
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------------------------
ĐÀO ANH PHƯƠNG
NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH LẬP KẾ HOẠCH
HỆ THỐNG THÔNG TIN CHIẾN LƯỢC
CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP -
VẬN DỤNG THÍ ĐIỂM CHO TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Chuyên ngành: HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ
Mã số: 9340405
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
HÀ NỘI - 2024

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. TRẦN THỊ SONG MINH
2. TS. LÊ QUANG MINH
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường
họp tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Vào hồi: ….. ngày ….. tháng ….. năm 2024
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

1
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ năm 2015 đến nay, khoa học công nghệ đã phát triển với tộc độ vũ bão
trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra. Cuộc cách
mạng này đã làm thay đổi mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội, lao động, sản xuất và
nền giáo dục của tất cả các quốc gia trên thế giới. Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà
nước ta đã nhanh chóng nắm bắt tình hình và ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW
ngày 27 tháng 9 năm 2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư để theo kịp sự phát triển của thời đại.
Để hiện thực hóa chủ trương, chính sách này, Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 749/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi
số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trong Chương trình này đã đề
cập tới các công nghệ chuyển đổi số bao gồm: Công nghệ di động, phân tích dữ liệu
lớn, trí tuệ nhân tạo, thực tế ào/thực tế tăng cường, chuỗi khối, điện toán đám mây,
Internet vạn vật, in ba chiều, công nghệ bản sao số. Những công nghệ này đều là
những công nghệ cốt lõi trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một trong số
các lĩnh vực ưu tiên của Chương trình này là lĩnh vực giáo dục với định hướng là
“Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong
công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng
chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát
triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa”.
Trước bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ đang diễn ra và định
hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, các trường đại học - nơi tập
trung những tinh hoa về tri thức và kiến tạo tri thức mới cần phải đi đầu trong việc
nghiên cứu, triển khai thực hiện chuyển đổi số.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội - nơi tác giả công tác là một trong số các
trường đại học công lập, trọng điểm quốc gia, đi đầu trong việc đổi mới chương trình
và phương pháp giảng dạy. Vì vậy, Trường cũng đã nhận được thông báo về định
hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục từ Bộ Giáo dục và Đào tạo và thông báo
rộng rãi thông tin này tới các đơn vị, cá nhân trong toàn Trường. Sau khi nhận được
thông tin này, tác giả - một nghiên cứu sinh đã nhận thức được nếu muốn thực hiện
nhiệm vụ này, Nhà trường phải xây dựng được một kế hoạch chiến lược trong lĩnh
vực công nghệ thông tin. Sau khi tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu về một số hướng tiếp
cận liên quan tới kế hoạch chiến lược trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tác giả phát
hiện thấy hướng tiếp cận về lập kế hoạch hệ thống thông tin chiến lược khá phù hợp
với yêu cầu đổi mới này bởi các lý do sau:

2
Thứ nhất, trên thế giới, kể từ năm 1990 đến nay, lập kế hoạch hệ thống thông
tin chiến lược (Strategic Information System Planning - SISP) đã được nghiên cứu,
triển khai rộng rãi và được coi là một vấn đề quản lý quan trọng bởi SISP hỗ trợ đắc
lực các tổ chức và doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch chiến lược và tăng
cường khả năng cạnh tranh bền vững trước các đối thủ. SISP giúp các tổ chức và
doanh nghiệp xác định nhu cầu thông tin chiến lược, danh mục các ứng dụng/hệ
thống thông tin và thứ tự ưu tiên phát triển chúng. Ngoài ra, SISP có ảnh hưởng rất
lớn tới hiệu suất, hiệu quả hoạt động và việc ra quyết định của các tổ chức, doanh
nghiệp, giúp họ giảm thiểu nguy cơ trong quá trình vận hành và sản xuất, nhanh
chóng thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, tối ưu hoá các nguồn
lực, gia tăng lợi nhuận và tăng cường mối quan hệ với khách hàng. Để thực hiện SISP
thành công phải xây dựng được mô hình SISP phù hợp với thực trạng của đơn vị.
Việc triển khai SISP không thành công chủ yếu là do không có sự liên kết hợp lý giữa
kế hoạch chiến lược và kế hoạch hệ thống thông tin chiến lược, thiếu nguồn nhân lực
có kinh nghiệm, kinh phí không đủ và thứ tự ưu tiên đầu tư phát triển các ứng
dụng/hệ thống thông tin chưa phù hợp. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra khuyến nghị
là trước khi tiến hành SISP cần nhìn nhận xu thế cơ bản của vòng đời của một hệ
thống thông tin (HTTT) là theo mô hình thác nước với góc nhìn biến động và xoáy
trôn ốc đi lên, không tuyến tính để kế hoạch HTTT có được sự mềm dẻo. Ngoài các
nghiên cứu và ứng dụng SISP cho tổ chức và doanh nghiệp, một số nhà khoa học
cũng đã nghiên cứu, vận dụng các lý thuyết SISP cho trường học và trường đại học.
Thứ hai, ở trong nước, các lý thuyết về SISP đã được một số trường đại học
khối kinh tế đưa vào giảng dạy, nghiên cứu và vận dụng trong môi trường kinh doanh
của các công ty, doanh nghiệp. Trong một số công bố trong nước, các nhà khoa học
cũng đã đề cập tới các giác độ khác nhau của SISP như: Những thông tin cần thiết
cho SISP, góc nhìn về sự phát triển của HTTT khi SISP, kiến trúc HTTT và SISP,
một số phương pháp tiêu biểu cho SISP cấp doanh nghiệp.
Mặc dù SISP đóng vai trò rất quan trọng đối với các tổ chức và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đối với các trường đại học, việc nghiên cứu, triển khai SISP còn hạn chế, có
rất ít các công bố liên quan tới SISP, đặc biệt là mô hình SISP cho các trường đại học,
công việc này càng trở nên cấp thiết hơn trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang diễn ra và xu thế chuyển đổi số của các quốc gia ngày càng mạnh mẽ.
Từ các lý do và phân tích nêu trên, tác giả đã nảy sinh ý tưởng nghiên cứu, đề
xuất mô hình SISP cho các trường đại học trong bối cảnh mới. Sau khi có ý tưởng
nghiên cứu, tác giả đã tiến hành xem xét phạm vi nghiên cứu, cân nhắc và đánh giá
năng lực của bản thân, sau đó khoanh vùng lựa chọn phạm vi nghiên cứu của đề tài là

3
khối các trường đại học công lập bởi các trường đại học công lập có sự đầu tư từ Nhà
nước nên sẽ thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu, triển khai và thí điểm những mô hình
mới hơn là các trường đại học tư thục. Để đánh giá kết quả và hiệu quả của mô hình
SISP, tác giả sẽ triển khai, thực hiện thí điểm mô hình này tại Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội. Sau khi đánh giá được kết quả và hiệu quả triển khai thí điểm mô hình SISP tại
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tác giả có thể thu được lời giải là hướng tiếp cận về
SISP có phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số hay không. Từ những phân tích nêu trên, tác
giả đã đề xuất tên đề tài là: “Nghiên cứu mô hình lập kế hoạch hệ thống thông tin chiến
lược cho các trường đại học công lập - vận dụng thí điểm cho Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận án là xây dựng mô hình SISP cho các trường đại
học công lập Việt Nam.
2.2. Các mục tiêu cụ thể
Các mục tiêu cụ thể của luận án bao gồm:
Thứ nhất, đề xuất mô hình lý thuyết SISP cho các trường đại học công lập
trong bối cảnh cuộc cách mạng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang
diễn ra và định hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Thứ hai, kiểm thử mô hình lý thuyết SISP cho các trường đại học công
lập và điều chỉnh mô hình này cho phù hợp với thực tế của các trường.
Thứ ba, đánh giá sơ bộ về sự phù hợp của mô hình SISP trong thực tế
triển khai vận dụng thí điểm mô hình này tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
3. Đối tượng nghiên cứu
Chủ thể nghiên cứu của đề tài là mô hình SISP và các yếu tố ảnh hưởng
đến SISP, khách thể nghiên cứu của đề tài là các trường đại học công lập Việt
Nam đang triển khai SISP hoặc có nhu cầu về SISP.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu, đề xuất mô hình SISP tại các trường đại
học công lập Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng tới mô hình, sau đó vận dụng thí
điểm mô hình này tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
4.2. Phạm vi về không gian và thời gian
Về phạm vi không gian: Đề tài có phạm vi không gian là khối các trường đại