BỘ NỘI VỤ TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SINH HOẠT VĂN HOÁ DÒNG HỌ NGUYỄN QUÝ
TẠI PHƢỜNG ĐẠI MỖ, QUẬN NAM TỪ LIÊM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Khóa luận tốt nghiệp ngành : QUẢN LÝ VĂN HÓA
Người hướng dẫn : THS. NGHIÊM XUÂN MỪNG
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN QUÝ HIỂN
Mã số sinh viên : 1805QLVA023
Khóa : 2018-2022
Lớp : 1805QLVA
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài khoá luận này do chính tay tôi tự viết, các
thông tin và số liệu trong bài viết hoàn toàn đúng sự thật.
Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2022
Sinh viên
Nguyễn Quý Hiển
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô và
cán bộ, giảng viên Khoa Quản lý xã hội và trường Đại Học Nội Vụ. Đặc biệt
là Ths.Nghiêm Xuân Mừng - người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ, truyền
đạt các kiến thức quý báu để tác giả có thêm kiến thức và kĩ năng trong suốt
quá trình thực hiện đề tài khoá luận.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới Hội đồng gia tộc dòng họ Nguyễn
Quý (phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội) đã cung cấp
nhiều thông tin, tài liệu quý giá để tác giả hoàn thành khóa luận.
Tuy nhiên do kiến thức cũng như kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong được sự đóng góp của
quý thầy cô để khoá luận được hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................. 2 3.Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 4 5.Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4 6. Đóng góp của khóa luận ......................................................................... 5 7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................ 5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA DÒNG HỌ VÀ KHÁI QUÁT VỀ DÒNG HỌ NGUYỄN QUÝ, PHƢỜNG ĐẠI MỖ, QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................................................................... 6 1.1.Tổng quan về văn hóa dòng họ ............................................................. 6 1.1.1.Các khái niệm .................................................................................... 6 1.1.1.1.Dòng họ ........................................................................................... 6 1.1.1.2.Văn hóa dòng họ ............................................................................. 7 1.1.1.3.Sinh hoạt văn hóa dòng họ .............................................................. 7 1.1.2.Các yếu tố cấu thành văn hóa dòng họ .............................................. 8 1.1.2.1.Các yếu tố văn hóa vật thể .............................................................. 8 1.1.2.2.Các yếu tố văn hóa tinh thần ......................................................... 11 1.1.3. Tổ chức dòng họ ............................................................................. 12 2.Khái quát về dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội ........................................................................... 13 2.1.Vài nét về mảnh đất và con người Đại Mỗ ......................................... 13 2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ ...................................................................................................... 14 2.2.3. Vị thế của dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ.................... 20 *Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 21
Chƣơng 2. GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÒNG HỌ NGUYỄN QUÝ PHƢỜNG ĐẠI MỖ, QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................... 22 2.1. Các giá trị văn hóa vật thể ................................................................. 22
2.1.1. Nhà thờ dòng họ Nguyễn Quý ........................................................ 22 2.1.2. Gia phả dòng họ .............................................................................. 24 2.1.3. Phần mộ dòng họ Nguyễn Quý ....................................................... 25 2.1.4. Quỹ họ ............................................................................................. 27 2.2. Các giá trị hóa phi vật thể .................................................................. 28 2.2.1. Các lễ tiết trong năm ....................................................................... 28 2.2.2. Giỗ họ .............................................................................................. 29 2.2.3. Hoạt động khuyến học, khuyến tài của dòng họ ............................. 32 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 33
Chƣơng 3. XÂY DỰNG VĂN HÓA DÒNG HỌ NGUYỄN QUÝ TẠI PHƢỜNG ĐẠI MỖ, QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ..................................................................................................... 34 3.1. Nhìn nhận về vai trò của sinh hoạt văn hóa dòng họ Nguyễn Quý ... 34 3.2. Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng văn hóa dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ hiện nay ..................................................................... 38 3.2.1. Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể ...................................... 38 3.2.2. Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể ................................ 39 3.2.3. Vấn đề quan hệ dòng họ hiện nay ................................................... 40 3.3. Một số khuyến nghị đối với việc xây dựng văn hóa dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ ............................................................................ 41 Tiểu kết ..................................................................................................... 46
KẾT LUẬN .................................................................................................... 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 48 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 49
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dòng họ là một thiết chế xã hội trực tiếp góp phần nên kết cấu làng, xã.
Cũng có thể nói dòng họ tạo ra sự cố kết rất chặt chẽ, giúp cho các cộng đồng
huyết thống vượt qua được những khó khăn của thiên tai, địch họa để tạo lập
cuộc sống. Dòng họ có tác dụng tích cực trong việc khai hoang lập làng, phát
triển sản xuất, ổn định đời sống, khuyến học. Các hoạt động của dòng họ qua
thời gian, đã tạo nên những truyền thống cho mỗi dòng họ và nét đặc riêng
của mỗi vùng quê mà ta có thể khái quát thành sinh hoạt văn hóa dòng họ ở
Việt Nam.
Có thể hiểu sinh hoạt văn hoá dòng họ là hoạt động văn hoá đặc trưng
tạo nên sự gắn kết giữa cộng đồng có cùng huyết thống từ đó thúc đẩy sự phát
triển cũng như cố kết chặt chẽ trong một làng, xã.
Xuyên suốt lịch sử Việt Nam, mỗi một dòng họ dù lớn hay nhỏ đều tạo
lập được văn hoá cho riêng mình. Văn hoá của một dòng họ được tạo lập do
những người cùng huyết thống sáng tạo ra để cùng tồn tại và phát triển. Văn
hoá dòng họ có hai yếu tố cấu thành nên đó là văn hoá vật thể và văn phi vật
thể. Văn hóa vật thể của dòng họ bao gồm mộ tổ, nhà thờ,… Phi vật thể là
sinh hoạt dòng họ như việc thực hiện quy ước, tổ chức nghi lễ giỗ họ, khuyến
học… Tất cả các yếu tố đó trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau mà có
biểu hiện khác nhau. Để bảo lưu và duy trì dòng họ đến ngày nay, sinh hoạt
văn hoá dòng họ giữ phần quan trọng nhất. Nghiên cứu về sinh hoạt văn hóa
dòng họ không chỉ góp phần làm sáng tỏ những giá trị của dòng họ, đóng góp
cho sự hình thành, phát triển văn hóa Việt Nam mà còn chỉ ra sự biến đổi của
sinh hoạt dòng họ trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị
trường hiện nay.
Dòng họ Nguyễn Quý là một dòng họ lớn và lâu đời tại Phường Đại
Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, trước đây thuộc xã Đại Mỗ
huyện Từ Liêm.Trong quá trình sinh cơ lập nghiệp và xây dựng, phát triển
1
cuộc sống, dòng họ đã có một bề dày truyền thống hiếu học với nhiều người
thành đạt. Đồng thời đây cũng là một dòng họ có hoạt động sinh hoạt văn hóa
khá phong phú, mang bản sắc của vùng đất Từ Liêm xưa.
Là sinh viên chuyên ngành Quản lý văn hóa, trường Đại học Nội vụ Hà
Nội cũng là người con của dòng họ Nguyễn Quý, nhận thức được những giá
trị của văn hóa dòng họ trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa và nền kinh
tế thị trường hiện nay, nên tác giả đã chọn đề tài “Sinh hoạt văn hoá dòng họ
Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội” để
làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý Văn hoá.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu dòng họ Việt Nam xưa và nay đã được nhiều tác giả
quan tâm và đã có nhiều công trình công bố. Tìm hiểu về dòng họ Việt Nam
cũng đã có một số công trình đáng chú ý như những nghiên cứu về vua Lê,
chúa Trịnh, dòng họ Nguyễn, họ Trần, họ Vũ - Võ, Huỳnh - Hoàng, Đỗ - Đậu
… Các công trình đã nêu được lịch sử hình thành và phát triển của dòng họ
Việt Nam, sự hình thành, những nét đặc trưng và quá trình phát triển, thịnh
suy của các dòng họ, thành tích đỗ đạt xưa của các dòng họ, nhưng nghiên
cứu cụ thể về sinh hoạt văn hóa dòng họ chưa được quan tâm hoặc có đề cập
đến thì chỉ giới thiệu xen kẽ trong các nội dung khác. Có thể điểm một số
công trình tiêu biểu:
Công trình nghiên cứu thuộc chương trình nghiên cứu gia phả Việt
Nam mang tên Vũ tộc thế hệ sự tích Mộ Trạch - Hải Dương do Vũ Thế Khôi
dịch và chú thích, Nguyễn Văn Nguyên hiệu đính, Viện Việt Nam học và phát
triển - Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2004 [5] là một công trình
nghiên cứu đồ sộ về họ Vũ - dòng họ khoa bảng hàng đầu Việt Nam. Những
giá trị nghiên cứu về gia phả, về các chi, các đời, sự phát tích và thành tích
khoa bảng của dòng họ Vũ là rất lớn, nhưng rất tiếc, công trình chưa chỉ ra
được giá trị khuyến học của dòng họ Vũ - Võ Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và 56 năm giải
2
phóng Thủ đô (1954 - 2010), một loạt công trình nghiên cứu về Thăng Long -
Hà Nội đã được xuất bản, có nhiều cuốn sách rất có giá trị cho việc tìm hiểu
truyền thống khoa bảng của Hà Nội xưa. Đó là cuốn: Các làng khoa bảng
Thăng Long - Hà Nội của Bùi Xuân Đính – Nguyễn Viết Chức [3], Giáo dục
và khoa cử nho học Thăng Long Hà Nội của Bùi Xuân Đính [4] ... Đây là các
công trình nghiên cứu công phu về giáo dục, thi cử Nho học và các nhà khoa
bảng Thăng Long - Hà Nội xưa, đã cung cấp được một số tư liệu về một số
dòng họ gốc xứ Thanh đã vinh hiển ở Thăng Long – Hà Nội, nhưng chưa đề
cập đến việc sinh hoạt văn hóa dòng họ.
Cuốn Những biến đổi văn hóa dòng họ người Việt thời kì đổi mới và
hội nhập quốc tế (nghiên cứu trường hợp dòng họ Bùi ở Thịnh Liệt, Hà Nội)
do Nguyễn Quang Lê chủ biên (2018) [6]. Công trình đã chỉ ra vị trí, vai trò
và tầm quan trọng của văn hóa dòng họ người Việt trong bối cảnh xã hội
đương đại, giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ tương giao
giữa văn hóa dòng họ người Việt với văn hóa làng xã/phường trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập quốc tế; cùng với sự biến đổi văn hóa dòng họ trong bối
cảnh chung của sự vận động biến đổi văn hóa làng xã/phường từ khi đất nước
tiến hành sự nghiệp Đổi mới đến nay.
Ngoài một số công trình trên, có thể thấy hiện nay, trong các bản gia
phả, văn bia dòng họ, trên các trang báo giấy, báo hình và đặc biệt trên nhiều
trang mạng Internet đã xuất hiện nhiều tư liệu, bài viết, nghiên cứu của các tác
giả đã đề cập đến văn hóa dòng họ, truyền thống học hành thi cử và đỗ đạt của
một số dòng họ, địa phương. Cũng có các bài viết về dòng họ, về các danh dân
của dòng họ Nguyễn Quý ở phường Đại Mỗ nhưng hầu hết chỉ dừng lại ở mức
độ phát hiện và đưa tin, tuyên truyền về sự kiện chứ chưa đưa ra được những
nhận xét mang ý nghĩa khoa học về sinh hoạt văn hóa dòng họ ở đây.
3.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu giá trị văn hoá dòng họ Nguyễn Quý nhằm góp phần làm
sáng tỏ những đặc trưng của văn hóa dòng họ này, từ đó góp phần bảo tồn và
3
phát huy giá trị văn hóa dòng họ nói chung và dòng họ Nguyễn Quý (phường
Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội) nói riêng trong bối cảnh toàn
cầu hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu các khía cạnh của văn hoá dòng họ Nguyễn Quý
tại phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, bao gồm yếu tố
vật thể và văn hóa phi vật thể cùng với những đặc trưng của những yếu tố văn
hóa đó.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu các yếu tố văn hóa
vật thể và phi vật thể của dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ.
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Khóa luận nghiên văn hóa dòng
họ Nguyễn Quý tại địa bàn phường Đại Mỗ (quận Nam Từ Liêm, thành
phố Hà Nội).
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu văn hóa dòng họ
Nguyễn Quý trong thời gian từ năm 2015 đến nay.
5.Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cơ bản:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Dựa trên những những số liệu, tài
liệu, tài liệu thu thập được, tác giả sử dụng những tài liệu đã được công bố
làm nguồn thông tin tham khảo phục vụ cho việc viết khóa luận.
- Phương pháp nghiên cứu điền dã: Tác giả xác định đây là một trong
những phương pháp quan trọng góp phần lớn cho khoá luận. Tác giả đã thực
hiện chuyến điền dã đến tận hiện trường để thực hiện quan sát, phỏng vấn và
ghi chép lại thông tin từ thực địa để sử dụng trong đề tài.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Dựa trên những thông tin thu thập
được từ các chuyến điền dã, khảo sát thực địa và thông tin từ các nguồn tài
4
liệu, tác giả đã tiến hành phân tích, xử lý phục vụ cho việc hoàn thành
khóa luận.
6. Đóng góp của khóa luận
Từ những kết quả nghiên cứu trong đề tài, khóa luận góp phần đề xuất
các giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của dòng họ Nguyễn
Quý tại địa phương (phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung khoá luận chia làm ba chương:
Chươg 1: Tổng quan về văn hóa dòng họ và khái quát về dòng họ
Nguyễn Quý, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Chương 2: Giá trị văn hoá dòng họ Nguyễn Quý phường Đại Mỗ, quận
Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Chương 3: Đóng góp của dòng họ Nguyễn Quý trong xây dựng đời
sống văn hóa tại phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA DÒNG HỌ VÀ KHÁI QUÁT VỀ DÒNG
HỌ NGUYỄN QUÝ, PHƢỜNG ĐẠI MỖ, QUẬN NAM TỪ LIÊM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1.Tổng quan về văn hóa dòng họ
1.1.1.Các khái niệm
1.1.1.1.Dòng họ
Cho đến hiện nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
định nghĩa về dòng họ người Việt. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ninh
Viết Giao đưa ra quan niệm: “Dòng họ hay gia tộc là sự mở rộng của một gia
đình. Sự mở rộng này không chỉ nằm trong một làng, một xã, một huyện hay
một tỉnh mà có khi cả toàn quốc. Dòng họ hay gia tộc phải do một ông tổ sinh
ra thường được gọi là Thủy tổ. Từ một ông Thủy tổ, trong quá trình sinh sôi,
phát triển, một dòng họ, một gia tộc được chia làm nhiều ngành, nhiều chi.”
[7, tr.22]. Tác giả Phan Đại Doãn cho rằng dòng họ là tập hợp của những
thành viên có cả liên kết chiều dọc và bề ngang, trong đó chiều dọc theo
huyết thống mang ý nghĩa quyết định: “Theo nghĩa rộng thì dòng họ, ngoài
mối liên hệ ngang lại có mối liên hệ dọc đứng đến 9 đời: Cao - Tằng - Tổ -
Phụ - Thân - Tử - Tôn - Tằng - Huyền”[2] (Kỵ - Cụ - Ông - Cha - Tôi - Con -
Cháu - Chắt - Chút). Còn theo nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh: “Dòng họ là
một thực thể xã hội mang tính phổ quát của loài người. Nó hình thành trên cơ
sở quan hệ huyết thống của một quần thể người nhất định thể hiện qua ý niệm
về dòng dõi từ một ông tổ chung. Do vậy, dòng họ là một thực thể vừa mang
tính sinh học, vừa mang tính xã hội. Nó xuất hiện từ rất sớm trong xã hội loài
người, trở thành một nguyên lý cố kết giữa các con người sớm nhất, rồi biến
đổi qua các thời đại và tồn tại cho đến ngày nay...” [9, tr.46].
Tổng hợp các quan niệm trên, tác giả khóa luận đưa ra khái niệm về
dòng họ như sau: Dòng họ là tập hợp của những thành viên có cùng một tổ
tiên (hay dòng máu hay huyết thống; trong chế độ phụ hệ được biểu tượng
6
bằng một ông tổ (thủy tổ, khởi tổ, triệu tổ v. v..), gắn kết các cá nhân với
nhau, chịu sự ràng buộc theo một quy tắc nhất định; chi phối mạnh mẽ quan
hệ hôn nhân và gia đình.
1.1.1.2.Văn hóa dòng họ
Có nhiều quan niệm về văn hóa dòng họ. Tác giả Ninh Viết Giao cho
rằng “Văn hóa của một dòng họ không chỉ là vấn đề học hành, thi cử, đỗ đạt,
khoa bảng, khảo cứu học thuật, văn chương … mà còn là vấn đề ứng xử đạo
đức, sinh hoạt, ngôn từ, lao động… và văn hóa trước hết là sản phẩm của cá
nhân, đặc biệt là cá nhân lỗi lạc…” [7 - tr.142]. Theo Ngô Đức Thịnh “Dòng
họ, văn hóa dòng họ còn đồng nghĩa với sự đa dạng văn hóa, bản sắc văn hóa,
một nhân tố động lực thức đẩy sự phát triển văn hóa và xã hội Việt Nam…”
[9- tr.47]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú cho rằng “Chính nó (văn hóa
dòng họ) cũng là một thực thể văn hóa…” [9- tr.113]. Còn theo tác giả
Nguyễn Quang Lê: “Văn hoá dòng họ nghĩa là một bộ phận của văn hoá dân
tộc, là toàn bộ hoạt động sống và tâm linh của một dòng họ và trung tâm của
nó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bao gồm trong đó có ba phạm trù, với giá trị
vật chất/vật thể và những giá trị tinh thần/phi vật thể do cộng đồng dòng họ
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn” [6, tr.24]. Có thể thấy
mặc dù có những quan niệm khác nhau về văn hóa dòng họ nhưng điểm
chung các quan niệm đều nhấn mạnh văn hóa dòng họ chính là sáng tạo văn
hóa của các cá nhân trong dòng họ. Trong phạm vi của khóa luận, tác giả
chọn khái niệm văn hóa dòng họ của tác giả Nguyễn Quang Lê, vì khái niệm
này phù hợp với vấn đề nghiên cứu của đề tài. Vận dụng quan niệm này, tác
giả xem xét và đánh giá các khía cạnh sinh hoạt văn hóa dòng họ Nguyễn Quý
ở phường Đại Mỗ (quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).
1.1.1.3.Sinh hoạt văn hóa dòng họ
Nếu sinh hoạt là những hoạt động thuộc về đời sống hằng ngày của một
người hay một cộng đồng người thì sinh hoạt văn hóa là lĩnh vực hoạt động
đặc thù trong tổng thể sinh hoạt chung của con người. Nó cũng là tổng thể các
7
hoạt động văn hoá đang diễn ra trong đời sống, tạo ra khuôn mặt văn hoá sinh
động, cụ thể, với những đặc trưng khác biệt về loại hình, tính chất, quy mô,
tần suất diễn hành... trong các nền văn hoá đương thời.
Văn hoá dòng họ như đã nêu trên, là tập hợp các hoạt động, sáng tạo
các giá trị vật chất lẫn tinh thần của cộng đồng cùng huyết thống có tính đặc
thù.Vì vậy, sinh hoạt văn hoá dòng họ có thể hiểu là những hoạt động thường
diễn ra của cộng đồng có cùng huyết thống, ở đó các thành viên trong dòng
họ cùng sáng tạo ra những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của dòng họ.
1.1.2.Các yếu tố cấu thành văn hóa dòng họ
Văn hóa dòng họ được cấu thành bởi nhiều yếu tố. Trong phạm vi khóa
luận, tác giả xác định hai yếu tố chủ đạo cấu thành văn hóa dòng họ là các yếu
tố văn hóa vật thể (như ruộng họ, nhà thờ, mộ tổ,..) và các yếu tố văn hóa phi
vật thể (như tổ chức hoạt động giỗ chạp, tế lễ, quy ước dòng họ, các hoạt
động khuyến học, khuyến tài).
1.1.2.1.Các yếu tố văn hóa vật thể
- Từ đường: hay còn gọi là nhà thờ tổ, nhà thờ họ. Đây chính là nơi thờ
cúng vị thủy tổ của một dòng họ tại một cộng đồng dân cư. Từ đường là nơi
con cháu dòng họ lập nên để thờ vọng, hương khói cho tổ tiên, nơi diễn ra các
hoạt động tâm linh của dòng họ. Nhà thờ họ thường giao cho con trưởng,
ngành trưởng, ngành đích cai quản và là tài sản chung của dòng họ, không ai
có quyền bán, nhượng. Những dòng họ lớn chia thành nhiều chi thì bên cạnh
nhà thờ họ (thờ tổ họ) còn nhà thờ chi họ (thờ tổ chi), cũng giao cho ngành
trưởng của chi họ cai quản.
Về mặt kiến trúc, thông thường nhà thờ họ đường thiết kế theo kiểu
hình chữ đinh, gồm có tòa đại bái 3 gian hoặc 5 gian, gắn liền với hạng mục
hậu cung. Nhiều dòng họ lớn với có nhiều người thành đạt còn xây dựng được
các nhà thờ hoành tráng 5 gian, 7 gian, với các kiểu kiến trúc khác nhau như
chữ nhị, chữ tam hay chữ công,...Nhà thờ họ ở nông thôn phản ánh sự phát
8
triển của làng xã, các dòng họ trong làng, phản ánh truyền thống học hành
thành đạt của làng, đồng thờ là nơi lưu giữ nhiều tư liệu quan trọng để tìm hiểu
về làng xã, các danh nhân, lịch sử đất nước…
- Mộ: Là cách gọi chung nơi chôn cất các bậc vương giả, hoàng tộc thời
xưa, sau chỉ chung là nơi chôn người chết.
- Mộ tổ: là nơi chôn cất thủy tổ của dòng họ, bao gồm mộ tổ ông và tổ
bà. Ban đầu phần lớn những ngôi mộ này đều được đắp bằng đất (cá biệt có
thủy tổ dòng họ làm quan to có thể tự xây lăng mộ bằng đá cho mình trước
khi qua đời) về sau được con cháu tu tạo, xây lại bằng chất liệu gạch, đá, đặc
biệt là vài chục năm từ sau Đổi mới (1986) trở lại đây, khi mà điều kiện kinh
tế của đất nước phát triển và sinh hoạt văn hóa dòng họ có nhiều khởi sắc.
- Gia phả dòng họ, hay còn gọi là tộc phả: Gia phả là bản ghi chép tên
họ, tuổi tác, ngày giỗ, vai trò và công đức của cha mẹ, ông bà, tiên tổ và mộ
phần của một gia đình lớn hay một dòng họ. Gia phả có thể được coi như một
bản sử ký của một gia đình hay một dòng họ. Gia phả có khi gọi là Phổ ký, có
khi là Phổ truyền. Các nhà Tông thất (dòng dõi vua quan) gọi gia phả của vương
triều mình hay gia tộc mình bằng từ ngữ trân trọng hơn: Ngọc phả, Thế phả...
Tại Việt Nam, gia phả sơ giản ghi chép tên cúng cơm, ngày giỗ và địa
điểm an táng của ông cha. Theo các nhà sử học thì gia phả đã xuất hiện từ
thời Sĩ Nhiếp làm Thái thú ở Giao Chỉ, hoặc gần hơn tức là từ thời Lý Nam
Đế (khoảng nǎm 503-548). Nhưng phải đến thời nhà Lý, nhà Trần mới xuất
hiện những cuốn tộc phả, thế phả (ghi cả thế thứ, tông tích toàn họ), phả ký
(ghi lại hành trạng, sự nghiệp của tổ tiên). Mới đầu gia phả xuất hiện chỉ trong
Hoàng tộc cùng giới quan lại, nhà Lý có Hoàng Triều Ngọc Điệp - năm 1026;
nhà Trần có Hoàng Tông Ngọc Điệp, nhà Lê có Hoàng Lê Ngọc Phả... Cùng
với sự xuất hiện các gia phả của Hoàng tộc là gia phả của các danh gia, quan lại
và cứ thế lan rộng, phổ biến ghi chép gia phả trong nhân dân.
Trong gia phả, người đứng đầu ngành trưởng (trưởng họ, trưởng tộc) có
bổn phận ghi hết những chi tiết về thân thích và dòng dõi; những người con
9
khác sao lại bản gia phả chính đó. Các gia đình giữ gìn kỹ lưỡng và truyền từ
đời cha tới đời con.
Trước đây, gia phả chủ yếu được ghi chép bằng chữ Hán, chữ Nôm,
nhưng qua nhiều năm chiến tranh, nhiều bộ gia phả của các dòng họ cũng mất
dần...Hiện nay, có nhiều dòng họ vẫn giữ được gia phả bằng chữ Hán, chữ
Nôm và đã tiến hành dịch ra chữ quốc ngữ, đồng thời tổ chức viết tiếp tộc
phả, vẽ sơ đồ hệ phả về thế thứ các đời, các chi.
- Quỹ họ: Là tài sản mà các thành viên trong dòng họ đóng góp vào để
chi cho các hoạt động cho dòng họ. Quỹ họ được gây dựng bằng tiền, thóc
của dòng họ thường giao cho trưởng họ hoặc hội đồng gia tộc quản lý và được
công khai các khoản chi tiêu vào dịp giỗ họ, chạp họ.
- Ruộng họ, là phần ruộng “Ruộng hương hoả”, ruộng dành riêng giao
cho tộc trưởng (trưởng họ) lo việc phụng thờ hương khói cho cha ông, tổ tiên.
Ruộng hương hoả lưu truyền từ đời này sang đời khác. Ruộng hương hoả
không được chia, không được bán. Luật phong kiến cấm bán ruộng hương
hoả. Chỉ khi nào trưởng họ không có con nói dõi tông đường hoặc đi biệt xứ
xa quê, họ khuyết tộc trưởng thì người con trưởng hoặc đích tôn thừa trọng
của chi thứ hai lên thay, tiếp tục hưởng ruộng hương hoả và lo việc giỗ tết
hương khói tổ tiên. Trường hợp toàn bộ con cháu trong họ đều phiêu bạt khỏi
quê hương (con gái không được tính đến) thì người cuối cùng đang hưởng
hương hoả nếu có khó khăn đặc biệt làm đơn xin bán. Lý trưởng nào làm sai
luật lệ trên sẽ bị quan xử phạt, nếu trong họ có người thưa kiện.
Vì có ruộng hương hỏa nên việc tế tự được duy trì bền vững, dù họ lớn
hay nhỏ, có học hay ít học, dù tộc trưởng giàu hay nghèo, sang hay hèn, già
hay trẻ (có khi mới chỉ là đứa bé con năm bảy tuổi), việc tế tự vẫn phải được
tiến hành uy nghi đông đủ. Sau cách mạng tháng Tám (1945), ruộng hương
hỏa không còn. Ngày nay, việc duy trì sinh hoạt của dòng họ chủ yếu dựa vào
tiền đóng góp của các thành viên trong họ. Tiền quỹ họ được sử dụng vào
nhiều mục đích và hoạt động khác nhau như tổ chức giỗ họ, chạp họ, thăm hỏi
10
ốm đau, mừng thọ người cao tuổi, khuyến học khuyến tài,..
1.1.2.2.Các yếu tố văn hóa tinh thần
- Giỗ họ: Là sinh hoạt lớn nhất, quan trọng và linh thiêng nhất của dòng
họ, được tổ chức vào ngày mất của thuỷ tổ (cả cụ tổ ông và cụ tổ bà) hoặc
ngày mất của tổ chi họ (giỗ tổ chi). Vào ngày này, trưởng họ phải sắm sửa lễ
vật để dâng cúng lên ban thờ gia tộc, các thành viên đều đến chi trưởng góp
giỗ. Con cháu tập trung đông đủ tại nhà thờ họ để làm lễ tổ, sau đó ăn cỗ, gọi
là thụ lộc. Truyền thống của các dòng họ ở Việt Nam con cháu dù đi làm
ăn xa ở đâu, đến ngày giỗ tổ đều phải về tham dự ngày giỗ tổ.
- Quy ước dòng họ: Là những quy định dòng họ đưa ra để duy trì
sinh hoạt mà các thành viên trong dòng họ phải tuân thủ và chấp hành.
Quy ước dòng họ có thể được thực hiện bằng phong tục, bằng miệng,
nhiều dòng họ lớn có quy ước được viết thành văn bản.
Ngoài gia phả và quy ước, các hoạt động sinh hoạt tại dòng họ như
tế lễ, giỗ chạp, các hoạt động ứng xử giữ các thành viên trong họ, tổ chức
thăm hỏi người ốm đau, mừng thọ người cao tuổi, viếng người qua đời,
khuyến học khuyến tài cũng được xếp vào văn hóa tinh thần của dòng họ.
- Lễ nghi: Lễ nghi là một hệ thống các nghi lễ, hành vi, động tác,
quy định nhằm thể hiện sự tôn kính đối với tổ tiên. Lễ nghi không chỉ bao
gồm các quy chuẩn về động tác lễ bái, tế tự, văn tế, mà còn là các quy định về
lễ vật mà dòng họ thành kính dâng lên tổ tiên trong các dịp giỗ chạp.
- Truyền thống dòng họ: Là sự trao truyền và kế nối, phát huy
những giá trị tốt đẹp của mỗi dòng họ trong chiều dài lịch sử. Ở Việt
Nam, có nhiều dòng họ trong quá trình sinh cơ lập nghiệp, đã tạo dựng
nên những truyền thống rất tốt đẹp, trở thành tiêu biểu và có những đóng
lớn cho sự phát triển của mỗi làng quê, vùng miền và đất nước. Có thể kể
đến truyền thống hiếu học, khoa bảng nổi tiếng của các dòng họ như: họ
Nguyễn làng Nguyệt Áng (huyện Thanh Trì), họ Ngô làng Tả Thanh Oai
(Huyện Thanh Trì), họ Phạm làng Đông Ngạc, họ Nguyễn làng Phú Thị
11
(đều thuộc địa phận Hà Nội hiện nay), họ Nguyễn làng Vịnh Kiều (huyện
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), họ Vũ làng Mộ Trạch (huyện Bình Giang, tỉnh
Hải Dương)...
1.1.3. Tổ chức dòng họ
Dòng họ ở Việt Nam được tổ chức theo hai nguyên lý :
- Nguyên lý trưởng đích (chi trưởng, ngành trưởng được tôn trọng
(“Xanh đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà chú” -Tục ngữ).
- Nguyên tắc cửu tộc (chín đời, gồm 4 đời trên và 4 đời dưới của một cá
nhân), quan hệ với nhau theo nguyên tắc “Họ chín đời hơn người dưng”
(“Cửu đại hơn ngoại nhân”).
Trong sinh hoạt dòng họ, trưởng tộc và các chi trưởng cùng các bậc cao
tuổi trong họ quyết định các công việc trong họ. Dòng họ duy trì các mối
quan hệ huyết thống trên tinh thần “giọt máu đào hơn ao nước lã”, “họ chín
đời hơn người dưng” thông qua gia phả (sổ ghi chép về lai lịch từng người
của các đời thuộc các chi họ để nhận biết nhau và ứng xử với nhau), nhà thờ
họ, ruộng họ, quỹ họ và ngày giỗ họ.
Họ của người Việt từ lâu đã không còn là một đơn vị sản xuất, đơn vị
kinh tế mà đã phân thành các gia đình nhỏ (tiểu gia đình phụ quyền) với thân
phận kinh tế- xã hội riêng (“Anh em kiến giải nhất phận”). Song dòng họ tồn
tại như một sức mạnh tâm lý.
Đối với các công việc trong làng, họ không đóng một vai trò nào cả,
song với sự cố kết về tâm lý huyết thống, dòng họ nổi lên là một tổ chức chi
phối đời sống cộng đồng khi trong làng có các cặp họ đối lập: chính cư - ngụ
cư; giàu - nghèo; đông đinh - ít đinh; có học - ít học v. v. Sự cố kết trong nội
bộ dòng họ rất lớn thì sự liên kết giữa các dòng họ lại suy giảm. Vì thế, năm
1921, người Pháp lấy dòng họ để tổ chức lại bộ máy làng xã song đã thất bại
do đánh giá sai về dòng họ [3]
12
2.Khái quát về dòng họ Nguyễn Quý tại phƣờng Đại Mỗ, quận
Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
2.1.Vài nét về mảnh đất và con người Đại Mỗ
Đại Mỗ ngày nay là một phường thuộc quận Nam Từ Liêm có diện tích
4,98 km2, cư dân đông đúc. Đại Mỗ được hình thành từ lâu là một làng cổ
nằm tại phía Tây Nam cách trung tâm Hà Nội 20km. Phường tiếp giáp với các
phường thuộc Nam Từ Liêm: Phía bắc là phường Tây Mỗ, Phía đông là
phường Trung Văn và Mễ Trì, phía tây là phường Dương Nội thuộc quận Hà
Đông. Đại Mỗ có vị trí giao thông thuận lợi đường 72 từ Quận Hà Đông đi Quốc
Oai và đường 70 từ Hà Đông đi Nhổn đều phải đi qua phường Đại Mỗ.
Trước thời vua Minh Mạng năm 1820 - 1840 nơi đây còn có tên là
Thiên Mỗ thuộc phạm vi của kinh thành Thăng Long xưa, Thiên Mỗ (hiện
nay là Đại Mỗ) có 4 thôn: Thôn Đình, Thôn Ngang, Thôn Tháp và Thôn Chợ.
Nghề truyền thống của vùng Đại Mỗ là nghề tơ lụa, nghề này có từ thời nhà
Hồ (1400 - 1407): “ Lĩnh Mỗ, the La”, ngoài ra nhân dân trên địa bản cũng
chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Tại đây có 10 dòng họ, 8 nhà thờ, họ đông nhất
là họ Nguyễn Quý, Nguyễn Công, Nguyễn Văn, Nguyễn Đình, Ngô, Lê ….
Đại Mỗ phía đông có một con sông Nhuệ, phía tây là chợ và cầu Triền,
chính giữa là cầu Đống Điếm và các ngõ hình răng lược đi theo hướng Bắc -
Nam. Tại đây có di tích lịch sử văn hoá là Đình làng và nhà thờ Tam Đại
Vương của dòng họ Nguyễn Quý. Nhìn lại lịch sử đây là mảnh đất sinh ra
những người con hiếu học. Đất lụa, làng The, xóm Lĩnh xa xưa đã sản sinh ra
những danh nhân một thời nổi bật nhất là cụ Nguyễn Quý Đức 29 tuổi đã đỗ
Thám hoa “Khoa thi Bính Dần năm 1676 làm nên tề tướng thời vua Lê Huy
Tông”. Kế thế đăng khoa, kế thế làm sư phó con của cụ Nguyễn Quý Đức là
cụ Nguyễn Quý Ân đỗ hoàng dáp quốc sư công vị đại vương năm 1716 là
Hữu Tư Giảng, dạy thế tử Trịnh Giang,. Cháu của cụ Nguyễn Quý Đức là cụ
Nguyễn Quý Kính cũng đỗ đạt khoa bảng làm tới chức tham tụng lễ bộ
thượng thư đến khi cụ quy tiên được sắc phong thành hoàng làng được thờ
13
cùng thuỷ hải long vương nên tại đây thờ một danh thần, ba nhân thần, tổng
có 34 sắc phong còn cả nên mang bức hoành: “Tứ thánh nhất tâm” (Một lòng
phụng thờ bốn vị thánh). Thời kì nào Đại Mỗ cũng sinh ra những người con
ưu tú, noi gương các vị tiền liệt của vùng. Phát huy truyền thống yêu nước,
đoàn kết, trong các cuộc kháng chiến, nhân dân Đại Mỗ đã tham gia kháng
chiến, nuôi du kích, nhiều người con của mảnh đất Đại Mỗ tham gia chống
thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược. Nhân dân tại đây luôn ghi nhớ
và biết ơn những cống hiến của họ cho quê hương, đất nước. Bên cạnh những
truyền thống hiếu học, yêu nước mà cha ông để lại những người con của Đại
Mỗ còn cần cù, tương thân, tương ái, năng động, sáng tạo. Đời sống nhân
dân văn minh, tiến bộ, xây dựng khang trang, sạch đẹp.
2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của dòng họ Nguyễn Quý tại
phường Đại Mỗ
Theo gia phả của Dòng họ Nguyễn Quý hiện được lưu trữ tại phường
Đại Mỗ thì thuỷ tổ của của dòng họ là cụ Nguyễn Phúc Tâm, là người làng
Dũng Quyết (thuộc tỉnh Bắc Ninh) cụ làm nghề buôn bán và làm ruộng. Cụ là
người đầu tiên chuyển cư tới làng Thiên Mỗ ( hiện nay là phường Đại Mỗ) .
Từ đời cụ Nguyễn Phúc Tâm qua ba đời, họ Nguyễn làng Thiên Mỗ chỉ
có một đinh. Tới đời thứ tư là cụ Nguyễn Quý Cường (tự Phúc Chỉ) đã sinh ra
hai người con là cụ Nguyễn Quý Tinh và Cụ Nguyễn Quý Đức từ đó thế “độc
đinh” bị phá vỡ, cũng từ đó họ Nguyễn Quý hình thành hai chi lớn:
+ Chi trưởng Nguyễn Quý Tinh
+ Chi thứ Nguyễn Quý Đức
Từ đây họ Nguyễn Quý sinh sôi nảy nở đông đúc, dòng họ không chỉ
phát triển về mặt dân số mà còn phát triển về học hành và hoạn lộ.
Cũng theo gia phả dòng họ Nguyễn Quý có thể thấy hiếm có gia đình
nào trong các triều đại lịch sử Việt Nam có ba đời tiếp nối đều là phúc thần.
Ấy vậy mà dòng Họ Nguyễn Quý có ba bố con ông cháu “kế thế đăng khoa,
kế thế làm sư phó, kế thế làm Đại vương, kế thế thượng đẳng phúc thần”.
14
Cụ Nguyễn Quý Đức là con thứ hai của cụ đô Đài Ngự sử Nguyễn Quý
Cường. Cụ sinh ngày 19/3 năm Mậu Tý (1648), niên hiệu Phúc Thái thứ 6.
Cụ mất ngày 14/5 năm Canh Tí (1720) niên hiệu Bảo Thái thứ 1 thọ 73 tuổi
Là gương mặt sang ngời trên chính trường Đại Việt cuối thế kỷ XVII đầu thế
kỷ XVIII.
Về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Quý Đức (Thám hoa Quốc
lão Đại Vương), cụ sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, bố mẹ cụ hàng
ngày đi bán dầu, bán than để kiếm sống. Khi cụ sinh ra mặt mũi khôi ngô tuấn
tú, mỗi tay đều có một nốt ruồi đỏ, khi lớn lên cụ rất thông minh, đọc rộng
hiểu nhiều. Năm 16 tuổi cụ đỗ Hương cống (cử nhân). Năm 23 tuổi cụ vào
Ban Thị nội Văn chức. Năm 28 tuổi cụ đi thi Hội trúng Đình Nguyên Thám
Hoa khoa Bính Thìn đời vua Lê Hy Tông.
Trong cuộc đời làm quan của mình cụ đã được giữ nhiều trọng trách
trong Triều đình Nhà Lê. Trong hơn 40 năm làm quan cụ luôn là một vị quan
thanh liêm, bình dị, tận tuỵ với công việc. Cụ đã có nhiều đóng góp lớn lao cho
việc trị quốc an dân đối với Triều đình nhà Lê, với đất nước, dân tộc. Tháng 8
năm 1686 cụ được cử làm Thiêm Đô Nghị Sử.Tháng 5 năm 1690 Triều đình
cử cụ làm Chánh sứ dẫn đầu đoàn Sứ bộ sang Trung Quốc nộp thuế cống. Lần
đi sứ này cụ đã dùng mọi lý lẽ hợp tình hớp lý để biện bạch về những tệ nạn
thường xảy ra giữa biên giới hai nước. Vua nhà Thanh nghe phải khen cụ là
bậc lương sứ (sứ giả tốt). Trong dịp này cụ đã viết cuốn “Hoa Trình Thi Tập”
(tập thơ trên đường đi sứ sang Thanh). Tập thơ này Triều đình Nhà Thanh tán
thưởng. Vua nhà Thanh sau khi đọc xong đã phong tặng cụ bốn chữ Hoa
Quốc Văn Chương (Văn chương làm đẹp đất nước). Về nước cụ dâng tập thơ
lên cho vua Lê xem. Vua Lê đã phê vào tập thơ bốn chữ Quốc Trâu Bảo Gia
(tài sản quý của gia đình, châu báu của đất nước).
Tháng 7 năm 1695 cụ được cử làm Đô Nghị Sứ. Tháng 8 năm 1696 cụ
bị giáng xuống làm Binh Bộ Tả Thị Lang. Năm 1697 (Đinh Sửu) Vua Lê Hy
Tông cử cụ Nguyễn Quý Đức vào nhóm Lê Hy Toản Tu và Tra Biên Quốc Sư
15
(Bộ Đại Việt Sử ký toàn thư) rồi cho khắc văn án, cụ viết bài tựa cho tập sách
“Trong sử phải nêu được việc hay việc dở mà công khai khen chê rõ ràng.
Được lời khen của sử hơn cả vinh dự được Vua ban áo đẹp. Bị lời chê của sử
nặng hơn cả búa rìu. Sử thật là cái cân, cái gương để lại muôn đời sau”.
Tháng 12 năm 1698 cụ được phong làm Lại Bộ Tả Thị Lang
Năm 1708 cụ được cử làm Binh Bộ Thượng Thư
Năm 1709 cụ được cử lên làm Tham tụng, Tể Tướng
Năm 1713 cụ được phong làm Thiếu phó
Trong 10 năm làm việc ở Quốc Tử Giám cụ đem hết tâm lực vào viết
giáo dưỡng mở mang nền văn tự cho nước nhà. Khi Quốc Tử Giám xuống cấp
cụ xin Vua cho đứng ra trùng tu sửa chữa, mất gần hai năm (1716-1717) mới
hoành thành tốn phí đến rất nhiều quan tiền, mà tiền Vua ban chỉ có 1000
quan, còn thiếu bao nhiêu cụ đã bỏ tiền riêng ra để quên góp cho đủ kinh phí.
Cụ chỉ đạo trực tiếp việc dựng 21 tấm bia tiến sĩ (trong số 82 bia tiến sĩ được
dựng tại Quốc Tử Giám)
Nhà sử học Phan Huy Chú ghi nhận nhân cách lớn của cụ trong sách
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí
“Ông là một người khoan hậu, trầm tĩnh. Ngày thường tiếp ai thì dễ
dàng vui vẻ. Nhưng khi bàn lận chính sự trước vua chúa việc gì chưa được
thoả đáng, ông giữ ý kiến của mình, vài bốn lần không ai ngăn được. Ông làm
văn không cầu trau chuốt mà ý tứ vẫn sâu sắc. Triều đình có chế tài gì quan
trọng phần lớn do tay ông soạn thảo. Ông là Tể tướng 10 năm liền, về chính
sự chuộng khoan hoà và trung hậu. Đán hậu tiến phần nhiều do ông cất nhắc.
Việc sửa sang nhà Thái học và dựng bia Tiến sỹ đều do đích thân ông trông
nom đến khi xong. Bàn về ông ai cũng khen ngợi, Triều đình tặng Thôi tể truy
phong Đại Vương” [1, tr.230]
Nhà bác học Lê Quý Đôn cũng từng viết:
“Ông thích nghiêm nghị và trọng hậu, lại có độ lượng. Ở ngôi Tể
Tướng hơn 10 năm ông thảo ra pháp chế rất là rõ ràng, ông dìu dắt những ai
16
có tài năng thật là một vị thái bình danh Tể Tướng” [11]
Nguyễn Quý Đức là một người có nhiều đóng góp cho dân tộc cho
nhân dân, có nhiều chủ trương chính sách khoan dân tiến bộ, cụ còn là người
có có tấm lòng yêu quê hương da diết, cụ có những đóng góp không nhỏ cho
địa phương, làng xã về mọi phương diện.
Khi nào cụ cũng hết lòng giáo dưỡng dân sinh, cụ lấy hơn mười mẫu
ruộng. Ruộng tốt đã quân cấp cho 8 dáp và 3 thôn hưởng ân lộc, lại đem 4
mẫu đất tự lập thành chợ Khánh Nguyên (chợ Mỗ ngày nay) cho dân làng và
các nơi khác đến buôn bán, mỗi tháng 12 phiên, rất là đông đúc và còn có cả
chỗ bán cả trâu, bò. Cụ sửa cho làng một quyển hương ước khoa, đã ra tục lệ
giản dị, nhất là tế lễ, ma chay không phải phiền phức. Vua Lê lúc ấy xem tỏ
lời khen ngợi ban cho Thiên Mỗ bốn chữ “ Mỹ tục khả phong”.
Năm 1717 cụ Nguyễn Quý Đức xin về trí sĩ vì già yếu và cụ mất tại quê
nhà vào ngày 14 tháng 5 năm 1720 (Canh Tý). Sau khi cụ mất Triều đình cử
ông Quan Trung sứ về lo việc ma chay và truy tặng chức Thái Tể Đại tư
không, đặt tên thay cho cụ là Trịnh Mục, truy cụ là Đại Vương và sắc cho dân
Thiên Mỗ (Đại Mỗ) thờ phụng cụ là Phúc Thần.
Về cuộc đời và sự nghiệp cụ Nguyễn Quý Ân (Hoàng Giáp Quốc Sư
Đại Vương).Cụ Nguyễn Quý Ân là con trưởng của cụ Nguyễn Quý Đức, thuở
nhỏ cụ lĩnh ngộ khác thường năm 6,7 tuổi cụ đã thong hiểu luật thơ, người
đương thời khen cụ là bậc tài tử về học vấn.
Năm 21 tuổi cụ thi lần đầu đỗ liền Hương Cống hạng 4
Cụ đỗ liền hai khoa sĩ vọng nổi tiếng văn chương trong nước thời bấy
giờ. Sau khi đỗ đạt cụ được tuyển làm văn chức thị nội. Sau thăng thống
chính phó sứ.
Năm 1713 (Năm Vĩnh Thịnh thứ 9) cụ được cử phát chẩn cho dân các
huyện Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú Xuyên, Thanh Oai bị mất mùa đói kém.
Trong công việc tỏ ra rất sang suốt, công bằng nhân ái, khiến dân sở tại
mẫu nguyện cùng nhau dâng sớ ca ngợi công đức của cụ với Triều Đình.
17
Năm 1715 (Năm Ất Mùi) cụ Đỗ Đình Nguyên Hoàng Giáp. Sau đó
được thăng chức Hàn Lâm Viện Hiệu Lý.
Kiên tri thị nội thử tả binh phiêu. Trong thời gian này cụ đòi tham gia
soạn văn bia trong đợt dựng 21 tấm bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu.
Năm 1717 (Đinh Dậu) cụ được thăng chức Bồi Tụng. Cụ được coi là
người có tài đức tiền hậu phó.
Cụ Nguyễn Quý Ân là người nổi tiếng về tài bút thiếp, viết vào dạng tốt
nhất lúc bấy giờ. Cụ có tập thiếp “Thiên tự văn và tứ thứ đại chư” cho sĩ tử
trong nước tập chữ và lưu ở bí thư các. Người đời ca ngợi chữ viết của cụ
rằng “Tâm chính tắc bút chích” (Lòng ngay thắng ắt ngòi bút rộng mở).
Năm 1718 Vua cho tổ chức cuộc thi cho các bách quan soạn sách dạy
hoàng tử và thế tử học, trong cuộc thi này cụ chiếm giải nhất, trong cuộc thi
thơ “Đề Văn Miếu và vịnh phong cảnh núi Dục Thúy” do nhà Vua tổ chức cụ
cũng đều trúng giải nhất và được khen thưởng. Sau đó cụ được thăng chức về
Hình Giám Sát Ngự Sử, trong công việc cụ sử án rất công bằng chính chực,
khiến không ai bị hàm oan. Cụ nổi tiếng là vị quan toà rất nghiêm minh.
Năm 1719 Triều đình khảo sát chính tích trăm quan, cụ được ban
Thương Trùng.
Khi cụ Nguyễn Quý Đức mất, khi đó cụ Nguyễn Quý Ân đang ở tuổi
48 xin về quê nhà chịu tang cha được 2 năm thì cụ bị bệnh mất ngày 9 tháng 6
lúc đó cụ 50 tuổi, mất sớm nên cụ chưa thi hết tài kinh luận. Lúc đó Triều
đình rất lấy làm nhớ tiếc liền sai quân trung sứ về thăm viếng và kể công ơn
của cụ dồng thời ban sắc tăng chức: thiên đô ngự sử lấy thuỵ là Ân Cẩu đưa
3000 cỗ tiền để trợ tang.
Sau đó 9 năm các triều đại truy phong cụ các chức tước như: Đặc Tiến
Kim Tử vinh lộc đại phu, Binh Bộ Tả Thị Lang diễn quân công, Gia tặng
công bộ Thượng thư chức Thiến Bảo, Thượng trụ quốc thượng trật.
Năm 1734 vua Lê Thuần Tôn ban sắc phong cụ Nguyễn Quý Ân là Đại
Vương và coi là Phúc Thần ở bản quan.
18
Về cuộc đời và sự nghiệp cụ Nguyễn Quý Kính (Quận Công Quốc Lão
Đại Vương Thượng Đẳng Phúc Thần)
Cụ Nguyễn Quý Kính sinh năm 1692 là con trai trưởng của cụ Hoàng
Giáp Nguyễn Quý Ân, cháu đích tôn của cụ Thám Hoa Nguyễn Quý Đức.
“Nhất môn phu tử, tổ tôn tương kế nghiệp gia” cụ Nguyễn Quý Kính lại kế
làm Quốc Sư Công Vị Đại Vương Thượng Đẳng Phúc Thần.
Sau khi cụ đỗ lương kha trúng thức, cụ vào làm quan ở phiên. Đến đời
vua Lê Thuần Tông cụ được tiến Triều, thăng chức Tư Khanh coi việc hộ
phiên, sau lại lãnh chức Thị Giảng dạy Ân Quốc công Trinh Doanh học.
Khi Trịnh Giang mắc bệnh sợ sấm phải ở dưới hầm (Thưởng Trì Cung)
hoạn quan Hoàng Công Phụ chuyên quyền, triều đình lúc ấy hỗn loạn. Cụ bí
mất bàn bạc với mấy vị đại thần quyết định việc triều đình. Mùa Xuân năm
1740 (Năm Canh Thân) nhân Hoàng Công Phụ đi vắng xa. Cụ bèn thu hết
hình binh lại cho sung vào đội bảo vệ, rồi mưu định ngày khai ấn đầu năm thì
khởi sự. Cụ đem việc ấy trình lên Vua xin cho sắc dụ. Hôm ấy cụ giả làm
Trịnh Doanh, Triều Tiến Sĩ Nguyễn Công Thể tuyên đọc sắc dụ Trịnh Doanh
quỳ xuống nhận, Cụ Nguyễn Quý Kính dìu Trịnh Doanh lên ngôi chúa, lúc ấy
mới ban lệnh bắt quận thực quận bào, bắt hết nghịch đảng ở các ngả. Trong
triều và cung cấm nhờ thế được yên ổn. Mọi việc đều do cụ sửa định. Trịnh
Doanh lưu cụ ở luôn trong phủ, đêm ngày bám sát Quốc Chính.
Sau đó cụ được thăng làm Tham Tụng Kiêm Kinh Đô Thượng Thư lại
được vinh phong Kính Quận Công liệt vào hạng “Suy Trung Dực Vận Công
Thần và được ban Kim Bào khắc tám chữ “Suy Trung Dực Vận Dự Quốc
Đồng Hưu” nhà vua lại phong chức Hữu Từ Giảng.
Làm Tể Tướng trong triều đến năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757) vì tuổi
già nên cụ bèn xin về trí sĩ tại quê nhà Thiên Mỗ (Đại Mỗ). Nhà Vua phong
cho cụ là Quốc Lão tham Dự Triều Chính, lại gia phong là Thái Phó.
Năm 1758 nhà vua lại có chiếu chỉ truyền triệu cụ Nguyễn Quý Kính
hồi Triều cung vào ban ngũ Lão ở luôn tư đệ tại Kinh Đô.
19
Năm 1762 (Nhâm Ngọ) cụ trở về quên nhà.
Năm 1764 (Giáp Thân) cụ cho mời thợ đến nhà vẽ Châu Duyên
Ngày 27 tháng 7 năm 1766 (Bính Tuất) cụ mắc bệnh. Triều Đình cử quan
Thái Y về chăm nom. Chúa Trịnh lúc ấy đích than về thăm hỏi bệnh tình.
Ngày 8 tháng chạp năm 1766 cụ mất, cụ thọ 74 tuổi.
Sau khi cụ mất Triều đình truy tặng chức Đại Tư Đồ, kính trọng cụ lại
bao phong là Định sách Khuông tể luân vọng Đại Vương và sắc cho địa
phương thờ tự như Thần Thượng Đẳng.
Dòng họ Nguyễn Quý danh thơm như thế nhờ ba cụ “Tam Đại Vương”.
Cụ Nguyễn Quý Đức, cụ Nguyễn Quý Ân, cụ Nguyễn Quý Kính một
nhà danh giá lệnh tộc, ba con người tiêu biểu nhất của dòng họ Nguyễn Quý
tại Thiên Mỗ (Đại Mỗ). Cả ba cụ đều có những cống hiến đóng góp hết sức to
lớn cho nhân dân, đất nước thời bấy giờ. Sau khi ba cụ mất đều được Triều
Đình phong làm Đại Vương và thờ làm Phúc thần ở Từ đường dòng họ.
“Đỉnh giáp nhất môn thiên Hạ Hữu, phúc thần tam diệp cổ lai vô”
(Nghĩa là Đứng đầu khoa bảng thiên hạ có nhiều, phúc thần ba đời liên tiếp
xưa nay hiếm).
Con cháu trong dòng họ Nguyễn Quý sau này lấy đó là niềm tự hào,
noi gương các bậc tiền bối để không ngừng cố gắng, phát triển không phụ
lòng tiên tổ dòng họ Nguyễn Quý.
Hiện nay con cháu dòng họ Nguyễn Quý có nhiều người có học vị cao,
làm ăn buôn bán khấm khá, giữ trọng trách trong xã hội.
2.2.3. Vị thế của dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ
Nhắc đến Đại Mỗ xưa kia mọi người trong vùng sẽ nghĩ ngay đến “Tứ
quý danh hương” bởi tại đây có truyền thống khoa bảng và nhiều người đỗ đạt
nên có câu “Nhất Mỗ, nhì La, thứ ba Canh Cót”. Trong đó có họ Nguyễn Quý
là một trong những dòng họ lớn có từ lâu đời, ảnh hưởng của dòng họ này đối
với vùng Mỗ rất lớn bởi dòng họ Nguyễn Quý đã có 3 vị nhân thần (Nguyễn
Quý Đức, Nguyễn Quý Ân, Nguyễn Quý Kính) là thành hoàng trong tổng
20
cộng 5 vị thành hoàng. Xưa kia dòng họ này có một nhà “danh giá lệnh tộc”
ba bố con ông cháu đều đỗ khoa bảng, cả ba đời đểu giảng dạy, hai đời phù
tướng, hai đời định sách công đầu, hai đời đệ nhất phẩm dại thần về trí sĩ. Khi
đến ngày xuân tế hay giỗ họ của dòng họ Nguyễn Quý nhân dân quanh vùng
sẽ đế thắp hương, một phần vì công lao của khi xưa rất quan tâm đến địa
phương, quan tâm đến cuộc sống của nhân dân trong vùng.
*Tiểu kết chƣơng 1
Kết thúc chương 1, trong phần này tác giả đã trình bày tổng quan về
văn hóa dòng họ, bao gồm khái niệm về văn hoá dòng họ và những thành tố
cấu thành văn hoá dòng họ đồng thời trong chương này cũng đã giới thiệu
tổng quan về dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm,
thành phố Hà Nội. Đây là nền tảng, cơ sở lý luận để tác giả sử dụng trong
chương 2, tìm hiểu sinh hoạt văn hoá dòng họ Nguyễn Quý.
21
Chƣơng 2
GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÒNG HỌ NGUYỄN QUÝ PHƢỜNG ĐẠI MỖ,
QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Các giá trị văn hóa vật thể
2.1.1. Nhà thờ dòng họ Nguyễn Quý
Nhà thờ tổ (chi Giáp, Nguyễn Quý Tinh)
Nhà thờ họ Nguyễn Quý là nơi thờ tự các vị tiên tổ của dòng họ. Đây
cũng là nơi diễn ra các hình thức tín ngưỡng, nơi hội họp cả họ trong dịp lễ tết.
Nhà thờ tọa lạc tại xóm Đình, trước đây chỉ gồm một gian thờ kết cấu
vòm cuốn, hướng Tây. Tháng 12 năm 1993 xây thêm 3 gian đại bái nối liền
với gian thờ cũ, trở thành hậu cung. Đến năm 2005, sửa lại Hậu cung theo
thiết kế nguyên bản, nhưng bằng kết cấu bê tông. Đây là nơi thờ các vị Thủy
tổ họ Nguyễn Quý (từ cụ tổ Phúc Tâm đến đời thứ tư là Quý Cường, tức Phúc
Chỉ). Bên dưới nhà thờ thủy tổ là nhà thờ cành trưởng của chi Giáp.
Khu từ đường thờ Tam vị đại vương
Đây là nhà thờ của chi ất Nguyễn Quý Đức, cũng là nơi thờ các vị
Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý Ân và Nguyễn Quý Kính, còn gọi là “Nhà
thờ Tam vị đại vương” do các ông phát đạt, nổi tiếng về đường hoạn lộ.
Khu Từ đường tọa lạc ở xóm Đình, làng Đại Mỗ. Diện tích
1.050m2.Trải qua những biến động của lịch sử và thời gian, khu Từ đường dù
không còn nguyên vẹn song vẫn tồn tại với dáng vẻ uy nghiêm.
Tại đây từ đường quay mặt về hướng nam và có những cây muỗm cổ to
cao bao trùm phía bên ngoài. Từ đường nhìn thẳng ra là “lương hồ song đối”,
bên ngoài là một hồ nhỏ giữ hồ có một mô đất tròn tạo thế “lưỡng long tranh
châu”, bên trong còn một hồ hình bán nguyệt là nơi tụ thuỷ của Từ đường. Từ
ngoài vào từ đường họ Nguyễn Quý phải qua một cổng nhỏ từ đó dẫn tới một
khoảng sân trống, ở đó là cổng tam quan với lối kiến trúc truyền thống, cổng
tam quan của từ đường cũng không được vẹn nguyên theo thời gian nhưng
vẫn có thể thấy rõ bốn cột trụ cổng được xây bằng gạch to. Phía trên cột trụ là
22
hình bốn con phượng hướng ra bốn hướng khác nhau, phía bên dưới cột trụ là
hình đầu rồng được chạm trổ rất tinh xảo. Bước vào cổng tam quan là một sân
gạch bát rộng mà ở hai bên sân gạch là hai dãy nhà hữu mạc và tả mạc quay
mặt vào nhau. Bên trong nhà tả mạc, hữu mạc có đặt ba tấm bia hình trụ lớn
gồm: Bia Thiên Mỗ đại vương từ đường bi kí (do quan tiến sĩ Hà Tôn Luân
soạn), Bia Quốc sư đại vương miếu vũ bi kí (do quan tiến sĩ Nguyễn Bá Dĩnh
soạn năm Cảnh Hưng thứ 7 - 1746) và Bia Công vị đại vương từ đường bi kí
(do quan tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch soạn), cả ba bia cùng soạn năm Bính Dần
1746. Gắn với nhà tả mạc, hữu mạc là nhà tiền tế dãy bảy gian hai dĩ, phía
trước có hai cột trụ biểu, có bốn hang cột song song. Nhà tiền tế còn treo
nhiều hoành phi câu đối cổ. Nhà hậu cung song song với nhà tiền tế với năm
gian hai dĩ, mỗi gian đều có bệ thờ và đồ tế tự. Bên trong nhà hậu cung còn
treo hai bức tranh lụa cổ vẽ chân dung cụ Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý
Kính. Chân dung cụ Nguyễn Quý Đức vẽ năm 1718 khi cụ về trí sĩ lúc đó cụ
71 tuổi. Chân dung cụ Nguyễn Quý Kính vẽ năm giáp than 1764 niên hiệu
cảnh hưng 25 lúc đó cụ 72 tuổi. Cả hai bức tranh đều là tranh truyền thần được vẽ
khi cụ Nguyễn Quý Đức và cụ Nguyễn Quý Kính còn sống.
Từ đường được xây dựng vào khoảng nửa cuối năm 1720 đến cuối năm
1721, từ đầu khởi dựng đó cho đến nay đã trải qua nhiều lần tu bổ sửa chữa
vào năm 1746, 1827,1920. Trải qua bao nhiêu thăng trầm của thời gian từ
đường hiện nay đã được con cháu dòng họ Nguyễn Quý xây dựng tu sửa lớn
vào năm 1925 (thời vua Khải Định) thành một từ đường rộng rãi, trang
nghiêm tráng lệ.
Ngoài Từ đường ra dòng họ Nguyễn Quý còn có 3 ngôi miếu của 3 cụ
Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý Ân và Nguyễn Quý Kính, đó là nơi khi xưa 3
cụ lập lên khi về trí sĩ.
Miếu Động Biện (Lạc Thọ Đình)
Khi về trí sĩ cụ Thám hoa Nguyễn Quý Đức đã ở đây để dưỡng già,
miếu nằm ở làng Phú Thứ (Tây Mỗ).
23
Lạc Thọ Đình được xây theo kiến trúc hình chữ Quốc, là một ngôi nhà
hình vuông với bốn cột trụ chính bằng gỗ. Trong miếu hiện vẫn giữ lại được
nhiều đồ tế tự, hoành phi, câu đối ca ngợi công đức của cụ đối với nhân dân,
đất nước.
Miếu Vườn Chùa (Hoàng Giáp Quốc Sư Đại Vương Miếu): Đây là ngôi
miếu thờ cụ Nguyễn Quý Ân, kiến trúc ngôi miếu hình chữ Quốc với bốn cột
trụ làm bằng gỗ lim, hai cột bên cũng bằng gỗ và các cột khác dung loại chất
liệu khác là gạch chỉ, miếu nằm tại địa phận Đại Mỗ. Trong miếu vẫn còn lưu
giữ Hoành phi câu đối, bức cửa võng,…
Miếu Nhà Cảnh (Công Vị Quốc Lão Đại Vương Miếu: Miếu Nhà Cảnh
là nơi thờ cụ Nguyễn Quý Kính, kiến trúc ngôi miếu được xây theo hình chữ
Quốc, ngôi miếu nằm ở thôn Phú Thứ (Tây Mỗ). Trong miếu vẫn còn giữ một
số di vật như bức Đại Tự Hoành Phi câu đối, bài vị, ngựa đá, bát hương cổ,
tranh lụa cổ, sắc phong. Trong đó tranh lụa cổ là hai bức tranh truyền thần
được vẽ lúc hai cụ Nguyễn Quý Đức và Nguyễn Quý Kính về trí sĩ, cho mời
nghệ nhân đến vẽ. Bên cạnh đó trong miếu thờ vẫn còn giữ được các bức
hoành phi, câu đối, đại tự. Theo thống kê của tác giả khóa luận, hiện nay nhà
thờ còn giữ gìn và bảo quản 40 câu đối, nhiều hoành phi đại tự. Các câu đối
đều được sơn son thiếp vàng. Ngoài ra còn có các đồ thờ tự từ xưa như bát
hương cổ, bài vị, bát hương gốm xứ, cây nến đồng,… Đặc biệt tại từ đường
còn lưu giữ được 38 đạo sắc phong của các triều vua ban, trong đó có 12 sắc
phong thời Lê và 26 sắc phong của các triều vua nhà Nguyễn phong cho ba vị
đại vương.
2.1.2. Gia phả dòng họ
Hiện nay tại dòng họ Nguyễn Quý (phường Đại Mỗ) còn lưu giữ được
ba cuốn gia phả của dòng họ. Cụ thể, theo khảo sát của tác giả, hiện tại các
cuốn gia phả này được lưu giữ tại gia đình ông Nguyễn Quý Hồng - Trưởng
chi Ất. Cụ thể các cuốn gia phả như sau:
- Cuốn “Từ Thiên Nguyễn Quý thị gia phả” được viết trên giấy bản,
24
khổ giấy 30 cm x 17 cm, gồm 141 tờ. Gia phả được chép lại vào tháng Hai,
năm Canh Tuất (1850), đời vua Tự Đức, bao gồm 40 chương, viết về các
chi, cành của họ Nguyễn Quý.
- Cuốn “Từ Thiên Nguyễn Quý thị gia phả”, viết trên chất liệu giấy dó
vàng, giấy 30 cm x 17 cm, soạn vào năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736), đời vua Lê
Ý Tông, được sao lại vào năm Tự Đức thứ 32 (1882), chép tiểu sử cụ Nguyễn
Quý Đức và các đời sau.
- Cuốn “Từ Thiên Nguyễn Quý thị gia phả”, không rõ thời điểm soạn,
viết trên giấy bản, gồm 36 tờ, chép từ đời cụ Đô Đài trở đi.
Ngoài ra, còn có cuốn Nguyễn tộc gia phả lập ngày Tốt, tháng Tám
năm Kỷ Mão, đời Tự Đức (1879), ghi lại một nhánh họ Nguyễn Quý ở Hà
Trì huyện Thanh Oai (nay thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây); một quyển ghi
nguyên văn các sắc phong chức tước, phong thần cho “Tam vị đại vương” và
vị thành hoàng Thủy Hải Long Vương; một quyển ghi Sắc chỉ của chúa Trịnh
ngày 13 tháng 12 năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) về cấp ruộng lộc điền cho
Nguyễn Quý Đức, tổng cộng 60 mẫu các loại, phân bố ruộng ở các xứ đồng,
các xã.
Về tình trạng bảo quản, hiện nay các cuốn gia phả trên đều được bảo
quản trong tình trạng rất tốt. Đây là những tư liệu rất quý giá để các nhà
nghiên cứu tìm hiểu về dòng họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ.
2.1.3. Phần mộ dòng họ Nguyễn Quý
Đến nay các phần mộ Tổ của dòng họ Nguyễn Quý vẫn còn được con
cháu bảo quản trải qua nhiều đời, vị trí của các ngôi Mộ tổ được ghi chép lại
rõ ràng.
Đời thứ nhất, cụ thuỷ tổ ông tự Phúc Tâm (mất ngày 22 tháng 5) và cụ
thuỷ tổ bà hiệu Từ Đức (mất ngày 9 tháng 2) mộ hai cụ hiện tại hợp tang tại
Mả Xuyên góc Tây Nam (thuộc tổ dân phố Đình ngày nay)
Đời thứ hai, cụ tổ ông tự Phúc An (mất ngày 2 tháng 5) và cụ tổ bà hiệu
Từ Hạnh (mất ngày 13 tháng 7) mộ hai cụ hiện song tang tại Mả Lọ, hai mộ
25
được đặt vào mắt con ếch, nên con cháu không đắp cao.
Đời thứ ba, cụ tổ ông Tả Lễ Công, Thuỵ là Phúc Thắng (mất ngày 9
tháng 10) cụ sinh ra cụ Đô Đài Quý Cường, cháu nội của cụ là cụ Thám hoa
Nguyễn Quý Đức nên thời nhà nhà Lê tặng phong cụ là Đắc Tiến Kim Tử
Vinh Lộc Đại Phu, chức Tả thị lang Bộ Lễ, tước phái Trạch Hầu. Mộ táng ở
thương đoạn Mả Lọ Canh Long Mão hướng.
Cụ tổ bà hiệu Từ Hiến, huý là Từ Tâm cụ được triều đình phong là
chính thất phu nhân (mất ngày 19 tháng 5) mộ tang tại Mả Kiệt, mộ cụ là ngôi
mộ phát phúc của dòng họ Nguyễn Quý. Truyền rằng khi cụ mất con cháu con
cháu dước linh cữu lên đến sứ Mả Kiệt thì trời nổi cơ mưa gió, không đưa đi
được nữa, phải đỗ nghỉ tại đây, từ sang đến gần tối trời vẫn mưa to gió lớn
không tạnh, chợt có một vị lão nhân lại bảo rằng: Trời mưa gió thế này ở đây
sẵn có một cái vũng sao không chon xuống ở đây khiêng đi xa làm gì, con
cháu tin lời khuyên bảo nhưng phân vân không biết chông về đằng nào, thì vị
lão nhân đó lại chỏ vào cái cây to ở đằng xa rồi nói: Chôn vào gốc cây kia con
cháu ăn muôn đời không hết của, con cháu nghe lời ông cụ chỉ bảo và chôn
vào cái cây đó là hướng. Sau lát là tạnh mưa rồi không thấy ông cụ đâu cả, y
như thần nhân vậy. Ngôi mộ tổ bà là ngôi mộ phát phước, cụ Thám Hoa
Nguyễn Quý Đức phải gọi cụ là tổ mẫu (tức là bà nội).
Đời thứ tư, cụ tổ Đô Đài Công, huý là Quý Cường, hiệu là Phúc Chỉ cụ
thân sinh ra cụ Thám hoa Nguyễn Quý Đức. Cụ mất ngày 29 tháng 1, mộ tang
tại Đống Biện (Tây Mỗ) hiện nay mộ cụ đã được xây và nằm trong khu đất
thuộc cơ quan của Bộ Nội Vụ.
Cụ bà họ Nguyễn Huý là Dĩ, thuỵ là Ý, mất ngày 2 tháng 12, mộ táng
tại đồng quánh phía tây bắc thôn An Thái ngọ long, quý Hướng (hiện nay
ngôi mộ đang nằm tại sân trường THPT Đại Mỗ).
Đời thứ năm, cụ tổ Thám Hoa Quốc Lão Đại Vương Nguyễn Quý Đức,
cụ mất ngày 14 tháng 5 năm Canh Tí, mộ tang tại xóm Đồi, thôn La Phù,
Huyện Hoài Đức. Xung quanh mộ cụ là một khi ruộng 4 mẫu, sinh thời cụ đã
26
gây dựng cho dân ở quây quần và đặt tên là xóm đồi (gọi là xóm thủ lăng).
Thôn La Phù hiện nay vẫn còn trông nom mộ cụ. Cứ đến mồng 6 tháng giêng
âm lịch con cháu chắt đến từ đường cùng Trưởng Tộc đi vào xóm đồi dâng
hương làm lễ viếng mộ tổ.
Cụ tổ bà vợ cụ Thám hoa là cụ Nguyễn Thị Giảng, người thuộc họ
Nguyễn Công, cụ mất ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tuất. Cụ được Triều đình
tặng phong Thái phu nhân, ban tên thuỵ là Trịnh Huệ Hiện nay mộ cụ đã xây
lại năm 1997, tại xứ đồng Bồ Nâu ( nay là Văn Phúc, Hà Đông).
Đời thứ sáu, cụ tổ Hoàng Gíap Quốc Sư Đại Vương Nguyễn Quý Ân
cụ là con trưởng của cụ Nguyễn Quý Đức, mất ngày 9 tháng 6 năm Canh Dần.
mộ cụ tang tại xứ đồng Bồ Thung (nay thuộc Mễ Trì) mộ đặt tốn long, Cấn
hướng.
Cụ tổ bà là Trịnh Thị Chương, mất ngày 4 tháng 9 năm Ất Mão. Cụ
được Triều đình phong tặng Phong Thái phu nhân. Mộ tang tại Mả Cả (hiện
nay ở trong khu vực kho của Bộ Công An). Mộ cụ đã xây năm 1996.
Đời thứ bảy, cụ tổ Quốc Sư Công Vị Đại Vương Nguyễn Quý Kính, cụ
là con trưởng của cụ Nguyễn Quý Ân. Cụ mất ngày 8 tháng 12 năm Bính
Tuất. Mộ táng tại cửa Đình thôn Giao Quang, nằm thế ngọ long tân hướng.
Cụ tổ bà là Tạ Thị Lượn, thuỵ là Thuần Chất. Cụ mất ngày 15 tháng 4
mộ tang tại Mả Lọ thế canh long, mão hướng.
Những năm gần đây con cháu dòng họ Nguyễn Quý đã chỉnh trang và
tu bổ, tôn tạo lại những phần mộ tổ tiên khang trang hơn, hàng năm đến ngày
giỗ hay tết đến con cháu trong dòng họ thường đến tảo mộ.
2.1.4. Quỹ họ
Theo các tài liệu hiện còn lưu giữ tại dòng họ Nguyễn Quý, cụ Nguyễn
Quý Đức khi làm quan do có công lao nên được triều đình ban thưởng cho 30
mẫu ruộng ân lộc. Tuy nhiên cụ đã đem số ruộng đó chia hết cho làng.
Sau Cải cách ruộng đất, Nhà nước để lại cho dòng họ 4 sào 10 thước để
lấy hoa lợi cho việc đèn hương ở khu nhà thờ họ Nguyễn Quý. Số ruộng đó
27
còn duy trì đến ngày nay. Vì vậy quỹ họ của họ Nguyễn Quý trước đây chủ
yếu được tạo ra từ nguồn ruộng này, được đóng góp bằng thóc lúa
Quỹ họ ngày nay thu theo đầu đinh (đàn ông) , nhà nào nhiều đinh thì
đóng góp nhiều, đóng góp bao nhiêu thì tuỳ vào tâm của con cháu. Ngoài ra
quỹ họ còn thu từ hòm công đức khi con cháu đến cúng bái hay là khách thập
phương đến dâng hương những ngày giỗ chạp mà công đức cho từ đường.
Quỹ họ của dòng họ Nguyễn Quý sẽ được chi vào việc trùng tu cho nhà
thờ, chi cho các việc như sửa sang mộ tổ, chạp họ, giỗ họ, lễ hội của dòng họ.
Ngoài ra còn chi các khoản như khuyến học của dòng họ và đi thăm hỏi các
cụ trong họ lúc ốm đau, phúng viếng khi các cụ qua đời.
2.2. Các giá trị hóa phi vật thể
2.2.1. Các lễ tiết trong năm
- Các ngày giỗ chi Giáp (chi trưởng)
+ Ngày 22 tháng 5 giỗ cụ Phúc Tâm Công
+ Ngày 9 tháng 2 giỗ cụ Từ Đức (vợ cụ Phúc Tâm)
+ Ngày 2 tháng 5 giỗ cụ Phúc An Công
+ Ngày 13 tháng 7 giỗ cụ Từ Hạnh (vợ cụ Phúc An)
+ Ngày 9 tháng 10 giỗ cụ Phúc Thắng
+ Ngày 19 tháng 5 giỗ cụ Từ Tâm ( vợ cụ Phúc Thắng)
+ Ngày 22 tháng 1 giỗ cụ Phúc Chỉ
+ Ngày 2 tháng 12 giỗ cụ Từ Ý (vợ cụ Phúc Chỉ)
- Các ngày giỗ chi Ất (chi thứ)
+ Ngày 14 tháng 5 giỗ cụ Thám Hoa Nguyễn Quý Đức
+ Ngày 24 tháng 7 giỗ cụ Nguyễn Thị Giảng (vợ cụ Nguyễn Quý Đức)
+ Ngày 9 tháng 6 giỗ cụ Hoàng Giáp Nguyễn Quý Ân
+ Ngày 4 tháng 9 giỗ cụ Trịnh Thị Chương (vợ cụ Nguyễn Quý Ân)
+ Ngày 8 tháng 12 giỗ cụ Công Vị Nguyễn Quý Kính
+ Ngày 15 tháng 4 giỗ cụ Tạ Thị Ngao (vợ cụ Nguyễn Quý Kính)
Ngoài các ngày giỗ nêu trên có có các ngày lễ tiết như chạp họ, xuân
28
tế:): Chạp họ là các thành viên trong dòng họ cùng tập trung lại để cúng lễ tổ
tiên, chạp họ của dòng họ Nguyễn Quý diễn ra vào tiết Đông Chí. Vào tiết
này hàng năm, hai chi của họ Nguyễn Quý tổ chức lễ chạp họ, đi sửa sang,
đắp lại các ngôi mộ tổ, với sự điều hành của Ban Khánh tiết và sự tham dự tự
nguyện của các thành viên. Tùy từng năm, họ có một hành trình chạp họ
riêng, phụ thuộc vào thời tiết, lượng người tham gia và các yếu tố khách quan
khác. Đây cũng là dịp để hội đồng gia tộc bàn về kì lễ Xuân Tế để bàn xem
bản chi nào sẽ chứa (làm cỗ) năm đó, dòng họ Nguyễn Quý có 9 chi nên mỗi
một chi sẽ chứa (làm cỗ) một năm, các chi trong dòng họ sẽ thay phiên nhau
trung bình cứ 9 năm lại đến lượt một chi.
Xuân Tế là ngày 9 tháng Giêng âm lịch hàng năm là ngày các thành
viên trong dòng họ tụ tập lại từ đường để tế lễ tiên tổ họ Nguyễn Quý.
2.2.2. Giỗ họ
Giỗ họ là hình thức tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dòng họ. Thường
niên cứ đến mồng 9 tháng giêng, bốn thôn Huyền Phố, An Thái, Phú Thứ,
Khê Ngang (Thuộc Thiên Mỗ xưa) đều đến Từ đường dòng Họ Nguyễn Quý
để tạ ơn “Tam Vị Đại Vương” của dòng họ Nguyễn Quý người có công với
nước, với làng. Trong 5 vị thành hoàng, có 3 vị nhân thần đó là Nguyễn Quý
Đức, Nguyễn Quý Ân, Nguyễn Quý Kính, “Tam Vị Đại Vương” của dòng họ
Nguyễn Quý, đây cũng là lí do mà bốn thôn quanh vùng đều đến lễ tổ của
dòng họ này. Về mặt ý nghĩa ngày này là ngày lễ tạ ơn tổ tiên, sự tự hào của
con cháu đối với tiên tổ nhà mình. Việc tế lễ trong họ, để tích điều thiện bồi
lòng nhân, xây đắp nền móng thịnh vượng, cầu cho con cháu học hành thuận
hoà, lấy hiếu, lấy trung, lấy lễ nghĩa và cầu cho Quốc thái dân an, thái bình
thịnh trị. Đây cũng là ngày để cho con cháu đến chiêm ngưỡng tổ tiên, cũng là
để con cháu hiểu thêm về dòng họ, cội nguồn đất lụa, làng the xóm lĩnh xưa
kia đã sản sinh ra ba cụ Đại Vương. Dù con cháu có đi làm ở xa hay gần thì
đến ngày giỗ họ là phải về, có công thì báo công, có tội thì báo tội trong năm
qua. Dòng họ tổ chức giản tiện, không cúng tế lích kích, mọi người trong họ
29
lấy đó làm ngày xum họp, quây quần giữ vứng truyền thống văn đức của dòng
họ nhà mình.
Diễn trình lễ giỗ tổ dòng họ Nguyễn Quý:
Sáng ngày rằm tháng 2 sau khi quan khách, các vị đại biểu và con cháu
dòng họ đến đông đủ.
Ban khánh tiết đọc diễn văn bắt đầu đọc diễn văn
Lễ tổ bắt đầu, đội tế sẽ vào bái đường chủ tế là trưởng họ và các
trưởng ngành trong dòng họ là bồi tế, các vị trong đội tế đều mặc áo thụng, bộ
tế chầu, bồi tế. Đồ cúng tế lễ tổ gồm có xôi, thịt lợn, chuối và oản (các chi
đóng oản từ trước hôm lễ).
Sau khi lễ tổ xong các trưởng bối trong nhà sẽ ngồi lại họp bàn với
nhau trong năm qua dòng họ đã làm gì và những việc cần phải làm trong năm
tới.
Hết phần lễ tiếp theo là đến phần hội, lễ hội của dòng họ Nguyễn Quý
có rất nhiều nét độc đáo và có nhiều trò chơi truyền thống như:
+ Hát chèo, hát quan họ
+ Hát đúm
+ Hát trống quân
+ Kéo co
+ Đánh cờ người ( đánh cờ người ở sân ngoài của từ đường, sân trong
còn tế lễ)
Đặc sắc nhất là trò chơi kéo lửa thổi xôi gồm các dụng cụ đó là xoan,
rang, rơm khô, năm nào dòng họ cũng tổ chức. Tại đây các ngành trong dòng
họ sẽ đăng kí với ban lễ hội. Tuỳ vào các năm ngành nào đăng kí thi thì đăng
kí vì có ngành đinh số không đủ sẽ xin thôi năm đó. Thông thường sẽ có
khoảng 8 đến 9 ngành thi với nhau.
Cuộc thi chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn một: Kéo lửa
+ Đội nào kéo được nhanh nhất đội đó sẽ thắng, sẽ chia các giải nhất,
30
nhì, ba cho ba đội kéo lên lửa nhanh nhất.
- Giai đoạn hai: Thổi xôi
+ Từ việc kéo lửa bằng xoan, rang và rơm các đội sẽ thi thổi xôi xem
đội nào thổi ngon nhất, đơm đẹp nhất đội đó sẽ thắng.
- Dưới đây là cuộc thi kéo kéo lửa thổi năm 2015 của dòng họ Nguyễn
Quý:
Cuộc thi kéo lửa thổi – năm 2015 của dòng họ Nguyễn Quý
Thành phần Các bảng Lịch Thi Giải thưởng Địa điểm
tổ chức tham gia
Có 4 chi đăng Bảng A Đội 1 Buổi Thi kéo Giải nhất: 600.000đ Đảo Ngọc,
gồm: Chi sáng lửa Giải nhì: 500.000đ trước cửa ký là Chi
trưởng, ngày Giải ba: 400.000đ Từ đường trưởng, chi
chi ông 3/4/2015 Giải khuyến khích: dòng Họ ông Dậu, Chi
300.000đ Nguyễn Ông Thinh, Dậu, chi
Quý Chi cụ Đồng ông
Thần, mỗi chi Thinh,
hai đội và Chi cụ
được chia Đồng
thành hai Thần
bảng A và B Bảng B Đội 2 Buổi Thi thổi Giải nhất: 500.000đ
gồm: Chi chiều xôi Giải nhì: 400.000đ
trưởng, ngày Giải ba 300.000đ
Chi ông 3/4/2015 Đồng giải tư:
200.000đ Thinh,,
Chi ông
Dậu, Chi
cụ Đồng
Thần
31
* Sau khi kết thúc cuộc thi kéo lửa thổi xôi năm 2015 đạt hai giải nhất
của dòng họ Nguyễn Quý thuộc về:
Giải kéo lửa: thuộc về chi Trưởng
Giải thổi xôi: thuộc về chi Trưởng
Lễ hội của dòng họ rất vui vì con cháu và quan khánh reo hò cổ vũ cho
các đội kèm những tiếng trống vang không khí rất sôi động. Kết thúc cuộc thi
ban giám khảo sẽ chấm điểm các vòng thi, vòng một và vòng hai mỗi vòng sẽ
có ba giải. Đội nào thắng sẽ được thưởng từ quỹ họ.
2.2.3. Hoạt động khuyến học, khuyến tài của dòng họ
Nhằm bảo vệ và duy trì các nguyên tắc của dòng họ, con cháu trong
dòng họ Nguyễn Quý từ nhỏ đã được dạy các giáo dục truyền thống đạo đức
thuần phong mỹ tục, và ý thức cội nguồn về truyền thống khoa bảng của cha
ông. Để động viên con cháu trong việc học hành thi cử, dòng họ Nguyễn Quý
có trích một phần quỹ họ để thưởng cho con cháu dòng họ đạt thành tích tốt
trong năm học. Những phần thưởng đó là sách vở và bút viết, ngoài ra dòng
họ này còn thưởng tiền mặt…, tạo động lực và cũng nhắc nhở cho con cháu
phấn đấu học hành để tiếp nối truyền thống cha ông. Lễ khen thưởng con
cháu được dòng họ Nguyễn Quý trao vào đầu xuân năm mới để tuyên dương
thành tích học tập của con cháu ở năm cũ cũng như cổ vũ việc học tập cho
con cháu trong năm mới.
Các hoạt động khuyến học này của dòng họ cũng phần nào góp phần
cho động lực của con cháu trong dòng họ phát huy truyền thống hiếu học của
dòng họ, điển hình là em Nguyễn Phương Thảo sinh năm 2000 là con cháu
của dòng họ Nguyễn Quý, năm 2018 em có đạt giải huy chương vàng
Olympic Sinh học Quốc tế, đây là thành tích đạt kỷ lục thí sinh có điểm thi
cao nhất thế giới.
Hoạt động khuyến học khuyến tài của dòng họ Nguyễn Quý là hoạt
động xây dựng truyền thống tốt đẹp, phát triển giáo dục. Là tiền đề để dòng
họ có thêm nhiều nhân tài từ đó duy trì truyền thống khoa bảng, học hành của
32
tổ tiên, cũng như góp phần phát triển cho đất nước. Đề cao việc học không chỉ
không chỉ là vấn riêng dòng họ Nguyễn Quý mà cũng là vấn đề chung của các
dòng họ cũng như cả nước. Đất nước muốn phát triển thì con người cũng cần
phát triển.
Tiểu kết chƣơng 2
Tại chương này tác giả đã trình bày, tìm hiểu các giá trị văn hoá vật thể
và phi vật thể của dòng họ Nguyễn Quý, từ đó cho thấy dòng họ này có từ lâu
đời và có một nét văn hoá đặc trưng, nét văn hoá riêng có thể thấy được sự
gắn kết cộng đồng trong dòng họ khá chặt chẽ. Dòng họ Nguyễn Quý vẫn duy
trì được truyền thống hiếu học từ lâu, các sinh hoạt văn hoá của dòng họ cũng
ảnh hưởng phần nào đó tới cộng đông cư dân tại Đại Mỗ cũng như các vùng
ven Đại Mỗ. Các tiểu sử về cha ông, danh nhân của dòng họ, lễ nghi, lễ hội
cũng được các trưởng bối trong nhà truyền lại cho con cháu. Ngoài ra các vật
chất vật thể là các di vật mà tổ tiên để lại dòng họ Nguyễn Quý cũng bảo tồn
rất tốt. Phần mộ, quỹ họ cũng được các trưởng bối trong họ quản lý tốt và
phát huy có hiệu quả.
33
Chƣơng 3
XÂY DỰNG VĂN HÓA DÒNG HỌ NGUYỄN QUÝ TẠI PHƢỜNG ĐẠI
MỖ, QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Nhìn nhận về vai trò của sinh hoạt văn hóa dòng họ Nguyễn
Quý
Dòng họ Nguyễn Quý là một dòng họ nằm kề cạnh kinh đô Thăng
Long xưa, thuộc huyện Từ Liêm. Đây là một huyện có nền nông nghiệp phát
triển, có nhiều nghề thủ công, trong đó có những cụm làng nghề, làm ra các
sản phẩm nổi tiếng cả nước, như làng dệt the ở La Cả, La Khê; dệt lĩnh ở Mỗ
hoặc dệt vải ở Canh v.v…; có mạng lưới chợ dày đặc, quan hệ chặt chẽ với
các phố phường Thăng Long. Với những điều kiện như vậy, nơi đây đã tạo
nên một đời sống kinh tế tương đối ổn định hơn so với các vùng khác. Từ đó
tạo cho con người ở đây cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển học
hành, thi cử và đỗ đạt thành danh, trong đó có dòng họ Nguyễn Quý ở
Phường Đại Mỗ. Nhìn nhận về vai trò của dòng họ Nguyễn Quý, có thể khai
quát thành những điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất, đây là một dòng họ phát triển về học hành, khoa bảng.
Như đã trình bày, chỉ tính từ đời Nguyễn Quý Đức đến hết 3 đời sau
đó, dòng họ này có 02 người đỗ đại khoa và 15 đỗ trung khoa, hơn 10 người
đỗ tiểu khoa.
Sự thành đạt về học hành của dòng họ Nguyễn Quý được hình thành
bởi nhiều yếu tố. Trước hết là chế độ sử dụng tuyển bổ quan lại thông qua con
đường học vấn, thi cử, chế độ trọng dụng người hiền tài của Nhà nước phong
kiến, nhất là giai đoạn từ giữa thế kỷ XVII trở đi, Nhà nước Lê - Trịnh ở
Đàng Ngoài cần được củng cố vững chắc để đủ sức đối trọng với tập đoàn
Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Họ Nguyễn Quý làng Đại Mỗ được sống trong bối cảnh lịch sử đó của
đất nước, giữa vùng đất huyện Từ Liêm giàu truyền thống văn hóa, giáo dục,
với một vệt làng nổi tiếng có nhiều người đỗ đạt - như đã trình bày. Đấy là
34
nguồn lực để người trong họ ganh đua cùng các dòng họ khác trong vùng
khắc phục khó khăn, vươn lên và vượt lên - yếu tố quan trọng nhất, quyết
định cho sự thành đạt về học hành.
Tuy nhiên, dòng họ Nguyễn Quý chỉ thành đạt về học hành trong 3 - 4
đời, kể từ Nguyễn Quý Đức. Sau đó, dòng họ có rất ít người đỗ. Suốt thời
Nguyễn, từ khoa thi Hương đầu tiên (Đinh Mão - 1807) đến khoa cuối cùng
(1918), dòng họ này chỉ có 2 người đỗ Cử nhân. Điều này có nguyên nhân từ
cuối thời Lê, nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên, việc
học ở hầu hết các làng xã trên vùng châu thổ Bắc Bộ bị suy giảm nghiêm
trọng. Làng Đại Mỗ cũng như dòng họ Nguyễn Quý cũng trong tình trạng
tương tự. Trên thực tế, vào giữa niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786), do nội
chiến diễn ra liên miên, dòng họ có nhiều người đã “bỏ” ngạch văn để chuyển
sang ngạch võ, giống như trường hợp họ Nguyễn làng Vân Điềm (huyện
Đông Anh, Hà Nội). Mạch học tại một đời bị “ngắt”, các đời sau không có
điều kiện nối lại được, vì vậy, suốt thời Nguyễn, dòng họ chỉ có hai người đỗ
Cử nhân.
Tiếp nối truyền thống cha ông, ngày nay, con cháu họ Nguyễn Quý có
nhiều thành đạt trên con đường học hành. Theo điều tra sơ bộ, đến nay, làng
Đại Mỗ đã có hàng trăm người tốt nghiệp đại học, nhiều người có học vị Tiến
sĩ, Thạc sĩ, trong đó họ Nguyễn Quý trong có 48 người, trong số họ có bốn
người có học vị Tiến sĩ là Nguyễn Thị Hải (ngành Hoá học), Nguyễn Quý
Hiển (ngành Điện tử), Nguyễn Quý Thanh Hoá (ngành Ngoại ngữ) và Nguyễn
Quý Thao (ngành Giáo dục), một người có học vị Thạc sĩ là Nguyễn Quý
Dương (ngành Nông nghiệp); còn lại 43 người tốt nghiệp nhiều ngành đại học
thuộc các lĩnh vực tự nhiên và xã hội, trong đó, họ Nguyễn Quý làng Đại Mỗ
chiếm 20,8%
Thứ hai, trên nền tảng của truyền thống khoa cử, dòng họ Nguyễn Quý
đã có nhiều danh nhân tham gia chính trị, có những đóng góp quan trọng cho
sự phát triển các triều đại phong kiến Việt Nam.
35
Thực tế cho thấy, học hành là nền tảng chính yếu của con đường hoạn
lộ, quá trình học tập cũng để tích lũy tri thức cần thiết cho “nghiệp” làm quan.
Nếu không có học hành thì không thể thi thố được với đời. Bản thân Nguyễn
Quý Đức nếu không đỗ Đình nguyên - Thám hoa thì cũng không có cơ sở để
được cất nhắc lên ngôi vị cao nhất của quan trường phong kiến: Tham tụng
(Tể tướng). Từ Nguyễn Quý Đức, phúc ấm của dòng họ ngày càng dày lên.
Ngoài ba bố con - ông cháu Quý Đức - Quý Ân - Quý Kính đều làm Tham
tụng - một hiện tượng hy hữu trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, họ
Nguyễn Quý còn có một loạt cháu con các thế hệ giữ các chức trách khác
nhau trong bộ máy chính quyền các cấp. Ngoài các “ông cống” đã dẫn ở trên,
qua gia phả, còn thấy một số người làm quan to, như Nguyễn Quý Thọ là Phó
Lãnh binh Hà Nội (cuối thế kỷ XIX), nhiều người làm tri huyện, tri phủ…
Có thể nói, dòng họ Nguyễn Quý làng Đại Mỗ là một trong số ít dòng
họ ở vùng Xứ Đoài thành đạt trên con đường tham chính. Sự thành đạt đó là
do người trong họ được trang bị vốn kiến thức vững nhờ sự “học thật, thi
thật” để trở thành tài thật. Họ mang một lý tưởng sống cao cả của kẻ sỹ ngày
xưa: học là để thành danh (có danh phận trong xã hội), lập công (để được mọi
người kính trọng), lập ngôn (khi nói được mọi người nghe) và lập đức (đức độ
để được tâm phục, khẩu phục), học cũng là để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Sự thành đạt đó còn bắt nguồn từ năng khiếu chính trị của dòng họ. Năng
khiếu đó có nguồn gốc từ “tính trội về mặt sinh học xã hội” chỉ xuất hiện ở
một số dòng họ trong những hoàn cảnh riêng biệt tạo ra.
Thời cận đại, dòng họ Nguyễn Quý có nhiều người tham gia phong trào
cần vương, chống Pháp, như Nguyễn Quý Tuấn (đời thứ 10) tham gia cuộc
khởi nghĩa do Tự So và Nhà sư Vương Quốc Chính lãnh đạo (năm 1898), ông
Nguyễn Quý Khiêm (đời 10) giúp Nguyễn Thiện Thuật, đưa vị lãnh tụ Cần
vương này về làng, song bị bọn phản động báo cho giặc Pháp đến bắt.
Nguyễn Quý Khiêm bị đày lên Cao Bằng và mất ở đó. Nguyễn Quý ích
(1912 - 1975 thuộc đời thứ 13) mở hiệu ích Thái buôn bán rất phát đạt, làm
36
Hội trưởng Hội Tương tế Sài Gòn.
Thời hiện đại, dòng họ Nguyễn Quý có ông Nguyễn Quý Bình là một
trong ba đảng viên Cộng sản đầu tiên của phủ Hoài Đức, tham gia lãnh đạo
các phong trào đấu tranh cách mạng ở vùng ven Hà Đông. Tiếp đó, trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, dòng họ có hàng trăm người tham gia bộ đội,
24 người đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước.
Không chỉ có những đóng góp lớn lao vào việc xây dựng triều chính,
dòng họ Nguyễn Quý làng Đại Mỗ còn có công với làng xã - như đã trình
bày. Việc cả ba bố con - ông cháu Quý Đức - Quý Ân - Quý Kính đều được
phong Phúc thần, được nhân dân trong làng và một số làng lân cận thờ làm
thành hoàng làng cũng là hiện tượng hy hữu trong lịch sử làng xã vùng châu
thổ Bắc Bộ. Người trong họ Nguyễn Quý còn có những đóng góp lớn với các
làng khác. Tiêu biểu là bà Nguyễn Thị Thai - thứ thất của Hoàng giáp Nguyễn
Quý Ân, đã cùng con là Nguyễn Quý Thường khai lập ra ấp Trung Hoàng
(nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây), được dân làng này tôn làm Phúc
thần, duy trì thờ phụng đến ngày nay.
Thứ ba, dòng họ Nguyễn Quý cũng là một dòng họ có truyền thống sinh
hoạt quy củ, nề nếp, có vị thế ở địa phương, được các danh nhân khai mở từ
xưa và được các thế hệ dòng họ duy trì đến ngày nay.
Như đã trình bày ở chương 2, nhận thấy vai trò sinh hoạt văn hoá của
dòng họ Nguyễn Quý vẫn được con cháu sau này tiếp nối giữ được truyền
thống tốt đẹp của dòng họ, các sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng - tâm linh này
cũng ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư tại phường Đại Mỗ, cũng như các
vùng lân cận, cụ thể là Tam vị Đại Vương của dòng họ Nguyễn Quý là ba vị
nhân thần được nhân dân trong vùng thờ cúng, không chỉ đóng góp cho triều
đình lúc bấy giờ, khi còn sống các ông rất quan tâm đến địa phương, quan tâm
đến cuộc sống của dân làng.
Truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của nhân dân ta cũng được con
37
cháu dòng họ Nguyễn Quý khắc ghi trong đầu, dòng họ này vẫn giữ vững nề nếp
thờ cúng tổ tiên từ xưa, kế thừa, phát triển và duy trì các sinh hoạt văn hoá.
Các sinh hoạt văn hoá tinh thần của dòng họ Nguyễn Quý khiến các
thành viên trong họ gắn kết với nhau hơn có thể nhắc đến như họp họ, giỗ tổ,
tảo mộ,…
Ngoài ra còn có các sinh hoạt văn hoá hệ thống về vật chất vật thể như
sửa sang lại các nhà thờ bản chi, nhà thờ tổ, các mộ tổ điều này làm cho các
thành viên trong họ gắn kết với nhau hơn, đoàn kết hơn trong việc giữ gìn và
tu sửa các di vật mà cha ông để lại. Các thành viên trong gia tộc họ Nguyễn
Quý cũng hiểu rõ điều này nên và rất chú trọng sinh hoạt văn hoá dòng họ, để
bảo tồn và phát huy những giá trị vật chất cũng như tinh thần mà cha ông để
lại.
Dòng họ Nguyễn Quý đã định cư tại Đại Mỗ từ rất lâu nên dòng họ này
tại đây có vai trò quan trọng đối với cộng đồng, dòng họ này cũng đóng góp
rất nhiều công trong việc xây dựng làng xã tại đây. Cụ thể khi nhắc đến điều
này có công nhất là Tam vị Đại Vương điển hình là cụ Nguyễn Quý Đức khi
về trí sĩ đã chia cho nhân dân đất để xây chợ “Khánh Nguyên” chợ Mỗ ngày
nay. Cộng đồng nhân dân tại đây cũng rất tôn kính “Tam Đại Vương” của
dòng họ Nguyễn Quý, điển hình là việc cứ đến ngày giỗ tổ nhân dân các làng
Huyền Phố, An Thái, Khuê Ngang đều đến từ đường dòng họ Nguyễn Quý
cùng với con cháu trong dòng họ để mở hội, tế lễ nhằm tạ ơn người có công
với nước với nhân dân.
Đây là nét sinh hoạt văn hoá mà nhân dân quanh vùng đã gìn giữ từ lâu.
Điều này làm cho vùng Mỗ thêm đa dạng hơn về văn hoá và giữ được nét văn
hoá nông thôn truyền thống.
3.2. Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng văn hóa dòng họ Nguyễn
Quý tại phƣờng Đại Mỗ hiện nay
3.2.1. Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể
Các giá trị văn hoá của vật chất, vật thể đối với một dòng họ là vô cùng
38
quan trọng nó phản ánh bề dày truyền thống của một dòng họ, chứa đựng sợi
dây liên kết các thành viên dòng họ lại với nhau. Duy trì sinh hoạt văn hoá
cũng được các dòng họ chú trọng là tiền đề để củng cố các việc chung của
dòng họ.
Hiện nay, về cơ bản có thể nhận thấy các giá trị văn hóa vật thể của
dòng họ Nguyễn Quý vẫn đang được các thế hệ con cháu trong dòng họ bảo
lưu, gìn giữ rất tốt:
- Nhà thờ họ vẫn giữ được nét cổ kính, các di vật như bia ký, tranh lụa
cổ, hoành phi câu đối, tộc phả vẫn được các thế hệ gìn giữ, bảo quản.
- Các ngôi mộ tổ thường xuyên được con cháu trông nom gìn giữ, sửa
sang và tu bổ lại.
- Quỹ họ và hòm công đức cũng rất được dòng họ Nguyễn Quý coi
trọng bởi đây là sự đóng góp của các thế hệ thành viên trong dòng họ nhằm
chi tiêu vào những sinh hoạt văn hoá vật chất vật thể của dòng họ này.
3.2.2. Vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể
Hiếu kính, kính trọng tổ tiên từ bao đời nay là truyền thống của dòng
họ Nguyễn Quý, việc thờ cúng tổ tiên đã được dòng họ này duy trì từ lâu. Các
thế hệ của dòng họ tiếp nối cha ông mình kế thừa và phát huy những gía trị
truyền thống ấy qua các nghi thức, nghi lễ hàng năm. Việc thực hiện gìn giữ
những phong tục cổ truyền nề nếp ấy mà từ bao đời nay là chỗ dựa tinh thần
cho thế hệ con cháu dòng Nguyễn Quý.
Theo phong tục ở Đại Mỗ, hàng năm dòng họ Nguyễn Quý thường mở
hội 5 ngày từ 15 tháng 2 đến 19 tháng 2 âm lịch. Các nghi thức, nghi lễ
thường là tổ chức rước kiệu Long ngai bài vị từ các miếu về như:
+ Miếu Động Biên
+ Miếu Vườn Chùa
+ Miếu Nhà Cảnh
Trong khoảng thời gian mở hội dòng họ Nguyễn Quý cũng tổ chức các
cuộc thi như kéo lửa thổi xôi,…và các trò chơi, văn nghệ như hát trèo, hát ả
39
đào, đấu vật, đánh cờ người. Có thể nói đây là một sinh hoạt rất đặc sắc của
dòng họ, nó vượt khỏi phạm vi và tầm ảnh hưởng của dòng họ, thu hút được
sự tham gia của đông đảo nhân dân trên địa bàn phường, giống như một lễ hội
tại địa phương. Đó là những giá trị văn hóa rất đáng quý còn được bảo lưu
trong bối cảnh hiện nay.
Giỗ tổ của dòng họ Nguyễn Quý là ngày 9 tháng Giêng âm lịch, ngày
này các thành viên trong dòng họ đều tụ tập đến nhà thở tổ để tế lễ tiên tổ.
Đến nay các nghi lễ cúng bái được dòng họ giản tiện mà chú trọng vào
việc sum họp, quây quần với nhau giữ truyền thống văn hoá của dòng họ.
Để tránh mai một các nghi thức, nghi lễ truyền thống của dòng họ, Hội
đồng gia tộc dòng họ Nguyễn Quý rất quan tâm đến việc tổ chức lễ nghi, cúng
bái tổ tiên. Mỗi gia đình trong dòng họ đều là một mắt xích để duy trì được
truyền thống sinh hoạt của thế hệ trước. Giữ gìn những lễ nghi, nghi thức
truyền thống của cha ông cũng là một trong những nét đặc trưng của văn hoá
cổ truyền dân tộc.
3.2.3. Vấn đề quan hệ dòng họ hiện nay
Bàn về quan hệ dòng họ, dòng họ là một thiết chế chiếm một vai trò
quan trọng trong làng xã xưa nay. Dòng họ thường sẽ có tác động lớn đến văn
hoá làng xã, vì trong một làng ít nhiều cũng có quan hệ họ hàng hoặc là dòng
họ đó có sự liên quan mật thiết đến văn hoá của làng xã đó. Ở trường hợp
dòng Họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ có ba bố con ông cháu (Tam Đại
Vương) dòng họ này được nhân dân dân trong vùng thờ là Thành Hoàng làng
vì khi còn sống ba cụ “Tam Đại Vương” có đóng góp lớn cho làng xã, cho đất
nước. Để tạ công đức của ba vị cứ đến ngày lễ xuân tế hay ngày rằm tháng hai
nhân dân trong làng và các vùng lân cận sẽ đến từ đường dòng họ Nguyễn
Quý để cúng bái ba vị “Tam Đại Vương”. Điều này cũng chứng minh được
cho sự tác động văn hoá của dòng họ nói chung và dòng họ Nguyễn Quý nói
riêng với làng xã, góp phần tạo nên nét sinh hoạt văn hoá chung giữa làng xã
vào dòng họ.
40
Cho đến nay dòng họ Nguyễn Quý có rất nhiều cành, nhánh, ngành nên
con cháu rất đông có đến 9 chi thứ. Vì là dòng họ đông đinh (con trai) nên
quan hệ trong làng rất phức tạp, người trong làng rất khó lấy nhau vì rất dễ có
“dây mơ rễ má”. Đông con cháu trong làng nên dòng họ này có sự cố kết vô
cùng chặt chẽ bởi họ có sự tương trợ lẫn nhau thường xuyên thăm hỏi người
ốm đau bệnh tật, thăm hỏi người già yếu, quan tâm con cháu trong dòng họ,
hỗ trợ nhau trong việc sản xuất và kinh doanh. Hầu hết mọi người đặc biệt là
những người lớn tuổi đều rất quan tâm coi trọng đến họ hàng, dòng tộc, họ
đều cho đó là nghĩa vụ, vì vậy việc duy trì sinh hoạt hội đồng gia tộc của dòng
tộc này rất đều đặn, họ rất coi trọng sinh hoạt văn hoá dòng họ để giữ vững
được nét truyền thống tốt đẹp cùa cha ông để lại. Sống trong quy ước của
dòng tộc nên mọi người đều rất có trách nhiệm, đa phần nhiều người trong
dòng họ Nguyễn Quý đều rất tự hào về cha ông và truyền thống khoa bảng
của dòng họ mình. Từ đó phát huy tinh thần cố kết, đoàn kết, tương trợ, gắn
bó giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày.
Có thể nói, họ Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ ngày nay là một trong
những dòng họ có từ lâu đời và có sức ảnh hưởng tới làng xã tại đây. Là một
trong số các dòng họ còn giữ lại các sinh hoạt mang đậm nét văn hoá truyền
thống cổ truyền của Việt Nam.
3.3. Một số khuyến nghị đối với việc xây dựng văn hóa dòng họ
Nguyễn Quý tại phƣờng Đại Mỗ
Trước bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường
hiện nay, nhiều giá trị cơ bản của văn hóa làng, xã như gia đình, dòng họ đang
có nguy cơ bị mai một, bị tác động ảnh hưởng tiêu cực từ bởi mặt trái của
kinh tế thị trường. Nhiều người cho rằng con phải lo toan cho cuộc sống gia
đình riêng với cơm áo, gạo, tiền, trong khi đó các chuẩn mực gia đình, dòng
họ truyền thống làm gò bó, cản trở tự do cá nhân, từ đó hạ thấp, thậm chí phủ
định hoàn toàn vai trò của gia đình, dòng họ. Bên cạnh đó, tư tưởng phong
kiến, trọng nam khinh nữ, gia trưởng, ngôi thứ, sự ganh đua, cục bộ, bè phái...
41
cũng góp phần tạo ra những tiêu cực, làm giảm bớt vai trò của dòng họ trong
cộng đồng.
Tuy nhiên, gia đình, dòng họ trong quan niệm của đa số người dân vẫn
có vai trò quan trọng. Nhiều dòng họ ở khắp các địa phương, vùng miền, do ý
thức được cội nguồn dòng giống đã luôn quan tâm vun đắp, xây dựng và phát
triển sinh hoạt văn hóa dòng họ. Biểu hiện cụ thể là việc tổ chức sưu tầm, viết
bổ sung gia phả, hệ phả, tổ chức trùng tu, xây dựng nhà thờ, mộ tổ khang
trang, tổ chức quỹ khuyến học, khuyến tài. Có thể nói kể từ sau Đổi mới
(1986), sinh hoạt văn hóa dòng họ đã có sự phục hồi mạnh mẽ với những khởi
sắc mới so với trước.
Trải qua bề dày và thăng trầm của lịch sử những người con của dòng họ
Nguyễn Quý tại phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã
và đang phát huy, giữ gìn rất tốt sinh hoạt văn hoá dòng họ những sản phẩm
vật chất và tinh thần rất đáng quý đó góp phần tô điểm thêm cho nền văn hoá
của đất nước nói chung và dòng họ địa phương nói riêng.
Để thời gian tới, dòng họ Nguyễn Quý phát huy tốt hơn truyền thống
sinh hoạt văn hóa, tác giả xin đưa ra một số khuyến nghị như sau:
Trước hết, đối với các sinh hoạt vật thể: Mặc dù thời gian vừa qua, các
di tích, cơ sở thờ tự, mộ tổ của dòng họ đã được quan tâm nhưng vẫn cần
được chăm lo bảo quản, tu bổ thường xuyên, tránh bị hư hỏng, xuống cấp.
Trong quá trình tu bổ, xay dựng, cần có sự tư vấn của các nhà chuyên môn,
tránh tự ý sửa sang, lắp ghép một cách tùy tiện khiến cho di tích của dòng họ
bị lai căng, kệch cỡm. Hội đồng gia tộc Nguyễn Quý cần thường xuyên giáo
dục các thành viên trong dòng họ có ý thức bảo vệ, giữ gìn các hiện vật cổ
còn lưu giữ lại tại đây. Tu bổ Từ đường, miếu mạo khi xuống cấp, mộ tổ cần
thường xuyên quan tâm chăm lo hơn. Thực tế cho thấy, trong việc bảo tồn di
tích, chăm sóc cơ sở thờ tự và phần mộ gia tiên, nhân tố con người bao giờ
cùng giữ phần quyết định.
Đối với nghi lễ, nghi thức cần được duy trì thường xuyên tránh làm mai
42
một các giá trị văn hoá tinh thần của dòng họ. Giáo dục con cháu các thế hệ
đạo hiếu kính tổ tiên, thực hiện các nề nếp gia phong của dòng họ, không chỉ
trong các nghi lễ, sinh hoạt mà ngay từ trong mỗi gia đình, đó là truyền thống
hiếu đễ, hiếu học thành danh mà tổ tiên dòng họ Nguyễn Quý bao đời nay đã
gây dựng và trao truyền đến hôm nay.
Tuyên truyền giáo dục lịch sử truyền thống của dòng họ là việc làm cần
thiết. Đây cũng là công việc cần thiết, có lợi cho cả trước mắt và lâu dài. Các
biện pháp, hình thức tuyên truyền là:
+ Tổ chức các buổi nói chuyện, thi tìm hiểu về lịch sử dòng họ, nhất là
về công đức của Tam vị đại vương trong ngày giỗ, hội họp, ngày Xuân tế;
+ In tờ rơi, hoặc thành sách mỏng có nội dung truyền thống của dòng
họ.
+ Tại khu Từ đường cần có một bảng giới thiệu về khu di tích này, qua
đó giới thiệu công đức của Tam vị đại vương, đóng góp của dòng họ với lịch
sử đất nước. Dòng họ Nguyễn Quý đã nổi tiếng nhờ vào truyền thống học
hành khoa bảng, như đã trình bày ở trên, vì thế việc khuyến khích con cháu
học giỏi là việc làm cần thiết.
Tấm gương lớn nhất của dòng họ là Tam vị đại vương với đức tính cần
cù, tự học và dạy cho nhau để bố - con - ông cháu đã đỗ đạt, tạo đà cho các
thế hệ về sau noi theo tấm gương sáng của tổ tiên tiếp tục mạch học. Tấm
gương này cần được dòng họ coi trọng phát huy hơn nữa trong việc dạy dỗ ở
từng gia đình, đó là ông dạy cháu, cha mẹ dạy con, anh em chị em hướng dẫn
giúp đỡ nhau, không chỉ là kiến thức học tập mà còn là những bài học về ứng
xử, dạy dỗ từ lời ăn tiếng nói; và ông cha, những người lớn tuổi phải luôn là
tấm gương mẫu mực trong trang bị kiến thức, trong quan hệ với những người
xung quanh… con cháu phải luôn phấn đấu vươn lên để tự khẳng định mình
và khẳng định dòng họ của mình.
Dòng họ cần tìm cách thay đổi một số hình thức như việc tổ chức nêu
gương các cháu để các cháu thấy nếu học giỏi sẽ là điều rất vinh dự đối với tổ
43
tiên, với dòng họ và phấn đấu để học tốt hơn sẽ làm tấm gương tốt để các
cháu khác chưa giỏi noi theo. Các gia đình lần đầu tiên có người tốt nghiệp từ
phổ thông trung học trở lên, các học sinh được vào đội tuyển từ cấp huyện và
tương đương trở lên được báo công trước bàn thờ Tổ và Hội đồng gia tộc biểu
dương trong ngày giỗ Tổ.
Để duy trì việc bảo tồn, phát huy những giá trị của sinh hoạt văn hoá
dòng họ, dòng họ cần lập ra Quy ước dòng họ để điều tiết các mối quan hệ
trong gia tộc, cũng như giáo dục con cháu phải có trách nghiệm với dòng tộc,
giữ gìn và phát huy những truyền thống quý báu của thế hệ trước đã tạo nên.
Hiện nay theo điều tra của tác giả, dòng họ Nguyễn Quý mặc dù duy trì sinh
hoạt dòng họ rất tốt, những vẫn duy trì theo truyền thống, nói cách khác là
duy trì sinh hoạt thông qua truyền miệng chứ chưa có quy ước dòng họ. Vì
vậy, để dòng họ sinh hoạt quy củ, nề nếp và xứng tầm hơn với truyền thống,
cần sớm xây dựng quy ước của dòng họ đưa vào hoạt động.
Đối với việc cố kết cộng đồng trong dòng họ cần giáo dục con cháu các
thế hệ tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động sinh hoạt văn hoá của
dòng họ từ đó hình thành nên sự gắn kết bền chặt giữa các thành viên với
dòng họ.
Dòng họ Nguyễn Quý có truyền thống về khoa bảng, học hành nên
khuyến nghị mỗi gia đình trong dòng họ Nguyễn Quý nên thường xuyên kể
các câu truyện lịch sử về dòng họ cho thế hệ trẻ để từ đó giáo dục con cháu có
ý thức về cội nguồn, cố gắng noi gương các tổ tiên nhà mình. Bên cạnh đó,
vào các dịp giỗ họ, chạp họ, Hội đồng gia tộc cần có kế hoạch tuyên truyền,
giáo dục đến các thành viên: như nói chuyện về gia phả, về các bậc danh
nhân, viết tóm tắt lịch sử, kiến trúc của từ đường, tiểu sử các danh nhân, trích
quy ước dòng họ in và treo ở Từ đường để các thành viên trong họ tiện theo
dõi, hiểu được giá trị, ý nghĩa của từ đường, văn hóa, danh nhân trong dòng
họ, từ đó phát huy lòng tự hào, tích cực xây dựng dòng tộc, duy trì truyền
thống văn hóa dòng tộc trong bối cảnh hiện nay.
44
Cuối cùng, dòng họ cần phải thiết lập, cải tiến các sinh hoạt văn hoá
phong phú hơn nhằm thu hút và hấp dẫn hơn các du khách thập phương, từ đó
phát triển văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cụ
thể trước hết cần cải tiến các sinh hoạt của dòng họ và hoạt động của Hội đồng
gia tộc. Hoạt động của Hội đồng gia tộc dòng họ Nguyễn Quý cho đến hiện nay
vẫn chưa thật phong phú, linh hoạt, vẫn nặng về các hoạt động thờ cúng, làm cho
những ngày lễ của dòng họ kém phần hấp dẫn, nhất là với lứa tuổi trẻ. Cần tham
khảo kinh nghiệm của những thành viên có chuyên môn trong dòng họ và tại địa
phương, đồng thời kết hợp với chính chính quyền xã để nội dung và các hoạt
động trong ngày giỗ tổ, chạp họ được phong phú và hấp dẫn.
Khắc phục việc không thành công trong lần lập quỹ khuyến học đầu tiên,
dòng họ Nguyễn Quý cần tham khảo một số dòng họ đã xây dựng được quỹ học
rất lớn, họ đã khích lệ được những người trong dòng họ của mình thành đạt, có
kinh tế vững mạnh, đặc biệt là bà con đang sinh sống ở nước ngoài để đóng góp
khiến cho quỹ khuyến học.
Cuối cùng, cần phát huy sức mạnh tổng hợp (bằng tổ chức, bằng dư
luận…) của cả dòng họ trong việc giáo dục con người, nhất là với thế hệ trẻ, để
con em trong gia đình, dòng họ phát huy điểm tốt, ngăn chặn hành vi xấu, tiêu
cực, bảo vệ uy tín của gia tộc, dòng họ, tránh những hiện tượng tiêu cực, như kéo
bè phái, kèn cựa giữa các dòng họ hay tư tưởng gia trưởng, ngôi thứ trong dòng
họ làm ảnh hưởng xấu tới tinh thần dân chủ, quyền tự do cá nhân của mỗi thành
viên trong dòng họ.
45
Tiểu kết
Trong chương 3, tác giả đã chỉ ra những giá trị trong sinh hoạt văn hóa
dòng họ Nguyễn Quý ở phường Đại Mỗ (quận Nam từ Liêm, thành phố Hà
Nội). Nhìn chung đây là một dòng họ lớn trên vùng đất Đại Mỗ, có truyền thống
học hành, thành đạt với những danh nhân nổi tiếng, có những đóng góp quan
trong cho sự phát triển các triều đại quân chủ ở Việt Nam. Ngày nay, truyền
thống sinh hoạt của dòng họ vẫn được phát huy rất tốt. Những sinh hoạt của
dòng họ không chỉ có ảnh hưởng tới các thành viên trong dòng họ và còn ảnh
hưởng tích cực tới nhân dân trên địa bàn phường. Để dòng họ hoạt động có nề
nếp, quy củ và xứng tầm hơn với truyền thống, tác giả cũng đưa ra một số
khuyến nghị, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục truyền thống dòng họ
cho các thành viên từ trong mỗi gia đình của dòng họ.
46
KẾT LUẬN
Dòng họ Nguyễn Quý là một trong những dòng họ có mặt tại phường
Đại Mỗ từ lâu đời, xưa kia dòng họ này có rất nhiều người đỗ đạt khoa bảng
chính vì vậy dòng họ Nguyễn Quý có mang nét văn hoá truyền thống học
hành mà nổi bật nhất là ba bố con, ông cháu Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý
Ân, Nguyễn Quý Kính trong chính trường của Việt Nam đã có nhiều đóng
góp xây dựng cho đất nước, cho nhân dân, có nhiều đóng góp về các mặt kinh
tế, văn hoá, xã hội và chính trị thời Lê - Trịnh.
Ngày nay con cháu dòng họ Nguyễn Quý đã và đang giữ nét văn hoá
truyền thống đó của cha ông. Những di sản mà các thế hệ trước truyền lại vẫn
được các thế hệ sau của dòng họ Nguyễn Quý bảo lưu cho tới bây giờ. Các
sinh hoạt văn hoá của dòng họ Nguyễn Quý cũng được con cháu gìn giữ và
phát huy những giá trị văn hoá đó. Nét văn hoá của dòng họ Nguyễn Quý
mang đậm nét văn hoá nông thôn cũ, đây cũng là một trong những đặc trưng
của văn hoá đồng bằng Bắc Bộ.
Cuối cùng, sinh hoạt văn hoá dòng họ mang một nét đặc trưng về tín
ngưỡng tâm linh của con cháu đối với cha ông, sự tôn trọng những giá trị
thiêng liêng mà cha ông để lại, đó là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Các
dòng họ nói chung và dòng họ Nguyễn Quý nói riêng cần phát huy, kế thừa
những giá trị tốt đẹp đó, cùng góp phần đưa Việt Nam hướng tới một nền văn
hoá đậm đà bản sắc dân tộc.
47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đức Cường (chủ chủ biên), Danh nhân Nguyễn Quý Đức nhà
chính trị - văn hoá lớn thế kỷ XVII – XVIII, Viện sử học.
2. Phan Đại Doãn, Mai Văn Hai (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ
sông Hồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Bùi Xuân Đính, Nguyễn Viết Chức (Đồng chủ biên) (2010), Các
làng khoa bảng Thăng Long - Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Bùi Xuân Đính (2010), Giáo dục và Khoa cử nho học Thăng Long –
Hà Nội, Nxb Hà Nội.
5. Vũ Thế Khôi (Dịch và chú thích), Nguyễn Văn Nguyên (Hiệu đính)
(2004), Vũ tộc thế hệ sự tích Mộ Trạch -Hải Dương, Nxb Thế giới, Hà Nội.
6. Nguyễn Quang Lê (chủ biên) (2018), Những biến đổi văn hoá dòng
họ người Việt thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội.
7. Ninh Viết Giao (1998), Địa chí văn hóa Quỳnh Lưu, Nghệ An, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Quy ước làng văn hoá Thôn Đình xã Đại Mỗ - huyện Từ Liêm -
thành phố Hà Nội (2003).
9. Hội văn nghệ dân gian Nghệ An, Sở Khoa học công nghệ và môi
trường Nghệ An, Ủy ban dân số và kế hoạch hóa gia đình Nghệ An, Viện
Nghiên cứu Văn hóa dân gian (1997), Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An (Kỷ
yếu hội thảo khoa học), Nxb Nghệ An.
10. Hương ước làng Đại Mỗ - Tổng đại Mỗ - Phủ Hoài Đức - Tỉnh Hà
Đông (1936), Thư viện Viện Khoa học xã hội.
11. Nguyễn Quý Vy (chủ biên) (2007), Gia phả dòng họ Nguyễn Quý,
Tài liệu lưu hành nội bộ.
48
PHỤ LỤC
Hình ảnh sinh hoạt văn hóa dòng họ Nguyễn Quý (phƣờng Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội)
Ảnh 1. Lăng mộ danh nhân Nguyễn Quý Đức
[Nguồn: Ảnh tư liệu của dòng họ Nguyễn Quý]
Ảnh 2. Phần mộ cụ Nguyễn Quý Ân
[Nguồn: Tác giả chụp ]
49
Ảnh 3: Phần mộ cụ Nguyễn Quý Kính
[Nguồn: Tác giả chụp ]
Ảnh 4: Toàn cảnh Từ đường dòng họ Nguyễn Quý
[Nguồn: Tác giả chụp ]
50
Ảnh 5. Sân ngoài nhà thờ Tam Đại Vương dòng họ Nguyễn Quý
[Nguồn: Tác giả chụp]
Ảnh 6. Bên trong Từ đường dòng họ Nguyễn Quý
[Nguồn: Tác giả chụp]
51
Ảnh 7. Miếu Động Biện (Lạc Thọ Đình) thờ danh nhân Nguyễn Quý Đức
[Nguồn: Tác giả chụp lại từ ảnh tư liệu dòng họ Nguyễn Quý]
Ảnh 8: Nghi thức tế lễ tổ tiên tại từ đường dòng họ Nguyễn Quý
[Nguồn: Tác giả chụp lại từ ảnh tư liệu dòng họ]
52
Ảnh 9, 10, 11. Hình ảnh về lễ kéo lửa, thổi xôi trong ngày giỗ tổ họ
[Nguồn: Nguồn tư liệu dòng họ]
53
Ảnh 13. Chân dung danh nhân Nguyễn Quý Đức, tranh lụa cổ
[Nguồn: Tác giả chụp từ nguồn tư liệu dòng họ]
54
Ảnh 14. Chân dung cụ Nguyễn Quý Kính, tranh lụa cổ
[Nguồn: Tác giả chụp từ tư liệu dòng họ]