ản tin

KỸ THUẬT XỬ LÝ RA HOA VÀ

PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI CÂY MAI

I. Xử lý ra hoa:

1.1 Biện pháp lặt lá:

Trong điều kiện tự nhiên, cây mai sẽ tự động rụng lá vào

cuối mùa Đông, khi bắt đầu lập Xuân. Sau khi lá rụng, các

mầm sinh thực phát động, bung lớp vỏ trấu. Nụ xanh sẽ nở

rộ sau 6 hoặc 7 ngày từ lúc bung vỏ trấu.

Tuy nhiên, do điều kiện khí hậu, thời tiết thay đổi và quá

trình sinh trưởng, phát triển của từng cây không giống

nhau, nên cây mai trong tự nhiên sẽ ra hoa không đúng thời

điểm mong muốn. Để mai ra hoa đúng dịp tết, biện pháp lặt

lá mai được sử dụng. Biện pháp lặt lá cho cây mai ra hoa

được thực hiện hàng năm trong khoảng thời gian giữa

tháng 12 âm lịch. Vấn đề đặt ra là làm sao xác định được

thời điểm lặt lá để vỏ trấu bung đúng ngày 23 tháng 12

âm lịch.

*Căn cứ vào hình dạng mầm sinh thực:

Mầm sinh thực hay còn gọi là nút, phát sinh từ nách lá

vào tháng 5-6, kích thước lớn dần đến tháng 12 âm lịch.

Mầm sinh thực đủ thời gian sinh trưởng có hình dạng như

quả trứng, với 2-3 vỏ trấu bao bên ngoài thì lặt lá cách tết

13-14 ngày. Mầm sinh thực chưa phát triển đầy đủ có dạng

hình thoi nhọn, với 3-4 vỏ trấu bao bên ngoài, lặt lá trước

ngày 15 tháng 12 âm lịch để mầm có thời gian phân hoá.

*Căn cứ vào diễn biến thời tiết:

Điều kiện nắng tốt, nhiệt độ không khí cao làm quá trình

ra hoa diễn ra nhanh hơn. Ngược lại, điều kiện lạnh khiến

quá trình này chậm lại.

*Căn cứ vào sự sinh trưởng và phát triển của cây:

Cây sinh trưởng mạnh, nhiều cành lá xanh tốt thường có

quá trình ra hoa chậm. Do đó, cần tiến hành lặt lá sớm hơn.

Mỗi giống mai có đặc điểm sinh trưởng khác nhau nên thời

điểm lặt lá cũng khác nhau: Mai cam, mai 100 cánh nở hoa

sớm hơn mai giảo 2-3 ngày. Mai huỳnh tỷ nở sớm hơn mai

giảo 2-3 ngày. Mai trắng nở trể hơn mai giảo là 1-2 ngày.

Vì vậy, đối với những cây mai ghép nhiều giống, khi lặt lá

phải chọn những giống trổ muộn lặt lá trước, giống trổ sớm

lặt lá sau.

1.2. Xử lý mai ra hoa sớm:

Trong trường hợp lặt lá trể, cây ra hoa không đúng dịp

tết, có thể áp dụng một số biện pháp sau đây để thúc hoa trổ

sớm.

-Phun ướt những nút hoa lúc trời nắng cho những cây mai

không chịu bung trấu.

-Tưới nước ấm vào gốc khi trời quá lạnh.

-Đặt nước đá lên mặt đất gần gốc.

-Tưới rửa nụ, búp vào sáng sớm.

-Ngắt đọt non thúc ra hoa sớm.

-Dùng đèn cao áp thắp sáng vào lúc 7-8 g tối hàng đêm có

thể thúc mai nở sớm 2-3 ngày.

-Sử dụng hóa chất, thời điểm sử dụng sau khi lặt lá 2-3

ngày. Một số chế phẩm thường dùng là Miracle-gro,

Yogen, HVP, Aron, Decamon… liều lượng 10-20ml/bình 8

lít nước, phun 1 lần.

1.3. Xử lý hoa muộn:

Trường hợp chưa đến ngày 23, cây mai đã bung trấu, cần

xử lý ra hoa muộn:

-Đặt cây nơi râm mát.

-Tưới đẫm nước, tránh làm úng rễ.

-Đào nhẹ quanh gốc làm đứt một số rễ cám.

Có thể nói việc xử lý mai ra hoa đúng dịp tết đòi hỏi người

trồng hoa có nhiều kinh nghiệm. Do thời điểm từ lặt lá đến

ra hoa ngắn, chỉ 13-15 ngày nên các biện pháp tác động ra

hoa sớm hay muộn chỉ là biện pháp bất đắc dĩ. Sự tác động

thường không có kết quả rõ ràng.

II. Phòng trừ sâu bệnh:

2.1. Các bệnh hại chủ yếu:

*Bệnh thán thư (Collectotrichum sp.)

Gây hại nặng từ tháng 5 đấn tháng 8 âm lịch. Bệnh chủ

yếu hại lá già và lá bánh tẻ. Vết bệnh có màu nâu, không có

hình dạng nhất định. Trên vết bệnh có các hình tròn đồng

tâm, giữa vết bệnh lá bị khô có màu xám tro. Xung quanh

vết bệnh biểu bì lá bị sưng lên, dễ thấy. Bệnh nặng làm lá

bị khô và rụng hàng loạt. Bệnh phát triển mạnh trong điều

kiện ẩm độ cao. Trong mùa mưa bệnh thường phát sinh gây

hại nặng.

*Biện pháp phòng trừ:

-Dọn sạch lá khô rụng bằng cách thu gom, vùi chôn hoặc

đốt.

-Bón phân cân đối, đầy đủ, không bón quá nhiều phân

đạm.

-Dùng thuốc hóa học: Topsin-M, Score, Carbenzim…

* Bệnh tảo đỏ:

Bệnh gây hại chủ yếu trên lá. Lúc đầu vết bệnh chỉ là 1

chấm tròn màu vàng nâu, sau lớn dần thành vết tròn hoặc

vô định. Vết bệnh hơi lồi, trên có lớp nhung mịn. Bệnh

thường phát sinh ở những vườn mai ẩm thấp, mật độ dày,

không thông thoáng. Bệnh gây hại nặng trong mùa mưa.

Biện pháp phòng trừ: Dùng các loại thuốc trừ bệnh có

gốc đồng như : Đồng oxychlorua 30BTN…

Lưu ý: Tuyến trùng (Meloidoigyne sp.)

Cây mai bị tuyến trùng sinh trưởng rất yếu, phiến lá vàng

và nhỏ hơn bình thường. Nhổ gốc quan sát rễ thấy những

nốt tròn trên rễ. Bộ rễ bị tuyến trùng nặng sẽ mất khả năng

hút dinh dưỡng cung cấp cho cây. Nếu để lâu cây sẽ sinh

dưỡng kém và chết.

Biện pháp phòng trừ:

-Tăng cường bón phân hữu cơ, vì phân hữu có rất nhiều vi

khuẩn và nấm ký sinh có thể tiêu diệt tuyến trùng.

-Nhổ bỏ những cây bị chết, thu gọn sạch rễ trong đất.

-Có thể dùng thuốc: Mocap, Sincocin…

2.2. Một số sâu hại thường gặp:

* Rệp (Aphids sp.):

Có nhiều dạng khác nhau: tròn, vảy ốc, bầu dục, … màu

sắc rất phong phú: vàng, trắng, nâu…đặc trưng của rệp sáp

là thường có 1 lớp sáp hoặc lớp phấn bao phủ cơ thể. Các

loại rệp sáp thường sống thành tập đoàn, từng đám bám

dính trên cành, thân, các vết thương, vết tróc vỏ cây. Chúng

chích hút nhựa làm cây sinh trưởng kém, dẫn đến việc yếu

và gãy cành. Nếu quan sát thấy kiến và muội đen trên cây

thì thường do rệp gây hại.

Biện pháp phòng trừ:

-Thường xuyên kiểm tra, cắt tỉa cây mai, phát hiện sớm rệp

sáp, dùng tay bóp chết rệp.

-Sử dụng thuốc hóa học Purinex, Sumicidin, Decis…

* Nhện đỏ (Panonychus citri):

Hút chất dinh dưỡng chủ yếu trên lá già, làm lá vàng dễ

rụng, cây sinh trưởng kém. Khi bị nhện hại, mặt trên lá có

tơ và những chấm đỏ, dễ nhận ra khi lá bị ướt. Nhện phát

sinh gâây hại nặng vào những tháng mùa khô từ tháng 11

đến tháng 3 âm lịch. Mùa mưa mật số nhện thấp do bị nước

cuốn trôi.

Biện pháp phòng trừ: tưới phun trong mùa khô, sử dụng

thuốc hoá học Comite Nissorun, Bi-58…

* Bọ cánh tơ:

Chích hút dinh dưỡng ở lá non, triệu chứng thể hiện dưới

mặt lá non là 2 vệt màu xám song song với gân chính. Đọt

non bị hại thường sần sùi, cứng và dòn, hai mép lá và chóp

lá cong lên. Khi bị hại nặng lá bị rụng, nhất là lá non. Bọ

non sống tập trung ở đọt non, gân lá non, ít di chuyển. Bọ

gây hại nặng vào mùa khô. Mùa mưa mật số bọ giảm.

Biện pháp phòng trừ:

-Tưới ướt lá và bề mặt đất để tiêu diệt nhộng trong đất.

-Cắt tỉa liên tục để hạn chế nguồn thức ăn của bọ.

-Sử dụng thuốc: Pyrinex, Confidor, Admire, Sherpa….

* Bọ xít (Helopeltis theivora W.):

Triệu hứng gây hại: Bọ xít thường chích hút nhựa cây bằng

cách chích vào các cành non của cây, tạo thành vết u nổi

sần sùi, gây hại nặng có thể làm chết cành, chết cây.

Bọ xít thường đẻ trứng ở nách 2 nhánh giao nhau.

Các loại thuốc được dùng như Bi58 40 EC (15 – 20

ml/bình 8 lít), Supracide 40 EC (5 – 7 ml/bình 8 lít).

KS. Lê Thị Nghiêm