VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÂM HOÀNG THUẬN YẾN
BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÂM HOÀNG THUẬN YẾN
BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Lâm Hoàng Thuận Yến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO
ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ....................................................................... 8
1.1 Lao động chưa thành niên ..................................................................... 8
1.2 Bảo vệ lao động chưa thành niên ........................................................ 16
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA
THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH THÁI
NGUYÊN ........................................................................................................ 25
2.1 Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về
bảo vệ người lao động chưa thành niên .................................................... 25
2.2 Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện
hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên .... 45
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ BẢO
VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI TỈNH THÁI
NGUYÊN ........................................................................................................ 52
3.1. Các yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật lao động về bảo
vệ người lao động chưa thành niên ........................................................... 52
3.2 Hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa
thành niên .................................................................................................. 56
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về
bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên .................. 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
ILO: Tổ chức lao động quốc tế
BLLĐ: Bộ luật lao động năm 2012
BLDS: Bộ luật dân sự năm 2015
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
HĐLĐ: Hợp đồng lao động
ATLĐ, VSLĐ: An toàn lao động, vệ sinh lao động
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam bắt đầu quá trình đổi mới nền kinh tế. Các
nguồn chi bao cấp cho y tế, văn hóa giáo dục và nhiều lĩnh vực khác dần dần bị
giảm hoặc cắt hoàn toàn. Mặt khác, Nhà nước cũng khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân. Điều này đã thu hút
nhiều loại hình lao động, trong đó có không ít lao động chưa thành niên.
Theo Báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) nhân ngày Thế giới
về chống bóc lột lao động 12/6/2019, thế giới có khoảng 152 triệu lao động
dưới 18 tuổi. Việc trẻ em phải lao động sớm để lại hậu quả nặng nề, ảnh
hưởng đến sự phát triển hài hòa của con người, tác động tiêu cực đến phát
triển kinh tế - xã hội, nhất là chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Tại
Việt Nam, theo Báo cáo Khảo sát quốc gia về lao động trẻ em năm 2018, có
1,75 triệu lao động trẻ em và người chưa thành niên từ 5 - 17 tuổi, chiếm
9,6% tổng dân số trẻ em. Để giảm thiểu số lượng lao động trẻ em và kiểm
soát chặt chẽ những hậu quả của việc người chưa thành niên tham gia lao
động, thời gian qua Chính phủ đã cam kết giải quyết vấn đề này thông qua
ban hành hệ thống luật pháp và chính sách. Ngay trong Bộ Luật lao động
cũng đã có các quy định về độ tuổi lao động tối thiểu, thời giờ làm việc và
điều kiện làm việc, quy định về lao động đối với người chưa thành niên. Bên
cạnh đó, Luật trẻ em năm 2016 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ
ngày 1/6/2017 tiếp tục có các quy định cụ thể về các hành vi nghiêm cấm bóc
lột trẻ em. Năm 2016 Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình
phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016-2020.
Tuy nhiên, trên thực tế các vấn đề liên quan đến người lao động chưa
thành niên hiện vẫn còn nhiều bất cập. Theo dõi các báo cáo kết quả khảo sát
của Cục An toàn lao động và Báo cáo kết quả thanh tra của Thanh tra Bộ Lao
1
động - Thương binh xã hội qua các năm gần đây cho thấy vẫn còn rất nhiều
người lao động chưa thành niên phải làm các nghề, các công việc độc hại,
nặng nhọc, nguy hiểm,... Chưa kể tình trạng người sử dụng lao động còn lợi
dụng sự non nớt, thiếu hiểu biết của các em để vi phạm giao kết hợp đồng lao
động, làm trái các quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,
tiền lương, an toàn lao động, vệ sinh lao động,... Đã có nhiều trường hợp trên
thực tế ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể lực, nhân cách, trí tuệ
của các đối tượng này. Ngoài ra, trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày nay,
việc vi phạm quy định về sử dụng lao động chưa thành niên còn ảnh hưởng
tới cam kết của Việt Nam về thực hiện Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu
làm việc và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các
hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Xét thấy, thực trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một mặt,
xuất phát từ nhu cầu thiết yếu của thị trường lao động nói chung. Người sử
dụng lao động vì lợi ích kinh tế trước mắt mà bất chấp sử dụng người lao
động chưa thành niên theo những cách "bóc lột", trả công rẻ, dễ sai khiến,...
Mặt khác, xuất phát từ chính nhu cầu chủ quan của người lao động chưa thành
niên dưới sức ép của sự nghèo đói, mưu sinh, từ gánh nặng gia đình,... Họ
chấp nhận làm những công việc nặng nhọc, không vừa sức, cam chịu đồng
lương ít ỏi vì "không còn cách nào khác" dù có thể biết những việc đó ảnh
hưởng đến sức khỏe cũng như sự phát triển trí tuệ, nhân cách. Thực trạng này
đòi hỏi cộng đồng và pháp luật cần ra tay tương trợ. Tuy nhiên, pháp luật về
người lao động chưa thành niên hiện hành còn nhiều những hạn chế, bất cập,
ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh. Các quy định của pháp luật liên quan trực
tiếp đến người chưa thành niên không nhiều, chưa rõ ràng và chưa có nhiều
sự đổi mới phù hợp, linh hoạt theo tình hình thay đổi của kinh tế - xã hội đất
nước. Công tác điều tra, thống kê, nghiên cứu về thực trạng áp dụng pháp luật
2
đối với người lao động chưa thành niên còn chưa được chú trọng, chưa có sự
tổng kết, đúc rút kinh nghiệm một cách toàn diện và khách quan. Đặc biệt là ở
những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, khó khăn cho cơ quan Nhà nước
trong việc quản lý, giám sát và áp dụng pháp luật trong khi người dân đa số
đều chưa có điều kiện tiếp cận và hiểu biết pháp luật. Có thể lấy ví dụ điển
hình như tỉnh Thái Nguyên. Là một địa phương có nhiều lợi thế khi có đất đai
canh tác nông nghiệp rộng lớn, nguồn tài nguyên về khoáng sản dồi dào,
nhiều khu công nghiệp trải dài ở một số huyện, thị xã,... Tuy nhiên, cũng
chính vì diện tích rộng rất khó cho việc quản lý, giám sát, nhiều huyện miền
núi, vùng sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, do đó tình
trạng vi phạm trong sử dụng lao động chưa thành niên cũng diễn ra khá phổ
biến mà đến nay vẫn chưa có biện pháp khắc phục và áp dụng hiệu quả để bảo
vệ tốt nhất cho người lao động chưa thành niên – đối tượng lao động “yếu thế”
trên địa bàn. Đây chính là những lý do để tác giả chọn đề tài " Bảo vệ người
lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động từ thực tiễn tỉnh Thái
Nguyên " làm đề tài thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói
chung là một vấn đề nhức nhối và được chú trọng quan tâm trong suốt nhiều
năm. Đã có nhiều công trình khoa học tâm huyết nghiên cứu về các khía cạnh
pháp lý xoay quanh người lao động chưa thành niên và đặc biệt là phải làm
sao để bảo vệ đối tượng được coi là “yếu thế” trong xã hội này trước tình hình
kinh tế - xã hội đang ngày một biến đổi và phát triển nhanh chóng.
Mới đây nhất có luận văn về đề tài “ Bảo vệ người lao động chưa thành
niên theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Hồng Nhị (2019) đã
nghiên cứu và khái quát khá toàn diện về vấn đề bảo vệ người lao động chưa
thành niên theo pháp luật Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật trên toàn
3
quốc hiện nay và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ
người lao động chưa thành niên ở nước ta. Tuy nhiên, với một đề tài có phạm
vi nghiên cứu khá rộng, vấn đề bảo vệ người lao động chưa thành niên được
tác giả xem xét trên nhiều lĩnh vực của pháp luật, từ pháp luật dân sự, lao
động cho đến thương mại,... Do vậy, ở một mặt nào đó, những vấn đề này
chưa được đánh giá sâu hoặc có một số tồn tại trong công tác bảo vệ người
lao động chưa thành niên trên thực tế vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có giải pháp thỏa
đáng. Trước đó, vào năm 2016, tác giả Nguyễn Thị Nhàn cũng đã nghiên cứu
đề tài “ Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay”
trong đó có nghiên cứu và đánh giá khá sâu sát về lao động chưa thành niên
theo pháp luật lao động tại Việt Nam. Việc nghiên cứu xem xét chỉ trên một
“mảnh đất” là pháp luật lao động Việt Nam cho phép tác giả có thể dành
nhiều thời gian và công sức hơn để “cày sâu” về vấn đề người lao động chưa
thành niên tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài, tác
giả cũng chỉ đánh giá chung trên bình diện lao động chưa thành niên mà
không nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phù hợp để bảo vệ người lao động
chưa thành niên – nhóm đối tượng “ yếu thế” rất cần được Nhà nước, gia đình
và xã hội chở che. Ngoài ra, cũng có một vài đề tài lựa chọn nghiên cứu một
hoặc một số đối tượng cụ thể, ví dụ “ Vấn đề trẻ em gái giúp việc trong các
thành phố lớn” của tác giả Chu Mạnh Hùng, đăng trên Tạp chí gia đình giới
(2015).
Như vậy, có thể thấy có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học tiếp
cận ở nhiều vị trí khác nhau liên quan đến người lao động chưa thành niên.
Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay chưa có đề tài nào liên quan đến vấn đề bảo
vệ người lao động chưa thành niên tại một địa phương cụ thể. Trong khi đây
là một đề tài mang tính thực tiễn và rất cần thiết. Bởi lẽ, mỗi địa phương có
tình hình phát triển kinh tế - văn hóa xã hội cũng như đặc thù về địa lý, dân cư
4
khác nhau. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ người lao động chưa
thành niên vì thế cũng khác nhau và cần phải có những nghiên cứu toàn diện
về thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân cũng như đưa ra giải pháp phù hợp cho
điều kiện của mỗi địa phương. Do vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu
sâu sát, những giải pháp đổi mới với tình hình phát triển thực tế về " Bảo vệ
người lao động chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên" nhằm tăng
tính hiệu quả cho cơ chế pháp luật điều chỉnh, bảo vệ nhóm đối tượng đặc thù
và yếu thế này. Các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan khác đều có
mục đích, phạm vi nghiên cứu, nội dung nghiên cứu và phương pháp tiếp cận
khác với luận văn này, nhưng cũng là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quý
giá đối với tác giả luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn từ việc phân tích, làm rõ thực trạng pháp luật về
bảo vệ người lao động chưa thành niên qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái
Nguyên. Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
người lao động chưa thành niên.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về người lao động
chưa thành niên cũng như cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với nhóm đối
tượng này.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật lao động
về người lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Thái
Nguyên nói riêng, chỉ ra những ưu điểm và những mặt còn hạn chế cần đổi
mới, khắc phục trong việc bảo vệ quyền lợi tối ưu cho người lao động chưa
thành niên.
5
- Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn đánh giá nêu trên, luận văn
mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động về
người lao động chưa thành niên, đặc biệt chú trọng các giải pháp nâng cao
hiệu quả "bảo vệ" của pháp luật đối với nhóm đối tượng yếu thế này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài chủ yếu là các quy định của pháp luật lao
động Việt Nam hiện hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên. Bên
cạnh đó, luận văn còn đề cập đến một số nội dung chủ yếu trong các Công
ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết, trong đó có Công ước số
138 về độ tuổi lao động tối thiểu (1973) và Công ước số 182 về cấm và hành
động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
(1999) làm cơ sở đối sánh để đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam.
Do pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên chủ yếu điều
chỉnh trong mối quan hệ " làm công ăn lương", nên để phù hợp với tên gọi
của đề tài và chuyên ngành nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về
đối tượng này và các nhóm quy định có liên quan mật thiết trong vai trò bảo
vệ người lao động chưa thành niên: Nhóm quy định về bảo vệ việc làm cho
người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ sức khỏe cho
người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ tiền lương và thu
nhập cho người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ các
quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên. Ngoài ra, tác giả còn
mở rộng ở một mức độ phù hợp về người lao động chưa thành niên trong giai
đoạn học nghề,...và một số mối quan hệ xã hội có liên quan.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của triết học Mác - Lênin cũng như lý luận chung về Nhà nước và pháp luật
6
làm cơ sở cho phương pháp luận để đạt được mục đích và giải quyết tốt các
nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Ngoài ra, tùy vào mục đích, phạm vi và nội dung nghiên cứu của từng
chương trong luận văn mà tác giả sử dụng riêng lẻ hoặc tổng hợp các
phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... sao cho phù hợp và
hiệu quả nhất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công
tác nghiên cứu, giảng dạy khoa học luật lao động, cho các cá nhân quan tâm
đến việc bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động. Bên
cạnh đó, ở mức độ nhất định, luận văn cũng giúp cho những người hoạt động
trong lĩnh vực lao động xã hội hay chính bản thân những người lao động chưa
thành niên những kiến thức cần thiết trong thực tiễn áp dụng pháp luật lao
động về người lao động chưa thành niên phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
Việt Nam nói chung và thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục từ
viết tắt, kết cấu chính của luận văn gồm 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động chưa thành niên.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về
bảo vệ người lao động chưa thành niên và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật lao động và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
1.1 Lao động chưa thành niên
1.1.1 Khái niệm
Trên thế giới hiện chưa có khái niệm thống nhất về “ lao động chưa
thành niên”. Theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc và
Công ước số 182 năm 1999 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về loại bỏ
những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất không đưa ra khái niệm “ lao
động chưa thành niên” mà đưa ra khái niệm “lao động trẻ em”. Theo đó, “ trẻ
em được xác định là người dưới mười tám tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia
công nhận tuổi thành niên sớm hơn”. Còn trong Bản quy tắc của Liên hợp
quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 có quy định: “ người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn dưới tuổi này cần phải được pháp luật
xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên”. Như
vậy, khi đưa ra khái niệm chưa thành niên, pháp luật quốc tế không dựa hoàn
toàn, trực tiếp vào đặc điểm tâm, sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh
thần,... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Nhìn
chung, pháp luật quốc tế đã đưa ra khả năng “mở” cho các quốc gia tùy điều
kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống riêng để có thể quy định độ tuổi
thành niên sớm hơn.
Ở Việt Nam, những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần
nhưng tham gia lao động là hiện tượng phổ biến và được nhà nước thừa nhận.
Hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta đang ghi nhận cả hai thuật ngữ “trẻ em”
và “người chưa thành niên”. Theo Điều 1 Luật trẻ em 2016 thì “ trẻ em là
người dưới 16 tuổi”. Còn theo Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “ người
8
chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Điều đó cho thấy khái niệm “ trẻ
em” trong pháp luật Việt Nam là không hoàn toàn đồng nhất với quy định của
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xét về độ tuổi, “ trẻ em” theo quan
niệm của Liên hợp quốc tương ứng với khái niệm “ người chưa thành niên”
của pháp luật Việt Nam là người dưới 18 tuổi.
Trong lĩnh vực pháp luật lao động, khái niệm người lao động chưa thành
niên hiện nay được quy định tại Điều 119 Bộ luật lao động 2012. Theo đó,
“người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Căn cứ các
quy định liên quan về người lao động chưa thành niên, giáo trình Luật lao
động Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội có diễn giải rõ hơn như sau:
“ lao động chưa thành niên là những lao động dưới 18 tuổi, bao gồm hai loại
lao động là lao động dưới 15 tuổi và lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18
tuổi”. Quy định này thể hiện sự phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự
2015 về xác định độ tuổi, năng lực chủ thể và trách nhiệm chủ thể, thông qua
đó để xác định phạm vi tham gia công việc, điều kiện bảo đảm và phương
hướng bảo vệ lao động chưa thành niên trong quan hệ lao động. Đồng thời
cũng thể hiện sự phù hợp với quy định của Công ước về quyền trẻ em năm 1989
của Liên hợp quốc và Công ước số 182 năm 1999 của ILO. Tuy nhiên, tương tự
như Điều 119 Bộ luật lao động, khái niệm này chưa nêu rõ những đặc tính cơ
bản làm cơ sở để nhận biết đối tượng người lao động chưa thành niên.
Theo tiến sỹ Nguyễn Hữu Chí: “ mọi người lao động dưới 18 tuổi có khả
năng lao động và giao kết hợp đồng lao động là lao động chưa thành niên”.
Đây là khái niệm phản ánh tương đối đầy đủ nội hàm về người lao động chưa
thành niên, trong đó đã xác định phạm vi đối tượng, tính chất, thuộc tính của
nhóm đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần tham gia quan hệ
lao động, làm cơ sở để phân biệt với những người lao động đã phát triển đầy
đủ về thể chất, tinh thần.
9
Từ đó có thể đưa ra khái niệm lao động chưa thành niên như sau: người
lao động chưa thành niên là người lao động có đặc điểm riêng, gồm những
người dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
Khái niệm này đã nhấn mạnh đây là nhóm lao động đặc thù, có những
đặc điểm riêng biệt nhằm xây dựng một hành lang pháp lý phù hợp để bảo vệ
quyền lợi xác đáng cho họ.
Đây cũng là khái niệm thể hiện tính đồng nhất với các quy định của pháp
luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng khi chỉ rõ phạm vi
giới hạn tối đa về độ tuổi của người lao động chưa thành niên là dưới 18 tuổi
nhằm phân biệt với người lao động thành niên, có sự phát triển đầy đủ về thể
lực, trí tuệ.
Ngoài ra, khái niệm trên cũng nêu điều kiện, tính chất của người lao
động chưa thành niên. Đó chính là khả năng lao động. Việc xác định khả năng
lao động là điều kiện, thuộc tính của đối tượng này nhằm phân biệt với người
không có khả năng lao động (có khuyết tật nặng về trí lực, thể lực,...).
Một điều kiện quan trọng khác để được thừa nhận là người lao động
chưa thành niên, đó là phải có giao kết hợp đồng lao động. Người chưa thành
niên có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đầy đủ nhưng có trường hợp
họ không được coi là người lao động chưa thành niên khi họ không tham gia
vào quan hệ lao động. Việc tham gia quan hệ lao động thông qua hình thức
hợp đồng lao động. Theo đó, chủ thể trong hợp đồng lao động phải là người
sử dụng lao động và người lao động chưa thành niên. Đồng thời, hai bên khi
giao kết hợp đồng lao động phải tuân theo những quy định về hình thức, nội
dung hợp đồng để đảm bảo hợp đồng có hiệu lực.
10
1.1.2 Tính đặc thù của lao động chưa thành niên
So sánh với lao động thành niên, có thể thấy lao động chưa thành niên là
nhóm lao động đặc thù, có những đặc điểm riêng cơ bản như sau:
Thứ nhất, lao động chưa thành niên là người có độ tuổi dưới 18 tuổi,
chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần. Ở giai đoạn dưới 18 tuổi, nhóm
người này đang phát triển vượt bậc về thể chất nhưng chưa có sự ổn định về
sinh lý. Nếu phải lao động với cường độ quá sức, hoặc làm việc nhiều giờ,
hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại,...hoặc phải tiếp xúc thường xuyên với
các môi trường dễ xảy ra tệ nạn xã hội như: quán bar, quán karaoke, quán bia
– rượu,... sẽ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành và phát triển cả về thể chất lẫn
trí tuệ của người chưa thành niên. Tâm lý phức tạp của lứa tuổi này cũng là
một vấn đề lo ngại khi họ bắt đầu có sự tự ý thức về cá tính của mình, việc
sinh hoạt, giao tiếp với xã hội cũng được mở rộng và mang tính độc lập hơn,
không chịu sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ từ gia đình như trước. Nếu không
có sự uốn nắn kịp thời, người lao động chưa thành niên, với tâm lý tuổi trẻ
bồng bột, hiếu thắng, rất dễ ảnh hưởng xấu đến khả năng học nghề, năng suất
lao động, thậm chí là cả sự hình thành về tính cách sau này.
Chính vì vậy, các yếu tố bên ngoài là một trong những yếu tố để hình
thành nhân cách, lối sống của lao động chưa thành niên. Mặt khác, lao động
chưa thành niên là người chưa hoàn thiện về nhận thức, trì tuệ, còn non nớt về
xã hội và pháp luật cho nên rất khó để họ độc lập thực hiện và bảo vệ tính
mạng, danh dự của mình. Vì thế, đây là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị
xâm hại, bị lợi dụng, dụ dỗ, bóc lột lao động. Xuất phát từ đặc điểm này mà
pháp luật lao động cũng có quy định chặt chẽ các vấn đề liên quan đến việc
tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên.
Thứ hai, người lao động chưa thành niên được pháp luật bảo vệ ở mức
độ cao hơn so với người lao động thành niên. Lao động chưa thành niên còn
11
thiếu kinh nghiệm sống và làm việc, chưa hiểu biết pháp luật, hiểu biết xã hội.
Do độ tuổi còn trẻ, nên lao động chưa thành niên chưa có nhiều kinh nghiệm
sống, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, chưa nhận thức được đầy đủ về quyền
và nghĩa vụ lao động của mình. Cho nên khả năng tự bảo vệ là chưa cao,
nhiều em nhỏ phải chịu nguy cơ bị bóc lột, lợi dụng sức lao động. Do vậy, họ
được pháp luật bảo vệ theo hướng hưởng một số quyền, lợi ích ngang bằng
hoặc hơn những quyền và lợi ích mà pháp luật quy định với người lao động
thành niên, như: tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,...
Mặt khác, việc bảo vệ người lao động chưa thành niên còn thể hiện ở
quy định hạn chế họ tham gia làm một số công việc, ngành nghề nhất định.
Đối với nhóm lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi là
nhóm tuổi tham gia quan hệ lao động khá phổ biến hiện nay. Theo như Bộ
luật dân sự năm 2015 thì đây cũng là nhóm tuổi tối thiểu để có năng lực chủ
thể khi tham gia vào quan hệ lao động, có thể tự mình xác lập một số quyền
và nghĩa vụ trong quan hệ lao động ( Ví dụ như giao kết hợp đồng lao động).
Việc quy định nhóm tuổi lao động này căn cứ vào một số yếu tố như: cơ cấu
và nhu cầu giải quyết việc làm của xã hội, điều kiện kinh tế, xã hội của một số
quốc gia, lực lượng lao động xã hội và một số yếu tố khác. Bên cạnh đó, việc
quy định về nhóm tuổi này hoàn toàn phù hợp với Công ước số 138 năm 1973
về độ tuổi tối thiểu. Mặc dù, pháp luật cho phép độ tuổi này được tham gia lao
động, học nghề những do chưa hoàn thiện đầy đủ về thể chất lẫn tinh thần nên
độ tuổi này chỉ được phép làm những công việc phù hợp với sức khỏe, không
được làm những công việc độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc nơi làm việc,
tính chất công việc ảnh hưởng xấu đến nhân cách của họ.
Đối với nhóm lao động dưới 15 tuổi là nhóm tuổi đang trong quá trình
hoàn thiện về trí tuệ, nhân cách và thể lực. Nhóm tuổi này đa phần còn đang
là học sinh, vẫn còn đang đi học và vì một số nguyên nhân mà các em phải
12
lao động để phụ giúp gia đình hoặc để phục vụ nhu cầu cho chính bản thân
mình. Trong khoa học pháp lý thường gọi đây là những người có năng lực
pháp luật không đầy đủ. Vì vậy, khi các em ở độ tuổi này tham gia lao động
chỉ được làm những công việc nhẹ nhàng, đơn giản, không ảnh hưởng đến
việc học tập của các em. Còn đối với người dưới 13 tuổi, pháp luật quy định
không được sử dụng lao động là người dưới 13 tuổi trừ một số công việc do
Bộ lao động – Thương binh và Xã hội quy định.
Thứ ba, người lao động chưa thành niên bị hạn chế một phần năng lực
hành vi khi giao kết hợp đồng trong những trường hợp nhất định. Căn cứ điều
20, điều 21 BLDS năm 2015: người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện
theo pháp luật đồng ý. Người chưa đủ 6 tuổi khi tham gia giao dịch dân sự
phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Quy định này cũng
được ghi nhận trong pháp luật lao động nhằm đảm bảo có sự giám sát, bảo hộ
chặt chẽ hơn đối với quyền và lợi ích của người lao động chưa thành niên. Tại
Điều 3 Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số nội dung của Bộ luật lao động có nêu rõ hơn về vấn đề này. Người lao
động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi giao kết hợp đồng phải có sự đồng ý
bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Đối với người lao động dưới 15
tuổi không được trực tiếp giao kết hợp đồng mà phải giao kết qua người đại diện
theo pháp luật và phải có sự đồng ý bằng văn bản của người lao động.
1.1.3 Phân loại lao động chưa thành niên
Có nhiều cách phân loại lao động chưa thành niên dựa trên các tiêu chí
khác nhau, như: phân loại theo địa điểm ( nông thôn, thành thị); phân loại
theo nhóm ngành lao động ( nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,...); phân loại
theo độ tuổi,... Một vài cách phân loại phổ biến và dễ quản lý nhất như sau:
13
Thứ nhất, căn cứ vào độ tuổi có thể phân người lao động chưa thành niên
thành ba nhóm:
- Nhóm độ tuổi dưới 13 tuổi
Đây là nhóm có độ tuổi thấp nhất mà pháp luật cho phép và được quy
định rất cụ thể, chặt chẽ đối với người sử dụng lao động khi cho các em tham
gia học nghề hoặc làm việc. Đây cũng là nhóm không được khuyến khích
tham gia lao động, trừ một số ngành nghề đặc thù thuộc lĩnh vực nghệ thuật
có tính chất công việc nhẹ nhàng, không ảnh hưởng đến sự phát triển về thể
lực và trí tuệ, có thể tạo điều kiện phát triển tài năng cho các em như: đóng
phim, ca hát, trình diễn thời trang,...
- Nhóm độ tuổi từ 13 đến dưới 15 tuổi:
Đây là độ tuổi trẻ em hoàn toàn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, một số
các em trong số đó tiếp tục học lên các bậc học cao hơn. Còn một số em vì
một lý do nào đó không thể tiếp tục theo con đường học tập, thường là đối
tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thì các em buộc phải học nghề hoặc đi
làm để nuôi sống bản thân và gia đình. Tuy nhiên, đây cũng là nhóm tuổi
đang trong quá trình phát triển về thể chất, tinh thần lại có hạn chế về trình độ,
kiến thức, kỹ năng nên chỉ được phép tham gia vào những công việc nhẹ
nhàng, đơn giản, ít yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật và diễn ra trong thời gian
ngắn. Để bảo đảm được quyền lợi cho các em cũng như có sự rõ ràng hơn cho
người sử dụng lao động, Nhà nước ta đã quy định danh mục những công việc
mà nhóm tuổi này được làm kèm theo những điều kiện áp dụng chặt chẽ.
- Nhóm độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi:
Người chưa thành niên tham gia lao động ở tuổi này chiếm tỷ lệ đa số.
Họ có thể giao kết hợp đồng lao động và trở thành một bên của quan hệ lao
động và chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động. Thêm vào đó, chương
14
trình đào tạo cuối cấp ở đa số các trường học tại Việt Nam đều đã bổ sung
thêm một số nghề nhất định, giúp các em có định hướng, kiến thức và kỹ
năng cơ bản để bắt đầu lao động và làm việc gần như người trưởng thành.
Tuy nhiên, đối với nhóm tuổi này, pháp luật cũng có những quy định bảo hộ
cần thiết và hạn chế cho phép họ làm những công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm hay ảnh hưởng tới nhân cách.
Thứ hai, căn cứ vào giới tính, có thể phân người lao động chưa thành
niên thành hai nhóm là lao động nam và lao động nữ. Tiêu chí này được đặt ra
dựa trên đặc điểm về cấu trúc cơ thể và tâm sinh lý khác biệt của các đối
tượng này nhằm sắp xếp các công việc phù hợp đồng thời đặt ra những biện
pháp bảo vệ và quản lý sâu sát, tránh sự lạm dụng đối với lao động chưa
thành niên nữ.
Thứ ba, căn cứ vào trình độ chuyên môn kỹ thuật, người lao động chưa
thành niên có thể được phân thành hai nhóm: lao động chưa thành niên đã qua
đào tạo và lao động chưa thành niên chưa qua đào tạo. Tiêu chí đào tạo này
được xác định thông qua việc người lao động chưa thành niên được cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền thực hiện đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghề, hoặc
do người lao động chưa thành niên tự rèn luyện, tích lũy, học hỏi kinh nghiệm
từ những người làm nghề đi trước. Mục đích của cách phân loại này nhằm có
những chính sách cần thiết để hỗ trợ, đào tạo tay nghề cho người lao động
chưa thành niên, giúp họ tăng thêm thu nhập đồng thời nâng cao chất lượng
nguồn lao động trong tương lai.
Trên thực tế còn rất nhiều cách phân loại người lao động chưa thành niên
theo các tiêu chí khác nhau. Tuy vậy, cách phân loại nào cũng chỉ mang tính
chất tương đối và đều nhằm mục đích tạo sự điều chỉnh pháp lý phù hợp, để
người lao động chưa thành niên được làm việc dưới sự bảo vệ tối ưu nhất của
pháp luật, chống lại sự lạm dụng, bóc lột sức lao động và tinh thần của họ.
15
1.2 Bảo vệ lao động chưa thành niên
1.2.1 Khái niệm bảo vệ lao động chưa thành niên
Bảo vệ người lao động nói chung và người lao động chưa thành niên nói
riêng là một trong các nguyên tắc cơ bản được đề ra trong pháp luật lao động.
Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ sự không tương xứng về vị thế giữa
người lao động và người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao động, người
lao động thường ở vị trí bất lợi hơn so với người sử dụng lao động. Sự “yếu
thế” này thể hiện ở khía cạnh địa vị xã hội của họ thấp hơn, thể lực, trí lực của
họ chưa phát triển bằng người sử dụng lao động. Khi thiết lập quan hệ lao
động giữa hai bên, nếu áp dụng nguyên tắc tự do thỏa thuận thì phía người lao
động chưa thành niên sẽ rơi vào tình huống bất lợi, quyền và lợi ích của đối
tượng này sẽ không được đảm bảo. Do vậy, việc xây dựng một hành lang pháp
lý với những quy định riêng, cụ thể, chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
người lao động chưa thành niên cũng như đưa ra những nghĩa vụ cho đối tượng
này là một vấn đề đã, đang và sẽ được Nhà nước ta đề cao thực hiện.
Do đây là nhóm đối tượng đang trong quá trình phát triển chưa hoàn
thiện về thể lực, trí lực, tương ứng với mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm
riêng trong khi mỗi ngành nghề, môi trường làm việc lại có những tính chất
khác nhau nên không thể các quy định pháp luật theo hướng chi tiết, cụ thể
từng quyền và nghĩa vụ mà chỉ có thể quy định theo hướng thông qua các tiêu
chuẩn tối thiểu (về quyền, lợi ích) và tối đa (về nghĩa vụ) trên cơ sở độ tuổi
đồng thời khuyến khích các thỏa thuận có lợi hơn cho người lao động chưa
thành niên so với quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu, bảo vệ người lao động chưa thành niên là việc
pháp luật xây dựng và áp dụng những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của người lao động chưa thành niên đồng thời khuyến khích các thỏa thuận có
lợi nhằm cân bằng vị thế của họ trong xã hội, giúp cho nhóm đối tượng này
16
được “an toàn” phát triển toàn diện từ thể chất đến tinh thần trong quá trình
lao động kiếm thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình.
1.2.2 Ý nghĩa và sự cần thiết bảo vệ lao động chưa thành niên trong pháp
luật lao động
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế
hiện nay, sự phát triển của các mô hình kinh doanh từ hộ gia đình, doanh
nghiệp tư nhân,.. kéo theo nhu cầu lao động rất lớn, trong đó có lao động chưa
thành niên. Việc sử dụng lao động chưa thành niên, theo đa phần người sử
dụng lao động, thường có khá nhiều lợi ích, như: mức lương thấp, dễ sai bảo,
có thể tùy ý tăng thời giờ làm việc,... Mặt khác, đa phần người chưa thành
niên bắt buộc tham gia lao động vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Họ phải
bươn chải từ rất sớm, thậm chí bỏ học để làm việc nuôi sống bản thân và gia
đình. Đó chính là áp lực, là sức ép khiến người lao động chưa thành niên phải
tìm và làm bất cứ công việc gì mà họ được nhận. Hiện trạng này đã đặt ra nhu
cầu cần phải có pháp luật điều chỉnh nhằm định hướng cho sự phát triển của
các quan hệ có đối tượng này tham gia.
Các quy định của Nhà nước về việc làm, về quan hệ lao động, về thu
nhập và tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, thanh tra và xử lý vi
phạm... sẽ tạo ra một hành lang pháp lý để bảo vệ và phát huy những đặc tính
tích cực đồng thời hạn chế những ảnh hưởng không nên có của việc sử dụng
người lao động chưa thành niên, thêm vào đó cũng đảm bảo cho họ được phát
triển bình thường về mặt thể lực, trí lực và nhân cách.
Mặt khác, pháp luật về người lao động chưa thành niên còn góp phần
bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội. Người lao động chưa thành niên là
những “mầm non” tương lai của đất nước, bảo vệ nguồn lao động này chính
là bảo vệ nguồn cung trên thị trường lao động, bảo đảm sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
17
1.2.3 Nội dung điều chỉnh của pháp luật lao động về bảo vệ người lao
động chưa thành niên
1.2.3.1 Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà người chưa thành niên
phải tham gia lao động nhằm có thu nhập nuôi sống bản thân hoặc giúp đỡ gia
đình. Để thừa nhận và bảo vệ nhu cầu chính đáng này, pháp luật có những
quy định thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền được tham gia quan hệ lao động
của người lao động chưa thành niên.
Người lao động chưa thành niên có quyền có việc làm, được tự do lựa
chọn việc làm phù hợp, có quyền làm việc cho bất kỳ người lao động nào và ở
bất kỳ nơi đâu mà pháp luật không cấm. Đây là những quyền thuộc phạm trù
quyền cơ bản của con người, tạo điều kiện và cơ hội để người lao động chưa
thành niên có thu nhập bảo đảm cuộc sống của bản thân và giúp đỡ gia đình,
đồng thời đóng góp một phần cho xã hội cũng như hạn chế các tiêu cực, tệ
nạn xã hội. Quyền này không những được khẳng định trong pháp luật quốc
gia mà còn được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế. Tuyên ngôn về quyền
con người (1948) của Liên hợp quốc nêu rõ: “mọi người đều có quyền làm
việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính
đáng và được bảo vệ chống lại thất nghiệp”. Tuy nhiên, với những đặc thù
riêng về sự phát triển chưa toàn diện về thể chất, trí tuệ,.. người lao động chưa
thành niên khó có thể tự tìm cho mình một công việc phù hợp với khả năng
mà không bị lạm dụng, bóc lột sức lao động.
Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động chưa thành niên, pháp
luật quốc gia đã phân bổ nhiệm vụ cho một số cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền xây dựng các chính sách tạo việc làm, ưu tiên cho nhóm đối tượng này,
đồng thời phát triển mạng lưới thông tin về sự cung – cầu việc làm trên các
trang mạng điện tử - nơi có thể tiếp cận được với người chưa thành niên
18
nhanh nhất. Song song với đó, nhà nước còn khuyến khích các tổ chức kinh tế
tạo nhiều cơ hội việc làm phù hợp hơn cho người lao động chưa thành niên,
đặc biệt là trong các ngành nghề có tính chất nhẹ nhàng, phù hợp với sức
khỏe, trí lực của các đối tượng từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi như: trong các làng
nghề mây tre đan, chế biến các loại trà, thủ công mỹ nghệ, tranh sơn mài...
Điều này không chỉ tạo việc làm, tăng thu nhập cho các em mà còn vun đắp
tình yêu với những sản phẩm truyền thống, đặc sắc của dân tộc, góp phần gìn
giữ những giá trị văn hóa tinh thần của đất nước.
Để đạt được hiệu quả tối ưu và bảo vệ những quyền lợi thiết yếu của
người sử dụng lao động, song song với việc tăng nhu cầu việc làm cho người
lao động chưa thành niên, nhà nước còn rất chú trọng đến việc đào tạo, nâng
cao chất lượng tay nghề của nhóm đối tượng này. Không chỉ “mang cần câu
cá cho người, mà còn phải dạy họ kỹ thuật câu cá”, như vậy mới tạo được sự
bền vững và cân đối được lợi ích hai bên.
Ngoài học nghề, thì vấn đề giao kết hợp đồng lao động với người chưa
thành niên cũng được pháp luật rất chú trọng. Với tư cách là một người lao
động, khi tham gia vào quan hệ lao động, lao động chưa thành niên cũng phải
giao kết hợp đồng lao động. Theo tổ chức lao động quốc tế thì hợp đồng lao
động là một thỏa thuận ràng buộc pháp lý giữa người sử dụng lao động và
người lao động, trong đó xác định các điều kiện và chế độ làm việc. Trên cơ
sở đó, pháp luật Việt Nam cũng quy định tại Điều 15 BLLĐ 2012 như sau: “
Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao
động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên trong quan hệ lao động”. Quy định về điều kiện giao kết hợp đồng lao
động của người lao động chưa thành niên chủ yếu là dựa trên tiêu chí phân
loại về độ tuổi. Mỗi nhóm độ tuổi khác nhau thì các công việc tương ứng với
độ tuổi cũng khác nhau: nhóm dưới 13 tuổi chỉ được giao kết hợp đồng lao
19
động để làm các công việc nhẹ nhàng liên quan đến nghệ thuật: diễn xuất,
biểu diễn nghệ thuật, ...; nhóm từ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi thông quan người
đại diện theo pháp luật để giao kết hợp đồng làm các công việc nhẹ nhàng,
không ảnh hưởng đến an toàn, sức khỏe, đạo đức, sự phát triển và việc đi học
trong khi nhóm từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được quyền giao kết hợp đồng lao
động với hầu hết các công việc, trừ công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đến
an toàn, sức khỏe, đạo đức hay sự phát triển về thể lực, trí lực và nhân cách
nhưng phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.
1.2.3.2 Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên là nhóm lao động riêng với đặc điểm đặc thù
là chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí lực, do đó cần phải xây dựng
những quy định riêng để bảo vệ về mặt sức khỏe cho nhóm đối tượng này. Đa
phần các quốc gia đều quy định theo hướng rút ngắn thời giờ làm việc và tăng
thời giờ nghỉ ngơi so với người lao động thành niên; thường xuyên kiểm tra
sức khỏe định kỳ,...
Ngoài ra, những quy định về ATLĐ, VSLĐ cũng được pháp luật các
quốc gia đặc biệt chú trọng. Bởi môi trường lao động là nơi có ảnh hưởng rất
lớn đến sức khỏe, sự phát triển về thể chất, tinh thần, thậm chí là về tính mạng
của người lao động, đặc biệt là người lao động chưa thành niên. Hầu hết các
quốc gia đều yêu cầu NSDLĐ phải đảm bảo nghiêm ngặt các quy định về
điều kiện lao động và vệ sinh bắt buộc, trang bị và đảm bảo các biện pháp
ngăn ngừa, loại bỏ những yếu tố độc hại, nguy hiểm cũng như trang bị đầy đủ
các thiết bị bảo hộ lao động.
Những quy định này có thể tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho người lao
động chưa thành niên tham gia lao động với thời gian hợp lý, bảo vệ sức khỏe
để làm việc lâu dài, đảm bảo có thời gian nghỉ ngơi, học tập. Điều này cũng
20
nhằm tái khả năng sản xuất lao động và đảm bảo hiệu suất làm việc, góp phần
giữ vững nền kinh tế - xã hội của một quốc gia.
1.2.3.3 Bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao động chưa thành niên
Theo ILO, “ tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất kể tên gọi hay
cách tính mà có thể biểu hiện bằng tiền mặt và được ấn định bằng thỏa thuận
giữa NSDLĐ và NLĐ, hoặc bằng pháp luật quốc gia, do NSDLĐ phải trả cho
NLĐ theo một hợp đồng thuê mướn lao động, bằng viết tay hoặc bằng miệng,
cho một công việc đã thực hiện hoặc sẽ thực hiện, hoặc cho những dịch vụ đã
làm hoặc phải làm”. Như vậy, về mặt pháp lý, tiền lương được hiểu là số tiền
mà NSDLĐ trả cho NLĐ theo sự thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng lao
động, trên cơ sở năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Tiền
lương có ý nghĩa quan trọng đối với NLĐ nói chung và người lao động chưa
thành niên nói riêng, ngoài việc nuôi sống bản thân và gia đình mà còn giúp
họ tích lũy, tái sản xuất sức lao động,...
Pháp luật Việt Nam có quy định về mức lương tối thiểu, điều này giúp
người lao động chưa thành niên có căn cứ để xác định và thỏa thuận với
người sử dụng lao động một mức lương tương xứng với công sức lao động và
hợp lý trong nền kinh tế thị trường. Ngoài quy định về tiền lương tối thiểu, pháp
luật cũng có những quy định khác đối với tiền lương của người lao động chưa
thành niên, như: quyền nhận lương đầy đủ, đúng hạn, cách tính lương theo sản
phẩm làm ra hoặc theo hướng có lợi cho người lao động chưa thành niên.
1.2.3.4 Bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên
Pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền nhân thân tại khoản 1 Điều 25
BLDS năm 2015 như sau: “ Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật
này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, trừ trường hợp khác có liên quan đến quy định khác”. Quyền
21
nhân thân có một số đặc điểm: quyền nhân thân là một bộ phận của quyền dân
sự, thuộc về cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác và quyền này
hướng tới những giá trị tinh thần không định giá được như: quyền đối với họ
tên; quyền được khai sinh; quyền được khai tử; quyền tự do đi lại, tự do cư
trú; quyền đối với hình ảnh cá nhân; quyền bí mật đời tư; quyền tác giả; ...
Những quyền này hiện nay đều được quy định từ điều 26 đến điều 39 tại
BLDS năm 2015.
Đối với người lao động chưa thành niên, do chưa phát triển toàn diện về
thể lực và trí lực, họ có thể không nhận thức được rằng bản thân họ có đầy đủ
những quyền năng này, hoặc không biết làm cách nào để bảo vệ những quyền
năng về tinh thần mà pháp luật đã ghi nhận cho cá nhân mỗi người. Do vậy,
khi tham gia vào quan hệ lao động, phải tiếp xúc với nhiều tầng lớp trong xã
hội, gặp phải nhiều tình huống khác nhau, người lao động chưa thành niên rất
dễ trở thành đối tượng “bị tổn thương”, đặc biệt là với những quyền gắn liền
với quá trình lao động, sinh hoạt: Quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền
sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền
được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân, bí mật gia đình,...
Việc quy định chặt chẽ những quyền này tạo nên một khung pháp lý về mọi
mặt để bảo vệ toàn diện hơn cho đối tượng người lao động chưa thành niên,
giúp họ có thể yên tâm làm việc, lao động, ổn định cuộc sống mà không bị ảnh
hưởng đến quá trình phát triển về tâm sinh lý cũng như về thể lực và trí tuệ.
1.2.3.5 Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động về bảo vệ người lao
động chưa thành niên
Để điều chỉnh quan hệ lao động giữa NSDLĐ và NLĐ một cách hiệu
quả, một trong những biện pháp bảo đảm quan trọng đó là thanh tra lao động.
Đây không những là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, nhằm
22
ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý vi phạm pháp luật lao động mà còn đảm bảo
tính thực thi của các quy định pháp luật lao động cũng như nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước. Thanh tra lao động phát hiện những nhược điểm của quy
định pháp luật trong thực tiễn áp dụng, thông qua đó kiến nghị điều chỉnh, bổ
sung nhằm nâng cao hiệu quả của các quy định này. Hoạt động thanh tra,
chính vì thế góp phần quan trọng trong việc hạn chế vi phạm pháp luật, bảo
vệ những quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ nói chung và lao động chưa
thành niên nói riêng. Pháp luật lao động ở Việt Nam quy định cơ quan chủ
yếu có thẩm quyền thanh tra là Bộ lao động – Thương binh và xã hội cùng các
Sở lao động thương binh và xã hội ở địa phương. Khi tiến hành thanh tra,
thanh tra có quyền xử lý các vi phạm theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ
quan chức năng liên quan xử lý các vi phạm pháp luật lao động. Cơ sở pháp
lý để xử lý các vi phạm là quy định về các hành vi vi phạm và mức xử phạt.
Các hành vi vi phạm chủ yếu xâm phạm đến quyền, lợi ích, danh dự, nhân
phẩm hoặc an toàn sức khỏe của người lao động chưa thành niên với mức xử
phạt có phần nghiêm khắc hơn so với các hành vi vi phạm đối với người lao
động thành niên. Những quy định có phần “ưu tiên” này nhằm thực hiện tốt
hơn nguyên tắc bảo vệ người lao động chưa thành niên.
23
Tiểu kết chương 1
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã kéo theo nhu cầu rộng lớn đối
với thị trường lao động. Việc đa dạng nguồn cung ứng lao động, trong đó
gồm cả những người lao động chưa thành niên có thể góp phần đáp ứng nhu
cầu thiết yếu đang ngày một tăng của thị trường.
Đây là nhóm người lao động có đặc điểm riêng, gồm những người dưới
18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. Do chưa có
sự phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, chưa nhận thức và tự bảo vệ quyền
và lợi ích của mình trước người sử dụng lao động – vốn được coi là bên có
“thế mạnh” hơn, cho nên pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật của mỗi
quốc gia nói riêng đều có những quy định chặt chẽ nhằm đảm bảo vệ sức
khỏe, việc làm, các quyền lợi về thu nhập và tiền lương cũng như bảo vệ các
quyền về nhân thân,... trong suốt quá trình trước, trong và sau lao động, giúp
cho họ an tâm làm việc trong điều kiện tốt nhất.
24
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1 Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo
vệ người lao động chưa thành niên
Hoàn cảnh gia đình khó khăn, áp lực về kinh tế là lý do phổ biến nhất
dẫn đến việc người lao động chưa thành niên phải bươn trải kiếm sống từ khi
tuổi còn nhỏ. Họ đều là những người dưới 18 tuổi, chủ yếu đang trong giai
đoạn phát triển nhanh về thể chất và tâm lý do đó thường có quá trình tiếp thu
học hỏi rất nhanh chóng, linh hoạt và sáng tạo. Đây cũng là giai đoạn tốt để
các em bồi dưỡng kỹ năng sống, kỹ năng làm việc hoặc định hướng công việc
tương lai ( đặc biệt là ở lứa tuổi 15 – 18 tuổi).
Tuy nhiên, chính vì nhóm đối tượng này va chạm xã hội chưa nhiều,
kinh nghiệm sống ít ỏi cùng tay nghề kỹ thuật chưa cao, thiếu sự kiên định, dễ
bị tác động bởi môi trường khách quan nên thường bị lôi kéo vào các tệ nạn
xã hội hoặc bị ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể lực, trí lực và nhân cách.
Thực trạng này đòi hỏi pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc gia
nói riêng cần thiết phải đặt ra những quy định nhằm bảo vệ người lao động
chưa thành niên trong quá trình họ lao động kiếm sống. Hiện nay pháp luật
Việt Nam cũng có những quy định về người lao động được ghi nhận trong Bộ
luật Lao động và nhiều văn bản quy phạm khác có liên quan. Ngoài những
quy định chung cho người lao động, hệ thống pháp luật nước ta cũng đã đặt ra
những quy định riêng khá phù hợp với đặc thù người lao động chưa thành
niên, bảo vệ quá trình lao động của họ, không ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển thể lực, trí lực và nhân cách của họ, đồng thời tạo điều kiện cho họ có
thu nhập ổn định, công bằng. Trong đó, có thể kể đến năm trong số các nhóm
25
quy định chính: Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên; Bảo vệ
sức khỏe cho người lao động chưa thành niên; Bảo vệ thu nhập và tiền lương
cho người lao động chưa thành niên; Bảo vệ các quyền nhân thân của người
lao động chưa thành niên; Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động về
bảo vệ người lao động chưa thành niên.
2.1.1 Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên
Theo số liệu thống kê tại Báo cáo khảo sát năm 2018 của Bộ lao động –
Thương binh và xã hội, cả nước có khoảng hơn 1,75 triệu lao động chưa
thành niên, phổ biến ở độ tuổi 12 – 13 tuổi ( chiếm 68,7%). Trong đó, lĩnh
vực nông nghiệp là 67%, còn lại ngành dịch vụ chiếm 16,6% và công nghiệp
– xây dựng chiếm 15,8%. Đây cũng là con số thể hiện quyền làm việc, tự do
lựa chọn việc làm và nghề nghiệp của người lao động chưa thành niên ở bất
cứ lĩnh vực cho phép nào mà họ mong muốn hiện được quy định tại Điều 5
và Điều 16 BLLĐ. Tuy nhiên, người lao động chưa thành niên cũng bị hạn
chế một phần nội dung các quyền này: hạn chế không được làm những
công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ( Điều 121 BLLĐ) hay đối với
nhóm từ dưới 15 tuổi chỉ được nhận các công việc nhẹ nhàng được quy
định tại Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH ban hành danh mục công việc
nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi,...
Việc hạn chế này không phải là sự phân biệt đối xử giữa người lao động
chưa thành niên và người lao động thành niên. Mà là quy định cần thiết
nhằm bảo vệ người lao động chưa thành niên – những người chưa phát
triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, nếu buộc họ phải làm những công việc
nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại thì bản thân họ chưa có đủ kỹ năng, sức
khỏe cũng như kinh nghiệm để tự bảo vệ bản thân. Quy định này phù hợp
với Công ước số 182 về cấm và hành động khẩn cấp nhằm loại bỏ các hình
thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
26
Tuy nhiên, ngoài các ưu điểm vừa kể trên, thực tế các quy định này cũng
có một số bất cập. Cụ thể, theo danh mục công việc nhẹ được sử dụng người
dưới 15 tuổi, nhóm tuổi này có rất ít sự lựa chọn cho công việc của mình.
Nhóm độ tuổi dưới 13 tuổi chỉ được phép lựa chọn các công việc liên quan
đến một số loại hình nghệ thuật, năng khiếu ( diễn viên múa, hát, xiếc,...vận
động viên thể dục dụng cụ, bơi lội,...) hay nhóm từ đủ 13 tuổi đến dưới 15
tuổi chỉ được phép làm các công việc liên quan đến thủ công mỹ nghề, nghề
truyền thống, gói kẹo dừa, nuôi tằm, chủ yếu là các công việc “tại chỗ”,
không cần di chuyển nhiều, do đó dễ dàng giám sát, quản lý. Đây là một trong
những ưu điểm lớn nhưng vô hình chung lại khiến các em khá gò bó về mặt
không gian. Thêm vào đó, dường như danh mục công việc còn hạn hẹp, trong
khi trên thực tế còn có rất nhiều các công việc có tính chất nhẹ nhàng khác để
người lao động dưới 15 tuổi lựa chọn: hái chè, dán tem nhãn hoa quả, đóng
gói đồ khô, gấp phong bì,... Việc đa dạng thêm danh mục công việc nhẹ
không chỉ góp phần tăng sự lựa chọn cho người lao động chưa thành niên, mà
còn giúp giải quyết nhu cầu lao động đang ngày một tăng cao của người sử
dụng lao động.
Mặt khác, để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, Nhà nước
ta đã thống nhất thực hiện nhiều biện pháp để tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất – kinh doanh, tạo thêm nhiều
cơ hội việc làm và phát triển thị trường lao động, ... Các biện pháp về kinh tế -
xã hội được thực hiện đồng thời với việc áp dụng các công cụ pháp luật để tạo
hành lang pháp lý phù hợp, giúp cho người lao động nói chung và người lao
động chưa thành niên nói riêng an tâm lựa chọn công việc phù hợp và hiệu
quả nhất. Có thể kể đến như: Chương trình việc làm ( được quy định tại Điều
13 BLLĐ, Điều 5 Nghị định 03/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Bộ luật lao động về việc làm) được lập ra với mục tiêu giải quyết
27
việc làm, bảo đảm cho mọi công dân có khả năng năng lao động và có nhu
cầu việc làm đều có cơ hội lựa chọn việc làm phù hợp; Tạo lập và sử dụng các
loại Quỹ giải quyết việc làm ( Điều 12 BLLĐ; Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy
định về chính sách hỗ trợ việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm; Nghị định
74/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 61/2015/NĐ-CP,...) với vai trò cung cấp
vốn vay giải quyết việc làm và hỗ trợ cho người lao động tự tạo công ăn việc
làm cho chính bản thân mình và những người xung quanh; Phát triển hệ thống
Tổ chức giới thiệu việc làm ( Điều 14 BLLĐ) gồm các tổ chức trung gian có
nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động, cung ứng thông tin
về thị trường lao động, giúp cho người lao động nói chung và người lao động
chưa thành niên nói riêng dễ dàng hơn trong vấn đề tìm việc, đồng thời có thể
có định hướng lựa chọn công việc phù hợp nhất với họ.
Tuy nhiên, do đây là những biện pháp, chính sách dành cho người lao
động nói chung nên trên thực tế, người lao động chưa thành niên chưa nhận
được sự quan tâm riêng biệt, sâu sát với đặc thù của họ. Kết quả điều tra lao
động, việc làm của Tổng cục thống kê và Tổ chức lao động quốc tế những
năm gần đây cho thấy số lao động trẻ từ 15 – 24 tuổi chiếm đến 46,8% trong
tổng số 1 triệu người thất nghiệp, tỷ trọng này ở khu vực thành thị là 38,1%
và ở khu vực nông thôn là 56,2%. Thêm vào đó, cơ chế chính sách ở nước ta
tuy tạo ra nhiều việc làm mới và có xu hướng tăng nhưng lại thiếu vững chắc,
chất lượng việc làm chưa cao, giá trị lao động còn thấp và chưa được quản lý
giám sát chặt chẽ. Nguyên nhân do trình độ tay nghề của người lao động chưa
thành niên chưa cao cùng với việc giao kết các hợp đồng lao động chưa được
chặt chẽ.
Thứ nhất, về vấn đề học nghề:
Vấn đề học nghề cho người lao động được quy định tại Chương IV
BLLĐ. Luật việc làm 2013 và Luật giáo dục nghề nghiệp 2014. Theo đó,
28
người lao động, trong đó có người lao động chưa thành niên, được lựa chọn
nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình ( Khoản 1 Điều
59 BLLĐ).
- Về độ tuổi học nghề, tập nghề:
Pháp luật không quy định cụ thể về độ tuổi được phép đối với việc học
từng nghề cụ thể. BLLĐ chỉ quy định trường hợp NSDLĐ tuyển người vào
học nghề, tập nghề để làm việc cho mình (không đăng ký hoạt động dạy nghề,
không thu học phí) thì người học nghề, tập nghề phải đủ 14 tuổi và phải có đủ
sức khỏe phù hợp với yêu cầu của nghề, trừ một số nghề do BLĐTB&XH quy
định ( Khoản 1 Điều 61 BLLĐ). Quy định này nhằm hạn chế tỷ lệ thất học
đang ngày một gia tăng tại Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải có những văn bản
hướng dẫn chi tiết hơn nữa về điều kiện về độ tuổi, sức khỏe, và đặc biệt là về
người giám hộ đối với từng ngành nghề mà đối tượng lao động chưa thành
niên được phép học nghề, tập nghề, tránh trường hợp các em bị bóc lột sức
lao động quá mức hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của cơ thể ngay
trong quá trình học nghề, tập nghề.
- Về hình thức, nội dung hợp đồng học nghề và chấm dứt hợp đồng
học nghề
Điều 61, Điều 62 BLLĐ và Luật giáo dục nghề nghiệp 2014 quy định 2
bên phải ký kết Hợp đồng đào tạo nghề, lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01
bản. Trong Hợp đồng đào tạo nghề cần phải có đầy đủ các nội dung chủ yếu:
Nghề đào tạo; Địa điểm đào tạo; thời hạn đào tạo; Chi phí đào tạo; Thời hạn
NLĐ cam kết phải làm việc cho NSDLĐ sau khi được đào tạo; Trách nhiệm
hoàn trả chi phí đào tạo; Trách nhiệm của NSDLĐ;
Nhìn chung, Hợp đồng đào tạo nghề đã khá đầy đủ các nội dung cần
thiết. Tuy nhiên, một bất cập đặt ra là chỉ những NLĐ đủ 14 tuổi có các điều
29
kiện luật định mới được tham gia học nghề, tập nghề và ký kết Hợp đồng đào
tạo nghề. Một là, pháp luật không có quy định cụ thể về người giám hộ trong
trường hợp này. Hai là, những trường hợp không đủ điều kiện để tham gia
học nghề, tập nghề và ký kết Hợp đồng đào tạo nghề ( dưới 14 tuổi,...) thì
thường các nội dung thỏa thuận về việc học nghề sẽ bằng lời nói, đồng thời
việc truyền dạy các kỹ năng, bí quyết sẽ không theo một quy trình đào tạo bài
bản, không minh bạch với các nội dung quan trọng: thời gian học nghề, tập
nghề, mức chi phí đào tạo,... Do vậy, nhóm đối tượng này rất dễ bị lợi dụng
sức lao động, kéo dài thời gian học nghề, mặc dù đã làm được thành phẩm
chất lượng nhưng không được trả lương xứng đáng,...
Thứ hai, về vấn đề giao kết Hợp đồng lao động:
- Điều kiện để giao kết HĐLĐ
Theo quy định tại Điều 164 BLLĐ, điều kiện để giao kết HĐLĐ đối với
người lao động chưa thành niên tập trung chủ yếu vào quy định về độ tuổi,
sức khỏe và vấn đề giám hộ.
Một là, nhóm người lao động chưa thành niên từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi:
Nhóm này được giao kết HĐLĐ với các công việc phù hợp với sức khỏe
để thực hiện hầu hết các công việc, trừ những công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với các hóa chất độc hại hoặc nơi làm việc ảnh hưởng xấu
đến nhân cách. Họ có quyền tự mình thỏa thuận với NSDLĐ về tất cả các vấn
đề liên quan để thiết lập quan hệ lao động tuy nhiên vẫn cần có sự đồng ý
bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Điều này có nghĩa là pháp
luật cho phép người lao động chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi có
thể tự mình tham gia quan hệ lao động, tự thực hiện quyền và gánh vác đầy
đủ các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ lao động.
30
Hai là, nhóm người lao động chưa thành niên dưới 15 tuổi:
Nhóm này chỉ được giao kết HĐLĐ với một số nghề và công việc liên
quan đến các nghề thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật, năng khiếu như: diễn viên,
múa, hát, chèo, bơi lội, cờ tướng, ... Người lao động chưa thành niên dưới 15
tuổi khi giao kết HĐLĐ bắt buộc phải thông qua người đại diện theo pháp luật.
- Về hình thức, nội dung, thời hạn và hiệu lực của HĐLĐ
BLLĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành có quy định khá rõ về vấn đề
này và hầu như không có sự phân biệt trong các quy định của người lao động
thành niên với người lao động chưa thành niên.
HĐLĐ giữa người lao động chưa thành niên và NSDLĐ có thể được
giao kết bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Hình thức giao kết bằng lời nói áp
dụng với những công việc có tính chất tạm thời mà thời hạn dưới 03 tháng
hoặc với lao động giúp việc gia đình. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thiết lập quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ đối với những công
việc đơn giản hoặc có thời gian lao động ngắn, có tính chất mùa vụ. Còn đa
phần các công việc khác đều phải sử dụng hình thức HĐLĐ bằng văn bản để
đảm bảo về mặt pháp lý cho các bên tham gia quan hệ lao động.
Về nội dung của HĐLĐ, NSDLĐ và người lao động chưa thành niên
phải thương lượng những vấn đề cụ thể theo quy định tại Điều 23 BLLĐ: Tên
và địa chỉ của NSDLĐ hoặc người đại diện hợp pháp; Họ tên, ngày tháng năm
sinh, giới tính, địa chỉ nơi cư trú, số chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp
pháp khác của NLĐ; Công việc và địa điểm làm việc; Thời hạn của HĐLĐ;
Mức lương, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các
khoản bổ sung khác; Chế độ nâng bậc, nâng lương; Thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi; Trang bị bảo hộ cho NLĐ; Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế;
Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề. Tuy nhiên, khi thỏa
31
thuận các bên cần lưu ý những hạn chế pháp lý dành riêng cho người lao động
chưa thành niên như: thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi phải hợp lý, tránh
các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm mà pháp luật cấm,...
Về thời hạn của HĐLĐ, theo Điều 22 BLLĐ thì hiện nay HĐLĐ được
phân ra ba loại: HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn,
HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12
tháng. Việc phân loại này nhằm mục đích bảo vệ NLĐ trước sức ép quá lớn
của thị trường lao động, đảm bảo cho họ có thể gắn bó với công việc trong
một thời gian nhất định.
Về hiệu lực của HĐLĐ, Điều 25 BLLĐ 2012 quy định HĐLĐ có hiệu
lực kể từ ngày các bên giao kết trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác. Về vấn đề xử lý HĐLĐ vô hiệu được quy
định và hướng dẫn chi tiết tại Nghị định 44/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 05
năm 2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của BLLĐ về HĐLĐ và
Thông tư số 30/2013/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 44/2013/NĐ-CP. Cụ thể: Tại Điều 10 Nghị định 44/2013/NĐ-
CP, trong trường hợp HĐLĐ vô hiệu có tiền lương thấp hơn so với quy định
của pháp luật về lao động, nội quy lao động, thỏa ước lao động tập thể đang
áp dụng thì hai bên thỏa thuận lại theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
NSDLĐ có trách nhiệm hoàn trả phần chênh lệch giữa tiền lương đã thỏa
thuận với tiền lương trong hợp đồng lao động vô hiệu theo thời gian thực tế
làm việc của người lao động nhưng tối đa không quá 12 tháng. Mức hoàn trả
phần chênh lệch giữa tiền lương đã thỏa thuận với tiền lương trong HĐLĐ vô
hiệu được tính theo công thức: MHT = (MTL2 - MTL1) x t quy định tại Điều 13
Thông tư 30/2013/NĐ-CP. Điều này giúp NSDLĐ và NLĐ chưa thành niên
có căn cứ xác định và tính toán mức độ chênh lệch để đền bù tổn hại và dễ
dàng hơn trong việc đưa ra phương hướng giải quyết giữa các bên. Ngoài ra,
32
Nghị định 44/2013/NĐ-CP và Thông tư 30/2013/NĐ-CP cũng có quy định
chi tiết đối với từng trường hợp như: HĐLĐ vô hiệu toàn bộ do người ký kết
hợp đồng lao động không đúng thẩm quyền; Trách nhiệm của người sử dụng
lao động trong trường hợp không giao kết được hợp đồng lao động mới đối
với người lao động khi hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ do công việc bị
pháp luật cấm; Quyền và lợi ích của người lao động đối với thời gian người
lao động làm việc theo hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ cho đến
khi giao kết hợp đồng lao động mới. Như vậy, có thể thấy pháp luật đã rất coi
trọng những vấn đề pháp lý xoay quanh HĐLĐ vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho NLĐ nói chung và lao động chưa thành niên nói riêng.
Tuy vậy, đối với hiệu lực của HĐLĐ và việc xử lý HĐLĐ vô hiệu của
lao động chưa thành niên vẫn còn tồn tại nhiều nút thắt chưa được gỡ bỏ. Cụ
thể: Pháp luật quy định người lao động từ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi không
được trực tiếp giao kết HĐLĐ mà phải thông qua người đại diện theo pháp
luật; người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi giao kết HĐLĐ phải
có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Như vậy, sẽ rất
nhiều trường hợp khó xử lý xảy ra liên quan đến độ tuổi người lao động và
thời hạn của HĐLĐ. Ví dụ: Người đại diện theo pháp luật của người lao động
ký kết một HĐLĐ có thời hạn 03 năm khi người lao động đủ 14 tuổi. Nhưng
một năm sau, người lao động bấy giờ đã đủ 15 tuổi và được phép tự mình ký
kết các HĐLĐ theo ý muốn trong khi chỉ cần phải thông qua sự đồng ý bằng
văn bản của người đại diện theo pháp luật. Hay thậm chí nhiều trường hợp
chưa hết thời hạn HĐLĐ nhưng người lao động đã đủ 18 tuổi và được trực
tiếp ký kết các HĐLĐ cũng như tham gia vào nhiều công việc mà lao động
chưa thành niên không được phép làm. Không ai có thể đảm bảo lao động
chưa thành niên còn mong muốn tiếp tục công việc cũ, HĐLĐ cũ trong khi họ
đã ở một mốc tuổi mới đánh dấu việc họ có nhiều sự lựa chọn trong công việc
33
cũng như ít bị hạn chế về mặt pháp luật hơn. Vậy họ có được phép chấm dứt
HĐLĐ hiện tại? HĐLĐ đó có vô hiệu không? Việc đền bù thiệt hại cho
NSDLĐ và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật cũng như lao động
chưa thành niên là gì? Đây có lẽ là những câu hỏi rất cần có lời giải đáp về
mặt pháp lý trong thời gian tới của pháp luật lao động nói chung và pháp luật
về bảo vệ người lao động chưa thành niên nói riêng.
2.1.2 Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên
Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên là một trong những
vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Bởi lẽ họ đang trong giai đoạn hoàn
thiện về thể lực, trí lực và nhân cách. Do đó, chỉ khi họ được bảo đảm về mặt
sức khỏe, có thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cũng như được làm việc
trong môi trường an toàn thì mới có thể có phát triển đầy đủ, toàn diện. Điều
152 BLLĐ về Chăm sóc sức khỏe cho người lao động, trong đó có người lao
động chưa thành niên, quy định: NSDLĐ phải căn cứ vào tiêu chuẩn sức khỏe
quy định cho từng loại công việc để tuyển dụng và sắp xếp lao động. Song song
với đó, hàng năm NSDLĐ còn phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho NLĐ,
kể cả người học nghề, tập nghề. Các đối tượng thuộc nhóm riêng như lao động
nữ, người làm công việc nặng nhọc, độc hại, NLĐ là người khuyết tật, NLĐ
chưa thành niên, NLĐ cao tuổi phải được khám sức khỏe ít nhất 06 tháng 01 lần.
Trong quá trình lao động, những nội dung, biện pháp để đảm bảo sức khỏe của
người lao động chưa thành niên cũng được quy định khá đầy đủ.
Thứ nhất, về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi:
Theo khoản 2 và khoản 3 Điều 163 BLLĐ: Thời giờ làm việc của người
lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không được quá 08
giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần. Nhóm này được phép làm thêm
giờ, làm việc vào ban đêm trong một số nghề và công việc theo quy định của
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội. Thời giờ làm việc của người dưới 15
34
tuổi không được quá 04 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần. Nhóm này
không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Đây là quy định
cần thiết nhằm giúp họ có thời gian nghỉ ngơi, khôi phục sức lao động và đảm
bảo cho sự phát triển bình thường về thể lực và trí lực.
Thứ hai, về an toàn lao động, vệ sinh lao động:
Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, pháp luật hiện hành đã có những
quy định khá sát sao, hợp lý về trách nhiệm của NSDLĐ về an toàn lao động,
vệ sinh lao động; biện pháp bảo vệ sức khỏe NLĐ cũng như những ngành
nghề, công việc không được sử dụng lao động chưa thành niên. Trong đó:
Về trách nhiệm của NSDLĐ cũng như các biện pháp bảo vệ sức khỏe
NLĐ tại nơi làm việc được quy định tại Khoản 1 Điều 138 BLLĐ như sau:
Phải bảo đảm nơi làm việc đạt yêu cầu về không gian, độ thoáng, bụi,
hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung, các yếu tố có hại
khác được quy định tại các quy chuẩn kỹ thuật liên quan và các yếu tố đó phải
được định kỳ kiểm tra, đo lường; Bảo đảm các điều kiện ATLĐ, VSLĐ đối
với máy, thiết bị, nhà xưởng đạt các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ATLĐ,
VSLĐ hoặc đạt các tiêu chuẩn về ATLĐ, VSLĐ tại nơi làm việc đã được
công bố, áp dụng; Thường xuyên kiểm tra, đánh giá các yếu tố nguy hiểm, có
hại tại nơi làm việc của cơ sở để đề ra các biện pháp loại trừ, giảm thiểu các
mối nguy hiểm, có hại, cải thiện điều kiện lao động, chăm sóc sức khỏe cho
người lao động; Định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy, thiết bị, nhà xưởng, kho
tàng; Tại các vị trí dễ đọc, dễ thấy tại nơi làm việc phải có bảng chỉ dẫn về
ATLĐ, VSLĐ đối với máy, thiết bị, nơi làm việc; Khi xây dựng kế hoạch và
thực hiện các hoạt động bảo đảm ATLĐ, VSLĐ cần lấy ý kiến tổ chức đại
diện tập thể lao động tại cơ sở.
35
Như vậy, NSDLĐ phải căn cứ vào các tiêu chuẩn, quy phạm ATLĐ,
VSLĐ do cơ quan nhà nước ban hành để xây dựng một quy trình đảm bảo
ATLĐ – VSLĐ cho từng loại máy, thiết bị, vật tư và nội quy an toàn, vệ sinh
nơi làm việc đồng thời tổ chức hướng dẫn, huấn luyện các tiêu chuẩn, quy
định, biện pháp ATLĐ, VSLĐ cho NLĐ trước khi nhận NLĐ vào làm việc.
Trong khi đó, tại Khoản 2 Điều 138 BLLĐ 2012, pháp luật cũng quy
định về nghĩa vụ của NLĐ trong việc đảm bảo ATLĐ, VSLĐ như sau:
Chấp hành các quy định, quy trình, nội quy về ATLĐ, VSLĐ có liên
quan đến công việc, nhiệm vụ được giao; Sử dụng và bảo quản các phương
tiện bảo vệ cá nhân đã được trang cấp; các thiết bị ATLĐ, VSLĐ nơi làm
việc; Báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ gây tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, gây độc hại hoặc sự cố nguy hiểm, tham gia
cấp cứu và khắc phục hậu quả tai nạn lao động khi có lệnh của người sử dụng
lao động.
Nhìn chung, pháp luật hiện hành đã có những quy định khá đầy đủ về
trách nhiệm của NSDLĐ và NLĐ trong việc giữ gìn ATLĐ, VSLĐ cũng như
các biện pháp đảm bảo ATLĐ, VSLĐ tại nơi làm việc. Tuy nhiên, đây đều là
những quy định dành cho NLĐ nói chung, chưa có các quy định riêng dành
cho đối tượng là người lao động chưa thành niên, trong khi đây là nhóm đối
tượng có những đặc điểm riêng cần lưu ý khi thể lực và trí lực của họ chưa
phát triển; kinh nghiệm, kỹ năng tự bảo vệ chính mình còn non kém khi có
những rủi ro phát sinh trong quá trình làm việc.
Những quy định này cũng được chi tiết hóa tại Luật an toàn, vệ sinh lao
động năm 2015. Trong đó, có quy định rõ hơn quyền, trách nhiệm của mỗi tổ
chức, cá nhân liên quan: NSDLĐ, các tổ chức công đoàn, Mặt trận tổ quốc,
Hội nông dân,...; hướng dẫn chi tiết các biện pháp phòng, chống các yếu tố
nguy hiểm, gây hại cho NLĐ cũng như nội quy, quy trình và các biện pháp
36
bảo đảm ATLĐ, VSLĐ tại nơi làm việc; Các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy
ra cũng như chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho NLĐ.
Trên thực tế, theo thống kê tại Báo cáo khảo sát năm 2018 của Bộ
LĐTB&XH, trong số 1,75 triệu lao động chưa thành niên thì có đến 1,3 triệu
em (chiếm 75% ) có nguy cơ làm việc trong các nghề bị cấm sử dụng lao động
chưa thành niên hoặc điều kiện lao động độc hại. Thời gian làm việc bình quân
của nhóm đối tượng này là 42 giờ/tuần. Khi có sự thanh tra, kiểm tra đột xuất
của cơ quan chức năng, phát hiện nhiều người lao động chưa thành niên không
có đồ bảo hộ lao động, hoặc không được tập huấn, hướng dẫn về an toàn lao
động, vệ sinh lao động,...
Về chế độ khám sức khỏe, BLLĐ và một số văn bản pháp luật liên quan
có quy định NSDLĐ phải tổ chức khám sức khỏe cho người lao động chưa
thành niên khi tuyển dụng, khám sức khỏe định kỳ và lập sổ theo dõi riêng.
Quy định này là cần thiết nhằm xác định khả năng lao động để sắp xếp công
việc phù hợp cho họ, cũng như phát hiện, hỗ trợ kịp thời các trường hợp mắc
bệnh. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít doanh nghiệp chú trọng việc khám chữa
bệnh và theo dõi sức khỏe định kỳ cho người lao động chưa thành niên.
Như vậy, có thể thấy pháp luật đã quy định khá rõ về các biện pháp
nhằm bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên: quy định về thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao
động; quy định về chế độ khám và theo dõi sức khỏe. Tuy nhiên, trên thực tế
rất ít NSDLĐ áp dụng đầy đủ, hiệu quả các chính sách, biện pháp này. Cần
thiết phải có những chế tài nghiêm khắc với những doanh nghiệp vi phạm,
đồng thời kịp thời chỉnh lý, bổ sung các quy định pháp luật sâu sát, cụ thể hơn
nữa đối với nhóm đối tượng là người lao động chưa thành niên.
37
2.1.3 Bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao động chưa thành niên
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là tại Chương VI BLLĐ
2012 và Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn BLLĐ, tiền lương và thu nhập
của NLĐ được quy định khá chi tiết. Trong đó:
Về nguyên tắc, NSDLĐ phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân
biết giới tính đối với NLĐ làm công việc có giá trị như nhau. Mức lương của
NLĐ không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.
NSDLĐ được lựa chọn hình thức trả lương cho phù hợp như: trả lương
theo thời gian, trả lương theo sản phẩm hoặc trả lương theo hình thức giao
khoán. Mức lương cho người lao động chưa thành niên chủ yếu dựa trên sự
thỏa thuận và giá trị công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Về cơ
bản, các đơn vị sử dụng lao động chưa thành niên căn cứ vào đặc điểm công
việc của họ để đưa ra mức lương phù hợp với sức lao động mà họ đã bỏ ra,
đảm bảo được mức lương tối thiểu theo quy định của pháp luật và trả lương
đầy đủ, đúng hạn để giúp họ ổn định cuộc sống, đảm bảo sinh hoạt cho người
lao động chưa thành niên. Như vậy, pháp luật về chế độ tiền lương đã có sự
đảm bảo công bằng cho người lao động chưa thành niên.
Hiện nay, tuy pháp luật lao động đã có quy định mức lương tối thiểu
chung cho người lao động nhưng lại chưa có quy định riêng về tiền lương cho
người lao động chưa thành niên, dẫn đến việc một số NSDLĐ lợi dụng kẽ hở
đó để trả mức lương không tương xứng với công sức người lao động chưa
thành niên bỏ ra. Mặt khác, do lao động chưa thành niên chưa phát triển đầy
đủ về thể lực, trí lực, chưa nhận thức và tự bảo vệ được đầy đủ quyền lợi của
bản thân nên họ thường không dám đưa ra quan điểm, sợ hãi, rụt rè, không
dám phản kháng khi NSDLĐ trả lương thấp, giữ lương, chậm trả lương, bớt
xén tiền lương,... của mình.
38
Thêm vào đó, việc nhiều NSDLĐ lợi dụng sự thiếu hiểu biết về pháp
luật của người lao động chưa thành niên cùng những kẽ hở trong quản lý của
các cơ quan chức năng để trốn tránh việc ký kết hợp đồng lao động với người
lao động chưa thành niên, khiến cho các quyền lợi hợp pháp nói chung và
quyền về thu nhập, tiền lương của họ không được thống kê, không được công
khai, minh bạch, không được đảm bảo áp dụng trên thực tế.
2.1.4 Bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên
Trên thực tế, việc bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa
thành niên cũng bao gồm các quy định về việc làm, sức khỏe cũng như bảo vệ
mức thu nhập và tiền lương cho người lao động chưa thành niên. Ngoài các
nhóm quy định này, còn một số nhóm quy định về quyền nhân thân rất dễ bị
ảnh hưởng trong quá trình làm việc của người lao động chưa thành niên:
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền sống, quyền được bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín; quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình.
Thứ nhất, quyền của cá nhân đối với hình ảnh:
Theo BLDS, cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng
hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Hình ảnh được sử dụng từ
các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể
thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại
đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Việc sử dụng hình ảnh
của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình
ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Như vậy, việc NSDLĐ sử dụng hình ảnh người lao động chưa thành niên
nhằm mục đích quảng bá thương hiệu cho doanh nghiệp, hoặc bất kỳ một mục
đích nào khác, đều phải được sự đồng ý của người lao động chưa thành niên.
39
Trong trường hợp sử dụng hình ảnh của người lao động chưa thành niên vì
mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho họ, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác. Đây là những trường hợp rất phổ biến trong hoạt động nghệ
thuật, hoạt động thi đấu thể thao, hội nghị, ... Do sản phẩm mà người lao động
chưa thành niên làm việc trong các lĩnh vực này đều mang giá trị tinh thần,
giá trị chất xám lớn nên thường được sử dụng làm mục đích quảng cáo trực
tiếp hoặc gián tiếp hình ảnh, thương hiệu cho doanh nghiệp.
Thứ hai, quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức
khỏe, thân thể
Theo BLDS, cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước
đoạt tính mạng trái luật. Khi phát hiện người lao động chưa thành niên bị tai
nạn lao động, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì NSDLĐ phải có trách
nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa
ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất; cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của
pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh. Ngoài ra, NSDLĐ còn phải lập sổ theo
dõi và có kế hoạch tổ chức cho người lao động chưa thành niên được khám
sức khỏe định kỳ ít nhất 06 tháng một lần để đảm bảo sức khỏe cho họ.
Thứ ba, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín:
Theo BLDS, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm
phạm và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ
thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh
dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố thông tin đó là không đúng. Quy định này nhằm bảo đảm cho các cá
40
nhân tự mình bảo vệ quyền của bản thân khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm
Đây là quyền được quy định chung cho mọi đối tượng, bao gồm cả
người lao động chưa thành niên. Theo đó, người lao động chưa thành niên có
quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân
phẩm, uy tín của mình. Tuy trên thực tế, vì đa phần các em còn nhỏ, những
mâu thuẫn, va chạm xảy ra trong xã hội liên quan đến danh dự, nhân phẩm,
uy tín việc rất ít khi xảy ra nhưng không phải là không có. Do vậy, việc đề ra
các biện pháp nhằm bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhóm đối tượng
này là điều rất cần thiết. Nhiều doanh nghiệp đã thể hiện qua các quy định
trong nội quy công ty: Không gây mất đoàn kết, không xúc phạm danh dự,
nhân phẩm của đồng nghiệp,...
Thứ tư, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình:
Pháp luật dân sự quy định: đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu giữ, sử
dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải
được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin
liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ
trường hợp luật có quy định khác.
Việc lợi dụng bí mật cá nhân hay các thông tin về đời tư người khác để
kiếm lợi không còn là việc hiếm, đặc biệt là đối với các đối tượng là người lao
động chưa thành niên làm việc trong các lĩnh vực nghệ thuật hay các hoạt
động thể thao. Đã có những trường hợp sử dụng bí mật nhạy cảm của người
lao động chưa thành niên, gây sức ép đối với họ để tống tiền hoặc buộc họ
phải làm những việc mà họ không mong muốn. Trong khi nhóm đối tượng
này chưa nhận thức được hết nguy hiểm tiềm tàng, vì e dè, sợ hãi mà không
dám thổ lộ hay đòi hỏi sự bảo vệ từ người lớn. Chính vì vậy, việc đề ra các
41
biện pháp bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người
lao động chưa thành niên là cần thiết và hợp lý, để họ yên tâm làm việc và
phát triển trong môi trường lao động, sinh hoạt an toàn.
Như vậy, có thể thấy, các quyền nhân thân của cá nhân có phạm vi rộng,
được quy định chủ yếu trong pháp luật dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay
còn khá chung chung, chưa có những quy định cụ thể và sát sao dành riêng
cho nhóm đối tượng là người lao động chưa thành niên, trong khi đây là nhóm
đối tượng “non nớt”, “yếu thế” trong xã hội, rất cần có những biện pháp bảo
vệ chặt chẽ các quyền nhân thân của họ, để họ được lao động trong môi
trường làm việc an toàn, không ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện về thể
lực, trí lực và nhân cách.
2.1.5 Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động về bảo vệ người lao
động chưa thành niên
Thanh tra Bộ lao động – Thương binh và xã hội, thanh tra Sở lao động -
thương binh và xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về lao
động, bao gồm các nhiệm vụ chủ yếu: thanh tra việc chấp hành các quy định
pháp luật về lao động; Điều tra tai nạn lao động và những vi phạm an toàn lao
động, vệ sinh lao động; Tham gia hướng dẫn áp dụng hệ thống tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật về điều kiện lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao
động; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động theo quy định của pháp luật;
Xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi
phạm pháp luật về lao động. Đối với việc thanh tra an toàn lao động, vệ sinh
lao động trong các lĩnh vực: phóng xạ, thăm dò, khai thác dầu khí, các
phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường hàng không và
các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang do các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh
vực đó thực hiện với sự phối hợp của thanh tra chuyên ngành về lao động.
42
Khi tiến hành thanh tra, thanh tra có quyền xử lý các vi phạm theo thẩm
quyền và kiến nghị các cơ quan chức năng liên quan xử lý các vi phạm pháp
luật lao động. Cơ sở pháp lý để xử lý các vi phạm là quy định về các hành vi
vi phạm và mức xử phạt. Các hành vi vi phạm chủ yếu xâm phạm đến quyền,
lợi ích, danh dự, nhân phẩm hoặc an toàn sức khỏe của người lao động chưa
thành niên. Cụ thể đó là các hành vi vi phạm về việc làm, về sức khỏe, về thu
nhập và tiền lương, về quyền nhân thân của người lao động chưa thành niên.
Ví dụ: sử dụng người lao động chưa thành niên làm các công việc độc hại,
nặng nhọc; kéo dài thời gian thử việc; lợi dụng danh nghĩa dạy nghề để bóc
lột sức lao động; không trả lương đủ, đúng thời hạn hay thậm chí nhiều
trường hợp sử dụng người lao động dưới 15 tuổi mà không thông qua sự ký
kết HĐLĐ với người đại diện theo pháp luật;...
Về mức xử phạt được quy định tại Điều 239 BLLĐ 2012 và được chi tiết
hóa tại Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01 tháng 03 năm 2020 quy định xử
phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Theo đó, căn cứ vào
tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm hành chính thì bị xử phạt theo hình thức xử phạt chính là cảnh cáo, phạt
tiền và còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung như:
tước quyền sử dụng hoặc tịch thu giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động;
tịch thu giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động động, tịch thu chứng chỉ
kiểm định viên, đình chỉ hoạt động huấn luyện, trục xuất người lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam,.. Ngoài ra, còn có thể bị áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả quy định tại Điều 4 Nghị định này: buộc trả lại tiền, trả lại
bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ đã giữ của NLĐ, buộc giao
kết HĐLĐ bằng văn bản,...
43
Nghị định 28/2020/NĐ-CP cũng phân loại và quy định rất rõ về các hành
vi vi phạm, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng
hành vi vi phạm trong lĩnh vực lao động tại Chương II: Vi phạm quy định về
dịch vụ việc làm; Vi phạm quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
Vi phạm quy định về tiền lương; Vi phạm quy định về giao kết hợp đồng lao
động;... Trong đó, nhóm vi phạm quy định về lao động chưa thành niên được
quy định tại Điều 28 Nghị định 28/2020/NĐ-CP, quy định mức phạt tiền đối
với một số hành vi vi phạm quy định về lao động chưa thành niên như: không
lập sổ theo dõi riêng hoặc có lập sổ theo dõi riêng nhưng ghi không đầy đủ;
sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi mà không ký kết HĐLĐ với
người đại diện theo pháp luật của người đó hoặc không được sự đồng ý của
người đó; sử dụng lao động chưa thành niên làm việc quá thời giờ làm việc,
làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm,.. NSDLĐ có thể bị phạt tiền và truy cứu
trách nhiệm hình sự nếu sử dụng lao động chưa thành niên làm những công
việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,... Như vậy, có thể thấy BLLĐ 2012 và
các văn bản pháp luật liên quan, đặc biệt là Nghị định 28/2020/NĐ-CP đã quy
định khá đầy đủ về vấn đề thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về
lao động chưa thành niên.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập. Do nguồn
nhân lực mỏng nên công tác thanh tra hiện nay vẫn còn khá chung chung, đa
phần chỉ dựa trên tình hình của NLĐ nói chung hoặc phân thành lao động
nam và lao động nữ để tiến hành thanh tra các vấn đề liên quan như tiền
lương, bảo hiểm xã hội, ATLĐ, VSLĐ mà rất ít có các cuộc thanh tra tiến
hành nhằm phát hiện vi phạm đối với việc sử dụng người lao động chưa thành
niên. Trong khi lao động chưa thành niên thường không đủ dũng cảm hoặc
không đủ hiểu biết để tự khiếu nại, tố cáo nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chính bản thân mình. Điều này khiến cho các vụ việc như bóc lột
44
sức lao động của người chưa thành niên, bắt ép họ làm những công việc nguy
hiểm, độc hại hay đơn giản là không ký HĐLĐ với lao động chưa thành niên
hoặc người đại diện theo pháp luật của họ,... diễn ra tương đối phổ biến nhưng
lại khó bị phát hiện, xử lý.
2.2 Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành
về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên
Theo các kết quả Báo cáo và thống kê của Sở lao động thương binh – xã
hội tỉnh Thái Nguyên năm 2019, thanh thiếu niên trên địa bàn tỉnh đang phải
đối mặt với nhiều thử thách nhằm thích ứng với môi trường kinh tế- xã hội
đang ngày một biến chuyển. Đặc biệt, khi Thái Nguyên là một tỉnh có nhiều
thanh, thiếu niên là người dân tộc thiểu số tại các huyện vùng sâu, vùng xa.
Họ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách hơn do điều kiện kinh tế - xã
hội, điều kiện địa hình, địa lý không thuận lợi, gây cản trở đến việc học hành
và việc làm. Mặt khác, trong tư duy của đa phần những bậc làm cha, làm mẹ,
việc người chưa thành niên tham gia lao động là việc nên làm, góp phần giúp
đỡ gia đình và làm quen với nghề truyền thống, phát triển những kỹ năng cần
thiết, ... Chính vì vậy, song song với nhiều thành quả tích cực đạt được, công
tác áp dụng pháp luật và bảo vệ người lao động chưa thành niên trên thực tiễn
tại tỉnh Thái Nguyên vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn, bất cập.
2.2.1 Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên
Phân tích từ các kết quả điều tra từ Sở lao động, thương binh và xã hội
Thái Nguyên từ năm 2017 đến năm 2019 cũng cho thấy: 79,5% thanh thiếu
niên trong các hộ gia đình ở thành phố sống trong hoàn cảnh kinh tế cao; tỉ lệ
này ở các thị trấn là 45% và giảm còn 12,3 % ở các nông thôn. Thậm chí tại
các khu vực vùng sâu, vùng xa của tỉnh, đặc biệt là tại các khu vực tập trung
đông người dân tộc thiểu số hoặc địa hình giao thông khó khăn thì tỉ lệ này
chỉ còn 5%. Kết quả này cũng cho thấy, tình trạng đói nghèo là nguyên nhân
45
chính dẫn đến nhu cầu việc làm tăng cao của người lao động chưa thành niên ở
khu vực nông thôn. Hoàn cảnh gia đình buộc họ phải ra đời bươn chải từ sớm để
nuôi sống bản thân và gia đình. Trên thực tế, có không ít việc làm phù hợp với
đối tượng là người lao động chưa thành niên ở địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Họ
có thể lựa chọn làm việc phụ giúp gia đình, làm việc trong các làng nghề
truyền thống hoặc hộ kinh doanh nhỏ lẻ như: sản xuất chè, sản xuất đậu
phụ,.... Nhóm này chiếm khoảng 35,8%, chủ yếu là người lao động chưa
thành niên trong độ tuổi từ 13 – 16 tuổi. Một số người rời bỏ quê nhà để đến
thành phố, thị trấn làm các công việc như chạy bàn, lễ tân, trông xe, bốc vác
tại các bến xe, trông giữ trẻ nhỏ, đánh giày, bán báo,... Nhóm này có độ tuổi
trải dài trong khoảng từ 10 đến dưới 18 tuổi, chiếm khoảng 50%.
Như vậy, có thể thấy, các loại công việc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
khá đa dạng, tỉ lệ cung – cầu lớn do đó lao động chưa thành niên khá dễ dàng
lựa chọn cho mình một công việc phù hợp với sức khỏe, khả năng, trình độ.
Tuy nhiên, những công việc này đa phần không nằm trong danh mục các
ngành nghề được phép sử dụng lao động chưa thành niên được quản lý của
Bộ lao động – thương binh và xã hội, do đó NSDLĐ không biết hoặc có thể
cố tình bóc lột sức lao động, trả công rẻ mạt cũng như bắt ép lao động chưa
thành niên làm những công việc quá sức của họ. Rất nhiều người trong số họ
không được ký kết HĐLĐ và không hề biết bản thân xứng đáng được hưởng
những quyền lợi gì. Thanh tra lao động, các tổ chức công đoàn cơ sở,...cũng
vì thế mà khó có thể nắm bắt quản lý và giải quyết tình trạng này.
2.2.2 Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên
Vấn đề việc làm đa dạng, số lượng người lao động chưa thành niên tham
gia lao động lớn trong khi chưa thể quản lý sát sao là một trong những nguyên
nhân dẫn đến thực trạng sức khỏe của người lao động chưa thành niên không
được bảo vệ hiệu quả và đúng mức. Nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ hoặc ở vùng
sâu, vùng xa khó kiểm soát, thường sử dụng “chui” lao động là người chưa
46
thành niên trong điều kiện không đảm bảo về an toàn lao động, vệ sinh lao
động. Do đó, đã không ít các trường hợp tai nạn lao động thương tâm xảy ra.
Trường hợp đuối nước của em T.N.N tại xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, tỉnh
Thái Nguyên vào năm 2016 là một trong những ví dụ rất điển hình. Em T.N.N,
tại thời điểm đó mới chỉ 14 tuổi, được cha mẹ là người bán nước trong khu
vực nhờ dẫn khách đi tham quan Thác mưa rơi – một điểm du lịch địa phương
đẹp nhưng rất nguy hiểm vì mưa lũ thường đổ về bất chợt. Em T.N.N không
có bất kỳ đồ bảo hộ, phao bơi,...trên người. Do đó, em đã bị lũ cuốn trôi ngay
sau khi kết thúc việc “dẫn tour” mà cha mẹ vừa giao cho.
Không chỉ ở vùng núi, vùng sâu vùng xa mà thậm chí tại các khu vực có
điều kiện kinh tế - xã hội phát triển vượt bậc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
cũng có những trường hợp lao động chưa thành niên không được đảm bảo về
sức khỏe khi tham gia lao động. Điều này xảy ra khi chất lượng cuộc sống
đang ngày càng được nâng cao. Việc phát hiện, ươm mầm và cho những tài
năng nhí học tập, biểu diễn nghệ thuật, năng khiếu, hoạt động thể dục thể thao từ
sớm là khá phổ biến, đặc biệt là tại thành phố Thái Nguyên, thành phố Sông
Công, thị xã Phổ Yên và một vài thị trấn có mức thu nhập bình quân cao. Nhóm
này chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với nhóm còn lại và nhìn chung được gia
đình, xã hội quan tâm bảo vệ sát sao hơn khi có những Trung tâm bồi dưỡng
năng khiếu được thành lập và hoạt động theo sự quản lý của Nhà nước. Tuy vậy,
bản thân gia đình của nhóm người này và chính những người tham gia đào tạo,
quản lý các em cũng không nhận thức rõ các biện pháp bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho nhóm đối tượng này. Chính vì vậy mà vào năm 2010, đã có trường
hợp em V.N.T, do tập luyện cho buổi thi năng khiếu nhiều ngày liên tiếp với
cường độ 12 tiếng/ngày trong sự thúc ép của giáo viên và phụ huynh, dẫn đến
chấn thương. Em đã phải điều trị và nghỉ dưỡng hơn hai năm mới có thể quay
lại trường học.
47
Những trường hợp “tai nạn lao động” đáng tiếc này đặt ra câu hỏi: Việc
đưa một bên thứ ba – cũng chính là người đại diện theo pháp luật của lao
động chưa thành niên (thông thường là cha mẹ các em) nhằm bảo vệ tốt hơn
quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này khi tham gia lao động đã thực sự
hiệu quả chưa khi chính “bên được cho là bảo vệ” này đã nhiều lần đẩy các
em vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe như các trường hợp
trên. Nguyên nhân có thể do sự thiếu hiểu biết của các bậc làm cha, làm mẹ,
sự hoặc do sự tham lợi ích trước mắt mà không màng đến sức khỏe của con
cái của nhiều bậc phụ huynh vô lương tâm, nhưng không thể phủ nhận, pháp
luật hiện nay chưa đặt ra trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật cho
người lao động chưa thành niên trong bất cứ trường hợp nào. Điều này thật sự
vô cùng nguy hiểm. Bởi rất có thể, với lỗ hổng pháp lý này, lao động chưa
thành niên sẽ đứng trước nguy cơ trở thành “công cụ kiếm tiền” của người lớn
khi nào không hay.
2.2.3 Bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao động chưa thành niên
Như trên đã trình bày, địa bàn tỉnh Thái Nguyên có lượng công việc đa
dạng và phù hợp với lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, những công việc
này đa phần có mức lương rất thấp. Rất ít người lao động chưa thành niên
may mắn được nhận vào các doanh nghiệp sản xuất lớn, có sự bảo vệ khá
toàn diện từ NSDLĐ. Các đơn vị tự nhân do vốn nhỏ nên cũng không có khả
năng tuyển dụng nhiều người lao động thành niên có trình độ tay nghề cao với
mức lương tương xứng. Do vậy, họ chấp nhận tuyển dụng một số lao động là
người chưa thành niên để giảm bớt áp lực về kinh tế. Trước đây, rất nhiều tổ
chức kinh tế có quy mô khá lớn và uy tín như công ty may TNG, HTX chè
Tân Cương,...đồng ý tuyển dụng lao động chưa thành niên và có những chế
độ đãi ngộ phù hợp với quy định của pháp luật. Nhưng tình trạng này chỉ kéo
dài được một thời gian ngắn do phía công ty nhận thấy có những áp lực quá
lớn. Chi phí đào tạo cao, thời gian đào tạo kéo dài trong khi vẫn phải đảm bảo
48
về nhiều mặt cho người lao động chưa thành niên: mức thu nhập, thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi,... Đây cũng chính là khó khăn không chỉ của riêng
lao động chưa thành niên.
2.2.4 Bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên
Không riêng địa bàn tỉnh Thái Nguyên mà rất nhiều địa phương trên cả
nước chưa có sự đánh giá đúng mức tầm quan trọng trong việc bảo vệ các
quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên. Đa phần người dân cho
rằng quyền nhân thân chỉ gói gọn trong các quyền về tính mạng, sức khỏe,...
mà không hiểu rõ các quyền đặc biệt quan trọng như: quyền cá nhân đối với
hình ảnh, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín,... Chính vì thế, việc
tự do công khai nhiều thông tin cá nhân của lao động chưa thành niên đã ảnh
hưởng xấu đến tinh thần, thậm chí khiến các em đau khổ đến mức tự hủy hoại
sức khỏe, tính mạng của bản thân. Trường hợp em L.T.V là một ví dụ. Năm
2009, trong khi làm thuê cho một xưởng sản xuất chè tại địa phương, em V đã
bị chính người chủ và cũng là anh họ của mình cưỡng hiếp nhiều lần khi em
mới chỉ 15 tuổi. Người này còn nhẫn tâm quay video và dùng những hình ảnh
đó như một công cụ đe dọa để khiến V im lặng và tiếp tục chịu sự làm nhục
của hắn. Sau khi phát hiện, cha mẹ V đã không thể kiềm chế để giải quyết kín
đáo sự việc, khiến cho V rất xấu hổ trước hàng xóm láng giềng. Em không thể
tiếp tục đi học và đã tự tử chỉ sau hơn một tháng sự việc được công khai. Vụ
việc này khi đó đã tốn rất nhiều bút mực của báo đài, nhưng sau đó lại rất ít
người đưa ra được nguyên nhân sâu xa và hướng xử lý về mặt luật pháp để
sau này không còn xảy ra tình trạng đau lòng như trường hợp của V nữa.
2.2.5 Thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao động về bảo vệ người lao
động chưa thành niên
Địa hình dài rộng, hiểm trở với nhiều núi đá cùng mật độ dân cư thưa
thớt trong khi nguồn nhân lực lại mỏng và chưa được chuyên môn hóa cao
49
chính là lý do khiến công tác quản lý trên mọi mặt, không riêng gì công tác
thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa
thành niên gặp khó khăn. Đặc biệt, Thái Nguyên lại là một tỉnh với nhiều hộ
kinh doanh gia đình, xưởng sản xuất nhỏ lẻ tự phát, đa phần không đăng ký
với cơ quan đăng ký kinh doanh. Khi làm việc tại các đơn vị tư nhân này thì
người lao động chưa thành niên khó đảm bảo được các chế độ cũng như
quyền lợi của mình vì khả năng kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan quan lý
lao động cũng khó khăn hơn. Khi tập trung rà soát và đề ra mức xử phạt hành
chính đối với nhiều doanh nghiệp trên địa bàn về việc sử dụng người lao động
chưa thành niên trái quy định hoặc không đảm bảo được các quyền và lợi ích
hợp pháp cho họ thì những doanh nghiệp này tiến hành ngừng sử dụng lao
động chưa thành niên. Đây chính là mặt trái khiến cho công tác Thanh tra lao
động và xử lý vi phạm tại tỉnh Thái Nguyên của Sở lao động – thương binh và
xã hội gặp rất nhiều khó khăn.
Thực tế trên đã cho thấy, cho dù đã áp dụng nhiều biện pháp tuyên
truyền, phổ cập kiến thức pháp luật về bảo vệ sức khỏe, việc làm, thu nhập
cũng như các quyền cơ bản khác của người lao động chưa thành niên đến
NSDLĐ và các bậc làm cha, làm mẹ nhưng vấn nạn lạm dụng sức lao động
của người lao động chưa thành niên cũng như việc các quyền và lợi ích của
họ bị xâm phạm vẫn còn diễn ra rất phổ biến trên địa bàn toàn tỉnh Thái
Nguyên mà chưa có biện pháp khả dĩ giải quyết dứt điểm, hiệu quả.
50
Tiểu kết chương 2
Nhìn chung, pháp luật lao động nước ta đã có những quy định khá
thống nhất với các quy định về bảo vệ người lao động chưa thành niên trên
thế giới đồng thời cũng có một số điều chỉnh nhằm phù hợp hơn với điều kiện
kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Việc quy định các nhóm quy định điều chỉnh
một số vấn đề quan trọng, cấp thiết đối với người lao động chưa thành niên
được đề cập trên đây: Nhóm quy định về bảo vệ việc làm cho người lao động
chưa thành niên; Nhóm các quy định về bảo vệ sức khỏe cho người lao động
chưa thành niên; Nhóm các quy định về bảo vệ tiền lương và thu nhập cho
người lao động chưa thành niên hay Nhóm các quy định về bảo vệ các quyền
nhân thân cho người lao động chưa thành niên là hết sức cần thiết.
Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên nói riêng đã thu được không ít thành tựu. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn
còn nhiều quy định có tính khả thi hoặc mức độ tuân thủ chưa cao, đặc biệt là
nhóm các quy định về bảo vệ sức khỏe và tiền lương, thu nhập cho người lao
động chưa thành niên. Điều này đặt ra nhu cầu cấp thiết cần phải hoàn thiện
quy định pháp luật về người lao động chưa thành niên nhằm hạn chế, khắc
phục những tồn tại của quy định hiện hành về bảo vệ người lao động chưa
thành niên.
51
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO
ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1. Các yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ
người lao động chưa thành niên
Pháp luật lao động hiện hành ngoài các quy định áp dụng cho tất cả
người lao động nói chung, đã chú trọng tới những quy định riêng áp dụng với
người lao động chưa thành niên. Các quy định riêng này đã hình thành một
hành lang pháp lý để điều chỉnh vấn đề người lao động chưa thành niên như
quy định về việc làm, học nghề, hợp đồng lao động, thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh lao động,... cũng như các quy định về
trách nhiệm của NSDLĐ. Các quy định trên đã được xây dựng và ban hành
trên cơ sở tiếp cận các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản. Tuy nhiên, như đã
phân tích thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật lao động về bảo vệ
người lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên
nói riêng, pháp luật nước ta hiện nay vẫn còn nhiều quy định chưa phù hợp,
chưa đầy đủ, chưa sâu sát hiệu quả hoặc thậm chí không được thực thi áp
dụng trên thực tế.
Vấn đề bảo vệ người lao động chưa thành niên cũng chưa nhận được
nhiều sự quan tâm của xã hội. Quá trình ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật về người lao động chưa thành niên hầu như chưa có sự khảo sát,
đánh giá thực tế, nhiều quy định chỉ mang tính phù hợp với các nguyên tắc
của pháp luật lao động quốc tế về mặt hình thức, chưa được cụ thể hay chưa
thường xuyên cập nhật, bổ sung mới. Điều này khiến thực trạng sử dụng lao
động chưa thành niên ở Việt Nam đang trở thành vấn đề đáng lo ngại. Người
lao động chưa thành niên phải làm những công việc nặng nhọc, thậm chí độc
52
hại, nguy hiểm, không phù hợp với sức khỏe, ảnh hưởng tiêu cực đến quá
trình phát triển, phải làm việc trong môi trường có ảnh hưởng xấu tới việc
hình thành nhân cách, các quyền và lợi ích bị xâm phạm nghiêm trọng,...
Để hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành
niên một cách hiệu quả và bền vững, cần bám sát vào các yêu cầu cơ bản sau:
3.1.1. Đảm bảo sự phát triển toàn diện của người lao động chưa thành niên
ở Việt Nam
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực,
nhân cách. Trong giai đoạn này, người chưa thành niên cần rất nhiều sự hỗ trợ
nhằm hoàn thiện quá trình phát triển, trở thành một người trưởng thành có thể
độc lập giao tiếp và tham gia các quan hệ bình đẳng trong xã hội. Việc tham
gia vào quá trình lao động sớm hơn các bạn đồng trang lứa cũng có nghĩa là
các em phải cắt xén thời gian đáng lẽ ra được học hành, vui chơi để làm việc
nuôi sống bản thân và gia đình. Gánh nặng và trách nhiệm đè nặng lên vai
nhóm đối tượng này khi họ chưa sẵn sàng. Do vậy, để cân bằng giữa nhu cầu
cuộc sống và quá trình phát triển của bản thân người lao động chưa thành niên
là đặc biệt quan trọng. Phải làm sao để đảm bảo được thu nhập, đảm bảo được
cuộc sống bình thường cho các em và gia đình, đồng thời không ảnh hưởng
đến quá trình phát triển về thể lực, trí lực, tâm sinh lý và nhân cách.
Về thể chất, người lao động chưa thành niên chỉ được phép làm các công
việc mang tính chất nhẹ nhàng, nghiêm cấm sử dụng lao động chưa thành
niên vào các công việc nặng nhọc, độc hại,... Môi trường làm việc phải đủ
tiêu chuẩn về ánh sáng, không ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, dễ cháy
nổ,... Ngoài ra phải đảm bảo thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và chế độ
chăm sóc sức khỏe định kỳ cho người lao động chưa thành niên.
53
Về trí lực, ít nhất phải đảm bảo các em có điều kiện hoàn thành phổ cập
giáo dục. Trong trường hợp có năng khiếu, có tay nghề, thì phải được khuyến
khích và tạo điều kiện cho các em tiếp tục phát triển dưới sự giám sát và
hướng dẫn phù hợp. Ngoài ra, cần thường xuyên tăng cường các hoạt động
giao tiếp xã hội để bổ trợ các kỹ năng mềm cũng như hoàn thiện quá trình
phát triển về tâm, sinh lý và nhân cách.
3.1.2. Tôn trọng quyền được tham gia lao động xã hội của người lao động
chưa thành niên
Phần đa người chưa thành niên tham gia lao động là do có hoàn cảnh
kinh tế khó khăn buộc các em phải làm việc từ rất sớm. Tuy nhiên, nếu được
pháp luật bảo vệ đầy đủ thì đây cũng là một việc có nhiều điểm tích cực. Thứ
nhất, lao động giúp các em có thu nhập trang trải cuộc sống, nhờ đó không chỉ
giúp gia đình mà còn giúp chính bản thân các em được quyền sống trong điều
kiện tốt hơn. Đồng thời các em cũng học được cách trân quý đồng tiền do mồ
hôi công sức mình bỏ ra. Thứ hai, với những lao động chưa thành niên tham
gia vào các hoạt động nghệ thuật, hoạt động thể thao, làm việc trong các làng
nghề thủ công mỹ nghệ,... các em sẽ sớm được bồi dưỡng năng khiếu, vun
đắp tình yêu với nghệ thuật, với thể thao và với nếp văn hóa cổ xưa của Việt
Nam đồng thời sớm có những định hướng tương lai phù hợp cho bản thân.
Thứ ba, việc tham gia quan hệ lao động cũng đồng nghĩa với việc các em giao
lưu tiếp xúc với nhiều thành phần trong xã hội từ sớm. Do vậy, nếu giám sát
tốt, các em sẽ nhận thức và tránh xa các tệ nạn xã hội.
Cũng như đối với người lao động thành niên, người lao động chưa thành
niên cũng được pháp luật bảo vệ các quyền lựa chọn nghề nghiệp, nơi làm
việc,...được hưởng sự bảo vệ và giám sát của pháp luật trên nhiều khía cạnh
quan trọng như: sức khỏe, việc làm, thu nhập, các quyền nhân thân,...
54
3.1.3. Đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Trước hết, Việt Nam là một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển lâu
đời. Đa số các gia đình ở nước ta đều có ruộng vườn, nương rẫy với thói quen
tự cung tự cấp. Vì vậy, các hộ gia đình thường giao cho con, cháu trong nhà –
những người lao động chưa thành niên làm việc từ sớm như một phương thức
học tập, rèn luyện sức khỏe, tiếp thu các kỹ năng nghề nghiệp, đặc biệt là
trong các làng nghề truyền thống: dệt sợi, làng nghề chè, mây tre đan, thủ
công mỹ nghệ, làng chài, ...
Cùng với sự mở rộng các loại hình kinh doanh và kinh tế tư nhân, nhu
cầu về lao động, trong đó có người lao động chưa thành niên cũng tăng cao, đặc
biệt là ở thành thị. Lúc này, người lao động chưa thành niên tiếp tục làm việc để
tăng thêm thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Một số người lao động chưa
thành niên lại làm việc trong các lĩnh vực nghệ thuật từ sớm và coi đó là môi
trường học tập, rèn luyện nhiều hơn là môi trường làm việc để kiếm sống.
Hiện nay, tuy đã và đang tiếp tục phát triển toàn diện về mặt kinh tế - xã hội,
nhưng hệ thống an sinh xã hội ở nước ta vẫn chưa đủ khả năng quản lý và hỗ trợ
đầy đủ cho tất cả các đối tượng yếu thế trong xã hội. Do đó, việc để người lao
động chưa thành niên – những người có khả năng lao động, tham gia làm việc
kiếm sống trong một môi trường được xã hội bảo vệ là một quyết định phù hợp,
vừa có lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vừa có lợi cho sự phát triển cả về thể
lực, trí lực và nhân cách của người lao động chưa thành niên.
Để làm tốt điều này, nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang hội nhập
kinh tế toàn cầu, pháp luật nên có nhiều quy định chặt chẽ hơn, tạo điều kiện
cho người lao động chưa thành niên chính thức tham gia quan hệ lao động,
tôn trọng quyền tham gia lao động của họ bằng việc mở rộng hơn nữa các
ngành nghề, công việc nhẹ nhàng, phù hợp với người lao động chưa thành
niên đồng thời tôn trọng các quyền lao động như quyền được lựa chọn việc
55
làm và nơi làm việc, quyền được trả công đầy đủ và đúng hạn, quyền được
hưởng sự bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, quyền nhân thân,...
3.2 Hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên
3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ việc làm cho người lao động chưa
thành niên
Kinh tế - xã hội đang ngày một phát triển kéo theo sự ra đời của rất
nhiều loại hình kinh doanh, lĩnh vực, ngành nghề mới mẻ. Nhiều ngành nghề,
lĩnh vực trong số đó có tính chất nhẹ nhàng, đơn giản, không tốn nhiều thời
gian, công sức, không đòi hỏi kỹ năng cao, rất phù hợp với người lao động
chưa thành niên. Có thể kể đến như: dẫn chương trình truyền thanh – truyền
hình, làm các kênh youtube tư vấn và hướng dẫn các trò chơi trẻ em, quảng
cáo sản phẩm, trực điện thoại, ghi đơn hàng,... Mặt khác, người lao động chưa
thành niên có quyền về việc làm, bao gồm quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi
làm việc, ... Tuy nhiên, để phù hợp với khả năng và đảm bảo sự phát triển
toàn diện thì rất cần có quy định chi tiết và phong phú hơn nữa về danh mục
việc làm theo từng nhóm tuổi. Bởi lẽ, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã
hội, rất nhiều ngành, nghề mới có tính chất phù hợp với đặc thù của người lao
động chưa thành niên đã ra đời.
Theo đó, pháp luật nên quy định theo hướng như sau:
Đối với nhóm dưới 13 tuổi: Đây là nhóm người lao động chưa thành
niên có độ tuổi nhỏ nhất và chủ yếu chỉ được phép hoạt động trong các lĩnh
vực nghệ thuật, hoạt động thể dục, thể thao. Tuy nhiên, cần có sự quản lý chặt
chẽ về thời giờ lao động, thời giờ nghỉ ngơi cũng như các biện pháp đảm bảo
về mặt sức khỏe và tinh thần cho nhóm đối tượng này.
Đối với nhóm từ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi: Với nhóm này, thông thường
các em đã hoàn thành giai đoạn phổ cập giáo dục tiểu học, về nhận thức đã rõ
56
rệt , kỹ năng vận động của các em ở lứa tuổi này cũng đã dẻo dai khéo léo
hơn nhóm lao động chưa thành niên dưới 13 tuổi. Chính vì vậy, có thể quy
định và mở rộng thêm những công việc mang tính chất nhẹ nhàng, đơn giản,
không đòi hỏi quá nặng về thể chất, trí tuệ cho các em. Tuy nhiên, dù là công
việc nào cũng cần đảm bảo thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi hợp lý,
không ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực và trí lực cho nhóm đối
tượng còn non nớt này.
Đối với với nhóm tuổi từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, là nhóm tuổi đã gần
hoàn thiện quá trình phát triển về thể lực và trí lực nên cần ưu tiên quyền việc
làm của họ gần ngang bằng với người lao động thành niên, trừ những công
việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, để họ sớm rèn luyện được kỹ năng làm
việc cũng như định hướng được nghề nghiệp trong tương lai.
Ngoài việc quy định và mở rộng thêm danh mục việc làm định hướng
phù hợp với từng lứa tuổi, pháp luật cũng cần coi trọng hơn đến các tổ chức
có chức năng giúp đỡ, hỗ trợ việc làm cho người lao động chưa thành niên.
Cụ thể như các Trung tâm giới thiệu việc làm với mục đích định hướng nghề
nghiệp, tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động chưa thành
niên hay Trung tâm dự báo về thị trường lao động, có chức năng dự báo, quản
lý và cung cấp thông tin thị trường lao động một cách khoa học theo trình độ,
ngành nghề, lứa tuổi, giới tính, để NLĐ nói chung và người lao động chưa
thành niên nói riêng có một cái nhìn toàn cảnh về xu hướng thị trường lao
động hiện tại và trong tương lai cũng như yêu cầu của từng ngành nghề, lĩnh
vực mà bản thân họ quan tâm. Từ đó, họ có thể đưa ra quyết định chọn lựa
việc làm phù hợp.
Thêm vào đó, ngoài việc đảm bảo số lượng và chất lượng việc làm, cũng
cần có những chính sách đào tạo, nâng cao kỹ năng chuyên môn và tay nghề
của người lao động chưa thành niên. Tương ứng với các nhóm tuổi quy định ở
57
trên, thì việc đào tạo nghề theo từng định hướng nhóm ngành tương ứng cũng
nên được triển khai nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng lao động. Đối với
những người dưới 18 tuổi – được coi là nguồn nhân lực của đất nước trong
tương lai, pháp luật cần có những ưu tiên, ưu đãi về chính sách dạy nghề miễn
giảm học phí, cấp học bổng đồng thời khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp tiếp nhận người lao động ngay khi đào tạo xong, để
họ có thể an tâm học nghề và làm việc. Ngoài ra, trong quá trình học nghề,
nếu sản phẩm học làm ra đạt tiêu chuẩn và có thể đưa ra thị trường kinh
doanh thu lời, thì nên hỗ trợ tiền lương khoán theo sản phẩm cho họ.
Khi tham gia vào quá trình lao động, để các quyền và lợi ích của người
lao động chưa thành niên cũng như NSDLĐ được đảm bảo tối đa, thì cần thiết
phải có những quy định chặt chẽ hơn nữa về HĐLĐ. Hiện nay, quy định về
HĐLĐ với người chưa thành niên cũng đã có nhưng còn chưa đầy đủ, chi tiết,
chưa hợp lý với một số đặc thù của nhóm lao động này. Đối với một số ngành
có định hướng ký kết hợp đồng lâu dài: Ngành nghệ thuật, lắp ráp điện
tử,...thì rất cần các quy định về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật
cũng như quy định về hiệu lực của HĐLĐ trong trường hợp HĐLĐ chưa hết
thời hạn nhưng lao động chưa thành niên đã đủ độ tuổi để tự mình trực tiếp ký
kết HĐLĐ mà không cần thông qua người đại diện theo pháp luật. Bởi lẽ thời
hạn HĐLĐ càng kéo dài thì càng dễ phát sinh nhiều hệ lụy mà không ai có thể
lường trước được. Thêm vào đó, vấn đề về tiêu chuẩn sức khỏe của người lao
động chưa thành niên khi tham gia vào mỗi ngành nghề riêng biệt cũng cần
được quy định một cách chi tiết dưới sự nghiên cứu, tư vấn của Bộ y tế. Bởi
lẽ đặc thù mỗi ngành nghề yêu cầu một tiêu chuẩn sức khỏe khác nhau, việc
quy định một tiêu chuẩn riêng cho người lao động chưa thành niên là cần thiết
để đảm bảo sức khỏe cũng như chất lượng lao động của họ.
58
3.2.2 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa
thành niên
Việc quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi là cần thiết nhằm
đảm bảo sức khỏe và sự phát triển toàn diện về thể lực, trí lực của người lao
động chưa thành niên. Mặt khác, còn giúp cho việc tái sản xuất sức lao động,
hạn chế tai nạn lao động, đặc biệt là với người lao động chưa thành niên đang
đi học còn đảm bảo thời gian học tập của họ.
Hiện nay, pháp luật lao động nước ta áp dụng thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi của người lao động chưa thành niên có điểm khác biệt so với người
lao động thành niên. Thời gian làm việc của người lao động chưa thành niên
ngắn hơn và thời gian nghỉ ngơi dài hơn so với người lao động đã thành niên.
Ngoài ra, việc quy định thời gian làm việc giảm dần theo nhóm tuổi, càng nhỏ
tuổi thì thời gian làm việc càng giảm và thời gian nghỉ ngơi được tăng thêm
cũng là một quy định hợp lý.
Ngoài ra, có thể thêm quy định về thời gian thử việc, hợp đồng thử việc.
Bởi với người lao động chưa thành niên, họ chưa có kỹ năng và trải nghiệm
đủ nhiều để biết trước được công việc này có phù hợp với khả năng của mình
hay không, kể cả trong trường hợp họ đảm bảo sức khỏe để thực hiện công
việc đó. Do vậy, quy định về thời gian thử việc và hợp đồng thử việc là cần
thiết. NSDLĐ và người lao động chưa thành niên có thể thỏa thuận nội dung
thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc
giao kết hợp đồng thử việc. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ
hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước
và không phải bồi thường. Quy định này nhằm giải quyết khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn thi hành BLLĐ đối với chế định hợp đồng thử việc, đặc
biệt nhằm hạn chế việc lạm dụng hợp đồng thử việc của NSDLĐ để cắt giảm
các quyền lợi của người lao động; đảm bảo tính khả thi trong thực tế áp dụng
59
và tạo môi trường thuận lợi, linh hoạt cho doanh nghiệp, người lao động trong
quan hệ lao động.
3.2.3 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao
động chưa thành niên
Việc quy định mức lương tối thiểu như hiện nay là cần thiết để đảm bảo
nguyên tắc trả lương bình đẳng giữa người lao động thành niên và người lao
động chưa thành niên. Tuy nhiên khi xây dựng mức lương tối thiểu theo từng
thời kỳ cần căn cứ toàn diện vào 7 yếu tố: (1) mức sống tổi thiểu của người
lao động và gia đình họ; (2) tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức
lương trên thị trường; (3) chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế; (4)
quan hệ cung cầu lao động; (5) việc làm và thát nghiệp; (6) năng suất lao
động; (7) khả năng chi trả của doanh nghiệp nhằm phản ánh đúng giá trị lao
động và đảm bảo cuộc sống tổi thiểu cho NLĐ nói chung và người lao động
chưa thành niên nói riêng, đồng thời đảm bảo quyền lợi cho NSDLĐ.
Đối với một số ngành nghề chiếm vị thế quan trọng và có nhu cầu lớn sử
dụng người lao động chưa thành niên, có thể khuyến khích các doanh nghiệp
áp dụng mức lương cao hơn mức lương tối thiểu chung hoặc trên cơ sở thỏa
thuận của NSDLĐ và người lao động chưa thành niên, vừa có thể đáp ứng
được nguồn nhân lực cho thị trường, vừa khuyến khích người lao động chưa
thành niên tham gia lao động và có nguồn thu đáng kể. Theo đó, Nhà nước
nên quy định theo hướng giao quyền chủ động cho NSDLĐ trong xây dựng
thang lương, bảng lương, định mức lao động trên cơ sở đối thoại với tổ chức
đại diện người lao động; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào chính sách
tiền lương trong doanh nghiệp; nâng cao sự chủ động thỏa thuận, thương
lượng giữa đại diện người lao động và người sử dụng lao động
60
3.2.4 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao
động chưa thành niên
Pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ quy định các quyền nhân thân nói
chung và cũng chưa có một văn bản pháp luật nào quy định và hướng dẫn chi
tiết việc bảo vệ các quyền này với đối tượng là người lao động chưa thành
niên. Họ là những người lao động còn hết sức “non nớt”, chưa có sự nhận
thức đầy đủ về pháp luật và các quyền lợi mà họ được hưởng, chưa lường
trước được sự đe dọa và ảnh hưởng bởi môi trường sống và làm việc đến sự
hình thành và phát triển nhân cách, cũng như thể lực và trí lực của họ. Thậm
chí, nhiều người không phân biệt được sự nhạy cảm của các thông tin cá
nhân, hay các bí mật gia đình. Họ chỉ có thể biết được hậu quả khi sự việc đã
xảy ra. Do vậy, cần có những quy định chi tiết hơn để tuyên truyền trong nội
bộ doanh nghiệp hoặc tại các địa phương phải có tổ chức tư vấn và hỗ trợ về
các vấn đề bảo vệ quyền nhân thân cho nhóm đối tượng này trước, trong và cả
sau quá trình tham gia lao động của họ.
Hiện nay, chỉ có một số cơ quan, tổ chức được thành lập và hoạt động vì
mục đích bảo vệ trẻ em, hoặc các tổ chức công đoàn, ...bảo vệ người lao động
nói chung. Do đó cần thiết phải chuyên môn hóa hơn nữa các cơ quan này,
đồng thời đề ra cơ quan giám sát, chuyên trách để xử lý những vi phạm trong
việc bảo vệ quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên tại các
doanh nghiệp.
3.2.5 Hoàn thiện pháp luật về thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật lao
động về bảo vệ người lao động chưa thành niên
Vấn đề còn tồn đọng của Thanh tra lao động trên cả nước nói chung và
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói riêng xuất phát từ việc thiếu một đơn vị
chuyên trách và một cơ chế thanh tra lao động cụ thể về người lao động chưa
thành niên, trong khi đây là nhóm đối tượng quan trọng, vừa là nguồn cung
61
ứng lao động trong tương lai của đất nước, vừa là nhóm đối tượng “mềm yếu”
lại rất khó quản lý, kiểm soát. Việc thành lập một đơn vị chuyên trách quản lý
về người lao động chưa thành niên, giám sát, phát hiện và điều tra, xử lý
những vi phạm pháp luật lao động trong việc bảo vệ nhóm lao động đặc thù
này, thậm chí phân cấp ở từng xã, huyện sẽ giúp ngăn chặn tối ưu hơn các
hành vi vi phạm trong việc sử dụng lao động chưa thành niên. Song song với
đó, cần có những nhiệm vụ thanh tra cụ thể hơn trong từng vấn đề có thể xảy
đến với lao động chưa thành niên: Xử lý vi phạm trong lĩnh vực việc làm,
cưỡng bức lao động, ... chứ không chỉ thanh tra xử lý chung về bảo hiểm xã
hội, tiền lương, ... Điều này sẽ giúp công tác thanh tra lao động được toàn
diện và nâng cao hiệu quả bảo vệ lao động chưa thành niên tại Việt Nam.
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bảo
vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên
Ngoài việc kiến nghị hoàn thiện và áp dụng pháp luật theo nội dung đã
trình bày ở trên, tỉnh Thái Nguyên cũng cần có những phương hướng, giải
pháp cụ thể, phù hợp với thực trạng người lao động chưa thành niên tham gia
lao động trên địa bàn toàn tỉnh để các quyền lợi của họ, đặc biệt là quyền về
việc làm, về sức khỏe, về thu nhập cũng như về quyền nhân thân được bảo vệ
một cách tối ưu nhất.
Thứ nhất, về vấn đề việc làm:
Như trên đã trình bày, rất nhiều những ngành nghề chưa có hoặc chưa
được quy định rõ trong Danh mục các ngành nghề được sử dụng người lao
động dưới 15 tuổi. Việc tỉnh Thái Nguyên kiến nghị đề xuất và mở rộng thêm
các ngành nghề, lĩnh vực này sẽ tăng thêm sự lựa chọn việc làm cho người lao
động chưa thành niên đồng thời giúp cho việc giám sát, quản lý và xử lý vi
phạm của Thanh tra lao động được hiệu quả và toàn diện hơn.
62
Vấn đề về học nghề và việc giao kết HĐLĐ cũng nên được các cơ quan
chức năng, ban ngành quan tâm chặt chẽ hơn nữa. Cần thiết soạn thảo các văn
bản xin ý kiến chỉ đạo từ cấp trên hoặc hướng dẫn quy định cụ thể về điều
kiện giao kết, ký kết, nội dung đào tạo nghề, nội dung HĐLĐ cũng như việc
chấm dứt học nghề, chấm dứt HĐLĐ cho NSDLĐ và người lao động chưa
thành niên.
Thứ hai, về vấn đề bảo vệ sức khỏe
Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng được ban hành đã tạo ra một cơ chế đủ mạnh để
răn đe và xử lý đa phần các hành vi vi phạm đối với người lao động chưa
thành niên. Tuy nhiên, tình trạng người lao động chưa thành niên bị buộc phải
làm việc trong môi trường độc hại, họ còn thường xuyên phải làm thêm giờ,
làm đêm trong điều kiện sức khỏe và môi trường làm việc không đảm bảo vẫn
còn tồn tại không ít. Do đa số người lao động chưa thành niên đều nín nhịn do
lo sợ NSDLĐ. Thanh tra Sở lao động – Thương binh và xã hội lại không thể
nắm hết các vụ việc vi phạm vì nhân lực quá mỏng, chưa được chuyên môn
hóa trong khi các doanh nghiệp trên địa bàn lại có số lượng rất lớn. Do đó,
cần thiết phải đề xuất và thành lập một đơn vị cấp xã, cấp huyện thường
xuyên giám sát, phát hiện và xử lý đối với các trường hợp này.
Thứ ba, về vấn đề bảo vệ thu nhập và tiền lương
Do còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn ký kết HĐLĐ, khi nhiều doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh trốn tránh nghĩa vụ giao kết HĐLĐ, sử dụng lao động
chưa thành niên “chui”, không khai báo thống kê với cơ quan chức năng, việc
giám sát, quản lý thu nhập, tiền lương của người lao động chưa thành niên nói
riêng và các quyền lợi khác của họ là rất khó khăn. Bởi vậy, ngoài việc phổ biến,
tuyên truyền pháp luật để nâng cao nhận thức của người lao động chưa thành
63
niên và trách nhiệm của NSDLĐ, cần phải có cơ quan thanh tra, giám sát xử lý
và hỗ trợ doanh nghiệp về mức lương tối thiểu cũng như tiền lương làm thêm
giờ của người lao động chưa thành niên sao cho phù hợp với khả năng chi trả
của doanh nghiệp và tương xứng với giá trị lao động của người lao động.
Thứ tư, về vấn đề bảo vệ quyền nhân thân
Không chỉ địa bàn tỉnh Thái Nguyên mà đa số các doanh nghiệp, tổ chức
sử dụng người lao động chưa thành niên chưa thực sự quan tâm đến vấn đề
bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên. Với giá trị
tinh thần và đặc thù cá nhân hóa, quyền nhân thân cần được mỗi cá nhân hiểu
rõ và nhận thức đầy đủ, để trước hết, bản thân họ phải biết được họ có quyền
gì và bảo vệ chính mình. Do vậy, cần thiết phải thường xuyên phổ biến kiến
thức và tuyên truyền pháp luật tại mỗi địa phương, mỗi gia đình, mỗi doanh
nghiệp, tổ chức để NSDLĐ và người lao động hiểu rõ hơn về vấn đề này,
nâng cao ý thức trách nhiệm để thực hiện.
Thứ năm, các biện pháp khác
- Thành lập cơ quan Thanh tra lao động chuyên ngành về lao động chưa
thành niên.
Như đã phân tích, hiện nay Sở lao động, thương binh và xã hội tỉnh Thái
Nguyên nói riêng và các địa phương khác nói chung chưa có Thanh tra
chuyên trách về lao động chưa thành niên. Mặc dù đây là một nhóm lao động
chiếm số lượng không hề nhỏ, là đối tượng “yếu thế” trong xã hội, cần thường
xuyên giám sát, hỗ trợ. Những vấn đề như lạm dụng sức lao động, cưỡng bức
lao động, hay vi phạm trong việc sử dụng lao động chưa thành niên luôn là
vấn đề rất nhức nhối và khó quản lý khi không có một cơ quan chức năng nào
được chuyên môn hóa để chống lại hiện trạng nhức nhối đó.
64
- Thống kê và điều tra toàn diện về tình hình sử dụng lao động chưa
thành niên
Khi thực hiện đề tài, tác giả đã gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận
các tài liệu thống kê liên quan đến người lao động chưa thành niên. Bản thân
thanh tra lao động và các phòng ban liên quan cũng phản hồi rõ rằng họ
không có thẩm quyền hay trách nhiệm trong việc phân rõ từng nhóm người
lao động chưa thành niên và người lao động thành niên để quản lý. Rất nhiều
vụ việc vi phạm chỉ có thể phát hiện và thống kê sau khi có đơn thư khiếu nại
hoặc trong một cuộc thanh tra đột xuất các doanh nghiệp nói chung. Như vậy,
một cuộc điều tra cơ bản, toàn diện về người lao động chưa thành niên là cần
thiết. Trong đó, cần phổ biến với toàn thể người dân trên địa bàn tỉnh, để đồng
thời phổ biến cho họ hiểu rõ hơn nữa về tầm quan trọng của việc bảo vệ toàn
diện người lao động chưa thành niên.
- Đảm bảo việc liên hệ chặt chẽ giữa người lao động chưa thành niên và
gia đình
Khi tham gia lao động, đa phần người lao động chưa thành niên bị tách
ra khỏi sự giám sát và bảo vệ từ phía gia đình, người thân.Vì vậy, để tránh
ảnh hưởng đến tâm sinh lý của các em, không vì hoàn cảnh kinh tế mà để các
em phải chịu sự thiệt thòi về mặt tinh thần, các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng
người lao động chưa thành niên cần có sự quan tâm, thường xuyên giữ sợi
dây kết nối giữa gia đình, người thân của người lao động chưa thành niên với
họ. Đồng thời, khi xây dựng và tập trung các cơ sở sản xuất kinh doanh tại địa
phương, chính quyền tỉnh Thái Nguyên và lãnh đạo doanh nghiệp cũng nên
có chính sách ưu tiên cho lao động chưa thành niên là người địa phương, để
các em có cơ hội được tham gia lao động kiếm thêm thu nhập và gần gũi gia
đình, hưởng trọn tình yêu thương từ người thân.
65
Tiểu kết chương 3
Việc hoàn thiện pháp luật về người lao động chưa thành niên là cần thiết,
không chỉ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên mà còn ở các địa phương khác của
nước ta. Trước hết phải khắc phục được những nhược điểm đang còn tồn
đọng và bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về người
lao động chưa thành niên trong điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói
chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Đồng thời phải có những phương
hướng mới hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ
toàn diện người lao động chưa thành niên hiện nay.
66
KẾT LUẬN
Bảo vệ người lao động chưa thành niên là một vấn đề quan trọng mà
Đảng và Nhà nước ta cần hết sức quan tâm thực hiện. Bởi lẽ, do những hạn
chế trong quá trình chưa hoàn thiện về thể lực và trí lực mà bản thân người
lao động chưa thành niên không thể tự mình bảo vệ được bản thân mà cần có
sự điều chỉnh từ phía Nhà nước. Họ cần được quan tâm sâu sát và bảo vệ toàn
diện bằng những quy định của pháp luật trong nhiều vấn đề, đặc biệt là các
vấn đề về việc làm, sức khỏe, quyền nhân thân, thu nhập và tiền lương như
nội dung mà tác giả đã trình bày trên đây.
Thực trạng áp dụng pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa
thành niên ở Việt Nam nói chung và thực tiễn tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã
cho thấy quyết tâm cùng thế giới phòng chống nạn áp bức, bóc lột, lạm dụng
sức lao động của người lao động chưa thành niên. Những hành động đó đã
mang lại nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những tồn
tại, hạn chế nhất định. Cũng cần phải hiểu rằng, với rất nhiều vấn đề phát sinh,
cần sự phối hợp quản lý sâu sát, thì việc bảo vệ toàn diện người lao động chưa
thành niên thật sự là một cuộc chiến lâu dài và cần nhiều tâm sức.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn, tác giả đã đưa ra các
phương án, biện pháp và khuyến nghị thực thi nhằm hướng tới mục đích bảo
vệ người lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, tác giả cũng hiểu rằng, trong
khuôn khổ hạn chế của luận văn cũng như nhận thức có phần hạn hẹp của bản
thân thì không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Do vậy, tác giả rất mong
nhận được sự góp ý và phản hồi từ thầy cô và bạn đọc để luận văn ngày càng
hoàn thiện hơn.
67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thị Hằng (2000) Chế độ pháp lý về lao động chưa thành niên;
2. Phan Văn Hùng (2002), Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt
Nam;
3. Trần Thắng Lợi (2012), Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành
niên trong điều kiện hội nhập quốc tế;
4. Lê Thị Huyền Trang (2008), Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người
lao động chưa thành niên ở Việt Nam;
5. Ngô Thị Hồng Nhị (2019), “ Bảo vệ người lao động chưa thành niên
theo pháp luật Việt Nam”;
6. Nguyễn Thị Nhàn (2016), “ Lao động chưa thành niên theo pháp luật
lao động Việt Nam hiện nay”;
7. Chu Mạnh Hùng (2015), “Vấn đề trẻ em gái giúp việc trong các thành
phố lớn”;
8. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Bộ luật lao
động Việt Nam (2012);
9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật dân sự
Việt Nam (2015);
10. Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Công ước số 182 của về loại bỏ
những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999).
11. Liên hợp quốc, Công ước về quyền trẻ em (1989);
12. Liên hợp quốc, Tuyên ngôn về quyền con người (1948);
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật trẻ em
(2016)
68
14. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật giáo dục
nghề nghiệp (2014);
15. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Việc làm
(2013);
16. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định
05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội
dung của Bộ luật lao động (2015);
17. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định
61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ việc làm và Quỹ quốc
gia về việc làm (2015);
18. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định
03/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao
động về việc làm (2014);
19. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định
28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao
động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng (2020);
20. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định
44/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao
động về Hợp đồng lao động (2013);
21. Bộ lao động – thương binh và xã hội, Thông tư số 11/2013/TT-
BLĐTBXH ban hành danh mục công việc nhẹ được sử dụng người
dưới 15 tuổi (2013);
22. Bộ lao động – thương binh và xã hội, Thông tư số 30/2013/TT-
BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
44/2013/NĐ-CP (2013).
69

