Quy trình kỹ thuật nuôi cá linh trong
ao đất
I. Đặc điểm sinh học
Cá Linh ống (Cirrhinus jullieni) thuộc giống Cirrhinus, họ Cyprinidae, bộ cá Chép
Cypriniformes là một loài cá có giá trị kinh tế nhưng sản lượng cá Linh ngày càng
giảm sút rõ rệt, cần phải có biện pháp để bảo vệ. Vì vậy cá Linh bị cấm khai thác
vào mùa cá sinh sản từ 01/04 đến 01/06.
Cá Linh ngoài phân bố ở ĐBSCL Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan cá Linh
còn phân bố ở Inđônêxia và Malaysia. Cá Linh là loài đặc hữu của sông Mekong,
có mặt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long cho đến Chiềng Không gần biên giới giữa
Lào, Thái Lan và Myanma trên cả sông chính và chi lưu.
Mùa vụ sinh sản của cá Linh từ tháng 5 – 7. Bãi đẻ của cá Linh thường ở ngã ba
sông, ven cồn, nơi nước chảy Cá Linh thành thục ở chiều dài 11cm. Một cá Linh
cái có chiều dài 12,9-20 cm có thể đẻ 23.500-90.500 trứng. Trứng nở thành cá bột
khoảng 13 giờ ở nhiệt độ 26,8oC.
Hàng năm bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 12 cá Linh từ các đồng ruộng theo các
kênh rạch đổ ra sông lớn (sông Tiền, sông Hậu) rồi ngược dòng lên thượng nguồn
để sinh sản. Bắt đầu từ tháng 7 cá Linh non (chiều dài từ 1,5-3,0 cm) theo dòng
nước xuống địa phận Việt Nam theo các kênh rạch vào đồng ruộng để sinh sống
Đến tháng 11-12 cá Linh từ đồng ruộng theo kênh rạch đổ ra sông lớn (sông Tiền,
sông Hậu) rồi ngược dòng lên thượng nguồn trở về sông Tonle Sap . Cá Linh ống
trưởng thành có mình tròn, cỡ 8 - 5 cm, con lớn nhất dài 22 cm, nặng 160g .
Các loài Cirrhinus chiếm ưu thế ở trung và hạ lưu sông Mekong là loài cá có tuổi
đời ngắn, thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên thay đổi hàng năm của sông
Mekong. Cirrhinus đẻ trứng vào đầu mùa lũ, trứng và ấu trùng di chuyển theo dòng
nước đến vùng ngập kiếm ăn và sinh trưởng. Khi bắt đầu mùa khô, chúng từ vùng
ngập nước đang xuống, quay trở lại sông và bắt đầu cuộc di cư đi tìm nơi ẩn náu
vực sâu trong lưu vực. Khi mùa lũ tiếp theo chúng thành thục và bắt đầu sinh sản.
Thức ăn tìm được trong dạ dày cá Linh chủ yếu là mùn bã hữu cơ, phiêu sinh thực
vật. Cá Linh Ống ngoài ăn phiêu sinh thực vật, vật chất hữu cơ thỉnh thoảng còn ăn
sinh vật đáy và động vật không xương sống. Ngoài ra cá còn ăn thực vật thuỷ sinh
thượng đẳng, sinh vật đáy và phiêu sinh động vật.
II. Chuẩn bị ao nuôi
- Tát cạn ao, sau đó tẩy dọn ao để tạo ra môi trường ao nuôi thuận lợi. Dùng vôi
bột tẩy ao: 7-10kg/100m2 (Tuỳ độ phèn của đáy ao mà tăng hay giảm lượng vôi
cho phù hợp). Vôi có tác dụng tiêu diệt cá dữ, cá tạp, các đối tượng địch hại, ký
sinh trùng, ngoài ra còn làm xốp đáy, tạo ra sự thoáng khí của đáy. giúp cho vi sinh
vật chuyển hóa đạm, lân hoạt động.
- Bón lót: làm tăng chất dinh dưỡng cho ao, gây thức ăn tự nhiên sẵn có trong ao.
Bón lót trước khi thả cá 3-4 ngày, không bón quá sớm hoặc quá muộn. Bón phân
chuồng 30-50 kg/100m2.
- Lọc nước vào ao cẩn thận để tránh cá tạp và sinh vật hại cá vào ao. Mực nước
1,2-1,5m.
- Thiết lập hệ thống sục khí để cung cấp thêm oxygen cho hệ thống.
- Sau khi cho nước vào khoản 3 ngày thấy nước có màu xanh dọt chuối là thả cá
đước.
III. Thả giống.
Mật độ thả 500-1000 con/m2.
Chọn mua cá linh bột ở những cơ sở sản xuất giống có uy tính.
Nên vận chuyển cá lúc sáng sơm hoặc chiều mát.
Trước khi thả nên ngâm túi đựng cá dưới ao khoản 15 – 20 phút cho nhiệt độ bên
trong và ngoài ao cân bằng nhau.
IV. Chăm sóc quản lý.
Thức ăn chủ yếu của cá linh là phiêu sinh thực vật, vật chất hữu cơ thỉnh thoảng
còn ăn sinh vật đáy và động vật không xương sống. Ngoài ra cá còn ăn thực vật
thuỷ sinh thượng đẳng, sinh vật đáy và phiêu sinh động vật. Vì vậy Phải đảm bảo
nước ao có chất lượng tốt, đủ dinh dưỡng cho cá. Tăng dần mực nước trong ao để
mở rộng môi trường hoạt động của cá. Trong quá trình nuôi cần tạo nguồn thức ăn
tự nhiên đầy đủ, chủ yếu là ổn định màu nước xanh đọt chuối của ao nuôi.
Để duy trì màu nước ao nuôi nên hiện một số phương pháp sau:
- Định kỳ hàng tuần bón phân vô cơ ( DAP) 3-5kg/1.000m2
- Định kỳ bón phân hữu cơ ( Phân chuồng) 30 - 50kg/100m2/tuần, phân xanh bón
từ 30-40 kg/100m2/tuần, ( Gồm các cây họ đậu: muồng tròn, đậu đen, sua đủa, điên
điển, bèo hoa dâu…). Bó thành từng bó cột ở các góc ao.
Ngoài ra, do cá linh nuôi trong điều kiện thâm canh nên chúng ta có thể bổ sung
thêm thức ăn công nghiệp có độ đạm thấp 18 - 22%, để đảm bảo cá đầy đủ thức ăn
và phát triển đồng điều.
Cá linh có hệ thống hô hấp kém, không có cở quan hô hấp phụ và nuôi với mật độ
cao nên nước ao nuôi cần sạch sẽ và đủ dưỡng khí vì vậy phải thay nước khi nước
bẩn và bố trí hệ thống sục khí để cung cấp Oxy cho cá.
V. Thu hoạch
Sau khi nuôi 1 – 2 tháng ta có thể thu hoạch tùy theo kích cở cần bán. Tỉ lệ sống
bình quân 50%.
a