ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Người hướng dẫn: TS. Lương Thùy Liên
Hà Nội – 2019
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm
ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời
gian em học tập tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn TS. Lương Thùy Liên đã trực tiếp
hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện
khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn
thiện hơn.
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2019
Nguyễn Thị Lan Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ
LUẬN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ......................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận .. 8
1.1.1. Tư duy lý luận. ......................................................................................... 8
1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận........................................................................... 21
1.2. Tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình xây
dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. ........................................................... 27
1.2.1. Điều kiện khách quan. ........................................................................... 27
1.2.2. Nhân tố chủ quan. ................................................................................. 31
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 36
Chương 2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA
ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM. ............. 38
2.1. Quá trình đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường của
Đảng từ 1986 đến nay ................................................................................... 38
2.1.1. Đổi mới tư duy lý luận về kết cấu, thành phần kinh tế. ........................ 40
2.1.2. Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế. ........................................................ 50
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của
Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam ....................................... 54
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 72
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Mô hình Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) sụp đổ đã đem
đến những tổn thất vô cùng to lớn cho các phong trào cách mạng Xã hội chủ
nghĩa trên thế giới. Điều này đã khiến cho sự phát triển của hình thái kinh tế
xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội trở nên thụt
lùi so với trước kia.
Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ và Tây Âu chiến thắng. Tuy nhiên, họ
cũng phải chịu những tổn thất vô cùng nặng nề do chiến tranh gây ra. Chính
vì vậy, các nước Mỹ và Tây Âu càng phải gấp rút phát triển kinh tế và trang
bị sức mạnh quân sự cho mình ngày càng hoàn bị hơn. Sự phát triển của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy các nước Tư bản chủ
nghĩa phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự... Các nước này
đang tiến hành đẩy mạnh âm mưu diễn biến hòa bình trên tất cả các lĩnh vực
đặc biệt là kinh tế, chính trị.
Chính tình hình đó đã làm nảy sinh tư tưởng hoang mang ở một số nhà
lãnh đạo, nhà nghiên cứu. Họ bắt đầu nghi ngờ về tính khả thi của Chủ nghĩa
xã hội, họ đòi xem xét lại con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, đồng thời ca
tụng Chủ nghĩa tư bản. Nhiều khuynh hướng cải lương đã xuất hiện và có
không ít người cho rằng việc phát triển theo Tư bản chủ nghĩa sẽ đem lại một
tương lai xán lạn hơn đối với những nước Chủ nghĩa xã hội còn lại, cũng như
các nước thuộc thế giới thứ ba. Điều này đã đặt ra những yêu cầu và thách
thức lớn trong sự kiên định chọn lựa mục tiêu và định hướng xây dựng Chủ
nghĩa xã hội.
Việt Nam đã áp dụng mô hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Liên Xô
(cũ) trong những năm 1960, 1970 và nửa đầu những năm 1980 của thế kỷ XX
một cách thụ động, máy móc. Đường lối đó đã gây ra cuộc khủng hoảng trên
nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là kinh tế. Biểu hiện cụ thể của sự khủng
1
hoảng này được thể hiện rõ qua các vấn đề xã hội như sau: kinh tế tụt hậu,
kém phát triển; sản phẩm tiêu dùng nghèo nàn, không đa dạng; khoa học- kĩ
thuật và công nghệ lạc hậu, quan liêu trong tổ chức hành chính... Những thực
tiễn trên đã dần dần đánh mất và làm giảm dần lòng tin vào chế độ Xã hội chủ
nghĩa của một bộ phận quần chúng nhân dân.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Trong đó phải kể đến
một nguyên nhân quan trọng là do xuất phát từ tư duy, nhận thức chưa đúng,
chưa đầy đủ về những khó khăn, phức tạp trên con đường phát triển lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, thực tiễn yêu cầu phải có tư duy mới, phải đổi
mới tư duy lý luận về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Đây là vấn đề cấp bách trong sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của mô hình Xã hội chủ nghĩa
hiện thực ở nước ta.
Do những nguyên nhân nêu trên, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986) đã đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng về Chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó cho đến
nay, nội dung của vấn đề này ngày càng được Đảng ta làm rõ hơn. Trong văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã nhấn mạnh: “Đối với nước
ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý
nghĩa sống còn...Vì vậy, phải đổi mới- trước hết là đổi mới tư duy" [12,132-
133]. Đại hội này đã đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đổi mới tư duy của
Đảng về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội đặc biệt trong vấn đề đổi mới tư
duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường ở nước ta.
Đổi mới tư duy lý luận của Đảng là một trong những yêu cầu cấp bách
đối với sự lãnh đạo Đảng, đồng thời đây cũng là một vấn đề cơ bản, lâu dài,
có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Chính sự coi trọng việc đổi
mới tư duy của Đảng đã thúc đẩy sự hoạt động của các nhà nghiên cứu, của
đội ngũ cơ quan nghiên cứu lý luận cách mạng Đảng. Để nghiên cứu về quá
2
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường
ở Việt Nam. Thông qua đó, thấy được ý nghĩa của tư duy lý luận trong nhận
thức xã hội, trong hoạt động thực tiễn và đặc biệt đưa ra được những giải
pháp cơ bản để tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới, nhằm góp phần đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả việc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh...
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này nhưng tôi nhận thấy vẫn
cần có thêm những nghiên cứu một cách toàn diện và cấp thiết hơn. Do đó, tôi
chọn đề tài “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh
tế thị trường ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/ 1986) với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Đảng ta đã tiến hành đổi mới toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực. Đã có nhiều tác giả và tập thể tác giả, nhiều công trình
nghiên cứu và nhiều bài viết liên quan đến vấn đề này. Có thể điểm qua một
số công trình nghiên cứu sau:
Lại Văn Toàn: “Đổi mới tư duy lý luận- tư duy lý luận trong sự nghiệp
đổi mới”, tạp chí triết học, số 1-1988; tác giả đề cập vấn đề đổi mới tư duy lý
luận đã được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, cũng như tính cấp thiết
của vấn đề đổi mới được thông qua, để thấy được vai trò của tư duy lý luận
trong sự nghiệp đổi mới đất nước- đó là một nhân tố không nhỏ trong việc
định hướng các sách lược, chiến lược phát triển đất nước.
Trong cuốn sách: “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta” của TS.
Nguyễn Đức Tài, Nxb Chính trị quốc gia, 2005: Tác giả đã khảo sát quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng
ta trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, văn hoá... Từ đó, chứng minh việc
3
đổi mới tư duy lý luận là tất yếu để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của
thực tiễn.
Trong cuốn sách: “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ
1986 đến nay” do tập thể các tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc
Việt, Lê Ngọc Tòng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, 2006: Đây là cuốn
sách tập hợp sự đóng góp của rất nhiều nhà nghiên cứu, là một công trình
nghiên cứu có uy tín với sự tổng kết những hạn chế và thành tựu trong công
cuộc đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội, con đường đi
lên Chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đồng thời
chỉ ra những hạn chế trong nhận thức, tư duy về Chủ nghĩa xã hội trước đổi
mới. Các tác giả đi vào khảo sát vấn đề đổi mới tư duy lý luận trong từng lĩnh
vực cụ thể. Để từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và yêu cầu tiếp tục đổi
mới.
Qua các công trình nghiên cứu, các tác giả đều cho rằng cách tư duy
máy móc, siêu hình, chủ quan, duy ý chí v.v... là nguyên nhân cản trở quá
trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, việc đòi hỏi phải đổi mới
tư duy lý luận là tất yếu. Đồng thời các bài viết, các công trình nghiên cứu
cũng nhận định quá trình đổi mới phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cần bổ sung và phát triển những thành tựu lý
luận đã đạt được để đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh
nghiệm... Các tác giả đã chỉ ra trong quá trình đổi mới cần phải bám sát vào
thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, đây là yêu cầu mang tính
chiến lược mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng. Như vậy, đổi
mới tư duy lý luận đã nhận được nhiều sự quan tâm trong việc nhận thức,
tổng kết, khái quát thực tiễn để từ đó tìm ra mô hình kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa. Vì thế, vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng về
mô hình kinh tế thị trường là phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi phát triển của đất
nước, là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay.
4
Có thể nói, khi nghiên cứu về vấn đề đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
qua việc khảo sát các văn kiện của Đảng, mỗi tác giả sẽ có những phương
pháp, cách thức tiếp cận vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu đó vẫn chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát vấn đề một cách chung nhất, chưa
có những nghiên cứu cụ thể đối với từng vấn đề, đặc biệt trong vấn đề đổi
mới tư duy kinh tế của Đảng còn ít được đề cập đến. Trong khi đó, đời sống
kinh tế- xã hội ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói rieng đang không
ngừng vận động, biến đổi và phát triển. Chính vì vậy mà đã làm xuất hiện rất
nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu. Từ những phân tích nêu trên, khóa luận
muốn tiếp cận và làm rõ hơn quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô
hình kinh tế thị trường, góp phần làm phong phú hơn kho tàng lý luận và thực
tiễn về kinh tế trong giai đoạn hiện nay
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hóa những nội dung liên
quan đến tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận, khóa luận làm rõ quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam nhằm tìm ra tính quy luật của quá trình này. Từ đó đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thúc đẩy hơn nữa sự nghiệp đổi mới tư duy lý
luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận có những nhiệm vụ
cụ thể như sau:
Thứ nhất làm rõ các vấn đề lý luận chung về: lý luận, tư duy lý luận và
đổi mới tư duy lý luận; tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng
về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Thứ hai, làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình
kinh tế thị trường ở Việt Nam thông qua các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ từ năm 1986 đến nay.
5
Từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của
Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các quan điểm đổi mới thông qua
các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ về đổi mới và định hướng con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng về nhận thức và tư duy.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp chủ yếu là phân
tích- tổng hợp, thống nhất lịch sử- logic, khái quát hoá, trừu tượng hoá, so
sánh, thống kê... Các phương pháp được sử dụng đan xen để làm rõ mục đích
và nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài.
Đề tài đã hệ thống hoá và phân tích ở góc độ triết học vấn đề đổi mới tư
duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường của Đảng, thông qua các
văn kiện Đại hội Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ.
Từ đó đề tài kiến nghị một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp
tục thực hiện đổi mới tư duy lý luận về mô hình phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
- Ý nghĩa lý luận: Khóa luận đã góp phần làm rõ vai trò của lý luận đối
với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã
hội.
6
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài
liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học “Những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin”, “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam” cho sinh viên đại học, cao đẳng; hoặc môn học “giáo dục lý
luận chính trị” ở các trường trung cấp, dạy nghề.
8. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề
tài gồm 2 chương, 4 tiết.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ ĐỔI
MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư
duy lý luận.
1.1.1. Tư duy lý luận.
1.1.1.1. Khái niệm của tư duy lý luận
Tư duy được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau và cũng là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: triết học, tâm lý
học, lịch sử, ngôn ngữ học, logic học...Ví dụ như: triết học nghiên cứu tư duy
trong quá trình nhận thức tri thức và hiện thực, trong mối liên hệ giữa chủ thể
với khách thể; tâm lý học nghiên cứu tư duy trong các mối liên hệ với hành vi
của con người, sự tác động của hệ thần kinh cấp cao não người với môi
trường xung quanh; ngôn ngữ học nghiên cứu tư duy trong mối liên hệ với
các tín hiệu ngôn ngữ; trong khi đó logic học nghiên cứu tư duy dưới góc độ
tính chân thực hay tính giả đối của tư tưởng, nghiên cứu hình thức hay tính
quy luật của tư duy…Mỗi ngành khoa học đều muốn khám phá tư duy dưới
những góc độ riêng và thông qua những khám phá đó có thể chứng minh được
vai trò to lớn của tư duy trong hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức
của con người.
Vậy tư duy là gì? Có nhiều cách định nghĩa tư duy khác nhau. Trong
cuốn giáo trình Lôgic học đại cương tư duy được định nghĩa như sau: “Tư
duy là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc
con người, được thực hiện bởi con người xã hội trong quá trình hoạt động
thực tiễn cải biến thế giới xung quanh” [40,9]. Với tư cách là sự phản ánh
gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con người nên tư duy
đóng vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong nhận thức mà ngay cả trong
hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ có tư duy mà con người có thể hoạt
động theo những mô hình đã dự kiến, hoạch định sẵn. Nếu không có tư duy
8
thì con người không thể hoạt động được. Cũng nhờ có tư duy không ngừng
được đổi mới và biến đổi nên con người có thể cải biến các hoạt động nhận
thức sao cho phù hợp với hoạt động trong thực tiễn. Tư duy góp phần tạo ra
trong đời sống con người hình ảnh của toàn bộ thế giới với những chuẩn mực
sống và các hệ giá trị phong phú, phức tạp. Cũng chính tư duy góp phần làm
xóa bỏ những chuẩn mực cũ, hình thành nên những chuẩn mực mới cao hơn,
phù hợp và hợp lý với nhu cầu xã hội hơn. Tư duy có khả năng phản ánh hiện
thực khách quan nhưng nếu không sử dụng đúng cách tư duy có thể cản trở sự
vận động của đời sống khách quan cũng như trong hoạt động kinh tế của con
người.
Trong hoạt động sống của mình con người chịu tác động của môi
trường tự nhiên, đồng thời chính con người tại tác động trở lại môi trường tự
nhiên ấy nhằm cải tạo thiên nhiên và phục vụ cho đời sống của chính bản thân
mình. Trong mối quan hệ ấy, con người với tư cách là chủ thể đã tác động vào
đối tượng khách quan bằng phương thức riêng biệt đặc trưng riêng cho loài
của mình, đó chính là quá trình tư duy.
Thực chất, tư duy chính là chức năng riêng có, riêng biệt của não
người. Đó chính là quá trình ý thức con người tiếp cận và nắm bắt hiện
thực. Tư duy là hình thức cao trong sự phản ánh hiện thực khách quan, trong
đó con người qua các tài liệu thu được từ nhận thức cảm tính, thực hiện thông
qua các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán, suy lý...)
phân tích các dữ kiện, tài liệu để đưa kết luận cuối cùng trong chuỗi phản ánh.
Mỗi kết luận được đưa ra thường đem lại những tri thức mới. Nội dung của tư
duy hình thành trên cơ sở các tài liệu của cảm giác, tri giác, biểu tượng về các
sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài tác động vào chủ thể tư duy.
Nhưng quá trình tư duy không phải là sự tổng hợp đơn giản các cảm giác và
tri giác ấy. Tư duy giúp cho chủ thể nhận thức phản ánh được những thuộc
tính và mối liên hệ cơ bản không chỉ có ở những sự vật riêng lẻ, mà còn ở một
nhóm sự vật. Tư duy có khả năng nắm bắt, phát hiện được bản chất của sự vật
9
ngày càng sâu sắc hơn. Tư duy con người có nhiều đặc trưng, trong đó phải
kể đến những đặc trưng cơ bản sau: tính gián tiếp, khái quát hoá, trừu tượng
hoá, tính tích cực và sáng tạo.
Thế giới khách quan là vô cùng phong phú và đa dạng mà tư duy là kết
quả của sự tác động bởi yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, quá trình tư
duy là một quá trình phức tạp, nó không tiến hành phản ánh một lần mà phải
thực hiện cả một chuỗi phản ánh để đi đến nhận thức sâu sắc về đối tượng.
Khả năng “tư duy của con người vừa tối cao vừa không tối cao, và khả năng
nhận thức của con người vừa vô hạn vừa có hạn. Tối cao và vô hạn là xét theo
bản tính, sứ mệnh, khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng; không tối cao và
có hạn là xét theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất
định” [27, 127]. Do đó, tư duy của con người với sản phẩm của nó, không
phải tất cả đều là chân lý, và không thể là một “chân lý vĩnh cửu”. Trên thực
tế, vì tư duy có tính sáng tạo; do đó, nó có khả năng vượt trước thực tiễn, đi
trước hiện thực khách quan. Tuy nhiên, cũng vì sự linh động này mà đôi khi
tư duy dễ mắc phải những sai lầm trong quá trình phản ánh. Điều này làm cho
tư duy được thể hiện ra rất phong phú về độ phản ánh cũng như phương pháp
phản ánh.
Ở đây, chúng ta xem xét đến mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và
tư duy lý luận để xem xét và trả lời cho câu hỏi: Vậy thì trình độ tư duy có
mối liên hệ như thế nào với phương pháp tư duy và nó có vai trò như thế nào
trong đời sống hiện thực, điểm khác biệt của chúng là ở đâu? Trong mối quan
hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, chúng ta thấy rõ được sự tác
động qua lại giữa hai trình độ tư duy này, chúng không hoàn toàn phủ định
nhau một cách sạch trơn mà đó là sự phủ định có tính kế thừa, mặc dù có sự
khác biệt rõ nét.
Tư duy kinh nghiệm là một giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính, nó
có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Việc đánh giá đúng vai trò, vị trí của tư duy kinh nghiệm để có thể phát huy
10
những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của nó là việc làm cần thiết trong
quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Tư duy kinh nghiệm được hình thành một cách trực tiếp trong quá trình
hoạt động thực tiễn của chủ thể nhằm mục đích cải biến khách thể. Nó thường
phản ánh những thuộc tính, tính chất của các đối tượng có tác động trực tiếp
tới chủ thể. Đối tượng phản ánh của nó là những thuộc tính, tính chất của
khách thể hiện thực; ngược lại, đối tượng của tư duy lý luận là những khách
thể trừu tượng. Sự khác nhau về mặt đối tượng được xem là dấu hiệu căn bản
để phân biệt hai giai đoạn kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức.
Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra định nghĩa như sau: Tư duy lý
luận là giai đoạn cao nhất của tư duy, là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm
bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và thường
được thể hiện ra ở các giả thuyết, các lý thuyết có quan hệ tương hỗ với
nhau.
Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản sau: Là giai đoạn cao nhất
của tư duy. Tư duy lý luận không phản ánh hiện thực bằng các khái niệm
thông thường mà nó phản ánh thông qua các khái niệm lý luận. Sản phẩm hay
hình thức biểu hiện của tư duy thường được biểu hiện thông qua các giả
thuyết khoa học. Tư duy lý luận là trình độ cao hơn về chất so với tư duy kinh
nghiệm. Sản phẩm của tư duy lý luận là những tri thức lý luận, trong khi đó
sản phẩm của tư duy kinh nghiệm lại là những mảnh đoạn rời rạc.
Tư duy lý luận phản ánh bản chất, quy luật ở các cấp độ, các giai đoạn,
các hình thức của sự vật, hiện tượng. Nó nghiên cứu một cách kỹ càng các
tầng lớp bên trong của sự vật và bóc tách các vấn đề để phản ánh một cách
sâu nhất về đối tượng, phản ánh xu thế vận động của đối tượng nên tư duy lý
luận có khả năng bao quát, bám sát sự vận động của đối tượng cũng như có
khả năng vượt lên trên và dẫn đường, định hướng cho sự vận động và phát
triển của đối tượng.
Tư duy lý luận có thể được hiểu theo 3 cách là động từ, tính từ và danh từ.
11
Với tư cách là động từ: tư duy lý luận được hiểu là quá trình mà tư duy
lý luận đang vận động để khám phá, nắm bắt, tái tạo hiện thực. Với tư cách là
danh từ: Tư duy lý luận được hiểu như là một quá trình, một kết quả đã có, đã
hình thành. Với tư cách là tính từ: tư duy lý luận thường được hiểu thông qua
các cặp đối lập của nó.
Có hai yếu tố chủ yếu để cấu thành nên tư duy lý luận là chủ thể và
khách thể của tư duy lý luận. Mặt khách thể của tư duy lý luận là toàn bộ
những mối liên hệ chung nhất bên trong, tất yếu làm nên bản chất và quy luật
của tự nhiên, xã hội và của chính con người. Mặt chủ thể của tư duy lý luận là
những thứ liên quan đến hoạt động của não người và thường được thể hiện ra
ở ba chủ thể chính là cá nhân, tập thể, dân tộc.
Tư duy lý luận cần đáp ứng được các đặc trưng và yêu cầu sau: Thứ
nhất, tư duy đó phải có một hệ thống ngôn ngữ chọn lọc là ngôn ngữ lý luận;
thứ hai, về yêu cầu: tư duy lý luận mỗi thời đại bao giờ cũng đạt đến trình độ
khái quát và tính chân lý cao nhất. Chính vì vậy mà chủ thể của tư duy lý luận
cần thỏa mãn bốn yêu cầu sau: Một là, chủ thể của tư duy lý luận phải là
những người có khả năng trí tuệ cao bao gồm khả năng quan sát, ghi nhớ tốt,
năng lực tư duy trừu tượng cao, năng lực tưởng tượng và năng lực thực tiễn
duy lý; hai là, chủ thể tư duy lý luận phải được đào tạo, rèn luyện, trang bị về
tri thức, ngôn ngữ, logic toán, và các phương pháp khoa học; ba là, chủ thể tư
duy lý luận phải được trang bị các điều kiện vật chất như là các công cụ, thiết
bị, phương tiện và các điều kiện vật chất khác vào trong phương tiện kĩ thuật;
bốn là, chủ thể tư duy lý luận phải được rèn luyện trong phong trào Cách
mạng, thực tiễn và quần chúng.
Đặc trưng riêng của tư duy lý luận đó là: hệ thống ngôn ngữ và kí hiệu
này được xây dựng rất khái quát, chặt chẽ, chính xác, rõ ràng và được sử dụng
tương đối thống nhất; ngôn ngữ lý luận là ngôn ngữ được chuyên môn hóa
sâu sắc để giúp cho tư duy lý luận phản ánh ngày càng đầy đủ hơn đối tượng
nghiên cứu của mình.
12
Cũng giống tư duy thông thường tư duy lý luận sử dụng các thao tác
sau: Phân tích- tổng hợp; so sánh- phân loại; trừu tượng hóa; lý tưởng hóa;
trung gian hóa và cụ thể hóa; hệ thống hóa; khái quát hóa. Các thao tác này
trong tư duy lý luận được sử dụng đầy đủ nhất, chính xác nhất và có hiệu quả
nhất vì: Các thao tác này trong tư duy lý luận thường lặp đi lặp lại gần như
chuyên dụng trong tư duy lý luận. Trong tư duy lý luận, các thao tác này
thường được sắp xếp thành một hệ thống chặt chẽ, tương ứng với các phương
pháp tư duy khoa học. Trong việc vận động và phát triển của các thao tác này,
từ việc mở rộng phạm vi ứng dụng đến việc nâng cao năng lực của các thao
tác đã biết, đồng thời còn phát hiện ra những khả năng mới của các thao tác
đó hoặc phát hiện, xây dựng và sử dụng những thao tác mới hoàn toàn của tư
duy đều nhờ tư duy lý luận đóng vai trò là chất xúc tác chủ yếu.
Là những cấp độ khác nhau của cùng một quá trình nhận thức lý tính,
nhưng tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận không đối lập, tách rời nhau, mà
thống nhất với nhau thông qua hoạt động thực tiễn. V.I.Lênin đã từng khẳng
định: “Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm,
từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung” [21,220].
Ở nước ta, một số công trình nghiên cứu đã đồng nhất tư duy kinh
nghiệm với nhận thức cảm tính; hoặc chỉ coi “tư duy kinh nghiệm là thứ tư
duy tiền khoa học” [24,55]. Quan niệm đó đã dẫn đến việc tuyệt đối hoá vai
trò của tư duy lý luận; coi thường tư duy kinh nghiệm. Thực chất, tư duy kinh
nghiệm là giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính. Do vậy, nó cũng có khả
năng phát hiện các quy luật và định hướng hoạt động thực tiễn của con người,
chứ không chỉ tư duy lý luận mới có thể làm được việc này. Có thể thấy, vai
trò của tư duy kinh nghiệm đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn kém hơn
tư duy lý luận, tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể tuyệt đối hoá vai trò
của tư duy lý luận, hoặc xem nhẹ vai trò của tư duy kinh nghiệm.
Tư duy kinh nghiệm hướng tới giải quyết những nhiệm vụ trước mắt,
cụ thể, đang đặt ra; phát hiện và giải quyết vấn đề một cách trực tiếp. Do có
13
khả năng trực tiếp phản ánh hiện thực khách quan, nên tư duy kinh nghiệm rất
mềm dẻo, linh hoạt, năng động và nhạy cảm trước thực tiễn, dễ thích nghi với
những thay đổi của thực tiễn.
Giữa lý luận và thực tiễn vẫn còn là một khoảng cách, tư duy kinh
nghiệm là nhịp cầu nối quan trọng giữa tư duy lý luận và thực tiễn, gắn lý
luận với thực tiễn. Tư duy lý luận có khoảng cách rất xa thực tiễn nên nhiều
khi các phương án giải quyết vấn đề của tư duy lý luận thiếu tính đặc thù,
nghĩa là thiếu sự phù hợp giữa khách thể trừu tượng, chung với khách thể hiện
thực cụ thể. Do vậy, tư duy lý luận có thể dẫn đến những giải pháp không phù
hợp để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Việc trong một thời gian dài,
chúng ta quan niệm cần phải phát triển quan hệ sản xuất trước một bước nhằm
tạo điều kiện, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến kết quả
ngược lại, là một ví dụ.
Hiện nay, do tư duy lý luận ở nước ta còn nhiều yếu tố giáo điều, tư
biện, nên chưa đưa ra được giải pháp phù hợp trong việc giải quyết những vấn
đề mà thực tiễn đang đặt ra một cách hiệu quả. Ví dụ, việc quy hoạch mạng
lưới giao thông ở các thành phố lớn, các chiến lược giáo dục và đào tạo nguồn
nhân lực, một số chương trình phát triển kinh tế… Về vấn đề này, tác giả Ngô
Đình Xây đã viết: “Kiểu tư duy lý luận một cực là sách vở giáo điều và cực
kia là thực tiễn vụn vặt là nét nổi bật thứ ba trong tư duy lý luận và cũng là
của tư duy lý luận ở nước ta hiện nay. Khi lý tưởng hoá đi đến tuyệt đối hoá
chức năng trừu tượng, tuyệt đối hoá khía cạnh lý thuyết thuần tuý tư duy lý
luận đã bỏ rơi nguyên tắc: sức mạnh có thể có ở lý luận là ở chỗ nó gắn liền
với thực tiễn và khi tư duy lý luận đã quên mất nguyên tắc đó, nó chỉ có thể
tạo dựng những lý thuyết trừu tượng cách biệt quá lớn với thực tiễn, và như
vậy nó giúp ích được gì cho thực tiễn?” [41, 34]. Chính vì vậy, nếu kết hợp tư
duy lý luận và tư duy kinh nghiệm một cách hợp lý thì chắc chắn chúng ta sẽ
đưa ra được những giải pháp phù hợp hơn với thực tiễn.
14
Trong mối quan hệ với tư duy lý luận, tư duy kinh nghiệm không
những là cơ sở, tiền đề cho tư duy lý luận, mà còn đóng vai trò trung gian để
lý luận thực hiện có hiệu quả vai trò định hướng và chỉ đạo thực tiễn. Lý luận
không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù
quáng. Những tri thức khoa học có mức độ trừu tượng hoá và khái quát hoá
rất cao, nhưng trong thực tiễn hầu như hoàn toàn không có những khách thể
trừu tượng như vậy. Trải qua hơn ba mươi năm tiến hành đổi mới, sự phát
triển, bổ sung lý luận về xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Đảng qua các kỳ đại
hội đã khẳng định rằng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là nhiệm vụ hết sức
quan trọng, là cơ sở khoa học để đẩy mạnh đổi mới tư duy lý luận của Đảng.
Qua quá trình phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, tư duy kinh
nghiệm là nấc thang tất yếu và không thể thiếu của tư duy trong quá trình
nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải biến thế giới khách quan của con
người.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, bên cạnh những ưu điểm, tư duy
kinh nghiệm cũng còn có những mặt hạn chế nhất định. Trong quá trình phát
triển và hội nhập hiện nay, nếu chúng ta không khắc phục một cách kịp thời
những tác động tiêu cực đó, thì chúng sẽ gây ra nhiều hậu quả hết sức nghiêm
trọng.
Do được hình thành trực tiếp trong quá trình con người nhận thức và
cải tạo thế giới khách quan, nên tư duy kinh nghiệm vẫn mang tính tự phát
trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn đặt ra. Một hạn chế
khác của tư duy kinh nghiệm là tính duy lý yếu. Vì vậy, tư duy kinh nghiệm
thường có độ chính xác không cao, ít có khả năng định hướng, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn ở tầm chiến lược một cách hiệu quả. Do yếu về tính duy lý, tư
duy kinh nghiệm thường mang tính định tính nhiều hơn định lượng, thiếu
chính xác hơn tư duy lý luận. Đồng thời, do ít có khả năng phân tích, phê
phán và tự phê phán, người tư duy kinh nghiệm thường suy nghĩ đơn giản,
máy móc, thụ động, ít sáng tạo. Chính điều này đã dẫn đến việc áp dụng một
15
cách máy móc kinh nghiệm của người khác, địa phương khác mà không tính
đến những yếu tố đặc thù của địa phương mình.
Trong hoạt động thực tiễn, nếu người ta chỉ dừng lại ở trình độ tư duy
kinh nghiệm sẽ không có khả năng nhận thức được bản chất của các sự vật và
hiện tượng, do đó sẽ không nắm được những biến đổi phong phú, đa dạng của
hiện thực để cải biến nó phục vụ lợi ích của con người. Do đó, muốn cải biến
hiện thực theo nghĩa sáng tạo ra hiện thực mới, con người phải nhận thức,
khám phá được bản chất, quy luật vận động khách quan của nó bằng tính chặt
chẽ, chính xác và sáng tạo của tư duy lý luận. Hơn nữa, cần phải kết hợp
nhuần nhuyễn tư duy lý luận với tư duy kinh nghiệm để phát huy những mặt
mạnh, cũng như khắc phục những mặt hạn chế của mỗi loại hình tư duy. Đó
là cách để phát huy vai trò định hướng và chỉ đạo của lý luận đối với hoạt
động thực tiễn nhằm cải tạo hiện thực khách quan một cách có hiệu quả.
Ph. Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [26, 489]. Bởi vì, tư duy lý
luận cho phép nhà nghiên cứu vạch mở được bản chất phát triển của khách thể
nghiên cứu, tạo bước chuyển về chất của đối tượng từ trạng thái này sang
trạng thái khác phát hiện và phản ánh vào khoa học các luận điểm, lý thuyết,
quy luật tồn tại và phát triển của nó mà nhận thức cảm tính không thể tiếp cận
được. “Nhưng làm thế nào khoa học tự nhiên đã chuyển sang lĩnh vực lý luận
và trong lĩnh vực này những phương pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có
tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” [26, 487]. Bằng tư duy lý luận con
người khám phá bản chất, khoan sâu đến bản chất của hiện tượng. Tư duy lý
luận đóng vai trò là chất keo dính các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ,
quan hệ của sự vật, hiện tượng. “Dù người ta tỏ ý khinh thường tư duy lý luận
như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta cũng không
thể liên kết hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu
được mối liên hệ giữa hai sự liên kết đó” [26, 508]. Tư duy lý luận gắn kết
16
các hình ảnh hoạt động, vận hành bộ máy công cụ của mình để giúp cho nhận
thức đi vào bản chất của sự vật.
Có thể thấy tư duy kinh nghiệm có vai trò quan trọng trong quá trình
nhận thức và cải tạo thực tiễn của con người, song về bản chất, những tri thức
kinh nghiệm vẫn mang tính chất hạn hẹp. Vì vậy, để phát huy được vai trò
của tư duy kinh nghiệm, nhất thiết phải đặt nó trong mối liên hệ thống nhất
với tư duy lý luận, bởi chỉ có tư duy lý luận với bản chất sáng tạo và sự sâu
sắc trong sự phản ánh hiện thực khách quan mới có thể khắc phục được tính
chất hạn hẹp, phiến diện của tư duy kinh nghiệm.
Nhận thức xã hội là quá trình phản ánh đời sống xã hội vào ý thức con
người. Là bộ phận của ý thức xã hội, bao gồm những thành tố, những hình
thái khác nhau của hiện tượng tinh thần và những hiện tượng tinh thần đó
phản ánh xã hội bằng những phương thức khác nhau. Mối quan hệ giữa tư
duy lý luận và nhận thức xã hội là mối quan hệ bản chất, vì vậy tư duy lý luận
có vai trò rất quan trọng trong nhận thức xã hội.
Nhận thức xã hội bao gồm những đặc trưng sau: Thứ nhất, nhận thức xã
hội có tính cá nhân xong không rõ nét (đậm nét). Thứ hai, nhận thức xã hội
mang tính xã hội rất cao. Thứ ba, nhận thức xã hội mang tính giai cấp trong xã
hội có giai cấp. Nhận thức đó do lợi ích của giai cấp cầm quyền (lãnh đạo) chi
phối và bao giờ cũng bị hệ tư tưởng chi phối. Thứ tư, nhận thức xã hội mang
tính dân tộc rõ nét. Thứ năm, nhận thức xã hội mang tính nhân văn trực tiếp.
Tính tích cực của tư duy lý luận đối với nhận thức xã hội được thể hiện
ở những điểm sau: Thứ nhất, tư duy lý luận tạo điều kiện và làm tiền đề cho
việc hình thành các giả thuyết xã hội, lý thuyết xã hội và mô hình phát triển
xã hội. Thứ hai, tư duy lý luận đóng vai trò là phương pháp luận cho nhận
thức xã hội. Thứ ba, tư duy lý luận đóng vai trò là phương pháp cho nhận thức
xã hội. Thứ tư, tư duy lý luận còn cung cấp cho nhận thức xã hội những lý
thuyết cụ thể về xã hội.
17
Tính tích cực của nhận thức xã hội đối với tư duy lý luận được thể hiện
ở các điểm sau: Thứ nhất, nhận thức xã hội làm tri thức nguồn cho tư duy lý
luận. Thứ hai, nhận thức xã hội giúp tư duy lý luận được hiện thực hóa. Thứ
ba, nhận thức xã hội giúp tư duy lý luận được sâu sắc thêm, đa dạng thêm,
phong phú thêm, hoàn chỉnh thêm. Thứ tư, nhận thức xã hội cung cấp những
công cụ mới (khái niệm mới) cho tư duy lý luận.
11.1.1.2. Đặc trưng của tư duy lý luận người Việt Nam hiện nay.
1) Sự chủ đạo của tư duy định tính tiền định lượng.
Tư duy lý luận trải qua các giai đoạn sau từ kinh nghiệm và trên cơ sở
kinh nghiệm đến giai đoạn đầu của tư duy lý luận, sau đó tư duy lý luận phân
tách, phân tầng sự vật và cuối cùng tư duy lý luận đi khái quát, đến cái bản
chất của sự vật, đó là định tính sau định lượng. Tư duy lý luận đích thực là tư
duy định tính sau định lượng. Nếu chỉ dừng lại ở định tính tiền định lượng thì
tư duy chỉ có cái nhìn chung về sự vật, cái bề ngoài của sự vật. Nó có thể
đúng nhưng nó là cái đúng mang tính hình thức, bề ngoài. Trong thực tế, tư
duy lý luận là “bà đỡ” cho các chính sách xã hội, nó sẽ hình thành đường lối,
chủ trương chính sách giả. Bởi lẽ nó không nắm bắt được bản chất sự vật,
không có cụ thể hóa trong tư duy. Vì vậy những đường lối chủ trương chính
sách này không có cơ sở để phổ cập hóa trong xã hội vì nó là đường lối chủ
trương chính sách giả. Điều này giải thích tại sao ở nước ta ban hành nhiều
chính sách nhưng ít đi vào thực tế. Nguyên nhân của sự chủ đạo của tư duy
định tính tiền định lượng là do trình độ khoa học chưa phát triển và chuyên
môn yếu kém.
2) Tư duy thiên về lập, yếu về luận.
Tư duy lý luận đích thực có hai thao tác cơ bản lập và luận. Lập được
hiểu là cách đặt vấn đề, tiếp cận vấn đề. Luận là sự lý giải, giải quyết vấn đề.
Luận làm cho tư duy lý luận không những được sâu sắc, phát hiện các bản
chất của sự vật mà còn vạch ra con đường đưa ra biện pháp để hiện thực hóa
nó. Đây là hai thao tác trong tư duy lý luận mà không thể thiếu thao tác nào.
18
Thiếu một trong hai thao tác này thì tư duy lý luận không còn hoàn chỉnh.
Nếu thiếu lập thì không có luận đúng hướng và đúng đắn, nếu chỉ có lập mà
không có luận thì dẫn đến sự hiểu biết nửa vời, không triệt để, nhiều khi mang
tính ngộ nhận và với một kiểu tư duy thiên về lập, yếu về luận làm bàn đỡ cho
các lý thuyết xã hội, chính sách xã hội thì sẽ dẫn đến không triệt để, nửa vời.
Và từ đây, khi áp dụng trong thực tế, thì lý luận chỉ được khuôn lại ở một số
công thức, máy móc đơn điệu và lý luận hiện ra là tổng số các công thức cứng
đờ, phiến diện và sự công thức hóa chỉ làm cho lý luận chỉ còn là một “sạp”.
Hai căn nguyên chính dẫn đến việc tư duy thiên về lập yếu về luận đó là: Bị
chi phối bởi tư duy kinh nghiệm và vừa không có truyền thống, vừa yếu về tư
duy logic.
3) Sự đè nặng của tư duy kinh nghiệm.
Tư duy kinh nghiệm chính là tư duy được dựa trên, vận hành trên tri
thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm có hai loại là: tri thức kinh nghiệm
thông thường (tiền khoa học) và tri thức kinh nghiệm khoa học. Dẫu là tri
thức thông thường hay khoa học đều có 3 đặc trưng cơ bản sau: Là những tri
thức kinh nghiệm đã mang tính gián tiếp và khái quát nhất định xong mới chỉ
là bước đầu và còn hạn chế; chỉ giới hạn ở lĩnh vực miêu tả sự việc, phân loại
các dữ liệu thu được từ những quan sát và thí nghiệm; là những tri thức mang
tính hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bề ngoài cho nên nó còn
rời rạc, chưa nắm được mối liên hệ tất yếu, bản chất bên trong. Do vậy theo
Angghen: sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng
minh được đầy đủ tính tất yếu. Và với một tư duy còn chi phối, đè nặng bởi tư
duy kinh nghiệm thì nó sẽ dẫn đến trong thực tế chủ nghĩa kinh nghiệm sẽ
thay thế và kinh nghiệm sẽ lên ngôi. Do vậy cho nên mọi đường lối, chủ
trương, chính sách đều được triển khai thực hiện dựa trên kinh nghiệm và chủ
nghĩa kinh nghiệm, và như vậy tư duy lý luận trở nên thiếu sắc bén.
4) Tư duy mang tính lưỡng cực.
Tư duy mang tính lưỡng cực: Một cực là sách vở giáo điều nhưng cực
kia lại khái quát thực tiễn vụn vặt. Lý luận đích thực có hai khía cạnh nổi bật:
19
một khía cạnh lý thuyết và một khía cạnh thực tiễn của lý luận. Nếu như tuyệt
đối hóa khía cạnh lý thuyết thuần túy thì lý luận đã bỏ rơi một nguyên tắc là
sức mạnh có thể có của lý luận chỉ khi nó gắn với thực tiễn. Như vậy nguyên
tắc thực tiễn và lý luận bị vi phạm. Song ngược lại, khi nhấn mạnh tuyệt đối
hóa chủ nghĩa thực tiễn trong lý thuyết lý luận, nghĩa là thiên về khái quát
thực tiễn vụn vặt thì tư duy lý luận đã hạ thấp lý luận xuống cấp độ khái quát
vụn vặt. Vi phạm một nguyên tắc khác là lý luận chỉ có sức mạnh thực sự khi
đóng vai trò là lý luận, nghĩa là phải đạt đúng tầm lý luận chứ không phải chỉ
khái quát thực tiễn vụn vặt.
Lý luận có hai khía cạnh là lý thuyết và thực tiễn. Nếu như người ta
cảm thấy khía cạnh lý thuyết yếu hay rời rạc thì người ta lấy trích dẫn trong
sách vở để bổ sung cho nó. Lý luận hiện ra là tổng số các trích dẫn và tư duy
logic, lập luận logic trong lý luận được thay bằng sự viện dẫn sách vở. Hệ quả
là, trích dẫn thay cho lập luận và suy nghĩ. Mặt khác, khi nhận thấy lý luận
mang tính sách vở, lý thuyết thì người ta lại dẫn đến cực thứ hai, đó là bổ
sung thực tiễn cho lý luận. Nhưng ở đây thực tiễn không được hiểu là tổng thể
các hoạt động vật chất của con người mà chỉ là những hoạt động riêng lẻ của
con người, những mảnh vụn thực tiễn. Sự khái quát những mảnh vụn thực
tiễn này làm cho lý luận hiện ra chỉ là tổng số những ví dụ. Kết quả là chúng
ta vừa thừa vừa thiếu lý luận. Thừa lý luận không đúng tầm của nó, thiếu lý
luận đích thực. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề tư duy mang tính lưỡng cực là
do bệnh hình thức trong suy nghĩ của người Việt.
5) Có sự đồng nhất tư duy lý luận với tư duy chính trị.
Việc đồng nhất giữa tư duy lý luận và tư duy chính trị đã đem lại những
hệ quả sau: nội dung của lý luận chỉ còn khuôn lại ở đường lối, quan điểm
chính trị; nghiên cứu lý luận không phải là sự tìm tòi, phát minh từ những vấn
đề thực tiễn mà chủ yếu chỉ là đi nghiên cứu, thuyết minh, chứng minh cho
đường lối, quan điểm chính trị; nhà nghiên cứu lý luận cũng đồng thời là nhà
hoạt động chính trị.
20
1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận.
Mọi sự vật- hiện tượng trong thế giới khách quan xung quanh chúng ta
đều trải qua các quá trình sinh thành, vận động, phát triển và tiêu vong. Các
sự vật, hiện tượng đó không do một lực lượng siêu nhiên nào tạo ra, không
phải chịu sự tác động của bất kỳ sức mạnh thần thánh nào, mà sự hình thành,
tồn tại và phát triển của chúng chỉ chịu sự tác động, chi phối của các quy luật
khách quan, phổ biến như sự tích luỹ dần dần về lượng dẫn tới sự thay đổi về
chất và ngược lại, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự phủ
định của phủ định. Sự tác động của các quy luật đó trong đối tượng đã tạo ra
cơ chế, cơ sở, tiền đề, nguồn gốc và kết quả của sự phát triển. Tuy nhiên, quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra theo đường
thẳng, mà thường là quanh co, phức tạp, đôi khi bao gồm cả những “bước thụt
lùi tạm thời”.
Trong quá trình phát triển đó đôi lúc sự vật, hiện tượng bộc lộ những
hạn chế, lỗi thời không phù hợp với thực tiễn, với điều kiện và hoàn cảnh mới.
Chính vì vậy mà nó nghiễm nhiên trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của
chính bản thân sự vật, hiện tượng. Và do vậy, để tiếp tục tồn tại và phát triển
không có cách nào khác là phải loại bỏ những yếu tố đang cản trở ấy, phải có
sự thay đổi, đổi mới nhất định trong tiến trình vận động và phát triển. Tuỳ
theo đối tượng, lĩnh vực mà hình thức thay đổi phù hợp, có thể là tiến hành
cải tổ, cải cách, đổi mới hay là tiến hành cuộc cách mạng. Mọi hình thức tiến
hành đều nhằm một điểm là giải quyết những hạn chế, bế tắc, khủng hoảng để
nhằm cải tạo đối tượng hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn.
Sự phát triển của tư duy là khách quan và có tính quy luật. Nó diễn ra
đồng thời với quá trình hoạt động của thực tiễn. Tư duy chính là đối tượng
của nhận thức. Sự phát triển của tư duy không diễn ra theo một đường thằng
mà tùy vào từng không gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà tư duy có lúc
nhanh, lúc chậm, lúc ngưng đọng hay nhảy vọt. Mặt khác, sự phát triển nội tại
của tư duy không dừng lại ở đó, mà vòng tròn “trôn ốc” của sự phát triển sẽ
21
hình thành một hình thức tư duy tiến bộ hơn phủ định hình thức tư duy cũ.
Với tư duy biện chứng được phát triển và hoàn thiện từ phép biện chứng “lộn
ngược đầu xuống đất” của Heghen, các nhà kinh điển Mácxit đã xây dựng
được một phương pháp tư duy khoa học và cách mạng- đó là tư duy biện
chứng duy vật.
Khi tư duy biểu hiện những dấu hiệu của tư duy kinh viện, kinh nghiệm,
hình thức, thực dụng... thì buộc chủ thể tư duy phải có sự thay đổi. Sự thay
đổi không phải đơn thuần là sự thay thế tư duy hình thức bằng tư duy kinh
nghiệm, tư duy thực dụng bằng tư duy kinh viện mà sự đổi mới này phải theo
hướng tốt hơn, tiến bộ hơn. Nó phải cho phép khắc phục được những hạn chế
của tư duy hiện thời và đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Do vậy, “đổi
mới là thay đổi hoặc làm cho sự thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước” [1,
657]. Đổi mới tư duy nhằm mục đích phản ánh bản chất, xác thực về đối
tượng. Để đổi mới được, tư duy cần gắn liền với đối tượng, theo dõi sự vận
động và phát triển của đối tượng.
Có thể thấy, mọi sự vật hiện tượng không ngừng vận động và phát triển,
thực tiễn luôn thay đổi nên yêu cầu chủ thể cũng cần phải luôn đổi mới trên
tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình.
Trong tiếng Việt, đổi mới được hiểu là thay đổi hoặc làm thay đổi cho
tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Đổi
mới là đặc điểm có tính quy luật của quá trình phát triển nói chung, của chủ
nghĩa xã hội nói riêng. Thời kỳ đầu (nửa sau những năm 80 của thế kỷ trước)
ở nước ta đổi mới được hiểu như là những suy nghĩ, những hành động riêng lẻ,
cụ thể nhằm thay đổi một nhận thức, một cách làm nhất định nào đó có tính
tình thế. Càng về sau, chúng ta càng nhận thức đầy đủ hơn về đổi mới như là
vấn đề chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; nó bao
quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của quá trình đó.
Đổi mới còn là quá trình sửa lại những nhận thức chưa đúng về “cái cũ”,
vận dụng nó hiệu quả hơn vào thực tiễn mới. Đổi mới còn là làm rõ cái gì là
22
đúng của ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay đổi, hôm nay không còn
thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý luận nhằm bổ sung, phát
triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng của chúng ta, nhằm làm cho nền
tảng tư tưởng đó thực hiện hiệu quả hơn chức năng là cơ sở hoạch định và
triển khai đường lối của Đảng, thúc đẩy đất nước phát triển.
Như vậy, đổi mới có thể có nhiều mức độ, quy mô và phương thức
khác nhau. Từ yêu cầu cấp bách là sửa chữa sai lầm cho đến yêu cầu căn bản
là xóa bỏ hệ thống quan điểm cũ kỹ lạc hậu lỗi thời để thay thế bằng hệ thống
quan điểm mới hiện đại, tiên tiến. Đổi mới từ phương pháp tư duy cho đến nội
dung tư duy.
Tư duy lý luận là những quá trình vận dụng hệ thống các khái niệm,
phạm trù theo những nguyên tắc lôgic chặt chẽ, nhằm đạt đến chân lý, là quá
trình tái tạo hiện thực, có khả năng phản ánh hiện thực một cách đúng đắn,
sâu sắc. Sức mạnh của sự sáng tạo phải gắn liền với thực tiễn chứ không được
thoát ly thực tiễn. Như vậy quá trình đổi mới tư duy lý luận được hiểu như sau:
Đổi mới tư duy trước hết cần đổi mới nhận thức của con người về đối
tượng. Có thể thấy, khi thực tiễn thay đổi, những vấn đề cũ, những hoạch định,
con đường phát triển cũ có thể còn phù hợp nhưng cũng có thể đã bị lỗi thời,
lạc hậu. Chính vì vậy, khi xã hội ngày càng phát triển, những vấn đề mới cũng
sẽ được phát sinh trên cơ sở những nền tảng của sự phát triển cũ. Những vấn
đề lý luận của sự phản ánh hiện thực cũ có thể tiếp tục thúc đẩy sự phát triển,
tuy nhiên nó cũng có thể kìm hãm sự phát triển đó cả ở trong nhận thức và
trong vấn đề cải tạo thực tiễn. Hệ thống những lý luận với các khái niệm,
phạm trù không phải là những chân lý vĩnh viễn mà nó có thể thay đổi khi
hoàn cảnh thay đổi. Hệ thống các lý luận biểu hiện ra thành các khái niệm ấy
có thể còn đúng nhưng chưa đầy đủ, nhưng cũng có thể nó đã lỗi thời, lạc hậu
hoặc nếu trong trường hợp thực tiễn phát sinh ra một vấn đề hoàn toàn mới
mà hệ thống lý luận chưa có một khái niệm nào để phản ánh cũng như giải
quyết thì khi đó, chủ thể tư duy bắt buộc phải hoạt động để tạo ra những nhận
23
thức mới về vấn đề phát sinh. Cần phải đổi mới để tiếp nhận hiện thực khách
quan một cách chính xác và hiệu quả nhất. Đổi mới tư duy giúp tạo ra được
những bước phát triển mới trong tư duy, những bước chuyển trong tư duy
đồng thời từ đó có thể tạo ra những bước chuyển trong hiện thực.
Trước đây chúng ta xây dựng mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối
hoá sở hữu xã hội (nhà nước và tập thể), với sự phát triển vượt trước của quan
hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn tới sự kìm hãm
sự phát triển kinh tế trong một thời gian dài. Sau khi tiến hành đổi mới tư duy
về kinh tế, chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường. Và khi hình thành mô hình kinh tế thị trường,
vận hành dưới sự quản lý của nhà nước, thay thế cho cơ chế bình quân và bao
cấp đã tạo ra bước chuyển về chất, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Và đã tạo ra sự cải biến thực sự đời sống kinh tế- xã hội ở nước ta. Điều này
cho thấy, các khái niệm cũ khi đã lỗi thời thì chúng sẽ không có khả năng tạo
ra giá trị sử dụng cho việc thúc đẩy sự phát triển mà nó làm cho khả năng phát
triển ấy bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải loại bỏ những khái niệm, phạm trù
cũ không còn phù hợp và xây dựng những khái niệm, phạm trù mới. Tư duy
phải tiếp cận với sự biến đổi của hiện thực để phản ánh hiện thực một cách
nhanh chóng, chính xác.
Đổi mới tư duy lý luận là phương thức duy nhất có thể giải thoát tư duy
ra khỏi phạm vi của cái cũ, cái lạc hậu, của cái khả năng để trở thành cái hiện
thực. Đồng thời, việc mở rộng các lĩnh vực phản ánh, lĩnh vực đổi mới tư duy
như kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục... sẽ giúp cho hệ thống lý luận ngày
càng phong phú và đa dạng hơn, có khả năng chắt lọc được những tinh tuý để
đủ khả năng đáp ứng vai trò chỉ đạo và định hướng cho hoạt động thực tiễn.
Đổi mới tư duy lý luận để tạo ra những chân lý mới có khả năng khám phá,
thám hiểm được nhiều hơn các góc cạnh của đời sống kinh tế- xã hội. Đổi
mới tư duy lý luận về các lĩnh vực phải tiến hành đồng bộ và toàn diện. Nhằm
24
thúc đẩy mục tiêu Xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy phát triển của xã hội, phát
triển của con người.
Thứ hai, đổi mới tư duy lý luận là phải đổi mới cách thức, thao tác tư
duy. Tức là đổi mới việc sử dụng các thao tác tư duy như phân tích- tổng hợp,
phân loại- so sánh, lịch sử- logic... Các thao tác này phải được sử dụng một
cách linh hoạt, tích cực, chủ động và sáng tạo. Quá trình đổi mới các thao tác
tư duy này không phải là sự thay đổi các quy luật tư duy mà là làm cho sự vận
dụng các thao tác tư duy có hiệu quả cao nhất. Phải có sự liên kết, kết hợp
giữa các thao tác để nhằm phản ánh nhanh nhất và chính xác nhất về đối
tượng. Việc vận dụng linh hoạt và sáng tạo các thao tác tư duy sẽ giúp chúng
ta sẽ có thể bỏ qua những cái ngẫu nhiên, bề ngoài trong quá trình xử lý các
dữ kiện. Đồng thời giúp cho quá trình tư duy có thể “rút ngắn” những thao tác
nhất định trong quá trình phản ánh mà không nhất thiết phải trải qua những
bước tuần tự vẫn có thể tìm ra được logic vận động của đối tượng một cách
chính xác. Việc đổi mới thao tác tư duy giúp chủ thể tư duy có thể loại bỏ
những tiểu tiết mà đi vào cái bản chất của đối tượng. Sự kết hợp các thao tác
và sử dụng các thao tác có hiệu quả thì sẽ tạo ra những tri thức có tính chính
xác ngày càng cao, càng tiến gần đến chân lý hơn, và góp phần tạo cải tạo
thực tiễn.
Thứ ba, đổi mới tư duy lý luận là đổi mới phương pháp tư duy, đổi mới
phương pháp phản ánh đối tượng. Đối tượng phản ánh không nằm trong sự
khu biệt, riêng lẻ mà thường xuyên nằm trong mối liên hệ phổ biến, phong
phú, đa dạng. Bản thân các thuộc tính của đối tượng cũng luôn liên hệ và tác
động qua lại với nhau. Nếu chỉ dùng phương pháp kinh nghiệm, kinh viện,
hình thức... để tiếp cận đối tượng thì sẽ bó hẹp đối tượng trong phạm vi nhỏ lẻ,
trong sự tĩnh tại, cô lập mà không thấy được sự rộng lớn và phong phú của sự
vật, hiện tượng được phản ánh. Do đó, phương pháp tư duy biện chứng được
xem như là phương pháp tối ưu nhất trong quá trình phản ánh sự vật, hiện
tượng. Tư duy biện chứng luôn xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động
25
và phát triển, trong sự biến đổi không ngừng. Tư duy biện chứng luôn xem
xét đối tượng trong các mối liên hệ, trong sự tác động qua lại với các đối
tượng khác nhau, cũng như mối quan hệ giữa các thuộc tính trong cùng một
sự vật. Ở đây, tư duy biện chứng phản ánh được cả sự cô đọng, tĩnh tại, cả sự
biến đổi, phản ánh nhanh nhạy và kịp thời với sự biến đổi của thực tiễn.
Khi nói đến tư duy mới hay đổi mới tư duy phát triển kinh tế- xã hội là
nói tới những thay đổi lớn trong quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách
phát triển kinh tế- xã hội, trong pháp luật, thể chế và chính sách quản lý. Tư
duy mới sẽ có chính sách mới, chính sách mới sẽ tạo ra phong trào mới,
phong trào mới sẽ tạo ra kết quả mới. Vì thế, đổi mới tư duy là khởi đầu cho
quá trình phát triển mới.
Với tư cách là hình thức phản ánh cao nhất về hiện thực khách quan,
đổi mới tư duy là sự đổi mới một cách căn bản, sâu sắc, toàn diện, hệ thống
cách nhìn nhận, phản ánh về sự vật, hiện tượng. “Đổi mới tư duy lý luận là
việc thay đổi cách tiếp cận, phương pháp tiếp cận trong việc nghiên cứu,
tìm hiểu đối tượng. Quá trình đổi mới tư duy lý luận chính là quá trình làm
cho tư duy phản ánh kịp thời, phản ánh đúng, khách quan về sự vật, hiện
tượng. Đồng thời có khả năng đưa ra những dự báo được khả năng phát triển
của sự vật, hiện tượng. Nâng cao tính khoa học, tính cách mạng và khả năng
cải tạo thế giới của nó. Đổi mới tư duy lý luận góp phần tạo ra tri thức lý luận
mới để có thể định hướng, chỉ đạo sự phát triển cho sự vận động của thực
tiễn.” [5, 29-30].
“Đổi mới tư duy lý luận không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu
lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây
dựng Chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã xác định, trái lại,
chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”[6, 125].
Có thể nhận thấy rằng, Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng đường lối
đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế. Tư duy đổi mới của Đại hội đã đi
vào thực tiễn đời sống kinh tế- xã hội, phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của
26
thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội, là nhân tố quyết định tạo nên những thắng
lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước, mà thành tựu nổi bật là nước ta đã
thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội vào cuối những năm 80, đầu những
năm 90 của thế kỷ trước, và hiện đã trở thành nước có thu nhập trung bình,
đang trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức...
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển kinh tế- xã
hội ở nước ta còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, mà một trong những
nguyên nhân là tư duy về phát triển kinh tế- xã hội đã tới hạn, nhiều chủ
trương, chính sách không còn phát huy được tác dụng mạnh mẽ như giai đoạn
đầu. Thời kỳ mới đòi hỏi phát triển đất nước toàn diện và đồng bộ hơn về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... trong đó phát triển kinh tế- xã hội là trung
tâm. Vì thế, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển kinh tế- xã hội,
tạo động lực mới cho sự phát triển đột phá kinh tế- xã hội của đất nước.
1.2. Tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô
hình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.2.1. Điều kiện khách quan.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã mở ra một thời đại
mới trong lịch sử thế giới, mở ra con đường giải phóng mới cho lịch sử và cho
loài người- thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản sang Chủ nghĩa xã hội trên
toàn thế giới. Nhân dân Liên Xô cũng đã đạt được những thành tựu rất quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thành công của Liên Xô
được thể hiện bước đầu thông qua những thành tựu về kinh tế và khoa học kỹ
thuật. Tuy nhiên, chính vì những thành công quá lớn trong các lĩnh vực kể
trên đã khiến cho suy nghĩ và hành động của những người lãnh đạo Đảng
cộng sản Liên Xô mắc phải những sai lầm. Họ đã vi phạm một thời gian dài
các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội dẫn đến sự trì trệ của xã hội
trong những năm 80 của thế kỷ trước. Khi nhìn nhận được những sai lầm,
khuyết điểm của mình, Liên Xô đã cố gắng khắc phục, sửa chữa những sai
27
lầm đó bằng cách tiến hành những công cuộc cải tổ. Tuy nhiên công cuộc cải
tổ đó đã không đem lại được kết quả tốt đẹp hơn mà nguyên nhân trực tiếp là
do sự không tính toán kỹ các bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước. Trong
khi đó, họ lại liên tiếp đưa ra những quyết định chính trị duy ý chí khiến cho
tình hình càng thêm rối ren dẫn đến sự khủng hoảng toàn diện đời sống kinh
tế- xã hội vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Tóm lại, công cuộc cải tổ
của Liên Xô đã không thành công và đã làm sụp đổ cả một cường quốc, tan rã
chế độ xã hội chủ nghĩa đã tồn tại hơn 70 năm.
Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ đã kéo theo sự sụp đổ mô hình xã
hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, khiến cho phong trào cách mạng xã hội
chủ nghĩa lâm vào tình trạng thoái trào. Có thể nói đã có không ít người nuôi
hy vọng đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa sẽ phát triển một cách nhanh
chóng, không bị những khó khăn, rào cản quá lớn nào. Tuy nhiên họ đã nhanh
chóng rơi vào trạng thái bi quan, dần mất niềm tin và đi đến phủ nhận nội
dung và tính chất quá độ lên Chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay. Khi
Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô tan rã, các nước Xã hội chủ nghĩa cũ đều ra sức
tìm thêm những hướng đi mới cho dân tộc mình. Tuy nhiên, trong quá trình
tìm kiếm những hướng đi mới đó, các nước Xã hội chủ nghĩa cũ đều có điểm
chung đó là không lựa chọn định hướng Xã hội chủ nghĩa cũ nữa mà ngả theo
sự phát triển của Tư bản chủ nghĩa và dựa vào sự giúp đỡ của các nước tư bản
phương Tây.
Sự sụp đổ của chế độ Chủ nghĩa xã hội cũ ở Liên Xô và Đông Âu càng
khiến cho người ta phải suy nghĩ về những giá trị và ý nghĩa đích thực của
Chủ nghĩa xã hội. Muốn Chủ nghĩa xã hội thành công thì chúng ta cần trung
thành một cách có phê phán đối với những di tích kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lenin. Cần biết vận dụng và phát triển sáng tạo nó trong điều kiện hoàn
cảnh mới. Để Chủ nghĩa xã hội thành công trong tương lai cần phải xây dựng
một niềm tin khoa học vào chủ nghĩa xã hội chứ không phải là tin tưởng một
cách mù quáng, giáo điều, máy móc.
28
Cuộc khủng hoảng của Chủ nghĩa xã hội hiện thực và những vấn
đề thời đại là nhân tố tác động trực tiếp tới nhận thức và những quyết
sách đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam- một Đảng luôn trung thành với
lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc, luôn lấy chủ nghĩa Mác, Lenin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của mình.
Một ví dụ điển hình cho những lập luận trên là trường hợp của Trung
Quốc. Cũng như Liên Xô, Trung Quốc chọn con đường đi lên Xã hội chủ
nghĩa bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. Việc lựa chọn con đường này thời
gian đầu đã gặp rất nhiều khó khăn. Trung Quốc đã rơi vào tình trạng khủng
hoảng trong một thời gian dài vào những năm 60- 70 của thế kỷ XX. Trong
khoảng thời gian này, đời sống của nhân dân rất khó khăn, nhân dân dần mất
niềm tin đối với Đảng và nhà nước. Tuy nhiên, sau đó Trung Quốc đã tìm
được hướng đi riêng của mình thông qua cuộc cải cách mở cửa. Họ vẫn luôn
kiên định với mục tiêu Xã hội chủ nghĩa để xây dựng Chủ nghĩa xã hội hài
hòa, mang màu sắc Trung Quốc. Sang đến thế kỷ XXI, Trung Quốc lại chủ
trương xây dựng một “xã hội hài hòa”. Những thành tựu mà Trung Quốc đạt
được trên các lĩnh vực khoa học- kỹ thuật, công nghệ đã và đang làm cho các
nước tư bản phải kính nể và thận trọng hơn trong các đối sách với nước này.
Bối cảnh thế giới và xu thế toàn cầu hoá đang đặt ra những thách thức
và yêu cầu lớn đối với các nước nêu trên. Bởi toàn cầu hoá (đặc biệt là toàn
cầu hoá về lĩnh vực kinh tế) có tác động nhân quả đối với sự vận động của
phương thức sản xuất, là một quá trình xã hội hoá ngày càng lớn, ngày càng
sâu sắc, sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng với sự
tác động biện chứng giữa hai mặt ở phạm vi toàn cầu.
Xu thế toàn cầu hóa đang đặt các nước đang phát triển và chậm phát
triển vào những thách thức và khó khăn lớn như vấn đề bùng nổ dân số, khan
hiếm, cạn kiệt tài nguyên môi trường... và tình trạng phát triển kinh tế quá
nhanh sẽ dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng. Điều đó buộc các nước đang phát
29
triển (trong đó có Việt Nam) phải lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn,
bắt kịp, đón đầu được bước tiến của thời đại. Thách thức cũng là cơ hội để
cho các nước đang phát triển thể hiện mình và khai thác được tiềm năng của
chính mình vì mục tiêu phát triển của đất nước, vấn đề là ở chỗ phải nắm bắt
được thời cơ và chọn thời cơ.
Toàn cầu hoá như một quá trình vận động lớn bao hàm trong đó những
diễn biến mạnh mẽ của quá trình quốc tế hoá và khu vực hoá, từ sản xuất và
kinh tế đã thâm nhập vào các lĩnh vực đời sống văn hoá, chính trị, xã hội. Mở
cửa hội nhập với thế giới toàn cầu, việc chuẩn bị tiềm lực, việc thường xuyên
chăm lo bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc là vấn đề cần giải quyết ở tầm
chiến lược chính trị thông qua các quyết sách, chính sách trên nhiều lĩnh vực.
Mà điều này cũng đòi hỏi phải có tư duy mới, tức là phải đổi mới tư duy.
Chính yêu cầu này trong bối cảnh toàn cầu hoá và các vấn đề toàn cầu nói
chung đã có tác động mạnh mẽ tới sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Nó không chỉ
tác động ở thời kỳ mở đầu đổi mới mà còn tác động lâu dài trong suốt tiến
trình đổi mới ở Việt Nam.
Nửa sau thế kỷ XX, thế giới bước vào thời kỳ cách mạng khoa học-
công nghệ phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng, thời kỳ này đã xuất hiện nhiều
hơn các nghiên cứu, phát minh mới tạo ra sự bùng nổ thông tin mạnh mẽ tác
động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Chính những thành tựu to lớn của
cách mạng khoa học và công nghệ dẫn tới sự ra đời một nền kinh tế mới: nền
kinh tế tri thức. Nền kinh tế này đã tác động làm thay đổi cơ cấu kinh tế thế
giới, nó không những tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất
mà còn tác động đến quan hệ sản xuất, đến tư duy (nhất là tư duy kinh tế).
Trong điều kiện kinh tế tri thức được triển khai nhanh chóng ở các nước phát
triển, thì các nước đang phát triển lại sở hữu một nguồn nhân lực dồi dào. Đây
sẽ là thế mạnh cho phát triển kinh tế, nếu biết huy động hết các khả năng sáng
tạo của con người, nếu không thì chính nguồn lực to lớn không công ăn việc
làm này sẽ là gánh nặng cho các nước với nhiều hậu quả xã hội tiêu cực. Như
30
vậy, sự tác động to lớn tới đời sống xã hội của khoa học- công nghệ, của sự
bùng nổ thông tin và sự hình thành xã hội thông tin, của nền văn minh tin học
và kinh tế tri thức đã buộc các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam)
phải lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn, bắt kịp, đi tắt, đón đầu bước
tiến của thời đại. Trước một thế giới đổi thay và phát triển nhanh, làm thế nào
để chúng ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ, bắt trúng nhịp sống
chung của thế giới hiện đại để bước vào sự phát triển năng động, thích ứng
với những đòi hỏi mới của thời đại? Đổi mới- trước hết là đổi mới tư duy đã
trở thành một nhu cầu bức thiết, mang tính sống còn và ngày càng trở nên
chín muồi, đòi hỏi phải được hiện thực hóa không chậm trễ.
1.2.2. Nhân tố chủ quan.
Cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn mới đó là xây dựng và
phát triển đất nước theo những đường lối, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước
thống nhất hai miền Nam Bắc và cùng quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Độc
lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội được coi là quy luật phát triển của
cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Cách mạng Việt Nam từ đây cũng đã
chuyển sang một giai đoạn mới. Nhiệm vụ chiến lược thời kỳ này đó là xây
dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ mới đã
làm xuất hiện những yêu cầu mới, đòi hỏi sự đổi mới và chuyển biến một
cách đồng bộ của Đảng, nhà nước và của nhân dân ta trên mọi mặt, mọi
phương diện từ tổ chức đến hoạt động, từ bộ máy đến con người, từ phương
thức, phương pháp lãnh đạo, quản lý, đến cơ chế, chính sách thực hiện, từ
nhận thức đến hành động của mỗi cá nhân và tổ chức, của các cấp, các ngành
từ trung ương tới địa phương. Có thể nói độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội
chính là định hướng tư tưởng chính trị nòng cốt nhất, không thay đổi trong sự
nghiệp chính trị của Đảng và nhà nước ta. Định hướng đó được thể hiện nhất
quán và toàn diện trong mọi nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch hành động của
31
toàn Đảng, toàn dân nhằm thực hiện đầy đủ và tốt nhất mục tiêu của đổi mới:
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Việt Nam đi lên Chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn,
lạc hậu, bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình đi lên Chủ nghĩa xã
hội, nước ta gặp phải vô vàn những khó khăn như: là một nước nghèo, những
tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội còn chưa có. Một quốc
gia trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài nên sức sản xuất kém phát triển,
trình độ công nghệ còn lạc hậu, người lao động đông về số lượng nhưng lại
yếu kém về tay nghề; tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng lại có
trữ lượng ít và rất khó khai thác…Từ những khó khăn nêu trên có thể chỉ ra
rằng, muốn tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh thì trước tiên nhân dân ta phải thoát ra khỏi nghèo đói. Nhìn lại thời
kỳ trước đổi mới có thể thấy chúng ta đã mắc phải những sai lầm như sau:
trong quá trình tổ chức thực hiện đi lên Xã hội chủ nghĩa chúng ta đã quá
nóng vội, dẫn đến xác định sai lầm bước đi, không tập trung phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ mà tập trung ngay vào phát triển công nghiệp nặng.
Đảng ta muốn làm nhanh, làm nhiều mà không biết tận dụng và phát triển lực
lượng sản xuất đã có, cải tạo một cách ồ ạt, xây dựng kế hoạch tập trung, quan
liêu, chưa biết kết hợp kế hoạch hóa với sử dụng thị trường, chưa phát huy
được vai trò định hướng của kinh tế quốc doanh và vai trò là động lực phát
triển của các thành phần kinh tế khác, do vậy đã có những hành động nóng
vội, giản đơn trong công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa. Chúng ta quá nôn
nóng nên đã mắc nhiều sai lầm khi xác định mục tiêu và các bước đi trong
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế...
Chính vì vậy đã làm cho quan hệ sản xuất biến dạng mà vẫn bắt lực lượng sản
xuất phải phù hợp với quan hệ sản xuất đó. Trong quá trình sản xuất chúng ta
chỉ quan tâm đến số lượng mà không quan tâm đến chất lượng, hàng hóa khan
hiếm, cơ chế phân phối bất cập, tệ nạn quan liêu, tham những vẫn còn tồn tại
và không ngừng gia tăng. Trong khi đó, chúng ta vẫn giữ lối tư duy kinh tế cũ,
32
việc áp dụng theo mô hình kinh tế cũ “mệnh lệnh- chỉ huy” đã làm cho nền
kinh tế bị khủng hoảng trầm trọng, sảm xuất bị trì trệ, lạm phát ra tăng, đời
sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn; cung không đủ cầu cùng với chế độ
phân phối theo tem phiếu kéo dài do hàng hoá khan hiếm đã làm cho khó
khăn càng chồng chất những khó khăn.
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy rằng: những sai lầm trong
việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đã làm tăng
thêm khó khăn của tình hình kinh tế- xã hội; làm cuộc khủng hoảng ở
nước ta thời kỳ này dường như rơi vào trạng thái bế tắc, không có lối
thoát. Đây được coi là nhân tố chủ quan khiến tư duy lý luận của Đảng cần
phải đổi mới. Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm trong việc lãnh đạo kinh tế
bắt nguồn từ những tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ trong
việc xác định mục tiêu, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Từ những thực
tiễn đặt ra có thể thấy rằng, việc sửa chữa những sai lầm trong lãnh đạo của
Đảng và quản lý của nhà nước là một trong những việc làm quan trọng, cấp
thiết cần phải tiến hành ngay.
Đảng đã thừa nhận những lạc hậu, yếu kém về tư duy lý luận của các
cán bộ, Đảng viên. Điều này được thể hiện rõ ở trình độ tư duy. Chúng ta vẫn
đang đi theo lối tư duy thiên về kinh nghiệm, khái quát thực tiễn một cách vụn
vặt, nhỏ lẻ, mảnh đoạn; chưa liên kết được các khối tri thức kinh nghiệm với
nhau; chưa có khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát tình hình thực tiễn.
Đảng và nhà nước ta vẫn còn quá câu nệ vào câu chữ, sách vở mà không có
khả năng vận dụng lý luận vào đời sống thực tiễn một cách nhuần nhuyễn,
linh hoạt, sáng tạo và biện chứng. Tư duy lý luận ở nước ta đang thiên về lập,
yếu về luận.
Lối tư duy lưỡng cực: một cực thì khái quát thực tiễn vụn vặt, một cực
thì lại mang tính chất sách vở làm cho khả năng phản ánh, nhận thức bị hạn
chế. Lối tư duy thiên về kinh nghiệm, coi trọng kinh nghiệm, đề cao kinh
nghiệm mà không thấy được ý nghĩa sâu sắc của tri thức lý luận trong phản
33
ánh đời sống hiện thực, không thể đi sâu vào bản chất bên trong, không phản
ánh được mối liên hệ cơ bản, tất yếu của sự vật, không nắm bắt được quy luật
vận động và phát triển của xã hội. Trong tư duy, nhận thức có dấu hiệu của
tâm lý phục tùng mệnh lệnh của cấp trên, họ dường như bị rập khuôn vào một
mẫu số tư duy chung. Chủ thể tư duy ít có điều kiện và cơ hội để phát huy hết
khả năng sáng tạo của mình. Sự khái quát thực tiễn một cách vụn vặt, không
phản ánh được mối liên hệ mang tính quy luật, tất yếu của các sự vật, hiện
tượng đã làm cho chức năng dự báo khoa học của tư duy rơi vào thoát ly thực
tiễn, không bám sát thực tiễn, phản ánh không đúng xu thế vận động của thực
tiễn, cũng như không đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn đang biến
đổi về mặt lý luận.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã rút ra được bốn bài học lớn trong
chỉ đạo của Đảng đối với sự phát triển của đất nước. Đó là, trong toàn bộ hoạt
động của mình, Đảng phải lấy dân làm gốc, Đảng phải chăm lo xây dựng và
phát huy quyền làm chủ cho nhân dân; xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong điều kiện mới; và chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ
chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách
mạng . Những bài học đó cũng thể hiện tư tưởng chỉ đạo quan trọng của đổi
mới, là cơ sở dẫn dắt Đảng ta trên con đường đổi mới để phát triển. Trong
quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhận thấy vai trò quan
trọng của cán bộ lãnh đạo trong công cuộc xây dựng đất nước. Ngay từ Đại
hội lần thứ II (1951) Đảng đã chỉ ra một số bệnh mà cán bộ và đảng viên
thường mắc phải, đó là bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi. Điều
này ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện mục tiêu cách mạng và đến quá
trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Với tư duy sai lầm đó, những vấn đề cơ bản
của học thuyết hình thái kinh tế- xã hội như quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật kiến trúc thượng
tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, quy luật đấu tranh giai cấp... trong thời kỳ
34
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã bị hiểu và giải thích sai lệch, dẫn tới việc cải
tạo Xã hội chủ nghĩa đã mắc phải nhiều sai lầm. Trong việc củng cố quan hệ
sản xuất mới và sử dụng các thành phần kinh tế, chúng ta đã nóng vội muốn
xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước, mà ít chú ý đến
đặc điểm của từng lĩnh vực ngành nghề hay địa phương để chọn lựa những
hình thức phát triển phù hợp. Do vậy, để tồn tại và phát triển, Đảng và Nhà
nước ta nhất thiết phải đổi mới mà trước hết là đổi mới trong tư duy, trong
nhận thức về xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là đổi mới tư duy về xây
dựng kinh tế.
Mọi sự vật đều nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển
không ngừng nên khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào chúng ta cần phải
xem xét và nhìn nhận nó trong sự vận động và phát triển, tìm xem xu hướng
biến đổi và chuyển hóa của nó. Cần thấy rõ khuynh hướng vận động và phát
triển của sự vật đấy trong tương lai, thấy được sự biến đổi đi lên tất yếu trong
tương lai theo quy luật đường trôn ốc. Nắm vững được quan điểm này, trong
vấn đề đổi mới kinh tế chúng ta cũng cần phải tìm ra phương pháp nhận thức
đúng trong tư duy, từ đó có những tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của đất nước theo hướng tích cực, mang lại lợi ích cho con người.
Sự vật, hiện tượng luôn trong trạng thái vận động phát triển nên yêu cầu trong
tư duy nhận thức của con người tuyệt đối không được phép bảo thủ trì trệ, mà
phải luôn đổi mới, thay đổi sao cho phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn
ở mỗi giai đoạn nhất định.
35
Tiểu kết chương 1
Tóm lại làm rõ những vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi
mới tư duy lý luận cũng như tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận về mô
hình kinh tế thị trường là cơ sở quan trọng để nghiên cứu rõ vấn đề đổi mới tư
duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Tư duy lý luận là giai đoạn cao nhất của tư duy, đó là quá trình mà tư
duy tiếp cận, nắm bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng lý luận
và thường được thể hiện ra ở các giả thuyết, các lý thuyết có quan hệ tương
hỗ với nhau. Khi đã hiểu rõ được tư duy lý luận, phân biệt rõ sự khác nhau
giữa tư duy lý luận và tư duy kinh nghiệm, có thể khái quát được mối quan hệ
giữa hai loại hình tư duy là mối quan hệ tương hỗ nhau thì từ đó có thể tìm ra
được những vai trò cũng như tầm quan trọng của tư duy lý luận đối với việc
định hướng phát triển Xã hội Việt Nam đặc biệt là trong vấn đề định hướng
mô hình phát triển kinh tế thị trường. Có thể nói, tư duy lý luận giúp nhà nước
vạch mở được bản chất của khách thể nghiên cứu, từ đó tạo ra bước chuyển
về chất của đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác. Tư duy lý luận
đóng vai trò như là chất “keo dính” các sự vật, hiện tượng, cũng như các mối
liên hệ của các sự vật hiện tượng ấy. Tư duy lý luận giúp gắn kết các hình ảnh
hoạt động, vận hành bộ máy công cụ của mình để giúp cho nhận thức đi sâu
vào bản chất của sự vật.
Cần kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa tư duy lý luận với tư duy
kinh nghiệm để phát huy những mặt mạnh cũng như khắc phục những hạn
chế của mỗi loại hình tư duy. Cần đặt tư duy kinh nghiệm trong mối liên hệ
thống nhất với tư duy lý luận vì chỉ có tư duy lý luận mới có thể khắc phục
được tính chất hạn hẹp, phiến diện của tư duy kinh nghiệm.
Đổi mới tư duy lý luận được hiểu là đổi mới nhận thức của con người
về đối tượng; đổi mới các cách thức, thao tác tư duy cũng như đổi mới
phương pháp tư duy, phương pháp phản ánh về đối tượng. Đổi mới tư duy có
vai trò quan trọng trong việc mở đường và tạo không gian cho sự phát triển
36
Tính tất yếu của đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường ở
Việt Nam được chia làm hai loại. Nhân tố khách quan khiến tư duy lý luận
của Đảng ta tất yếu phải đổi mới đó là do cuộc khủng hoảng của Chủ nghĩa xã
hội hiện thực và vấn đề thời đại tác động trực tiếp đến nhận thức và những
quyết sách đổi mới của Đảng ta. Bên cạnh đó, do những sai lầm trong việc
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng khiến cho tình hình
kinh tế xã hội càng trở nên khó khăn. Điều đó thúc đẩy Đảng ta cần có những
đổi mới một cách kịp thời để khắc phục những khó khăn đó.
Có thể thấy, mọi sự vật hiện tượng đều luôn trong trạng thái vận động,
biến đổi không ngừng. Chính vì vậy khi xem xét bất cứ một sự vật nào chúng
ta đều cần nhìn nhận, đặt chúng trong xu hướng biến đổi để từ đó tìm ra quy
luật vận động của sự vật, hiện tượng đó. Nắm vững được những quan điểm
này, trong vấn đề đổi mới tư duy kinh tế, trước tiên chúng ta cần tìm ra
phương pháp nhận thức đúng trong tư duy từ đó có những tác động, đổi mới
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Để làm được điều đó, tư
duy của mỗi người cần không ngừng thay đổi và sáng tạo cho phù hợp với sự
vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng. Khi đã tìm hiểu rõ các vấn đề
lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận, chúng ta sẽ dễ dàng
tiếp cận, phân tích và tìm hiểu một cách cụ thể hơn quá trình đổi mới tư duy
lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường cũng như đưa ra được những
giải pháp cơ bản nhằm tiếp tụ đổi mới tư duy mà tôi muốn đề cập đến ở
chương 2.
37
Chương 2
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ
MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị
trường của Đảng từ 1986 đến nay.
Từ những phân tích chung ở chương 1, chúng ta thấy vấn đề đổi mới tư
duy lý luận về mô hình kinh tế thị của Đảng có nguồn gốc sâu xa từ chính
thực tiễn của đất nước. Hơn nữa, tư duy mới của Đảng về kinh tế còn là sự
phát triển hợp logic từ quan niệm mới khoa học hơn, đúng đắn hơn về con
đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói chung, con đường phát triển
kinh tế của đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội nói riêng. Để
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế- xã hội, cần có những chủ trương
và biện pháp mạnh mẽ, kiên quyết nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định và từng
bước cải thiện đời sống của nhân dân. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” [6, 12], Đảng ta đã nhận ra rằng nền
kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng, kém phát triển là do trong quá
trình tổ chức và thực hiện, chúng ta đã quá chủ quan, nóng vội, xác định sai
lầm bước đi, không biết tận dụng và phát triển lực lượng sản xuất sẵn có, cải
tạo ồ ạt, muốn nhanh chóng xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân để xác lập
một cách phổ biến hình thức sở hữu tập thể và toàn dân đối với tư liệu sản
xuất ngay cả khi lực lượng sản xuất còn rất thấp kém, xây dựng kế hoạch tập
trung quan liêu, chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với sử dụng thị trường,
chưa phát huy vai trò của kinh tế quốc doanh...
Từ việc rút ra được những yếu kém như vậy, Đảng ta nhận ra rằng cần
phải có sự đổi mới tư duy lý luận, đặc biệt là tư duy lý luận về mô hình kinh
tế thị trường thì mới có thể đưa nền kinh tế của nước ta thoát khỏi khủng
hoảng. Thực tế hiện nay của đất nước đã chứng minh được sự đổi mới tư duy
38
kinh tế của Đảng ta trong suốt quãng thời gian vừa qua là hoàn toàn đúng đắn,
phù hợp.
Khái quát quan niệm của Đảng được nêu ra trong các văn kiện của
mình và căn cứ vào thực tiễn đổi mới những năm qua, có thể thấy rằng “đổi
mới kinh tế” ở Việt Nam là quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, căn bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể, sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chuyển từ một nền kinh tế cơ bản là khép kín sang nền kinh tế “mở”
đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Thành công của
đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường chính là sự
biểu hiện của quá trình đổi mới toàn diện, sâu sắc tư duy về kinh tế- xã hội
của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong
điều kiện và tình hình mới.
Đổi mới và hoàn thiện tư duy lý luận là một quá trình lâu dài, thường
xuyên và phải trải qua nhiều bước, nhiều công đoạn với cùng một mục tiêu đó
là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở nước ta và toàn diện trên tất cả
các mặt như quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhằm đảm bảo sự phù hợp
với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Để đất nước phát triển một
cách toàn diện định hướng theo mô hình Xã hội chủ nghĩa thì Đảng và nhà
nước ta phải không ngừng đổi mới trên tất cả các lĩnh vực như: đổi mới trên
lĩnh vực chính trị; lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người; đổi mới trên lĩnh
vực quốc phòng an ninh và đối ngoại… Trong các lĩnh vực trọng yếu của đời
sống xã hội, Đảng và nhà nước ta cần đặc biệt chú trọng đến việc đổi mới tư
duy lý luận về mô hình kinh tế. Có thể nói, lực lượng sản xuất luôn được ưu
tiên phát triển để trở thành lực lượng tiên phong, mở đường cho phát triển
39
kinh tế. Đồng thời quan hệ sản xuất phải luôn được đổi mới hoàn thiện nhằm
hỗ trợ cho việc giải phóng, khai thác có hiệu quả những tiều lực kinh tế.
Quá trình phát triển tư duy lý luận cần gắn liền với thực tiễn nhằm đảm
bảo lý luận và thực tiễn luôn có sự phù hợp. Trong đó thực tiễn chính là thước
đo lý luận và kiểm nghiệm nhận thức lý luận về nền kinh tế thị trường.
“Đổi mới và hoàn thiện tư duy lý luận về mô hình kinh tế- kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa- phải trên cơ sở kết hợp tổng kết, đúc rút
kinh nghiệm và nhận thức quá trình phát triển kinh tế trên thực tế” (trong và
ngoài nước) [35, 121]. Cùng với đó cần kết hợp với những nhận định, đánh
giá đúng xu thế, những nhân tố quan trọng của thời đại nhằm tạo được những
“bước đột phát” trong tư duy lý luận và thực tiễn.
“Lý luận về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa của Đảng- lấy chủ nghĩa Mác- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng” [35, 121] nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó các
nhân tố của nền kinh tế thị trường, quy luật kinh tế đóng vai trò là động lực
phát triển, đảm bảo nền kinh tế phát triển có hiệu quả cao. Có thể nói, mô
hình kinh tế thị trường ở Việt Nam là mô hình kinh tế mà ở đó các quy luật,
các nhân tố của nền kinh tế thị trường đều được thể hiện nhưng được hướng
tới mục tiêu kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.1. Đổi mới tư duy lý luận về kết cấu, thành phần kinh tế.
Trên cơ sở nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên Chủ nghĩa
xã hội và dựa vào tình hình thực tiễn của đất nước, trong suốt mấy chục năm
qua, nhất là từ Đại hội lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã không ngừng đổi mới
quan điểm, chính sách về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội VI
được coi là bước ngoặt lịch sử về đổi mới tư duy của Đảng và là mốc quan
trọng đánh dấu bước phát triển mới của Đảng ta, đặc biệt là đã xác định nền
kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế cơ
cấu nhiều thành phần.
40
Trước đổi mới, nước ta chỉ tồn tại 3 thành phần kinh tế: kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể. Trong thời kỳ 1976- 1986, đại đa số
người dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn và làm các nghề nông nghiệp theo
kiểu tự cung, tự cấp, họ sống dựa vào nguồn thu nhập có tính chất cá thể,
không hoàn toàn dựa vào hợp tác xã. Do vậy, khi hợp tác xã bị đổ vỡ, thì đa
số nông dân vẫn tiếp tục sản xuất, sinh sống, nhất là khi hợp tác xã chuyển đổi
hình thức hoạt động thì càng thuận lợi cho người nông dân, các hộ gia đình
nông dân chuyển mạnh sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Đối với thành phần kinh tế nhà nước, do áp lực của các khó khăn về
kinh tế, nên cán bộ và công nhân viên thuộc khu vực kinh tế nhà nước cũng
đều nhanh chóng tham gia kinh tế thị trường để tăng thu nhập và do vậy cũng
nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi đối với kinh tế thị trường.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) tổng kết việc thực hiện
Nghị quyết Hội nghị trung ương 6 khoá IV, khẳng định: “quá trình từ sản xuất
nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá từ nền kinh tế còn
nhiều tính chất tự cấp, tự túc, thành nền kinh tế hàng hoá” [6, 65]. Từ trước
tới nay, trong các văn kiện, Đảng ta chỉ mới nói tới việc sử dụng các quan hệ
hàng hoá- tiền tệ, thì nay đã khẳng định vấn đề chuyển từ nền kinh tế tự nhiên,
tự túc, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá.
Sau đại hội VI, một số Hội nghị trung ương diễn ra trong năm 1987
mới đưa ra một số quyết sách liên quan đến việc hình thành tư duy về vận
dụng cơ chế thị trường trong phát triển kinh tế. Hội nghị trung ương 6, khoá
VI (1989) đã nêu ra 6 nguyên tắc đổi mới sau:
1) Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu Chủ nghĩa xã hội mà là làm
cho mục tiêu ấy được thực hiện bằng những hình thức, bước đi và biện pháp
thích hợp.
2) Đổi mới tư duy là nhằm vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa
Mác- Lênin trong điều kiện mới.
41
3) Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là
nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước.
4) Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là điều kiện quyết định
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
5) Xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
6) Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Đại hội VI nhận định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên Chủ
nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa đương nhiên phải rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để, xây dựng từ đầu một chế độ xã hội
mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng” [6,
41]. Đại hội coi việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, và
thực hiện theo tinh thần dân chủ về kinh tế, đảm bảo cho mọi người đều được
tự do làm ăn theo pháp luật.
Đảng thừa nhận nước ta có 6 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể,
tiểu sản xuất hàng hoá, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, và tự nhiên tự cung
tự cấp. Các thành phần kinh tế trên vận hành theo quy luật khách quan về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, cụ thể là thành phần kinh tế
này chiếm tỷ trọng lớn hơn cả trong sản xuất và trong lưu thông. Đó là một
giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm
năng để phát triển lực lượng sản xuất. Chính sách cơ cấu nhiều thành phần
kinh tế thực sự là một bước ngoặt có tính cách mạng làm thay đổi tư duy về
kinh tế trong sự phát triển, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường với nền tảng của nó là các chủ thể kinh tế độc lập, tự
chủ. Thực tiễn nước ta đòi hỏi phải thừa nhận sự tồn tại của những hình thức
kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Như
42
vậy, Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu bước chuyển tư duy, đánh giá đúng vai
trò của phát triển kinh tế nhằm khắc phục khó khăn, khai thác được những
tiềm năng phát triển vốn có của đất nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) tiến thêm bước lý luận mới
về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội kiên định chủ
trương phát triển kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc, xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, xây dựng mô hình kinh tế nước ta
là nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả của nền sản xuất xã hội.
Đại hội nhận định: “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác” [8, 52-57].
Đại hội khẳng định, nước ta bước đầu đã hình thành nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước với 5 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư bản nhà nước,
tư bản tư nhân. Trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và thực hiện
chức năng là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, được củng cố và phát triển
trong những ngành và lĩnh vực kinh tế then chốt, Nhà nước nắm những doanh
nghiệp chủ yếu, đảm đương những hoạt động mà các thành phần kinh tế khác
không có điều kiện đầu tư kinh doanh.
Đại hội chỉ rõ việc đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế từ mang nặng
tính tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm vừa giải quyết và phát
huy được tiềm năng sản xuất trong xã hội, vừa khắc phục được những hạn
chế và tiêu cực của kinh tế thị trường.
Sau đại hội VII, tình hình thế giới có nhiều biến đổi phức tạp, đó là sự
tan rã mô hình Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, sự tan rã
43
này đã tác động tới nước ta một cách sâu sắc. Quan hệ kinh tế giữa nước ta
với thị trường truyền thống đã bị đảo lộn. Đại hội VIII (1996) đã nhận xét:
“nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là
thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại đi lên trong
môi trường cạnh tranh khốc liệt” [10, 19].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định rõ hơn mô hình kinh
tế tổng quát của nước ta là “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa” [10, 82] và đề ra mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có quan hệ sản xuất, chế độ sở hữu, cơ
chế quản lý và chế độ phân phối gắn kết tương thích với nhau.
Như vậy, tại đại hội này, Đảng cộng sản Việt Nam cũng mới chỉ nói
đến nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, mà chưa sử dụng khái niệm
“kinh tế thị trường”. Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài
chính sách kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cả
người trong và ngoài nước đều đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp
pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh
tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền
tảng. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau cũng tồn tại phổ
biến. Kinh tế cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể.
Như vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã làm rõ hơn định
hướng Xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, điều
này có ý nghĩa vô cùng to lớn tạo mục tiêu và động lực thúc đẩy nền kinh tế
của nước ta phát triển.
Đại hội toàn quốc lần thứ IX (4/2001) Đảng khẳng định con đường đi
lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Đại hội chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định
44
hướng Xã hội chủ nghĩa" và khẳng định kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa là đường lối nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta: “thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa” [11, 86]. Đại
hội khẳng định: “Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật
đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã
hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [11,
95-96].
Đại hội IX cũng xác định ở nước ta có 3 hình thức sở hữu cơ bản và có
6 thành phần kinh tế (đại hội bổ sung thêm 1 thành phần kinh tế mới nữa là
kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài). Trong đó, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai
trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ để Nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ
đạo, tuy nhiên, cũng không phủ nhận sự tồn tại và vai trò của các thành phần
kinh tế khác và đòi hỏi nó phải chấp nhận sự cạnh tranh và phân hoá trong
quá trình phát triển, buộc các thành phần kinh tế phải cải tổ, đổi mới không
ngừng để phát huy được tiềm năng của mình.
Như vậy, cho đến đại hội IX, Đảng ta đã tìm ra được con đường thích
hợp để phát triển kinh tế và đi lên từng bước phù hợp với điều kiện tình hình
của một nước đang phát triển, quá trình đó đòi hỏi xây dựng và phát triển lực
lượng sản xuất, tạo ra được cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) khẳng định “phải tranh thủ
cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ
hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn” [14, 24], tiếp tục đẩy
45
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm để đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội. Đại hội đề ra mục tiêu và phương hướng tổng
quát 5 năm 2006–2010 “phát huy mọi nguồn lực, tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa” [14, 26] và đánh giá 5 năm
2006-2010 có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI do đại hội IX đề ra. Cũng tại đại
hội X, nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa không những chỉ
được định tính, mà đã được định lượng cùng với những giải pháp thực hiện nó.
Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay có những đặc trưng chủ yếu sau:
1) Về hệ thống mục tiêu: xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2) Về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế: “trên cơ sở 3 chế độ sở hữu
(toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể tiểu chủ
và tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư của nước
ngoài” [14, 75]. Đại hội khẳng định, ở Việt Nam nền kinh tế đã chuyển hẳn từ
kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp dựa chủ yếu vào 2 chế độ sở hữu với
2 thành phần kinh tế cơ bản là nhà nước và tập thể, sang nền kinh tế với 3 chế
độ sở hữu và 5 thành phần kinh tế cơ bản. Xét từ góc độ đối tượng quản lý
Nhà nước, có lẽ nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước trong nền
kinh tế ấy là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước Việt Nam hiện
nay.
Từ sau đại hội X đến nay, quan điểm của Đảng vẫn là hoàn thiện hơn
nữa thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, từng bước xây
dựng đồng bộ hệ thống luật pháp, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi, phát huy vai trò chủ đạo của kinh
46
tế nhà nước, “phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà
nước” [15, 101].
Đại hội XI (2011) cũng khẳng định trong dài hạn cần nghiên cứu xây
dựng một chiến lược tổng thể điều hành nền kinh tế với những giải pháp đồng
bộ hướng đến giải quyết triệt để các nguyên nhân gây bất ổn để nền kinh tế
Việt Nam phát triển bền vững, bảo đảm các cân đối kinh tế vĩ mô, nâng cao
chất lượng tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Việc thúc đẩy tái cơ cấu
nền kinh tế là cấp bách, nhưng trước mắt cần thực hiện thông qua tái cơ cấu
đầu tư. Đồng thời chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng
sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu với động lực là khoa học công nghệ
và tiêu dùng trong nước.
Từ khi đổi mới, nền kinh tế Việt Nam tuy phát triển tốc độ có lúc
nhanh có lúc chậm nhưng nhìn chung nhịp độ tăng trưởng khá cao, điều đó đã
chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn trong đường lối đổi mới kinh tế của Đảng
ta. Sự nghiệp đổi mới được bắt đầu bằng việc thừa nhận trong quá trình lãnh
đạo quản lý kinh tế đã có những sai lầm chủ quan nên nó đươc bắt đầu từ
chính sự đổi mới tư duy kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có hiệu quả, chấm dứt hơn
10 năm khủng hoảng, điều đó đã chứng minh đường lối đổi mới tư duy về
quản lý kinh tế của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đưa ra dự thảo chiến lược phát
triển kinh tế xã hội từ 2011 đến 2020. Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả của
nền kinh tế, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững, nâng cao tính độc lập, tự
chủ của nền kinh tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất
nước, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa. Đại hội lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh: phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Đại hội
47
khẳng định kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể cần
không ngừng được củng cố và phát triển, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc trong nền kinh tế quốc dân,
kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế, kinh tế có vốn
đầu tư của nước ngoài được khuyến khích và được tạo những điều kiện tốt
nhất cho phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết nhau hình thành
các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường cũng
được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển,
vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa đảm bảo tính định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho
phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà
nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-
xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực
lượng vật chất.
Như vậy, ở các giai đoạn khác nhau thì nhận thức về các thành phần
kinh tế cũng thay đổi, đó là quá trình khách quan và phù hợp với quy luật của
nhận thức. Vì vậy, quá trình đổi mới tư duy, nhận thức về các thành phần kinh
tế ở nước ta qua các thời kỳ Đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay. Tóm lại, có thể khái quát
sự đổi mới nhận thức, tư duy về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế như
sau:
Về quan hệ sở hữu: Trong nền kinh tế thị trường, từ sự nhận thức giản
đơn về sự hình thành và phát triển của chế độ sở hữu đặc trưng của Chủ nghĩa
xã hội tới nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về từng bước đi, các hình thức sở
hữu phù hợp với trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất, từ chỗ chỉ
48
thừa nhận kinh tế xã hội chủ nghĩa (kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) đến
chỗ thừa nhận sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu.
Về quan hệ tổ chức quản lý trong kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa: Từ chỗ đồng nhất quan hệ sở hữu và tổ chức quản lý trong một
chủ thể với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân tới nhận thức về khả năng và sự
cần thiết phải tách quyền sở hữu với quyền tổ chức sản xuất kinh doanh, dần
dần khẳng định tính tự chủ của mọi loại hình doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế.
Về quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường: Từ chỗ coi Nhà nước là
chủ thể quyết định phân phối dẫn tới xác định rõ vị trí vai trò của phân phối
lần đầu và phân phối lại tới xác định ngày càng đúng đắn hơn sự quyết định
của thị trường và vai trò định hướng Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước trong
quá trình phân phối, từ chỗ chỉ coi trọng lợi ích của xã hội, lợi ích của tập thể
đến coi thực hiện lợi ích của cá nhân là cơ sở để thực hiện lợi ích tập thể và xã
hội.
Về xây dựng và phát triển hệ thống các thị trường: Chuyển sang kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đòi
hỏi phải thay đổi nhận thức về quan hệ hàng hoá- tiền tệ, quan hệ thị trường-
đó là một sự thay đổi lớn trong tư duy, nhận thức, nó sẽ mở đường cho sự tự
do kinh doanh, cho sự đổi mới các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ, giá cả.
Như vậy, qua các thời kỳ, quan điểm của Đảng ta về chế độ sở hữu và
các thành phần kinh tế có những đổi mới quan trọng mang tính đột phá, cụ thể
như sau:
Một là, từ tư duy về một nền kinh tế chỉ có ba thành phần (kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể, kinh tế cá thể), đã vươn lên tư duy về một
nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Mỗi
thành phần kinh tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, đều bình
đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành
49
mạnh, góp phần nâng cao nội lực của nền kinh tế nước ta trong điều kiện thực
hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và toàn thế giới.
Hai là, từ tư duy coi kinh tế quốc doanh là chủ đạo theo nghĩa phải
chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, gần như độc quyền
nắm tiền và hàng, chi phối thị trường, độc quyền trên hầu hết mọi lĩnh vực
kinh tế, đã vươn lên tư duy về nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế
quốc dân. Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo với chức năng
làm đòn bẩy cho kinh tế tăng trưởng nhanh và giải quyết những vấn đề xã hội,
mở đường, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển... Việc đổi
mới kinh tế là cả một chặng đường dài phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách,
vì vậy yêu cầu mỗi thành viên trong xã hội đều phải góp phần công sức nhỏ
bé của mình vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nói chung, sự
nghiệp đổi mới và phát triển nền kinh tế nói riêng để hoàn thành mục tiêu mà
Đảng và nhân dân ta đã chọn lựa là độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã
hội để xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
2.1.2. Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế.
Trong những năm qua, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần cũng đòi hỏi phải có đổi mới tương ứng về cơ chế quản lý
kinh tế. Đó cũng là yêu cầu và đòi hỏi cấp thiết trong quá trình đổi mới kinh
tế của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đại hội VI (12/1986) của Đảng ta đã đặt vấn đề đổi mới cơ chế quản lý,
xuất phát từ những nhận định về những nhược điểm, yếu kém của cơ chế quản
lý hiện hành. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã phân tích sâu sắc mặt trái
của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và từ sự phân tích về những yếu kém
của cơ chế quản lý theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, từ đó xác
định thực chất của cơ chế mới là kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh Xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, xác định
50
đặc trưng và định hướng có tính nguyên tắc cơ bản trong đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế.
Hội nghị Trung ương lần thứ hai khóa VI (4/1987) cũng đã đề ra những
quy định chung về chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế
quốc doanh, làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế. Đại hội VI còn đề ra
phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là: xoá bỏ tập trung quan liêu,
bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình
độ phát triển của nền kinh tế. Các Nghị quyết của Trung ương Đảng và Bộ
Chính trị tiếp tục hoàn thiện nhận thức về cơ chế kinh tế cần phải có.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) thông qua xác định
hướng cơ bản và lâu dài về cơ chế quản lý kinh tế là: Xoá bỏ triệt để cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật
tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động... thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trên
thị trường trong nước với cả thị trường thế giới, xác định quyền của người sở
hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm cho mọi tư liệu sản xuất đều có người
làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh tế
của mình.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) đã xác định: tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 6 khóa VIII (10/1998) chủ trương tiếp tục đổi
mới đồng bộ hơn về chính sách, thể chế để củng cố và tăng cường kinh tế Nhà
nước, giải phóng và phát huy mọi lực lượng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh có
hiệu quả. Nhận thức đúng và có chính sách, biện pháp phù hợp đáp ứng yêu
51
cầu của tình thế mới, tạo bước đột phá trong việc khai thác các nguồn nội lực
và nguồn lực bên ngoài, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đến Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006) Đảng ta vẫn tiếp tục nhấn
mạnh nhiệm vụ đổi mới cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa nhằm đẩy mạnh hơn nữa quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đảng ta nhấn mạnh trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thì việc phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa luôn được đẩy mạnh để tiếp tục thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới vừa qua, có thể tóm lược những bước đột
phá của Đảng ta trong việc đổi mới tư duy về cơ chế quản lý, thể hiện ở một
số điểm như sau:
Một là, từ chỗ không sử dụng quan hệ hàng hoá, tiền tệ mà chủ yếu
theo cơ chế xin- cho, giao nộp và cấp phát theo hiện vật, đã chuyển sang chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, khẳng định sản xuất
hàng hoá không đối lập với Chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng Chủ
nghĩa xã hội.
Hai là, chuyển từ tư duy cho rằng chỉ có kế hoạch là quy luật riêng rẽ
của Chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận các quan hệ thị trường sang thừa nhận
sự tồn tại khách quan cơ chế thị trường, coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là
đối tượng của kế hoạch, kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt
quan trọng trên bình diện vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các
đơn vị kinh tế chọn lựa lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất,
kinh doanh. Trên cơ sở đó, đã không ngừng tạo lập đồng bộ dần dần các yếu
tố của thị trường (hàng hoá và dịch vụ, công nghệ, các dịch vụ thông tin, tư
vấn, tiếp thị...).
Ba là, chuyển từ tư duy các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu làm ra sản
phẩm theo mệnh lệnh từ trên và được bao cấp sang từng bước xoá bỏ bao cấp
52
một cách triệt để, đi đôi với xác lập quyền tự chủ của các doanh nghiệp, đồng
thời tăng cường và thực hiện đúng chức năng quản lý của Nhà nước, phân
định quyền sở hữu, quyền sử dụng các tài sản và vốn của Nhà nước. Các
doanh nghiệp Nhà nước phải tập trung vào một số ngành và lĩnh vực then
chốt, vừa chi phối được nền kinh tế, vừa đảm bảo an ninh, quốc phòng và
phục vụ lợi ích công cộng.
Bốn là, từ tư duy chia cắt thị trường giữa các khu vực trong nước, nền
kinh tế khép kín, không gắn với thị trường khu vực và thế giới, nay đã chuyển
sang mở rộng thị trường, giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước, mở
rộng quan hệ, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện cơ chế mở toàn
cầu hoá và quốc tế hoá nhưng phải kiên quyết giữ vững độc lập, tự chủ, chủ
quyền quốc gia, và bảo vệ lợi ích dân tộc.
Năm là, từ tư duy về hàng hoá, thị trường rất hạn chế đi đến tư duy mở
rộng về hàng hoá và thị trường, tư liệu sản xuất, vốn, sức lao động... Từ chỗ
chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất là phân phối theo lao động đã
đi đến tư duy về nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế làm hình thức chủ yếu, đồng thời cho phép thực hiện
phân phối dựa vào mức đóng góp của các nguồn lực khác vào sản xuất kinh
doanh và phân phối dựa vào quỹ phúc lợi xã hội. Từ chỗ e ngại, ngăn cấm
làm giàu đến khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng dựa vào những
điều kiện và chính sách của Nhà nước cho phép, nhưng hạn chế phân hóa giàu
nghèo trong đời sống nhân dân để tạo động lực cho các thành phần kinh tế
phát triển một cách công bằng và phát huy nội lực cho phép của mình.
Tóm lại, từ chỗ hoạt động quản lý của Nhà nước diễn ra chủ yếu bằng
mệnh lệnh hành chính thông qua giao kế hoạch pháp lý và các chỉ đạo tác
nghiệp cụ thể thì nay đã chuyển sang tăng cường quản lý của Nhà nước đi đôi
với thực hiện quyền tự chủ của doanh nghiệp, Nhà nước quản lý bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác, xác định quyền của người sở
hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất, mọi tư liệu sản xuất đều có
53
người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh của mình.
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận
của Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Có thể thấy rằng, trong hơn 30 năm tiến hành đổi mới, Đảng ta đã đạt
được những thành tựu cơ bản. Bên cạnh những thành tựu cơ bản đạt được đó,
Đảng cũng đã nhận thấy những thiếu sót, bất cập trong vấn đề đổi mới cần
phải khắc phục. Trong quá trình đổi mới đó, có thời điểm tiến trình đổi mới
diễn ra chưa thực sự mạnh mẽ, kiên quyết, triệt để, có khi còn bị chững lại ở
một vài thời điểm.
Từ Đại hội VI của Đảng cho đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam đã có
nhiều bước tiến rất rõ trong quá trình đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế.
Đây được xem là điểm khởi đầu, điểm đột phá tạo tiền đề quan trọng cho
những hoạt động thực tiễn sau này của Đảng. Để đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa- hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng và văn minh thì những đòi hỏi và yêu cầu đối với công tác đổi
mới tư duy (đặc biệt là tư duy kinh tế) được đặt ra vô cùng cấp bách. Trên
thực tế, chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu trong đổi mới tư duy kinh tế.
Song công tác đổi mới cũng còn không ít những mặt hạn chế, yếu kém so với
yêu cầu của đất nước. Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, chuyển sang cơ
cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đã mang lại những
thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, chính việc mở rộng quan hệ quốc tế và
chuyển sang cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa cũng
tồn đọng những vấn đề tiêu cực, cụ thể như sau: Sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng rõ rệt, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, các thế lực thù địch trong và
ngoài nước vẫn có cơ hội cấu kết và tìm mọi cách chống phá Việt Nam dưới
nhiều hình thức và phương thức khác nhau… Bên cạnh đó, trong quá trình đổi
54
mới tư duy có thể thấy nhận thức về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhìn chung mới chỉ dừng lại ở những nét khái
quát chung; có nhiều vấn đề đặt ra từ thực tiễn xây dựng và phát triển đất
nước chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục. Nhiều cán
bộ đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
còn giản đơn, hiểu biết về Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa thực sự sâu sắc, còn
có những mặt lệch lạc, phương pháp tư duy vẫn chưa vươn tới tầm biện
chứng, nhiều khi còn mang tính giáo điều, máy móc. Vì vậy, để đáp ứng được
nhu cầu phát triển thực tiễn kinh tế- xã hội, nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, thì yêu cầu chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới tư
duy (đặc biệt là tư duy về kinh tế) là hết sức cấp bách.
Đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế là một quá trình lâu dài diễn
ra không phải trong một chốc một lát, quá trình đổi mới sẽ phải trải qua không
chỉ thành công mà còn những thất bại. Mặt khác, trước những thất bại hay
những khó khăn, thử thách đó, thực tiễn đòi hỏi tư duy phải luôn có sự tìm tòi
sáng tạo, phải luôn có sự đổi mới, trước hết là phải đổi mới cách thức, phương
pháp tư duy, cách tiếp cận đối tượng. Từ những thực tiễn khó khăn nêu trên
trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng, có thể rút ra những giải pháp
nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế ở Việt Nam hiện nay
như sau:
Thứ nhất, cần nâng cao năng lực tư duy thông qua việc học tập triết
học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời đẩy mạnh việc truyền
bá, giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ và nhân dân, tạo sự thống nhất về
nhận thức và quan điểm, tạo tiền đề cho việc đổi mới tư duy là vấn đề cơ
bản, quan trọng, cần tiến hành ngay của Đảng.
Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của cách mạng Việt Nam, vì vậy việc nâng
cao năng lực tư duy (đặc biệt tư duy về kinh tế) cũng phải dựa trên nền tảng
55
tư tưởng ấy, đổi mới tư duy phải bắt đầu từ đổi mới nhận thức về chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu cầu mọi cấp, mọi ngành phải
không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu để có nhận thức đúng đắn, đầy đủ và vận
dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác phải xuất phát từ thực tiễn phát triển đất nước
để tìm ra quy luật vận động của cách mạng nước ta, xác định con đường phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Sự sụp đổ Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
các nước Đông Âu đã tạo điều kiện cho những thế lực thù địch tấn công, bôi
nhọ chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm làm sụp đổ nền
tảng khoa học trong đường lối phát triển của đất nước ta. Vì vậy, việc nghiên
cứu, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin trong tình hình mới đòi hỏi
phải có sự đánh giá khách quan những giá trị đích thực, căn bản, có ý nghĩa
lâu dài của học thuyết đó. Mặt khác, cần tiếp tục bổ sung những nhận thức
mới làm phong phú thêm học thuyết Mác- Lênin bằng những giá trị mới. Đối
với tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, toàn diện hệ
thống những quan điểm về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa... nhằm vận
dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của Người, góp phần cung cấp những
luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách, và
xây dựng Nghị quyết của Đảng ta. Việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ làm cho các vấn đề về mối quan hệ giữa
kinh tế thị trường và Chủ nghĩa xã hội, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội... được nghiên cứu sâu sắc hơn.
Bước sang thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta cần tiếp tục truyền bá và
giáo dục sâu rộng hơn nữa chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
nhằm nâng cao nhận thức đúng đắn, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích cực
chính trị- xã hội cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để đưa đất nước vượt qua được khủng
hoảng kinh tế, xã hội, ổn định và phát triển bền vững. Chúng ta có thể khẳng
định rằng, việc nghiên cứu lịch sử triết học, triết học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
56
Chí Minh trong thời đại ngày nay là hết sức cần thiết và quan trọng. Kết quả
và mục đích của việc nghiên cứu đó chính là bồi dưỡng thế giới quan duy vật,
rèn luyện tư duy biện chứng và nâng cao năng lực phương pháp luận chung
cho mỗi người, đồng thời cũng giúp ngăn ngừa chủ nghĩa chủ quan, bảo thủ,
siêu hình trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Khi đã hiểu rõ triết học
Mác- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà lãnh đạo có thể dễ dàng nhìn
ra được xu hướng phát triển, nhìn ra những khó khăn và cách giải quyết các
vấn đề một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Có thể nói việc nâng cao năng lực tư duy thông qua việc học tập triết
học Mác, Lenin và tư tưởng hồ Chí Minh cũng như việc truyền bá giáo dục
chính trị cho các bộ Đảng viên là một trong những việc làm cấp thiết và quan
trọng nhất trong thực tế xã hội ngày nay. Việc này giúp củng cố lòng tin vào
Chủ nghĩa xã hội cho cán bộ, Đảng viên và toàn thể người dân Việt Nam. Một
khi có lòng tin vào Chủ nghĩa xã hội, vào con đường phát triển đi lên Chủ
nghĩa xã hội thì con người mới quyết tâm xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đặc biệt
là xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Khi người dân đã hiểu rõ triết học Mác, Lenin và tư tưởng Hồ Chí
Minh thì bước tiếp theo Đảng ta cần làm đó là đổi mới cũng như thay đổi
những mô hình kinh tế không còn phù hợp với tình hình hiện nay và những
mô hình làm kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Tạo điều kiện tối ưu cho các
doanh nghiệp phát triển kinh tế của mình. Có thể thấy các cán bộ, các nhà
khoa học ở nước ta còn giữ thói quen ngại tranh luận, ngại nêu ý kiến của
mình. Chính vì vậy, nền kinh tế nước ta khó phát triển được do thiếu những ý
kiến đóng góp, những sáng tạo đột phá. Chính vì vậy, việc khuyến khích mở
rộng dân chủ là việc làm quan trọng trong vấn đề đổi mới tư duy lý luận của
Đảng về mô hình kinh tế ở Việt Nam.
Thứ hai, dân chủ hoá đời sống kinh tế- xã hội.
Dân chủ hoá đời sống kinh tế tác động sâu sắc tới sự phát triển kinh tế
xã hội cũng như các hình thái ý thức xã hội nói chung và năng lực tư duy nói
57
riêng. Việc Nhà nước ta xoá bỏ độc quyền kinh tế của các doanh nghiệp nhà
nước là một bước cởi trói cho các thành phần kinh tế và tạo ra một môi trường
kinh doanh bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Dân chủ hoá đời sống kinh
tế có tác dụng tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, giữa các thành phần kinh tế,
môi trường, có tác dụng thanh lọc những doanh nghiệp yếu, thường có thói
quen dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước. Để tồn tại trong môi trường cạnh
tranh bình đẳng, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới cách nghĩ, cách
làm, phải thường xuyên đổi mới công nghệ sản xuất, và cách thức quản lý
nhằm mang lại cho khách hàng những sản phẩm tốt với mức giá cạnh tranh.
Các doanh nghiệp phải hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học; còn các nhà
khoa học cũng có thêm những đề tài nghiên cứu nhằm phục vụ sản xuất.
Trước những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội, các nhà khoa học cũng phải
thường xuyên học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ và năng lực tư duy khoa
học. Mặt khác, yêu cầu thực tiễn của nền sản xuất xã hội được dân chủ hoá
cũng buộc tất cả mọi người phải thường xuyên đổi mới cách nghĩ cách làm,
không ngừng học tập và cập nhật thông tin để nâng cao trình độ mọi mặt. Tất
nhiên, để làm được việc này trong một nền kinh tế dân chủ và năng động họ
phải nâng cao năng lực tư duy khoa học. Bởi vì năng lực tư duy khoa học
giúp người ta sử dụng các tri thức một cách hiệu quả nhất để tìm ra được
phương án giải quyết vấn đề tối ưu nhất cho những vấn đề mới nảy sinh trong
thực tiễn.
Trong thời kỳ bao cấp, người ta luôn bằng lòng với cách làm cũ, thói
quen cũ mà vẫn hoàn thành kế hoạch, nên chẳng cần gì đến việc nâng cao
năng lực tư duy khoa học. Nói rộng hơn, trong một nền kinh tế độc quyền
khép kín, thiếu dân chủ thì không đòi hỏi nhiều đến khoa học và năng lực tư
duy khoa học, tư duy khoa học thiếu đi môi trường nuôi dưỡng và kích thích
và hậu quả tất yếu là ở đó năng lực tư duy khoa học rất khó phát triển. Từ khi
đổi mới đến nay, sự năng động của các doanh nghiệp, sự dân chủ hoá từng
bước hoạt động kinh doanh đã tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta phát triển
58
và cùng với nó là trình độ và năng lực tư duy khoa học của đa số công dân
cũng được nâng cao.
Cùng với việc dân chủ hoá đời sống kinh tế, yêu cầu dân chủ hoá đời
sống tinh thần cũng góp phần thúc đẩy nâng cao năng lực tư duy khoa học của
mọi người nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Tất nhiên,
việc dân chủ hoá đời sống tinh thần cũng phải tuân theo nguyên tắc phục vụ
những mục tiêu kinh tế và chính trị của đất nước. Việc dân chủ hoá đời sống
tinh thần tạo ra một không khí bình đẳng trong các tranh luận nhằm giải quyết
những vấn đề lý luận và thực tiễn, ở đó các nhà khoa học, lý luận và các cán
bộ lãnh đạo quản lý có quyền tự do trao đổi về những vấn đề mới nảy sinh và
đưa ra những cách làm mới, những quan điểm, tư tưởng mới. Môi trường dân
chủ sẽ giúp cho việc tổng kết và đánh giá thực tiễn khách quan hơn, các vấn
đề được nhìn nhận từ các góc độ khác nhau, nên sẽ mang lại một cái nhìn toàn
diện hơn về thực tiễn giúp cho việc bổ sung và điều chỉnh lý luận phù hợp
hơn với thực tiễn. Nói chung, việc tạo ra một bầu không khí dân chủ trong
hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội sẽ góp phần nâng cao năng lực tư duy
khoa học của các nhà khoa học xã hội. Bởi vì, bầu không khí dân chủ một mặt,
cho phép họ có quyền thẳng thắn nói, viết ra những suy nghĩ của họ; mặt khác
nó tạo ra môi trường bình đẳng cho sự tranh luận khoa học, tạo điều kiện cho
việc tìm ra chân lý.
Nước ta chưa có truyền thống dân chủ, trong công tác lý luận vẫn có
tình trạng thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Khi mọi
người chưa có thói quen tranh luận, nhất là với cấp trên, thì việc khuyến khích
mở rộng dân chủ là một điều kiện quan trọng góp phần nâng cao năng lực tư
duy khoa học cho tất cả mọi người. Môi trường dân chủ thể hiện tinh thần
làm việc khoa học khách quan, nghiêm túc, trân trọng và tạo điều kiện ủng hộ
cho những suy nghĩ mới ra đời và phát triển, miễn sao chúng là đúng đắn và
có tác dụng tích cực cho sự phát triển của đời sống. Tư duy khoa học cần một
môi trường thực sự dân chủ để phát triển. Hiện nay đang là thời đại bùng nổ
59
thông tin thì quyền được biết thông tin cần được coi là một trong những
quyền cơ bản của con người. Dân chủ hoá đời sống tinh thần của xã hội, cũng
đòi hỏi sự dân chủ hoá thông tin, mọi người đều có quyền biết những thông
tin “cần thiết” để có thể suy nghĩ độc lập và lựa chọn hành động phù hợp.
Trên thực tế, quyền được tìm hiểu các thông tin chính xác của các nhà
khoa học ở nước ta hiện nay cũng còn những hạn chế. Vẫn còn có tình trạng
các cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học không được tiếp xúc với các
nguồn thông tin cần thiết với lý do là thông tin mật, không phổ biến, nhưng
các nhà khoa học rất cần phải nắm bắt được các thông tin chân thực, vì những
quyết định hay giải pháp của họ đưa ra ảnh hưởng đến nhiều con người trong
xã hội.
Việc tiến hành dân chủ hóa đời sống kinh tế xã hội có thể coi là bước
đột phá giúp mô hình kinh tế của nước ta phát triển hơn. Tuy nhiên, một khi
tiến hành dân chủ hóa, do được tự do tìm tòi, tự do phát biểu, đưa ra những
sáng kiến mới nên có thể có trường hợp có những ý kiến của cá nhân đi ngược
lại đường lối, quan điểm của Đảng và nhà nước. Chính vì vậy, khi tiến hành
dân chủ hóa đời sống kinh tế xã hội cần thực hiện, quán triệt tốt quan điểm,
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam nhất là vấn đề đổi mới kinh tế.
Thứ ba, cần thực hiện tốt đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay về đổi mới tư duy, nhất quán quan điểm
lấy kinh tế làm gốc, đổi mới kinh tế làm trọng tâm.
Việt Nam là nước có xuất phát điểm đi lên từ nền nông nghiệp nghèo
nàn lạc hậu, trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài, đi lên Chủ nghĩa xã hội
lại bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa, trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã
hội lại luôn chịu sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước...
Với nhiều khó khăn, thách thức như vậy, nên sự thiếu hụt lớn cả về kinh tế và
trình độ dân chủ chính trị trong bước đường phát triển theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa là rất lớn. Vì thế, không còn cách nào khác trong quá trình đổi
mới là phải lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Đây cũng là vấn đề mà Việt
60
Nam đã sớm xác định ngay từ buổi đầu của quá trình đổi mới, coi đó là điều
kiện, tiền đề để phát huy mọi nội lực vốn có của đất nước. Kết quả đổi mới
kinh tế mang lại sự tăng trưởng và phát triển là cơ sở để thúc đẩy đổi mới các
lĩnh vực khác. Trong các năm qua, kinh tế luôn đóng vai trò vô cùng quan
trọng trong suốt chặng đường quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế dần
dần chuyển mình sang nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần, đa dạng hoá
các hình thức sở hữu, trên cả nước hiện có rất nhiều các doanh nghiệp lớn,
vừa và nhỏ đã và đang hoạt động. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu hàng
đầu là phát triển kinh tế, là lợi ích kinh tế. Do đó, việc phát huy các nguồn lực
cho kinh tế không chỉ dựa vào động viên tư tưởng, lòng hăng hái nhiệt tình
đơn thuần, mà còn cần phải biết động viên lòng nhiệt tình hăng hái trên cơ sở
lợi ích kinh tế, động lực kinh tế, biết kết hợp hài hoà giữa động viên tinh thần
với khuyến khích bằng lợi ích vật chất. Nhân dân là chủ thể xã hội, chủ thể
của quyền lực Nhà nước, do đó về mặt chính trị cần giữ vững định hướng
chính trị xã hội chủ nghĩa nhưng đồng thời cần tăng hiệu quả đi đôi với tất cả
hoạt động kinh tế xã hội bằng cách thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển các yếu tố nuôi dưỡng cho
tăng trưởng kinh tế. Chính trị phải phát huy được các nguồn lực làm động lực
phát triển kinh tế.
Muốn đổi mới được mô hình kinh tế thì việc hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường được cho là việc làm cấp thiết và quan trọng.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
Đây được coi là giải pháp ưu tiên nhằm tiếp tục hoàn thiện đổi mới tư
duy kinh tế bởi không thể định hướng Xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị
trường nếu như nền kinh tế đó lại khiếm khuyết, không đầy đủ. Những thành
tựu đã đạt được của kinh tế thị trường ở Việt Nam trong những năm vừa qua
đã chứng minh được tính cách mạng của nó trong xã hội so với kinh tế kế
hoạch, hiện vật. Hoàn thiện kinh tế thị trường chính là hoàn thiện những ưu
thế của nó trong quá trình chuẩn bị cơ sở vật chất cho sự ra đời và tồn tại của
61
Chủ nghĩa xã hội. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường chính là sự hoàn thiện
tính cách mạng của nó so với kinh tế kế hoạch, hiện vật và khẳng định sự
thành công của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình hoạch định những
chủ trương, chính sách, đường lối để phát triển kinh tế đất nước ở tầm chiến
lược, vĩ mô.
Bên cạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường thì vấn đề làm cho
thành phần kinh tế nhà nước tiếp tục thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, có chính sách linh động với
kinh tế tư nhân dưới sự quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là một vấn đề
cần lưu ý. Để làm được điều này, Đảng cần tiếp tục xây dựng và đổi mới kinh
tế nhà nước
Thứ năm, tiếp tục xây dựng và đổi mới kinh tế nhà nước.
Hiện nay, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần có những giải pháp thích hợp để
tiếp tục phát triển.
Trong văn kiện Đại hội X, tư duy về các thành phần kinh tế có sự thay
đổi là thành phần kinh tế tư nhân, về cơ bản nền kinh tế thị trường Xã hội chủ
nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần và kinh tế nhà nước vẫn được coi là
thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, góp phần vào định hướng cho phát
triển toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sự thay đổi trong việc phân
chia thành phần kinh tế tư nhân trong văn kiện Đại hội cho thấy Đảng cộng
sản Việt Nam đánh giá thành phần kinh tế này bằng tư duy chính trị mềm dẻo
hơn. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận động và phát triển theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì kinh tế tư nhân (kể cả kinh tế cá thể
tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân) đều đóng vai trò quan trọng “là một trong
những động lực của nền kinh tế” [14, 83]. Vai trò của kinh tế tư nhân đối với
sự phát triển kinh tế Việt Nam là rất lớn, góp phần quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế và giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nên đây là thành phần
62
kinh tế không thể thiếu và chúng ta phải tiếp tục chú ý đổi mới thành phần
kinh tế này để tạo điều kiện cho các doanh nhân phát huy tính tích cực, sáng
tạo của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài ra, khi cho đảng viên làm
kinh tế tư nhân, sẽ có thêm một lực lượng đảng viên quản lý và sản xuất kinh
doanh tạo thêm động lực cho sự phát triển kinh tế. Cần thiết phải có nghị
quyết riêng đối với thành phần kinh tế này để tạo điều kiện cho doanh nhân
đảng viên nói riêng và doanh nhân nói chung yên tâm làm ăn trong điều kiện
và tình hình mới. Mặt khác, việc chú ý phát triển thành phần kinh tế này cũng
cho thấy rõ hơn quan điểm của Đảng về vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân
trong việc xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Tiếp cận và xây dựng nền kinh tế tri thức cũng là giải pháp quan trọng
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách với khu vực và thế
giới.
Thứ sáu, tiếp cận và xây dựng nền kinh tế tri thức.
Việt Nam xuất phát điểm đi lên từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc
hậu, nên chúng ta không thể tiến thẳng vào nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên,
Việt Nam nói riêng và mọi quốc gia nói chung đều cần đến tri thức với tư
cách là phương tiện, là nguồn lực quan trọng không thể thiếu để phục vụ cho
nhu cầu phát triển của đất nước. Tiếp cận nền kinh tế tri thức và khai thác lợi
thế so sánh của quốc gia về tài nguyên thiên nhiên cần phải được ưu tiên trong
quá trình phát triển nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá, doanh
nghiệp và của quốc gia trên bình diện quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang cạnh
tranh với các nước khác trong WTO dựa trên lợi thế so sánh về tài nguyên
thiên nhiên, vị trí địa lý cũng như nguồn nhân công rẻ. Trong khi chưa đủ sức
để có thể cạnh tranh với những nền kinh tế mà sản phẩm có hàm lượng tri
thức cao, Việt Nam nên tập trung tiếp cận kinh tế tri thức theo hướng nâng
cao chất lượng hàng hoá và sản phẩm đang có thế mạnh. Với Việt Nam, điều
quan trọng nhất lúc này là phải tạo cơ chế để cho kinh tế tri thức đi vào nền
63
kinh tế thị trường, tiếp cận với kinh tế tri thức thì mức độ cạnh tranh sẽ gay
gắt hơn, sản phẩm hàng hoá làm ra sẽ phong phú, đa dạng hơn. Đại hội X xác
định bước đi chiến lược trong xây dựng kinh tế tri thức ở Việt Nam là đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế. Với chủ trương như vậy, chúng tôi
cho rằng con đường và giải pháp trước mắt để phát huy được lợi thế so sánh
của Việt Nam là tập trung dẫn dắt sự phát triển của nền kinh tế tri thức theo 2
hướng cơ bản: 1) Phát triển những lĩnh vực kinh tế tri thức vốn có thể góp
phần ngay vào việc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, nâng cao chất lượng hàng hoá nông sản của Việt Nam. 2) Tập
trung phát triển những ngành có thể tận dụng được những thành quả của công
nghệ thông tin là lĩnh vực tương đối dễ huy động được tài nguyên trí tuệ của
quốc gia.
Thứ bảy, tiếp tục giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
vai trò quản lý của Nhà nước trong sự phát triển kinh tế nói riêng và trong
công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước nói chung.
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại
biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, Đảng ta không có mục đích nào khác ngoài việc thực hiện và đảm
bảo quyền dân chủ, quyền làm chủ cho nhân dân mà trước hết là quần chúng
nhân dân lao động. Chính vì vậy Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất
giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối trong việc ổn định chính trị và đặc biệt trong
vấn đề phát triển kinh tế.
Tóm lại, sự phát triển của đất nước trong những năm gần đây cho thấy
để có được những thành công thực sự trong phát triển kinh tế chúng ta đã tập
trung đẩy nhanh việc nghiên cứu và đưa ra những giải pháp trong đổi mới và
phát triển kinh tế để mang lại lợi ích và động lực phát triển mạnh mẽ cho đất
nước, khai thác và tận dụng được những nguồn lực sẵn có vô cùng quý giá
của quốc gia. Việc thực hiện thành công những giải pháp trên đây sẽ đảm bảo
64
giữ vững định hướng chính trị bao trùm đối với sự phát triển kinh tế thị
trường và quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn
hiện nay. Sự phát triển đó luôn luôn hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước
Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Thứ tám, cần không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển lực lượng.
Trong lịch sử nhân loại, việc hình thành lý luận mới có 2 cách chủ yếu
đó là: Tiếp tục phát triển từ lý luận có trước và tổng kết thực tiễn để phát triển
lý luận. Đây là con đường cơ bản nhất, quan trọng nhất để đưa ra lý luận.
Điều kiện để tổng kết thực tiễn phát triển lý luận gồm: Phải thấy được
tính thực tiễn tổng thể, nói một cách khác đây không phải nhìn nhận những
mảnh vụn thực tiễn, những lĩnh vực thực tiễn cụ thể mà phải tìm được tính
chung nhất, tính phổ quát nhất của thực tiễn. Từ thực tiễn để khái quát được
những quan điểm mới, những lý luận mới thì cần phải tập chung vào tổng kết
những nhân tố mới, điển hình mới, hình thức phát triển thực tiễn mới và
đương nhiên những yếu tố này phát triển một cách tự nhiên, hợp quy luận.
Tổng kết từ những tình hình thực tiễn có điểm nóng, có vấn đề để từ đó hình
thành nên quan điểm mới, tư tưởng mới. Tổng kết thông qua những dư luận
xã hội đang bức xúc nổi lên. Tổng kết để so sánh với khu vực và thế giới.
Tổng kết thực tiễn không phải là phục vụ cho mục đích chính trị trước mắt mà
để hoạch định cho chiến lược lâu dài.
Mục đích của tổng kết thực tiễn đó là: Thu được tri thức lý luận mới.
Tổng kết thực tiễn là để tìm động lực mới cho sự phát triển. Tìm ra mô hình
phát triển xã hội mới. Tìm ra những chủ thể mới trong sự phát triển. Tìm ra
quyết sách mới với một quyết tâm chính trị mới.
Thứ chín, khắc phục tư duy kinh nghiệm để hình thành tư duy lý
luận.
Tư duy kinh nghiệm ở nước ta được biểu hiện ra ở hai căn bệnh chủ
yếu là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều chủ nghĩa.
65
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa
kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học, khuyếch đại vai trò của thực tiễn
để hạ thấp vai trò của lý luận mà những biểu hiện của nó là: thỏa mãn kinh
nghiệm bản thân, ngại học lý luận, coi thường khóa học kỹ thuật, coi thường
tri thức thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ, trì trệ.
Bệnh giáo điều chủ nghĩa: là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng lại ở
câu chữ theo kiểu “tầm chương trích cũ”, hiểu lý luận một cách trừu tượng mà
không thâu tóm được thực chất cách mạng và khoa học của nó, nặng về diễn
giải những gì đã có trong sách vở mà không đối chiếu, so sánh với cuộc sống,
thoát ly thực tiễn, tiếp nhận những nguyên lý, lý luận một cách giản đơn,
phiến diện, mang tính cảm tính và từ đó biến chúng thành những tín điều.
Bệnh này gồm hai biểu hiện chính: Chủ yếu nặng về xuất phát từ sách vở mà
không xuất phát từ lịch sử cụ thể của thực tiễn. Áp dụng dập khuôn máy móc,
kinh nghiệm của nước khác, vùng khác, người khác vào nước mình, vùng
mình và chính mình.
66
Tiểu kết chương 2
Vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế thị trường
ở Việt Nam có nguồn gốc sâu xa bắt nguồn từ chính thực tiễn đất nước. Để
cho đất nước phát triển tiến lên Chủ nghĩa xã hội đặc biệt là nền kinh tế phát
triển, Đảng và nhà nước ta đã không ngừng đổi mới tư duy qua từng giai đoạn,
thời kỳ phát triển của lịch sử.
Qua nghiên cứu về quá trình đổi mới tư duy của Đảng về mô hình kinh
tế thị trường trong các văn kiện của Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay có thể
thấy Đảng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể giúp cho nền kinh tế của
Việt Nam phát triển nhanh và bền vững hơn.
Qua các thời kỳ, quan điểm của Đảng ta về chế độ sở hữu và các thành
phần kinh tế có những đổi mới quan trọng mang tính đột phá, cụ thể như sau:
Một là, từ tư duy về một nền kinh tế chỉ có ba thành phần (kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể, kinh tế cá thể), đã vươn lên tư duy về một nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hai là, từ tư duy coi kinh tế
quốc doanh là chủ đạo theo nghĩa phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành
nghề, lĩnh vực, gần như độc quyền nắm tiền và hàng, chi phối thị trường, độc
quyền trên hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế, đã vươn lên tư duy về nhiều hình
thức sở hữu trong nền kinh tế quốc dân.
Trong việc đổi mới tư duy về cơ chế quản lý, Đảng ta đã có những đổi
mới được thể hiện ở một số điểm như sau: Từ chỗ không sử dụng quan hệ
hàng hoá, tiền tệ mà chủ yếu theo cơ chế xin cho, giao nộp và cấp phát theo
hiện vật, đã chuyển sang chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần; chuyển từ tư duy cho rằng chỉ có kế hoạch là quy luật riêng rẽ của
chủ nghĩa xã hội sang thừa nhận sự tồn tại khách quan cơ chế thị trường;
chuyển từ tư duy các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu làm ra sản phẩm theo
mệnh lệnh từ trên và được bao cấp sang từng bước xoá bỏ bao cấp một cách
triệt để; từ tư duy chia cắt thị trường giữa các khu vực trong nước, nền kinh tế
khép kín, không gắn với thị trường khu vực và thế giới, nay đã chuyển sang
67
mở rộng thị trường, giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước, mở rộng
quan hệ, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện cơ chế mở toàn cầu
hoá và quốc tế hoá nhưng phải kiên quyết giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền
quốc gia, và bảo vệ lợi ích dân tộc; từ tư duy về hàng hoá, thị trường rất hạn
chế đi đến tư duy mở rộng về hàng hoá và thị trường, tư liệu sản xuất, vốn,
sức lao động...
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta tuy đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng nhưng cũng tồn tại những hạn chế nhất định. Trải qua hơn 30 năm đổi
mới có thể thấy việc đổi mới tư duy của Đảng còn rất nhiều hạn chế, đôi khi
dẫn đến những sai lầm do yếu về tư duy lý luận của một số cán bộ, đảng viên
từ đó làm cho việc đưa ra các chính sách, chỉ đạo phát triển nền kinh tế còn
mắc phải những sai lầm khiến cho nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự phát
triển một cách toàn diện. Chính vì vậy, qua nghiên cứu về quá trình đổi mới
tư duy lý luận của Đảng, tìm hiều những điểm mạnh và điểm yếu của quá
trình đổi mới, từ đó rút ra được những giải pháp nhằm tiếp tục phát triển
những điểm mạnh và hạn chế, khắc phục những điểm yếu, giúp cho nền kinh
tế của Việt Nam ngày càng phát triển.
68
KẾT LUẬN
Qua chặng đường hơn 30 năm đổi mới theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa với mục tiêu xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và có ý
nghĩa vô cùng to lớn. Đánh giá khái quát thành tựu đó, Dự thảo đề cương Báo
cáo trình Đại hội X của Đảng đã nêu rõ: “Công cuộc đổi mới trong 20 năm
qua đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử cả trên
mặt thực tiễn và lý luận” [13, 7]. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng ta
cũng đã khẳng định: Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có rất nhiều khó
khăn, thách thức, nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy
thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu
đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ của Đại hội X; ứng phó có kết quả trước những diễn biến phức tạp
của kinh tế thế giới và trong nước. Về thực tiễn, đất nước đã thoát khỏi khủng
hoảng về kinh tế, xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, công nghiệp hóa đất nước
được đẩy mạnh. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng
là liên minh công- nông- trí thức do Đảng lãnh đạo ngày càng được tăng
cường và củng cố. Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực
lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
và ngày càng lớn mạnh. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất
nước tăng lên. Chính trị- xã hội ổn định. Nhân dân tin tưởng vào đường lối
đổi mới đất nước của Đảng. Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích luỹ thêm
được nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo và quản lý. Có thể nói, sự đổi mới tư
duy kinh tế của Đảng về các thành phần kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt, nó
tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước, đồng thời nó là động lực to lớn cho chúng ta phát
69
triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đổi mới tư duy
kinh tế về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần còn góp phần quan trọng
trong việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dân chủ trong
hoạt động kinh tế, mọi cá nhân đều có quyền tổ chức hoạt động sản xuất, kinh
doanh một cách bình đẳng theo pháp luật.
Về lý luận, nhận thức của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên Chủ nghĩa xã hội ngày một sáng tỏ: “Đến nay, Đảng ta đã bước đầu hình
thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về công
cuộc đổi mới và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở
cho xây dựng và phát triển đường lối của Đảng, góp phần bổ sung và phát
triển cho quan điểm tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội” [13, 7-8].
Tổng kết thực tiễn hơn 30 năm đổi mới tư duy đặc biệt tư duy về kinh
tế của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến nay giúp chúng ta thu
hoạch được nhiều điều quan trọng, bổ ích và quý báu chẳng những đối với
hiện nay mà còn đối với tương lai và triển vọng phát triển của dân tộc ta trên
con đường đi tới Chủ nghĩa xã hội, thực hiện lý tưởng và mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền Chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam đã vạch ra. Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đạt được những thành
tựu như ngày hôm nay là nhờ có Đảng lãnh đạo và do Đảng đã luôn luôn chủ
động, sáng tạo trong đổi mới tư duy, mà trước hết là tư duy về kinh tế. Đảng
luôn kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh- lý luận đã nâng
cao tiềm lực trí tuệ và tư tưởng của Đảng, đã cung cấp cho Đảng cơ sở kế
hoạch để đề ra đường lối chính trị đúng đắn, giữ vững phương hướng chính trị
trong những tình huống phức tạp, trong những thời điểm bước ngoặt của sự
phát triển. Thành tựu đổi mới tư duy của Đảng với những chuyển biến tích
cực đã đem lại cho nhân dân ta, dân tộc ta một niềm tin vững chắc vào năng
lực lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đổi mới đất nước của Đảng ta chẳng những
nâng cao trình độ lý luận và tư duy của Đảng, thử thách và rèn luyện bản lĩnh
70
chính trị của Đảng mà còn mở rộng và phát triển mối liên hệ giữa Đảng với
nhân dân, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây
dựng kinh tế, phát triển văn hoá, xã hội... Qua hơn 30 năm đổi mới, tư duy về
kinh tế thị trường của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn và
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là
những thành tựu bước đầu, để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh thì việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa tư
duy lý luận về kinh tế của Đảng ta vẫn đang là đòi hỏi khách quan mang tính
cấp thiết. Trên những bước đường tiếp theo, với những tiềm lực mới, với
những kinh nghiệm và bài học đã tích luỹ được, nhất định Đảng ta sẽ đủ sức
mạnh vượt qua được những hạn chế, yếu kém và đủ năng lực, bản lĩnh lãnh
đạo nhân dân ta, dân tộc ta đi tới thắng lợi mới trên chặng đường đổi mới đất
nước. Trên những bước đường tiếp theo sau hơn 30 năm đổi mới, với những
tiềm lực mới, với những kinh nghiệm và bài học đã tích luỹ được, nhất định
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đủ sức mạnh vượt qua được những hạn chế, yếu
kém và đủ năng lực, bản lĩnh lãnh đạo nhân dân ta, dân tộc ta đi tới thắng lợi
mới trên chặng đường đổi mới đất nước.
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo –Trung tâm Ngôn ngữ- Văn hoá (1998),
Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
2. Hoàng Chí Bảo (1988), “Từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy lý
luận”, Tạp chí Thông tin lý luận.
3. Nguyễn Đức Bình, Báo Nhân dân ngày 5-6-1992.
4. Phan Đình Diệu (2005), “Góp vài suy nghĩ để tư duy tiếp tục về
đổi mới”, Tạp chí thời đại mới, số 6.
5. Nguyễn Thị Đào (2008), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai
đoạn hiên nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học KHXH& NV, Hà Nội.
6. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị Trung ương
2 khóa VII (lưu hành nội bộ), Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Dự thảo đề cương các văn
kiện trình đại hội X của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
17. Đoàn Thị Thu Hương (2012), Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại
học KHXH& NV, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Hoà (chủ biên, 2006), Nâng cao tầm tư tưởng và trí
tuệ của Đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong giai đoạn mới, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Phú Hiệp (chủ biên, 2001), Tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đoàn Đức Hiếu (2003), Sự phát triển của cá nhân trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. V.I. Lenin: Toàn tập, Sđd, t.36.
22. V.I.Lênin, Toàn tập (1981), t.29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
23. V. I. Lênin (1977), Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên
chính vô sản//Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến bộ, Maxcơva.
24. C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập, Sđd.
25. C.Mác-Ph.Ănghgen (1995), Bản thảo kinh tế –triết học
1844//Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. C.Mác-Ph.Ănghgen (1995), Biện chứng của tự nhiên//Toàn tập,
tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. C.Mác-Ph.Ănghgen (1995), Chống Đuyrinh//Toàn tập, tập 20,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. C.Mác-Ph.Ănghgen (1995), Hệ tư tưởng Đức, Toàn tập, tập 3,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. C.Mác-Ph.Ănghgen (1995), Tuyên ngôn đảng cộng sản, Toàn tập,
tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73
30. C.Mác-Ph.Ănghgen (1995), Phê phán cương lĩnh Gôta, Toàn tập,
tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Vũ Văn Phúc, Ngô Đình Xây, Đoàn Xuân Thủy, Nguyễn Thị
Tuyết Mai (đồng chủ biên, 2006), Về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở
nước ta hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
32. Phạm Ngọc Quang và Nguyễn Viết Thông (2000), Góp phần tìm
hiểu sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới trên
các lĩnh vực chủ yếu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đào Duy Quát (chủ biên) (2002), “Phê phán quan điểm sai trái”,
Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng, Hà Nội.
34. Phạm Ngọc Quang- Nguyễn Viết Thông (2000), Góp phần tìm
hiểu sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới trên
các lĩnh vực chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng
(2006), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Nguyễn Đức Tài (2005), Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Dương Thị Oanh Thanh (2013), Đổi mới tư duy lý luận về đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học,
Đại học KHXH& NV, Hà Nội.
38. Đào Duy Tùng (1987), Bàn về đổi mới tư duy, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
39. Hoàng Tùng (1987), Đổi mới tư duy lý luận về công tác xây dựng
Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
40. Nguyễn Thuý Vân, Nguyễn Anh Tuấn (2008), Logic học đại
cương, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
41. Ngô Đình Xây (1990), “Vài nét về thực trạng tư duy lý luận ở
nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4.
74
42. Ngô Đình Xây (2003) (đồng tác giả), Tư duy lý luận với hoạt
động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia.
43. Ngô Đình Xây (2012), Bài giảng chuyên đề Tư duy lý luận và
nhận thức xã hội cho sinh viên chuyên ngành Triết học Mác –Lênin, Hà Nội.
44. Ngô Đình Xây (2012) (đồng tác giả) –Tiếp tục đổi mới tư duy lý
luận theo tinh thần Đại hội XI của Đảng. Trong cuốn “Nâng cao năng lực,
hiệu quả tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương trong việc triển khai
thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”. Nxb. Chính trị Quốc gia.
45. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.