
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
PHÙNG QUANG TRƯỜNG
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH SẢN
VÀ THỬ NGHIỆM THỤ TINH NHÂN TẠO CHO
LỢN RỪNG TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT
TẠI KHU VỰC PHÍA BẮC VIỆT NAM
Chuyên ngành : Sinh sản và Bệnh sinh sản gia súc
Mã số : 62.64.01.06
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Hµ NéI, 2017

Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Thanh
2. TS. Vũ Như Quán
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Tấn Anh
Hội Chăn nuôi
Phản biện 2: TS. Sử Thanh Long
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Phản biện 3: TS. Đào Đức Thà
Viện Chăn nuôi
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp
Học viện, họp tại: Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi 08h30 ngày 28 tháng 12 năm 2017
Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam

1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lợn Rừng, với quần thể khá lớn và phân bố rộng khắp lãnh thổ Âu - Á
(Euasia) từ lâu đã được loài người khai thác làm thực phẩm, các vật dụng. Lợn
rừng có nguồn gốc từ Bắc châu Phi và phần lớn từ vùng Âu - Á (Eurasia) kéo
từ các đảo nước Anh (British Isles) đến Triều Tiên và các bán đảo Sunda
Islands. Vùng bắc kéo từ Nam Scandinavia tới Nam Siberia và Nhật Bản.
Ý tưởng khai thác lợn Rừng - trong đó có việc chăn nuôi - để phục vụ con
người, ở nước ta được Lê Hiền Hào (1973) khởi xướng trong cuốn sách “Thú
kinh tế ở miền Bắc Việt Nam”. Tuy nhiên mãi đến 2001, một nông dân Bình
Phước đã thuần dưỡng một vài con lợn Rừng và lai chúng với một loại lợn đen
thường được các đồng bào vùng cao nuôi..
Năm 2005 một công ty tại Bình Phước đã nhập từ Thái Lan 100 con lợn
Rừng Thái Lan về nuôi thử nghiệm. Và sau đó hàng ngàn con được tiếp tục
nhập. Một phong trào nuôi lợn Rừng đã được nhen nhóm lên từ đó và được sự
ủng hộ của nhà nước Việt Nam với mong muốn đa dạng vật nuôi và tạo điều
kiện cho nông dân.
Hiện nay, có nhiều giống lợn nhập ngoại được nuôi phổ biến ở khắp các
địa phương trong cả nước, giúp nâng cao năng suất chăn nuôi, sản phẩm thịt
lợn được cung ứng đầy đủ trên thị trường hàng ngày; nhu cầu về thực phẩm
sạch có chất lượng tốt ngày càng lớn. Thịt lợn Rừng thơm ngon đặc trưng, bì
giòn, ít mỡ, hàm lượng cholesterol thấp, được rất nhiều người ưa thích và trở
thành món ăn đặc sản. Nguồn thịt lợn Rừng trước đây chủ yếu là săn bắn trên
Rừng, nhưng giờ đây nguồn cung cấp đó đã cạn kiệt; hơn nữa, nhà nước ta đã
cấm săn bắn để bảo vệ loài lợn Rừng. Chính vì vậy nghề chăn nuôi lợn Rừng
hình thành và phát triển đã đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng.
Những năm đầu tiên, ở Việt Nam nuôi chủ yếu loại lợn Rừng có nguồn
gốc từ Thái Lan, Trung Quốc; nhập theo con đường tiểu ngạch hay chính
ngạch về, số khác được thuần dưỡng từ lợn Rừng Việt Nam.
Đối với các nhà khoa học Việt Nam, lợn Rừng thực sự là đối tượng mới,
các thông tin hay các nghiên cứu về nó còn rất ít. Cũng giống như các loài vật
nuôi khác, lợn Rừng nuôi trong gia đình, trang trại cũng gặp phải những khó
khăn: Sân chơi hẹp, năng suất sinh sản thấp, dịch bệnh do chưa được nghiên
cứu đầy đủ và ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật.
Trong chăn nuôi lợn Rừng tại Việt Nam, việc khai thác, đánh giá chất
lượng tinh dịch và thụ tinh nhân tạo trên lợn Rừng và lợn Rừng với lợn bản địa
còn rất hạn chế, chưa có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này. Vì vậy các số
liệu khoa học, những thông tin về vấn đề này còn bỏ ngỏ và mới mẻ. Việc
nghiên cứu về khai thác, đánh giá chất lượng tinh dịch và Thụ tinh nhân tạo
trên đối tượng lợn Rừng là một vấn đề vô cùng cấp thiết hiện nay.

2
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
- Xác định, đánh giá một số chỉ tiêu sinh sản của lợn Rừng nhập nội từ Thái
Lan qua các chỉ tiêu: Tuổi thành thục về tính, tuổi phối giống lần đầu, thời điểm phối
giống thích hợp, thời gian mang thai, tuổi đẻ lứa đầu, thời gian động dục lại sau khi
cai sữa, số lượng con sinh ra/lứa, khối lượng ở các lứa tuổi, tỉ lệ nuôi sống đến 24h, tỉ
lệ nuôi sống đến 60 ngày, khoảng cách 2 lứa đẻ, chu kì động dục.
- Khai thác đánh giá chất lượng tinh lợn Rừng đực Thái Lan và thử
nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng lợn bản địa trong điều kiện nuôi nhốt:
Phương pháp huấn luyện và khai thác tinh lợn, chất lượng tinh dịch, thử
nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng và lợn bản địa.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Địa điểm
* Nội dung 1: Các chỉ tiêu sinh sản trên đàn lợn Rừng được thực hiện tại
các địa điểm: Vĩnh Phúc, Hòa Bình và Hà Nội.
* Nội dung 2: Thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng trong điều kiện
nuôi nhốt, được thực hiện tại trang trại lợn Rừng Mỹ Hạnh và Huệ Linh của
huyện Ba Vì - Hà Nội.
1.3.2. Thời gian
* Nội dung 1: Các chỉ tiêu sinh sản trên đàn lợn Rừng được thực hiện từ
năm 2012.
* Nội dung 2: Thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng trong điều kiện
nuôi nhốt thực hiện từ tháng 3 năm 2014 đến tháng 2 năm 2016.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Kết quả của luận án là công trình khoa học công bố tổng hợp về một số
chỉ tiêu sinh sản của lợn Rừng trong điều kiện nuôi nhốt tại miền Bắc Việt Nam .
- Kết quả của luận án là công trình khoa học lần đầu tiên đã đánh giá được
số lượng, chất lượng tinh dịch và thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho lợn Rừng và
lợn Rừng lai lợn Móng cái.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Kết quả nghiên cứu của đề tài về một số chỉ tiêu sinh sản của lợn Rừng
trong điều kiện nuôi nhốt tại miền Bắc Việt Nam là tư liệu cơ sở cho người
chăn nuôi và nhà chuyên môn đề ra phương pháp quản lý, chăm sóc nuôi
dưỡng nâng cao khả năng sinh sản của lợn Rừng
- Kết quả nghiên cứu về khai thác và thử nghiệm thụ tinh nhân tạo cho
lợn Rừng và lợn Rừng lai lợn Móng cái là cơ sở cho việc nhân giống lợn Rừng
chất lượng cao và tăng hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi lợn Rừng. Đây là
nội dung mới được nghiên cứu tại Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở cho việc đề ra những chính sách
cụ thể nhằm quản lý và phát triển đàn lợn Rừng cả về số lượng và chất lượng,
nâng cao hiệu quả chăn nuôi, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu ngày
càng cao của xã hội.

3
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI LỢN RỪNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.1.1. Nguồn gốc của lợn Rừng
Lợn Rừng có nguồn gốc từ Bắc châu Phi và phần lớn từ vùng Âu - Á
(Eurasia) kéo từ các đảo nước Anh (British Isles) đến Triều Tiên và các bán
đảo Sunda Islands. Vùng bắc kéo dài từ Nam Scandinavia tới Nam Siberia
và Nhật Bản.
Vùng sống của lợn Rừng Eurasian khá đa dạng, từ ôn đới tới nhiệt đới,
bán sa mạc tới các rừng ẩm ướt, đồng cỏ cho tới rừng rậm, và thường đến
những vùng cây trồng để kiếm ăn. Lợn Rừng sống ngay cả vùng Pyrenees có
độ cao 2400 m, nhưng ở châu Á chúng còn sống cao hơn (theo Wikipedia,
2010).
Lợn Rừng có tên khoa học là Sus scrofa, được phân loại là động vật có
hộp sọ, có xương sống, có quai hàm, có 4 chân, có màng ối, có vú, có nhau, bộ
guốc chẵn, thuộc chi Lợn.
Tính tới năm 2005, có 16 phân loài được công nhận. Lợn Rừng sống theo
nhóm mẫu hệ gồm các con đực non, con cái và con của chúng. Con đực trưởng
thành thường sống đơn độc trừ khi vào mùa sinh sản. Sói xám là thiên địch chính
của lợn Rừng tại hầu hết phạm vi sinh sống của chúng. Chúng là tổ tiên của hầu
hết các giống lợn nhà và là một loài thú săn trong nhiều nghìn năm.
Loài lợn rừng có tên khoa học là Sus Scrofa, thuộc chi Sus, họ Suidae, bộ
Artiodactyla, lớp động vật có vú, ngành Chordata, giới animalia tiếng Anh là
wild hogs, wild boars. Synonyms: Eurasian wild boar (Wikipedia, 2010).
Theo đó vùng duyên hải nam Trung Quốc và nam Việt Nam có giống
Sus.Serofa Moupinensis và Thái Lan có Sus.Serofa Cristatus.
Tuy nhiên lợn rừng tại Thái Lan là phân loài Sus.Serofa Jubatus (dẫn theo
Kvisna Keo Sua Um và Phira Krai Xeng Xri, 2005). Phân loài này cũng có tại
Malaysia.
2.1.2. Chăn nuôi lợn Rừng trên thế giới
Trong một số nước như Pháp và Italia, lợn Rừng được nuôi để ăn thịt và
thường được bán trong quán ăn hoặc khách sạn, mặc dù người ta cho rằng thịt
lợn Rừng có liên quan đến việc lây truyền bệnh Hepatitis E từng đã được phát
hiện ở Nhật. Ở Đức thịt lợn Rừng được xếp vào hạng thịt đắt tiền.
Pháp là nước nuôi khá nhiều lợn Rừng, có đến 800 trại (Chăm niên
Thoong Phăn Chăng, 2005). Ngay trong tự nhiên số này đã rất lớn: năm 2004-
2006 ước tính có 415 000 con và năm 2007-2008 đã tăng lên 522 000 con
(Selena, 2010).
Nước Anh nuôi lợn Rừng theo kiểu chăn nuôi hữu cơ (organic
farming). Tại nước này có hai kiểu được ứng dụng: đó là quảng canh (thả
tự do – free managed) và thâm canh (brown-dirt’ farming). Kiểu đầu được
ưa chuộng hơn vì đảm bảo được yêu cầu về quyền động vật (animal
welfare) và thịt lợn sản xuất ra cũng có vị ngon hơn. Kiểu này yêu cầu phải
có các trang bị như đất, hàng rào, các công cụ xử lý lợn, đàn giống. Tuy

