Kỹ thuật trồng hoa lan
lượt xem 202
download
Thay châu hoa lan/Kỹ thuật nuôi trồng lan ̣ Việc thay chậu hoa lan là một việc làm cần thiết vì các loại hoa được trồng trong chậu sau một thời gian thường có nhiều rễ bị thối, giá thể bị mục,
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Kỹ thuật trồng hoa lan
- Thay châu hoa lan/Kỹ thuật nuôi trồng lan ̣ Việc thay chậu hoa lan là một việc làm cần thiết vì các loại hoa được trồng trong chậu sau một thời gian thường có nhiều rễ bị thối, giá thể bị mục, rêu bám đầy chậu là môi trường thích hợp cho các loài sâu bệnh hoạt động. Chậu không còn đủ đáp ứng nhu cầu vệ sinh trường và phát triển của cây vì thế việc thay chậu phải được tiến hành định kỳ. Biểu hiện eần phải thay chậu lan là: Kích thước mất cân đối giữa cây và chậu + Giá thể bị hư mục. + Rễ bị thối nhiều. + Rêu bám đầy chậu. Định kỳ khoảng 2 năm để thay chậu có thể áp dụng cho hầu hết các loài. Mùa thay chậu: Tùy địa phương và vườn lan hiện có, điều kiện về trang thiết bị có được của vườn, loại lan mà công việc thay chậu có thể tiến hành bất cứ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên tốt hơn hết là, tiến hành thay chậu vào đầu mùa tăng trưởng của từng loài, kết hợp đồng thời với nhân giống bằng phương pháp tịch chiết. Nhìn chung đầu mùa mưa rất lý tưởng cho việc thay chậu của hầu hết các loài. Các cách thay chậu: Nêu chậu làm băng chât liệu tốt, cây không mất cân đối rễ không bị thối việc thay ̀ ́ chậu được tiến hành như sau: Dùng một vòi nước khá mạnh, phun vào giá thể để thổi tróc những chất mùn lắng đọng ở đây, sau đó dùng kẹp gắp bỏ tất cả những giá thể hiện có trong chậu như gạch, than vụn, nhúng chậu vào dung dịch có pha thuốc ngừa rêu. (Vài giọt consan 20 trong 4 lít). Cuối cùng rửa cây và chậu một lần cuối. Đặt chậu vào chỗ thật thoáng, mát và ẩm, phun dung dịch hocmon thương mại (1 - 2 giọt trong 4 lít) gồm B1 + ANA, một tuần lễ sau đặt giá thể mới vào chậu. Có thể đập bỏ chậu cũ, chỉ chừa lại những phần có rễ bám chặt hay ngâm hẳn chậu lan vào dung dịch thuốc ngừa rêu trong 30 phút sẽ làm cho cây tróc hắn ra khỏi chậu. Sau đó ta cột chặt cây lan vào chậu mới rồi treo vào chỗ thoáng mát và trình tự tiến hành như đã nói trên. Nếu chậu là một cây lan nhổ vừa phát triển lớn, có thể bỏ hẳn cây và chậu nhỏ vào trong một chậu mới lớn hơn. Môi trường trông hoa lan/Kỹ thuật nuôi trồng lan ̀ Loại chất trồng được chọn tùy thuộc điều kiện ngoại cảnh, nhân lực, loài lan Và qui mô sản xuất. Các chất trồng được sử dụng hiện nay gồm than, gạch, dớn, xơ dừa, rễ lục bình, vỏ thông. Các chất trồng của lan khác với đất dể trồng cây. Các chất trồng này dùng để cải thiện độ ẩm và tác dụng cơ học hơn là cung cấp dinh dưỡng.
- + Than gỗ: Được dùng với mục đích giữ ẩm. Than là một chất trồng tốt nhất vì không có mầm bệnh, không bị mục và có khả năng giữ nước, vì thế than sẽ hấp thụ dinh dưỡng qua quá trình bón phân và thải ra dần qua sức hút rất mạnh của rễ lan. Than được dùng gở đây là loại than gỗ rừng Giồng, được nung thật chín. Tránh tuyệt đối dùng các loại than gỗ rừng sác (đước) vì hàm lượng NacL trong than cao, dễ làm thết ]an. + Gạch: Gạch trồng lan tốt phải nung thật già, nhằm mục đích ngăn chặn rêu mọc. Gạch ngói tốt hơn gạch thẻ vì có độ cong nên chất trồng luôn luôn có độ thoáng thích hợp. Ngoài ra bề mặt rễ bám cũng rộng hơn; nên rễ không phải mọc chồng chất lên nhau, cây sẽ phát triển tốt hơn nhưng nhược điểm của gạch là nặng nên không thích hợp cho việc trồng bằng dây treo. + Dớn Đây là dạng sợi của thân và rễ cây dương xỉ (Cybotium baronletz) là một loại cây mọc nhiều ở các vùng thung lũng đồi núi Đà Lạt. Sở dĩ dớn được chọn vì không bao giờ đóng rêu nhưng hút ẩm tốt. Tuy nhiên, nếu chất trồng toàn dớn thì không có độ thoáng. Có 2 loại dớn: - Dớn sợi: là loại dớn già, hóa mộc. (Có dạng từng sợi được ưa chuộng để trồng lan ở thành phố). - Dớn vụn: là phần còn lại của cây dớn sau khi đã lấy loại dớn sợi loại dớn vụn là nhưng phần non của thân cây dớn - loại này sử dụng trồng lan rất tốt ở vùng lạnh vì độ hút ẩm cao, thiếu thoáng khí, nên nhiệt độ trong chậu cao hơn bên ngoài , do đó dớn tạo một độ ẩm nhất định thuận lợi cho sự phát triển của rễ. Trái lại do điều kiện sinh thái ở thành phố có khác, nên các nhà vườn trồng lan tuyệt đối không nên dùng loại dớn vụn, vì nhiệt độ cao và ẩm độ tháp, nên phải tưới nước nhiều, dớn vụn bị bít dễ làm thối rễ lan. Ngoài ra, diều kiện nóng ẩm rất thuận lợi, cho một số loại côn trùng và nấm bệnh chọn dớn làm mục tiêu cắn phá. + Xơ dừa: Đây là chất trồng rất cần nếu sản xuất lan đại trà trên qui mô lớn. Xơ dừa có khuyết điểm dễ mọc rêu, không thoáng, dễ mục, nhưng do số lượng nhiều và rất rẻ nên xơ dừa được trồng thành băng trên vạt tre. Nếu dùng xơ dừa trồng chậu phải hạn chế tưới nước. Tốt nhất là tạo điều kiện ẩm độ bên ngoài hơn là trong chậu. Đối với chất trồng này phải phun thuốc ngừa sâu bệnh thường xuyên. Tuy nhiên xơ dừa lại là môi trường rất tốt cho đa số các loài lan thuộc giống Dendrobium. + Rễ lục bình: Cậy lục bình sống lan tràn mạnh mẽ ở khắp ao hồ, sông rạch trong cả nước, nên rất dễ kiếm, thuận lợi trong việc nuôi trồng hoa lan. Rễ lục bình có dộ hút ẩm cao, có nhiều đạm, giúp cây ra rễ và tăng trưởng rất mạnh trong thời gian đầu, nhưng dễ bị mục rã nên mắc các khuyết điểm như xơ dừa và dớn vụn.
- + Vỏ cây: Ở Việt Nam, có nhiều loại cây eo vỏ để trồng lan rất tốt tùy nhiên, nên chọn loại cây nào có vỏ lâu mục, vì vỏ cây cũng thuộc một' trong số những chất trồng mau hủy hoại . Cây lan được trồng bằng vỏ cây thời gian đầu phát triển rất tốt. Sau 1 năm vỏ bị phân hủy thành mùn, gây úng nước, thối rễ và cũng là môi trường thích hợp cho sự xuất hiện một số loài sâu cẩn phá rễ. Vì vậy với chất trồng bằng vỏ cây, cây lan phải được thay chậu luôn. Trong các loại vỏ cây sau: vú sữa, sao, me, trai, thông... thì vỏ thông là loại vỏ cây được ưa chuộng nhất, vì vỏ thông có chứa resin nên eo tính sát khuẩn cao, lâu mục, không đóng rêu, ít có mầm bệnh các nấm hại. Vỏ thông có thể được lấy từ cây Thông 2 lá (Pinus merkusii) hoặc cây thông 3 lá (Pinus khasya) có nhiều ở Bảo Lộc và Đà Lạt. Tuy nhiên vỏ thông cung rât bí bit, nên cân có lớp than đôn dưới đay châu cho thông ̃ ́ ́ ̀ ̣ ́ ̣ ́ thoang Achimo muốn post bài "môi trường trồng lan" từ trang web netcenter cho các bạn mới đọc và rút kinh nghiệm.[:)] Môi trường trông hoa lan 'Môi trường trông hoa lan'; Loại ̀ ̀ chất trồng được chọn tùy thuộc điều kiện ngoại cảnh, nhân lực, loài lan và qui mô sản xuất. Các chất trồng được sử dụng hiện nay gồm than, gạch, dớn, xơ dừa, rễ lục bình, vỏ thông. Các chất trồng của lan khác với đất dể trồng cây. Các chất trồng này dùng để cải thiện độ ẩm và tác dụng cơ học hơn là cung cấp dinh dưỡng. + Than gỗ: Được dùng với mục đích giữ ẩm. Than là một chất trồng tốt nhất vì không có mầm bệnh, không bị mục và có khả năng giữ nước, vì thế than sẽ hấp thụ dinh dưỡng qua quá trình bón phân và thải ra dần qua sức hút rất mạnh của rễ lan. Than được dùng ở đây là loại than gỗ rừng Giồng, được nung thật chín. Tránh tuyệt đối dùng các loại than gỗ rừng sác (đước) vì hàm lượng Nacl trong than cao, dễ làm chết lan. + Gạch: Gạch trồng lan tốt phải nung thật già, nhằm mục đích ngăn chặn rêu mọc. Gạch ngói tốt hơn gạch thẻ vì có độ cong nên chất trồng luôn luôn có độ thoáng thích hợp. Ngoài ra bề mặt rễ bám cũng rộng hơn; nên rễ không phải mọc chồng chất lên nhau, cây sẽ phát triển tốt hơn nhưng nhược điểm của gạch là nặng nên không thích hợp cho việc trồng bằng dây treo. + Dớn Đây là dạng sợi của thân và rễ cây dương xỉ (Cybotium baronletz) là một loại cây mọc nhiều ở các vùng thung lũng đồi núi Đà Lạt. Sở dĩ dớn được chọn vì không bao giờ đóng rêu nhưng hút ẩm tốt. Tuy nhiên, nếu chất trồng toàn dớn thì không có độ thoáng. Có 2 loại dớn: - Dớn sợi: là loại dớn già, hóa mộc. (Có dạng từng sợi được ưa chuộng để trồng lan ở thành phố). - Dớn vụn: là phần còn lại của cây dớn sau khi đã lấy loại dớn sợi loại dớn vụn là nhưng phần non của thân cây dớn - loại này sử dụng trồng lan rất tốt ở vùng lạnh vì độ hút ẩm cao, thiếu thoáng khí, nên nhiệt độ trong chậu cao hơn bên ngoài , do đó dớn tạo một độ ẩm nhất định thuận lợi cho sự phát triển của rễ. Trái lại do điều kiện sinh thái ở thành phố có khác, nên các nhà vườn trồng lan tuyệt đối không nên dùng loại dớn vụn, vì nhiệt độ cao và ẩm độ tháp, nên phải tưới nước nhiều, dớn vụn bị bít dễ làm thối rễ lan. Ngoài ra, diều kiện nóng ẩm rất thuận lợi, cho một số loại côn trùng và nấm bệnh chọn dớn làm mục tiêu cắn phá. + Xơ dừa: Đây là chất trồng rất cần nếu sản xuất lan đại trà trên qui mô lớn. Xơ dừa có khuyết điểm dễ mọc rêu, không thoáng, dễ mục, nhưng do
- số lượng nhiều và rất rẻ nên xơ dừa được trồng thành băng trên vạt tre. Nếu dùng xơ dừa trồng chậu phải hạn chế tưới nước. Tốt nhất là tạo điều kiện ẩm độ bên ngoài hơn là trong chậu. Đối với chất trồng này phải phun thuốc ngừa sâu bệnh thường xuyên. Tuy nhiên xơ dừa lại là môi trường rất tốt cho đa số các loài lan thuộc giống Dendrobium. + Rễ lục bình: Cậy lục bình sống lan tràn mạnh mẽ ở khắp ao hồ, sông rạch trong cả nước, nên rất dễ kiếm, thuận lợi trong việc nuôi trồng hoa lan. Rễ lục bình có dộ hút ẩm cao, có nhiều đạm, giúp cây ra rễ và tăng trưởng rất mạnh trong thời gian đầu, nhưng dễ bị mục rã nên mắc các khuyết điểm như xơ dừa và dớn vụn. + Vỏ cây: Ở Việt Nam, có nhiều loại cây eo vỏ để trồng lan rất tốt tùy nhiên, nên chọn loại cây nào có vỏ lâu mục, vì vỏ cây cũng thuộc một' trong số những chất trồng mau hủy hoại . Cây lan được trồng bằng vỏ cây thời gian đầu phát triển rất tốt. Sau 1 năm vỏ bị phân hủy thành mùn, gây úng nước, thối rễ và cũng là môi trường thích hợp cho sự xuất hiện một số loài sâu cẩn phá rễ. Vì vậy với chất trồng bằng vỏ cây, cây lan phải được thay chậu luôn. Trong các loại vỏ cây sau: vú sữa, sao, me, trai, thông... thì vỏ thông là loại vỏ cây được ưa chuộng nhất, vì vỏ thông có chứa resin nên eo tính sát khuẩn cao, lâu mục, không đóng rêu, ít có mầm bệnh các nấm hại. Vỏ thông có thể được lấy từ cây Thông 2 lá (Pinus merkusii) hoặc cây thông 3 lá (Pinus khasya) có nhiều ở Bảo Lộc và Đà Lạt. Tuy nhiên vỏ thông cung rât bí bit, nên cân có lớp than đôn ̃ ́ ́ ̀ ̣ dưới đay châu cho thông thoáng. (Theo svc.vn) Việc gì cũng khó khi nó chưa thành thói ́ ̣ quen khi...... nó đã thành thói quen rồi thì nó sẽ không khó..........!!! ^--^ (Hồ Chí Minh) Nhiều người lầm tưởng rằng cây Phong Lan chỉ cần có khí trời và nước là có thể sống và phát triển được. Thật ra, cây Phong lan cũng như tất cả các loại cây trồng khác đều phải có đầy đủ chất dinh dưỡng và kích thích tố. Nhìn chung, một cây Phong lan (cả lan rừng lẫn lan cấy mô) đều cần rất nhiều nguyên tố, trong đó nổi bật các nguyên tố da lượng như N (Đạm), P (Lân) và K (Kali) và các nguyên tô vi lượng như Fe (Sắt), Cu (Đồng), Ma (Ma ngan), Bo (Bo), Mo (Molibden)... Ngoài ra Phong lan cũng cần phải có đầy đủ các nguyên tố bổ sung như Ca (Calci), Mg (ma giê), S (sunphua)... Mỗi một loại nguyên tố đều có giá trị dinh dưỡng riêng của nó, không thể thiếu được. Ví dụ, đạm cần cho việc đảm bảo Protein và Nuleoprotein trong tế bào, giúp cho sự tăng trưởng của cây (nhất là ở lá) và sự hô hấp. Cây Phong lan thiếu đạm sẽ cằn cỗi, yếu, không xanh tươi và lá nhỏ, hơi vàng. Còn lân rất cần cho sự quang hợp, giúp cho việc tăng cường sự chuyển hóa năng lượng trong cơ thể, làm cây chóng ra rễ, nẩy mầm khỏe và sớm có hoa. Thiếu lân, cây Phong lan sẽ kém tăng trương, cây nhỏ, sức đề kháng kém, lá xanh pha tím, rễ ít, chậm ra hoa. Còn Kali đảm bảo sự vận chuyển nước và các chát dinh dưỡng trong cây, luân lưu sự điều hòa như quang hợp, phân hóa tế bào, làm cho cây dự trữ
- được chất dinh dtfơng. Nếu thiếu Ka li, cây ngừng phát triển, khô dần, lá úa vàng dễ rụng. Hiện nay, do việc nuôi trồng Phong lan đã đi vào sản xuất công nghiệp, do đó rất nhiều cơ sở sản xuất đã pha sẵn các dung dịch dinh dưỡng để bón cho cây, trong đó chủ đạo gồm 3 nguyên tố chủ yếu N, P, K với các nguyên tố vi lượng bổ sung thích hợp. Phong lan sau khi được đưa ra khỏi chai cấy mô sẽ phát triển quả 4 giai đoạn với 4 chế độ dinh dưỡng khác nhau: - Phong lan dưới 3 tháng tuổi, phân bón chủ yếu là đạm, còn lân và kali cũng dùng, nhưng rất loãng. Cụ thể Phong lan 2 tháng dùng 3 g đạm pha trong 10 lít nước và tưới mỗi tuần 1 lần... Phong lan 3 tháng, dùng 5 g đạm trong 10 lít nước và tưới 10 ngày 1 lần (có thể pha loãng bằng một nửa và tưới sát ngày hơn). - Phong lan từ 4 tháng đến 10 tháng tuổi, dùng cả 3 loại nguyên tố, với công thức N = 3, P = 1, K : 1. cụ thể là: 10g N + 3g P + 3g K pha trong 10 lít nước và cứ 15 ngày tưới 1 lần (có thể pha loãng một nửa và tưới 1 tuần 1 lần). - Phong lan từ 10 tháng đến 16 tháng tuổi, dùng cả 3 nguyên tố như nhau (N = 2, P = 2, K = 2) cụ thể là : 6g N + 6g P + 6g K, pha trong 10 lít nước, 15 ngày tưới 1 lần (có thể pha loãng một nửa và một tuần tưới một lần), kết hợp pha thêm nguyên tố vi lượng. - Phong lan từ 16 tháng tuổi trở lên, cho đến khi ra hoa, dùng công thức N = 1, P = 2, K = 3. Cụ thể là 5g N, 10g P, 15g K pha chung trong 10 lít nước, nửa tháng tưới 1 lần (có thể pha loãng một nửa và tưới tuần 1 lần) dùng nhiều nguyên tố vi lượng hơn. Về nguồn phân vô cơ này, có thể dùng các loại cho phù hợp với Phong lan như N nên dùng (NH4)2SO4 21% N (Sulphat amnonium, hơi chua, Phong lan dễ tiếp thu. Về P nên dùng [CaH4(PO4)2CaSO4 (Super lân) 20% P2O5 dễ tan nên Phong lan hấp thu được ngay. Về K nên dùng SO4K2 (sulphat Kali). Còn các nguyên tố khác như Ca thì dùng Ca(NO3)2 (không nên dùng vôi trắng); Mg thì dùng MgSO4 hay MgHPO4; Fe nên dùng sắt tam FeCl3; còn Cu nên dùng đồng nhị CuCl2; Zn có thể dùng cả ZnCl2 Và ZnSO4; Cũng như Ma dùng cả MnCl2 và MnSO4. Ngoài ra, có thể pha thêm một ít các vitamin (loại C và B) các chất kích thích tố như 2,4 D, Giberalin, Citokinin... Khi Phong lan đã trưởng thành (nhất là các loài Phong lan rừng giai đoạn sinh trưởng
- khá dài) có thể dùng các loại phân hữu cơ. Thông dụng có thể dùng nước tiểu (pha thật loãng 1/20 và mỗi tuần tưới 2 lần), phân các loài động vật (phân bò, lợn...) ngâm trong nước cho thật mục, lọc lấy nước rồi tưới cho cây (1 phần phân hòa với 30 phần nước). phân chuồng rất giàu các chất N, P, K cùng với các nguyên tố vi lượng c ần thiết, nó rất thích hợp cho các loài Phong lan trồng ở luống (trong đó phân bò và phân lợn, được xem là thích hợp nhất). Phân bò tươi có tác dụng ủ mát và kích thích rễ Phong lan phát triển, nếu để hoại sẽ mất đi nhiều chất cần cho cây. Còn phân lợn có thể bón cho Phong lan trồng ở chậu lớn vừa phân) vừa nước tiểu lợn, nó cũng có tác dụng rất lớn đến sự tăng trưởng của rễ Phong lan, tuy nhiên chỉ nên dùng mỗi tháng một lần, và đối với Phong lan mới trồng nên pha nồng độ thật loàng (1 phần phân với 100 phần nước). Ngoài các loài phân chuồng, ngày nay còn dùng rộng rãi các loại phân chim, phân dơi, phân tằm. Chúng đều có lượng N, P, K khá cao, các yếu tố) vi lượng đầy đủ và đặc biệt có cấu trúc tơi, mịn, rất dễ trong việc bón gốc Phong lan. Mỗi chậu Phong lan lớn có thể bón 20 - 30 g mỗi lần và giữ được lâu mới phải bón lại. Một số nghệ nhân nuôi trồng Phong lan còn dùng khô dầu (bã đậu phộng ép khô) và các xác bã động vật (tôm, cá, lông gà vịt) và mạnh dạn hơn còn dùng cả huyết khô. Các chất hữu cơ này đều ngâm trong nước cho nên men. Để ít ngày cho thật hoại và hết mùi thối. Lọc lấy phần nước, pha loãng mới đem dùng. Mặc dù dùng loại phân nào, nhưng cách tưới phân vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng, dùng nhiều quá một loại, hay tưới dài ngày quá cũng trây ảnh hưởng không tốt đến cây Phong lan. Thời gian để tưới phân tốt nhất trong ngày hoặc vào buổi sáng sớm hay vào buổi chiều, không nên tưới vào buổi trưa. Tuy nhiên tùy theo mùa mưa mà có thể di chuyển lục tưới phân cho lợi. Phải theo dõi "dự báo thời tiết" để tránh tưới phân vào lúc có mưa (mặc dù vào buổi sáng hay chiều). Thời gian cách nhau để tưới phân cũng hết sức quan trọng, và phải tưới phân từ nồng độ thấp tăng dần lên nồng độ cao, trong quá trình tưới phân cần theo dõi xem xét hình dạng ngoài cây Phong lan mà điều chỉnh lượng phân tưới. Trung bình chỉ nên tưới mỗi tuần một lần (nó còn tùy thuộc vào mùa mưa hay mùa khô, tùy thuộc vào nơi ít nắng hay dâm mát). Xen kẽ với các ngày tưới phân, cần bổ sung các ngày tưới nước cho hợp lý.
- Nước tưới Phong lan không cầu kỳ lắm như mọi người tưởng trước đây, miễn sao nước thật sạch, không mặn, không lợ là được. Tuy nhiên, tốt nhất nên dùng nước mưa vì độ ph - 6 - 7, rất phù hợp với rễ Phong lan còn non. Sau đó có thể dùng đến nước giếng (cần tránh nước cứng), nước ao hồ, sông, rạch (chú ý độ ph và độ sạch của nước). Cuối cùng phổ thông và tiện lợi nhất vẫn là dùng nước máy, chỉ cần chú ý đến độ clor trong nước (để nước trong chum vại ít ngày cho bay hết clor). Cách tưới nước cũng cần chú ý. Tốt nhất dùng vòi với các lỗ nhỏ và tưới vọt lên cao, hạt nước nhỏ li ti theo gió rơi nhẹ xuống cả cây Phong lan. Một số người có tập quán nhúng ngập đến miệng chậu Phong lan vào chậu nước lớn. Làm như vậy nước thấm đều vào trong từng kẽ than, kẽ gạch và ướt hết cả sơ dừa. Tuy nhiên vì nhúng nhiều chậu Phong lan rồi mới thay nước, bệnh cây dễ lây lan từ cây này sang cây nọ Nguyên tắc tưới nước phải nhiều, đậm nhưng phải dần dần cho thấm đều, tránh dội nước ào vào cây Phong lan lượng nước nhiều nhưng ngấm ít và có khi làm thương tổn cây. Tưới nước cũng nên làm vào buổi sáng và sao cho cây được ẩm ướt suốt cho đến chiều mới phải tưới bổ sung. Vào mùa khô, nếu trồng Phong lan nơi có độ nóng cao, chỉ nên làm ẩm ướt toàn bộ môi trường xung quanh, đừng tưới riêng cho cây Phong lan vì xưng quanh nóng sẽ phả hơi khô làm cây bị ngập. Lượng nước tưới tùy thuộc theo mùa. Đặc biệt trong mùa mưa phải đón giờ mưa để tránh khỏi mắc công vừa tưới nước, vừa làm cây bị ngập úng. Riêng đối với các loài trồng thành luống, phải tùy theo loại đất cô giữ nước hay không mà tưới sao cho vừa đủ. Cộng vào đó cần ủ gốc bằng rơm để giữ độ ẩm được lâu ̣ Thay châu hoa lan Việc thay chậu hoa lan là một việc làm cần thiết vì các loại hoa được trồng trong chậu sau một thời gian thường có nhiều rễ bị thối, giá thể bị mục, rêu bám đầy chậu là môi trường thích hợp cho các loài sâu bệnh hoạt động. Chậu không còn đủ đáp ứng nhu cầu vệ sinh trường và phát triển của cây vì thế việc thay chậu phải được tiến hành định kỳ. Biểu hiện eần phải thay chậu lan là: Kích thước mất cân đối giữa cây và chậu + Giá thể bị hư mục. + Rễ bị thối nhiều. + Rêu bám đầy chậu. Định kỳ khoảng 2 năm để thay chậu có thể áp dụng cho hầu hết các loài. Mùa thay chậu:
- Tùy địa phương và vườn lan hiện có, điều kiện về trang thiết bị có được của vườn, loại lan mà công việc thay chậu có thể tiến hành bất cứ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên tốt hơn hết là, tiến hành thay chậu vào đầu mùa tăng trưởng của từng loài, kết hợp đồng thời với nhân giống bằng phương pháp tịch chiết. Nhìn chung đầu mùa mưa rất lý tưởng cho việc thay chậu của hầu hết các loài. Các cách thay chậu: Nêu chậu làm băng chât liệu tốt, cây không mất cân đối rễ không bị thối việc thay ̀ ́ chậu được tiến hành như sau: Dùng một vòi nước khá mạnh, phun vào giá thể để thổi tróc những chất mùn lắng đọng ở đây, sau đó dùng kẹp gắp bỏ tất cả những giá thể hiện có trong chậu như gạch, than vụn, nhúng chậu vào dung dịch có pha thuốc ngừa rêu. (Vài giọt consan 20 trong 4 lít). Cuối cùng rửa cây và chậu một lần cuối. Đặt chậu vào chỗ thật thoáng, mát và ẩm, phun dung dịch hocmon thương mại (1 - 2 giọt trong 4 lít) gồm B1 + ANA, một tuần lễ sau đặt giá thể mới vào chậu. Có thể đập bỏ chậu cũ, chỉ chừa lại những phần có rễ bám chặt hay ngâm hẳn chậu lan vào dung dịch thuốc ngừa rêu trong 30 phút sẽ làm cho cây tróc hắn ra khỏi chậu. Sau đó ta cột chặt cây lan vào chậu mới rồi treo vào chỗ thoáng mát và trình tự tiến hành như đã nói trên. Nếu chậu là một cây lan nhổ vừa phát triển lớn, có thể bỏ hẳn cây và chậu nhỏ vào trong một chậu mới lớn hơn. Môi trường trông hoa lan ̀ Loại chất trồng được chọn tùy thuộc điều kiện ngoại cảnh, nhân lực, loài lan Và qui mô sản xuất. Các chất trồng được sử dụng hiện nay gồm than, gạch, dớn, xơ dừa, rễ lục bình, vỏ thông. Các chất trồng của lan khác với đất dể trồng cây. Các chất trồng này dùng để cải thiện độ ẩm và tác dụng cơ học hơn là cung cấp dinh dưỡng. + Than gỗ: Được dùng với mục đích giữ ẩm. Than là một chất trồng tốt nhất vì không có mầm bệnh, không bị mục và có khả năng giữ nước, vì thế than sẽ hấp thụ dinh dưỡng qua quá trình bón phân và thải ra dần qua sức hút rất mạnh của rễ lan. Than được dùng gở đây là loại than gỗ rừng Giồng, được nung thật chín. Tránh tuyệt đối dùng các loại than gỗ rừng sác (đước) vì hàm lượng NacL trong than cao, dễ làm thết ]an. + Gạch: Gạch trồng lan tốt phải nung thật già, nhằm mục đích ngăn chặn rêu mọc. Gạch ngói tốt hơn gạch thẻ vì có độ cong nên chất trồng luôn luôn có độ thoáng thích hợp. Ngoài ra bề mặt rễ bám cũng rộng hơn; nên rễ không phải mọc chồng chất lên nhau, cây sẽ phát triển tốt hơn nhưng nhược điểm của gạch là nặng nên không thích hợp cho việc
- trồng bằng dây treo. + Dớn Đây là dạng sợi của thân và rễ cây dương xỉ (Cybotium baronletz) là một loại cây mọc nhiều ở các vùng thung lũng đồi núi Đà Lạt. Sở dĩ dớn được chọn vì không bao giờ đóng rêu nhưng hút ẩm tốt. Tuy nhiên, nếu chất trồng toàn dớn thì không có độ thoáng. Có 2 loại dớn: - Dớn sợi: là loại dớn già, hóa mộc. (Có dạng từng sợi được ưa chuộng để trồng lan ở thành phố). - Dớn vụn: là phần còn lại của cây dớn sau khi đã lấy loại dớn sợi loại dớn vụn là nhưng phần non của thân cây dớn - loại này sử dụng trồng lan rất tốt ở vùng lạnh vì độ hút ẩm cao, thiếu thoáng khí, nên nhiệt độ trong chậu cao hơn bên ngoài , do đó dớn tạo một độ ẩm nhất định thuận lợi cho sự phát triển của rễ. Trái lại do điều kiện sinh thái ở thành phố có khác, nên các nhà vườn trồng lan tuyệt đối không nên dùng loại dớn vụn, vì nhiệt độ cao và ẩm độ tháp, nên phải tưới nước nhiều, dớn vụn bị bít dễ làm thối rễ lan. Ngoài ra, diều kiện nóng ẩm rất thuận lợi, cho một số loại côn trùng và nấm bệnh chọn dớn làm mục tiêu cắn phá. + Xơ dừa: Đây là chất trồng rất cần nếu sản xuất lan đại trà trên qui mô lớn. Xơ dừa có khuyết điểm dễ mọc rêu, không thoáng, dễ mục, nhưng do số lượng nhiều và rất rẻ nên xơ dừa được trồng thành băng trên vạt tre. Nếu dùng xơ dừa trồng chậu phải hạn chế tưới nước. Tốt nhất là tạo điều kiện ẩm độ bên ngoài hơn là trong chậu. Đối với chất trồng này phải phun thuốc ngừa sâu bệnh thường xuyên. Tuy nhiên xơ dừa lại là môi trường rất tốt cho đa số các loài lan thuộc giống Dendrobium. + Rễ lục bình: Cậy lục bình sống lan tràn mạnh mẽ ở khắp ao hồ, sông rạch trong cả nước, nên rất dễ kiếm, thuận lợi trong việc nuôi trồng hoa lan. Rễ lục bình có dộ hút ẩm cao, có nhiều đạm, giúp cây ra rễ và tăng trưởng rất mạnh trong thời gian đầu, nhưng dễ bị mục rã nên mắc các khuyết điểm như xơ dừa và dớn vụn. + Vỏ cây: Ở Việt Nam, có nhiều loại cây eo vỏ để trồng lan rất tốt tùy nhiên, nên chọn loại cây nào có vỏ lâu mục, vì vỏ cây cũng thuộc một" trong số những chất trồng mau hủy hoại . Cây lan được trồng bằng vỏ cây thời gian đầu phát triển rất tốt. Sau 1 năm vỏ bị phân hủy thành mùn, gây úng nước, thối rễ và cũng là môi trường thích hợp cho sự xuất hiện một số loài sâu cẩn phá rễ. Vì vậy với chất trồng bằng vỏ cây, cây lan phải
- được thay chậu luôn. Trong các loại vỏ cây sau: vú sữa, sao, me, trai, thông... thì vỏ thông là loại vỏ cây được ưa chuộng nhất, vì vỏ thông có chứa resin nên eo tính sát khuẩn cao, lâu mục, không đóng rêu, ít có mầm bệnh các nấm hại. Vỏ thông có thể được lấy từ cây Thông 2 lá (Pinus merkusii) hoặc cây thông 3 lá (Pinus khasya) có nhiều ở Bảo Lộc và Đà Lạt. Tuy nhiên vỏ thông cung rât bí bit, nên cân có lớp than đôn ̃ ́ ́ ̀ ̣ dưới đay châu cho thông thoang ́ ̣ ́ Cách trồng lan con từ chai Vật liệu trồng: Dụng cụ: - Cấy móc để lấy lan ra khỏi môi trường thạch. - Dao cắt rễ. - Kéo cắt cành. - Cây mũi nhọn để moi lỗ trồng. - Các chậu chung Chất trồng - Than gỗ. - Than bùn. - Vỏ thông Tất cả chất trồng đều được khử trùng ở nhiệt độ 120độ C trong nồi hấp tiệt trùng và rửa lại nhiều lần bằng nước sạch trước khi dùng. Riêng dớn phải được ngâm nước khoảng 1 tuần trước khi được đưa vào nồi hấp. Các chất trồng trên có thể dùng Ở dạng riêng rẽ hay hỗn lợp. Ví dụ: Đáy chậu chung là than, phía trên là dớn. - Toàn bộ chậu là than. - Dớn xay nhuyễn phần + cát 2 phần + than vụn 1 phần. - Dớn xay nhuyễn 1 phần + cát 1 phần + vỏ thông (1cm) 1 phần. - Cát 1 phần + vỏ thông 3 phần. - Cát hoàn toàn. Phương pháp: Điều nên nhớ là , cây lan con dễ bị chết do úng nước hay m độ cao (đây cũng là lý do gây ra bệnh thối rữa). Hơn nữa, trong phòng thí nghiệm cây lan con được nuôi trong diều kiện vô trùng nhiệt độ nơi nuôi trồng tương đối mát 21độ C đến 23độ C, PH: 5,2. Trong điều kiện ẩm nóng của thành phố là môi trường thuận lợi của vô số mầm bệnh. Vì thế khi chuyển cây con từ thai cấy ra môi trường bên ngoài phải có giai đoạn chuyển tiếp. Trong giai đoạn này, nhiệt độ của nơi nuôi cấy không nên quá 25độ C,
- ẩm độ tương đối không khí cao từ 80 đến 90% cường độ ánh sáng khoảng 5.000ml/m2 . Muốn được như vậy ta phải làm một nhà kính dùng để giâm cành. + Dùng nước máy đã để bốc hết hơi clo, ph:5,2 đựng trong một chậu sạch, trong nước dã pha một nồng độ thật loãng thuốc ngừa nấm như Methan. + Lấy chai cấy đựng lan con, sau khi gỡ bông gòn ra khỏi cổ chai cho một ít nước vào cổ chai lắc nhẹ, dùng que tách cây con ra khỏi môi trường thạch, lật ngược chai lại các cây lan con theo nước chạy vào chậu đựng nước. + Dùng kẹp gắp giữ lan con và rửa sạch thạch dính vào bộ rễ qua động tác đưa qua đưa lại nhiều lần trong nước, cắt bỏ toàn bộ rễ hư thối và bị dập nếu có, và đặt lan vào một dla sạch cho khô. + Chậu chung sau khi đã sửa soạn môi trường trồng, dùng que khóet một lỗ và đặt cây lan vào đấy , dùng ngón tay ấn nhẹ vào gốc cho môi trường áp sát vào rễ. + Rửa sạch cả chậu và cây lần nữa, phun cho cây lan con một dung dịch dinh dữờng tùy theo loài để tăng sức chịu đựng eho cây, phải lưu ý những chất hữu cơ có trong dung dịch rất dễ làm cây thối rữa. Không có điều kiện tạm dùng phân bón NPK 30 - 10 - 10 với nồng độ loãng. Có thể dùng chậu chung đ¬ờng kính 6cm trồng vào đấy có khoảng 10 cây con hay chau đường kính 2cm trồng một cây độc nhất. + Có thể dùng khay đựng cát dể trồng hàng ngàn cây mạ trong giai đoạn đầu không cằn chậu. + Đật cây vào nơi râm mát, nếu dùng nhà kính ta tưới cây 2 lần, những lần khác chỉ tưới sàn và độ ẩm có được nhờ nước bốc hơi. Nếu trồng ở nơi râm mát nên tưới tối thiếu 4 lần một ngày và lần tưới cuối cùng trước 4 giờ chiều. Nước tưới là nước dinh dường của môi trường nuôi cấy thay đổi theo từng loài lan, sau khi điều chỉnh PH và loại trừ các thất hữu cơ. + Cây được trồng khoảng một tháng rễ mọc mạnh thì có thể chuyển cây ra khỏi nhà kính Đào tạo » Phân bón và tưới nước cho cây phong lan Chất trồng thông dụng Than củi: Được dùng khá phổ biến, là một chất trồng tốt vì không bị mục, sạch bệnh, tạo thông thoáng cho hệ rễ lan phát triển. Than sẽ hấp thụ dinh dưỡng qua quá trình bón phân và cung cấp dưỡng chất qua sức hút rất mạnh của rễ lan. Than được dùng ở
- đây là loại than gỗ rừng, được nung (hun) thật chín. Tránh tuyệt đối dùng các loại than gỗ rừng sác (như than đước) vì hàm lượng NaCl trong than cao, dễ làm chết lan. Than được chặt nhỏ vừa (kích thước 1 x 3 x 2 cm), không nên chặt quá nhỏ sẽ làm cản trở hô hấp của rễ. Nhược điểm là giữ ẩm kém, giá thành khá cao. Vỏ dừa chặt khúc: Có khả năng giữ ẩm tốt và chất dinh dưỡng được cung cấp từ phân bón giúp cho rễ phát triển tốt. Vỏ dừa chặt khúc nhỏ (1 x 3 x 2 cm) xử lý bằng nước vôi 5% hoặc NaOH 2%. Nhược điểm là không bền, dễ bị rong rêu phát triển trên bề mặt. Vỏ dừa miếng: Đây là chất trồng lan chủ yếu của người Thái, dễ công nghiệp hóa nếu sản xuất lan đại trà trên quy mô lớn. Nhưng do số lượng nhiều và rất rẻ nên vỏ dừa miếng được trồng thành băng trên hệ thống giàn. Nếu dùng vỏ dừa miếng trồng chậu phải hạn chế tưới nước. Tốt nhất là tạo điều kiện đảm bảo ẩm độ bên ngoài hơn là trong chậu. Vỏ dừa miếng lại là môi trường rất tốt cho đa số các loài lan thuộc giống Dendrobium. Khuyết điểm là dễ mọc rêu, không thoáng, dễ mục. Đối với chất trồng này phải phun thuốc ngừa sâu bệnh thường xuyên. Dớn cọng: Đây là dạng sợi của thân và rễ cây dương xỉ (Cybotium baronletz) là một loại cây mọc nhiều ở các vùng thung lũng đồi núi Đà Lạt. Sở dĩ dớn cọng được chọn vì không bao giờ đóng rêu, rất lâu mục, ít bị nhiễm vi sinh vật gây bệnh, tạo thông thoáng cho hệ rễ. Nhược điểm là hút ẩm và hấp thu phân bón kém. Dớn mềm: Xuất thân từ rêu biển, được nhập khẩu từ nước ngoài và đang được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam. Dớn mềm có ưu điểm giữ ẩm rất tốt và rất thích hợp cho hệ rễ lan phát triển. Giá cao, dễ bị rong rêu, úng nước trong mùa mưa. Đất sét nung: Đây là loại giá thể nhân tạo được làm từ đất sét dạng viên lục giác hoặc viên đùn thỏi phù hợp theo kích thước của giá thể than củi hoặc dừa miếng. Đất sét nung khá phù hợp cho nhiều loại lan. Đá bọt: Đây là loại đá bọt bazan, cung cấp thêm các nguyên tố dinh dưỡng khoáng cho lan. Thành phần giá thể phù hợp cho từng nhóm lan Giá thể trồng Cattleya: Cấu tạo giá thể là điều kiện quyết định sự phát triển của lan Cattleya, vì thế việc cấu tạo giá thể thay đổi tùy theo vùng và tùy theo mùa trong năm. Ở TP. Hồ Chí Minh, phương pháp trồng trên thân cây sống và thân cây chết thì giá thể chính là lớp vỏ của thân cây được trồng. Phương pháp trồng chậu thì giá thể phải thật thoáng. Một giá thể quá bí thì giúp người trồng ít phải tưới nước, nhưng cây rất dễ bị chết vì thối rễ, nhất là trong mùa mưa. Một giá thể với phần đáy thật thoáng tránh được sự úng nước và phần bề mặt hơi khít kín rất tốt cho sự phát triển của Cattleya. Vì thế, hiện nay một số nhà vườn trồng Cattleya không cần chất liệu để trồng, chỉ cần chậu làm bằng gỗ thông thoáng và buộc cây vào giữa chậu, rễ phát triển tốt. Tuy nhiên, một số vẫn trồng với giá thể là dớn cọng.
- Đối với vùng lạnh, cấu tạo giá thể quá thông thoáng sẽ bất lợi cho sự sinh trưởng, vì nhiệt độ lạnh ban đêm sẽ làm các đầu rễ đui đi và bộ rễ teo dần, cây phát triển èo uột. Một giá thể bít kín sẽ giúp rễ có độ ấm để phát triển, do đó ở Đà Lạt người ta dùng các loại dớn vụn để làm giá thể trồng lan. Giá thể trồng Dendrobium: Chậu trồng phải thật thoáng và không úng nước. Tuy nhiên, do bản năng sinh học và cấu trúc thực vật với giả hành có thân, các loài thuộc giống Dendrobium có thể dùng giá thể hơi ẩm hơn Cattleya chút ít nhưng không được làm thối căn hành. Vì thế một số loài Dendrobium có thể phát triển trên các giá thể là xơ dừa, than hay vỏ dừa chặt khúc. Nếu giá thể là xơ dừa phải hạn chế số lần tưới nước, nếu không cây bị thối vì quá ẩm. Tuy nhiên, giá thể than và vỏ dừa chặt khúc vẫn tỏ ra hiệu quả nhất. Giá thể trồng Hồ điệp: Một cách trồng chung nhất cho các loại đơn thân là chậu thật thoáng, càng thoáng càng tốt, có thể đến mức cực đoan chỉ dùng chậu như giá thể duy nhất, tuy nhiên chỉ áp dụng cho nơi nào điều kiện ẩm độ ổn định, sự thông gió không đổi và nhất là tiểu khí hậu thật điều hòa. Do đó chậu phải thật sạch, không có dấu vết của bất kỳ loài rêu nào bám trên thành chậu. Thường các nhà trồng lan dùng than, vỏ dừa chặt khúc, dớn mềm mà bên dưới chậu có thể thêm xốp nhân tạo tạo độ thoáng làm giá thể cho Hồ điệp. Với cách trồng này, khi cây đã thích nghi sẽ phát triển mạnh trong tương lai và trong chậu hình như không có một cái rễ nào bị thối. Giá thể trồng Vanda: Vanda là một loại lan không có mùa nghỉ, một biến cố khô hạn rất dễ làm các loài giống này rụng hết phần lá gần gốc. Tuy nhiên, ẩm độ cục bộ trong chậu quá cao dễ làm cho các rễ bị thối. Vì thế, cấu tạo giá thể thật thoáng cho các loài thuộc giống Vanda và Mokara là điều kiện bắt buộc. Việc duy trì ẩm độ ổn định là cố gắng của các nhà vườn thông qua sự tưới hàng ngày. Vanda được trồng treo với 1 giỏ hay hộp ghép bằng gỗ thanh để rễ lan đan xen bám giữ mà không cần giá thể bên trong. Giá thể cho Mokara: Mokara thường được trồng thành liếp dưới đất, chất trồng bằng vỏ đậu phộng khô với độ dày khoảng 10 - 15 cm ban đầu, sau thời gian vỏ đậu phộng xẹp xuống có thể bổ sung thêm vỏ đậu phộng để tạo lớp nền cho rễ lan bám xuống. Giá thể trồng lan Oncidium: Tương tự như trồng Dendrobium, chất trồng có thể là vỏ dừa chặt khúc, than. Giá thể trồng lan Paphiopedilum: Paphiopedilum là loài lan đất nên giá thể gồm 2 phần tro trấu, 1 phần đất mùn + 1 phần phân bò hoai + 1/20 bánh dầu xay nhuyễn, có thể tưới thêm phân NPK 30-10-10, tưới 2 lần/tuần trong suốt mùa tăng trưởng. Giá thể cho Cymbidium: gồm 1/2 dớn + 1/2 vỏ thông hay 1/3 dớn + 2/3 vỏ thông. Ánh sáng 50%. Tiêu chuẩn một giá thể tốt cho Cymbidium là: giữ ẩm tốt, thoáng khí, chậm phân hủy, chứa nhiều dinh dưỡng, rẻ tiền, dễ kiếm và trữ lượng cao trong tự nhiên, pH giá thể từ 6,5 - 7,0.
- Các loại vật liệu có thể dùng làm giá thể: dớn, dớn sợi, vỏ thông, mùn cưa, xơ dừa, than vụn, gạch, đá vụn, lá cây mục... Cho đến nay, dớn vẫn là loại tốt nhất cho Cymbidium vì giữ ẩm cao, thông thoáng, giàu dinh dưỡng (nhất là K và N), chậm phân hủy. Nhưng hiện nay trữ lượng dớn ngày càng ít đi, giá khá đắt và việc khai thác dớn làm hư hại nhiều cho các khu rừng già. Để nuôi trồng Cymbidium ở quy mô lớn, dớn sẽ không đáp ứng đủ. Vỏ thông và mùn cưa là một loại giá thể có thể đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật và kinh tế nhưng lại nghèo dinh dưỡng. Vỏ thông và mùn cưa tươi không dùng được vì hàm lượng dầu còn cao, có thể làm hư bộ rễ. Trước khi sử dụng cần phải ủ cho hoại mục. Khi ủ, trộn 1 m3 vỏ thông xay nhuyễn với 10 kg apatit, 10 kg vôi, 1 kg các loại phân vô cơ khác (KCl, K2SO4) thời gian ủ trên 6 tháng. Trong khi ủ cần tưới ẩm thường xuyên. Có thể dùng vỏ thông thuần túy hay trộn với các loại khác như dớn, than vụn, gạch vụn để làm giá thể
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kỹ thuật trồng hoa lan cắt cành - nhóm lan Mokara
3 p | 1755 | 371
-
Tài liệu Kỹ Thuật Trồng Lan
8 p | 588 | 216
-
Hướng dẫn trồng hoa lan: Phần 1
179 p | 563 | 160
-
Hướng dẫn trồng hoa lan: Phần 2
135 p | 333 | 144
-
Trồng hoa lan part 5
32 p | 303 | 137
-
Hướng dẫn nuôi trồng phong lan: Phần 1
68 p | 429 | 136
-
Một số kỹ thuật trồng Phong lan đơn giản
4 p | 332 | 82
-
KỸ THUẬT TRỒNG HOA LAN HỒ ĐIỆP
18 p | 407 | 78
-
Hướng dẫn trồng hoa, mai, quất, đào: Phần 1
122 p | 227 | 66
-
Các kỹ thuật trồng hoa lan
31 p | 248 | 65
-
Một số bước về lai tạo giống Lan/Kỹ thuật trồng hoa cảnh
12 p | 220 | 64
-
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN kỸ THUẬT TRỒNG HOA LAN
42 p | 228 | 53
-
Kỹ thuật trồng hoa lan: Phần 1
46 p | 171 | 51
-
Kỹ thuật trồng hoa lan: Phần 2
39 p | 151 | 45
-
Hoa lan - Kỹ thuật trồng trên ban công: Phần 1
120 p | 122 | 21
-
Hoa lan - Kỹ thuật trồng trên ban công: Phần 2
120 p | 77 | 18
-
Kỹ thuật trồng và chăm sóc phong lan: Phần 1
61 p | 11 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn