LUẬN VĂN:Hoàn thiện chính sách và phương thức đền bù, giải phóng mặt bằng
lượt xem 50
download
LUẬN VĂN: Hoàn thiện chính sách và phương thức đền bù, giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố Hà Nội .Lời nói đầu Nhu cầu thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và đầu tư xây dựng các công trình công cộng, phát triển đô thị, các dự án sản xuất, kinh doanh là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện hoá mà cả nước và Thủ đô Hà Nội đang tiến hành....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN:Hoàn thiện chính sách và phương thức đền bù, giải phóng mặt bằng
- LUẬN VĂN: Hoàn thiện chính sách và phương thức đền bù, giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố Hà Nội
- Lời nói đầu Nhu cầu thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và đầu tư xây dựng các công trình công cộng, phát triển đô thị, các dự án sản xuất, kinh doanh là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- h iện hoá mà cả nước và Thủ đô Hà Nội đang tiến hành. Thực tế hiện nay cho thấy công tác giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, tác động tới nhiều mặt của đời sống kinh tế -xã hội. Những năm qua, số lượng các dự án đầu tư ở cả khu vực nội thành và ngoại thành Hà Nội đã tăng rất nhanh. Trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư thì giải phóng mặt bằng (GPMB) là một khâu quan trọng và có tính dặc thù, không những ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ đầu tư mà c òn liên quan đến sự ổn định tình hình kinh tế, chính trị- x ã hội. Trong điều kiện quỹ đất cũng như các bu ồn tài nguyên khác ngày càng hạn hẹp và nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì vấn đề lợi ích về kinh tế của các tổ chức, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất và giao đất ngày càng được quan tâm hơn. Vì vậy, vấn đề đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đã và đang là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn là vấn đề phức tạp mang tính chất chính trị, kinh tế- xã hội tổng hợp, đòi hỏi được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp, tổ chức và cá nhân. Đền bù thiệt hại về đất không chỉ thể hiện bản chất kinh tế các mối quan hệ về đất đai ( giữa Nhà nước với các tổ chức và cá nhân sử dụng đất, giữa các tổ chức kiinh tế này với các tổ chức kinh tế khác và giữa cá nhân với nhau ), mà còn thể hiện về các mối quan hệ về chính trị, xã hội....Thực tế đã khẳng định công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thnàh phố trong những năm qua là điều kiện tiên quyết khi triển khai thực hiện Dự án. Trong thời gian qua, việc sử dụng đất để triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô một mặt đem lại những lợi ích rõ rệt về kinh tế, về hạ tầng đô th ị, làm thay đổi chất lượng cuộc sống của người dân, song mặt khác cũng gây không ít khó khăn cho một bộ phận dân cư do bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất mà mất đ i tư liệu sản xuất chính ,mất nguồn thu nhập và kế sinh nhai .Theo thống kê của các cơ quan nội chính, phần lớn các vụ
- khiếu kiện đông người trong năm qua là khiếu kiện về đất đa i và đền bù, giải phóng mặt bằng . Theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất của Thành phố Hà Nội, thì chỉ trong thời gian 5 năm (1996-2000), Hà Nội có 6.300ha đất chuyển sang xây dựng đô thị và các công trình công n ghiệp, dân dụng. Phần lớn diện tích đất này là đất hiện đang được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Theo quy hoạch, kế hoach sử dụng đ ất của Thành phố Hà Nội đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1447/QĐ-TTg ngày 09/11/2001 thì diện tích đất nông nghiệp năm 2010 sẽ giảm so với năm 2000 là 10.200ha. Theo kế hoạch sử dụng đất năm 2002 của UBND Thành phố Hà Nội dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ, tổng diện tích xin chuyển mục đ ích sử dụng vào các mục đích là 1.100ha, năm 2003 là 1.090 ha. Qua đó cũng đủ thấy vấn đề đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên đ ịa bàn Thành phố Hà Nội là một vấn đề cực kỳ phức tạp và đặt ra nhiều thử thách. Để làm giảm những mâu thuẫn nêu trên, Thành phố Hà Nội đã có rất nhiều cố gắng trong việc cải thiện các chính sách về đền bù thiệt hại cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế- xã hội Thủ đô. Năm 2002, Thành phố Hà Nội gọi là năm đồng khởi giải phóng mặt bằng. Đến năm 2003 Hà Nội vẫn tiếp tục duy trì là năm đồng khởi giải phóng mặt bằng, đặc biệt là các công trình trọng điểm phục vụ Sea Games 2003. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, các chính sách này cũng có những bất cập, hạn chế nhất định, nhất là mức giá bồi thường thiệt hại và việc khôi phục mức sống cho các hộ dân bị di chuyển đến nơi ở mới, hoặc mất nguồn thu nhập chính do phải di chuyển, giải phóng mặt bằng. Xuất phát từ thực tế trên, đồng thời góp phần hoàn thiện các chính sách về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hà Nội, em mạnh dạn xin được
- thực hiện nghiên cứu đề tài “ Hoàn thiện chính sách và phương thức đền bù, giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thành phố Hà Nội”. Y nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Đề tài là công trình khoa học nghiên cưú một cách toàn diện và có hệ thống về hệ thống các chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng, tái đ ịnh c ư khi Nhà nư ớc thu hồi đất trên đ ịa bàn Thành phố Hà Nội và đề xuất hướng hoàn thiện chính sách kèm theo các giải pháp thực hiện. Góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô, để Hà Nội ngày càng văn minh , giàu đẹp, sánh vai với các Thủ đ ô lớn trong khu vực và trên thế giới. Góp ph ần hoàn thiện chính sách, phương thức đền bù thiệt hại của UBND Thành phố khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố. Góp phần hạn chế, giải toả những bức xúc về khiếu kiện của công dân bị thiệt hại do phải giải toả mặt bằng, bàn giao đất để triển khai các Dự án trên địa bàn. Mục đích nghiên cứu đề tài: Đánh giá những ưu điểm và hạn chế của từng hệ thống chính sách mà UBND Thành phố Hà Nội áp dụng. Xác đ ịnh và đề xuất hoàn thiện những hệ thống chính sách đố trên cơ sở phù hợp Hiến pháp và các quy đ ịnh khác của pháp luật hiện hành. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Nghiên c ứu toàn bộ văn bản chính sách có liên quan mà UBND Thành phố Hà Nội đã từng áp dụng về đền bù, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trước và sau khi có Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai ngày 14/7/1993 ( Chủ yếu là các chính sách ban hành sau khi có lu ật Đất đai 1993 đến nay ).
- Phương pháp nghiên cứu đề tài: - P hương pháp thu thập xử lý thông tin, số liệu. - P hương pháp đánh giá phân tích tổng hợp. - P hương pháp duy vật biện chứng. - P hương pháp duy vật lịch sử. Nội dung nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu nội dung chính sách đền bù thiệt hại, tái định cư của Nhà nước và Thành phố Hà Nội đang áp dụng thực hiện. Ngoài lời mở đầu và kết luận chuyên đề được chia làm 3 ch ương: Chương I: Cơ sở lý luận về đền bù thiệt hại Giải phóng mặt bằng . Chương II : Thực trạng việc thực hiện chính sách đền bù thiệt hại trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Chương III: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách đền bù, Giải phóng mặt bằng , tái đ ịnh cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội. chương i
- cơ sở lý luận về công tác đền bù tiệt hại giải phóng mặt bằng Để tiến hành thực hiện các Dự án phát triển đất nước đòi hỏi phải có đất đai làm mặt bằng thực hiện dự án. Như chúng ta đã biết đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện sinh tồn và phát triển của mọi sinh vật trên trái đất trong đó có con người. Đối với hoạt động kinh tế , đất đai là nguyên liệu đầu vào không thể thiếu được. Đối với nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được.Đối với các ngành khác như công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.... đ ất đai là nơi đặt trụ sở, là đ iểm đứng chân, là nơi cung cấp nguyên liệu...đ ể tiến hành những thao tác, những hoạt động sản xuất kinh doanh. Để chuẩn bị cho các dự án dầu tư phát triển thì việc thu hồi đất đã giao cho người sử dụng ổn định và lâu dài là vấn đề không tránh khỏi và gây lên những tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội.Do vậy để đảm bảo công bằng xã hội và đảm bảo cuộc sống cho người sử dụng đất, thì khi Nhà nước thu hồi đất, phải thực hiện trách nhiệm đền bù thiệt hại về mọi mặt có liên quan bị ảnh hưởng, cho người bị thu hồi đất. I. định nghĩa về đền bù thiệt hại. 1. Đền bù thiệt hại ( bồi thường thiệt hại ) có nghĩa là trả lại tương x ứng giá trị hoặc công lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể khác . Việc bồi thường thiệt hại này có thể vô hình ( xin lỗi) hoặc hữu hình ( bồi thường bằng tiền, bằng vật chất khác....), có thể do các quy định của pháp luật điều tiết, hoặc do thoả thuận giữa các chủ thể. 2. Đền bù thiệt hại ( bồi thường thiệt hại ) khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đ ích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng là hành vi được quy định tại Hiến pháp năm 1992, tại điều 27 của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền quy định trách nhiệm của người được Nhà nước cho phép sử dụng đất ( được Nhà n ước giao hoặc cho thuê sử dụng) đối với người đang sử
- dụng đất nay bị thu hồi, bao gồm đền bù thiệt hại về đất, tài sản trên đất và các khoản hỗ trợ khác. Đền bù thiệt hại được hiểu là việc bù đắp bằng tiền hoặc bằng hiện vật những thiệt hại về đất đai, nhà cửa, thu nhập và các tài sản khác do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của dự án. Trong quá trình Nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi đất không chỉ bị thiệt hại về đất mà còn bị thiệt hại về các tài sản gắn liền với đất như các công trình kiến trúc, vườn tược, cây cối, hoa màu....Vì vậy đền bù thiệt hại không chỉ là đền bù thiệt hại về đất mà còn đền bù thiệt hại cả về tài sản gắn liền trên đất. Đền bù thiệt hại Giải phóng mặt bằng có thể được hiểu là việc chi trả, bù đắp, nh ững tổn thất về đất đai, những chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật kiến trúc, công trình hạ tầng kỹ thuật, cây cối, hoa màu, mồ mả và chi phí để ổn định đời sống sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp cho người sử dụng đất đai, s ở hữu tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Về bản chất của đền bù thiệt hại Giải phóng mặt bằng, là việc đền bù thiệt hại nh ững tổn thất do việc Nhà nước có Quyết định thay đổi chức năng hay mục đích sử dụng của các loại đất. 3. Sự cần thiết phải đền bù thiệt hại khi Giải phóng mặt bằng . Theo điều 1 Luật đ ất đai năm 1993 viết “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn đ ịnh lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất”. Điều 2 viết: “ Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, lâm ngghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có đất để sản xuất.” Xét về nguồn gốc đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động. Trong quá trình phát triển của xã hội, đất đai được sử dụng nhằm mục đ ích phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nên đất đai không thuộc sở hữu của riêng một ai mà là của toàn
- xa hội. Quỹ đất đâi của nước ta ngày nay là thành quả của việc khai hoá bồi bổ, cải tạo và bảo vệ của bao nhiêu thế hệ. Do đó đất đai thuộc sở hữu toàn dân , Nhà nước là người đại diện thống nhất quản lý. Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quyền sở hữu toàn dân thể hiện đó là quyền sở hữu về mặt pháp lý ( Nhà nước đề ra và quy định trách nhiệm của mình cũng nh ư quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất). Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quyền sử dụng đất thực tế và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt xét trên cả phương diện tự nhiên, kinh tế- xã hội. Vì vậy, Nhà nước phải nắm quyền sử dụng đất đai về mặt pháp lý, nắm quyền quản lý và quyền sở hữu đất đai. Nhà nước phải xây dựng chế độ sở hữu đất đai cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội nhằm tránh tình trạng đất đai bỏ hoang hoá vô chủ, sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân từ đó đảm bảo đất đai có chủ sử dụng thật sự và cụ thể. Nhà nước giao quyền quản lý đất đai đồng thời đưa ra những quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể về quản lý và sử dụng đất đai. Nhằm phát huy tốt hơn chức năng quản lý đất đai theo cơ chế mới, phù hợp với điều kiện mớicủa sự phát triển kinh tế - xã hội trong cơ chế thị trường, ổn định tình hình đất đai vốn rất phức tạp do lịch sử để lại. Luật đất đai cũng quy định khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng Nhà nước có trách nh iệm đền bù thiệt hại. Như vậy, Luật đất đai năm 1993 đã quy đ ịnh rõ quyền và lợi íchcủa người sử dụng đất cũng như trách nhiệm của Nhà nước khi thu hồi đất. Đất đai có vai trò vô cùng quan trọng đối với xã hội loài người, nó là điều kiện cho sự sống của động vật, thực vật và con người trên trái đất. Nó là cơ sở của làng mạc, thành phố, các công trình công nghiệp, hệ thống giao thông. Là chỗ dựa, là nền tảng để xây dựng nhà cửa, các công trình kiến trúc và để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho đời sống con người. Đất đai cung cấp nguyên liệu, sản phẩm từ đất cho hoạt động sản xuất và đời sống con người. Nó là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với ngành nông nghiệp, không thể thay thế được. Nó không
- chỉ là chỗ đứng, chỗ dựa để lao động, là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng mà còn là nơi chuyển dần hầu hết các tác động của con người vào cây trồng. Qua phân tích trên, có thể nói rằng đất đai là tài sản vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, mỗi cá nhân trong quần thể xã hội. Nó là nơi để xây dựng các công trình kiến trúc phục vụ các nhu cầu và lơị ích thiết thực của con người. Do đó Nhà nước quy đ ịnh các quyền và lợi ích của người sử dụng đất đai cũng như trách nhiệm phải đền bù thiệt hại khi thu hồi đất của Nhà nước đảm bảo mọi người đều có đất để sống và để sản xuất là điều kiện hết sức đúng đắn. Pháp lệnh nhà ở ngày 26/3/1991 đã quy định: Công dân thực hiện quyền có nhà ở bằng việc tạo lập hợp pháp nhà ở cho mình hoặc thuê nhà ở của chủ sở hữu khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước công nhận và bảo vệ quyền sở hữu nhà ở của các cá nhân và các chủ sở hữu khác. Nhà ở cũnglà một trong những loại tài sản vô cùng quý giá của mỗi con người. Nhà ở là nơi để mỗi con người đ i về nghỉ ngơi, tránh nắng, mưa, bão là nơi làm việc, tiến hành sản xuất của cải vật chất, tái sản xuất sức lao động. Để xây dựng nhà cần một khoản tiền lớn, tốn kém nhiều công sức, hơn nữa nhà đất thường gắn liền với nhau nên khi Nhà nước thu hồi đất đồng thời thu hồi cả nhà trên đất đó. Vì vậy, công tác đền bù thiệt hại cho người sở hữu nhà ở là một tất yếu. Mặt khác bằng những quy đinh của mình Nhà nước xác đ ịnh tính hợp pháp của đất đai và nhà ở, từ đó làm căn cứ xét đền bù thiệt hại tránh tình trạng đền bù sai, thiếu gây lãng phí tiền của của nhân dân. II. các chính sách của nhà nước về đền bù thiệt hại cho người bị thu hồi đất khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Trên thực tế, các chính sách liên quan đến vấn đề thu hồi đất cho các dự án phát triển đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm thể chế hoá bằng các văn bản pháp luật và liên tục được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn của từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Những quy định áp dụng khi Nhà nước thu hồi đất đ ể sử dụng vào mục đ ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng nằm ở nhiều
- điều khoản, trong các văn bản pháp luật khác nhau. Những văn bản riêng và quy định cụ thể việc bồi thường ( đền bù ) thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất cũng đã được ban hành. Về hình thức văn bản: những văv bản có nội dung quy định trực tiếp hoặc có liên quan đến vấn đề thu hồi đất, Giải phóng mặt bằng gồm rất nhiều loại, với tính chất pháp lý khác nhau, từ văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp cho đến các bộ luật, các văn bản pháp quy của Chính phủ, các văn bản của các Bộ, Ngành và các văn bản do Thành phố Hà Nội ban hành. Trên cơ sở phân chia theo giai đoạn sửa đổi, bổ sung pháp luật về đất đai, thì đề tài phân chia giai đoạn nghiên cứu ra thành 2 giai đoạn ( trước năm 1998 và từ năm 1998 đến nay). A. Giai đoạn trước năm 1998. 1. Nghị định 151/TTg c ủa Thủ tướng Chính phủ ngày 14/4/1959 quy định thể tạm thời về trưng dụng ruộng đ ất, là văn bản pháp quy đầu tiên liên quan đến việc đền bù và tái định cư bắt buộc ở Việ t Nam. Nghị định này quy định những nguyên tắc c ơ bản trong việc trưng dụng ruộng đất của nhân dân cho việc xây dựng những công trình do Nhà n ước quản lý. Trong đó, nguyên tắc c ơ bản nhất được thừa nhận khi trưng dụng ruộng đất là chiếu cố đúng mức quyền lợi và đ ời sống của có ruộng đất trên cơ sở bồi thường và giúp giải quyết công ăn việc làm. Việc bồi thường được thực hiện bằng hình thức “ Đất đổi đất” hoặc bằng tiền bằng 1 -4 sản lượng thường niên của đất trưng dụng. Đối với nhà cửa, vật kiến trúc... thì được giúp đ ỡ để xây dựng cái khác, đối với hoa màu đã trồng mà chưa thu hoạch ....phải được bồi thường tiệt hại đúng mức. Đối với mồ mả, căn cứ vào tình hình cụ thể phong tục tập quán của từng địa phương mà giúp họ số tiền thích đáng làm phí tổn di chuyển. Có thể nói, những nguyên tắc cơ bản của việc đền bù thiệt hại trong Nghị định 151/TTg là rất đúng đắn, đáp ứng nhu cầu trưng dụng đất đai trong những năm 1960. Tuy nhiên, Ngh ị đinh chưa quy định cụ thể mức đền bù thiệt hại mà chủ yếu dựa vào sự thoả thuận giữa các bên.
- Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế- xã hội, nhu cầu lấy đất xây dựng tăng lên, việc sử lý các mối quan hệ và các vấn đề liên quan khi Nhà nước thu hồi đất cũng ph ức tạp hơn. Nhiều văn bản mới đ sã ra đời nhằm cụ thể hoá Nghị đ ịnh 151/TTg. 2. Ngày 11/01/1970, Phủ Thủ tướng ban hành Thông tư số 1792/TTg ‘’quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đ ất đai, cây cối lưu niên, các hoa màu do nhaan dân ở những vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố ‘’. Trên nguyên tắc ‘’phải đả m bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế của hợp tác xã và của nhân dân’’. Đây thực sự là bước chuyển trong nhận thức đối với người bị ảnh hưởng, nếu nh ư tại Nghị đ ịnh 151/TTg có ghi ‘’chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời sống của người có ruộng đất’’ thì tại thông tư này, Nhà nước đã thừa nhận quyền được đền bù thiệt hại thoả đáng của những người bị ảnh hưởng. Ngoài ra, Thông tư này đã quy đ inh rõ mức đền bù thiệt hại về nhà ở, cây cối hoa màu, ví dụ đất đai vùng đồng bằng chia làm 4 loại, vùng trung du, đồi núi chia làm 5 loại, mỗi loại lại có mức giá tối đa và tối thiểu. Đối với nhà cửa thì căn cứ giái trị sử dụng, diện tích mà định giá bồi thường.... 3. Luật đất đai năm 1988 không quy đ ịnh cụ thể việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, mà chỉ nêu tại phần ngh ĩa vụ của người sử dụng đất (Điều 48): “Đền bù thiệt hại thực tế cho người đang sử dụng đất bị thu hồi để giao cho mình, bồi hoàn thành quả lao động và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị đất ddos theo quy định của pháp luật”. Th ực tế các văn bản hướng dẫn thi hành luật đất đai 1988 không hướng dẫn nội dung về đền bù thiệt hại khi Nhà n ước thu hồi đất, mà chỉ tập trung vào việc đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp,đất có rừng khi chuyển sang mục đích khác.Thực chất đây lại là qui định việc thưc hiện nghĩa vụ với Nhà nuớc khi đuợc giao đất (mà sau này, khi thực hiện luật đất đai1993, đư ợc coi là tiền sử dụng đất) trong đó có phần nhỏ được phân bổ lại cho người bị thu hồi đất. 4. Quyết định số 186 /HĐBT ngày 31/5/1990 về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đấ t có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đ ích khác.
- Căn c ứ để tính mức thiệt hại về đất nông nghiệp và đất có rừng theo quyết đ ịnh này là diện tích, chất lượng và vị trí đất. Về chất lượng đất nông nghiệp căn cứ theo hạng đất tính thuế, về vị trí đ ịa lý được chia thành 4 khu vực ( nội thành phố, thị xã, thị trấn, đất ven đô, đất ven đường giao thông và đất vùng nông thôn) . Mỗi hạng đất tại mỗi vị trí đều quy định giá tối đa, tối thiểu. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định cụ thể mức đền bù thiệt hại thuộc địa phương mình sát với giá đất thực tế ở địa phương, nhưng không thấp hoặc cao hơn khung đ ịnh mức. Tại quyết định này, mức đền bù còn được phân biệt theo thời hạn sử dụng đất lâu dài lâu dài hay tạm thời; đồng thời quy định việc miễn giảm tiền đền bù đối với việc sử dụng đất để xây dựng hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, đ ường sắt. Toàn bộ tiền đền bù nộp ngân sách Nhà nước và được đ iều tiết cho ngân sách Trung ương 30%, địa phương 70% để sử dụng vào việc khai hoang phục hoá... và đ ịnh canh và đ ịnh c ư cho nhân dân vùng bị thu hồi đất chứ không trả trực tiếp cho người bị thu hồi đát . Những văn bản trên đã có vai trò to lớn trong quá trình Nhà nước thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế- xã hội trong những năm chiến tranh và giai đoạn khôi phục kinh tế sau khi đã thống nhất đất nước. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ đổi mới, trước những yêu cầu phát triển ngày càng lớn, nhu cầu sử dụng đất tăng cao, không chỉ là đất nông nghiệp, lâm nghiệp cho phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị, mà ngay cả đất đô th ị cũng cần được thu hồi để mở rộng giao thông, phát triển hạ tầng, đáp ứng đòi hỏi quá trình hiện đại hoá đô th ị và phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Bởi vậy yêu cầu dặt ra là phải có khung pháp lý cao hơn, với phạm vi điều chỉnh rộng hơn phù hợp với các đối tượng đa dạng hơn, nội dungh cụ thể hơn cvà quan trọng hơn cả là thích ứng với thực tiễn. Sau khi Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai ra đ ời, công tác quản lý đất đai được thực hiện bằng hai biện pháp hành chính và kinh tế. Hiến pháp 1992 đã công nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân và quyền sở hữu cá nhân về tài sản và sản xuất cụ thể:
- Tại Điều 17, Hiến pháp quy định về quyền sở hữu đối với đất đai: “ Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời.... đ ều thuộc sở hữu toàn dân”. Tại điều 58, Hiến pháp quy định về quyền sở hữu cá nhân: “ Công dân có quyền sở hữu thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất....Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Luật đất đai 1993 đã cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992 về đất đai thông qua việc giao đất, cho thuê đất, chế độ quản lý, sử dụng đúng mục đích, xác định thời hạn giao đất, cho thuê đất, thẩm quyền thu hòi và giao, cho thuê đất; hạn mức sử dụng các loại đất và quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sử dụng đất. Luật đất đai 1993 thực sự là văn bản quan trọng đối với quyền sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất và đền bù đất đai, tài sản gắn liền với đất. Để tạo điều kiện cho người dân yên tâm sử dụng đất và đầu tư nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tại Điều 3 Luật đất đai có nêu việc Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, đồng thời quy đ ịnh các quyền của người sử dụng đất đối với thửa đất mà mình đang quản lý, sử dụng. Điều 12 của Luật đất đai quy đ ịnh việc Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử5 dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi. Khung giá các lo ại đ ất đối với từng vùng và theo từng thời gian do Chính phủ quy định. Điều 27 của Luật đất đai có quy định việc thu hồi đất và việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nư ớc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi cíh quốc gia, lợi ích công cộng. Việc thu hồi đát phải được thông báo trước cho người đang sử dụng biết về lý do thu hồi, thời gian,kế hoạch di chuyển, phươngán bồi thường thiệt hại.(Điều 28). tại các Điều 73 và 79 Luật đất đai quy định cụ thể, chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, một trong những quyền và nghĩa vụ là được Nhà nước bảo vệ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình, được bồi thường thiệt
- hại về đất khi bị thu hồi; Đền bù cho người có đất bị thu hồi để giao cho mình và giao lại cho Nhà nước khi có quyết đinh thu hồi. Như vậy, đất đai từ chỗ là sở hữu toàn dăn, với quyền sử dụng thuộc Nhà nước hoặc tập thể thì nay quyền sử dụng đ ất còn được trao cho hộ gia đ ình, cá nhân s ử dụng ổn định, lâu dài. Quyền sử dụng đất được nới rộng gồm cả quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp. Người sử dụng đất ổn định được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận thì được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, và vì lợi ích quốc gia công cộng, Nhà nước thu hồi đất, trưng mua, trưng dụng có bồi thường tàI sản cho người sử dụng đất bị thu hồi. Do vậy trong giai đoạn này chính sách GPMB đã có bước phát triển mới, trong đó có việc Nhà n ước sử dụng công cụ giá đất khi tính đền bù thiệt hại cho người sử dụng đaats khi bị thu hồi thể hiện nguyên tắc cơ bản trong công tác đền bù là bên cạnh lợi ích chung của Nhà nước, phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người dân. 5. Nghị định 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán kinh doanh nhà ở, quy định các vấn đề về bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người dang thuê, kinh doanh nhà ở, mua bán nhà ở không nhằm mục đ ích kinh doanh, quản lý Nhà nước các hoạt động mua bán kinh doanh nhà ở. Tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định có quy đ ịnh về giá đất ở khi chuyển quyền sử dụng , khi thực hiện bán nhà theo Nghị định này, là 40% (đối với nhà một tầng, hoặc nhà nhiều tầng một hộ ở) và 10% ( đối với nhà ở nhiều tầng, nhiều hộ ở), so với khung gia scác loại đất do UBND tỉnh, Thành phố ban hành theo khung giá do Nhà nước quy định. Đối với mức diện tích đất ở khi thực hiện bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước và khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các trường hợp không có giaays tờ hợp pháp, hợp lệ về quyền sử dụng đất, căn cứ Nghị quyết của HĐND Thành phố số 76/1998/NQ-HĐ, ngày 23/7/1998, UBND Thành phố ban hành Quyết đ ịnh số
- 61/1998/QĐ-UB ngày 04/11/1998, là 120m2/hộ (đối với các loại đất thuộc 4 quận nội thành cũ, từ vành đai2 trở vào trung tâm); 180m2/hộ (đối với đất từ vành đai 2 trở ra). Như vậy, đối với các trường hợp trên, UBND Thành phố đã vận dụng thực hiện theo hướng : Nếu bị thu hòi đất thì việc đền bù thiệt hại về đất sẽ là 60% tiền sử dụng đất (đối với phần đất nằm trong hạn mức giao đất nêu trên, vì nếu được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chủ hộ phải nộp 40% tiền sử dụng đất); đối với phần còn lại không được đền bù, vì nếu được chuyển mục đích sử dụng đất thì phần này phải nộp 100% tiền sử dụng đất. 6. Nghị định số 90/CP do Ch ính phủ ban hành ngày 17/8/1994 là văn bản đầu tiên của thời kỳ đ ổi mới, quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Phạm vi áp dụng chính sách đ ền bù được quy định tại Điều 1: “ Quy định này chỉ áp dụng để đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng…” thay thế tất cả các văn bản chính sách trước đây của Nhà nước về đền bù, Giải phóng mặt bằng. Về đất an ninh, quốc phòng, Luật đất đai đã quy định cụ thể tại Điều 65: “ Đất sử dụng vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, là đất dùng để xây dựng đường giao thông, trường học, cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, bệnh viện, chợ, công viên, khu vui chơi giải trí, sân bay bến cảng…”. Như vậy, có thể thấy phạm vi điều chỉnh của Nghị định này chưa bao chùm h ết các mục đích sử dụng đất theo các quy đ ịnh của luật đất đai( chẳng hạn như xây dựng khu đô thị mới, thự hiện các dự án đầu tư nước ngoài, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân hay các doanh nghiệp Nhà nước….). Về đền bù thiệt hại, Điều 6 của Nghị định số 90/CP thể hiện chủ trương đền bù bằng đất có cùng mục đích sử dụng, cùng hạng để thay thế, hoặc đền bù thiệt hại bằng tiền theo giá đất cùng mục đích sử dụng. Về đền bù thiệt hại tài sản, Điều 11 của Nghị định có nêu, việc đền bù thiệt hại đối với nhà ở, vật kiến trúc và các công trình gắn liền với đất được tính bằng giá tri hiện có của
- công trình (theo tỷ lệ% giá trị còn lại của công trình nhân với đơn giá xây dựng mới). Đối với cây hàng năm, vật nuôi trên đất, mặt nước được tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch một vụ tính theo mức bình quân của 3 vụ trước đó theo giá nông sản tại thời điểm thu hồi đất, và các cây lâu năm khác. Về chính sách hỗ trợ, Nghị định 90/CP không quy đ ịnh các chính sách cụ thể về hỗ trợ người sử dụng đất khi bị thu hồi. Về chính sách tái đ ịnh cư, Ngh ị định 90/CP không quy định các chính sách cụ thể về TĐC cho người sử dụng đất khi bị thu hồi đất mà chỉ nêu quỹ dất sử dụng để đền bù thiệt hại và nêu ra nguyên tắc về đền bù thiệt hại đối với đất ở, đó là được đền bù bằng đất theo đúng diện tích, hạng đất thu hồi (Khoản 2 Điều 8), đối với đất ở đô thị thì đền bù chủ yếu bằng tiền hoặc bằng nhà ở. So với các văn bản trước, Nghị định số 90/CP có mức độ chi tiết và tính toàn diện cao hơn, quy định rõ hơn đối tượng được hưởng chính sách đền bù thiệt hại, phân biệt rõ giữa đơn vị, hộ gia đình sử dụng bất hợp pháp hay hợp pháp để có chế độ đền bù hay không đền bù, mức độ đền bù tuỳ theo tính hợp pháp về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản của người bị thu hồi đất. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện Nghị định số 90/CP cho thấy có nhiều vướng mắc nay sinh do phạm vi, đối tượng đền bù chưa bao quát hết, giá đền bù chênh lệch xa với thực tế, trình tự thủ tục đền bù còn thiếu sót.... Mặt khác, một thực tế diễn ra là sau khi Nhà nước thu hồi đất và đã được đền bù, người sử dụng đất gặp nhiều khó khăn trong việc ổn định đời sống, đặc biệt là những người bị thu hồi hết đất sản xuất, phải chuyển sang ngành nghề khác. Những vấn đề này đòi hỏi Nhà n ước phải có chính sách, pháp luật phù hợp vừa bảo đảm thời gian thi công các công trình, vừa bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất, bảo đảm ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh các văn bản quy định trực tiếp về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, thời ký này còn có một số các văn bản liên quan như: Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đ ình, cá nhân s ử dụng ổn đ ịnh và lâu dài vào mục
- đích sản xuất nông nghiệp; Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định 88/CP ngày 17/8/1994 về quản lý và sử dụng đất đô th ị; Nghị định 60/CP ngày 5/7/1994 về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đô thị; Nghị đ ịnh 87/CP ngày 17/8/1994 quy định về khung giá các loại đất, cùng với Quyết định số 302/TTg ngày 13/5/1996 được sử dụng để xác đ ịnh số tiền trả cho quyền sử dụng đất, thuê đất và đền bù cho đất khi Nhà nước thu hồi đất. Do tác động của c ơ chế thị trường cùng với số lượng có sử dụng đất ngày càng tăng, việc đ ền bù Giải phóng mặt bằng ngày càng trở lên khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có sự bổ sung, thay thế, điều chỉnh các văn bản cũ cho phù hợp với thực tế, đặc biệt là khi Việt Nam ký kết các hiệp định vay vốn với các tổ chức quốc tế. B.Giai đoạn từ năm 1998 đến nay. Giai đoạn này là giai đoạn nước ta đang thực hiện chính sách đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy khối lượng các dự án phát triển c ơ sở hạ tầng- kỹ thuật tăng nhanh đáng kể, và hàng năm Nhà nước phải thu hồi một số lượng lớn diện tích đất các loại để phục vụ cho dự án. Trong thời kỳ này Nghị định 90/CP không còn phù hợp nữa. Ngày 22/4/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/1998/NĐ-CP thay thế Ngh ị định số 90/CP về việc đền bù thiệt hại khi Nhà n ước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Cho đến thời đ iểm này đây là văn bản quan trọng nhất của Nhà nước thể hiện chính sách đền bù, Giải phóng mặt bằng và tái đ ịnh cư. So với Nghị định 90/CP Nghị định 22/CP có rất nhiều đ iểm tiến bộ trong chính sách đền bù, Giải phóng mặt bằng, tái định cư của Nhà nước đối với người bị thu hồi đất. Điểm nổi bật là Nghị định này đã có thêm hai chương mới, đó là chính sách hỗ trợ và lập khu tái định cư. Về phạm vi áp dụng, Ngh ị định 22/CP quy định tương tự nh ư Nghị định 90/CP song đã mở rộng thêm các hình thức sử dụng đất vào mục đ ích lợi ích quốc gia, lợi ích
- công cộng, bao gồm cả đất sử dụng cho các dự án sản xuất kinh doanh, khu chế xuất, khhu du lịch, khhu dân c ư tập chung và các dự án đầu tư phát triển khác đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết đ ịnh. Về trách nhiệm đền bù, Nghị định 22/CP quy định: các tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất phải đền bù. Giá đất để tính đền bù thiệt hại được xác định trên cơ sở giá đất của đ ịa phương ban hành theo quy đ ịnh của Chính phủ nhân với hệ số K để đảm bảo giá đất tính đền bù phù hợp với khả năng sinh lời và giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế ở đ ịa phương. Về đền bù tài sản, tài sản trên đất hợp pháp và có khả năng hợp pháp hoá được đền bù 100% giá trị tài sản, tài sản trên đất sử dụng bất hợp pháp sẽ được trợ cấp 70-80% mức đền bù hoặc không đ ược trợ cấp, không được đền bù tuỳ theo mức độ bất hợp pháp của quyền sử dụng đất và tài sản. Về mức đền bù,tài sản được đền bù theo mức thiệt hại thực tế bằng giá trị hiện có của nhà và công trình cộng thêm một khoản tiền tính theo tỷ lệ % trên giá trị hiện có của nhà và công trình, nh ưng tổng mức đền bù tối đa không lớn h ơn 100% và không nhỏ h ơn 60% giá trị của nhà, công trình theo giá xây dựng mới. Riêng đối với nhà cấp IV, nhà tạm và công trình phụ độc lập, mức đền bù thiệt hại được tính bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có têu chuẩn kỹ thuật tương đương theo giá chuẩn do UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương ban hành theo quy đinh của Nhà nước. Đối với nhà, công trình bị phá vỡ một phần, nhưng phần diện tích còn lại không còn sử dụng được thì được đền bù thiệt hại cho toàn bộ công trình. Đối với nhà, công trình bị phá dỡ một phần, nhưng vẫn tồn tại sử dụng đ ược phần diện tích còn lại thì được đền bù phần công trình phá dỡ và đền bù toàn bộ chi phí sửa chữa, hoàn thiện công trình còn lại.
- Đói với nhà, công trình có thể tháo rời và di chuyển đến chỗ ở mới để lắp đặt thìo chỉ đền bù các chi phí tháo dỡ, vận chuyển, lắp dặt. Mức đền bù cho mỗi hộ phải di chuyển chỗ ở trong phạm vi tỉnh, Thành phố được đền bù từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng; nếu di chuyển chỗ ở sang tỉnh khác thì được đền bù từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Mức cụ thể do UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương quy định. Đền bù thiệt hại về mồ mả. Đối với việc di chuyển mồ mả, mức đền bù được tính cho chi phí về đất đai, đào, bốc, di chuyển, xây dựng lại và các chi phí hợpu lý khác có liên quan trực tiếp. Đền bù thiệt hại về hoa màu. Mức đền bù thiệt hại đối với cây hàng năm, vật nuôi trên đất có mặt nước được tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch trong một năm theo năng suất bình quân của 3 năm trước đó với giá trung bình của nông sản, thuỉy sản cùng loại ởt địa phương tại thời điểm đền bù. Mức đền bù thiệt hại đối với cây lâu năm, được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây (không bao hàm giá trị đ ất) tại thời điểm thu hồi đất theo giá của địa phương. Về chính sách hỗ trợ, Nghị định 22/CP đã đưa ra chính sách hỗ trợ ổn định sản xuất và đời sống đối với những người phải di chuyển chỗ ở được tính trong thời hạn 6 tháng, với mức trợ cấp tính bằng tiền cho một nhân khẩu/1 tháng tương đương 30kg gạo theo giá trung bình ở đ ịa phương tại thời điểm đền bù. Đối với người phải di chuyển đến khu tái đinh cư của tỉnh khác thì được trợ cấp một năm và hưởng chính sách đi vùng kinh tế mới (Điều 25, mục 1). Trong trường hợp nếu người di dời, đời sống sản xuất bị ảnh hưởng kéo dài thì tuỳ tình hình UBND tỉnh, Thành phố hỗ trợ trong thời hạn là 1 năm. Ngh ị định còn quy định việc hỗ trợ theo chế độ trợ cấp ngừng việc cho cấn bộ, công nhân viên của doanh nghiệp phải di chuyển đến địa điểm mới trong thời gian ngừng sản xuất, kinh doanh (Điều 25, mục 2) hỗ trợ ch phí đào tạo cho những lao động nông nghiệp
- phải chuyển nghề khác và ưu tiên tuyển dụng lao động cho các đối tượng có đất bị thu hồi (Điều 25, Mục 4). Ngoài ra, Nghị định còn quy định hỗ trợ đối với những người đang hưởng trợ cấp xã hội của Nhà nước phải di chuyển chỗ ở và trợ cấp khuyến khích di dời cho những người di chuyển đúng thời hạn. Ngoài những quy định đền bù thiệt hại về đất, Nghị định 22/CP còn quy định nguyên tắc đền bù thiệt hại về tài sản, đền bù thiệt hại cho người thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, đền bù thiệt hại đối với công trình văn hoá, di tích lịch sử, đình, chùa, đền bù thiệt hại đối với các công trình kỹ thuật hạ tầng và đền bù trong trường hợp được giao đất tạm thời. Trình tự, thủ tục bồi thường thiệt hại, tái định cư. Khi có quyết định thu hồi đất và giao đất, cho thuê đất của cơ quan Nhà nư ớc có thẩm quyền, chủ đầu tư phải nộp hồ sơ tại UBND quận(huyện) nơi có đất thu hồi. Sau khi kiểm tra kỹ, Chủ tịch UBND quận (huyện) quyết định thành lập Hội đ ồng GPMB. Bước tiếp theo là xác lập số liệu, cơ sở pháp lý về đ ất đai, tài sản làm c ăn cứ lập phương án bồi thường thiệt hại và tái đ ịnh cư. Bước ba là lập phương án bồi thường thiệt hại và tái đinh cư. Bước 4 là phê duyệt phương án bồi thường thiệt hại, tái định cư (việc phê duyệt này thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND quận (huyện)). Chính sách lập khu tái định cư. Việc thu hồi đất của Nhà nước là mang tính bắt buộc đối với người dân. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, c ơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, hộ gia đình, cá nhân sử dung ổn định lâu dài. Nhưng khi cần thiết để Nhà nước có thể thu hồi
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: Hoàn thiện chính sách tiền lương tại Công ty Cổ phần Vật tư vận tải xi măng
86 p | 408 | 78
-
Luận Văn“ Hoàn thiện chính sách và phương thức đền bù, giải phóng mặt
81 p | 212 | 76
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn hóa du lịch: Hoàn thiện chính sách giá tại công ty CPDL Nữ Hoàng
84 p | 298 | 73
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới
18 p | 226 | 70
-
LUẬN VĂN:Hoàn thiện chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi
110 p | 152 | 52
-
Luận văn: Hoàn thiện chính sách cổ tức cho các doanh nghiệp ngành thủy sản niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
138 p | 195 | 38
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đến năm 2020
0 p | 174 | 32
-
Luận văn thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam
98 p | 144 | 30
-
Luận văn: Hoàn thiện chính sách sản phẩm tại Công ty Dược – Trang thiết bị y tế Bình Định
118 p | 110 | 23
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện chính sách Marketing cho sản phẩm “Hệ dàn thép mạ trọng lượng nhẹ smartruss” của công ty TNHH NS Bluescope Lysaght Việt Nam
26 p | 122 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chính sách thúc đẩy đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
152 p | 71 | 13
-
Luận văn thạc sĩ Chính sách công: Hoàn thiện chính sách hỗ trợ các xã ATK cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
111 p | 59 | 7
-
Tóm tắt luận án tiến sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chính sách đối với đào tạo theo nhu cầu xã hội của các trường đại học Việt Nam
33 p | 40 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện chính sách marketing tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đà Nẵng
112 p | 12 | 4
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời tại Việt Nam
15 p | 29 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện chính sách marketing đối với dịch vụ thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Nam Gia lai
128 p | 13 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chính sách chăm sóc khách hàng tại Ngân hàng TMCP An Bình – Chi nhánh Đà Nẵng
24 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn