
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN 978-604-82-1710-5
255
LƯỢNG HÓA MỨC CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG
VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ
Hoàng Thị Hương Hạnh1, Ngô Thị Thanh Vân2
1 Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội
2 Trường Đại học Thủy lợi
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Chi trả dịch vụ môi trường rừng là nguồn
tài chính bền vững cho hoạt động bảo tồn và
phát triển rừng của mỗi quốc gia. Từ năm
2010, chính sách này đã được triển khai tại
tất cả các tỉnh thành có rừng trên cả nước. Cơ
chế chi trả của chính sách này là những người
được hưởng lợi từ các dịch vụ môi trường
rừng phải có trách nhiệm chi trả cho những
người tham gia vào hoạt động bảo vệ và phát
triển các chức năng của rừng.
Vườn Quốc gia Ba Vì (VQG BV) là một
trong những khu bảo tồn thiên nhiên được
thành lập từ năm 1991 nhằm mục đích bảo tồn
và phục hồi tài nguyên thiên nhiên, di tích lịch
sử, nghiên cứu khoa học kết hợp với tham
quan, học tập và du lịch. Tuy nhiên, nguồn tài
chính dùng để bảo vệ và phát triển Vườn lại
chủ yếu đến từ nguồn ngân sách của Nhà Nước
và Thành phố Hà Nội. Khách du lịch khi đến
với VQG BV chỉ phải trả một loại phí duy nhất
là vé thắng cảnh được thu tại cửa vào Vườn mà
không hề phải trả thêm bất kỳ một loại phí nào
khác cho những lợi ích mà dịch vụ môi trường
rừng tại Vườn mang lại cho họ. Bài viết là kết
quả của việc nghiên cứu ước lượng mức chi trả
(Willingness to pay - WTP) cho dịch vụ môi
trường rừng của khách du lịch tại VQG BV và
phân tích ảnh hưởng của các yếu tố liên quan
đến đặc điểm kinh tế - xã hội của khách du lịch
tới mức WTP.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp chính được sử dụng trong
nghiên cứu là phương pháp định giá ngẫu
nhiên (CVM). Phương pháp này được tiến
hành dựa trên việc thu thập thông tin qua
điều tra ngẫu nhiên 246 mẫu khác nhau tại
VQG BV và được sử dụng trực tiếp cho
nghiên cứu. Đối tượng là khách du lịch đến
với VQG BV trong khoảng thời gian từ tháng
5 đến tháng 8 năm 2015. CVM được tiến
hành thông qua cuộc điều tra, mấu chốt là
yêu cầu các cá nhân trả lời họ sẵn sàng chi trả
(WTP) bao nhiêu cho hàng hóa và dịch vụ
môi trường cụ thể. Bên cạnh đó nghiên cứu
cũng sử dụng phương pháp điều tra mẫu, thu
thập số liệu, phân tích mẫu và phương pháp
phân tích hồi quy để phân tích mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố đến mức sẵn lòng chi
trả của khách du lịch.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Mức chi trả dịch vụ môi trường
rừng Vườn Quốc gia Ba Vì
Nghiên cứu mức WTP được tiến hành
bằng cách phỏng vấn trực tiếp khách du lịch
tại VQG BV. Khoảng biến động của mức
WTP được đưa ra trong phiếu điều tra chính
thức từ 0 đồng đến 100.000 đồng, với các
mức cách nhau 10.000 đồng.Trong số 246
người được hỏi thì có 212 người đồng ý chi
trả. Kết quả thống kê ở bảng 1 cho thấy, mức
chi trả dịch vụ môi trường rừng của du khách
tại VQG BV là 38.700 đồng. Sai số chuẩn là
21.55, với độ tin cậy là 95%.
Những khách du lịch đồng ý chi trả đã trả
lời họ muốn số tiền của mình được sử dụng
cho nhiều mục đích: bảo vệ và phát triển

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
256
rừng (69.81%), duy trì cảnh quan du lịch
(58,49%), giữ lại giá trị văn hóa và tự nhiên
cho thế hệ tương lai (54,25%).
Bảng 1. Thống kê mô tả về mức sẵn lòng
chi trả của khách du lịch
Chỉ tiêu
WTP (nghìn đồng)
Giá trị trung bình
38.70
Sai số chuẩn
21.55
Giá trị nhỏ nhất
0
Giá trị lớn nhất
100
Độ tin cậy (95%)
Trong số 34 người không đồng ý chi trả
cho dịch vụ môi trường rừng thì lý do họ đưa
ra rất khác nhau. Trong đó 21 người cho rằng
số tiền đóng góp có thể không được sử dụng
đúng mục đích, 11 người đưa ra ý kiến thu
nhập của họ không cho phép. Còn lại một số
các lý do khác như: bảo vệ VQG BV là trách
nhiệm của các cấp chính quyền, hay ban quản
lý phải tự bù đắp bằng hoạt động khác hoặc
quỹ này khó có thể giúp bảo tồn tài nguyên
và môi trường tại Vườn.
3.2. Yếu tố ảnh hưởng đến mức bằng
lòng chi trả của khách du lịch
Nghiên cứu đã sử dụng mô hình hồi quy
để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức
chi trả dịch vụ môi trường rừng. Biến phụ
thuộc WTP là lượng tiền có thể chi trả hàng
năm cho dịch vụ môi trường rừng của khách
du lịch và 6 biến độc lập được đưa vào
nghiên cứu là: thu nhập của gia đình (inc),
trình độ học vấn (edu), giới tính (g), tuổi (a),
số con trong gia đình (nc) và nghề nghiệp (j).
Đây là các yếu tố thuộc nội tại khách du lịch
và ảnh hưởng chính đến quyết định chi mức
bao nhiêu tiền cho dịch vụ môi trường rừng,
các trị có được thông qua quá trình phỏng
vấn. Hàm số được sử dụng để biểu diễn mối
quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến độc lập
là hàm số tuyến tính và mức chi trả cho một
quan sát bất kỳ có dạng như sau:
WTPi = a0 + b1*inci + b2*edui + b3*gi +
b4*ai + b5*nci + b6*ji + ɛi
Trong đó a0 là hệ số chặn; b1, b2, b3, b4, b5,
b6 là hệ số điều chỉnh biến độc lập;
i
là sai
số ngẫu nhiên thể hiện sự hiện sự tác động
của các yếu tố khác ngoài mô hình.
Bảng 2. Trị số thống kê của các biến độc lập
đưa vào mô hình
Chỉ tiêu
Inc
(1)
Edu
(2)
G
(3)
A
NC
J
(4)
Giá trị TB
1.82
15.27
0.41
30.83
0.97
2.48
Sai số chuẩn
0.17
0.06
0.29
0.02
0.19
0.13
GTNN
1
9
0
18
0
1
GTLN
5
21
1
62
6
5
Độ tin cậy
0.95
(1) Thu nhập dưới 5tr:1; Thu nhập từ 5tr đến
10tr:2; Thu nhập từ 10tr đến 15tr:3; Thu nhập từ
15tr đến 20tr:4; Thu nhập trên 20tr: 5.
(2) Số năm bỏ ra để đạt được trình độ giáo dục
tương ứng.
(3) Nữ: 1; Nam: 0.
(4) CBVC Nhà nước:1; CBNV ngoài khu vực nhà
nước: 2; Tự do: 3; Nông dân: 4; Khác: 5.
Bảng số liệu cho thấy giá trị trung bình về
thu nhập hàng tháng của khách du lịch là 1.82
tức là trong khoảng từ 5 đến 10 triệu
đồng/tháng, sai số chuẩn là 0,17. Về giáo dục
được phân ra 5 mức khác nhau và trung bình
người được phỏng vấn có trình độ từ đại học
trở lên, giá trị nhỏ nhất là 9 tương đương với
trình độ dưới trung học phổ thông và cao nhất
là 21 tương đương với trình độ tiến sĩ. Giới
tính được hỏi là cả nam và nữ, tỷ lệ này là
58,54% đối với nữ và 41,46% đối với nam.
Tuổi trung bình là 31 tuổi, thấp nhất là 18 tuổi
và cao nhất là 62 tuổi. Số con mà mỗi khách du
lịch có trung bình là 1 con, trong đó 124 khách
được hỏi chưa sinh con và người nhiều nhất có
6 con trong gia đình. Giá trị trung bình về nghề
nghiệp là 2.48, qua thống kê cho biết đa phần
những người được hỏi là các cán bộ nhân viên
làm việc trong và ngoài khu vực nhà nước.
Kết quả phân tích mô hình hồi quy trên
(xem bảng 3) ta có: Với mức ý nghĩa 5% ta có
hàm số về mối quan hệ giữa biến phụ thuộc
(WTP) và các biến độc lập theo hàm số sau:
WTPi = 1.47+ 0.58*inci + 0.39*edui +
+ 0.16*gi – 0.01*ai + 0.26*nci –
0.67*ji + ɛi

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN 978-604-82-1710-5
257
Bảng 3. Kết quả ước lượng các hệ số
mô hình hồi quy ảnh hưởng tới WTP
Biến số
Hệ số
Sai số
chuẩn
T-stat
P-
value
Hệ số chặn
-1.47
1.39
-1.06
0.29
Inc
0.58
0.17
3.43
0.00
Edu
0.39
0.06
6.21
0.00
G
0.16
0.29
0.55
0.59
A
-0.01
0.02
-0.58
0.57
NC
0.26
0.19
1.39
0.17
J
-0.67
0.13
-5.11
0.00
R-squared
0.48
Significance F
0.00
Kiểm định mô hình có ý nghĩa hay không
dựa vào giá trị Significance F, ta thấy giá trị
này nhỏ hơn 0,05. Vậy mô hình có ý nghĩa
thống kê với R2 bằng 48%. Con số này cho
biết có 48% biến độc lập giải thích cho biến
phụ thuộc, còn lại 52% là do biến khác ngoài
mô hình.
Kiểm định về ý nghĩa thống kê của các hệ
số. Cũng dựa vào bảng kết quả ta thấy P –
value, ta thấy có thu nhập, trình độ học vấn và
nghề nghiệp có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và
ảnh hưởng lớn đến quyết định mức chi trả
dịch vụ môi trường rừng của khách du lịch.
Các yếu tố còn lại như giới tính tuổi và số
con trong gia đình không có ý nghĩa thống kê
và không ảnh hưởng đến mức chi trả của
khách du lịch. Như vậy có thể thấy rằng:
- Nếu như thu nhập của khách du lịch tăng
lên 1 bậc thì mức sẵn sàng bỏ ra chi trả dịch
vụ môi trường rừng hàng năm của họ tăng lên
5.800 đồng với điều kiện các yếu tố khác
không thay đổi.
- Nếu trình độ học vấn của mỗi khách du
lịch tăng lên 1 năm thì mức WTP tăng lên
3.900 đồng/năm, với điều kiện các yếu tố
khác không thay đổi.
- Hệ số ước lượng của biến nghề nghiệp
trong mô hình là – 0.67 cho thấy, nếu nghề
nghiệp giảm đi 1 bậc thì WTP tăng lên tương
ứng 6.700 đồng trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi.
4. KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã bước đầu xác định mức
WTP của các du khách là 38.700 đồng bằng
phương pháp định giá ngẫu nhiên. Nghiên
cứu đưa ra một mô hình hồi quy tuyến tính
của mức WTP theo các yếu tố thu nhập, trình
độ học vấn, giới tính, tuổi, số con và nghề
nghiệp. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy
cho thấy ảnh hưởng của các yếu tố tới mức
WTP bình quân. Trong số đó, các yếu tố thu
nhập, trình độ học vấn và nghề nghiệp là tác
động rõ nét hơn cả.
Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu vẫn còn
một số hạn chế như mới chỉ xem xét một số
yếu tố liên quan đến đặc điểm kinh tế - xã hội
của khách du lịch, trong khi đó còn rất nhiều
yếu tố khác nữa cũng ảnh hưởng tới mức
WTP. Cỡ mẫu trong nghiên cứu còn chưa đủ
lớn (246 mẫu) nên không thể tránh khỏi sai
số nhất định trong mô hình hồi quy. Mô hình
mới chỉ dừng lại là mô hình tuyến tính, thời
gian thu thập số liệu diễn ra từ tháng 5 đến
tháng 8 năm 2015 nên mới phản ánh một
phần quan điểm của khách du lịch tới VQG
BV. Dựa trên các phân tích mô hình hồi quy,
nghiên cứu đưa ra một số bàn luận và đề xuất
sau đây:
- Tăng cường công tác giáo dục để nâng
cao nhận thức về môi trường.
- Nghiên cứu mức chi trả và xây dựng cơ
chế chi trả dịch vụ môi trường rừng.
- Tăng thu nhập và nâng cao mức sống cho
người dân.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Ngọc Ánh (2012), Lượng hóa
một số giá trị kinh tế của vườn quốc gia
Cúc Phương góp phần bảo tồn đa dạng
sinh học, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Khoa
học Tự nhiên.
[2] Nguyễn Quang Dong (2008). Bài giảng
Kinh tế lượng, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, Nhà xuất bản giao thông vận tải.
[3] Vũ Tấn Phương (2006), Báo cáo tổng kết
“Nghiên cứu lượng giá giá trị môi trường và
dịch vụ môi trường rừng”.

