
3
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI LỢN RỪNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.1.1. Nguồn gốc của lợn Rừng
Lợn Rừng có nguồn gốc từ Bắc châu Phi và phần lớn từ vùng Âu - Á
(Eurasia) kéo từ các đảo nước Anh (British Isles) đến Triều Tiên và các bán
đảo Sunda Islands. Vùng bắc kéo dài từ Nam Scandinavia tới Nam Siberia
và Nhật Bản.
Vùng sống của lợn Rừng Eurasian khá đa dạng, từ ôn đới tới nhiệt đới,
bán sa mạc tới các rừng ẩm ướt, đồng cỏ cho tới rừng rậm, và thường đến
những vùng cây trồng để kiếm ăn. Lợn Rừng sống ngay cả vùng Pyrenees có
độ cao 2400 m, nhưng ở châu Á chúng còn sống cao hơn (theo Wikipedia,
2010).
Lợn Rừng có tên khoa học là Sus scrofa, được phân loại là động vật có
hộp sọ, có xương sống, có quai hàm, có 4 chân, có màng ối, có vú, có nhau, bộ
guốc chẵn, thuộc chi Lợn.
Tính tới năm 2005, có 16 phân loài được công nhận. Lợn Rừng sống theo
nhóm mẫu hệ gồm các con đực non, con cái và con của chúng. Con đực trưởng
thành thường sống đơn độc trừ khi vào mùa sinh sản. Sói xám là thiên địch chính
của lợn Rừng tại hầu hết phạm vi sinh sống của chúng. Chúng là tổ tiên của hầu
hết các giống lợn nhà và là một loài thú săn trong nhiều nghìn năm.
Loài lợn rừng có tên khoa học là Sus Scrofa, thuộc chi Sus, họ Suidae, bộ
Artiodactyla, lớp động vật có vú, ngành Chordata, giới animalia tiếng Anh là
wild hogs, wild boars. Synonyms: Eurasian wild boar (Wikipedia, 2010).
Theo đó vùng duyên hải nam Trung Quốc và nam Việt Nam có giống
Sus.Serofa Moupinensis và Thái Lan có Sus.Serofa Cristatus.
Tuy nhiên lợn rừng tại Thái Lan là phân loài Sus.Serofa Jubatus (dẫn theo
Kvisna Keo Sua Um và Phira Krai Xeng Xri, 2005). Phân loài này cũng có tại
Malaysia.
2.1.2. Chăn nuôi lợn Rừng trên thế giới
Trong một số nước như Pháp và Italia, lợn Rừng được nuôi để ăn thịt và
thường được bán trong quán ăn hoặc khách sạn, mặc dù người ta cho rằng thịt
lợn Rừng có liên quan đến việc lây truyền bệnh Hepatitis E từng đã được phát
hiện ở Nhật. Ở Đức thịt lợn Rừng được xếp vào hạng thịt đắt tiền.
Pháp là nước nuôi khá nhiều lợn Rừng, có đến 800 trại (Chăm niên
Thoong Phăn Chăng, 2005). Ngay trong tự nhiên số này đã rất lớn: năm 2004-
2006 ước tính có 415 000 con và năm 2007-2008 đã tăng lên 522 000 con
(Selena, 2010).
Nước Anh nuôi lợn Rừng theo kiểu chăn nuôi hữu cơ (organic
farming). Tại nước này có hai kiểu được ứng dụng: đó là quảng canh (thả
tự do – free managed) và thâm canh (brown-dirt’ farming). Kiểu đầu được
ưa chuộng hơn vì đảm bảo được yêu cầu về quyền động vật (animal
welfare) và thịt lợn sản xuất ra cũng có vị ngon hơn. Kiểu này yêu cầu phải
có các trang bị như đất, hàng rào, các công cụ xử lý lợn, đàn giống. Tuy