VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM HOÀNG THUẬN YẾN

BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN

THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN

TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM HOÀNG THUẬN YẾN

BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN

THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN

TỈNH THÁI NGUYÊN

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là

hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Học viên

Lâm Hoàng Thuận Yến

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO

ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ....................................................................... 8

1.1 Lao động chưa thành niên ..................................................................... 8

1.2 Bảo vệ lao động chưa thành niên ........................................................ 16

Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG

VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA

THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH THÁI

NGUYÊN ........................................................................................................ 25

2.1 Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về

bảo vệ người lao động chưa thành niên .................................................... 25

2.2 Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện

hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên .... 45

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ NÂNG

CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ BẢO

VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI TỈNH THÁI

NGUYÊN ........................................................................................................ 52

3.1. Các yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật lao động về bảo

vệ người lao động chưa thành niên ........................................................... 52

3.2 Hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa

thành niên .................................................................................................. 56

3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về

bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên .................. 62

KẾT LUẬN .................................................................................................... 67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

ILO: Tổ chức lao động quốc tế

BLLĐ: Bộ luật lao động năm 2012

BLDS: Bộ luật dân sự năm 2015

NLĐ: Người lao động

NSDLĐ: Người sử dụng lao động

HĐLĐ: Hợp đồng lao động

ATLĐ, VSLĐ: An toàn lao động, vệ sinh lao động

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam bắt đầu quá trình đổi mới nền kinh tế. Các

nguồn chi bao cấp cho y tế, văn hóa giáo dục và nhiều lĩnh vực khác dần dần bị

giảm hoặc cắt hoàn toàn. Mặt khác, Nhà nước cũng khuyến khích và tạo điều

kiện phát triển cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân. Điều này đã thu hút

nhiều loại hình lao động, trong đó có không ít lao động chưa thành niên.

Theo Báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) nhân ngày Thế giới

về chống bóc lột lao động 12/6/2019, thế giới có khoảng 152 triệu lao động

dưới 18 tuổi. Việc trẻ em phải lao động sớm để lại hậu quả nặng nề, ảnh

hưởng đến sự phát triển hài hòa của con người, tác động tiêu cực đến phát

triển kinh tế - xã hội, nhất là chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Tại

Việt Nam, theo Báo cáo Khảo sát quốc gia về lao động trẻ em năm 2018, có

1,75 triệu lao động trẻ em và người chưa thành niên từ 5 - 17 tuổi, chiếm

9,6% tổng dân số trẻ em. Để giảm thiểu số lượng lao động trẻ em và kiểm

soát chặt chẽ những hậu quả của việc người chưa thành niên tham gia lao

động, thời gian qua Chính phủ đã cam kết giải quyết vấn đề này thông qua

ban hành hệ thống luật pháp và chính sách. Ngay trong Bộ Luật lao động

cũng đã có các quy định về độ tuổi lao động tối thiểu, thời giờ làm việc và

điều kiện làm việc, quy định về lao động đối với người chưa thành niên. Bên

cạnh đó, Luật trẻ em năm 2016 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ

ngày 1/6/2017 tiếp tục có các quy định cụ thể về các hành vi nghiêm cấm bóc

lột trẻ em. Năm 2016 Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình

phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016-2020.

Tuy nhiên, trên thực tế các vấn đề liên quan đến người lao động chưa

thành niên hiện vẫn còn nhiều bất cập. Theo dõi các báo cáo kết quả khảo sát

của Cục An toàn lao động và Báo cáo kết quả thanh tra của Thanh tra Bộ Lao

1

động - Thương binh xã hội qua các năm gần đây cho thấy vẫn còn rất nhiều

người lao động chưa thành niên phải làm các nghề, các công việc độc hại,

nặng nhọc, nguy hiểm,... Chưa kể tình trạng người sử dụng lao động còn lợi

dụng sự non nớt, thiếu hiểu biết của các em để vi phạm giao kết hợp đồng lao

động, làm trái các quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,

tiền lương, an toàn lao động, vệ sinh lao động,... Đã có nhiều trường hợp trên

thực tế ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể lực, nhân cách, trí tuệ

của các đối tượng này. Ngoài ra, trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày nay,

việc vi phạm quy định về sử dụng lao động chưa thành niên còn ảnh hưởng

tới cam kết của Việt Nam về thực hiện Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu

làm việc và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các

hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

Xét thấy, thực trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một mặt,

xuất phát từ nhu cầu thiết yếu của thị trường lao động nói chung. Người sử

dụng lao động vì lợi ích kinh tế trước mắt mà bất chấp sử dụng người lao

động chưa thành niên theo những cách "bóc lột", trả công rẻ, dễ sai khiến,...

Mặt khác, xuất phát từ chính nhu cầu chủ quan của người lao động chưa thành

niên dưới sức ép của sự nghèo đói, mưu sinh, từ gánh nặng gia đình,... Họ

chấp nhận làm những công việc nặng nhọc, không vừa sức, cam chịu đồng

lương ít ỏi vì "không còn cách nào khác" dù có thể biết những việc đó ảnh

hưởng đến sức khỏe cũng như sự phát triển trí tuệ, nhân cách. Thực trạng này

đòi hỏi cộng đồng và pháp luật cần ra tay tương trợ. Tuy nhiên, pháp luật về

người lao động chưa thành niên hiện hành còn nhiều những hạn chế, bất cập,

ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh. Các quy định của pháp luật liên quan trực

tiếp đến người chưa thành niên không nhiều, chưa rõ ràng và chưa có nhiều

sự đổi mới phù hợp, linh hoạt theo tình hình thay đổi của kinh tế - xã hội đất

nước. Công tác điều tra, thống kê, nghiên cứu về thực trạng áp dụng pháp luật

2

đối với người lao động chưa thành niên còn chưa được chú trọng, chưa có sự

tổng kết, đúc rút kinh nghiệm một cách toàn diện và khách quan. Đặc biệt là ở

những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, khó khăn cho cơ quan Nhà nước

trong việc quản lý, giám sát và áp dụng pháp luật trong khi người dân đa số

đều chưa có điều kiện tiếp cận và hiểu biết pháp luật. Có thể lấy ví dụ điển

hình như tỉnh Thái Nguyên. Là một địa phương có nhiều lợi thế khi có đất đai

canh tác nông nghiệp rộng lớn, nguồn tài nguyên về khoáng sản dồi dào,

nhiều khu công nghiệp trải dài ở một số huyện, thị xã,... Tuy nhiên, cũng

chính vì diện tích rộng rất khó cho việc quản lý, giám sát, nhiều huyện miền

núi, vùng sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, do đó tình

trạng vi phạm trong sử dụng lao động chưa thành niên cũng diễn ra khá phổ

biến mà đến nay vẫn chưa có biện pháp khắc phục và áp dụng hiệu quả để bảo

vệ tốt nhất cho người lao động chưa thành niên – đối tượng lao động “yếu thế”

trên địa bàn. Đây chính là những lý do để tác giả chọn đề tài " Bảo vệ người

lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động từ thực tiễn tỉnh Thái

Nguyên " làm đề tài thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói

chung là một vấn đề nhức nhối và được chú trọng quan tâm trong suốt nhiều

năm. Đã có nhiều công trình khoa học tâm huyết nghiên cứu về các khía cạnh

pháp lý xoay quanh người lao động chưa thành niên và đặc biệt là phải làm

sao để bảo vệ đối tượng được coi là “yếu thế” trong xã hội này trước tình hình

kinh tế - xã hội đang ngày một biến đổi và phát triển nhanh chóng.

Mới đây nhất có luận văn về đề tài “ Bảo vệ người lao động chưa thành

niên theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Hồng Nhị (2019) đã

nghiên cứu và khái quát khá toàn diện về vấn đề bảo vệ người lao động chưa

thành niên theo pháp luật Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật trên toàn

3

quốc hiện nay và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ

người lao động chưa thành niên ở nước ta. Tuy nhiên, với một đề tài có phạm

vi nghiên cứu khá rộng, vấn đề bảo vệ người lao động chưa thành niên được

tác giả xem xét trên nhiều lĩnh vực của pháp luật, từ pháp luật dân sự, lao

động cho đến thương mại,... Do vậy, ở một mặt nào đó, những vấn đề này

chưa được đánh giá sâu hoặc có một số tồn tại trong công tác bảo vệ người

lao động chưa thành niên trên thực tế vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có giải pháp thỏa

đáng. Trước đó, vào năm 2016, tác giả Nguyễn Thị Nhàn cũng đã nghiên cứu

đề tài “ Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay”

trong đó có nghiên cứu và đánh giá khá sâu sát về lao động chưa thành niên

theo pháp luật lao động tại Việt Nam. Việc nghiên cứu xem xét chỉ trên một

“mảnh đất” là pháp luật lao động Việt Nam cho phép tác giả có thể dành

nhiều thời gian và công sức hơn để “cày sâu” về vấn đề người lao động chưa

thành niên tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài, tác

giả cũng chỉ đánh giá chung trên bình diện lao động chưa thành niên mà

không nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phù hợp để bảo vệ người lao động

chưa thành niên – nhóm đối tượng “ yếu thế” rất cần được Nhà nước, gia đình

và xã hội chở che. Ngoài ra, cũng có một vài đề tài lựa chọn nghiên cứu một

hoặc một số đối tượng cụ thể, ví dụ “ Vấn đề trẻ em gái giúp việc trong các

thành phố lớn” của tác giả Chu Mạnh Hùng, đăng trên Tạp chí gia đình giới

(2015).

Như vậy, có thể thấy có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học tiếp

cận ở nhiều vị trí khác nhau liên quan đến người lao động chưa thành niên.

Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay chưa có đề tài nào liên quan đến vấn đề bảo

vệ người lao động chưa thành niên tại một địa phương cụ thể. Trong khi đây

là một đề tài mang tính thực tiễn và rất cần thiết. Bởi lẽ, mỗi địa phương có

tình hình phát triển kinh tế - văn hóa xã hội cũng như đặc thù về địa lý, dân cư

4

khác nhau. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ người lao động chưa

thành niên vì thế cũng khác nhau và cần phải có những nghiên cứu toàn diện

về thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân cũng như đưa ra giải pháp phù hợp cho

điều kiện của mỗi địa phương. Do vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu

sâu sát, những giải pháp đổi mới với tình hình phát triển thực tế về " Bảo vệ

người lao động chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên" nhằm tăng

tính hiệu quả cho cơ chế pháp luật điều chỉnh, bảo vệ nhóm đối tượng đặc thù

và yếu thế này. Các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan khác đều có

mục đích, phạm vi nghiên cứu, nội dung nghiên cứu và phương pháp tiếp cận

khác với luận văn này, nhưng cũng là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quý

giá đối với tác giả luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận văn từ việc phân tích, làm rõ thực trạng pháp luật về

bảo vệ người lao động chưa thành niên qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái

Nguyên. Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ

người lao động chưa thành niên.

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những

nhiệm vụ sau đây:

- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về người lao động

chưa thành niên cũng như cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với nhóm đối

tượng này.

- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật lao động

về người lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Thái

Nguyên nói riêng, chỉ ra những ưu điểm và những mặt còn hạn chế cần đổi

mới, khắc phục trong việc bảo vệ quyền lợi tối ưu cho người lao động chưa

thành niên.

5

- Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn đánh giá nêu trên, luận văn

mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động về

người lao động chưa thành niên, đặc biệt chú trọng các giải pháp nâng cao

hiệu quả "bảo vệ" của pháp luật đối với nhóm đối tượng yếu thế này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu đề tài chủ yếu là các quy định của pháp luật lao

động Việt Nam hiện hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên. Bên

cạnh đó, luận văn còn đề cập đến một số nội dung chủ yếu trong các Công

ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết, trong đó có Công ước số

138 về độ tuổi lao động tối thiểu (1973) và Công ước số 182 về cấm và hành

động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất

(1999) làm cơ sở đối sánh để đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam.

Do pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên chủ yếu điều

chỉnh trong mối quan hệ " làm công ăn lương", nên để phù hợp với tên gọi

của đề tài và chuyên ngành nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về

đối tượng này và các nhóm quy định có liên quan mật thiết trong vai trò bảo

vệ người lao động chưa thành niên: Nhóm quy định về bảo vệ việc làm cho

người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ sức khỏe cho

người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ tiền lương và thu

nhập cho người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ các

quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên. Ngoài ra, tác giả còn

mở rộng ở một mức độ phù hợp về người lao động chưa thành niên trong giai

đoạn học nghề,...và một số mối quan hệ xã hội có liên quan.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn chủ yếu sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của triết học Mác - Lênin cũng như lý luận chung về Nhà nước và pháp luật

6

làm cơ sở cho phương pháp luận để đạt được mục đích và giải quyết tốt các

nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.

Ngoài ra, tùy vào mục đích, phạm vi và nội dung nghiên cứu của từng

chương trong luận văn mà tác giả sử dụng riêng lẻ hoặc tổng hợp các

phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... sao cho phù hợp và

hiệu quả nhất.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công

tác nghiên cứu, giảng dạy khoa học luật lao động, cho các cá nhân quan tâm

đến việc bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động. Bên

cạnh đó, ở mức độ nhất định, luận văn cũng giúp cho những người hoạt động

trong lĩnh vực lao động xã hội hay chính bản thân những người lao động chưa

thành niên những kiến thức cần thiết trong thực tiễn áp dụng pháp luật lao

động về người lao động chưa thành niên phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội

Việt Nam nói chung và thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục từ

viết tắt, kết cấu chính của luận văn gồm 3 chương với nội dung cơ bản như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động chưa thành niên.

Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về

bảo vệ người lao động chưa thành niên và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên.

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật lao động và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên.

7

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN

1.1 Lao động chưa thành niên

1.1.1 Khái niệm

Trên thế giới hiện chưa có khái niệm thống nhất về “ lao động chưa

thành niên”. Theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc và

Công ước số 182 năm 1999 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về loại bỏ

những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất không đưa ra khái niệm “ lao

động chưa thành niên” mà đưa ra khái niệm “lao động trẻ em”. Theo đó, “ trẻ

em được xác định là người dưới mười tám tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia

công nhận tuổi thành niên sớm hơn”. Còn trong Bản quy tắc của Liên hợp

quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Đại hội đồng

Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 có quy định: “ người chưa thành

niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn dưới tuổi này cần phải được pháp luật

xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên”. Như

vậy, khi đưa ra khái niệm chưa thành niên, pháp luật quốc tế không dựa hoàn

toàn, trực tiếp vào đặc điểm tâm, sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh

thần,... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Nhìn

chung, pháp luật quốc tế đã đưa ra khả năng “mở” cho các quốc gia tùy điều

kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống riêng để có thể quy định độ tuổi

thành niên sớm hơn.

Ở Việt Nam, những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần

nhưng tham gia lao động là hiện tượng phổ biến và được nhà nước thừa nhận.

Hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta đang ghi nhận cả hai thuật ngữ “trẻ em”

và “người chưa thành niên”. Theo Điều 1 Luật trẻ em 2016 thì “ trẻ em là

người dưới 16 tuổi”. Còn theo Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “ người

8

chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Điều đó cho thấy khái niệm “ trẻ

em” trong pháp luật Việt Nam là không hoàn toàn đồng nhất với quy định của

Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xét về độ tuổi, “ trẻ em” theo quan

niệm của Liên hợp quốc tương ứng với khái niệm “ người chưa thành niên”

của pháp luật Việt Nam là người dưới 18 tuổi.

Trong lĩnh vực pháp luật lao động, khái niệm người lao động chưa thành

niên hiện nay được quy định tại Điều 119 Bộ luật lao động 2012. Theo đó,

“người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Căn cứ các

quy định liên quan về người lao động chưa thành niên, giáo trình Luật lao

động Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội có diễn giải rõ hơn như sau:

“ lao động chưa thành niên là những lao động dưới 18 tuổi, bao gồm hai loại

lao động là lao động dưới 15 tuổi và lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18

tuổi”. Quy định này thể hiện sự phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự

2015 về xác định độ tuổi, năng lực chủ thể và trách nhiệm chủ thể, thông qua

đó để xác định phạm vi tham gia công việc, điều kiện bảo đảm và phương

hướng bảo vệ lao động chưa thành niên trong quan hệ lao động. Đồng thời

cũng thể hiện sự phù hợp với quy định của Công ước về quyền trẻ em năm 1989

của Liên hợp quốc và Công ước số 182 năm 1999 của ILO. Tuy nhiên, tương tự

như Điều 119 Bộ luật lao động, khái niệm này chưa nêu rõ những đặc tính cơ

bản làm cơ sở để nhận biết đối tượng người lao động chưa thành niên.

Theo tiến sỹ Nguyễn Hữu Chí: “ mọi người lao động dưới 18 tuổi có khả

năng lao động và giao kết hợp đồng lao động là lao động chưa thành niên”.

Đây là khái niệm phản ánh tương đối đầy đủ nội hàm về người lao động chưa

thành niên, trong đó đã xác định phạm vi đối tượng, tính chất, thuộc tính của

nhóm đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần tham gia quan hệ

lao động, làm cơ sở để phân biệt với những người lao động đã phát triển đầy

đủ về thể chất, tinh thần.

9

Từ đó có thể đưa ra khái niệm lao động chưa thành niên như sau: người

lao động chưa thành niên là người lao động có đặc điểm riêng, gồm những

người dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.

Khái niệm này đã nhấn mạnh đây là nhóm lao động đặc thù, có những

đặc điểm riêng biệt nhằm xây dựng một hành lang pháp lý phù hợp để bảo vệ

quyền lợi xác đáng cho họ.

Đây cũng là khái niệm thể hiện tính đồng nhất với các quy định của pháp

luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng khi chỉ rõ phạm vi

giới hạn tối đa về độ tuổi của người lao động chưa thành niên là dưới 18 tuổi

nhằm phân biệt với người lao động thành niên, có sự phát triển đầy đủ về thể

lực, trí tuệ.

Ngoài ra, khái niệm trên cũng nêu điều kiện, tính chất của người lao

động chưa thành niên. Đó chính là khả năng lao động. Việc xác định khả năng

lao động là điều kiện, thuộc tính của đối tượng này nhằm phân biệt với người

không có khả năng lao động (có khuyết tật nặng về trí lực, thể lực,...).

Một điều kiện quan trọng khác để được thừa nhận là người lao động

chưa thành niên, đó là phải có giao kết hợp đồng lao động. Người chưa thành

niên có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đầy đủ nhưng có trường hợp

họ không được coi là người lao động chưa thành niên khi họ không tham gia

vào quan hệ lao động. Việc tham gia quan hệ lao động thông qua hình thức

hợp đồng lao động. Theo đó, chủ thể trong hợp đồng lao động phải là người

sử dụng lao động và người lao động chưa thành niên. Đồng thời, hai bên khi

giao kết hợp đồng lao động phải tuân theo những quy định về hình thức, nội

dung hợp đồng để đảm bảo hợp đồng có hiệu lực.

10

1.1.2 Tính đặc thù của lao động chưa thành niên

So sánh với lao động thành niên, có thể thấy lao động chưa thành niên là

nhóm lao động đặc thù, có những đặc điểm riêng cơ bản như sau:

Thứ nhất, lao động chưa thành niên là người có độ tuổi dưới 18 tuổi,

chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần. Ở giai đoạn dưới 18 tuổi, nhóm

người này đang phát triển vượt bậc về thể chất nhưng chưa có sự ổn định về

sinh lý. Nếu phải lao động với cường độ quá sức, hoặc làm việc nhiều giờ,

hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại,...hoặc phải tiếp xúc thường xuyên với

các môi trường dễ xảy ra tệ nạn xã hội như: quán bar, quán karaoke, quán bia

– rượu,... sẽ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành và phát triển cả về thể chất lẫn

trí tuệ của người chưa thành niên. Tâm lý phức tạp của lứa tuổi này cũng là

một vấn đề lo ngại khi họ bắt đầu có sự tự ý thức về cá tính của mình, việc

sinh hoạt, giao tiếp với xã hội cũng được mở rộng và mang tính độc lập hơn,

không chịu sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ từ gia đình như trước. Nếu không

có sự uốn nắn kịp thời, người lao động chưa thành niên, với tâm lý tuổi trẻ

bồng bột, hiếu thắng, rất dễ ảnh hưởng xấu đến khả năng học nghề, năng suất

lao động, thậm chí là cả sự hình thành về tính cách sau này.

Chính vì vậy, các yếu tố bên ngoài là một trong những yếu tố để hình

thành nhân cách, lối sống của lao động chưa thành niên. Mặt khác, lao động

chưa thành niên là người chưa hoàn thiện về nhận thức, trì tuệ, còn non nớt về

xã hội và pháp luật cho nên rất khó để họ độc lập thực hiện và bảo vệ tính

mạng, danh dự của mình. Vì thế, đây là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị

xâm hại, bị lợi dụng, dụ dỗ, bóc lột lao động. Xuất phát từ đặc điểm này mà

pháp luật lao động cũng có quy định chặt chẽ các vấn đề liên quan đến việc

tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên.

Thứ hai, người lao động chưa thành niên được pháp luật bảo vệ ở mức

độ cao hơn so với người lao động thành niên. Lao động chưa thành niên còn

11

thiếu kinh nghiệm sống và làm việc, chưa hiểu biết pháp luật, hiểu biết xã hội.

Do độ tuổi còn trẻ, nên lao động chưa thành niên chưa có nhiều kinh nghiệm

sống, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, chưa nhận thức được đầy đủ về quyền

và nghĩa vụ lao động của mình. Cho nên khả năng tự bảo vệ là chưa cao,

nhiều em nhỏ phải chịu nguy cơ bị bóc lột, lợi dụng sức lao động. Do vậy, họ

được pháp luật bảo vệ theo hướng hưởng một số quyền, lợi ích ngang bằng

hoặc hơn những quyền và lợi ích mà pháp luật quy định với người lao động

thành niên, như: tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,...

Mặt khác, việc bảo vệ người lao động chưa thành niên còn thể hiện ở

quy định hạn chế họ tham gia làm một số công việc, ngành nghề nhất định.

Đối với nhóm lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi là

nhóm tuổi tham gia quan hệ lao động khá phổ biến hiện nay. Theo như Bộ

luật dân sự năm 2015 thì đây cũng là nhóm tuổi tối thiểu để có năng lực chủ

thể khi tham gia vào quan hệ lao động, có thể tự mình xác lập một số quyền

và nghĩa vụ trong quan hệ lao động ( Ví dụ như giao kết hợp đồng lao động).

Việc quy định nhóm tuổi lao động này căn cứ vào một số yếu tố như: cơ cấu

và nhu cầu giải quyết việc làm của xã hội, điều kiện kinh tế, xã hội của một số

quốc gia, lực lượng lao động xã hội và một số yếu tố khác. Bên cạnh đó, việc

quy định về nhóm tuổi này hoàn toàn phù hợp với Công ước số 138 năm 1973

về độ tuổi tối thiểu. Mặc dù, pháp luật cho phép độ tuổi này được tham gia lao

động, học nghề những do chưa hoàn thiện đầy đủ về thể chất lẫn tinh thần nên

độ tuổi này chỉ được phép làm những công việc phù hợp với sức khỏe, không

được làm những công việc độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc nơi làm việc,

tính chất công việc ảnh hưởng xấu đến nhân cách của họ.

Đối với nhóm lao động dưới 15 tuổi là nhóm tuổi đang trong quá trình

hoàn thiện về trí tuệ, nhân cách và thể lực. Nhóm tuổi này đa phần còn đang

là học sinh, vẫn còn đang đi học và vì một số nguyên nhân mà các em phải

12

lao động để phụ giúp gia đình hoặc để phục vụ nhu cầu cho chính bản thân

mình. Trong khoa học pháp lý thường gọi đây là những người có năng lực

pháp luật không đầy đủ. Vì vậy, khi các em ở độ tuổi này tham gia lao động

chỉ được làm những công việc nhẹ nhàng, đơn giản, không ảnh hưởng đến

việc học tập của các em. Còn đối với người dưới 13 tuổi, pháp luật quy định

không được sử dụng lao động là người dưới 13 tuổi trừ một số công việc do

Bộ lao động – Thương binh và Xã hội quy định.

Thứ ba, người lao động chưa thành niên bị hạn chế một phần năng lực

hành vi khi giao kết hợp đồng trong những trường hợp nhất định. Căn cứ điều

20, điều 21 BLDS năm 2015: người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ

18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện

theo pháp luật đồng ý. Người chưa đủ 6 tuổi khi tham gia giao dịch dân sự

phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Quy định này cũng

được ghi nhận trong pháp luật lao động nhằm đảm bảo có sự giám sát, bảo hộ

chặt chẽ hơn đối với quyền và lợi ích của người lao động chưa thành niên. Tại

Điều 3 Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số nội dung của Bộ luật lao động có nêu rõ hơn về vấn đề này. Người lao

động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi giao kết hợp đồng phải có sự đồng ý

bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Đối với người lao động dưới 15

tuổi không được trực tiếp giao kết hợp đồng mà phải giao kết qua người đại diện

theo pháp luật và phải có sự đồng ý bằng văn bản của người lao động.

1.1.3 Phân loại lao động chưa thành niên

Có nhiều cách phân loại lao động chưa thành niên dựa trên các tiêu chí

khác nhau, như: phân loại theo địa điểm ( nông thôn, thành thị); phân loại

theo nhóm ngành lao động ( nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,...); phân loại

theo độ tuổi,... Một vài cách phân loại phổ biến và dễ quản lý nhất như sau:

13

Thứ nhất, căn cứ vào độ tuổi có thể phân người lao động chưa thành niên

thành ba nhóm:

- Nhóm độ tuổi dưới 13 tuổi

Đây là nhóm có độ tuổi thấp nhất mà pháp luật cho phép và được quy

định rất cụ thể, chặt chẽ đối với người sử dụng lao động khi cho các em tham

gia học nghề hoặc làm việc. Đây cũng là nhóm không được khuyến khích

tham gia lao động, trừ một số ngành nghề đặc thù thuộc lĩnh vực nghệ thuật

có tính chất công việc nhẹ nhàng, không ảnh hưởng đến sự phát triển về thể

lực và trí tuệ, có thể tạo điều kiện phát triển tài năng cho các em như: đóng

phim, ca hát, trình diễn thời trang,...

- Nhóm độ tuổi từ 13 đến dưới 15 tuổi:

Đây là độ tuổi trẻ em hoàn toàn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, một số

các em trong số đó tiếp tục học lên các bậc học cao hơn. Còn một số em vì

một lý do nào đó không thể tiếp tục theo con đường học tập, thường là đối

tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thì các em buộc phải học nghề hoặc đi

làm để nuôi sống bản thân và gia đình. Tuy nhiên, đây cũng là nhóm tuổi

đang trong quá trình phát triển về thể chất, tinh thần lại có hạn chế về trình độ,

kiến thức, kỹ năng nên chỉ được phép tham gia vào những công việc nhẹ

nhàng, đơn giản, ít yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật và diễn ra trong thời gian

ngắn. Để bảo đảm được quyền lợi cho các em cũng như có sự rõ ràng hơn cho

người sử dụng lao động, Nhà nước ta đã quy định danh mục những công việc

mà nhóm tuổi này được làm kèm theo những điều kiện áp dụng chặt chẽ.

- Nhóm độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi:

Người chưa thành niên tham gia lao động ở tuổi này chiếm tỷ lệ đa số.

Họ có thể giao kết hợp đồng lao động và trở thành một bên của quan hệ lao

động và chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động. Thêm vào đó, chương

14

trình đào tạo cuối cấp ở đa số các trường học tại Việt Nam đều đã bổ sung

thêm một số nghề nhất định, giúp các em có định hướng, kiến thức và kỹ

năng cơ bản để bắt đầu lao động và làm việc gần như người trưởng thành.

Tuy nhiên, đối với nhóm tuổi này, pháp luật cũng có những quy định bảo hộ

cần thiết và hạn chế cho phép họ làm những công việc nặng nhọc, độc hại,

nguy hiểm hay ảnh hưởng tới nhân cách.

Thứ hai, căn cứ vào giới tính, có thể phân người lao động chưa thành

niên thành hai nhóm là lao động nam và lao động nữ. Tiêu chí này được đặt ra

dựa trên đặc điểm về cấu trúc cơ thể và tâm sinh lý khác biệt của các đối

tượng này nhằm sắp xếp các công việc phù hợp đồng thời đặt ra những biện

pháp bảo vệ và quản lý sâu sát, tránh sự lạm dụng đối với lao động chưa

thành niên nữ.

Thứ ba, căn cứ vào trình độ chuyên môn kỹ thuật, người lao động chưa

thành niên có thể được phân thành hai nhóm: lao động chưa thành niên đã qua

đào tạo và lao động chưa thành niên chưa qua đào tạo. Tiêu chí đào tạo này

được xác định thông qua việc người lao động chưa thành niên được cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền thực hiện đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghề, hoặc

do người lao động chưa thành niên tự rèn luyện, tích lũy, học hỏi kinh nghiệm

từ những người làm nghề đi trước. Mục đích của cách phân loại này nhằm có

những chính sách cần thiết để hỗ trợ, đào tạo tay nghề cho người lao động

chưa thành niên, giúp họ tăng thêm thu nhập đồng thời nâng cao chất lượng

nguồn lao động trong tương lai.

Trên thực tế còn rất nhiều cách phân loại người lao động chưa thành niên

theo các tiêu chí khác nhau. Tuy vậy, cách phân loại nào cũng chỉ mang tính

chất tương đối và đều nhằm mục đích tạo sự điều chỉnh pháp lý phù hợp, để

người lao động chưa thành niên được làm việc dưới sự bảo vệ tối ưu nhất của

pháp luật, chống lại sự lạm dụng, bóc lột sức lao động và tinh thần của họ.

15

1.2 Bảo vệ lao động chưa thành niên

1.2.1 Khái niệm bảo vệ lao động chưa thành niên

Bảo vệ người lao động nói chung và người lao động chưa thành niên nói

riêng là một trong các nguyên tắc cơ bản được đề ra trong pháp luật lao động.

Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ sự không tương xứng về vị thế giữa

người lao động và người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao động, người

lao động thường ở vị trí bất lợi hơn so với người sử dụng lao động. Sự “yếu

thế” này thể hiện ở khía cạnh địa vị xã hội của họ thấp hơn, thể lực, trí lực của

họ chưa phát triển bằng người sử dụng lao động. Khi thiết lập quan hệ lao

động giữa hai bên, nếu áp dụng nguyên tắc tự do thỏa thuận thì phía người lao

động chưa thành niên sẽ rơi vào tình huống bất lợi, quyền và lợi ích của đối

tượng này sẽ không được đảm bảo. Do vậy, việc xây dựng một hành lang pháp

lý với những quy định riêng, cụ thể, chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của

người lao động chưa thành niên cũng như đưa ra những nghĩa vụ cho đối tượng

này là một vấn đề đã, đang và sẽ được Nhà nước ta đề cao thực hiện.

Do đây là nhóm đối tượng đang trong quá trình phát triển chưa hoàn

thiện về thể lực, trí lực, tương ứng với mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm

riêng trong khi mỗi ngành nghề, môi trường làm việc lại có những tính chất

khác nhau nên không thể các quy định pháp luật theo hướng chi tiết, cụ thể

từng quyền và nghĩa vụ mà chỉ có thể quy định theo hướng thông qua các tiêu

chuẩn tối thiểu (về quyền, lợi ích) và tối đa (về nghĩa vụ) trên cơ sở độ tuổi

đồng thời khuyến khích các thỏa thuận có lợi hơn cho người lao động chưa

thành niên so với quy định của pháp luật.

Như vậy, có thể hiểu, bảo vệ người lao động chưa thành niên là việc

pháp luật xây dựng và áp dụng những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ

của người lao động chưa thành niên đồng thời khuyến khích các thỏa thuận có

lợi nhằm cân bằng vị thế của họ trong xã hội, giúp cho nhóm đối tượng này

16

được “an toàn” phát triển toàn diện từ thể chất đến tinh thần trong quá trình

lao động kiếm thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình.

1.2.2 Ý nghĩa và sự cần thiết bảo vệ lao động chưa thành niên trong pháp

luật lao động

Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế

hiện nay, sự phát triển của các mô hình kinh doanh từ hộ gia đình, doanh

nghiệp tư nhân,.. kéo theo nhu cầu lao động rất lớn, trong đó có lao động chưa

thành niên. Việc sử dụng lao động chưa thành niên, theo đa phần người sử

dụng lao động, thường có khá nhiều lợi ích, như: mức lương thấp, dễ sai bảo,

có thể tùy ý tăng thời giờ làm việc,... Mặt khác, đa phần người chưa thành

niên bắt buộc tham gia lao động vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Họ phải

bươn chải từ rất sớm, thậm chí bỏ học để làm việc nuôi sống bản thân và gia

đình. Đó chính là áp lực, là sức ép khiến người lao động chưa thành niên phải

tìm và làm bất cứ công việc gì mà họ được nhận. Hiện trạng này đã đặt ra nhu

cầu cần phải có pháp luật điều chỉnh nhằm định hướng cho sự phát triển của

các quan hệ có đối tượng này tham gia.

Các quy định của Nhà nước về việc làm, về quan hệ lao động, về thu

nhập và tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, thanh tra và xử lý vi

phạm... sẽ tạo ra một hành lang pháp lý để bảo vệ và phát huy những đặc tính

tích cực đồng thời hạn chế những ảnh hưởng không nên có của việc sử dụng

người lao động chưa thành niên, thêm vào đó cũng đảm bảo cho họ được phát

triển bình thường về mặt thể lực, trí lực và nhân cách.

Mặt khác, pháp luật về người lao động chưa thành niên còn góp phần

bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội. Người lao động chưa thành niên là

những “mầm non” tương lai của đất nước, bảo vệ nguồn lao động này chính

là bảo vệ nguồn cung trên thị trường lao động, bảo đảm sự phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước.

17

1.2.3 Nội dung điều chỉnh của pháp luật lao động về bảo vệ người lao

động chưa thành niên

1.2.3.1 Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên

Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà người chưa thành niên

phải tham gia lao động nhằm có thu nhập nuôi sống bản thân hoặc giúp đỡ gia

đình. Để thừa nhận và bảo vệ nhu cầu chính đáng này, pháp luật có những

quy định thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền được tham gia quan hệ lao động

của người lao động chưa thành niên.

Người lao động chưa thành niên có quyền có việc làm, được tự do lựa

chọn việc làm phù hợp, có quyền làm việc cho bất kỳ người lao động nào và ở

bất kỳ nơi đâu mà pháp luật không cấm. Đây là những quyền thuộc phạm trù

quyền cơ bản của con người, tạo điều kiện và cơ hội để người lao động chưa

thành niên có thu nhập bảo đảm cuộc sống của bản thân và giúp đỡ gia đình,

đồng thời đóng góp một phần cho xã hội cũng như hạn chế các tiêu cực, tệ

nạn xã hội. Quyền này không những được khẳng định trong pháp luật quốc

gia mà còn được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế. Tuyên ngôn về quyền

con người (1948) của Liên hợp quốc nêu rõ: “mọi người đều có quyền làm

việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính

đáng và được bảo vệ chống lại thất nghiệp”. Tuy nhiên, với những đặc thù

riêng về sự phát triển chưa toàn diện về thể chất, trí tuệ,.. người lao động chưa

thành niên khó có thể tự tìm cho mình một công việc phù hợp với khả năng

mà không bị lạm dụng, bóc lột sức lao động.

Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động chưa thành niên, pháp

luật quốc gia đã phân bổ nhiệm vụ cho một số cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền xây dựng các chính sách tạo việc làm, ưu tiên cho nhóm đối tượng này,

đồng thời phát triển mạng lưới thông tin về sự cung – cầu việc làm trên các

trang mạng điện tử - nơi có thể tiếp cận được với người chưa thành niên

18

nhanh nhất. Song song với đó, nhà nước còn khuyến khích các tổ chức kinh tế

tạo nhiều cơ hội việc làm phù hợp hơn cho người lao động chưa thành niên,

đặc biệt là trong các ngành nghề có tính chất nhẹ nhàng, phù hợp với sức

khỏe, trí lực của các đối tượng từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi như: trong các làng

nghề mây tre đan, chế biến các loại trà, thủ công mỹ nghệ, tranh sơn mài...

Điều này không chỉ tạo việc làm, tăng thu nhập cho các em mà còn vun đắp

tình yêu với những sản phẩm truyền thống, đặc sắc của dân tộc, góp phần gìn

giữ những giá trị văn hóa tinh thần của đất nước.

Để đạt được hiệu quả tối ưu và bảo vệ những quyền lợi thiết yếu của

người sử dụng lao động, song song với việc tăng nhu cầu việc làm cho người

lao động chưa thành niên, nhà nước còn rất chú trọng đến việc đào tạo, nâng

cao chất lượng tay nghề của nhóm đối tượng này. Không chỉ “mang cần câu

cá cho người, mà còn phải dạy họ kỹ thuật câu cá”, như vậy mới tạo được sự

bền vững và cân đối được lợi ích hai bên.

Ngoài học nghề, thì vấn đề giao kết hợp đồng lao động với người chưa

thành niên cũng được pháp luật rất chú trọng. Với tư cách là một người lao

động, khi tham gia vào quan hệ lao động, lao động chưa thành niên cũng phải

giao kết hợp đồng lao động. Theo tổ chức lao động quốc tế thì hợp đồng lao

động là một thỏa thuận ràng buộc pháp lý giữa người sử dụng lao động và

người lao động, trong đó xác định các điều kiện và chế độ làm việc. Trên cơ

sở đó, pháp luật Việt Nam cũng quy định tại Điều 15 BLLĐ 2012 như sau: “

Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao

động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi

bên trong quan hệ lao động”. Quy định về điều kiện giao kết hợp đồng lao

động của người lao động chưa thành niên chủ yếu là dựa trên tiêu chí phân

loại về độ tuổi. Mỗi nhóm độ tuổi khác nhau thì các công việc tương ứng với

độ tuổi cũng khác nhau: nhóm dưới 13 tuổi chỉ được giao kết hợp đồng lao

19

động để làm các công việc nhẹ nhàng liên quan đến nghệ thuật: diễn xuất,

biểu diễn nghệ thuật, ...; nhóm từ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi thông quan người

đại diện theo pháp luật để giao kết hợp đồng làm các công việc nhẹ nhàng,

không ảnh hưởng đến an toàn, sức khỏe, đạo đức, sự phát triển và việc đi học

trong khi nhóm từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được quyền giao kết hợp đồng lao

động với hầu hết các công việc, trừ công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đến

an toàn, sức khỏe, đạo đức hay sự phát triển về thể lực, trí lực và nhân cách

nhưng phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.

1.2.3.2 Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên

Lao động chưa thành niên là nhóm lao động riêng với đặc điểm đặc thù

là chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí lực, do đó cần phải xây dựng

những quy định riêng để bảo vệ về mặt sức khỏe cho nhóm đối tượng này. Đa

phần các quốc gia đều quy định theo hướng rút ngắn thời giờ làm việc và tăng

thời giờ nghỉ ngơi so với người lao động thành niên; thường xuyên kiểm tra

sức khỏe định kỳ,...

Ngoài ra, những quy định về ATLĐ, VSLĐ cũng được pháp luật các

quốc gia đặc biệt chú trọng. Bởi môi trường lao động là nơi có ảnh hưởng rất

lớn đến sức khỏe, sự phát triển về thể chất, tinh thần, thậm chí là về tính mạng

của người lao động, đặc biệt là người lao động chưa thành niên. Hầu hết các

quốc gia đều yêu cầu NSDLĐ phải đảm bảo nghiêm ngặt các quy định về

điều kiện lao động và vệ sinh bắt buộc, trang bị và đảm bảo các biện pháp

ngăn ngừa, loại bỏ những yếu tố độc hại, nguy hiểm cũng như trang bị đầy đủ

các thiết bị bảo hộ lao động.

Những quy định này có thể tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho người lao

động chưa thành niên tham gia lao động với thời gian hợp lý, bảo vệ sức khỏe

để làm việc lâu dài, đảm bảo có thời gian nghỉ ngơi, học tập. Điều này cũng

20

nhằm tái khả năng sản xuất lao động và đảm bảo hiệu suất làm việc, góp phần

giữ vững nền kinh tế - xã hội của một quốc gia.

1.2.3.3 Bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao động chưa thành niên

Theo ILO, “ tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất kể tên gọi hay

cách tính mà có thể biểu hiện bằng tiền mặt và được ấn định bằng thỏa thuận

giữa NSDLĐ và NLĐ, hoặc bằng pháp luật quốc gia, do NSDLĐ phải trả cho

NLĐ theo một hợp đồng thuê mướn lao động, bằng viết tay hoặc bằng miệng,

cho một công việc đã thực hiện hoặc sẽ thực hiện, hoặc cho những dịch vụ đã

làm hoặc phải làm”. Như vậy, về mặt pháp lý, tiền lương được hiểu là số tiền

mà NSDLĐ trả cho NLĐ theo sự thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng lao

động, trên cơ sở năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Tiền

lương có ý nghĩa quan trọng đối với NLĐ nói chung và người lao động chưa

thành niên nói riêng, ngoài việc nuôi sống bản thân và gia đình mà còn giúp

họ tích lũy, tái sản xuất sức lao động,...

Pháp luật Việt Nam có quy định về mức lương tối thiểu, điều này giúp

người lao động chưa thành niên có căn cứ để xác định và thỏa thuận với

người sử dụng lao động một mức lương tương xứng với công sức lao động và

hợp lý trong nền kinh tế thị trường. Ngoài quy định về tiền lương tối thiểu, pháp

luật cũng có những quy định khác đối với tiền lương của người lao động chưa

thành niên, như: quyền nhận lương đầy đủ, đúng hạn, cách tính lương theo sản

phẩm làm ra hoặc theo hướng có lợi cho người lao động chưa thành niên.

1.2.3.4 Bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên

Pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền nhân thân tại khoản 1 Điều 25

BLDS năm 2015 như sau: “ Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật

này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho

người khác, trừ trường hợp khác có liên quan đến quy định khác”. Quyền

21

nhân thân có một số đặc điểm: quyền nhân thân là một bộ phận của quyền dân

sự, thuộc về cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác và quyền này

hướng tới những giá trị tinh thần không định giá được như: quyền đối với họ

tên; quyền được khai sinh; quyền được khai tử; quyền tự do đi lại, tự do cư

trú; quyền đối với hình ảnh cá nhân; quyền bí mật đời tư; quyền tác giả; ...

Những quyền này hiện nay đều được quy định từ điều 26 đến điều 39 tại

BLDS năm 2015.

Đối với người lao động chưa thành niên, do chưa phát triển toàn diện về

thể lực và trí lực, họ có thể không nhận thức được rằng bản thân họ có đầy đủ

những quyền năng này, hoặc không biết làm cách nào để bảo vệ những quyền

năng về tinh thần mà pháp luật đã ghi nhận cho cá nhân mỗi người. Do vậy,

khi tham gia vào quan hệ lao động, phải tiếp xúc với nhiều tầng lớp trong xã

hội, gặp phải nhiều tình huống khác nhau, người lao động chưa thành niên rất

dễ trở thành đối tượng “bị tổn thương”, đặc biệt là với những quyền gắn liền

với quá trình lao động, sinh hoạt: Quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền

sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền

được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền về đời sống riêng tư, bí mật

cá nhân, bí mật gia đình,...

Việc quy định chặt chẽ những quyền này tạo nên một khung pháp lý về mọi

mặt để bảo vệ toàn diện hơn cho đối tượng người lao động chưa thành niên,

giúp họ có thể yên tâm làm việc, lao động, ổn định cuộc sống mà không bị ảnh

hưởng đến quá trình phát triển về tâm sinh lý cũng như về thể lực và trí tuệ.

1.2.3.5 Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động về bảo vệ người lao

động chưa thành niên

Để điều chỉnh quan hệ lao động giữa NSDLĐ và NLĐ một cách hiệu

quả, một trong những biện pháp bảo đảm quan trọng đó là thanh tra lao động.

Đây không những là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, nhằm

22

ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý vi phạm pháp luật lao động mà còn đảm bảo

tính thực thi của các quy định pháp luật lao động cũng như nâng cao hiệu quả

quản lý nhà nước. Thanh tra lao động phát hiện những nhược điểm của quy

định pháp luật trong thực tiễn áp dụng, thông qua đó kiến nghị điều chỉnh, bổ

sung nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định này. Hoạt động thanh tra,

chính vì thế góp phần quan trọng trong việc hạn chế vi phạm pháp luật, bảo

vệ những quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ nói chung và lao động chưa

thành niên nói riêng. Pháp luật lao động ở Việt Nam quy định cơ quan chủ

yếu có thẩm quyền thanh tra là Bộ lao động – Thương binh và xã hội cùng các

Sở lao động thương binh và xã hội ở địa phương. Khi tiến hành thanh tra,

thanh tra có quyền xử lý các vi phạm theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ

quan chức năng liên quan xử lý các vi phạm pháp luật lao động. Cơ sở pháp

lý để xử lý các vi phạm là quy định về các hành vi vi phạm và mức xử phạt.

Các hành vi vi phạm chủ yếu xâm phạm đến quyền, lợi ích, danh dự, nhân

phẩm hoặc an toàn sức khỏe của người lao động chưa thành niên với mức xử

phạt có phần nghiêm khắc hơn so với các hành vi vi phạm đối với người lao

động thành niên. Những quy định có phần “ưu tiên” này nhằm thực hiện tốt

hơn nguyên tắc bảo vệ người lao động chưa thành niên.

23

Tiểu kết chương 1

Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã kéo theo nhu cầu rộng lớn đối

với thị trường lao động. Việc đa dạng nguồn cung ứng lao động, trong đó

gồm cả những người lao động chưa thành niên có thể góp phần đáp ứng nhu

cầu thiết yếu đang ngày một tăng của thị trường.

Đây là nhóm người lao động có đặc điểm riêng, gồm những người dưới

18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. Do chưa có

sự phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, chưa nhận thức và tự bảo vệ quyền

và lợi ích của mình trước người sử dụng lao động – vốn được coi là bên có

“thế mạnh” hơn, cho nên pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật của mỗi

quốc gia nói riêng đều có những quy định chặt chẽ nhằm đảm bảo vệ sức

khỏe, việc làm, các quyền lợi về thu nhập và tiền lương cũng như bảo vệ các

quyền về nhân thân,... trong suốt quá trình trước, trong và sau lao động, giúp

cho họ an tâm làm việc trong điều kiện tốt nhất.

24

Chương 2

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM

HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN

VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN

2.1 Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo

vệ người lao động chưa thành niên

Hoàn cảnh gia đình khó khăn, áp lực về kinh tế là lý do phổ biến nhất

dẫn đến việc người lao động chưa thành niên phải bươn trải kiếm sống từ khi

tuổi còn nhỏ. Họ đều là những người dưới 18 tuổi, chủ yếu đang trong giai

đoạn phát triển nhanh về thể chất và tâm lý do đó thường có quá trình tiếp thu

học hỏi rất nhanh chóng, linh hoạt và sáng tạo. Đây cũng là giai đoạn tốt để

các em bồi dưỡng kỹ năng sống, kỹ năng làm việc hoặc định hướng công việc

tương lai ( đặc biệt là ở lứa tuổi 15 – 18 tuổi).

Tuy nhiên, chính vì nhóm đối tượng này va chạm xã hội chưa nhiều,

kinh nghiệm sống ít ỏi cùng tay nghề kỹ thuật chưa cao, thiếu sự kiên định, dễ

bị tác động bởi môi trường khách quan nên thường bị lôi kéo vào các tệ nạn

xã hội hoặc bị ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể lực, trí lực và nhân cách.

Thực trạng này đòi hỏi pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc gia

nói riêng cần thiết phải đặt ra những quy định nhằm bảo vệ người lao động

chưa thành niên trong quá trình họ lao động kiếm sống. Hiện nay pháp luật

Việt Nam cũng có những quy định về người lao động được ghi nhận trong Bộ

luật Lao động và nhiều văn bản quy phạm khác có liên quan. Ngoài những

quy định chung cho người lao động, hệ thống pháp luật nước ta cũng đã đặt ra

những quy định riêng khá phù hợp với đặc thù người lao động chưa thành

niên, bảo vệ quá trình lao động của họ, không ảnh hưởng xấu đến sự phát

triển thể lực, trí lực và nhân cách của họ, đồng thời tạo điều kiện cho họ có

thu nhập ổn định, công bằng. Trong đó, có thể kể đến năm trong số các nhóm

25

quy định chính: Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên; Bảo vệ

sức khỏe cho người lao động chưa thành niên; Bảo vệ thu nhập và tiền lương

cho người lao động chưa thành niên; Bảo vệ các quyền nhân thân của người

lao động chưa thành niên; Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động về

bảo vệ người lao động chưa thành niên.

2.1.1 Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên

Theo số liệu thống kê tại Báo cáo khảo sát năm 2018 của Bộ lao động –

Thương binh và xã hội, cả nước có khoảng hơn 1,75 triệu lao động chưa

thành niên, phổ biến ở độ tuổi 12 – 13 tuổi ( chiếm 68,7%). Trong đó, lĩnh

vực nông nghiệp là 67%, còn lại ngành dịch vụ chiếm 16,6% và công nghiệp

– xây dựng chiếm 15,8%. Đây cũng là con số thể hiện quyền làm việc, tự do

lựa chọn việc làm và nghề nghiệp của người lao động chưa thành niên ở bất

cứ lĩnh vực cho phép nào mà họ mong muốn hiện được quy định tại Điều 5

và Điều 16 BLLĐ. Tuy nhiên, người lao động chưa thành niên cũng bị hạn

chế một phần nội dung các quyền này: hạn chế không được làm những

công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ( Điều 121 BLLĐ) hay đối với

nhóm từ dưới 15 tuổi chỉ được nhận các công việc nhẹ nhàng được quy

định tại Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH ban hành danh mục công việc

nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi,...

Việc hạn chế này không phải là sự phân biệt đối xử giữa người lao động

chưa thành niên và người lao động thành niên. Mà là quy định cần thiết

nhằm bảo vệ người lao động chưa thành niên – những người chưa phát

triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, nếu buộc họ phải làm những công việc

nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại thì bản thân họ chưa có đủ kỹ năng, sức

khỏe cũng như kinh nghiệm để tự bảo vệ bản thân. Quy định này phù hợp

với Công ước số 182 về cấm và hành động khẩn cấp nhằm loại bỏ các hình

thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

26

Tuy nhiên, ngoài các ưu điểm vừa kể trên, thực tế các quy định này cũng

có một số bất cập. Cụ thể, theo danh mục công việc nhẹ được sử dụng người

dưới 15 tuổi, nhóm tuổi này có rất ít sự lựa chọn cho công việc của mình.

Nhóm độ tuổi dưới 13 tuổi chỉ được phép lựa chọn các công việc liên quan

đến một số loại hình nghệ thuật, năng khiếu ( diễn viên múa, hát, xiếc,...vận

động viên thể dục dụng cụ, bơi lội,...) hay nhóm từ đủ 13 tuổi đến dưới 15

tuổi chỉ được phép làm các công việc liên quan đến thủ công mỹ nghề, nghề

truyền thống, gói kẹo dừa, nuôi tằm, chủ yếu là các công việc “tại chỗ”,

không cần di chuyển nhiều, do đó dễ dàng giám sát, quản lý. Đây là một trong

những ưu điểm lớn nhưng vô hình chung lại khiến các em khá gò bó về mặt

không gian. Thêm vào đó, dường như danh mục công việc còn hạn hẹp, trong

khi trên thực tế còn có rất nhiều các công việc có tính chất nhẹ nhàng khác để

người lao động dưới 15 tuổi lựa chọn: hái chè, dán tem nhãn hoa quả, đóng

gói đồ khô, gấp phong bì,... Việc đa dạng thêm danh mục công việc nhẹ

không chỉ góp phần tăng sự lựa chọn cho người lao động chưa thành niên, mà

còn giúp giải quyết nhu cầu lao động đang ngày một tăng cao của người sử

dụng lao động.

Mặt khác, để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, Nhà nước

ta đã thống nhất thực hiện nhiều biện pháp để tạo điều kiện cho các thành

phần kinh tế đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất – kinh doanh, tạo thêm nhiều

cơ hội việc làm và phát triển thị trường lao động, ... Các biện pháp về kinh tế -

xã hội được thực hiện đồng thời với việc áp dụng các công cụ pháp luật để tạo

hành lang pháp lý phù hợp, giúp cho người lao động nói chung và người lao

động chưa thành niên nói riêng an tâm lựa chọn công việc phù hợp và hiệu

quả nhất. Có thể kể đến như: Chương trình việc làm ( được quy định tại Điều

13 BLLĐ, Điều 5 Nghị định 03/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số

điều của Bộ luật lao động về việc làm) được lập ra với mục tiêu giải quyết

27

việc làm, bảo đảm cho mọi công dân có khả năng năng lao động và có nhu

cầu việc làm đều có cơ hội lựa chọn việc làm phù hợp; Tạo lập và sử dụng các

loại Quỹ giải quyết việc làm ( Điều 12 BLLĐ; Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy

định về chính sách hỗ trợ việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm; Nghị định

74/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 61/2015/NĐ-CP,...) với vai trò cung cấp

vốn vay giải quyết việc làm và hỗ trợ cho người lao động tự tạo công ăn việc

làm cho chính bản thân mình và những người xung quanh; Phát triển hệ thống

Tổ chức giới thiệu việc làm ( Điều 14 BLLĐ) gồm các tổ chức trung gian có

nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động, cung ứng thông tin

về thị trường lao động, giúp cho người lao động nói chung và người lao động

chưa thành niên nói riêng dễ dàng hơn trong vấn đề tìm việc, đồng thời có thể

có định hướng lựa chọn công việc phù hợp nhất với họ.

Tuy nhiên, do đây là những biện pháp, chính sách dành cho người lao

động nói chung nên trên thực tế, người lao động chưa thành niên chưa nhận

được sự quan tâm riêng biệt, sâu sát với đặc thù của họ. Kết quả điều tra lao

động, việc làm của Tổng cục thống kê và Tổ chức lao động quốc tế những

năm gần đây cho thấy số lao động trẻ từ 15 – 24 tuổi chiếm đến 46,8% trong

tổng số 1 triệu người thất nghiệp, tỷ trọng này ở khu vực thành thị là 38,1%

và ở khu vực nông thôn là 56,2%. Thêm vào đó, cơ chế chính sách ở nước ta

tuy tạo ra nhiều việc làm mới và có xu hướng tăng nhưng lại thiếu vững chắc,

chất lượng việc làm chưa cao, giá trị lao động còn thấp và chưa được quản lý

giám sát chặt chẽ. Nguyên nhân do trình độ tay nghề của người lao động chưa

thành niên chưa cao cùng với việc giao kết các hợp đồng lao động chưa được

chặt chẽ.

Thứ nhất, về vấn đề học nghề:

Vấn đề học nghề cho người lao động được quy định tại Chương IV

BLLĐ. Luật việc làm 2013 và Luật giáo dục nghề nghiệp 2014. Theo đó,

28

người lao động, trong đó có người lao động chưa thành niên, được lựa chọn

nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình ( Khoản 1 Điều

59 BLLĐ).

- Về độ tuổi học nghề, tập nghề:

Pháp luật không quy định cụ thể về độ tuổi được phép đối với việc học

từng nghề cụ thể. BLLĐ chỉ quy định trường hợp NSDLĐ tuyển người vào

học nghề, tập nghề để làm việc cho mình (không đăng ký hoạt động dạy nghề,

không thu học phí) thì người học nghề, tập nghề phải đủ 14 tuổi và phải có đủ

sức khỏe phù hợp với yêu cầu của nghề, trừ một số nghề do BLĐTB&XH quy

định ( Khoản 1 Điều 61 BLLĐ). Quy định này nhằm hạn chế tỷ lệ thất học

đang ngày một gia tăng tại Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải có những văn bản

hướng dẫn chi tiết hơn nữa về điều kiện về độ tuổi, sức khỏe, và đặc biệt là về

người giám hộ đối với từng ngành nghề mà đối tượng lao động chưa thành

niên được phép học nghề, tập nghề, tránh trường hợp các em bị bóc lột sức

lao động quá mức hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của cơ thể ngay

trong quá trình học nghề, tập nghề.

- Về hình thức, nội dung hợp đồng học nghề và chấm dứt hợp đồng

học nghề

Điều 61, Điều 62 BLLĐ và Luật giáo dục nghề nghiệp 2014 quy định 2

bên phải ký kết Hợp đồng đào tạo nghề, lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01

bản. Trong Hợp đồng đào tạo nghề cần phải có đầy đủ các nội dung chủ yếu:

Nghề đào tạo; Địa điểm đào tạo; thời hạn đào tạo; Chi phí đào tạo; Thời hạn

NLĐ cam kết phải làm việc cho NSDLĐ sau khi được đào tạo; Trách nhiệm

hoàn trả chi phí đào tạo; Trách nhiệm của NSDLĐ;

Nhìn chung, Hợp đồng đào tạo nghề đã khá đầy đủ các nội dung cần

thiết. Tuy nhiên, một bất cập đặt ra là chỉ những NLĐ đủ 14 tuổi có các điều

29

kiện luật định mới được tham gia học nghề, tập nghề và ký kết Hợp đồng đào

tạo nghề. Một là, pháp luật không có quy định cụ thể về người giám hộ trong

trường hợp này. Hai là, những trường hợp không đủ điều kiện để tham gia

học nghề, tập nghề và ký kết Hợp đồng đào tạo nghề ( dưới 14 tuổi,...) thì

thường các nội dung thỏa thuận về việc học nghề sẽ bằng lời nói, đồng thời

việc truyền dạy các kỹ năng, bí quyết sẽ không theo một quy trình đào tạo bài

bản, không minh bạch với các nội dung quan trọng: thời gian học nghề, tập

nghề, mức chi phí đào tạo,... Do vậy, nhóm đối tượng này rất dễ bị lợi dụng

sức lao động, kéo dài thời gian học nghề, mặc dù đã làm được thành phẩm

chất lượng nhưng không được trả lương xứng đáng,...

Thứ hai, về vấn đề giao kết Hợp đồng lao động:

- Điều kiện để giao kết HĐLĐ

Theo quy định tại Điều 164 BLLĐ, điều kiện để giao kết HĐLĐ đối với

người lao động chưa thành niên tập trung chủ yếu vào quy định về độ tuổi,

sức khỏe và vấn đề giám hộ.

Một là, nhóm người lao động chưa thành niên từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi:

Nhóm này được giao kết HĐLĐ với các công việc phù hợp với sức khỏe

để thực hiện hầu hết các công việc, trừ những công việc nặng nhọc, nguy

hiểm hoặc tiếp xúc với các hóa chất độc hại hoặc nơi làm việc ảnh hưởng xấu

đến nhân cách. Họ có quyền tự mình thỏa thuận với NSDLĐ về tất cả các vấn

đề liên quan để thiết lập quan hệ lao động tuy nhiên vẫn cần có sự đồng ý

bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Điều này có nghĩa là pháp

luật cho phép người lao động chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi có

thể tự mình tham gia quan hệ lao động, tự thực hiện quyền và gánh vác đầy

đủ các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ lao động.

30

Hai là, nhóm người lao động chưa thành niên dưới 15 tuổi:

Nhóm này chỉ được giao kết HĐLĐ với một số nghề và công việc liên

quan đến các nghề thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật, năng khiếu như: diễn viên,

múa, hát, chèo, bơi lội, cờ tướng, ... Người lao động chưa thành niên dưới 15

tuổi khi giao kết HĐLĐ bắt buộc phải thông qua người đại diện theo pháp luật.

- Về hình thức, nội dung, thời hạn và hiệu lực của HĐLĐ

BLLĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành có quy định khá rõ về vấn đề

này và hầu như không có sự phân biệt trong các quy định của người lao động

thành niên với người lao động chưa thành niên.

HĐLĐ giữa người lao động chưa thành niên và NSDLĐ có thể được

giao kết bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Hình thức giao kết bằng lời nói áp

dụng với những công việc có tính chất tạm thời mà thời hạn dưới 03 tháng

hoặc với lao động giúp việc gia đình. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi

cho việc thiết lập quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ đối với những công

việc đơn giản hoặc có thời gian lao động ngắn, có tính chất mùa vụ. Còn đa

phần các công việc khác đều phải sử dụng hình thức HĐLĐ bằng văn bản để

đảm bảo về mặt pháp lý cho các bên tham gia quan hệ lao động.

Về nội dung của HĐLĐ, NSDLĐ và người lao động chưa thành niên

phải thương lượng những vấn đề cụ thể theo quy định tại Điều 23 BLLĐ: Tên

và địa chỉ của NSDLĐ hoặc người đại diện hợp pháp; Họ tên, ngày tháng năm

sinh, giới tính, địa chỉ nơi cư trú, số chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp

pháp khác của NLĐ; Công việc và địa điểm làm việc; Thời hạn của HĐLĐ;

Mức lương, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các

khoản bổ sung khác; Chế độ nâng bậc, nâng lương; Thời giờ làm việc, thời

giờ nghỉ ngơi; Trang bị bảo hộ cho NLĐ; Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế;

Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề. Tuy nhiên, khi thỏa

31

thuận các bên cần lưu ý những hạn chế pháp lý dành riêng cho người lao động

chưa thành niên như: thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phải hợp lý, tránh

các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm mà pháp luật cấm,...

Về thời hạn của HĐLĐ, theo Điều 22 BLLĐ thì hiện nay HĐLĐ được

phân ra ba loại: HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn,

HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12

tháng. Việc phân loại này nhằm mục đích bảo vệ NLĐ trước sức ép quá lớn

của thị trường lao động, đảm bảo cho họ có thể gắn bó với công việc trong

một thời gian nhất định.

Về hiệu lực của HĐLĐ, Điều 25 BLLĐ 2012 quy định HĐLĐ có hiệu

lực kể từ ngày các bên giao kết trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác

hoặc pháp luật có quy định khác. Về vấn đề xử lý HĐLĐ vô hiệu được quy

định và hướng dẫn chi tiết tại Nghị định 44/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 05

năm 2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của BLLĐ về HĐLĐ và

Thông tư số 30/2013/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số điều của

Nghị định số 44/2013/NĐ-CP. Cụ thể: Tại Điều 10 Nghị định 44/2013/NĐ-

CP, trong trường hợp HĐLĐ vô hiệu có tiền lương thấp hơn so với quy định

của pháp luật về lao động, nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể đang

áp dụng thì hai bên thỏa thuận lại theo quy định tại Khoản 1 Điều này.

NSDLĐ có trách nhiệm hoàn trả phần chênh lệch giữa tiền lương đã thỏa

thuận với tiền lương trong hợp đồng lao động vô hiệu theo thời gian thực tế

làm việc của người lao động nhưng tối đa không quá 12 tháng. Mức hoàn trả

phần chênh lệch giữa tiền lương đã thỏa thuận với tiền lương trong HĐLĐ vô

hiệu được tính theo công thức: MHT = (MTL2 - MTL1) x t quy định tại Điều 13

Thông tư 30/2013/NĐ-CP. Điều này giúp NSDLĐ và NLĐ chưa thành niên

có căn cứ xác định và tính toán mức độ chênh lệch để đền bù tổn hại và dễ

dàng hơn trong việc đưa ra phương hướng giải quyết giữa các bên. Ngoài ra,

32

Nghị định 44/2013/NĐ-CP và Thông tư 30/2013/NĐ-CP cũng có quy định

chi tiết đối với từng trường hợp như: HĐLĐ vô hiệu toàn bộ do người ký kết

hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền; Trách nhiệm của người sử dụng

lao động trong trường hợp không giao kết được hợp đồng lao động mới đối

với người lao động khi hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ do công việc bị

pháp luật cấm; Quyền và lợi ích của người lao động đối với thời gian người

lao động làm việc theo hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ cho đến

khi giao kết hợp đồng lao động mới. Như vậy, có thể thấy pháp luật đã rất coi

trọng những vấn đề pháp lý xoay quanh HĐLĐ vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi

chính đáng cho NLĐ nói chung và lao động chưa thành niên nói riêng.

Tuy vậy, đối với hiệu lực của HĐLĐ và việc xử lý HĐLĐ vô hiệu của

lao động chưa thành niên vẫn còn tồn tại nhiều nút thắt chưa được gỡ bỏ. Cụ

thể: Pháp luật quy định người lao động từ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi không

được trực tiếp giao kết HĐLĐ mà phải thông qua người đại diện theo pháp

luật; người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi giao kết HĐLĐ phải

có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Như vậy, sẽ rất

nhiều trường hợp khó xử lý xảy ra liên quan đến độ tuổi người lao động và

thời hạn của HĐLĐ. Ví dụ: Người đại diện theo pháp luật của người lao động

ký kết một HĐLĐ có thời hạn 03 năm khi người lao động đủ 14 tuổi. Nhưng

một năm sau, người lao động bấy giờ đã đủ 15 tuổi và được phép tự mình ký

kết các HĐLĐ theo ý muốn trong khi chỉ cần phải thông qua sự đồng ý bằng

văn bản của người đại diện theo pháp luật. Hay thậm chí nhiều trường hợp

chưa hết thời hạn HĐLĐ nhưng người lao động đã đủ 18 tuổi và được trực

tiếp ký kết các HĐLĐ cũng như tham gia vào nhiều công việc mà lao động

chưa thành niên không được phép làm. Không ai có thể đảm bảo lao động

chưa thành niên còn mong muốn tiếp tục công việc cũ, HĐLĐ cũ trong khi họ

đã ở một mốc tuổi mới đánh dấu việc họ có nhiều sự lựa chọn trong công việc

33

cũng như ít bị hạn chế về mặt pháp luật hơn. Vậy họ có được phép chấm dứt

HĐLĐ hiện tại? HĐLĐ đó có vô hiệu không? Việc đền bù thiệt hại cho

NSDLĐ và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật cũng như lao động

chưa thành niên là gì? Đây có lẽ là những câu hỏi rất cần có lời giải đáp về

mặt pháp lý trong thời gian tới của pháp luật lao động nói chung và pháp luật

về bảo vệ người lao động chưa thành niên nói riêng.

2.1.2 Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên

Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên là một trong những

vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Bởi lẽ họ đang trong giai đoạn hoàn

thiện về thể lực, trí lực và nhân cách. Do đó, chỉ khi họ được bảo đảm về mặt

sức khỏe, có thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cũng như được làm việc

trong môi trường an toàn thì mới có thể có phát triển đầy đủ, toàn diện. Điều

152 BLLĐ về Chăm sóc sức khỏe cho người lao động, trong đó có người lao

động chưa thành niên, quy định: NSDLĐ phải căn cứ vào tiêu chuẩn sức khỏe

quy định cho từng loại công việc để tuyển dụng và sắp xếp lao động. Song song

với đó, hàng năm NSDLĐ còn phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho NLĐ,

kể cả người học nghề, tập nghề. Các đối tượng thuộc nhóm riêng như lao động

nữ, người làm công việc nặng nhọc, độc hại, NLĐ là người khuyết tật, NLĐ

chưa thành niên, NLĐ cao tuổi phải được khám sức khỏe ít nhất 06 tháng 01 lần.

Trong quá trình lao động, những nội dung, biện pháp để đảm bảo sức khỏe của

người lao động chưa thành niên cũng được quy định khá đầy đủ.

Thứ nhất, về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:

Theo khoản 2 và khoản 3 Điều 163 BLLĐ: Thời giờ làm việc của người

lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không được quá 08

giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần. Nhóm này được phép làm thêm

giờ, làm việc vào ban đêm trong một số nghề và công việc theo quy định của

Bộ Lao động – Thương binh và xã hội. Thời giờ làm việc của người dưới 15

34

tuổi không được quá 04 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần. Nhóm này

không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Đây là quy định

cần thiết nhằm giúp họ có thời gian nghỉ ngơi, khôi phục sức lao động và đảm

bảo cho sự phát triển bình thường về thể lực và trí lực.

Thứ hai, về an toàn lao động, vệ sinh lao động:

Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, pháp luật hiện hành đã có những

quy định khá sát sao, hợp lý về trách nhiệm của NSDLĐ về an toàn lao động,

vệ sinh lao động; biện pháp bảo vệ sức khỏe NLĐ cũng như những ngành

nghề, công việc không được sử dụng lao động chưa thành niên. Trong đó:

Về trách nhiệm của NSDLĐ cũng như các biện pháp bảo vệ sức khỏe

NLĐ tại nơi làm việc được quy định tại Khoản 1 Điều 138 BLLĐ như sau:

Phải bảo đảm nơi làm việc đạt yêu cầu về không gian, độ thoáng, bụi,

hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung, các yếu tố có hại

khác được quy định tại các quy chuẩn kỹ thuật liên quan và các yếu tố đó phải

được định kỳ kiểm tra, đo lường; Bảo đảm các điều kiện ATLĐ, VSLĐ đối

với máy, thiết bị, nhà xưởng đạt các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ATLĐ,

VSLĐ hoặc đạt các tiêu chuẩn về ATLĐ, VSLĐ tại nơi làm việc đã được

công bố, áp dụng; Thường xuyên kiểm tra, đánh giá các yếu tố nguy hiểm, có

hại tại nơi làm việc của cơ sở để đề ra các biện pháp loại trừ, giảm thiểu các

mối nguy hiểm, có hại, cải thiện điều kiện lao động, chăm sóc sức khỏe cho

người lao động; Định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy, thiết bị, nhà xưởng, kho

tàng; Tại các vị trí dễ đọc, dễ thấy tại nơi làm việc phải có bảng chỉ dẫn về

ATLĐ, VSLĐ đối với máy, thiết bị, nơi làm việc; Khi xây dựng kế hoạch và

thực hiện các hoạt động bảo đảm ATLĐ, VSLĐ cần lấy ý kiến tổ chức đại

diện tập thể lao động tại cơ sở.

35

Như vậy, NSDLĐ phải căn cứ vào các tiêu chuẩn, quy phạm ATLĐ,

VSLĐ do cơ quan nhà nước ban hành để xây dựng một quy trình đảm bảo

ATLĐ – VSLĐ cho từng loại máy, thiết bị, vật tư và nội quy an toàn, vệ sinh

nơi làm việc đồng thời tổ chức hướng dẫn, huấn luyện các tiêu chuẩn, quy

định, biện pháp ATLĐ, VSLĐ cho NLĐ trước khi nhận NLĐ vào làm việc.

Trong khi đó, tại Khoản 2 Điều 138 BLLĐ 2012, pháp luật cũng quy

định về nghĩa vụ của NLĐ trong việc đảm bảo ATLĐ, VSLĐ như sau:

Chấp hành các quy định, quy trình, nội quy về ATLĐ, VSLĐ có liên

quan đến công việc, nhiệm vụ được giao; Sử dụng và bảo quản các phương

tiện bảo vệ cá nhân đã được trang cấp; các thiết bị ATLĐ, VSLĐ nơi làm

việc; Báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ gây tai

nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, gây độc hại hoặc sự cố nguy hiểm, tham gia

cấp cứu và khắc phục hậu quả tai nạn lao động khi có lệnh của người sử dụng

lao động.

Nhìn chung, pháp luật hiện hành đã có những quy định khá đầy đủ về

trách nhiệm của NSDLĐ và NLĐ trong việc giữ gìn ATLĐ, VSLĐ cũng như

các biện pháp đảm bảo ATLĐ, VSLĐ tại nơi làm việc. Tuy nhiên, đây đều là

những quy định dành cho NLĐ nói chung, chưa có các quy định riêng dành

cho đối tượng là người lao động chưa thành niên, trong khi đây là nhóm đối

tượng có những đặc điểm riêng cần lưu ý khi thể lực và trí lực của họ chưa

phát triển; kinh nghiệm, kỹ năng tự bảo vệ chính mình còn non kém khi có

những rủi ro phát sinh trong quá trình làm việc.

Những quy định này cũng được chi tiết hóa tại Luật an toàn, vệ sinh lao

động năm 2015. Trong đó, có quy định rõ hơn quyền, trách nhiệm của mỗi tổ

chức, cá nhân liên quan: NSDLĐ, các tổ chức công đoàn, Mặt trận tổ quốc,

Hội nông dân,...; hướng dẫn chi tiết các biện pháp phòng, chống các yếu tố

nguy hiểm, gây hại cho NLĐ cũng như nội quy, quy trình và các biện pháp

36

bảo đảm ATLĐ, VSLĐ tại nơi làm việc; Các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy

ra cũng như chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho NLĐ.

Trên thực tế, theo thống kê tại Báo cáo khảo sát năm 2018 của Bộ

LĐTB&XH, trong số 1,75 triệu lao động chưa thành niên thì có đến 1,3 triệu

em (chiếm 75% ) có nguy cơ làm việc trong các nghề bị cấm sử dụng lao động

chưa thành niên hoặc điều kiện lao động độc hại. Thời gian làm việc bình quân

của nhóm đối tượng này là 42 giờ/tuần. Khi có sự thanh tra, kiểm tra đột xuất

của cơ quan chức năng, phát hiện nhiều người lao động chưa thành niên không

có đồ bảo hộ lao động, hoặc không được tập huấn, hướng dẫn về an toàn lao

động, vệ sinh lao động,...

Về chế độ khám sức khỏe, BLLĐ và một số văn bản pháp luật liên quan

có quy định NSDLĐ phải tổ chức khám sức khỏe cho người lao động chưa

thành niên khi tuyển dụng, khám sức khỏe định kỳ và lập sổ theo dõi riêng.

Quy định này là cần thiết nhằm xác định khả năng lao động để sắp xếp công

việc phù hợp cho họ, cũng như phát hiện, hỗ trợ kịp thời các trường hợp mắc

bệnh. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít doanh nghiệp chú trọng việc khám chữa

bệnh và theo dõi sức khỏe định kỳ cho người lao động chưa thành niên.

Như vậy, có thể thấy pháp luật đã quy định khá rõ về các biện pháp

nhằm bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên: quy định về thời

giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao

động; quy định về chế độ khám và theo dõi sức khỏe. Tuy nhiên, trên thực tế

rất ít NSDLĐ áp dụng đầy đủ, hiệu quả các chính sách, biện pháp này. Cần

thiết phải có những chế tài nghiêm khắc với những doanh nghiệp vi phạm,

đồng thời kịp thời chỉnh lý, bổ sung các quy định pháp luật sâu sát, cụ thể hơn

nữa đối với nhóm đối tượng là người lao động chưa thành niên.

37

2.1.3 Bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao động chưa thành niên

Theo quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là tại Chương VI BLLĐ

2012 và Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn BLLĐ, tiền lương và thu nhập

của NLĐ được quy định khá chi tiết. Trong đó:

Về nguyên tắc, NSDLĐ phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân

biết giới tính đối với NLĐ làm công việc có giá trị như nhau. Mức lương của

NLĐ không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.

NSDLĐ được lựa chọn hình thức trả lương cho phù hợp như: trả lương

theo thời gian, trả lương theo sản phẩm hoặc trả lương theo hình thức giao

khoán. Mức lương cho người lao động chưa thành niên chủ yếu dựa trên sự

thỏa thuận và giá trị công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Về cơ

bản, các đơn vị sử dụng lao động chưa thành niên căn cứ vào đặc điểm công

việc của họ để đưa ra mức lương phù hợp với sức lao động mà họ đã bỏ ra,

đảm bảo được mức lương tối thiểu theo quy định của pháp luật và trả lương

đầy đủ, đúng hạn để giúp họ ổn định cuộc sống, đảm bảo sinh hoạt cho người

lao động chưa thành niên. Như vậy, pháp luật về chế độ tiền lương đã có sự

đảm bảo công bằng cho người lao động chưa thành niên.

Hiện nay, tuy pháp luật lao động đã có quy định mức lương tối thiểu

chung cho người lao động nhưng lại chưa có quy định riêng về tiền lương cho

người lao động chưa thành niên, dẫn đến việc một số NSDLĐ lợi dụng kẽ hở

đó để trả mức lương không tương xứng với công sức người lao động chưa

thành niên bỏ ra. Mặt khác, do lao động chưa thành niên chưa phát triển đầy

đủ về thể lực, trí lực, chưa nhận thức và tự bảo vệ được đầy đủ quyền lợi của

bản thân nên họ thường không dám đưa ra quan điểm, sợ hãi, rụt rè, không

dám phản kháng khi NSDLĐ trả lương thấp, giữ lương, chậm trả lương, bớt

xén tiền lương,... của mình.

38

Thêm vào đó, việc nhiều NSDLĐ lợi dụng sự thiếu hiểu biết về pháp

luật của người lao động chưa thành niên cùng những kẽ hở trong quản lý của

các cơ quan chức năng để trốn tránh việc ký kết hợp đồng lao động với người

lao động chưa thành niên, khiến cho các quyền lợi hợp pháp nói chung và

quyền về thu nhập, tiền lương của họ không được thống kê, không được công

khai, minh bạch, không được đảm bảo áp dụng trên thực tế.

2.1.4 Bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên

Trên thực tế, việc bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa

thành niên cũng bao gồm các quy định về việc làm, sức khỏe cũng như bảo vệ

mức thu nhập và tiền lương cho người lao động chưa thành niên. Ngoài các

nhóm quy định này, còn một số nhóm quy định về quyền nhân thân rất dễ bị

ảnh hưởng trong quá trình làm việc của người lao động chưa thành niên:

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền sống, quyền được bảo đảm an

toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân

phẩm, uy tín; quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình.

Thứ nhất, quyền của cá nhân đối với hình ảnh:

Theo BLDS, cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng

hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Hình ảnh được sử dụng từ

các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể

thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại

đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Việc sử dụng hình ảnh

của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình

ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Như vậy, việc NSDLĐ sử dụng hình ảnh người lao động chưa thành niên

nhằm mục đích quảng bá thương hiệu cho doanh nghiệp, hoặc bất kỳ một mục

đích nào khác, đều phải được sự đồng ý của người lao động chưa thành niên.

39

Trong trường hợp sử dụng hình ảnh của người lao động chưa thành niên vì

mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho họ, trừ trường hợp các bên có

thỏa thuận khác. Đây là những trường hợp rất phổ biến trong hoạt động nghệ

thuật, hoạt động thi đấu thể thao, hội nghị, ... Do sản phẩm mà người lao động

chưa thành niên làm việc trong các lĩnh vực này đều mang giá trị tinh thần,

giá trị chất xám lớn nên thường được sử dụng làm mục đích quảng cáo trực

tiếp hoặc gián tiếp hình ảnh, thương hiệu cho doanh nghiệp.

Thứ hai, quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức

khỏe, thân thể

Theo BLDS, cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính

mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước

đoạt tính mạng trái luật. Khi phát hiện người lao động chưa thành niên bị tai

nạn lao động, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì NSDLĐ phải có trách

nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa

ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất; cơ sở khám bệnh, chữa

bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của

pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Ngoài ra, NSDLĐ còn phải lập sổ theo

dõi và có kế hoạch tổ chức cho người lao động chưa thành niên được khám

sức khỏe định kỳ ít nhất 06 tháng một lần để đảm bảo sức khỏe cho họ.

Thứ ba, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín:

Theo BLDS, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm

phạm và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ

thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh

dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án

tuyên bố thông tin đó là không đúng. Quy định này nhằm bảo đảm cho các cá

40

nhân tự mình bảo vệ quyền của bản thân khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị

xâm phạm

Đây là quyền được quy định chung cho mọi đối tượng, bao gồm cả

người lao động chưa thành niên. Theo đó, người lao động chưa thành niên có

quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân

phẩm, uy tín của mình. Tuy trên thực tế, vì đa phần các em còn nhỏ, những

mâu thuẫn, va chạm xảy ra trong xã hội liên quan đến danh dự, nhân phẩm,

uy tín việc rất ít khi xảy ra nhưng không phải là không có. Do vậy, việc đề ra

các biện pháp nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhóm đối tượng

này là điều rất cần thiết. Nhiều doanh nghiệp đã thể hiện qua các quy định

trong nội quy công ty: Không gây mất đoàn kết, không xúc phạm danh dự,

nhân phẩm của đồng nghiệp,...

Thứ tư, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình:

Pháp luật dân sự quy định: đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia

đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu giữ, sử

dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải

được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin

liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ

trường hợp luật có quy định khác.

Việc lợi dụng bí mật cá nhân hay các thông tin về đời tư người khác để

kiếm lợi không còn là việc hiếm, đặc biệt là đối với các đối tượng là người lao

động chưa thành niên làm việc trong các lĩnh vực nghệ thuật hay các hoạt

động thể thao. Đã có những trường hợp sử dụng bí mật nhạy cảm của người

lao động chưa thành niên, gây sức ép đối với họ để tống tiền hoặc buộc họ

phải làm những việc mà họ không mong muốn. Trong khi nhóm đối tượng

này chưa nhận thức được hết nguy hiểm tiềm tàng, vì e dè, sợ hãi mà không

dám thổ lộ hay đòi hỏi sự bảo vệ từ người lớn. Chính vì vậy, việc đề ra các

41

biện pháp bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người

lao động chưa thành niên là cần thiết và hợp lý, để họ yên tâm làm việc và

phát triển trong môi trường lao động, sinh hoạt an toàn.

Như vậy, có thể thấy, các quyền nhân thân của cá nhân có phạm vi rộng,

được quy định chủ yếu trong pháp luật dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay

còn khá chung chung, chưa có những quy định cụ thể và sát sao dành riêng

cho nhóm đối tượng là người lao động chưa thành niên, trong khi đây là nhóm

đối tượng “non nớt”, “yếu thế” trong xã hội, rất cần có những biện pháp bảo

vệ chặt chẽ các quyền nhân thân của họ, để họ được lao động trong môi

trường làm việc an toàn, không ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện về thể

lực, trí lực và nhân cách.

2.1.5 Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động về bảo vệ người lao

động chưa thành niên

Thanh tra Bộ lao động – Thương binh và xã hội, thanh tra Sở lao động -

thương binh và xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về lao

động, bao gồm các nhiệm vụ chủ yếu: thanh tra việc chấp hành các quy định

pháp luật về lao động; Điều tra tai nạn lao động và những vi phạm an toàn lao

động, vệ sinh lao động; Tham gia hướng dẫn áp dụng hệ thống tiêu chuẩn,

quy chuẩn kỹ thuật về điều kiện lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao

động; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động theo quy định của pháp luật;

Xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi

phạm pháp luật về lao động. Đối với việc thanh tra an toàn lao động, vệ sinh

lao động trong các lĩnh vực: phóng xạ, thăm dò, khai thác dầu khí, các

phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường hàng không và

các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang do các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh

vực đó thực hiện với sự phối hợp của thanh tra chuyên ngành về lao động.

42

Khi tiến hành thanh tra, thanh tra có quyền xử lý các vi phạm theo thẩm

quyền và kiến nghị các cơ quan chức năng liên quan xử lý các vi phạm pháp

luật lao động. Cơ sở pháp lý để xử lý các vi phạm là quy định về các hành vi

vi phạm và mức xử phạt. Các hành vi vi phạm chủ yếu xâm phạm đến quyền,

lợi ích, danh dự, nhân phẩm hoặc an toàn sức khỏe của người lao động chưa

thành niên. Cụ thể đó là các hành vi vi phạm về việc làm, về sức khỏe, về thu

nhập và tiền lương, về quyền nhân thân của người lao động chưa thành niên.

Ví dụ: sử dụng người lao động chưa thành niên làm các công việc độc hại,

nặng nhọc; kéo dài thời gian thử việc; lợi dụng danh nghĩa dạy nghề để bóc

lột sức lao động; không trả lương đủ, đúng thời hạn hay thậm chí nhiều

trường hợp sử dụng người lao động dưới 15 tuổi mà không thông qua sự ký

kết HĐLĐ với người đại diện theo pháp luật;...

Về mức xử phạt được quy định tại Điều 239 BLLĐ 2012 và được chi tiết

hóa tại Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 03 năm 2020 quy định xử

phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao

động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Theo đó, căn cứ vào

tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân có hành vi vi

phạm hành chính thì bị xử phạt theo hình thức xử phạt chính là cảnh cáo, phạt

tiền và còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung như:

tước quyền sử dụng hoặc tịch thu giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động;

tịch thu giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động động, tịch thu chứng chỉ

kiểm định viên, đình chỉ hoạt động huấn luyện, trục xuất người lao động nước

ngoài làm việc tại Việt Nam,.. Ngoài ra, còn có thể bị áp dụng các biện pháp

khắc phục hậu quả quy định tại Điều 4 Nghị định này: buộc trả lại tiền, trả lại

bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ đã giữ của NLĐ, buộc giao

kết HĐLĐ bằng văn bản,...

43

Nghị định 28/2020/NĐ-CP cũng phân loại và quy định rất rõ về các hành

vi vi phạm, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng

hành vi vi phạm trong lĩnh vực lao động tại Chương II: Vi phạm quy định về

dịch vụ việc làm; Vi phạm quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

Vi phạm quy định về tiền lương; Vi phạm quy định về giao kết hợp đồng lao

động;... Trong đó, nhóm vi phạm quy định về lao động chưa thành niên được

quy định tại Điều 28 Nghị định 28/2020/NĐ-CP, quy định mức phạt tiền đối

với một số hành vi vi phạm quy định về lao động chưa thành niên như: không

lập sổ theo dõi riêng hoặc có lập sổ theo dõi riêng nhưng ghi không đầy đủ;

sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi mà không ký kết HĐLĐ với

người đại diện theo pháp luật của người đó hoặc không được sự đồng ý của

người đó; sử dụng lao động chưa thành niên làm việc quá thời giờ làm việc,

làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm,.. NSDLĐ có thể bị phạt tiền và truy cứu

trách nhiệm hình sự nếu sử dụng lao động chưa thành niên làm những công

việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,... Như vậy, có thể thấy BLLĐ 2012 và

các văn bản pháp luật liên quan, đặc biệt là Nghị định 28/2020/NĐ-CP đã quy

định khá đầy đủ về vấn đề thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về

lao động chưa thành niên.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập. Do nguồn

nhân lực mỏng nên công tác thanh tra hiện nay vẫn còn khá chung chung, đa

phần chỉ dựa trên tình hình của NLĐ nói chung hoặc phân thành lao động

nam và lao động nữ để tiến hành thanh tra các vấn đề liên quan như tiền

lương, bảo hiểm xã hội, ATLĐ, VSLĐ mà rất ít có các cuộc thanh tra tiến

hành nhằm phát hiện vi phạm đối với việc sử dụng người lao động chưa thành

niên. Trong khi lao động chưa thành niên thường không đủ dũng cảm hoặc

không đủ hiểu biết để tự khiếu nại, tố cáo nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của chính bản thân mình. Điều này khiến cho các vụ việc như bóc lột

44

sức lao động của người chưa thành niên, bắt ép họ làm những công việc nguy

hiểm, độc hại hay đơn giản là không ký HĐLĐ với lao động chưa thành niên

hoặc người đại diện theo pháp luật của họ,... diễn ra tương đối phổ biến nhưng

lại khó bị phát hiện, xử lý.

2.2 Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành

về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên

Theo các kết quả Báo cáo và thống kê của Sở lao động thương binh – xã

hội tỉnh Thái Nguyên năm 2019, thanh thiếu niên trên địa bàn tỉnh đang phải

đối mặt với nhiều thử thách nhằm thích ứng với môi trường kinh tế- xã hội

đang ngày một biến chuyển. Đặc biệt, khi Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều

thanh, thiếu niên là người dân tộc thiểu số tại các huyện vùng sâu, vùng xa.

Họ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách hơn do điều kiện kinh tế - xã

hội, điều kiện địa hình, địa lý không thuận lợi, gây cản trở đến việc học hành

và việc làm. Mặt khác, trong tư duy của đa phần những bậc làm cha, làm mẹ,

việc người chưa thành niên tham gia lao động là việc nên làm, góp phần giúp

đỡ gia đình và làm quen với nghề truyền thống, phát triển những kỹ năng cần

thiết, ... Chính vì vậy, song song với nhiều thành quả tích cực đạt được, công

tác áp dụng pháp luật và bảo vệ người lao động chưa thành niên trên thực tiễn

tại tỉnh Thái Nguyên vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn, bất cập.

2.2.1 Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên

Phân tích từ các kết quả điều tra từ Sở lao động, thương binh và xã hội

Thái Nguyên từ năm 2017 đến năm 2019 cũng cho thấy: 79,5% thanh thiếu

niên trong các hộ gia đình ở thành phố sống trong hoàn cảnh kinh tế cao; tỉ lệ

này ở các thị trấn là 45% và giảm còn 12,3 % ở các nông thôn. Thậm chí tại

các khu vực vùng sâu, vùng xa của tỉnh, đặc biệt là tại các khu vực tập trung

đông người dân tộc thiểu số hoặc địa hình giao thông khó khăn thì tỉ lệ này

chỉ còn 5%. Kết quả này cũng cho thấy, tình trạng đói nghèo là nguyên nhân

45

chính dẫn đến nhu cầu việc làm tăng cao của người lao động chưa thành niên ở

khu vực nông thôn. Hoàn cảnh gia đình buộc họ phải ra đời bươn chải từ sớm để

nuôi sống bản thân và gia đình. Trên thực tế, có không ít việc làm phù hợp với

đối tượng là người lao động chưa thành niên ở địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Họ

có thể lựa chọn làm việc phụ giúp gia đình, làm việc trong các làng nghề

truyền thống hoặc hộ kinh doanh nhỏ lẻ như: sản xuất chè, sản xuất đậu

phụ,.... Nhóm này chiếm khoảng 35,8%, chủ yếu là người lao động chưa

thành niên trong độ tuổi từ 13 – 16 tuổi. Một số người rời bỏ quê nhà để đến

thành phố, thị trấn làm các công việc như chạy bàn, lễ tân, trông xe, bốc vác

tại các bến xe, trông giữ trẻ nhỏ, đánh giày, bán báo,... Nhóm này có độ tuổi

trải dài trong khoảng từ 10 đến dưới 18 tuổi, chiếm khoảng 50%.

Như vậy, có thể thấy, các loại công việc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

khá đa dạng, tỉ lệ cung – cầu lớn do đó lao động chưa thành niên khá dễ dàng

lựa chọn cho mình một công việc phù hợp với sức khỏe, khả năng, trình độ.

Tuy nhiên, những công việc này đa phần không nằm trong danh mục các

ngành nghề được phép sử dụng lao động chưa thành niên được quản lý của

Bộ lao động – thương binh và xã hội, do đó NSDLĐ không biết hoặc có thể

cố tình bóc lột sức lao động, trả công rẻ mạt cũng như bắt ép lao động chưa

thành niên làm những công việc quá sức của họ. Rất nhiều người trong số họ

không được ký kết HĐLĐ và không hề biết bản thân xứng đáng được hưởng

những quyền lợi gì. Thanh tra lao động, các tổ chức công đoàn cơ sở,...cũng

vì thế mà khó có thể nắm bắt quản lý và giải quyết tình trạng này.

2.2.2 Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên

Vấn đề việc làm đa dạng, số lượng người lao động chưa thành niên tham

gia lao động lớn trong khi chưa thể quản lý sát sao là một trong những nguyên

nhân dẫn đến thực trạng sức khỏe của người lao động chưa thành niên không

được bảo vệ hiệu quả và đúng mức. Nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ hoặc ở vùng

sâu, vùng xa khó kiểm soát, thường sử dụng “chui” lao động là người chưa

46

thành niên trong điều kiện không đảm bảo về an toàn lao động, vệ sinh lao

động. Do đó, đã không ít các trường hợp tai nạn lao động thương tâm xảy ra.

Trường hợp đuối nước của em T.N.N tại xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, tỉnh

Thái Nguyên vào năm 2016 là một trong những ví dụ rất điển hình. Em T.N.N,

tại thời điểm đó mới chỉ 14 tuổi, được cha mẹ là người bán nước trong khu

vực nhờ dẫn khách đi tham quan Thác mưa rơi – một điểm du lịch địa phương

đẹp nhưng rất nguy hiểm vì mưa lũ thường đổ về bất chợt. Em T.N.N không

có bất kỳ đồ bảo hộ, phao bơi,...trên người. Do đó, em đã bị lũ cuốn trôi ngay

sau khi kết thúc việc “dẫn tour” mà cha mẹ vừa giao cho.

Không chỉ ở vùng núi, vùng sâu vùng xa mà thậm chí tại các khu vực có

điều kiện kinh tế - xã hội phát triển vượt bậc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

cũng có những trường hợp lao động chưa thành niên không được đảm bảo về

sức khỏe khi tham gia lao động. Điều này xảy ra khi chất lượng cuộc sống

đang ngày càng được nâng cao. Việc phát hiện, ươm mầm và cho những tài

năng nhí học tập, biểu diễn nghệ thuật, năng khiếu, hoạt động thể dục thể thao từ

sớm là khá phổ biến, đặc biệt là tại thành phố Thái Nguyên, thành phố Sông

Công, thị xã Phổ Yên và một vài thị trấn có mức thu nhập bình quân cao. Nhóm

này chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với nhóm còn lại và nhìn chung được gia

đình, xã hội quan tâm bảo vệ sát sao hơn khi có những Trung tâm bồi dưỡng

năng khiếu được thành lập và hoạt động theo sự quản lý của Nhà nước. Tuy vậy,

bản thân gia đình của nhóm người này và chính những người tham gia đào tạo,

quản lý các em cũng không nhận thức rõ các biện pháp bảo vệ quyền lợi chính

đáng cho nhóm đối tượng này. Chính vì vậy mà vào năm 2010, đã có trường

hợp em V.N.T, do tập luyện cho buổi thi năng khiếu nhiều ngày liên tiếp với

cường độ 12 tiếng/ngày trong sự thúc ép của giáo viên và phụ huynh, dẫn đến

chấn thương. Em đã phải điều trị và nghỉ dưỡng hơn hai năm mới có thể quay

lại trường học.

47

Những trường hợp “tai nạn lao động” đáng tiếc này đặt ra câu hỏi: Việc

đưa một bên thứ ba – cũng chính là người đại diện theo pháp luật của lao

động chưa thành niên (thông thường là cha mẹ các em) nhằm bảo vệ tốt hơn

quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này khi tham gia lao động đã thực sự

hiệu quả chưa khi chính “bên được cho là bảo vệ” này đã nhiều lần đẩy các

em vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe như các trường hợp

trên. Nguyên nhân có thể do sự thiếu hiểu biết của các bậc làm cha, làm mẹ,

sự hoặc do sự tham lợi ích trước mắt mà không màng đến sức khỏe của con

cái của nhiều bậc phụ huynh vô lương tâm, nhưng không thể phủ nhận, pháp

luật hiện nay chưa đặt ra trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật cho

người lao động chưa thành niên trong bất cứ trường hợp nào. Điều này thật sự

vô cùng nguy hiểm. Bởi rất có thể, với lỗ hổng pháp lý này, lao động chưa

thành niên sẽ đứng trước nguy cơ trở thành “công cụ kiếm tiền” của người lớn

khi nào không hay.

2.2.3 Bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao động chưa thành niên

Như trên đã trình bày, địa bàn tỉnh Thái Nguyên có lượng công việc đa

dạng và phù hợp với lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, những công việc

này đa phần có mức lương rất thấp. Rất ít người lao động chưa thành niên

may mắn được nhận vào các doanh nghiệp sản xuất lớn, có sự bảo vệ khá

toàn diện từ NSDLĐ. Các đơn vị tự nhân do vốn nhỏ nên cũng không có khả

năng tuyển dụng nhiều người lao động thành niên có trình độ tay nghề cao với

mức lương tương xứng. Do vậy, họ chấp nhận tuyển dụng một số lao động là

người chưa thành niên để giảm bớt áp lực về kinh tế. Trước đây, rất nhiều tổ

chức kinh tế có quy mô khá lớn và uy tín như công ty may TNG, HTX chè

Tân Cương,...đồng ý tuyển dụng lao động chưa thành niên và có những chế

độ đãi ngộ phù hợp với quy định của pháp luật. Nhưng tình trạng này chỉ kéo

dài được một thời gian ngắn do phía công ty nhận thấy có những áp lực quá

lớn. Chi phí đào tạo cao, thời gian đào tạo kéo dài trong khi vẫn phải đảm bảo

48

về nhiều mặt cho người lao động chưa thành niên: mức thu nhập, thời giờ làm

việc, thời giờ nghỉ ngơi,... Đây cũng chính là khó khăn không chỉ của riêng

lao động chưa thành niên.

2.2.4 Bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên

Không riêng địa bàn tỉnh Thái Nguyên mà rất nhiều địa phương trên cả

nước chưa có sự đánh giá đúng mức tầm quan trọng trong việc bảo vệ các

quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên. Đa phần người dân cho

rằng quyền nhân thân chỉ gói gọn trong các quyền về tính mạng, sức khỏe,...

mà không hiểu rõ các quyền đặc biệt quan trọng như: quyền cá nhân đối với

hình ảnh, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín,... Chính vì thế, việc

tự do công khai nhiều thông tin cá nhân của lao động chưa thành niên đã ảnh

hưởng xấu đến tinh thần, thậm chí khiến các em đau khổ đến mức tự hủy hoại

sức khỏe, tính mạng của bản thân. Trường hợp em L.T.V là một ví dụ. Năm

2009, trong khi làm thuê cho một xưởng sản xuất chè tại địa phương, em V đã

bị chính người chủ và cũng là anh họ của mình cưỡng hiếp nhiều lần khi em

mới chỉ 15 tuổi. Người này còn nhẫn tâm quay video và dùng những hình ảnh

đó như một công cụ đe dọa để khiến V im lặng và tiếp tục chịu sự làm nhục

của hắn. Sau khi phát hiện, cha mẹ V đã không thể kiềm chế để giải quyết kín

đáo sự việc, khiến cho V rất xấu hổ trước hàng xóm láng giềng. Em không thể

tiếp tục đi học và đã tự tử chỉ sau hơn một tháng sự việc được công khai. Vụ

việc này khi đó đã tốn rất nhiều bút mực của báo đài, nhưng sau đó lại rất ít

người đưa ra được nguyên nhân sâu xa và hướng xử lý về mặt luật pháp để

sau này không còn xảy ra tình trạng đau lòng như trường hợp của V nữa.

2.2.5 Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động về bảo vệ người lao

động chưa thành niên

Địa hình dài rộng, hiểm trở với nhiều núi đá cùng mật độ dân cư thưa

thớt trong khi nguồn nhân lực lại mỏng và chưa được chuyên môn hóa cao

49

chính là lý do khiến công tác quản lý trên mọi mặt, không riêng gì công tác

thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa

thành niên gặp khó khăn. Đặc biệt, Thái Nguyên lại là một tỉnh với nhiều hộ

kinh doanh gia đình, xưởng sản xuất nhỏ lẻ tự phát, đa phần không đăng ký

với cơ quan đăng ký kinh doanh. Khi làm việc tại các đơn vị tư nhân này thì

người lao động chưa thành niên khó đảm bảo được các chế độ cũng như

quyền lợi của mình vì khả năng kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan quan lý

lao động cũng khó khăn hơn. Khi tập trung rà soát và đề ra mức xử phạt hành

chính đối với nhiều doanh nghiệp trên địa bàn về việc sử dụng người lao động

chưa thành niên trái quy định hoặc không đảm bảo được các quyền và lợi ích

hợp pháp cho họ thì những doanh nghiệp này tiến hành ngừng sử dụng lao

động chưa thành niên. Đây chính là mặt trái khiến cho công tác Thanh tra lao

động và xử lý vi phạm tại tỉnh Thái Nguyên của Sở lao động – thương binh và

xã hội gặp rất nhiều khó khăn.

Thực tế trên đã cho thấy, cho dù đã áp dụng nhiều biện pháp tuyên

truyền, phổ cập kiến thức pháp luật về bảo vệ sức khỏe, việc làm, thu nhập

cũng như các quyền cơ bản khác của người lao động chưa thành niên đến

NSDLĐ và các bậc làm cha, làm mẹ nhưng vấn nạn lạm dụng sức lao động

của người lao động chưa thành niên cũng như việc các quyền và lợi ích của

họ bị xâm phạm vẫn còn diễn ra rất phổ biến trên địa bàn toàn tỉnh Thái

Nguyên mà chưa có biện pháp khả dĩ giải quyết dứt điểm, hiệu quả.

50

Tiểu kết chương 2

Nhìn chung, pháp luật lao động nước ta đã có những quy định khá

thống nhất với các quy định về bảo vệ người lao động chưa thành niên trên

thế giới đồng thời cũng có một số điều chỉnh nhằm phù hợp hơn với điều kiện

kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Việc quy định các nhóm quy định điều chỉnh

một số vấn đề quan trọng, cấp thiết đối với người lao động chưa thành niên

được đề cập trên đây: Nhóm quy định về bảo vệ việc làm cho người lao động

chưa thành niên; Nhóm các quy định về bảo vệ sức khỏe cho người lao động

chưa thành niên; Nhóm các quy định về bảo vệ tiền lương và thu nhập cho

người lao động chưa thành niên hay Nhóm các quy định về bảo vệ các quyền

nhân thân cho người lao động chưa thành niên là hết sức cần thiết.

Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Thái

Nguyên nói riêng đã thu được không ít thành tựu. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn

còn nhiều quy định có tính khả thi hoặc mức độ tuân thủ chưa cao, đặc biệt là

nhóm các quy định về bảo vệ sức khỏe và tiền lương, thu nhập cho người lao

động chưa thành niên. Điều này đặt ra nhu cầu cấp thiết cần phải hoàn thiện

quy định pháp luật về người lao động chưa thành niên nhằm hạn chế, khắc

phục những tồn tại của quy định hiện hành về bảo vệ người lao động chưa

thành niên.

51

Chương 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO

ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN

3.1. Các yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ

người lao động chưa thành niên

Pháp luật lao động hiện hành ngoài các quy định áp dụng cho tất cả

người lao động nói chung, đã chú trọng tới những quy định riêng áp dụng với

người lao động chưa thành niên. Các quy định riêng này đã hình thành một

hành lang pháp lý để điều chỉnh vấn đề người lao động chưa thành niên như

quy định về việc làm, học nghề, hợp đồng lao động, thời giờ làm việc, thời

giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh lao động,... cũng như các quy định về

trách nhiệm của NSDLĐ. Các quy định trên đã được xây dựng và ban hành

trên cơ sở tiếp cận các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản. Tuy nhiên, như đã

phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật lao động về bảo vệ

người lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên

nói riêng, pháp luật nước ta hiện nay vẫn còn nhiều quy định chưa phù hợp,

chưa đầy đủ, chưa sâu sát hiệu quả hoặc thậm chí không được thực thi áp

dụng trên thực tế.

Vấn đề bảo vệ người lao động chưa thành niên cũng chưa nhận được

nhiều sự quan tâm của xã hội. Quá trình ban hành nhiều văn bản quy phạm

pháp luật về người lao động chưa thành niên hầu như chưa có sự khảo sát,

đánh giá thực tế, nhiều quy định chỉ mang tính phù hợp với các nguyên tắc

của pháp luật lao động quốc tế về mặt hình thức, chưa được cụ thể hay chưa

thường xuyên cập nhật, bổ sung mới. Điều này khiến thực trạng sử dụng lao

động chưa thành niên ở Việt Nam đang trở thành vấn đề đáng lo ngại. Người

lao động chưa thành niên phải làm những công việc nặng nhọc, thậm chí độc

52

hại, nguy hiểm, không phù hợp với sức khỏe, ảnh hưởng tiêu cực đến quá

trình phát triển, phải làm việc trong môi trường có ảnh hưởng xấu tới việc

hình thành nhân cách, các quyền và lợi ích bị xâm phạm nghiêm trọng,...

Để hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành

niên một cách hiệu quả và bền vững, cần bám sát vào các yêu cầu cơ bản sau:

3.1.1. Đảm bảo sự phát triển toàn diện của người lao động chưa thành niên

ở Việt Nam

Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực,

nhân cách. Trong giai đoạn này, người chưa thành niên cần rất nhiều sự hỗ trợ

nhằm hoàn thiện quá trình phát triển, trở thành một người trưởng thành có thể

độc lập giao tiếp và tham gia các quan hệ bình đẳng trong xã hội. Việc tham

gia vào quá trình lao động sớm hơn các bạn đồng trang lứa cũng có nghĩa là

các em phải cắt xén thời gian đáng lẽ ra được học hành, vui chơi để làm việc

nuôi sống bản thân và gia đình. Gánh nặng và trách nhiệm đè nặng lên vai

nhóm đối tượng này khi họ chưa sẵn sàng. Do vậy, để cân bằng giữa nhu cầu

cuộc sống và quá trình phát triển của bản thân người lao động chưa thành niên

là đặc biệt quan trọng. Phải làm sao để đảm bảo được thu nhập, đảm bảo được

cuộc sống bình thường cho các em và gia đình, đồng thời không ảnh hưởng

đến quá trình phát triển về thể lực, trí lực, tâm sinh lý và nhân cách.

Về thể chất, người lao động chưa thành niên chỉ được phép làm các công

việc mang tính chất nhẹ nhàng, nghiêm cấm sử dụng lao động chưa thành

niên vào các công việc nặng nhọc, độc hại,... Môi trường làm việc phải đủ

tiêu chuẩn về ánh sáng, không ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, dễ cháy

nổ,... Ngoài ra phải đảm bảo thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và chế độ

chăm sóc sức khỏe định kỳ cho người lao động chưa thành niên.

53

Về trí lực, ít nhất phải đảm bảo các em có điều kiện hoàn thành phổ cập

giáo dục. Trong trường hợp có năng khiếu, có tay nghề, thì phải được khuyến

khích và tạo điều kiện cho các em tiếp tục phát triển dưới sự giám sát và

hướng dẫn phù hợp. Ngoài ra, cần thường xuyên tăng cường các hoạt động

giao tiếp xã hội để bổ trợ các kỹ năng mềm cũng như hoàn thiện quá trình

phát triển về tâm, sinh lý và nhân cách.

3.1.2. Tôn trọng quyền được tham gia lao động xã hội của người lao động

chưa thành niên

Phần đa người chưa thành niên tham gia lao động là do có hoàn cảnh

kinh tế khó khăn buộc các em phải làm việc từ rất sớm. Tuy nhiên, nếu được

pháp luật bảo vệ đầy đủ thì đây cũng là một việc có nhiều điểm tích cực. Thứ

nhất, lao động giúp các em có thu nhập trang trải cuộc sống, nhờ đó không chỉ

giúp gia đình mà còn giúp chính bản thân các em được quyền sống trong điều

kiện tốt hơn. Đồng thời các em cũng học được cách trân quý đồng tiền do mồ

hôi công sức mình bỏ ra. Thứ hai, với những lao động chưa thành niên tham

gia vào các hoạt động nghệ thuật, hoạt động thể thao, làm việc trong các làng

nghề thủ công mỹ nghệ,... các em sẽ sớm được bồi dưỡng năng khiếu, vun

đắp tình yêu với nghệ thuật, với thể thao và với nếp văn hóa cổ xưa của Việt

Nam đồng thời sớm có những định hướng tương lai phù hợp cho bản thân.

Thứ ba, việc tham gia quan hệ lao động cũng đồng nghĩa với việc các em giao

lưu tiếp xúc với nhiều thành phần trong xã hội từ sớm. Do vậy, nếu giám sát

tốt, các em sẽ nhận thức và tránh xa các tệ nạn xã hội.

Cũng như đối với người lao động thành niên, người lao động chưa thành

niên cũng được pháp luật bảo vệ các quyền lựa chọn nghề nghiệp, nơi làm

việc,...được hưởng sự bảo vệ và giám sát của pháp luật trên nhiều khía cạnh

quan trọng như: sức khỏe, việc làm, thu nhập, các quyền nhân thân,...

54

3.1.3. Đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam

Trước hết, Việt Nam là một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển lâu

đời. Đa số các gia đình ở nước ta đều có ruộng vườn, nương rẫy với thói quen

tự cung tự cấp. Vì vậy, các hộ gia đình thường giao cho con, cháu trong nhà –

những người lao động chưa thành niên làm việc từ sớm như một phương thức

học tập, rèn luyện sức khỏe, tiếp thu các kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là

trong các làng nghề truyền thống: dệt sợi, làng nghề chè, mây tre đan, thủ

công mỹ nghệ, làng chài, ...

Cùng với sự mở rộng các loại hình kinh doanh và kinh tế tư nhân, nhu

cầu về lao động, trong đó có người lao động chưa thành niên cũng tăng cao, đặc

biệt là ở thành thị. Lúc này, người lao động chưa thành niên tiếp tục làm việc để

tăng thêm thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Một số người lao động chưa

thành niên lại làm việc trong các lĩnh vực nghệ thuật từ sớm và coi đó là môi

trường học tập, rèn luyện nhiều hơn là môi trường làm việc để kiếm sống.

Hiện nay, tuy đã và đang tiếp tục phát triển toàn diện về mặt kinh tế - xã hội,

nhưng hệ thống an sinh xã hội ở nước ta vẫn chưa đủ khả năng quản lý và hỗ trợ

đầy đủ cho tất cả các đối tượng yếu thế trong xã hội. Do đó, việc để người lao

động chưa thành niên – những người có khả năng lao động, tham gia làm việc

kiếm sống trong một môi trường được xã hội bảo vệ là một quyết định phù hợp,

vừa có lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vừa có lợi cho sự phát triển cả về thể

lực, trí lực và nhân cách của người lao động chưa thành niên.

Để làm tốt điều này, nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang hội nhập

kinh tế toàn cầu, pháp luật nên có nhiều quy định chặt chẽ hơn, tạo điều kiện

cho người lao động chưa thành niên chính thức tham gia quan hệ lao động,

tôn trọng quyền tham gia lao động của họ bằng việc mở rộng hơn nữa các

ngành nghề, công việc nhẹ nhàng, phù hợp với người lao động chưa thành

niên đồng thời tôn trọng các quyền lao động như quyền được lựa chọn việc

55

làm và nơi làm việc, quyền được trả công đầy đủ và đúng hạn, quyền được

hưởng sự bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, quyền nhân thân,...

3.2 Hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên

3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ việc làm cho người lao động chưa

thành niên

Kinh tế - xã hội đang ngày một phát triển kéo theo sự ra đời của rất

nhiều loại hình kinh doanh, lĩnh vực, ngành nghề mới mẻ. Nhiều ngành nghề,

lĩnh vực trong số đó có tính chất nhẹ nhàng, đơn giản, không tốn nhiều thời

gian, công sức, không đòi hỏi kỹ năng cao, rất phù hợp với người lao động

chưa thành niên. Có thể kể đến như: dẫn chương trình truyền thanh – truyền

hình, làm các kênh youtube tư vấn và hướng dẫn các trò chơi trẻ em, quảng

cáo sản phẩm, trực điện thoại, ghi đơn hàng,... Mặt khác, người lao động chưa

thành niên có quyền về việc làm, bao gồm quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi

làm việc, ... Tuy nhiên, để phù hợp với khả năng và đảm bảo sự phát triển

toàn diện thì rất cần có quy định chi tiết và phong phú hơn nữa về danh mục

việc làm theo từng nhóm tuổi. Bởi lẽ, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã

hội, rất nhiều ngành, nghề mới có tính chất phù hợp với đặc thù của người lao

động chưa thành niên đã ra đời.

Theo đó, pháp luật nên quy định theo hướng như sau:

Đối với nhóm dưới 13 tuổi: Đây là nhóm người lao động chưa thành

niên có độ tuổi nhỏ nhất và chủ yếu chỉ được phép hoạt động trong các lĩnh

vực nghệ thuật, hoạt động thể dục, thể thao. Tuy nhiên, cần có sự quản lý chặt

chẽ về thời giờ lao động, thời giờ nghỉ ngơi cũng như các biện pháp đảm bảo

về mặt sức khỏe và tinh thần cho nhóm đối tượng này.

Đối với nhóm từ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi: Với nhóm này, thông thường

các em đã hoàn thành giai đoạn phổ cập giáo dục tiểu học, về nhận thức đã rõ

56

rệt , kỹ năng vận động của các em ở lứa tuổi này cũng đã dẻo dai khéo léo

hơn nhóm lao động chưa thành niên dưới 13 tuổi. Chính vì vậy, có thể quy

định và mở rộng thêm những công việc mang tính chất nhẹ nhàng, đơn giản,

không đòi hỏi quá nặng về thể chất, trí tuệ cho các em. Tuy nhiên, dù là công

việc nào cũng cần đảm bảo thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý,

không ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực và trí lực cho nhóm đối

tượng còn non nớt này.

Đối với với nhóm tuổi từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, là nhóm tuổi đã gần

hoàn thiện quá trình phát triển về thể lực và trí lực nên cần ưu tiên quyền việc

làm của họ gần ngang bằng với người lao động thành niên, trừ những công

việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, để họ sớm rèn luyện được kỹ năng làm

việc cũng như định hướng được nghề nghiệp trong tương lai.

Ngoài việc quy định và mở rộng thêm danh mục việc làm định hướng

phù hợp với từng lứa tuổi, pháp luật cũng cần coi trọng hơn đến các tổ chức

có chức năng giúp đỡ, hỗ trợ việc làm cho người lao động chưa thành niên.

Cụ thể như các Trung tâm giới thiệu việc làm với mục đích định hướng nghề

nghiệp, tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động chưa thành

niên hay Trung tâm dự báo về thị trường lao động, có chức năng dự báo, quản

lý và cung cấp thông tin thị trường lao động một cách khoa học theo trình độ,

ngành nghề, lứa tuổi, giới tính, để NLĐ nói chung và người lao động chưa

thành niên nói riêng có một cái nhìn toàn cảnh về xu hướng thị trường lao

động hiện tại và trong tương lai cũng như yêu cầu của từng ngành nghề, lĩnh

vực mà bản thân họ quan tâm. Từ đó, họ có thể đưa ra quyết định chọn lựa

việc làm phù hợp.

Thêm vào đó, ngoài việc đảm bảo số lượng và chất lượng việc làm, cũng

cần có những chính sách đào tạo, nâng cao kỹ năng chuyên môn và tay nghề

của người lao động chưa thành niên. Tương ứng với các nhóm tuổi quy định ở

57

trên, thì việc đào tạo nghề theo từng định hướng nhóm ngành tương ứng cũng

nên được triển khai nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng lao động. Đối với

những người dưới 18 tuổi – được coi là nguồn nhân lực của đất nước trong

tương lai, pháp luật cần có những ưu tiên, ưu đãi về chính sách dạy nghề miễn

giảm học phí, cấp học bổng đồng thời khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh

doanh, các doanh nghiệp tiếp nhận người lao động ngay khi đào tạo xong, để

họ có thể an tâm học nghề và làm việc. Ngoài ra, trong quá trình học nghề,

nếu sản phẩm học làm ra đạt tiêu chuẩn và có thể đưa ra thị trường kinh

doanh thu lời, thì nên hỗ trợ tiền lương khoán theo sản phẩm cho họ.

Khi tham gia vào quá trình lao động, để các quyền và lợi ích của người

lao động chưa thành niên cũng như NSDLĐ được đảm bảo tối đa, thì cần thiết

phải có những quy định chặt chẽ hơn nữa về HĐLĐ. Hiện nay, quy định về

HĐLĐ với người chưa thành niên cũng đã có nhưng còn chưa đầy đủ, chi tiết,

chưa hợp lý với một số đặc thù của nhóm lao động này. Đối với một số ngành

có định hướng ký kết hợp đồng lâu dài: Ngành nghệ thuật, lắp ráp điện

tử,...thì rất cần các quy định về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật

cũng như quy định về hiệu lực của HĐLĐ trong trường hợp HĐLĐ chưa hết

thời hạn nhưng lao động chưa thành niên đã đủ độ tuổi để tự mình trực tiếp ký

kết HĐLĐ mà không cần thông qua người đại diện theo pháp luật. Bởi lẽ thời

hạn HĐLĐ càng kéo dài thì càng dễ phát sinh nhiều hệ lụy mà không ai có thể

lường trước được. Thêm vào đó, vấn đề về tiêu chuẩn sức khỏe của người lao

động chưa thành niên khi tham gia vào mỗi ngành nghề riêng biệt cũng cần

được quy định một cách chi tiết dưới sự nghiên cứu, tư vấn của Bộ y tế. Bởi

lẽ đặc thù mỗi ngành nghề yêu cầu một tiêu chuẩn sức khỏe khác nhau, việc

quy định một tiêu chuẩn riêng cho người lao động chưa thành niên là cần thiết

để đảm bảo sức khỏe cũng như chất lượng lao động của họ.

58

3.2.2 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa

thành niên

Việc quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là cần thiết nhằm

đảm bảo sức khỏe và sự phát triển toàn diện về thể lực, trí lực của người lao

động chưa thành niên. Mặt khác, còn giúp cho việc tái sản xuất sức lao động,

hạn chế tai nạn lao động, đặc biệt là với người lao động chưa thành niên đang

đi học còn đảm bảo thời gian học tập của họ.

Hiện nay, pháp luật lao động nước ta áp dụng thời giờ làm việc, thời giờ

nghỉ ngơi của người lao động chưa thành niên có điểm khác biệt so với người

lao động thành niên. Thời gian làm việc của người lao động chưa thành niên

ngắn hơn và thời gian nghỉ ngơi dài hơn so với người lao động đã thành niên.

Ngoài ra, việc quy định thời gian làm việc giảm dần theo nhóm tuổi, càng nhỏ

tuổi thì thời gian làm việc càng giảm và thời gian nghỉ ngơi được tăng thêm

cũng là một quy định hợp lý.

Ngoài ra, có thể thêm quy định về thời gian thử việc, hợp đồng thử việc.

Bởi với người lao động chưa thành niên, họ chưa có kỹ năng và trải nghiệm

đủ nhiều để biết trước được công việc này có phù hợp với khả năng của mình

hay không, kể cả trong trường hợp họ đảm bảo sức khỏe để thực hiện công

việc đó. Do vậy, quy định về thời gian thử việc và hợp đồng thử việc là cần

thiết. NSDLĐ và người lao động chưa thành niên có thể thỏa thuận nội dung

thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc

giao kết hợp đồng thử việc. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ

hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước

và không phải bồi thường. Quy định này nhằm giải quyết khó khăn, vướng

mắc trong thực tiễn thi hành BLLĐ đối với chế định hợp đồng thử việc, đặc

biệt nhằm hạn chế việc lạm dụng hợp đồng thử việc của NSDLĐ để cắt giảm

các quyền lợi của người lao động; đảm bảo tính khả thi trong thực tế áp dụng

59

và tạo môi trường thuận lợi, linh hoạt cho doanh nghiệp, người lao động trong

quan hệ lao động.

3.2.3 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao

động chưa thành niên

Việc quy định mức lương tối thiểu như hiện nay là cần thiết để đảm bảo

nguyên tắc trả lương bình đẳng giữa người lao động thành niên và người lao

động chưa thành niên. Tuy nhiên khi xây dựng mức lương tối thiểu theo từng

thời kỳ cần căn cứ toàn diện vào 7 yếu tố: (1) mức sống tổi thiểu của người

lao động và gia đình họ; (2) tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức

lương trên thị trường; (3) chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế; (4)

quan hệ cung cầu lao động; (5) việc làm và thát nghiệp; (6) năng suất lao

động; (7) khả năng chi trả của doanh nghiệp nhằm phản ánh đúng giá trị lao

động và đảm bảo cuộc sống tổi thiểu cho NLĐ nói chung và người lao động

chưa thành niên nói riêng, đồng thời đảm bảo quyền lợi cho NSDLĐ.

Đối với một số ngành nghề chiếm vị thế quan trọng và có nhu cầu lớn sử

dụng người lao động chưa thành niên, có thể khuyến khích các doanh nghiệp

áp dụng mức lương cao hơn mức lương tối thiểu chung hoặc trên cơ sở thỏa

thuận của NSDLĐ và người lao động chưa thành niên, vừa có thể đáp ứng

được nguồn nhân lực cho thị trường, vừa khuyến khích người lao động chưa

thành niên tham gia lao động và có nguồn thu đáng kể. Theo đó, Nhà nước

nên quy định theo hướng giao quyền chủ động cho NSDLĐ trong xây dựng

thang lương, bảng lương, định mức lao động trên cơ sở đối thoại với tổ chức

đại diện người lao động; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào chính sách

tiền lương trong doanh nghiệp; nâng cao sự chủ động thỏa thuận, thương

lượng giữa đại diện người lao động và người sử dụng lao động

60

3.2.4 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao

động chưa thành niên

Pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ quy định các quyền nhân thân nói

chung và cũng chưa có một văn bản pháp luật nào quy định và hướng dẫn chi

tiết việc bảo vệ các quyền này với đối tượng là người lao động chưa thành

niên. Họ là những người lao động còn hết sức “non nớt”, chưa có sự nhận

thức đầy đủ về pháp luật và các quyền lợi mà họ được hưởng, chưa lường

trước được sự đe dọa và ảnh hưởng bởi môi trường sống và làm việc đến sự

hình thành và phát triển nhân cách, cũng như thể lực và trí lực của họ. Thậm

chí, nhiều người không phân biệt được sự nhạy cảm của các thông tin cá

nhân, hay các bí mật gia đình. Họ chỉ có thể biết được hậu quả khi sự việc đã

xảy ra. Do vậy, cần có những quy định chi tiết hơn để tuyên truyền trong nội

bộ doanh nghiệp hoặc tại các địa phương phải có tổ chức tư vấn và hỗ trợ về

các vấn đề bảo vệ quyền nhân thân cho nhóm đối tượng này trước, trong và cả

sau quá trình tham gia lao động của họ.

Hiện nay, chỉ có một số cơ quan, tổ chức được thành lập và hoạt động vì

mục đích bảo vệ trẻ em, hoặc các tổ chức công đoàn, ...bảo vệ người lao động

nói chung. Do đó cần thiết phải chuyên môn hóa hơn nữa các cơ quan này,

đồng thời đề ra cơ quan giám sát, chuyên trách để xử lý những vi phạm trong

việc bảo vệ quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên tại các

doanh nghiệp.

3.2.5 Hoàn thiện pháp luật về thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao

động về bảo vệ người lao động chưa thành niên

Vấn đề còn tồn đọng của Thanh tra lao động trên cả nước nói chung và

trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói riêng xuất phát từ việc thiếu một đơn vị

chuyên trách và một cơ chế thanh tra lao động cụ thể về người lao động chưa

thành niên, trong khi đây là nhóm đối tượng quan trọng, vừa là nguồn cung

61

ứng lao động trong tương lai của đất nước, vừa là nhóm đối tượng “mềm yếu”

lại rất khó quản lý, kiểm soát. Việc thành lập một đơn vị chuyên trách quản lý

về người lao động chưa thành niên, giám sát, phát hiện và điều tra, xử lý

những vi phạm pháp luật lao động trong việc bảo vệ nhóm lao động đặc thù

này, thậm chí phân cấp ở từng xã, huyện sẽ giúp ngăn chặn tối ưu hơn các

hành vi vi phạm trong việc sử dụng lao động chưa thành niên. Song song với

đó, cần có những nhiệm vụ thanh tra cụ thể hơn trong từng vấn đề có thể xảy

đến với lao động chưa thành niên: Xử lý vi phạm trong lĩnh vực việc làm,

cưỡng bức lao động, ... chứ không chỉ thanh tra xử lý chung về bảo hiểm xã

hội, tiền lương, ... Điều này sẽ giúp công tác thanh tra lao động được toàn

diện và nâng cao hiệu quả bảo vệ lao động chưa thành niên tại Việt Nam.

3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bảo

vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên

Ngoài việc kiến nghị hoàn thiện và áp dụng pháp luật theo nội dung đã

trình bày ở trên, tỉnh Thái Nguyên cũng cần có những phương hướng, giải

pháp cụ thể, phù hợp với thực trạng người lao động chưa thành niên tham gia

lao động trên địa bàn toàn tỉnh để các quyền lợi của họ, đặc biệt là quyền về

việc làm, về sức khỏe, về thu nhập cũng như về quyền nhân thân được bảo vệ

một cách tối ưu nhất.

Thứ nhất, về vấn đề việc làm:

Như trên đã trình bày, rất nhiều những ngành nghề chưa có hoặc chưa

được quy định rõ trong Danh mục các ngành nghề được sử dụng người lao

động dưới 15 tuổi. Việc tỉnh Thái Nguyên kiến nghị đề xuất và mở rộng thêm

các ngành nghề, lĩnh vực này sẽ tăng thêm sự lựa chọn việc làm cho người lao

động chưa thành niên đồng thời giúp cho việc giám sát, quản lý và xử lý vi

phạm của Thanh tra lao động được hiệu quả và toàn diện hơn.

62

Vấn đề về học nghề và việc giao kết HĐLĐ cũng nên được các cơ quan

chức năng, ban ngành quan tâm chặt chẽ hơn nữa. Cần thiết soạn thảo các văn

bản xin ý kiến chỉ đạo từ cấp trên hoặc hướng dẫn quy định cụ thể về điều

kiện giao kết, ký kết, nội dung đào tạo nghề, nội dung HĐLĐ cũng như việc

chấm dứt học nghề, chấm dứt HĐLĐ cho NSDLĐ và người lao động chưa

thành niên.

Thứ hai, về vấn đề bảo vệ sức khỏe

Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc

ở nước ngoài theo hợp đồng được ban hành đã tạo ra một cơ chế đủ mạnh để

răn đe và xử lý đa phần các hành vi vi phạm đối với người lao động chưa

thành niên. Tuy nhiên, tình trạng người lao động chưa thành niên bị buộc phải

làm việc trong môi trường độc hại, họ còn thường xuyên phải làm thêm giờ,

làm đêm trong điều kiện sức khỏe và môi trường làm việc không đảm bảo vẫn

còn tồn tại không ít. Do đa số người lao động chưa thành niên đều nín nhịn do

lo sợ NSDLĐ. Thanh tra Sở lao động – Thương binh và xã hội lại không thể

nắm hết các vụ việc vi phạm vì nhân lực quá mỏng, chưa được chuyên môn

hóa trong khi các doanh nghiệp trên địa bàn lại có số lượng rất lớn. Do đó,

cần thiết phải đề xuất và thành lập một đơn vị cấp xã, cấp huyện thường

xuyên giám sát, phát hiện và xử lý đối với các trường hợp này.

Thứ ba, về vấn đề bảo vệ thu nhập và tiền lương

Do còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn ký kết HĐLĐ, khi nhiều doanh

nghiệp trên địa bàn tỉnh trốn tránh nghĩa vụ giao kết HĐLĐ, sử dụng lao động

chưa thành niên “chui”, không khai báo thống kê với cơ quan chức năng, việc

giám sát, quản lý thu nhập, tiền lương của người lao động chưa thành niên nói

riêng và các quyền lợi khác của họ là rất khó khăn. Bởi vậy, ngoài việc phổ biến,

tuyên truyền pháp luật để nâng cao nhận thức của người lao động chưa thành

63

niên và trách nhiệm của NSDLĐ, cần phải có cơ quan thanh tra, giám sát xử lý

và hỗ trợ doanh nghiệp về mức lương tối thiểu cũng như tiền lương làm thêm

giờ của người lao động chưa thành niên sao cho phù hợp với khả năng chi trả

của doanh nghiệp và tương xứng với giá trị lao động của người lao động.

Thứ tư, về vấn đề bảo vệ quyền nhân thân

Không chỉ địa bàn tỉnh Thái Nguyên mà đa số các doanh nghiệp, tổ chức

sử dụng người lao động chưa thành niên chưa thực sự quan tâm đến vấn đề

bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên. Với giá trị

tinh thần và đặc thù cá nhân hóa, quyền nhân thân cần được mỗi cá nhân hiểu

rõ và nhận thức đầy đủ, để trước hết, bản thân họ phải biết được họ có quyền

gì và bảo vệ chính mình. Do vậy, cần thiết phải thường xuyên phổ biến kiến

thức và tuyên truyền pháp luật tại mỗi địa phương, mỗi gia đình, mỗi doanh

nghiệp, tổ chức để NSDLĐ và người lao động hiểu rõ hơn về vấn đề này,

nâng cao ý thức trách nhiệm để thực hiện.

Thứ năm, các biện pháp khác

- Thành lập cơ quan Thanh tra lao động chuyên ngành về lao động chưa

thành niên.

Như đã phân tích, hiện nay Sở lao động, thương binh và xã hội tỉnh Thái

Nguyên nói riêng và các địa phương khác nói chung chưa có Thanh tra

chuyên trách về lao động chưa thành niên. Mặc dù đây là một nhóm lao động

chiếm số lượng không hề nhỏ, là đối tượng “yếu thế” trong xã hội, cần thường

xuyên giám sát, hỗ trợ. Những vấn đề như lạm dụng sức lao động, cưỡng bức

lao động, hay vi phạm trong việc sử dụng lao động chưa thành niên luôn là

vấn đề rất nhức nhối và khó quản lý khi không có một cơ quan chức năng nào

được chuyên môn hóa để chống lại hiện trạng nhức nhối đó.

64

- Thống kê và điều tra toàn diện về tình hình sử dụng lao động chưa

thành niên

Khi thực hiện đề tài, tác giả đã gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận

các tài liệu thống kê liên quan đến người lao động chưa thành niên. Bản thân

thanh tra lao động và các phòng ban liên quan cũng phản hồi rõ rằng họ

không có thẩm quyền hay trách nhiệm trong việc phân rõ từng nhóm người

lao động chưa thành niên và người lao động thành niên để quản lý. Rất nhiều

vụ việc vi phạm chỉ có thể phát hiện và thống kê sau khi có đơn thư khiếu nại

hoặc trong một cuộc thanh tra đột xuất các doanh nghiệp nói chung. Như vậy,

một cuộc điều tra cơ bản, toàn diện về người lao động chưa thành niên là cần

thiết. Trong đó, cần phổ biến với toàn thể người dân trên địa bàn tỉnh, để đồng

thời phổ biến cho họ hiểu rõ hơn nữa về tầm quan trọng của việc bảo vệ toàn

diện người lao động chưa thành niên.

- Đảm bảo việc liên hệ chặt chẽ giữa người lao động chưa thành niên và

gia đình

Khi tham gia lao động, đa phần người lao động chưa thành niên bị tách

ra khỏi sự giám sát và bảo vệ từ phía gia đình, người thân.Vì vậy, để tránh

ảnh hưởng đến tâm sinh lý của các em, không vì hoàn cảnh kinh tế mà để các

em phải chịu sự thiệt thòi về mặt tinh thần, các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng

người lao động chưa thành niên cần có sự quan tâm, thường xuyên giữ sợi

dây kết nối giữa gia đình, người thân của người lao động chưa thành niên với

họ. Đồng thời, khi xây dựng và tập trung các cơ sở sản xuất kinh doanh tại địa

phương, chính quyền tỉnh Thái Nguyên và lãnh đạo doanh nghiệp cũng nên

có chính sách ưu tiên cho lao động chưa thành niên là người địa phương, để

các em có cơ hội được tham gia lao động kiếm thêm thu nhập và gần gũi gia

đình, hưởng trọn tình yêu thương từ người thân.

65

Tiểu kết chương 3

Việc hoàn thiện pháp luật về người lao động chưa thành niên là cần thiết,

không chỉ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên mà còn ở các địa phương khác của

nước ta. Trước hết phải khắc phục được những nhược điểm đang còn tồn

đọng và bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về người

lao động chưa thành niên trong điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói

chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Đồng thời phải có những phương

hướng mới hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ

toàn diện người lao động chưa thành niên hiện nay.

66

KẾT LUẬN

Bảo vệ người lao động chưa thành niên là một vấn đề quan trọng mà

Đảng và Nhà nước ta cần hết sức quan tâm thực hiện. Bởi lẽ, do những hạn

chế trong quá trình chưa hoàn thiện về thể lực và trí lực mà bản thân người

lao động chưa thành niên không thể tự mình bảo vệ được bản thân mà cần có

sự điều chỉnh từ phía Nhà nước. Họ cần được quan tâm sâu sát và bảo vệ toàn

diện bằng những quy định của pháp luật trong nhiều vấn đề, đặc biệt là các

vấn đề về việc làm, sức khỏe, quyền nhân thân, thu nhập và tiền lương như

nội dung mà tác giả đã trình bày trên đây.

Thực trạng áp dụng pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa

thành niên ở Việt Nam nói chung và thực tiễn tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã

cho thấy quyết tâm cùng thế giới phòng chống nạn áp bức, bóc lột, lạm dụng

sức lao động của người lao động chưa thành niên. Những hành động đó đã

mang lại nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những tồn

tại, hạn chế nhất định. Cũng cần phải hiểu rằng, với rất nhiều vấn đề phát sinh,

cần sự phối hợp quản lý sâu sát, thì việc bảo vệ toàn diện người lao động chưa

thành niên thật sự là một cuộc chiến lâu dài và cần nhiều tâm sức.

Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn, tác giả đã đưa ra các

phương án, biện pháp và khuyến nghị thực thi nhằm hướng tới mục đích bảo

vệ người lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, tác giả cũng hiểu rằng, trong

khuôn khổ hạn chế của luận văn cũng như nhận thức có phần hạn hẹp của bản

thân thì không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Do vậy, tác giả rất mong

nhận được sự góp ý và phản hồi từ thầy cô và bạn đọc để luận văn ngày càng

hoàn thiện hơn.

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Thị Hằng (2000) Chế độ pháp lý về lao động chưa thành niên;

2. Phan Văn Hùng (2002), Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt

Nam;

3. Trần Thắng Lợi (2012), Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành

niên trong điều kiện hội nhập quốc tế;

4. Lê Thị Huyền Trang (2008), Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người

lao động chưa thành niên ở Việt Nam;

5. Ngô Thị Hồng Nhị (2019), “ Bảo vệ người lao động chưa thành niên

theo pháp luật Việt Nam”;

6. Nguyễn Thị Nhàn (2016), “ Lao động chưa thành niên theo pháp luật

lao động Việt Nam hiện nay”;

7. Chu Mạnh Hùng (2015), “Vấn đề trẻ em gái giúp việc trong các thành

phố lớn”;

8. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Bộ luật lao

động Việt Nam (2012);

9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật dân sự

Việt Nam (2015);

10. Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Công ước số 182 của về loại bỏ

những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999).

11. Liên hợp quốc, Công ước về quyền trẻ em (1989);

12. Liên hợp quốc, Tuyên ngôn về quyền con người (1948);

13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật trẻ em

(2016)

68

14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật giáo dục

nghề nghiệp (2014);

15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Việc làm

(2013);

16. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định

05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội

dung của Bộ luật lao động (2015);

17. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định

61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ việc làm và Quỹ quốc

gia về việc làm (2015);

18. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định

03/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao

động về việc làm (2014);

19. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định

28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao

động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở

nước ngoài theo hợp đồng (2020);

20. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định

44/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao

động về Hợp đồng lao động (2013);

21. Bộ lao động – thương binh và xã hội, Thông tư số 11/2013/TT-

BLĐTBXH ban hành danh mục công việc nhẹ được sử dụng người

dưới 15 tuổi (2013);

22. Bộ lao động – thương binh và xã hội, Thông tư số 30/2013/TT-

BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số

44/2013/NĐ-CP (2013).

69