc với pha tĩnh, các cấu tử
của hỗn hợp sẽ phân bố giữa pha động và pha tĩnh tương ứng với tính chất
của chúng (tính bị hấp phụ, tính tan…).
Các chất khác nhau sẽ có ái lực khác nhau với pha động và pha tĩnh.
Trong quá trình pha động chuyển động dọc theo hệ sắc kí hết lớp pha tĩnh
này đến lớp pha tĩnh khác, sẽ lặp đi lặp lại quá trình hấp phụ và phản hấp
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
30
phụ. Kết quả là các chất có ái lực lớn với pha tĩnh sẽ chuyển động chậm hơn
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
qua hệ thống sắc kí so với các chất tương tác yếu hơn với pha này. Nhờ đặc
điểm này mà người ta có thể tách các chất qua quá trình sắc kí.
2.3.2. Cơ sở của phương pháp sắc kí.
Phương pháp sắc kí dựa vào sự phân bố khác nhau của các chất giữa pha
động và pha tĩnh. Ở điều kiện nhiệt độ không đổi, định luật mô tả sự phụ
thuộc của lượng chất bị hấp phụ lên pha tĩnh với nộng độ của dung dịch
(hoặc với chất khí là áp suất riêng phần) gọi là định luật hấp phụ đơn phân tử
n .b.C 1b.C
đẳng nhiệt Langmuir:
n =
n : Lượng cực đại của chất có thể bị hấp phụ lên một chất hấp phụ nào
n : Lượng chất bị hấp phụ lên pha tĩnh lúc đạt cân bằng.
đó.
b : Hằng số.
C : Nồng độ của chất bị hấp phụ.
2.3.3. Phân loại các phương pháp sắc kí.
Trong phương pháp sắc kí, pha động là các chất ở trạng thái khí hay
lỏng, còn pha tĩnh có thể là các chất ở trạng thái lỏng hoặc rắn.
Dựa vào trạng thái tập hợp của pha động, người ta chia sắc kí thành hai
nhóm lớn: sắc kí lỏng và sắc kí khí.
Dựa vào cách tiến hành sắc kí, người ta chia sắc kí thành các nhóm nhỏ:
sắc kí cột và sắc kí lớp mỏng.
2.3.3.1. Sắc kí cột (C.C).
Đây là phương pháp sắc kí đơn giản nhất, phổ biến nhất, chất hấp phụ là pha
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
31
tĩnh gồm các loại silicagel (có kích thước hạt khác nhau) pha thường và pha
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
đảo YMC, ODS, Dianion. Chất hấp phụ được nhồi vào cột (cột có thể bằng
thuỷ tinh hoặc kim loại, phổ biến nhất là cột thuỷ tinh). Độ mịn của chất hấp
phụ rất quan trọng, nó phản ánh số đĩa lí thuyết hay khả năng tách của chất
hấp phụ. Kích thước của chất hấp phụ càng nhỏ thì số đĩa lí thuyết càng lớn,
khả năng tách càng cao, và ngược lại. Tuy nhiên, nếu chất hấp phụ có kích
thước hạt càng nhỏ thì tốc độ chảy càng giảm, có thể gây ra hiện tượng tắc
cột (dung môi không chảy được). Khi đó người ta phải sử dụng áp suất, với
áp suất trung bình (MPC) hoặc áp suất cao (HPLC).
Trong sắc kí cột, tỉ lệ đường kính (D) so với chiều cao cột (L) rất quan
trọng, nó thể hiện khả năng tách của cột. Tỉ lệ L/D phụ thuộc vào yêu cầu
tách, tức là phụ thuộc vào hỗn hợp chất cụ thể.
Trong sắc kí, tỉ lệ giữa quãng đường đi của chất cần tách so với quãng
đường đi của dung môi gọi là Rf , với mỗi một chất sẽ có một Rf khác nhau.
Nhờ vào sự khác nhau về Rf này mà ta có thể tách từng chất ra khỏi hỗn hợp.
Tỉ lệ chất so với tỉ lệ chất hấp phụ cũng rất quan trọng. Tuỳ theo yêu cầu
tách mà ta có tỉ lệ khác nhau: Tách thô thì tỉ lệ này thấp (1/5 – 1/10), tách
tinh thì tỉ lệ này cao hơn và tuỳ vào hệ số tách (tức phụ thuộc vào sự khác
nhau Rf của các chất), mà hệ số này trong khoảng 1/20 – 1/30.
Trong sắc kí cột, việc đưa chất lên cột hết sức quan trọng. Tuỳ thuộc vào
lượng chất và dạng chất mà người ta có thể đưa chất lên cột bằng các
phương pháp khác nhau. Nếu lượng chất nhiều và chạy thô thì phổ biến là
tẩm chất vào silicagel rồi làm khô, tơi hoàn toàn, đưa lên cột. Nếu tách tinh
thì đưa trực tiếp chất lên cột bằng cách hoà tan chất bằng dung môi chạy cột
với lượng tối thiểu.
Có hai cách đưa chất hấp phụ lên cột:
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
32
- Cách 1: Nhồi cột khô.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Theo cách này, chất hấp phụ được đưa trực tiếp vào cột khi còn khô, sau
đó dùng que mềm để gõ nhẹ lên thành cột để chất hấp phụ sắp xếp chặt trong
cột. Sau đó dùng dung môi chạy cột để chạy cột đến khi cột trong suốt.
- Cách 2: Nhồi cột ướt.
Chất hấp phụ được hoà tan trong dung môi chạy cột trước với lượng
dung môi tối thiểu, sau đó đưa dần lên cột đến khi đủ lượng cần thiết.
Khi chuẩn bị cột phải lưu ý không được để bọt khí bên trong (nếu có bọt
khí gây nên hiện tượng chạy rối trong cột, giảm hiệu quả tách) và cột không
được nứt, gãy, dò.
Tốc độ chảy của dung môi cũng ảnh hưởng đến hiệu quả tách. Nếu tốc
độ dòng chảy quá lớn sẽ làm giảm hiệu quả tách. Còn nếu tốc độ dòng chảy
quá thấp thì sẽ kéo dài thời gian tách và ảnh hưởng đến tiến độ công việc.
2.3.3.2. Sắc kí lớp mỏng.
Sắc kí lớp mỏng (SKLM) thường được sử dụng để kiểm tra và định
hướng cho sắc kí cột. SKLM được tiến hành trên bản mỏng tráng sẵn
silicagel trên đế nhôm hay đế thuỷ tinh. Ngoài ra, SKLM còn dùng để điều
chế thu chất trực tiếp. Bằng việc sử dụng bản SKLM điều chế (bản được
tráng sẵn silicagel dày hơn), có thể đưa lượng chất nhiều hơn lên bản và sau
khi chạy sắc kí, người ta có thể cạo riêng phần silicagel có chứa chất cần
tách rồi giải hấp phụ bằng dung môi thích hợp để thu được từng chất riêng
biệt. Có thể phát hiện chất trên bản mỏng bằng đèn tử ngoại, bằng chất hiện
màu đặc trưng cho từng lớp chất hoặc sử dụng dung dịch H2SO4 10%.
2.4. Một số phương pháp hoá lý xác định cấu trúc của các hợp chất hữu
cơ.
Cấu trúc hoá học các hợp chất hữu cơ được xác định nhờ vào phương
pháp phổ kết hợp. Tuỳ thuộc vào cấu trúc hoá học của từng chất mà người ta
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
33
sử dụng phương pháp phổ cụ thể. Cấu trúc càng phức tạp thì yêu cầu phối
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
hợp các phương pháp phổ càng cao. Trong một số trường hợp, để xác định
chính xác cấu trúc hoá học của các hợp chất, người ta phải dựa vào các
phương pháp bổ sung khác như chuyển hoá hoá học, các phương pháp sắc kí
so sánh…
2.4.1. Phổ khối lượng (Mass spectroscopy, MS).
Nguyên tắc của phương pháp phổ này là dựa vào sự phân mảnh ion của
phân tử chất dưới sự bắn phá của chùm ion bên ngoài. Phổ MS còn cho các
pic ion mảnh khác mà dựa vào đó người ta có thể xác định được cơ chế
phân mảnh và dựng lại được cấu trúc hoá học của các hợp chất. Hiện nay
có rất nhiều loại phổ khối lượng, như những phương pháp chủ yếu sau:
- Phổ EI-MS (Electron Impact Ionization mass spectroscopy) dựa vào sự
phân mảnh ion dưới tác dụng của chùm ion bắn phá năng lượng khác nhau,
phổ biến là 70eV.
- Phổ ESI-MS (Electron Sprayt Ionization mass spectroscopy) gọi là phổ
phun mù điện tử. Phổ này được thực hiện với năng lượng bắn phá thấp hơn
nhiều so với phổ EI-MS, do đó phổ thu được chủ yếu là pic ion phân tử và
các pic đặc trưng cho sự phá vỡ các liên kết có mức năng lượng thấp, dễ bị
phá vỡ.
- Phổ FAB (Fast Atom Bombing mass spectroscopy) là phổ bắn phá
nguyên tử nhanh với sự bắn phá nguyên tử nhanh ở năng lượng thấp, do đó
phổ thu được cũng dễ thu được pic ion phân tử.
- Phổ khối lượng phân giải cao (High Resolution mass spectroscopy),
cho phép xác định pic ion phân tử hoặc ion mảnh với độ chính xác cao.
- Ngoài ra, hiện nay người ta còn sử dụng kết hợp các phương pháp sắc
kí kết hợp với khối phổ khác như: GC-MS (sắc kí khí - khối phổ) cho các
chất dễ bay hơi như tinh dầu hay LC-MS (sắc kí lỏng - khối phổ) cho các
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
34
hợp chất khác. Các phương pháp kết hợp này còn đặc biệt hữu hiệu khi
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
phân tích thành phần của hỗn hợp chất (nhất là phân tích thuốc trong ngành
dược).
2.4.2. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy NMR).
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân là một phương pháp phổ hiện đại và hữu
hiệu nhất hiện nay. Với việc sử dụng kết hợp các kỹ thuật phổ NMR một
chiều và hai chiều, các nhà nghiên cứu có thể xác định chính xác cấu trúc
của hợp chất, kể cả cấu trúc lập thể của phân tử.
Nguyên lý chung của các phương pháp phổ NMR (phổ proton và cacbon) là sự cộng hưởng khác nhau của các hạt nhân từ (1H và 13C) dưới
tác dụng của từ trường ngoài. Sự cộng hưởng khác nhau này được biểu diễn
bằng độ dịch chuyển hoá học (chemical shift). Ngoài ra, đặc trưng của phân
tử còn được xác định dựa vào tương tác spin giữa các hạt nhân từ với nhau
(spin coupling).
2.4.2.1. Phổ 1H-NMR: Trong phổ 1H-NMR, độ dịch chuyển hoá học (δ) của
các proton được xác định trong thang ppm từ 0-14ppm, tuỳ thuộc vào mức
độ lai hoá của nguyên tử cũng như đặc trưng riêng của từng phần. Dựa vào
những đặc trưng của độ dịch chuyển hoá học và tương tác spin mà ta có thể
xác định được cấu trúc hoá học của hợp chất.
2.4.2.2.Phổ13C-NMR: Phổ này cho tín hiệu vạch phổ cacbon. Mỗi nguyên tử
cacbon sẽ cộng hưởng ở một trường khác nhau và cho tín hiệu phổ khác nhau. Thang đo của phổ 13C-NMR là ppm, với dải thang đo rộng 0-
230ppm.
2.4.2.3. Phổ DEPT (Distortionless Enhancement by Polarisation Transfer):
Phổ này cho ta các tín hiệu phân loại các loại cacbon khác nhau. Trên phổ
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
35
DEPT, tín hiệu của các cacbon bậc bốn biến mất. Tín hiệu của CH và
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
CH3nằm về một phía và của CH2 về một phía trên phổ DEPT 1350. Trên phổ DEPT 900 chỉ xuất hiện tín hiệu phổ của CH. 2.4.2.4. Phổ 2D-NMR: Đây là các kỹ thuật phổ hai chiều, cho phép xác định
các tương tác của các hạt nhân từ của phân tử trong không gian hai chiều.
Một số kỹ thuật chủ yếu thường được sử dụng như sau:
- Phổ HSQC (Heteronuclear SingleQuantum Coherence): Các tương tác
trực tiếp H-C được xác định nhờ vào các tương tác trên phổ này. Trên phổ, một trục là phổ 1H-NMR, còn trục kia là 13C-NMR. Các tương tác HSQC
nằm trên đỉnh các ô vuông trên phổ.
- Phổ 1H-1H COSY (HOMOCOSY) (1H-1H Chemical Shif Correlation Spectroscopy): Phổ này biểu diễn các tương tác xa của H-H, chủ yếu là các
proton đính với cacbon liền kề nhau. Nhờ phổ này mà các phần của phân tử
được nối ghép lại với nhau.
- Phổ HMBC (Heteronuclear Multiple Bond Connectivity): Đây là phổ
biểu diễn tương tác xa của H và C trong phân tử. Nhờ vào các tương tác
trên phổ này mà từng phần của phân tử cũng như toàn bộ phân tử được xác
định về cấu trúc.
- Phổ NOESY (Nuclear Overhauser Effect Spectroscopy): Phổ này biểu
diễn các tương tác xa trong không gian của các proton không kể đến các
liên kết mà chỉ tính đến khoảng cách nhất định trong không gian. Dựa vào
kết quả phổ này có thể xác định cấu trúc không gian của phân tử.
Người ta còn sử dụng hiệu ứng NOE bằng kỹ thuật phổ NOE differences
để xác định cấu trúc không gian của phân tử. Bằng việc đưa vào một xung
đúng bằng từ trường cộng hưởng của một proton xác định thì các proton có
cùng phía về không gian cũng như gần nhau về không gian sẽ cộng hưởng
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
36
mạnh hơn và cho tín hiệu phổ với cường độ mạnh hơn.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Ngoài ra, người ta còn sử dụng phổ X-RAY (nhiễu xạ Rơnghen) để xác
định cấu trúc không gian của toàn bộ phân tử của hợp chất kết tinh ở dạng
đơn tinh thể. Nhưng phạm vi sử dụng của phổ này hạn chế vì yêu cầu tiên
quyết là cần phải có đơn tinh thể. Đây là một điều kiện không phổ biến đối
với các hợp chất hữu cơ.
Như trên đã đề cập, ngoài việc sử dụng các loại phổ, người ta còn sử
dụng kết hợp các phương pháp chuyển hoá hoá học cũng như các phương
pháp phân tích, so sánh, kết hợp khác. Đặc biệt đối với các phân tử nhiều
mạch nhánh dài, tín hiệu phổ NMR bị chồng lấp nhiều, khó xác định chính
xác được chiều dài các mạch, cũng như đối với các phân tử có các đơn vị
đường thì việc xác định chính xác loại đường cũng như cấu hình đường
thông thường phải sử dụng phương pháp thuỷ phân rồi xác định bằng
phương pháp so sánh LC-MS hoặc GC-MS với các đường chuẩn dự kiến.
2.5. Phương pháp phân lập các hợp chất.
2.5.1. Sắc ký lớp mỏng (TLC).
Sắc ký lớp mỏng được thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn DC-Alufolien
60 F254 (Merck 1,05715), RP18F254s (Merck). Phát hiện chất bằng đèn tử
ngoại ở hai bước sóng 254 nm và 368 nm hoặc dùng thuốc thử là H2SO4
10% được phun đều lên bản mỏng, sấy khô rồi hơ nóng trên bếp điện từ từ
cho đến khi hiện màu.
2.5.2. Sắc kí lớp mỏng điều chế.
Sắc ký lớp mỏng điều chế được thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn
Silicagel 60 F254 (Merck, kí hiệu 105875), phát hiện vệt chất bằng đèn tử
ngoại hai bước sóng 254 nm và 368 nm hoặc cắt rìa bản mỏng để phun thuốc
thử là dung dịch H2SO4 10%, hơ nóng để phát hiện vệt chất, ghép lại bản
mỏng như cũ để xác định vùng chất, sau đó cạo lớp Silicagel có chất, giải
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
37
hấp phụ bằng dung môi thích hợp.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
2.5.3. Sắc ký cột (CC).
Sắc ký cột được tiến hành với chất hấp phụ là Silicagel pha thường và
pha đảo. Silicagel pha thường có cỡ hạt là 0,040-0,063 mm (240-430 mesh).
Silicagel pha đảo ODS hoặc YMC (30-50 µm, Fujisilisa Chemical Ltd.).
2.6. Quy trình phân lập các hợp chất
Các mẫu tươi của Anthenea aspera(10 kg) đã được cắt thành miếng nhỏ và
ngâm chiết ba lần với ethanol trong thiết bị siêu âm ở nhiệt độ 40ºC. Dịch
tổng thu được được cất kiệt dung môi dưới áp suất giảm, nhiệt độ < 50ºC thu
được 213 g cặn chiết tổng EtOH. Cặn chiết này được chiết phân đoạn lần lượt
với n-hexan (1L x 3), EtOAc (1Lx3) và methanol (1Lx3) thu được các cặn
chiết tương ứng: 45 g cặn n-hexan kí hiệu: SDH, 68 g cặn etyl axetat kí
silica gel, hệ dung môi rửa giảin-hexan/CH2Cl2 vµ CH2Cl2/MeOH (100-0% -
hiệu: SDE và 96g cặn metanol kí hiệu: SDM. Cặn SDH được tách trên cột
> 0-100% v:v) thu được 9 phân đoạn kí hiệu SDH1- SDH9 tách trên cột silica
gel với dung môi rửa giải n-hexan/CH2Cl2 và CH2Cl2/MeOH thu được 2 hợp
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
38
chất : SD5(0,53g), SD6(1,02g) .
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
2.7. Dữ liệu phổ của các chất phân lập được
1H-NMR (500 MHz, CDCl3), (ppm): 4,03 (1H, br, H-3); 1,96 (1H, dt,
SD5:
H-12); 1,86 (2H, m, H-16); 1,67 (1H, m, H-7); 1,69/1,62 (2H, m, H-2); 1,52
(1H, m, H-5); 1,45 (1H, m, H-1); 1,51 (1H, m, H-25); 1,09 (1H, m, H-17);
0,65 (3H, s, H-18); 0,78 (3H, s, H-19); 0,90 (3H, d, J = 6,4 Hz, H-21); 0,86
13C-NMR (125 MHz, CDCl3), (ppm): 32,2 (t, C-1); 29,1 (t, C-2);
(3H, d, J = 6,0 Hz, H-26); 0,87 (3H, d, J = 6,0 Hz, H-27).
66,6 (d, C-3); 35,9 (t, C-4); 39,2 (d, C-5); 28,6 (t, C-6); 32,0 (t, C-7); 35,5 (d,
C-8); 54,4 (d, C-9); 36,1 (s, C-10); 20,8 (t, C-11); 40,0 (t, C-12); 42,6 (s, C-
13); 56,6 (d, C-14); 24,2 (t, C-15); 28,3 (t, C-16); 56,3 (d, C-17); 12,1 (q, C-
18); 11,2 (q, C-19); 35,8 (d, C-20); 18,7 (q, C-21); 36,2 (t, C-22); 23,8 (t, C-
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
39
23); 39,5 (t, C-24) ; 28,0 (d, C-25); 22,8 (q, C-26) ; 22,6 (q, C-27).
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
1H-NMR (500 MHz, CDCl3), (ppm): 5,15 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-7);
SD6
3,60 (1H, br, H-3); 1,23 (2H, m, H-12); 1,35 (2H, m, H-16); 1,39 (1H, m, H-
5); 1,25 (1H, m, H-17); 0,53 (3H, s, H-18); 0,79 (3H, s, H-19); 0,92 (3H, d, J
= 6,5 Hz, H-21); 0,86 (3H, d, J = 9,0 Hz, H-26); 0,85 (3H, d, J = 6,0 Hz, H-
13C-NMR (125 MHz, CDCl3), (ppm): 37,1 (t, C-1); 31,5 (t, C-2);
27).
71,5 (d, C-3); 38,0 (t, C-4); 40,3 (d, C-5); 29,7 (t, C-6); 117,8 (d, C-7); 140,0
(s, C-8); 49,5 (d, C-9); 34,2 (s, C-10); 21,6 (t, C-11); 39,6 (t, C-12); 43,4 (s,
C-13); 55,0 (d, C-14); 22,9 (t, C-15); 27,9 (t, C-16); 56,1 (d, C-17); 11,9 (q,
C-18); 13,0 (q, C-19); 36,2 (d, C-20); 18,6 (q, C-21); 36,1 (t, C-22); 23,9 (t,
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
40
C-23); 39,5 (t, C-24) ; 28,1 (d, C-25); 22,6 (q, C-26) ; 22,8 (q, C-27).
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xác định cấu trúc hóa học của hợp chất SD5.
Trong các phổ 1H-NMR và 13C-NMR kết hợp với phổ DEPT đã cho biết trong phân tử của chất SD5 có 27 nguyên tử cacbon trong đó có 05 nhóm
CH3, 12 nhóm methylen (CH2), 8 nhóm metilen (CH) và 2 nguyên tử cacbon bậc 4. Phổ khối lượng ESI-MS cho [M]+ 388 amu. Các dữ liệu phổ 13C-NMR
và ESI-MS cho phép xác định công thức phân tử chất này là C27H48O. Đây là một hợp chất thuộc khung cholestan.
Trên phổ 1H-NMR quan sát được cho tín hiệu của proton thuộc cacbon
methin có liên kết với nhóm hydroxyl (OH) tại H 4,03 (H-3), cùng với proton
methin tại H 0,99 (1H, H-14) và 1,09 (1H, H-15). Ngoài ra trên phổ của hợp chất này cũng quan sát được tín hiệu của cacproton thuộc 5 nhóm methyl,
trong đó có 2 tín hiệu ở dạng singlet tại H 0,65 (H-18); 0,78 (H-19) và tín
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
41
hiệu của 3 nhóm methyl còn lại đều ở dạng doublet tại H 0,90 (3H, d, H-21), 0,86 (3H, d, H-26); và 0,87 (3H, d, H-27).
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Hình 3.1. Phổ 1H NMR của hợp chất SD5
Trên phổ 13C-NMR và DEPT cho biết ở vùng trường thấp có tín hiệu
cộng hưởng cacbon methin C 66,6 ppm (C-3) tương ứng với proton tại
H 4,03 ppm (H-3). Hơn nữa cũng thấy rõ đặc trưng của 5 cacbon
methyl tại C 12,1 (q, C-18); 11,2 (q, C-19); 22,8 (q, C-26) ; 22,6 (q, C-
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
42
27) tương ứng với phổ 1H-NMR chỉ ra tín hiệu của 5 nhóm methyl.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Phân tích phổ HSQC và HMBC của SD5 chỉ ra một số tương tác đặc
trưng: H-18 tương tác với cacbon tại ví trí C-12, C-13 và C-14, H-19 có tương
Hình 3.2 Phổ13C-NMR và DEPT của hợp chất SD5
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
43
tác với C-1, C-10, và C-9, H-1 tương tác với C-2, C-19, và C-10.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Kết hợp các dữ liệu phổ thu được với tài liệu tham khảo đã cho phép
khẳng định cấu trúc của chất SD5 hoàn toàn phù hợp với cấu trúc hoá học của
5α-cholestan-3α-ol.
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
44
Hình 3.3 Phổ HSQC và HMBC của hợp chất SD5
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Bảng3.1:Dữ liệu phổ của hợp chất SD5
δc ppm
δc ppm
δH
(SBI-5)(J, C
δc ppm
δc
δH
(SBI-
C SBI-5
(TLTK Hz)
(SBI-5)
ppm(T
5)(J, Hz)
)
LTK)
32,2 (t)
32,2 (t)
1.45 (m)/1.29
15
24,2 (t)
24,2 (t)
1.01 *
1
(m)
29,1 (t)
29,1 (t)
1.62 (m)/1.69
16
1,86 (2H,m)
28,3 (t)
28,2 (t)
(m)
2
4,03 (1H, br, s)
17
66,6 (d) 66,5 (d)
1,09 (1H)
56,3 (d)
56,3 (d)
3
35,9 (t)
35,9 (t)
1,49*
18
0,65 (3H, s)
12,1 (q)
12,1 (q)
4
39,2 (d) 39,1 (d)
1,52 (1H, m)
19
11,2 (q)
11,2 (q)
0,78 (3H, s)
5
20
28,6 (t)
28,6 (t)
1,21*
35,8 (d)
35,8 (d)
1.50*
K39b – Sư phạm Hóa học
45
Nguyễn Thị Ánh
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
6
1.67 (m)/1.48 (
21
18,7 (q)
18,7 (q)
0,90(3H,d,6.
32,0 (t)
32,0 (t)
7
m)
4Hz)
35,5 (d)
35,5 (d)
1,35*
22
36,2 (t)
36,2 (t)
1.39
8
54,3 (d)
54,4 (d)
0,74*
23
23,8 (t)
23,9 (t)
(m)/0.98 (m)
1.16 (m)
9
36,1 (s)
36,1 (s)
-
24
39,5(t)
39,5 (t)
/1.33 (m) 1,13 (2H)
20,8 (t)
10 20,8 (t)
1.55*
25
28,0 (d)
28,0 (d)
1,51 (1H,m)
11
40,1 (t)
40,1 (t)
1.96 (dt)
26
22,8 (q)
22,8 (q)
0,86 (3H,d,
12 42,6 (s)
42,6 (s)
-
27
22,6 (q)
22,5 (q)
6Hz) 0,87
13 56,6 (d)
56,5 (d)
0,99 (1H, m)
(3H,d,6Hz)
14
3.2. Xác định cấu trúc hóa học của hợp chất SD6.
Phổ 1H-NMR của SD6 cũng tương tự như hợp chất SD5, quan sát thấy
đặc trưng của proton thuộc cacbon methin liên kết với nhóm hydroxyl (OH)
tại H 3,60 (1H, br, s, H-3). Ngoài ra cũng quan sát được tín hiệu của 5 nhóm
methyl, trong đó có tín hiệu của 2 nhóm methyl ở dạng singlet tại H 0,53
(3H, s, H-18) và 0,79 (3H, s, H-19), tín hiệu proton của 3 nhóm methyl còn lại
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
46
cũng như SD5 ở dạng doublet H 0,92 (3H, d, J = 6,5 Hz, H-21), 0,86 (3H, d,
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
J = 9,0 Hz, H-26), và 0,85 (3H, d, J = 9,0 Hz, H-27). Tuy nhiên có điều khác
biệt là trên phổ hợp chất SD6 xuất hiện tín hiệu của 1 proton olephin tại H
5,15 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-7).
Hình 3.4. Phổ 1H NMR của hợp chất SD6
Phổ 13C-NMR kết hợp với phổ DEPT của SD6 cho biết có tổng số 27 cacbon, trong đó có 3 cacbon bậc 4 (C), 8 nhóm cacbon methin (CH), 11
nhóm cacbon methylen (CH2) và 5 cacbon methyl (CH3). Như vậy khác với
SD6, hợp chất SD6 mất đi 1 nhóm CH2, thay vào đó là có thêm một nhóm
methin và 1 cacbon bậc 4, như vậy trong phân tử có thêm một nối đôi tại C117,8 ppm (d) và 140,0 (s), điều này cũng phù hợp với phổ 1H-NMR xuất
hiện thêm tín hiệu của proton tương ứng tại H 5,15 ppm. Và tín hiệu của 5
nhóm methyl tại C 11,9 (q, C-18), 13,0 (q, C-19), 18,6 (q, C-21), 0,86 (q, C-
26), 0,85 (q, C-27) với các proton tương ứng lần lượt tại H 0,53; 0,79; 0,92;
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
47
0,86; 0,85 ppm. Điều này cho thấy SD6 phù hợp với đặc trưng của khung cholestan.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Hình 3.5 Phổ 13C-NMR và DEPT của hợp chất SD6
Phân tích phổ HSQC và HMBC xác định được vị trí nối đôi ở C-7 và C-8.
Trên phổ HMBC cũng quan sát được tương tác xa giữa H-7 với C-6, C-5, và
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
48
C-9; giữa H-18 với C-12, C-13, C-14, C-17.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Hình 3.6 Phổ HSQC và HMBC của hợp chất SD6
Kết hợp phân tích các dữ liệu phổ thu được so sánh với tài liệu tham khảo cho
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
49
phép xác định SD6 phù hợp với cấu trúc của hợp chất 5-cholest-7-en-3-ol.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Bảng 3.2:Dữ liệu phổ của hợp chất SD6
C
δc ppm
δc ppm
δH (SBI-7)
C
δc ppm
δc ppm
δH (SBI-
(SBI-7)
[TLTK]
(J, Hz)
(SBI-7)
[TLTK]
7)
(J, Hz)
37,1 (t)
1
37,1 (t)
1,83 (m)
22,9 (t)
22,9 (t)
15
1,52
(2H,m)
2
31,5 (t)
31,3 (t)
1,39(m) / 1.81
16
27,9 (t)
27,9 (t)
1,35
(2H,m)
(m)
71,5 (d)
71,7 (d)
3,60 (1H,br, s)
17
56,1 (d)
56,1 (d)
1,25 (1H)
3
4
38,0 (t)
37,8 (t)
1,71 (m)/1.28
18
11,9 (q)
11,8 (q)
0,535
(3H,s)
(m)
40,3 (d)
40,2 (d)
1,39 (1H, m)
19
13,0 (q)
12,9 (q)
0,79
5
(3H,s)
29,7 (t)
29,6 (t)
1,76 (
36,2 (d)
36,1 (d)
20
1,37 (1H)
6
m)/1.77(m)
5,15 (1H, d, 2Hz) 21
0,92
7
18,6 (q)
18,8 (q)
117,8 (d)
117,2 (d)
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
50
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Khóa luận tốt nghiệp
(3H,d,
6.5Hz)
8
140,0 (s)
139,3 (s)
-
22
36,1 (t)
36,1 (t)
1,00 (2H,
m)
49,5 (d)
9
49,4 (d)
1,63 (1H)
23
23,9 (t)
23,9 (t)
1.35 (2H)
10 34,2 (s)
34,1 (s)
-
24
39,5 (t)
39,4 (t)
2,02(m)/1
.13 (m)
21,5 (t)
11 21,6 (t)
1,55 (2H,m)
25
28,1 (d)
27,9 (d)
1,26(1H,
39,5 (t)
12 39,6 (t)
1,23 (2H)
26
22,6 (q)
22,5 (q)
m)/1.52 0,86
(3H,d,
9.0Hz)
43,2 (s)
13 43,4 (s)
-
22,8 (q)
22,7 (q)
27
0,85
(3H,d,
9.0Hz)
14 55,0 (d)
1,81 (1h)
54,9 (d)
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
51
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
KẾT LUẬN
1. Đã phân lập được 2 hợp chất là cholestan và 5α-cholest-7-en-3β-oltừ cặn
hexan loài sao biển đỏ Anthenea asperabằng phương pháp sắc ký cột hở
silica gel.
2. Cấu trúc của các hợp chất này được xác định nhờ vào các phương pháp phổ
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
52
hiện đại như phổ cộng hưởng từ hạt nhân một chiều (1H-NMR, 13C-NMR, DEPT 135 và DEPT 90), hai chiều (HSQC, HMBC) và tài liệu tham khảo.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blunt J.W et al., Copp B.R.., Munro M.H.G., Northcode P.T., Prinsep M.
R- Marine natural products, Nat. Prod. Rep., 23 (2006) 26-78.
2. Chong Jiang, kennet G.Boyd, Andrew Mearns spragg- Two
Diketopiperazines and One Halogenated Phenol from Cultures of the
Marine Bacterium Pseudoalteromonas luteoviolacea,Natural Product
Letters, (2000), 14 (6) 435-440
3. F. De Riccardis, L. Minale, R. Riccio, M. Iorizzi, C. Debitus, D. Duhet,
C. Monniot, A novel group of polyhydroxycholanic acid derivatives
from the deep water starfish Styracaster caroli, Tetrahedron Letters, 34
(1993) 4381-4384.
4. M. Iorizzi, F. de Riccardis, L. Minale, E. Palagiano, R. Riccio, C.
Debitus, D. Duhet, Polyoxygenated marine steroids from the deep water
starfish Styracaster caroli, Journal of Natural Products, 57 (1994) 1361-
1373.
5. F. De Riccardis, I. Izzo, M. Iorizzi, E. Palagiano, L. Minale, R. Riccio,
Two novel polyhydroxysteroids with a 24-Ethyl-25-hydroxy-26-sulfoxy
side chain from the deep water starfish Styracaster caroli, Journal of
Natural Products, 59 (1996)386-390.
6. R. Riccio, M. Santaniello, O.S. Greco, L. Minale, Structure elucidation
of minor marine polyhydroxysteroids isolated from the starfish
Archaster typicus, Journal of the Chemical Society, Perkin
7. R. Riccio, O.S. Greco, L. Minale, D. Laurent, D. Duhet, Highly
hydroxylated marine steroids from the starfish Archaster typicus,
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
53
Journal of the Chemical Society, Perkin Transactions 1, (1986) 665-
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
670.
8. N.V. Ivanchina, A.A. Kicha, T.T.T. Huong, A.I. Kalinovsky,
P.S. Dmitrenok, I.G. Agafonova, P.Q. Long, V.A. Stonik,
Highly hydroxylated steroids of the starfish Archaster typicus
from the Vietnamese waters, Steroids, 75 (2010) 897-904.
9. X.-W.Yang,X.-Q.Chen,G.Dong,X.-F.Zhou,X.-Y.Chai,Y.-Q.Li,B. Yang,
W.-D. Zhang, Y. Liu, Isolation and structural characterisation of five
new and 14 known metabolites from the commercial starfish Archaster
typicus, Food Chemistry, 124 (2011)1634-1638.
10. R. Higuchi, Y. Noguchi, T. Komori, T. Sasaki, Biologically active
glycosides from asteroidea, XVIII. 1H-NMR spectroscopy and
biological activities of polyhydroxylated steroids from the starfish
Asterina pectinifera Müller et Troschel, Liebigs Annalen der Chemie,
1988 (1988) 1185-1189.
11. M. Honda, T. Igarashi, N. Marubayashi, T. Komori, Biologically active
glycosides from asteroidea, XXVII. Stereochemistry of the C-17 side
chain of 26-homothornasterol B: Novel triethylaluminum-promoted
rearrangement and alkylation of epoxy alcohols, Liebigs Annalen der
Chemie, 1991 (1991) 595- 598.
12. L.X. Zhang, X. Fan, J.G. Shi, A novel polyhydroxyl sterol from
Asterina pectinifera, Journal of Asian natural products research, 7
(2005) 25-29.
13. R. Riccio, L. Minale, S. Pagonis, C. Pizza, F. Zollo, J. Pusset, A novel
group of highly hydroxylated steroids from the starfish Protoreaster
14. Y. Peng, J. Zheng, R. Huang, Y. Wang, T. Xu, X. Zhou, Q. Liu, F. Zeng,
H. Ju, X. Yang, Y. Liu, Polyhydroxy steroids and saponins from China
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
54
nodosus, Tetrahedron, 38 (1982) 3615-3622.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
sea starfish Asterina pectinifera and their biological activities, Chemical
& pharmaceutical bulletin, 58 (2010) 856-858.
15. M.V. D'Auria, R. Riccio, L. Minale, S. La Barre, J. Pusset, Novel
marine steroid sulfates from Pacific ophiuroids, The Journal of Organic
Chemistry, 52 (1987) 3947-3952.
16. M.V. D'Auria, R. Riccio, E. Uriarte, L. Minale, J. Tanaka, T. Higa,
Isolation and structure elucidation of seven new polyhydroxylated
sulfated sterols from the ophiuroid Ophiolepis superba, The Journal of
Organic Chemistry, 54 (1989) 234-239.
17. Francesco De Riccardis, Luigi Minale, and Rafaele Riccio, Bruno
Giovannitti, and Maria Iorizzi, Phosphated and sulphated marine
polyhydroxylated steroids from the starfish Tremaster novaecaledoniae,
Gazzetta Chimica Italiana, 123 (1993) 79-85.
18. W. Wang, F. Li, Y. Park, J. Hong, C.-O. Lee, J.Y. Kong, S. Shin,
K.S. Im,J.H. Jung, Bioactive Sterols from the Starfish Certonardoa
semiregularis, Journal of Natural Products, 66 (2003) 384-391.
19. W. Wang, J. Hong, C.-O. Lee, K.S. Im, J.S. Choi, J.H. Jung, Cytotoxic
sterols and saponins from the starfish Certonardoa semiregularis,
Journal of Natural Products, 67 (2004) 584-591.
20. W. Wang, H. Jang, J. Hong, C.-O. Lee, K.S. Im, S.-J. Bae, J.H. Jung,
Additional cytotoxic sterols and saponins from the starfish
Certonardoa semiregularis, Journal of Natural Products, 67 (2004)
1654-1660.
21. E.V. Levina, A.I. Kalinovskii, P.V. Andriyashchenko, P.S. Dmitrenok,
E.V. Evtushenko, V.A. Stonik, A new steroidal glycoside phrygioside
A and its aglycone from the starfish Hippasteria phrygiana, Russ Chem
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
55
Bull, 53 (2004) 2634-2638.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
22. E.V. Levina, A.I. Kalinovsky, P.V. Andriyashenko, P.S. Dmitrenok,
D.L. Aminin, V.A. Stonik, Phrygiasterol, a cytotoxic cyclopropane-
containing colyhydroxysteroid, and related compounds from the Pacific
starfish Hippasteria phrygiana, Journal of Natural Products, 68 (2005)
1541-1544.
23. GS. TS Phạm Quốc Long Tạp chí KHCN ISSN : 0866. 708X, tập 48, số
4a, (2010) 39-44.
24. Tang HF, Yi YH, Li L, Sun P, Zhang SQ, Zhao YP. , “Asterosaponins
from the starfish Culcita novaeguineaeand their bioactivities”, (2006)
Fitoterapia, 77, 28-34.
25. Tang HF, Yi YH, Li L, Sun P, Zhang SQ, Zhao YP, “Three new
asterosaponins from the starfish Culcita novaeguineaeand their
bioactivity”,. Planta Medica, (2005), 71, 458-463.
26. Kawano, Y., Higuchi, R., Isobe, R., and Komori, T., “Biologically active
glycosides from Asteroidea, XIII. Glycosphingolipids from the starfish
Acanthaster planci, 2-Isolation and structure of six new cerebrosides.
27. Kawano, Y., Higuchi, R., and Komori, T., “Biologically active
glycosides from Asteroidea, XIX. Glycosphingolipids from the starfish
Acanthaster planci,4-Isolation and structure of five new gangliosides.
Liebigs Ann.Chem., (1990) 43-50.
28. W. Jin, K.L. Rinehart, E.A. Jares-Erijman, Ophidiacerebrosides:
cytotoxic glycosphingolipids containing a novel sphingosine from a sea
29. V. Costantino, C. de Rosa, E. Fattorusso, C. Imperatore, A. Mangoni, C.
Irace, C. Maffettone, D. Capasso, L. Malorni, R. Palumbo, C. Pedone,
Oreacerebrosides: Bioactive cerebrosides with a triunsaturated sphingoid
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
56
star, The Journal of Organic Chemistry, 59 (1994)144-147.
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
base from the sea star Oreaster reticulatus, European Journal of Organic
Chemistry, 2007 (2007) 5277-5283.
30. M. Inagaki, T. Nakata, R. Higuchi, Isolation and structure of a
galactocerebroside molecular species from the starfish Culcita
novaeguineae, Chemical & pharmaceutical bulletin, 54 (2006) 260-261.
31. K. Pan, M. Inagaki, N. Ohno, C. Tanaka, R. Higuchi, T. Miyamoto,
Identification of sixteen new galactocerebrosides from the starfish
Protoreasternodosus,Chemical&pharmaceuticalbulletin,58(2010)470-
474.
32. Satoshi, Kawatake, Nakamura, Kazufumi, Inagaki, Higuchi, Ryuichi,
“Isolation and structure determination of six glucocerebrosides from the
starfish Luidia maculata. Chemical and Pharmaceutical Bulletin
(Tokyo)” (2002), 50(8) : 1091- 1096.
33. Masanori Inagaki, Yuriko Ikeda, Satoshi Kawatake, Kazufumi
Nakamura, Miyuki Tanaka, Eriki Misawa, Muneo Yamada, Ryuichi
Higuchi, “Isolation and structure of four new ceramides from the
starfish Luidia maculata”, (2006), 1647- 1649.
34. A.A. Kicha, N.V. Ivanchina, A.I. Kalinovsky, P.S. Dmitrenok, V.A.
Stonik, Alkaloidosteroids from the starfish Lethasterias nanimensis
chelifera, Tetrahedron Letters, 44 (2003) 1935-1937.
35. M. Iorizzi, F. de Riccardis, L. Minale, R. Riccio, Starfish Saponins,
52. Chemical Constituents from the Starfish Echinaster brasiliensis,
Journal of Natural Products, 56 (1993) 2149-2162.
36. L.X. Zhang, X. Fan, J.G. Shi, A novel pyrrole oligoglycoside from the
starfish , Asterina pectinifera, Natural product research, 20 (2006)
229-233.
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
57
37. Y.C. Zhan, Y. Sun, W. Li, Y. Lin, Y. Sha, Y.H. Pei, A new triterpene
Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Hà Nội 2
glycoside from Asterias rollentoni, Journal of Asian natural products
research, 8 (2006) 631-636.
K39b – Sư phạm Hóa học
Nguyễn Thị Ánh
58
38. Wickberg, B.et, Acta Chem. Scand, (1957), 11, 506 (isol)