BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ LÊ HỒNG
HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ THUẬT
CHẠM KHẮC ĐÌNH HOÀNH SƠN
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
HÀ NỘI – 2017
2
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ LÊ HỒNG
HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ THUẬT
CHẠM KHẮC ĐÌNH HOÀNH SƠN
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Chuyên ngành : Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số : 60 21 01 02
Niên khóa : K18(2015-2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
PGS.TS. LÊ VĂN SỬU
HÀ NỘI – 2017
3
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ĐH : Đại học
ĐHMTVN : Đại học Mỹ Thuật Việt Nam
GS : Giáo sư
Tr : Trang
PGS : Phó giáo sư
TS : Tiến sỹ
Tp : Thành phố
H : Hình
VMT : Viện Mỹ Thuật
Nxb : Nhà xuất bản
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài................................................................................ 4
3. Mục đích của luận văn .....................................................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................10
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................11
7. Kết cấu của luận văn .......................................................................................11
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ......12
1.1. Một số khái niệm sử dụng trong đề tài ..........................................................12
1.1.1. Khái niệm “hình tượng con người”. ...........................................................12
1.1.2. Khái niệm “ nghệ thuật chạm khắc đình làng” ..........................................14
1.1.3. Khái niệm “hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng” ....16
1.2. Khái quát về đình Hoành Sơn .......................................................................18
1.2.1. Lược sử đình Hoành Sơn ..........................................................................18
1.2.2. Khái quát kiến trúc đình Hoành Sơn .........................................................20
1.2.3. Khái quát nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn .....................................23
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................26
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG
NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC ĐÌNH HOÀNH SƠN ...................................27
2.1. Hình tượng con người được thể hiện qua nội dung chủ đề nghệ thuật chạm
khắc ......................................................................................................................27
2.1.1. Hình tượng con người trong lao động sản xuất. ........................................27
2.1.2. Hình tượng con người trong đời sống sinh hoạt ........................................29
2.1.3. Hình tượng con người trong hoạt động vui chơi giải trí. ...........................32
2.2. Hình tượng con người được thể hiện qua hình thức nghệ thuật chạm khắc ............ 35
2
2.2.1. Hình tượng con người thể hiện qua hình khối. ..........................................35
2.2.2. Hình tượng con người thể hiện qua đường nét. .........................................40
2.2.3. Hình tượng con người thể hiện qua cấu trúc tỉ lệ. ......................................43
Tiểu kết chương 2. ................................................................................................45
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI
TRONG NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC ĐÌNH HOÀNH SƠN VÀ NHỮNG
BÀI HỌC RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ................................47
3.1. Giá trị nghệ thuật của hình tượng con người trong chạm khắc đình Hoành
Sơn ........................................................................................................................47
3.2. Bài học rút ra từ việc nghiên cứu đề tài hình tượng con người trong chạm
khắc đình Hoành Sơn ...........................................................................................54
Tiểu kết chương 3. ................................................................................................55
KẾT LUẬN .........................................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................59
PHỤ LỤC ẢNH MINH HỌA...........................................................................62
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đình làng là công trình kiến trúc quen thuộc và thân thuộc đối với cư dân
sống trong cộng đồng làng xã. Hầu như ở mỗi làng quê Việt Nam, đều có một
ngôi đình, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là sản phẩm chung của cộng
đồng, do tất cả các thành viên góp công tạo dựng nên. Đình làng là nơi sinh hoạt,
hội họp, vui chơi của cả cộng đồng làng …. Đặc biệt đình cũng là một công trình
kiến trúc điêu khắc, nơi biểu đạt tư tưởng, tình cảm, những rung động của người
thợ - những nghệ sỹ dân gian thể hiện cuộc sống muôn vẻ của làng quê thông
qua nghệ thuật chạm khắc.
Đình Hoành Sơn, Nam Đàn, Nghệ An là một ngôi đình nổi tiếng. Đây là
một di tích được xếp hạng quốc gia vào năm 1984. Hệ thống kiến trúc này nằm
ven chân đê, trên bờ hữu ngạn sông Lam, thuộc làng Hoành Sơn, xã Khánh Sơn,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Trải qua bao thời gian, nhiều biến động lịch sử,
sự tàn phá của thiên tai và con người, hiện nay di tích cấp quốc gia đã và đang
xuống cấp nghiêm trọng. Nhưng những gì còn sót lại vẫn khẳng định giá trị nghệ
thuật ở đây vô cùng độc đáo và đậm nét.
Đình Hoành Sơn cũng nằm trong kiểu thức chung của các đình cùng thời,
nhưng nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn được đánh giá có nét đặc sắc
riêng. Đình được xây dựng vào khoảng thế kỷ 18, khi mà đình làng ở miền Bắc
bắt đầu vắng hình tượng con người. Tuy nhiên ở đây lại xuất hiện phong phú
hình ảnh chạm khắc về con người. Nếu như các đình khác ở miền trung ít có
hình tượng con người thì đình Hoành Sơn lại chứa đựng những bức chạm vô
cùng hấp dẫn thể hiện cảnh sinh hoạt dân gian cũng như phong tục tập quán,
những hoạt động trong ngày lễ hội vô cùng sinh động trên các ván nong. Hình
ảnh con người hài hòa cân đối, thuận mắt không gian mang tính ước lệ. Một điều
khá đặc biệt nữa là trên nhiều bức chạm được khắc chữ để khái quát nội dung
bức chạm, ngoài ra đó còn làm chặt thêm bố cục.
4
Hình tượng con người ở đình Hoành Sơn có những nét độc đáo so với các
đình khác ở phía Bắc vùng đồng bằng Bắc Bộ ở thế kỷ 17 và đình Trung Cần,
Nghệ An ở thế kỷ 18. Nét độc đáo được thể hiện ở nội dung với các chủ đề lao
động sản xuất, đòi sống sinh hoạt, vui chơi giải trí; hình thức thể hiện hình tượng
con người như đường nét, hình khối, tỷ lệ để tạo nrrn một hình tượng nghệ thuật
sống động.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu về đình Hoành Sơn nhưng trên phương diện
tìm hiểu di tích và văn hóa lịch sử. Có một số tài liệu viết về đình Hoành Sơn
nhưng ở góc độ giới thiệu về đình làng hay nêu khái quát về kiến trúc cũng như
chạm khắc của đình. Chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về hình tượng con
người trong chạm khắc của đình. Đây là lí do tôi chọn vấn đề nghiên cứu hình
tượng con người trong chạm khắc đình Hoành Sơn để làm luận văn tốt nghiệp.
Qua đó sẽ giúp cá nhân tôi có thể hiểu được nội dung cũng như hình thức thể
hiện hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn. Rút ra
được giá trị nghệ thuật và bài học của hình tượng con người trong nghệ thuật
chạm khắc đình Hoành Sơn, hiểu được sự sáng tạo trong nghệ thuật chạm khắc
đình và góp phần giữ gìn phần nào giá trị to lớn của nghệ thuật chạm khắc cổ
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
*Tư liệu sách:
Trong cuốn Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống
Việt [1], tác giả PGS.TS Trần Lâm Biền đã đi sâu phân tích về hình tượng con
người trong các loại hình nghệ thuật truyền thống, trong đó có nghệ thuật chạm
khắc đình làng. Tác giả khẳng định chạm khắc đình làng phát triển rực rỡ nhất là
vào thế kỷ XVII, gắn liền với các đề tài con người và những cảnh sinh hoạt
thường nhật, ít thấy đề tài về cảnh vua quan phong kiến. Tìm hiểu về những bức
chạm khắc đó, chúng ta đều có cảm giác như đang tái hiện diện mạo xã hội
đương thời. Tác giả đã chỉ ra một số đề tài thường thấy trên các bức chạm khắc
5
đình làng thời kỳ đó như: vũ nữ thiên thần, cảnh đấu võ (đấu vật, cưỡi ngựa đấu
đao…), săn đấu với thú dữ, chèo thuyền, chọi gà, các trò vui ngày hội (chơi cờ,
hát của đình, đá cầu, uống rượu), cảnh múa nhạc. Nhưng nổi bật hơn cả là cảnh
trai gái tình tự, đàn bà khỏa thân.
Trong cuốn Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt [2],
PGS.TS.Trần Lâm Biền, NXB Mỹ Thuật Hà Nội. Công trình nghiên cứu chủ
yếu tập trung vào chủ đề, thủ pháp tạo hình và kỹ thuật thể hiện hình tượng con
người trong chạm khắc đình làng. Từ đó đưa ra những nhận định về những giá
trị trong nghệ thuật trang trí truyền thống của dân tộc.
Trong cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình [28], tác giả Trần
Đình Thọ biên tập, là tập hợp nhiều bài viết về tính dân tộc trong các tác phẩm
tạo hình. Có nhiều bài đề cập tới điêu khắc đình làng nhìn từ góc độ văn hóa.
Tác giả cho rằng, các chủ đề thể hiện trong những công trình kiến trúc đình, đền,
chùa đều mang hình tượng thực sự của hiện thực…Nó là hình tượng của một
cảnh sinh hoạt cụ thể, nhưng lại mang tính của thời đại.
Trong cuốn Điêu khắc đình làng [3, tr.40,45], tác giả Trương Duy Bích
đã nhận định, sự phát triển của phù điêu đình làng không chỉ đơn thuần nhằm
giải quyết trang trí, làm giảm nhẹ cảm giác nặng nề của kiến trúc mà làm bật lên
tiếng nói mới. Tiếng nói của tâm tư tình cảm người lao động, những suy nghĩ
nguyện ước của đời thường .
Trong cuốn Văn minh vật chất của người Việt [32, tr.507], nhà phê bình
mỹ thuật Phan Cẩm Thượng đã nêu lên nguồn gốc các chủ đề sinh hoạt thường
nhật của con người trên những mảng chạm khắc trang trí đình làng dưới góc độ
văn hóa học. Ông cho rằng những người thợ dân gian xưa đã khéo léo, khôn
ngoan đưa những đề tài dân gian vào điêu khắc đình làng dưới bức màn tôn giáo.
Qua quá trình tìm hiểu ông cho rằng phù điêu đình làng có thể coi là cuốn dã sử
tái hiện lại cuộc sống của người dân lúc bấy giờ: “Cái nhìn tín ngưỡng và nho
giáo dưới góc độ dân gian vẫn là hình thức bên ngoài của những bức phù điêu,
6
nhưng bên trong đầy rẫy những hoạt cảnh dung tục và thường ngày như người
dân đang sống và vẫn sống như thế”
Trong cuốn Đình làng Nghệ An với lễ hội dân gian [27], Phan Xuân
Thành, Nxb Nghệ An, tác giả có nêu tổng quan tư liệu về đình làng Nghệ An,
nguồn gốc đình làng, kiến trúc đình qua không gian, thời gian, điêu khắc đình
làng, thần và tín ngưỡng đình, lễ hội đình làng. Sách nêu khái quát các phần, kể
cả phần chạm khắc đình tác giả nói sơ lược, chưa cụ thể chi tiết phần chạm khắc
và nội dung chạm khắc trong đình Hoành Sơn.
Trong cuốn Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng
vùng châu thổ sông Hồng [25], Trần Đình Tuấn, Nxb Lao động, tác giả nghiên
cứu hình tượng con người trang trí truyền thống, trong nền văn hóa Đông Sơn.
Nội dung chủ đề của hình tượng con người bắt đầu từ thời kỳ đồ đồng đến thế kỷ
XIX. Trong bài có nhắc đến đình Hoành Sơn, đình Trung Cần ở Nghệ An theo
cách khái quát chung, không đi sâu phân tích hình tượng con người trong chạm
khắc.
Trong cuốn Mỹ thuật đình làng đồng bằng Bắc Bộ (7, tr.21), tác giả
Nguyễn Văn Cương đã miêu tả nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đình làng theo
sự phân cắt các biểu tượng với các tư liệu hết sức phong phú. Theo tác giả, các
yếu tố văn hóa đã chi phối các giá trị thẩm mỹ, mô thức thẩm mỹ của người Việt
khi nghiên cứu mỹ thật đình làng góc độ nghệ thuật học.
Trong cuốn Mỹ thuật thời Mạc [5], tác giả Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Du
Chi,Trần Lâm, Nguyễn Bá Vấn đã đưa ra và phân tích các đặc điểm trang trí thời
Mạc trên một số ngôi đình. Đó là những hoạt cảnh người, thể hiện rất rõ tính
chất dân dã, đồng thời đề tài này như nét khởi đầu cho sự phát triển rầm rộ của
nghệ thuật tạo hình nhiều nét dân gian cuối thế kỷ XVII.
Trong cuốn Tiếp xúc với nghệ thuật [37], nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá
Vân qua bài nghiên cứu “ Điêu khắc đình làng” đã viết một cách sâu sắc về nền
điêu khắc đình làng. Theo đó ông nhận định về loại hình nghệ thuật này dưới
7
góc độ văn hóa, là sự tiếp nối mỹ thuật truyền thống của dân tộc, có đủ sự đóng
góp của nghệ thuật Lý, Trần, Mạc….Điều đó chứng tỏ sự phát triển liên tục của
dòng nghệ thuật. Tác giả cũng khẳng định, nghệ thuật điêu khắc đình làng mang
tính truyền thống có kế thừa và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, đó chính
là biểu hiện của sự tiếp diễn văn hóa qua nhiều thời kỳ.
Trong cuốn Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt [11], tác
giả Trần Lâm Biền đã kết luận về hoa văn trang trí hình tượng con người trong
chạm khắc truyền thống như sau: Về đề tài con người, tổ tiên chúng ta đã đi từ
con người vũ trụ (thần linh hoặc linh nhân nơi thiên quốc), là những nhạc sỹ
thiên thần, vũ nữ thiên thần, nhạc công đầu người mình chim… đang chuyển dần
sang thiên thần dưới dạng thế nhân. Để rồi từ thế kỷ XVI nhất là thế kỷ XVII, sự
náo nức làm ồn ào tâm tưởng được thể hiện qua các hoạt cảnh gắn với đời
thường, là các cảnh vui chơi và ước vọng ngày hội. đặc biệt là cảnh tình tự nam
nữ quá bạo mạnh, khiến chúng ta ngờ vực về vai trò đạo Nho trong xã hội bình
dân, mà chuyển sự suy tư sang mối quan hệ âm dương
*Tư liệu từ các luận án.
Luận án tiến sỹ lịch sử Đình Võ Liệt trong bối cảnh đình làng Nghệ An
[27], Phan Xuân Thành, Viện Khảo Cổ Học. Luận án nghiên cứu sâu về kiến
trúc và điêu khắc của đình Võ Liệt. Ngoài ra trong luận án tác giả có giới thiệu
sơ lược về kiến trúc và điêu khắc đình Hoành Sơn. Chưa đi vào chi tiết nội dung
hình tượng con người trong các bức chạm khắc.
Luận án tiến sỹ Những ngôi đình làng thế kỷ XVI ở Việt Nam [12],
Nguyễn Hồng Kiên đã đi sâu nghiên cứu về loại hình kiến trúc đình làng trong
lịch sử. Đặc biệt luận án đi sâu nghiên cứu những kiến trúc đình làng có niên đại
sớm ở nước ta, đặt tiền đề cho việc nghiên cứu hệ thống kiến trúc đình làng giai
đoạn sau này.
*Tư liệu từ các luận văn.
8
Luận văn thạc sỹ mỹ thuật Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và văn hóa
đình làng Việt Nam [10], Phan Văn Hùng, trường ĐHMTVN. Tác giả nghiên
cứu nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đình làng, trong luận văn tác giả có nêu
một số ngôi đình của miền trung một cách khái quát chưa cụ thể, chưa nói đến
nội dung các bức chạm khắc trong ngôi đình.
Luận văn thạc sỹ mỹ thuật “Nghệ thuật chạm khắc đình làng Hưng Lộc,
Nam Định”[36], Lương Văn Phường, trường ĐHMTVN.Trong luận văn tác giả
có nói đến giá trị nghệ thuật tạo hình, chạm khắc trong ngôi đình, nhưng chư nói
rõ chạm khắc có hình tượng con người được thể hiện như thế nào qua hình thức
và nội dung trong chạm khắc của đình.
Luận văn thạc sỹ mỹ thuật “Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc đình Thượng
Phú- Thanh Hóa”[19], Nguyễn Hồng Quân, trường ĐHMTVN.Tác giả có
nghiên cứu về nghệ thuật chạm khắc đình làng Thượng Phú với những đề tài,
ngôn ngữ tạo hình và thủ pháp tạo hình, kỹ thuật chạm khắc đình Thượng Phú.
Luận văn thạc sỹ mỹ thuật “ Nghệ thuật điêu khắc đá lăng Vũ Hồng
Lượng”[16], Vũ Thị Kim Ngân, trường ĐHMTVN. Tác giả đã nghiên cứu tạo
hình nghệ thuật điêu khắc đá lăng Vũ Hồng Lượng. Nêu bố cục. hình khối, chất
cảm, không gian trong tạo hình điêu khắc đá.
*Tư liệu từ các tạp chí mỹ thuật.
Tạp chí Mỹ thuật Ý nghĩa của việc nghiên cứu di sản đình làng vùng đồng
bằng Bắc bộ [20, tr.64,70], Lê văn Sửu có nêu khái quát về công việc nghiên
cứu di sản văn hóa đình làng, ý nghĩa của công việc nghiên cứu đình làng đối với
giảng viên, sinh viên mỹ thuật và cả cộng đồng. Tác giả không nêu nghệ thuật
chạm khắc đình làng trong đó có hình tượng con người.
Tạp chí Mỹ thuật Phóng cách tạo hình tiên nữ đình làng Bắc bộ thế kỷ
XVII [14, tr.22,32], Lê Thị Liễu nghiên cứu những chạm khắc tiêu biểu về tiên
nữ đình làng Bắc bộ thế kỷ XVII. Việc đi sâu vào tìm hiểu motip tiên nữ cho
một kết quả đáng ngạc nhiên về mật độ xuất hiện của nhân vật trên chạm khắc
9
đình làng, các chạm khắc tiên nữ với rất nhiều hình dạng khác nhau và có các đề
tài gắn với hình tượng này. Tác giả chỉ nghiên cứu hình tượng tiên nữ không
nghiên cứu hình tượng con người trong chạm khắc đình làng.
Tạp chí Mỹ thuật Trò chơi dân gian trên chạm khắc đình làng đồng bằng
Bắc bộ thế kỷ XVII [33, tr.13,19], Tòng Thị Trang đã nêu các hoạt cảnh trò chơi
dân gian trên chạm khắc đình làng và nêu đặc trưng của chạm khắc. trong bài
viết tác giả có nêu các trò chơi dân gian như đua thuyền, đánh cờ mà những trò
chơi đó ở đình Hoành Sơn cũng thể hiện trong chạm khắc
*Tư liệu từ các tiểu luận tốt nghiệp.
Tiểu luận tốt nghiệp Hình tượng con người trong chạm khắc gỗ đình làng
Lâu Thượng Việt Trì Phú Thọ[15], Bùi Đức Mạnh trường ĐHMTVN. Tác giả
cũng nói qua về chức năng của đình làng, kiến trúc đình làng thế kỷ XVII, nghệ
thuật chạm khắc (chạm nông, chạm lộng, chạm bong, chạm kênh), nêu khái quát
hình tượng con người trong chạm khắc đình làng và hình tượng con người trong
chạm khắc gỗ đình Lâu Thượng Việt Trì Phú Thọ. Tác giả chưa đề cập đến phần so
sánh hình tượng con người trong đình Lâu Thượng với một số đình trong vùng cũng
như một số đình trong vùng đồng bằng sông Hồng cùng thế kỷ với nhau.
Tiểu luận tốt nghiệp Đề tài sinh hoạt trong chạm khắc đình làng Việt
Nam, [24], Lê Anh Tuấn, trường ĐHMTVN. Tác giả đã nêu lịch sử, chức năng,
kiến trúc của đình làng. Sự phong phú về nội dung cũng như hình thức thể hiện
đề tài sinh hoạt trong chạm khắc đình, tác giả giới thiệu những bức chạm khắc
tiêu biểu trong một số đình vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có bức “chèo
thuyền rồng” ở đình Hoành Sơn. Tác giả có nêu qua những đặc điểm chạm khắc
hình tượng con người bị ảnh hưởng của phật giáo nhưng tác giả không đề cập
đến ảnh hưởng của nho giáo trong chạm khắc đình làng .
Tiểu luận tốt nghiệp Hình tượng con người trong tranh dân gian Đông
Hồ- chạm khắc đình làng – múa rối nước [30], Đào Thị Phương Thùy, tiểu luận
tốt nghiệp, trường ĐHMTVN. Mục đích của tác giả là nghiên cứu về việc xây
10
dựng hình tượng nghệ thuật con người trong ba dạng nghệ thuật là dân gian
Đông Hồ, chạm khắc đình làng và rối nước nhằm tìm ra những nét tương đồng
và khác biệt. Cũng là đề tài hình tượng con người nhưng tác giả chưa đi sâu về
đề tài của con người trong chạm khắc đình làng.
3. Mục đích của luận văn
- Nghiên cứu nội dung và hình thức thể hiện hình tượng con người trong
nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn để làm rõ cách xây dựng nhân vật trong
nghệ thuật chạm khắc đình làng.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc thể hiện hình tượng con
người trong nghệ thuật chạm khắc Việt Nam để ứng dụng vào trong học tập và
sáng tác của cá nhân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu :
- Nghiên cứu hình tượng con người trong các mảng chạm khắc đình
Hoành Sơn.
Phạm vi nghiên cứu :
- Đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu các mảng chạm khắc gỗ phù điêu
trang trí trên kiến trúc đình Hoành Sơn có hình ảnh con người.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã: đi thực tế để khảo sát tình hình một số vùng, địa
phương có những di tích chạm khắc đình làng để chụp ảnh lấy tài liệu nhằm
minh chứng cho vấn đề nêu ra .
- Phương pháp thu thập thông tin: luận văn tổng hợp các tài liệu, hệ thống
tư liệu ảnh, văn bản, sách, tạp chí… để tìm kiếm thông tin về những vấn đề liên
quan đến hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng. Từ đó xử
lý, tổng hợp, hệ thống nhằm làm sáng tỏ hình tượng con người trong nghệ thuật
chạm khắc đình Hoành sơn .
11
- Phương pháp phân tích: dùng các lý luận ngôn ngữ trong mỹ thật học
phân tích diễn giải vấn đề mình nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh: tiến hành so sánh hình tượng con người trong
chạm khắc đình Hoành Sơn với một số công trình kiến trúc chạm khắc khác trong
vùng và vùng đồng bằng Bắc Bộ , nhằm chỉ ra vẻ đẹp độc đáo hấp dẫn riêng về nội
dung cũng như tạo hình của hình tượng con người trong đình Hoành Sơn
- Phương pháp diễn dịch: được áp dụng để trình bày và làm rõ vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp mỹ thuật học: dùng các lý luận ngôn ngữ trong mỹ thật
học phân tích diễn giải vấn đề mình nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đưa ra một cái nhìn toàn cảnh, tập trung về nội dung và hình
thức thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình Hoành
Sơn. Qua đó cho ta thấy giá trị nghệ nghệ thật đặc sắc của hình tượng con người
trong chạm khắc đình Hoành Sơn, từ đó rút ra được bài học từ việc nghiên cứu
đề tài.
- Luận văn góp phần bổ sung thêm phần nhỏ kiến thức, tài liệu nghiên cứu
lý luận nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn , Nghệ An
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận (2 trang),
phục lục (15 trang), tài liệu tham khảo (3 trang).
Nội dung chính được chia làm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài (16 trang)
Chương 2: Nghiên cứu hình tượng con người trong chạm khắc đình
Hoành Sơn (20 trang)
Chương 3: Giá trị nghệ thuật của hình tượng con người trong nghệ thuật
chạm khắc đình Hoành Sơn và bài học rút ra từ việc nghiên cứu đề tài.(10 trang)
12
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm sử dụng trong đề tài
1.1.1. Khái niệm “hình tượng con người”.
Khái niệm hình tượng
Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên giải thích từ “hình tượng”
là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức
những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm
tính.[ 18, tr.573]
Trong cuốn” từ điển mỹ thuật phổ thông” của Đặng Bích Ngân có giải thích
thuật ngữ “ hình tượng” là “ hình ảnh của các sự vật, trọng tâm là người, vật,
phong cảnh thông qua sự ghi chép thực tế hoặc trí nhớ của họa sỹ. Bằng óc sáng
tạo và bàn tay khéo léo, họa sỹ đã tạo ra những hình tượng trong tranh, còn nhà
điêu khắc tạo ra các hình tượng trong các phù điêu, tượng tròn…Nhà văn thể
hiện được những hình tượng điển hình cũng như những họa sỹ vẽ được những
hình tượng đặc trưng về nhân vật hoặc về khung cảnh thiên nhiên. Ở đây từ hình
tượng có ý nghĩa sâu sắc và đặc trưng gạn lọc từ các hình ảnh dễ thấy hoặc quá
quen thuộc bởi sự sáng tạo của người nghệ sỹ. Các hình tượng này thường tác
động mạnh đến người xem…[17,tr,85]
Trong cuốn “ từ điển Bách khoa Việt Nam” do hội đồng quốc gia chỉ đạo
biên soạn có giải thích thuật ngữ “hình tượng” là “ một đối tượng được được sản
sinh ra bằng hư cấu hay sự tưởng tượng sáng tạo của nghệ sỹ theo những quan
điểm thẩm mỹ nhất định giúp cho người ta hình dung được các sự vật, các sự
kiện, những con người như khả năng vốn có của chúng. Ở mỗi loại hình nghệ
thuật, hình tượng được bộc lộ dưới nhiều dạng khác nhau muôn hình muôn vẻ
tùy theo lý tưởng thẩm mỹ nói chung và quan điểm thẩm mỹ cụ thể của từng tác
giả. Song dù khác nhau thế nào, hình tượng vẫn có một cái chung: hình tượng là
13
kết quả của một phương thức tái tạo nào đó (con người, hoàn cảnh xã hội, cảnh
vật…) dưới một dạng tương đồng hoặc gũi và phù hợp với khả năng tồn tại
khách quan của chúng.
Trong mỹ học, thông thường thuật ngữ “hình tượng” được dung với hai
nghĩa: Nghĩa rộng để chỉ đặc điểm chung về phương thức phản ánh đời sống của
tất cả các loại hình nghệ thuật, phân biệt nghệ thuật với khoa học và các hình
thái ý thức xã hội khác: Nghĩa hẹp ( trong phạm vi tác phẩm) dùng để chỉ các
nhân vật trong tác phẩm.
Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật
dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình. Hình tượng là sản
phẩm sự nhận thức thẩm mỹ của con người trong quá trình phản ánh thế giới ở
lĩnh vực văn hóa mỹ thuật. Tuy hình tượng được hình thành trong mối quan hệ
giữa thế giới hiện thực khách quan với nhận thức chủ quan của con người nhưng
nó không phải là bản sao chép một cách máy móc theo đúng nguyên mẫu của thế
giới hiện thực bởi nó thuộc thế giới của sự sáng tạo. Hình tượng không chỉ phản
ánh hiện thực mà còn khái quát hóa, điển hình hóa toàn bộ thế giới hiện thực,
nhằm tìm ra được những yếu tố cốt lõi nhất của hiện thực khách quan. Nghệ
thuật được tư duy bằng hình tượng và không có hình tượng thì nghệ thuật không
thể tồn tại bởi vì trong các tác phẩm nghệ thuật, tất cả những gì tiềm ẩn ở bên
trong đều được phát lộ lên bề mặt tác phẩm. Tính hình tượng được xem là đặc
trưng chung, chủ yếu của tất cả các loại hình nghệ thuật ( văn học, hội họa, âm
nhạc, điện ảnh, điêu khắc…).
Từ những phân tích khái niệm hình tượng được trích dẫn từ các quyển từ
điển kết hợp với những kinh nghiệm trong sáng tác hội họa thì có thể xác định:
khái niệm hình tượng là sản phẩm đặc trưng chủ yếu của các loại hình nghệ
thuật và được hình thành từ sự nhận thức thẩm mỹ của con người trong quá trình
phản ánh hiện thực khách quan.
14
Khái niệm hình tượng con người
Trong hình tượng có rất nhiều hình tượng như hình tượng con người, hình
tượng thiên thiên, hình tượng con vật…nhưng một trong những hình tượng quan
trọng trong tác phẩm nghệ thuật đó là hình tượng con người.
Hình tượng con người vốn rất quen thuộc với mọi người, nhưng làm thế
nào để khác với hình tượng khai thác trước lại là công việc của mỗi nghệ sỹ.
Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình hay bất kỳ hình tượng nghệ
thuật nào khác đều phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống kết hợp với cảm xúc của
người nghệ sỹ. Nhưng để tạo ra hình tượng con người chừng đó là chưa đủ,
người nghệ sỹ phải nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội rồi từ đó chắt
lọc và sáng tạo nên.
Bằng ngôn ngữ tạo hình các nghệ sỹ đã để lại một kho tàng đồ sộ những
tác phẩm sáng tác về hình tượng con người, nhằm tôn vinh, ca ngợi vẻ đẹp hình
tượng con người. Chúng ta có thể bắt gặp hình tượng con người ở rất nhiều các
tác phẩm với những chất liệu khác nhau như trên mặt trống đồng cổ xưa, trên
những mảng chạm khắc đình làng, trên các chất liệu tranh sơn dầu, sơn mài, lụa,
tranh in…
Qua những phân tích về hình tượng và hình tượng con người có thể kết
luận: hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình là hình tượng mà trong đó
hình ảnh con người là trọng tâm nhân vật trong tác phẩm. Hình tượng con người
trong nghệ thuật được tác giả cô đọng, mô phỏng và sáng tạo nên, nó phản ánh
hiện thực khách quan của cuộc sống.
1.1.2. Khái niệm “ nghệ thuật chạm khắc đình làng”
Khái niệm nghệ thuật chạm khắc
Trong cuốn “ từ điển tiếng Việt” của Hoàng Phê có giải thích thuật ngữ “
chạm khắc”: là tạo nên những đường nét hoặc hình khối nghệ thuật trên mặt vật
rắn bằng cách đục, khắc; chạm là kỹ thuật đục xuống vật liệu như đá, gỗ,
ngà…để làm nổi bật lên các hình tượng nghệ thuật muốn diễn tả.
15
Trong cuốn từ điển “thuật ngữ mỹ thuật phổ thông” của Đặng Bích Ngân
có nêu thuật ngữ “chạm khắc” là vạch trũng xuống những đường nét, hình thể
chữ hoặc văn tự từ một bề mặt cứng như gỗ, kim loại, đá, bằng dụng cụ nhọn sắc
như dao trổ, đục….họa sỹ dùng dao khắc khắc lên những tấm gỗ làm thành ván
in để in tranh; nhà điêu khắc dùng đục, để chạm khắc trên những mặt gỗ hay
phiến đá… ,
Vậy nghệ thuật chạm khắc là sử dụng kỹ thuật đục, khắc, chạm…để tạo
nên những đường nét, hình khối, trên chất liệu như gỗ, đá, ngà, …nhằm làm nổi
bật lên hình tượng nghệ thuật muốn diễn tả.
Khái niệm chạm khắc đình làng
Trong cuốn “Điêu khắc đình làng”, tác giả Trương Duy Bích khẳng định:
“Nghệ thuật điêu khắc đình làng không chỉ đơn thuần mang tính chất trang trí
mà còn tác động mạnh đến cấu kiện kiến trúc về tính thẩm mỹ, làm cho tổng thể
công trình kiến trúc có được tiếng nói mới - Tiếng nói tâm tư, tình cảm của
người dân lao động”. [3,tr .40,45]
Cấu kiện kiến trúc nội thất ở đình làng được tập trung trang trí trên ván
cốn, ván lá đề, xà ngang, vì nách... Để những mảng gỗ đó đẹp có tính thẩm mỹ
các nghệ nhân đã trang trí họa tiết lên đó. Chính các họa tiết đó làm cho giá trị
thẩm mỹ của ngôi đình càng đẹp lên. Sự kết hợp giữa họa tiết và kiến trúc của
ngôi đình càng có giá trị nghệ thuật.
Thông qua chạm khắc đình làng các nghệ nhân đã thể hiện tiếng nói của
mình, tiếng nói tâm tư tình cảm, phản ánh thiên nhiên, con người của dân tộc.
Từ khái niệm chạm khắc và phân tích các cấu kiện trong đình làng thường
chạm họa tiết trang trí có thể kết luận: chạm khắc đình làng là chạm khắc mà các
họa tiết trang trí được người nghệ nhân sử dụng vào các cấu kiện kiến trúc của
đình làng. Các họa tiết đó đem lại giá trị nghệ thuật cho ngôi đình và phản ánh
tâm tư tình cảm của người nghệ sỹ.
16
1.1.3. Khái niệm “hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình
làng”
Hình tượng nghệ thuật:
Theo phạm trù cơ bản của mỹ học hình tượng nghệ thuật dùng để chỉ một
hình thức phản ánh hiện thực đặc thù bằng phương tiện nghệ thuật. Hình tượng
nghệ thuật khác với các phạm trù của tư duy khoa học như: khái niệm, phán
đoán, diễn dịch, do tính chất trực tiếp của nó. Đồng thời nó cũng khác với các
phạm trù khác như: cảm giác, tri giác, biểu tượng, vì ngoài sự phản ánh trực tiếp
hiện thực, nó còn nhằm tổng hợp các hiện tượng của đời sống theo một kiểu
riêng. Nó thâm nhập vào bản chất của các hiện tượng đó và làm sáng rõ ý nghĩa
sâu xa của nó. Hình tượng nghệ thuật làm xuất hiện một trong sự thống nhất
khăng khít các yếu tố của nhận thức trực quan tích cực và tư duy trừu tượng,
nhưng đồng thời nó cũng khác về bản chất.
Nếu như khoa học xã hội sử dụng những khái niệm, định nghĩa để thể hiện
mình thì nghệ thuật lấy hình tượng để diễn tả, tái hiện đối tượng, nội dung mà nó
đề cập. Khái niệm hình tượng nghệ thuật từ lâu đã không còn xa lạ với những ai
đã từng tiếp xúc với bất cứ loại hình nghệ thuật nào như: văn học, hội họa, điêu
khắc, ca kịch,… Người nghệ sĩ dùng hình tượng nghệ thuật để nhận thức và cắt
nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình, nhờ những hình tượng
đó mà sự vật hiện tượng được tái hiện một cách sinh động nhưng đồng thời cũng
nhờ nó mà cái tâm, cái tài người nghệ sĩ được thể hiện một cách tròn đầy và vẹn
nguyên nhất.
Từ những nhận định đã phân tích ở trên có thể kết luận hình tượng nghệ
thuật là: phương tiện nghệ thuật nhằm thể hiện cuộc sống phát sinh từ cuộc sống,
tác động vào tình cảm, thức tỉnh tư duy, giúp cho con người thức tỉnh được
mình, thức tỉnh mối quan hệ giữa chủ thể và khác thể, giữa cá nhân và xã hội,
giữa hiện thực và lý tưởng. Hình thượng nghệ thuật là điều kiện đầu tiên để tạo
nên giá trị của tác phẩm nghệ thuật
17
Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng:
Đình làng là nơi sinh hoạt, hội họp của cộng đồng làng. Nghệ thuật chạm
khắc ở đình làng rất phong phú với nhiều mootip trang trí khác nhau như các con
vật linh thiêng: rồng, phượng; thiên nhiên: hoa, lá, mây, nước…hoa, lá, mây,
nước. Ngoài ra còn có cả hình tượng con người được các nghệ nhân thể hiện ở
trong các đình làng.
Hình tượng con người trong chạm khắc đình làng không chỉ đơn thuần để
trang trí cho kiến trúc hoặc các hiện vật nào đó, mà chúng là sự kết tinh muôn
đời, muôn thuở của dân tộc Việt Nam. Hình tượng con người gắn vào cuộc sống
thường ngày trước việc ứng xử với cái đẹp, để trở thành những mảng tâm hồn
nhân thế và cõng trên lưng biết bao vấn đề lịch sử, xã hội của dân tộc. Chúng
luôn mang đậm nhiều khía cạnh về tiếng nói và chiếm địa vị vàng son trong văn
hóa nghệ thuật đương thời.
Hình tượng con người trang trí phía trong đình thường được sử dụng chất
liệu gỗ. Vì chất liệu gỗ không chịu được thời tiết khắc nghiệt ngoài trời như
nắng, mưa, gió…
Hình tượng con người trang trí phía ngoài đình thường sử dụng chất liệu
đá như trang trí dọc lan can thềm. lan can bậc thềm . Vì chất liệu đá cứng chịu
được thời tiết khắc nghiệt ngoài trời.
Các vị trí trong chạm khắc đình làng thường được trang trí hình tượng con
người đó là cốn, vì nách, xà ngang…đó là những vị trí mà chúng ta rất dễ nhìn
thấy hình ảnh chạm khắc khi bước vào đình
Những nội dung của hình tượng con người trong chạm khắc đình làng
thường gắn với đời sống con người thực, phản ánh xã hội và lịch sử. Những nội
dung đó thể hiện những khía cạnh khác nhau như hình tượng con người với lao
động sản xuất, hình tượng con người với vui chơi, giải trí, hình tượng con người
với lễ hội…. Hình tượng con người phản ánh đời sống sinh hoạt của nhân dân
lao động,
18
Từ những phân tích trên có thể nhận xét hình tượng con người trong nghệ
thuật chạm khắc đình làng như sau: là những hình tượng nghệ thuật phản ánh
đúng hiện thực cuộc sống của người dân, được thể hiện trong các vị trí kiến trúc
của đình làng . Nó mang lại tính thẩm mỹ cho kiến trúc của ngôi đình đồng thời
nói lên tâm tư tình cảnh của người nghệ nhân chạm khắc.
1.2. Khái quát về đình Hoành Sơn
1.2.1. Lược sử đình Hoành Sơn
Đình Hoành Sơn có tên gọi là đình Ngang, ở làng Nam Hòa Thượng, xã
Khánh Trung , huyện Nam Đàn, tình Nghệ An. Đình được xây dựng trên địa thế
bằng phẳng nhìn về phía Bắc, hướng ra dòng sông Lam, lưng tựa núi, đây được
xem là vị trí đẹp, thuận lợi nhất theo quy luật “ phong thủy” của người xưa:
trước là sông khoáng đạt, sau là núi, là cư dân tạo nên sự ấm cúng cho đình.
Ngôi đình được khởi công xây dựng vào tháng chạp năm Nhâm Ngọ -
Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 (tức là vào tháng 12 năm 1763) và đến cuối năm
Quý Mùi (1764) thì hoàn thành. Nghĩa là công việc xây dựng này được làm
trong vòng 1 năm.
Đình Hoành Sơn thờ U Minh Vương Lý Nhật Quang văn võ song toàn, tư
chất hơn người, là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ. Ông có công lập làng mới ở
tổng Nam Kim ( thuộc huyện Nam Đàn – Nghệ An). Triều đình phong ông là U
Minh Vương nhưng dân làng tôn ông là Thành Hoàng Tam tòa. Xứ Nghệ có hơn
một trăm nơi thờ ông, trong đó làng Hoành Sơn thờ làm Thành Hoàng ở đình.
Ngoài U Minh Vương Lý Nhật Quang, đình còn thờ Tứ vị Thánh Nương, Quan
Hầu Thông giám. Hiện nay đình còn thờ tám pho tượng Phật và bài vị các khoa
bảng. Dân làng coi đó là các vị Tiên hiền của họ.
Người khởi xướng và chủ sự xây dựng công trình này là ông Đặng Thạc-
ông đỗ cử nhân dưới triều vua Lê Hiển Tông(1740-1786) thuộc gia đình dòng
dõi thế tộc và có uy quyền rất lớn trong vùng. Tương truyền nhiều toán thợ có
tiếng đến nhận đề tài rồi bí mật làm vì toán thợ nào làm đẹp nhất thì được
19
thưởng lớn. Toán thợ Hoa Nam Thượng không được mời đến, họ bày mưu cử
người thợ giỏi nhất tên Chuẩn giả dạng ăn mày đến chỗ làm đình xin ngủ lại rồi
cố tình đốt cháy một vì ở phía Nam của ngôi đình, Đặng Thạc vô cùng tức dận
nhưng người ăn mày đã xin được làm lại, chỉ trong một thời gian ngắn một số
bức chạm đã khiến cả hội đồng kỳ mục phải kinh ngạc và thán phục. Đó cũng là
lý do giải thích tại sao các nét chạm trổ và nghệ thuật trang trí của ngôi đình lại
đa màu sắc đến thế. Sau này nhân dân đã suy tôn Đặng Thạc và người thợ tên
Chuẩn thành những vị phúc thần của làng.
Tương truyền, trong đình có rất nhiều pho tượng ( hơn 100 pho) nhưng
vào trận lũ lịch sử năm 1978 và 1988 đã làm con đê chắn trước chùa bị vỡ và
nước đã cuốn trôi gần hết số tượng đó, cho đến nay trong đình chỉ lưu giữ được
10 pho. Đình được xây dựng đồ sộ, uy nghiêm thể hiện tập trung nhất ở Bái
đường có 8 vì, 7 gian có tổng số 32 cột lim tròn, trong đó có 12 cột cái cao 5m,
đường kính 0,45m và 20 cột quân cao gần 4m. Trong đình có 4 hàng cột dọc và
8 hàng cột ngang, các vì kèo có kết cấu chồng rường. Kết cấu của đình đặc biệt
vững chắc có hệ thống chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt gió Lào và bão
lụt. Đình Hoành Sơn được bộ văn hóa công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào
tháng 7 năm 1984. Trải qua năm tháng đến nay đình Hoành Sơn hiện một số chi
tiết đã bị mất mát, hư hỏng, một số được làm lại.
Ngày hội hàng năm được tổ chức vào ngày 15 tháng 6 âm lịch. Trong
ngày hội, dân làng rước Đức Thánh Cả, Đức Thánh Nhì, Đức Thánh Ba, Đức
Thánh Tư, Đức Thánh Năm về đình và tổ chức bơi thuyền, đánh cờ người, đánh
đu…Trai lấy vợ, gái lấy chồng đều phải ra đình làm lễ trước Thành Hoàng. Lễ
hội ở đình Hoành Sơn gồm hai phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ bao gồm rước
văn, lễ tế vật, lễ thượng hương, lễ dâng rượu, lễ đọc chúc, lễ hưởng lộc. Phần hội
có các trò chơi, thi đấu như đua thuyền, đánh cờ, đấu võ, đấu vật…
Đình Hoành Sơn là một công trình tưởng niệm chung cho tất cả những
người đã có những đóng góp lớn lao cho sự ra đời, trưởng thành, phát triển phồn
20
thịnh của làng Hoành Sơn và nước Việt Nam. Đó là những tư liệu quý giúp cho
việc sưu tầm biên soạn về lịch sử văn hóa và truyền thống của nhân dân ta.
1.2.2. Khái quát kiến trúc đình Hoành Sơn
Đình Hoành Sơn cũng giống bao ngôi đình khác phản ánh đậm nét tư
duy dân dã của người Việt xưa. Đình tọa lạc trên một khuôn viên rộng với bố
cục kiến trúc truyền thống, gồm các hạng mục chính, tính từ ngoài vào sân
đình, bãi đường, hậu cung. Ngoài ra còn có văn từ và một số hạng mục phụ trợ
khác...Đình có kiến trúc hình chữ Nhất quay về hướng Bắc là hướng đắc địa, hướng
được coi là khá phù hợp với quy luật của âm dương đối đãi, người dân quan niệm
rằng theo hướng này là thần thường xuyên ban phước và che chở cho họ.
Đình Hoành Sơn có kiến trúc rất đồ sộ làm theo kiểu chữ Nhất. có 4 mái
lợp ngói âm dương, bốn đầu đao cong vút với hình “ long vân” nhìn về bốn
hướng. Dọc các bờ mái là đường viền hoa thị được đắp bằng vôi vữa, phía trên
bờ nóc là hình ảnh “ lưỡng long chầu nguyệt” một hình ảnh quen thuộc của rất
nhiều ngôi đình Việt Nam.
Đình có bảy gian, hai chái. Mỗi gian do một đám thợ đảm nhận nên từng
gian có sắc thái nghệ thuật riêng. Trên các xà nhà, các đường kèo đều được
chạm trổ tinh vi. Nhưng tất cả đều phản ánh sinh hoạt của người dân lao động
thời đó. Phong cách kiến trúc nghệ thuật điêu khắc ở đình Hoành Sơn mang
dáng dấp của lối kiến trúc thế kỷ 17– 18. Các vì kèo liên kết cấu trúc “ chồng
diêm”. Các cột đình đều có đường kính trên 50cm và là cơ sở chịu lực của toàn
bộ kết cấu đình.
Bố cục đình Hoành Sơn gồm: sân đình, bái đường và hậu cung. Trong bố
cục đó, không gian chủ yếu vẫn là tòa đại đình (đại bái), là nơi diễn ra các hoạt
động hội họp, ăn khao, khao vọng, phạt vạ... của dân làng. Đại đình của đình
Hoành Sơn là tòa nhà lớn nhất trong quần thể, bề thế, trang trọng. Theo ông Tư
người cai quản ngôi đình Hoành Sơn cho biết: trước đây đại đình ở có sàn lát
ván, cao từ 60 đến 80 cm, chia làm ba cốt cao độ, là sự phân chia thứ bậc cho
21
những người ngồi ở Đại đình nhưng theo thời gian lịch sử cộng với khí hậu khắc
nghiệt của miền trung thì sàn đình bây giờ không còn nữa. Hệ thống lan can giữa
cột cái và cột quân cũng bị hư hại nay không còn nữa.
Kiến trúc đại đình của đình Hoành Sơn hoành tráng, đồ sộ và uy nghi. Là
một kiến trúc gồm có 7 gian chính, 2 chái, 8 vì, 36 cột (16 cột cái, 20 cột phụ)
bao gồm tiền điện và hậu điện với diện tích khoảng 150 m2, tọa lạc trên diện tích
khoảng 2,5 nghìn m2. Cột đình được làm bằng gỗ lim và chò chỉ, đường kính
lớn, đều nhau, tay người ôm không xuể. Ngoài ra, rải đều trên 2 mái bằng gỗ lim
tròn còn có 26 đường hoành và 42 đường xà, các đường chân thủy bao quanh.
Gian giữa toà tiền tế không có hệ thống ván sàn, hệ thống lan can kết
nối giữa cột cái với cột quân cũng không còn. Tòa tiền tế rộng lớn hơn các
gian bên một chút, để phù hợp với yêu cầu tổ chức các nghi lễ. Hai bộ vì gian
giữa gồm vì nóc và vì nách. Vì nóc được kết cấu theo kiểu “biến thể chồng
rường giá chiêng con nhị”, các con rường chồng lên nhau thông qua đấu
vuông thót đáy. Rường là các con dầm làm nhiệm vụ đỡ các hoành mái, nó
được tạo tác kiểu “rường bụng lợn”, điểm giữa con rường võng xuống, trên
cùng là một rường nằm trên đấu dạng khối vuông, làm nhiệm vụ đỡ thượng
lương (xà nóc). Hai đầu con rường đều khoét các ổ để đỡ các hoành mái. Vậy
các con rường và hệ thống cột làm nhiệm vụ quan trọng trong vấn đề chịu lực
của trọng lượng mái đình.Vì nách có kết cấu kiểu dạng “cốn chồng rường”,
các con rường được chồng khít lên nhau không thông qua trụ đấu, độ dài của
các con rường được thu ngắn lại từ dưới lên trên. Đầu rường được khoét ổ, kê
dầm đỡ hoành mái.
Các hoa văn trang trí trong đình Hoành Sơn tập trung chủ yếu ở tòa đại
đình. Hoa văn được chạm khắc rất công phu, có độ tinh xảo cao, được các nghệ
sỹ tài hoa thể hiện trên các bộ phận của đình như trên cột cái, ván nong …với
nhiều đề tài khác nhau như: bát tiên, cưỡi hạc, đánh cờ, đua thuyền, tứ linh, tứ
quý, đại bàng đối xứng từng gian, rồng ổ.Nếu như trên các ván nong thể hiện
22
cuộc sống sinh hoạt và một số phong tục tập quán nói riêng của xã hội Việt Nam
như cảnh đi nơm cá, chơi cờ người, đi đu tiên, vinh quy bãi tổ, đua thuyền trên
sông, thì trên các giá chiêng, kẻ, con rường, con đấu, nghé kẻ…là đề tài “ tứ
linh” (long, ly, quy, phụng) và tứ quý (mai, điểu, tùng, lộc). Các nét chạm khi tỉ
mỉ công phu, khi mềm mại, khỏe khoắn khoáng đạt, nhưng cũng có lúc rắn rỏi
dữ dằn. Thể hiện tinh thần nhân văn của dân tộc và phản ánh nghệ thuật chạm
khắc đã đạt đến trình độ bậc thầy. Cột đình ở gian chính được chạm nổi hình
tượng 2 con rồng lớn đang ôm cột hướng xuống mặt đất.
Trên mái đình có hình tượng rồng cuộn, hổ ngồi, nghê chầu; mái ngói
được lợp âm dương. Giữa lớp ngói âm và ngói dương là một lớp đất sét được
nhào trộn với trấu, tạo thành một chất liệu bền, dẻo có khả năng cách nhiệt tốt;
ngói dương có 5 rãnh chẻ thoát nước.
Phía trước đại đình là sân đình: Từ chân đê bước xuống sẽ qua một con
đường làng, sát với đường làng là sân đình.. Kích thước sân đình gần như vuông,
có chiều cạnh bằng kích thước chiều dài tòa tiền tế. Xung quanh sân là hệ thống
tường xây thấp. Hai bên sân đình không có dãy nhà tả vu và hữu vu. Sân đình
lớn, bề mặt sân đình được làm từ đất sạn sỏi rải đều đầm phẳng, tạo thêm sự cổ
kính của ngôi đình.
Tiếp giáp với đại đình là gian Hậu cung. Thoạt nhìn gian Hậu cung và Bái
đường như trong một thể thống nhất, thực ra Bái đường và Hậu cung hoàn toàn
độc lập và tách rời nhau. Nhưng nhờ lớp tường bao bọc xung quanh và hệ thống
máng nằm chắn giữa hai mái nên hai kiến trúc này tuy độc lập mà vẫn gắn bó
với nhau.
Kết cấu kiến trúc Hậu cung có hai gian vì, 4 cột cái không có cột quân,
cao 3,65m, đường kính 0,420m. Bộ mái có 14 đường hoành rải đều trên hai mái.
Con rường trên cùng được tạo theo thức rường bụng lợn làm nhiệm vụ đỡ
thượng lương, các con rường đều được khoét ổ để đỡ hoành mái. Bao quanh
Hậu cung là tường vôi vữa, chỉ có một lối vào Hậu Cung tiếp giáp với phía
23
sau tòa Tiền tế. Hậu cung là nơi đặt bàn thờ Thành hoàng. Trong hậu cung có
cung cấm, là nơi đặt bài vị, sắc phong của vị thần làng. Xung quanh hậu cung
thường được bít kín bằng tường xây, không trổ cửa sổ, tạo không khí uy nghiêm
và linh thiêng.
Vì hậu cung là nơi thờ cúng linh thiêng nên họa tiết trang trí ở đây chủ
yếu là long, phượng.
Nhìn chung, đình Hoành Sơn còn giữ được nhiều nét nghệ thuật thời Lê.
Kiến trúc của đình có tính khái quát cao trong bố cục, sự hài hòa giữa từng phần
và toàn bố cục, giữa đường nét và hình khối. Nét nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc ở đình Hoành Sơn, phỏng theo lối kiến trúc thế kỷ XVII -XVIII. Các vì kèo
liên kết theo cấu trúc “chồng diêm,” có những bức chạm khắc “lưỡng long chầu
nguyệt” rất đẹp.
1.2.3. Khái quát nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn
Nghệ thuật chạm khắc của đình Hoành Sơn được thể hiện trên khắp các bộ
phận chính của kiến trúc. Từ kẻ, xà, cốn, ván nong, con rường… đến các đầu
đao, tàu mái đều được các nghệ nhân xưa lợi dụng một cách triệt để và biến
thành những mảng trang trí đẹp đẽ, đa dạng với kỹ thuật điêu luyện.
Năm 1929 ông Nguyễn Tánh đã viết về nghệ thuật chạm khắc ở đình
Hoành Sơn trong tạp chí Nam Phong, tập 24 như sau: “Nhìn các đường xoi nét
chạm thì chỗ nào cũng tinh xảo tuyệt vời, cho nên các du khách tới xem ai cũng
cho thợ ấy là bậc thiên tài chứ người thường không thể làm nổi. Bởi vậy mới có
bài tiểu thuyết “ Hoa nam mộc tượng ký” .Chuyện ấy tuy là một chuyện hoang
đường nhưng cũng đủ mà hình dung cái tài cái khéo xuất trần của các thợ làm
đình Hoành Sơn”.
H.Le Bretton- một học Pháp trong công trình (An Tinh cổ lục) tập 1 viết
năm 1936 đã nói: “một vài tác giả cho đây là ngôi đình đặc sắc nhất trong các
đền đài mang tính tôn giáo của người An Nam” [tr64]
24
Trên vị trí xà, kèo, cốn đều được chạm trổ rất tinh vi và sinh động với
những hình ảnh quen thuộc như long, li, quy, phượng kết hợp với chạm khắc
hình mây, hoa, lá. Riêng rồng với những bầy rồng con (rồng ổ), các nét chạm khi
tỉ mỉ công phu, khi thì mềm mại, khi thì khỏe khoắn, khoáng đạt, có lúc lại rắn
rỏi, dữ dằn. Cũng là phượng nhưng bên tả thì chạm phượng đơn, bên hữu lại là
phượng rậm hoặc bên tả thì long ẩn còn bên hữu thì long chầu nguyệt, phượng
bay, trên thân có người cưỡi (tiên cưỡi phượng).
Hệ thống mô típ trang trí được có nghệ nhân tập trung nhiều nhất là tứ quý
(mai, điểu, tùng, lộc), hay tứ linh (long, ly, quy, phượng) kết hợp với hoa văn
mây, hoa, lá… trên các giá chiêng, kẻ, con rường, câu đầu và nghé kẻ. Nếu như
các đình khác ở miền trung hiếm có hình tượng con người thì đình Hoành Sơn
lại chứa đựng các bức chạm vô cùng hấp dẫn thể hiện cảnh sinh hoạt dân gian và
những phong tục tập quán, những hoạt động trong ngày lễ hội vô cùng sinh động
trên các ván nong. Các nghệ nhân đã gắn tâm tư tình cảm, những ước mơ về
cuộc sống tươi đẹp trên nhiều chạm khắc gỗ đình Hoành Sơn. Cũng như nhiều
ngôi đình khác, những người thợ ở đình Hoành Sơn đã dồn hết tài năng tâm
huyết của mình thể hiện trên những nét chạm khắc có tính nghệ thuật cao.
Hình tượng rồng có rồng cõng chữ. Đặc biệt ở đình Hoành Sơn có mảng chạm
dài tả những cảnh sinh hoạt sản xuất của nhà nông theo thủ pháp đồng hiện. Ở
đó các cảnh đời thường được chạm khắc rất sống động và nghệ thuật: từ cảnh đi
săn, đi cấy, đi nơm cá, gánh củi qua cầu , đến sỹ tử đi xem bảng vàng. Trên
nhiều vị trí khác, cảnh tiên bồng hay những hình ảnh mang tính phồn thực, thể
hiện tình mẫu tử không những của con người mà của loài vật, được các nghệ
nhân đưa vào chạm khắc đình làng như nai mẹ và nai con.
Đình làng là môi trường sinh thành lễ hội, nơi đây đáp ứng đủ nhu cầu văn
hóa của con người, đặc biệt trước năm 1945 thì hội làng là lễ hội sinh động lôi
cuốn tất cả mọi người vào cuộc. Sau hội làng đọng lại trong tâm trí mỗi người
dân rất nhiều niềm vui, hạnh phúc và cả mơ ước về một cuộc sống tươi đẹp.
25
Chính vì vậy mà đề tài lễ hội ở đình Hoành Sơn có rất nhiều nội dung phong
phú, tái hiện lại những hoạt động được diễn ra trong ngày lễ hội như vinh quy
bái tổ, chèo thuyền trên sông, rước voi, đấu vật, đánh cờ…Điều đặc biệt ở đình
Hoành Sơn là cùng một đề tài nhưng cách thể hiện không giống nhau và được bố
trí đối xứng nhau, ví dụ cũng là “chèo thuyền” nhưng ở xà nách bên trái thì chạm
thuyền tĩnh còn ở xà nách bên phải thì chạm khắc thuyền động với nhiều người
đang ngồi chèo, hay ở trụ xà nách bên phải thì một con voi với một người quan
tượng, đối xứng với bức chạm đó là voi ra trận với rất nhiều người. Sự phong
phú về cách thể hiện một sự vật giống nhau này lí giải là do hai tốp thợ cùng
thực hiện một đề tài nên họ bí mật thể hiện theo cách riêng của mình. Trên hai
mươi tư xà nách của đình Hoành Sơn có hai mươi tư bức phù điêu tạo hình trong
các chạm khắc ấy hoàn toàn khác nhau. Nếu như các hình tượng về tứ linh, tứ
quý, hay hoa lá được chạm khắc tỉ mỉ, tinh xảo, thì đề tài con người lại có cách
thể hiện khác, những người thợ đều biết nhấn mạnh trọng tâm chọn những vấn
đề quan trọng nhất để diễn tả, phản ánh, hướng người xem vào nội dung, giản
lược về hình thức. Các bức chạm khắc bỏ qua định lật xa gần, những nguyên tắc
về giải phẫu, bố cục, tính hợp lý của hiện thực để tạo ra sự hợp lý của nghệ thuật
do người nghệ sỹ dân gian sáng tạo ra. Nghệ thuật của họ được tạo ra từ bản sắc
của người nông dân, khi sáng tạo họ không bị quy chuẩn bởi loại hình nào, trọng
họ đồng thời có hai con người nghệ nhân với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện và
người nghệ sỹ tự do phản ánh cuộc sống xã hội đương thời bằng bất cứ thủ pháp
nào họ cho là hợp lý… Thể hiện cái nhìn đầy hồn nhiên, hóm hỉnh thể hiện cuộc
sống sinh động.
Tuỳ từng mức độ chạm khắc, kỹ thuật chạm khắc sẽ nhau khi chạm nổi,
lúc chạm thủng, chạm kênh bong, hay chạm lộng,... nhưng tất cả đều thể hiện tài
nghệ của các nghệ nhân xưa vừa giỏi kiến trúc vừa tài hoa chạm khắc. Hình thức
biểu hiện chắc khỏe và mộc mạc gần gũi chính là lý do để ngôi đình gắn bó với
26
tâm hồn con người. Các phù điêu được chạm khắc trang trí đình làng Hoành Sơn
là biểu tượng độc nhất vô nhị về truyền thống nghệ thuật của ông cha ta.
Tiểu kết chương 1
Nội dung chương 1 luận văn tập trung nghiên cứu về tất cả khái niệm:
hình tượng, hình tượng con người, chạm khắc, chạm khắc đình làng, hình tượng
con người trong chạm khắc đình làng, tất cả là cơ sở để làm rõ được khái niệm
hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng. Chương 1 cũng
giới thiệu tổng quan những khái quát về đình Hoành Sơn như: lược sử, khái quát
kiến trúc, khái quát nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn.
Đình Hoành Sơn là một công trình kiến trúc văn hoá - tín ngưỡng quan
trọng của Nam Đàn – Nghệ An ra đời vào thế kỷ 18, thờ vị Thành Hoàng. Dù
qua nhiều lần trùng tu nhưng ngôi đình còn tương đối nguyên vẹn và có giá trị
về nhiều mặt, như văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh. Nghệ thuật kiến
trúc được cấu tạo theo kiểu chồng rường, với các cấu kiện được liên kết với
nhau chặt chẽ, tất cả tạo thành một thể thống nhất trọn vẹn và vững chắc. Điều
làm các nhà nghiên cứu quan tâm, không chỉ ở quy mô kiến trúc mà còn ở vẻ đẹp cổ
kính của công trình chủ yếu thông qua nghệ thuật chạm khắc trang trí. Yếu tố này làm
cho ngôi đình trở thành một bức tranh chạm khắc gỗ hoành tráng, được tạo tác trên
nền của một công trình kiến trúc cổ kính và tao nhã.
27
CHƯƠNG 2
NGHIÊN CỨU HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ
THUẬT CHẠM KHẮC ĐÌNH HOÀNH SƠN
2.1. Hình tượng con người được thể hiện qua nội dung chủ đề nghệ thuật
chạm khắc
Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn được
thể hiện qua chủ đề phong phú về mặt nội dung. Những nội dung hình tượng con
người nó phản ánh hiện thực khách quan đời sống của người dân lao động trong
xã hội đương thời, đồng thời phản ánh ước muốn của người dân có được một
cuộc sống lao động, ấm no, hạnh phúc.
Trong đề tài nghiên cứu này tác giả tập trung vào một số hình tượng con
người được thể hiện qua những nội dung chủ đề sau:
2.1.1. Hình tượng con người trong lao động sản xuất
Khi nói đến lao động sản xuất ta hiểu là hoạt động của con người làm ra
của cải vật chất để phục vụ nhu cầu đời sống sinh hoạt của người dân. Trong
cuộc sống đời thường của người nông dân,lao động sản xuất là những hoạt động
như cấy, cày, gặt, hái, cất vó, giã gạo…Nó là những hoạt động gắn liền với cuộc
sống của người nông dân.
Ngay từ thời tiền sử trên đất nước Việt Nam, đề tài về lao động sản xuất
của con người đã xuất hiện trên các trống đồng, thạp đồng, với những hình ảnh
miêu tả cảnh giã gạo, nhảy múa… của con người thời đó.
Trong nghệ thuật chạm khắc đình làng đình Hoành Sơn , đề tài lao động
sản xuất được các nghệ nhân mô phỏng những cảnh tiêu biểu về cuộc sống trong
vùng Nam Đàn. Chính chức năng của đình làng là nơi hội họp của người dân đã
tạo điều kiện cho nghệ thuật chạm khắc phát triển những đề tài gắn liền với đời
sống của nhân dân. Đề tài lao động sản xuất phản ánh, mô phỏng lại hiện thực
28
khách quan của người dân lao động như: hình ảnh con người đang cày, cấy, cất
vó, …đó là những hình ảnh của người nông dân bình dị, cần cù lao động trên
đồng ruộng.
Trong nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn, hình tượng con người được
thể hiện qua nội dung lao động sản xuất khá phong phú, mặc dù số lượng bức
chạm không nhiều nhưng nó là bức tranh phản ánh hiện thực cuộc sống của
người dân lao động lúc bấy giờ.
Nội dung của bức chạm miêu tả cảnh lao động sản xuất: cấy lúa, cày
ruộng, giã gạo, người cất vó, đi nơm.
Với đề tài cấy lúa: trên bức chạm các nghệ nhân thể hiện cảnh hai người
phụ nữ đang cấy lúa đầu đội nón, dáng người động đang cúi xuống để cấy, quần
được xăn lên quá đầu gối. ống tay cũng được xăn lên cao, động tác cấy của hai
nhân vật có sự khác nhau, mạ được các nghệ nhân chạm khắc lớn, tạo thành khối
chắc khỏe, phía dưới nghệ nhân mô tả bùn hòa quyện với sóng nước nhằm thể
hiện ruộng đồng no nước hứa hẹn một mùa bội thu. Bức chạm mặc dù nội dung
lao động chỉ có hai người thể hiện nhưng nó cũng toát lên cảnh hăng say lao
động của những con người nông dân bình dị, thể hiện cuộc sống thanh bình ấm
no hạnh phúc của người dân ( H1.1, H1.3 ).
Với đề tài cày ruộng: các nghệ nhân đã chạm một người đàn ông khỏe
mạnh, đầu đội mũ rộng vành, hướng người tiến thẳng về phía trước, dáng người
động thể hiện tinh thần tập trung làm việc. Một con trâu to lớn, mập mạp đang
rướn mình kéo cày, bước chân chắc khỏe. Lưỡi cày cắm sâu vào mặt đất, bùn và
nước đang cuộn ở phía luỡi cày. Bức chạm nhằm thể hiện tinh thần lao động
tăng gia sản xuất, cày ruộng với ước vọng cuộc sống sung túc, no đủ ( H1.2.)
Với đề tài giã gạo: ở góc của bức chạm, các nghệ nhân đã miêu tả một
người phụ nữ đang giã gạo, dáng người to khỏe đang cong mình lấy lực dồn vào
chân đặt lên cối để giã gạo. Phía trước là một khối hình chắc chắn miêu tả ngôi
nhà, mái nhà cong vút, cánh cửa đang mở ( H1.3.)
29
Với đề tài cất vó: Các nghệ nhân đã miêu tả một người nông dân đang cất
vó. Vó được cất lên cao so với mặt nước để lộ toàn bộ hình dáng của vó. Phần
lưới vó tác giả tạo hình cong lớn tạo cho người xem có cảm giác vó vừa cất lên
rất nặng, thu hoạch được nhiều sản phẩm. Phía dưới là những hình vòng cung
nhiều đường nét tạo thành sóng nước đang nhấp nhô lớp trước lớp sau, trông rất
động .( H.1.4.)
Với đề tài đi nơm: các nghệ nhân đã thể hiện một người đang cúi mình
nơm cá. Dáng người cong đổ mình về phía trước, tay đang giữ chặt nơm, quần
xắn lên cao . Chiếc nơm được cắm chặt xuống mặt nước, một tay giữ chặt nơm,
một tay đang thò vào nơm bắt cá. Phía dưới là mặt nước với nhiều sóng nước tạo
cảm giác rất động (H.1.4.)
Những đề tài lao động sản xuất trên được các nghệ nhân gói gọn trong
một bức chạm dài, mỗi nội dung được tác giả phân chia ranh giới bằng cách giữa
các nội dung các nghệ nhân thêm một cây cổ thụ lớn trang trí những đám lá rũ
xuống. Tất cả những nội dung lao động sản xuất được thể hiện qua hình tượng
con người trong chạm khắc đình Hoành Sơn như: đi cấy lúa, đi cày, giã gạo, cất
vó, nơm cá… Đều thể hiện, mô phỏng, phản ánh lại cuộc sống lao động thường ngày
của người dân miền trung. Đồng thời nói lên ước vọng mong muốn về cuộc sống
thanh bình, êm ấm , tươi vui, hạnh phúc đủ đầy của người dân lao động.
2.1.2. Hình tượng con người trong đời sống sinh hoạt
Trong nghệ thuật chạm khắc hình tượng con người đình Hoành Sơn
không có cảnh sinh hoạt thường nhật như: mẹ bế con, thôn nữ hồn nhiên tắm,
trai gái đùa nhau….như ở các đình làng đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng trong đình lại
có cảnh sinh hoạt nhằm ca ngợi, thúc đẩy sự học hành, sản sinh ra nhiều nhân tài
để giúp dân giúp nước, như đề tài: vinh quy bãi tổ và đề tài thi võ, cưỡi voi.
Vị trí của những bức chạm có nội dung sinh hoạt được các nghệ nhân thể
hiện trên các ván cốn vì nách của ngôi đình.
30
Nội dung của những bức chạm thể hiện cảnh không khí long trọng của
đoàn người rước vị tiến sỹ về bãi tổ tiên, không khí cuộc thi võ để tìm ra võ sỹ
nào giỏi nhất.
Với đề tài vinh quy bãi tổ: bước vào đình Hoành Sơn, ngay phía gian bên
cửa võng ở trên ván bưng phía bên phải là bức chạm “ Vinh quy bái tổ”(H1.9,
H1.10, H1.11). Bức chạm với diện tích không lớn nhưng đã thể hiện được không
khí long trọng, náo nhiệt thể hiện cảnh sinh hoạt không thường xuyên của người
dân địa phương. Phía trước là bốn người đang khiêng tấm “sắc phong” của Vua
trao, bên cạnh là hai người đang khiêng trống, vác chiêng, tiếp sau đó là quân
lính đang dương cao ô, lọng, bên cạnh trạng nguyên có người cưỡi ngựa đi cùng
và nhiều người dân ra nghênh đón, hai tay đang chắp lại hướng về phia quan
Trạng với thái độ rất cung kính
Để làm nổi bật sự náo nhiệt của đám rước, người nghệ nhân đã bất chấp
yêu cầu về tính hợp lý của hiện thực để làm nổi bật trọng tâm của đề tài. Các
nghệ nhân đã cho chúng ta thấy rõ sự hồ hởi trên từng khuôn mặt. Tấm “sắc
phong” Vua ban và những người tham gia đám rước thì được nhìn từ trên xuống,
nhưng hình ảnh ông Trạng ngồi trong kiệu lại được chạm theo góc nhìn ngang.
Sự sắp xếp như thế hoàn toàn là do dụng ý của tác giả: bẳng sắc phong phải nhìn
từ trên xuống mới thấy rõ và cũng nhìn từ trên xuống chúng ta mới quan sát hết
được sự hồ hởi của những người tham gia đám rước. Với góc nhìn ngang chúng
ta thấy rõ hình ảnh quan Trạng mũ áo chỉnh tề ngồi hơi ngả về phía sau, tay gác
trên thành kiệu, tâm trạng tự hào và niềm vui của người đỗ đạt. Ông đang bồn
chồn và nóng lòng chờ đợi sớm về nhà để bái tổ tiên và gặp lại người thân sau
những ngày đèn sách xa quê. Chính góc nhìn ngang như thế cho chúng ta thấy
được nụ cười của quan trạng và quan sát rõ dòng chữ “vinh quy bái tổ” trên kiệu.
Nếu như ở bức chạm này tác giả chỉ nhìn từ một điểm từ trên xuống thì mái của
kiệu sẽ che mất quan trạng và chúng ta sẽ không đọc được dòng chữ bên kiệu.
31
Vinh quy bãi tổ là cảnh sinh hoạt gắn với địa phương của vùng đất Nam
Đàn, bởi vùng đất Nghệ An đặc biệt là vùng đất Nam Đàn đã có rất nhiều người
thành đạt trong thi cử như: Nguyễn Thiện Chương, Nguyễn Đức Đạt, Tạ Hoàng
Bửu…nên đề tài vinh quy bãi tổ phản ánh đúng cảnh sinh hoạt của người dân địa
phương.
Với đề tài thi võ: trên ván bưng gian bên phải là bức chạm miêu tả cảnh
thi võ (H 1.13, H1.14). Trong bức chạm diễn tả lại một buổi thi võ, hình ảnh
chính là hai võ sỹ đang ngồi trên lưng ngựa tay cầm đao thi đấu đối kháng. Phía
bên phải trong đình làng là những người có chức sắc, áo mũ chỉnh tề - họ chính
là người cầm cân nảy mực cho trận đấu. Một người là quan sát viên, một người
là trọng tài, đang bàn luận về trận đấu, còn một người đang đánh trống để tăng
thêm không khí náo nhiệt cho ngày hội, đồng thời cũng là đánh những hồi trống
để thúc dục tinh thần các võ sỹ.
Bằng kỹ thuật chạm nông hình ảnh hai võ sỹ ngồi trên hai con ngựa là hai
nhân vật chính. Cả hai con ngựa đều được người nghệ sỹ miêu tả trong tư thế
dũng mãnh nhất. Con ngựa bên phải cả hai chân trước và hai chân sau đều duỗi
thẳng hết cỡ để phi nước đại. Con ngựa đối diện đang thu cả hai chân vào trong
để phi về phía đối thủ, “song mã” đây cũng là hai tư thế điển hình nhất của con
ngựa chiến đã được tác giả khắc họa vào bức chạm. Hai võ sỹ ngồi trên lưng
ngựa đầu chịt khăn, bên trong mặc áo giáp, vai choàng khăn bào. Người bên phải
tay cầm đao hất trên đầu chuẩn bị ra đòn tấn công đối phương. Còn võ sỹ bên
trái thì tay trái cầm dây cương, tay phải đang đưa đao ngang tầm cổ để phòng
thủ. Một người ra đòn tấn công còn người kia phòng thủ chính là điểm cao trào
nhất của hồi đánh để các võ sỹ ghi điểm. Gương mặt của hai người thể hiện sự
tập trung cao độ vào trận đấu, để tránh sự sơ suất dù là nhỏ nhất. Hai tà áo bào
của hai võ sỹ bay thẳng ra phía sau chứng tỏ hai con ngựa đều phi rất nhanh và
mạnh, qua đó người xem thấy rõ tốc độ di chuyển của chúng, cảm nhận được
yếu tố động trong bức chạm. Con ngựa cũng được tác giả trang trí rất đẹp bởi
32
những hạt lục lạc trên cổ. Lưng ngựa có tấm vải phủ từ trên xuống ôm sát vào
thân vừa có chức năng bảo vệ, vừa làm đẹp cho nó.
Với chủ đề cưỡi voi : Voi còn được biết đến với sức mạnh của chúng
trong chiến tranh và cũng là con vật gắn liền với sinh hoạt hàng ngày của dân cư
bản địa. Hình tượng con voi là một đề tài thường xuất hiện trong các tổ hợp kiến
trúc đền chùa của người Việt. Tại đình Hoành Sơn các nghệ nhân đã sử dụng
hình tượng con voi kết hợp với hình tượng con người nhằm thể hiện sức mạnh
của dân tộc trong chiến tranh. Mong ước hòa bình và tinh thần chiến đấu bất
khuất của dân tộc.Cùng một đề tài voi ra trận nhưng cũng có hai cách thể hiện
khác nhau và bố cục cũng đối xứng nhau. Ở xà nách bên trái diễn tả voi chuẩn bị
ra trận, trên đó chỉ chạm khắc một vị tướng đang cưỡi trên lưng voi và một
người lính đang cầm lọng đi bên cạnh (H1.17). Xà nách bên phải của gian đối
diện tả voi ra trận không chỉ có vị tướng đang ngồi trên lưng voi mà còn có cả
một tốp lính với vũ khí trong tay đi theo sau H1.16).
Mặc dù cảnh sinh hoạt của người dân không diễn ra hàng ngày, thường
xuyên, nhưng Nghệ An là vùng đất hiếu học có nhiều người đỗ đạt khi đi thi
khoa bảng cao, đóng góp cho đất nước không ít người tài giỏi qua các khoa thi
hương, thi hội. Chính vì vậy, mỗi lần có người đỗ đạt cao, nó trở thành niềm vui
chung của gia đình làng xã. Do đó đề tài sinh hoạt vinh quy bái tổ, thi võ được
các nghệ nhân chạm khắc nhằm đề cao sự học hành, đỗ đạt khoa cử của những
người con hiếu học. Đồng thời mong muốn cuộc sống tươi đẹp, hòa bình, hạnh
phúc.
2.1.3. Hình tượng con người trong hoạt động vui chơi giải trí
Trong nghệ thuật chạm khắc đình làng, những ước mơ về cuộc sống bình
yên hạnh phúc giản dị của người dân Việt còn được thể hiện rõ nét qua nhiều đề
tài chạm khắc. Đình Hoành Sơn có rất nhiều nội dung phong phú, tái hiện lại
những hoạt động vui chơi giải trí của người dân được diễn ra trong ngày lễ hội
33
như: đua thuyền, đánh cờ….Nhằm phản ánh xã hội và ước mơ cao đẹp về cuộc
sống bình yên của người dân.
Với chủ đề đánh cờ: Lễ hội là nơi tất cả mọi người gửi gắm tâm tư tình
cảm nguyện vọng của mình, là sự tham gia của cả các tầng lớp trong xã hội.
Trong lễ hội có rất nhiều trò chơi diễn ra, với người nông dân đánh cờ là một trò
chơi trí tuệ rèn luyện sự nhanh nhẹn và trí thông minh để vận dụng vào cuộc
sống. Với tầng lớp quyền quý, đánh cờ như là một thú vui, một trò chơi mang
tính chất tiêu khiển tao nhã. Vì vậy đánh cờ thu hút rất đông đảo các tầng lớp
trong xã hội.
Bức chạm đặc sắc được nhiều người chú ý là bức “ đánh cờ” (H1.8) nằm
trên ván cốn vì nóc bên trái của đình. Bức chạm khắc miêu tả sự gay go quyết
liệt của ván cờ lúc gần tàn cuộc. Bàn cờ được tác giả đặt điểm nhìn chính diện từ
trên xuống, do đó người nhìn rất rõ thế cờ với các quân còn lại trên bàn cờ rất ít,
chứng tỏ ván cờ đã sắp hồi kết thúc. Cái hòm đựng đồ cũng được diễn tả theo
điểm nhìn từ trên xuống nên nhìn thấy rõ ba mặt của hòm. Những người tham
gia trong ván cờ được miêu tả ở góc nhìn ngang, nên ta thấy rất rõ diễn biến tâm
lý của từng nhân vật. Bố cục của bức chạm rất cân đối và chặt chẽ với bảy nhân
vật, trong đó có năm người được miêu tả chi tiết hơn: Một trọng tài, hai đối thủ
cùng hai người quân sư, hai nhân vật phụ là hai người hầu ở hai bên được thể
hiện đơn giản. Nhân vật chính của ván cờ là nhân vật ngồi bên phải trong thế
thắng. Anh ta ngồi trong thư thế vô cùng thoải mái, người hơi đổ về phía trước
để thẳng tay đẩy quân cờ, mặt hơi ngẩng lên có vẻ đắc thắng. Còn nhân vật đối
diện ngồi phía bên trái đã bị mất nhiều quân do đó đang lưỡng lự nên đi nước cờ
như thế nào. Vì tâm lý nên anh ta cầm que gãi lưng – vừa đánh vừa gãi để suy
nghĩ cho nước cờ chuẩn bị đi, sự căng thẳng bộc lộ trên khuôn mặt của anh ta.
Người ngồi phía sau chính giữa bàn cờ là trọng tài của ván cờ, anh ta không ủng
hộ ai một tay chống xuống cờ, tay kia gác lên đầu gối mặt đang cúi xuống theo
dõi rất sát ván cờ.
34
Với chủ đề đua thuyền: Đua thuyền là một môn thể thao dân gian có từ
lâu đời, không thể thiếu được trong các kỳ lễ hội ở Việt Nam nói chung và Nam
đàn nói riêng. Lễ hội đua thuyền thu hút được rất nhiều người tham gia, mọi
người tập trung hết cả hai bên sông để reo hò, cổ vũ… làm náo nhiệt cả một
vùng sông nước. Đua thuyền ở các lễ hội ngoài việc rền luyện sức khỏe cho
người dân vùng sông nước, còn là dịp chọn ra những tay đua cừ khôi. Đua
thuyền đã trở thành một trong những môn thể thao không thể thiếu trong các lễ
hội người dân vùng sông nước.Vì vậy lễ hội đua thuyền được chạm khắc rất
nhiều ở các đình làng.
Đình Hoành Sơn có một điều đặc biệt hơn các đình khác là cùng một đề
tài “đua thuyền” nhưng có hai cách thể hiện khác nhau. Ở đình Hoành Sơn, trên
ván cốn xà nách bên trái chạm khắc duy nhất một con thuyền trong tư thế tĩnh
(H1.7) và một người ngồi phía đầu thuyền. Đối xứng với bức chạm đó, trên xà
nách bên phải là bức chạm thuyền động (H1.6) – khi đã bước vào cuộc đua. Trên
thuyền gồm tất cả bảy người, trong đó có năm người đua, một người chỉ huy
ngồi phía sau và một người đánh trống ngồi phía trước. Năm chàng trai là nhân
vật chính của cuộc đua, vì vậy được nghệ nhân mô tả rất kỹ. Họ là những chàng
trai khỏe mạnh, cường tráng, vạm vỡ, tóc búi mình trần, đóng khố đang choãi
chân, vặn mình, đứng nghiêng nghiên nhoài mình dồn hết sức vào bắp tay chắc
khỏe quạt mái chèo thật sâu, thật mạnh trong nước. Phía trước là một người
động viên phồng má thổi kèn, phía sau là một người đánh trống theo từng nhịp
chèo. Tất cả những chi tiết đó đó đều được thể hiện trên cốn hình chữ nhật, trọn
vẹn trong một bức tranh đua thuyền ở lễ hội làng.
Bức chạm “đua thuyền” có ý nghĩa quan trọng đối với cư dân Nam Đàn
sống bên dòng sông Lam. Cuộc sống của họ gắn liền với sông nước nên lễ hội”
đua thuyền” càng có ý nghĩa linh thiêng và trang trọng. Sau lễ hội sẽ mang đến
cho họ cuộc sống may mắn mưa thuận gió hòa, dòng sông yên bình, làm ăn
thuận lợi.
35
Đình Hoành Sơn là một kiến trúc điển hình về mỹ thuật. Nghệ thuật chạm
khắc trên kiến trúc biểu hiện bước quá độ của nghệ thuật trang trí dân gian, cuối
thế kỷ 17 sang thế kỷ 18. Nếu trong thế kỷ 17 điêu khắc đình làng trang trí hoạt
cảnh dân gian là phổ biến bới tích truyện là thứ yếu thì tại đình Hoành Sơn các
yếu tố này dường như cân bằng, nó hàm chứa sự kế thừa, sáng tạo đồng thời
cũng phản ánh nhiều nét về lịch sử và xã hội đương thời.
2.2. Hình tượng con người được thể hiện qua hình thức nghệ thuật chạm khắc
2.2.1. Hình tượng con người thể hiện qua hình khối
Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hoành Sơn về
mặt hình khối nó được thể hiện rất rõ ràng, phong phú và có tính biểu hiện. Khối
ở đây được các nghệ nhân thể hiện đơn giản, cô đọng nhưng rất tinh tế. Sự cô
đọng được thể hiện ở các khối đơn giản quy vào hình vuông, hình chữ nhật, hình
nón… nhưng vẫn tạo được hiệu quả hình ảnh của nhân vật. Tác giả với cách tạo
khối đa dạng thì tác phẩm sẽ có chất biểu cảm mạnh mẽ hơn. Tóm lại, người
nghệ sỹ phải biết chiến thắng sự cơ bản của khối và thổi vào khối một chất cảm,
một linh hồn bằng cách làm cho khối đó có sự kết hợp sinh động.
Hình tượng con người trong chạm khắc đình Hoành Sơn thông qua nghệ
thuật tạo khối nó có những đặc điểm như sau: khối cứng, khối mềm, có khối
nhẵn phẳng, có khối thô ráp…tạo cho chất cảm cũng như làm rõ tính biểu hiện
của hình khối thông qua hình tượng con người.
Khối cứng là những khối được tạo nên bởi những hình, mảng có cạnh là
những đoạn thẳng. Hình tượng con người được thể hiện qua khối cứng trong
nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn rõ nhất là ở bức “đua thuyền” (H.18).
Nhìn vào bức chạm ta thấy các nghệ nhân đã sử dụng những mẳng có những
cạnh là đường thẳng như cột thuyền, mái chèo, cạnh của chiếc thuyền. Tất cả
những đường thẳng kỷ hà đó tạo cho bức chạm một cảm giác yên tĩnh như cuộc
đua thuyền vừa kết thúc. Trên thuyền còn duy nhất một người đang ngồi. Ngoài
ra ở bức chạm “ đua thuyền” (H.17) các nghệ nhân dân gian cũng tập trung khai
36
thác khối tĩnh ở các vị trí trên cạnh thuyền, mái chèo, cột thuyền và ở các vị trí
trên cơ thể của những chàng trai đua thuyền như khối ở vị trí cánh tay, chân. Tạo
cho kết quả khối ở đây thô ráp, chắc khỏe nhằm nói lên sức mạnh của những
chàng trai đua thuyền.
Sự kết hợp giữa khối nằm ngang để tạo thành chiếc thuyền và khối hình
trụ đứng làm các cột thuyền đã tạo nên chắc chắn về cấu trúc thuyền đồng thời
làm nổi bật lên hình dáng động của người đang chèo thuyền.
Bằng thủ pháp nghệ thuật cường điệu trong cách tả khối, trên bức chạm
“đua thuyền” tác giả đã tạo những khối căng tròn và chắc nịch ở cánh tay, đùi,
tấm lưng trần vạm vỡ, ngực nở nang để thể hiện những chàng trai đua thuyền
khỏe mạnh, cường tráng. Bởi vậy những chàng trai đua thuyền nổi bật hơn và
gây được ấn tượng đối với người xem. Chính thủ pháp “ cường điệu” làm hình
ảnh những chàng trai đua thuyền trở nên dí dỏm và vui vẻ hơn. Các chàng trai
với những đôi bàn tay rắn rỏi và chắc khỏe đang nắm lấy mái chèo và phối hợp
với nhau rất nhịp nhàng
Bố cục trong bức chạm vô cùng chặt chẽ, dáng của những người chèo
thuyền và các mái chèo tạo thành những đường chéo song song trong bức chạm.
Để phá thế đó tác giả đã tạo những đường song song khác – các cột chống mái
chèo theo hướng thẳng đứng từ mạn thuyền lên. Chính cách bố cục như thế đã
tạo cho người xem thấy rõ sự kết hợp nhịp nhàng của những chàng trai khi chèo
thuyền và sự bứt phá để về đích sớm nhất.
Chiếc thuyền được trang trí rất cầu kỳ, công phu, đầu và đuôi của thuyền
được chạm khắc hình rồng, phía trên mái thuyền được treo rất nhiều cờ hội với
những đường chạm uốn lượn mềm mại như đang bay trong gió, làm cho không
khí của lễ hội đua thuyền trở nên tưng bừng hơn.
Hình sóng nước cũng là yếu tố trang trí, vì vậy được tác giả chạm khắc rất
tinh tế, những con sóng cũng rất nhịp nhàng có lớp trước lớp sau. Ở giữa do
người tay chèo khỏe hơn nên sóng nước tung bọt bắn vào mạn thuyền, làm cho
37
không gian trở nên sống động, đó chính là thủ pháp tạo yếu tố động trong bức
chạm. Bức chạm chèo thuyền là tĩnh nhưng người xem vẫn thấy động là bởi cấu
trúc đường hướng trong bố cục.
Sau khi chạm khắc hình ảnh người và thuyền nghệ nhân đã sử dụng một
kỹ thuật lắp ghép những cột chống từ mạn thuyền lên mái chèo thuyền tạo ra
hình ảnh rất thực. Chính thủ pháp tạo hình đó đã làm cho bức chạm có chiều sâu
về không gian. Người xem cảm nhận đó là không gian thực chứ không phải
không gian ước lệ như một số bức chạm khác.
Khối trên bức chạm đua thuyền ở đình Hoàng Xá, đình Hương Canh,
đình Phù Lưu với nghệ thuật hình khối đơn giản, lu, mềm, các phần tiếp giáp
chuyển êm mềm. thì chạm khắc đua thuyền ở đình Hoành Sơn tinh xảo trau
chuốt hơn về kỹ thuật, khối đanh, thô ráp hơn . Đua thuyền ở đình Hoành Sơn
cũng mang đậm yếu tố dân gian bởi cách diễn tả khối căng tròn trong hình thức
đơn giản khái quát cao.
Trên bức chạm thi võ, các nghệ nhân sử dụng khối cứng để khai thác,
miêu tả cuộc thi võ gay go quyết liệt. Khối cứng được các nghệ nhân khai thác ở
các vị trí khác nhau tập trung chủ yếu vào bốn nhân vật chính, hai người cầm
đao cầm kiếm cưỡi ngựa đấu võ, hai người dưới đất đấu võ với nhau. Các nghệ
nhân đã sử dụng rất nhiều các mảng có cạnh là những đoạn thẳng khúc chiết, gãy
góc nối liền gắn kết với nhau để tạo nên hình tượng con người, tạo cho ta cảm
giác khối ở đây rất thô ráp, khối nổi, khối chìm được tác giả chạm khá rõ có lớp
trước lớp sau tạo cảm giác xa gần. Chính những đường kỷ hà đó đã tạo nên khối
của nhân vật. Như hình ảnh võ sỹ cưỡi ngựa là lớp trước che khuất lớp sau võ sỹ
ở dưới đất tạo không gian xa gần. Hình tượng con người thông qua nghệ thuật
tạo khối cứng trong bức chạm thi võ tạo cho bức chạm có đặc điểm khối tĩnh
nhưng chính các động tác của nhân vật đã phá sự yên tĩnh vốn có của nó, tạo nên
không khi sôi động, hình dáng chắc khỏe, đường nét dứt khoát của nhân vật.
38
Bằng kỹ thuật chạm nông. hình ảnh hai võ sỹ ngồi trên hai con ngựa được
tạo khối dày, vì vậy trên cùng một mặt phẳng nhưng người xem vẫn thấy họ là
hai nhân vật chính. Cách tạo khối đơn giản nhưng chắc khỏe, kết hợp với nét
chạm nông tạo yếu tố trang trí trên quần áo và trên thân ngựa, người xem thấy rõ
được tinh thần chủ động quyết tâm dành chiến thắng của hai võ sỹ.
Trên cùng một mặt phẳng, do bị khống chế về không gian người nghệ sỹ
chạm khắc hình ảnh hai võ sỹ đang thi đấu võ, đồng thời có cả khán giả, có cả tổ
trọng tài, nhưng người xem vẫn thấy thuận mắt nhìn và vẫn chấp nhận được, đó
là do cách tạo khối, cân nhắc từng chi tiết của từng nghệ nhân. Hình ảnh con
ngựa và hai võ sỹ đang cưỡi được chú trọng hơn, đạt tới giá tri khái quát cao
bằng cách chạm khối nổi, tỉ mỉ và trau chuốt hơn. Hai võ sĩ đang ngồi xem được
chạm khối mỏng hơn, đồng thời hình cũng bé hơn dễ tạo cảm giác về các lớp xa
gần cho bức chạm. Với kỹ thuật chạm bong người xem có thể thấy được khối
nổi rõ ràng của các hình thể trong không gian của thi đấu võ có xa gần, có lớp
trước lớp sau và đặc biệt tác giả đã chọn hai tư thế điển hình nhất của hai đấu thủ
thi đấu. Một người tay cầm đao hất cao trên đầu chủ động ra đòn, còn đối
phương giơ đao ngang cổ để phòng thủ. Hình ảnh hai võ sỹ trên lưng ngựa qua
bức chạm thi võ đang cầm đao thi đấu đối kháng, chỉ với những nhát chạm đơn
giản nhưng đã diễn tả được tâm lý nhân vật trên khuôn mặt là sự tập trung cao
độ trong thi đấu. Nhìn bức chạm đó người xem có thể cảm nhận được tài võ
nghệ của các trai tráng mạnh mẽ cũng như tinh thần thượng võ của dân tộc ta.
Nếu như đấu vật ở đình Hoàng Xá ( H2.4) ta thấy khuôn mặt hai võ sỹ đầy
tính hồn nhiên và ngộ nghĩnh, không ăn thua trong thi đấu, hai võ sỹ không cân
xứng về tỉ lệ, mảng chạm tự do phóng khoáng, thì bức chạm thi võ ở đình Hoành
Sơn hiện đại hơn nhiều – cân đối về tỉ lệ, đẹp về hình thức và có xa gần nhờ cách
tạo khối, đặc biệt thể hiện được tinh thần chiến đấu trong bức chạm.
Ở bức chạm đua thuyền ở đình Phù Lưu thế kỷ XVII, khối khác hẳn với
đua thuyền ở đình Hoành Sơn thế kỷ XVIII. Nếu như ở đình Phù Lưu kỹ thuật
39
chạm nông, khối ở đây mềm mại, nhẹ nhàng, khối nhẵn phẳng, ít góc cạnh, thì
khối ở bức chạm đua thuyền đình Hoành Sơn khối lại cứng rắn, dứt khoát, gồ
ghề hơn.
Khối mềm là khối có các mặt lồi hoặc lõm do các hình không có góc cạnh
tạo thành. Đối lập với hình khối phóng khoáng, mạnh mẽ, thô ráp, dứt
khoát…của hình tượng con người đua thuyền, thi võ thì hình chạm con người có
nội dung: cấy lúa, cày ruộng, cất vó hay những đề tài đánh cờ, vinh quy bãi tổ
đều được chạm chủ yếu là những mảng khối cong, mềm mại, nét khắc cũng tinh
tế, chủ yếu là những nét cong uốn lượn.
Bằng kỹ thuật chạm kênh bong, trên bức chạm “ đánh cờ” các nghệ nhân
đã chạm nổi tạo khối căng tròn ở bụng và những đường xoắn nổi lên ở rốn nhờ
vân gỗ - có lẽ cũng là dụng ý của tác giả, nhằm cho người xem nhận ra rằng
những người này thuộc tầng lớp khá giả trong xã hội. Bằng các thủ pháp nghệ
thuật quen thuộc như: đa điểm nhìn, cường điệu, biểu trưng kết hợp với hiện
thực tổng hợp của nhiều mảng cong, chéo…với bố cục cân đối, chặt chẽ, ngôn
ngữ khối đã mất hẳn, thay vào đó là những nét chạm đều đặn như nét vẽ, miêu tả
các nhân vật trong các tư thế ngồi khác nhau với một trạng thái tinh thần vui vẻ.
Điều đó đã làm cho những bức chạm trở nên đẹp về hình thức, có ý nghĩa về nội
dung, khiến người xem ngắm mãi mà không biết chán và được lưu giữ cùng thời gian.
Sự mềm mại của khối thể hiện rõ trên cơ thể và trang phục của nhân vật, hình khối
đơn giản, nhẹ nhàng, uốn lượn tạo nên nhịp điệu rất động trong bức chạm.
Khối được thể hiện thông qua hình tượng con người ở bức chạm “vinh
quy bái tổ” cũng là những khối động, chính những đường nét mềm mại, nhẹ
nhàng, sử dụng nhiều đường cong, ít đường thẳng tạo cho hình khối ở đây trông
rất động. đường cong, thanh mảnh được các nghệ nhân khai thác ở những vị trí
quần áo. Các nhân vật trong bức chạm đầu mặc trang phục áo dài nên được các
nghệ nhân sử dụng những hình cong. Các phần hình khối tiếp giáp với nhau rất
nhẹ nhàng, không sắc cạnh, khúc chiết nhưng vẫn mang đậm yếu tố tạo hình. Ở
40
bức chạm vinh quy bãi tổ trên ván cốn vì nách bên trái (H.1.9), phần đầu các
nghệ nhân sử dụng khối tròn, đường nét mô tả mắt, mũi, miệng của nhân vật nên
khối ở đây nhẹ nhàng, nhẵn phẳng nhưng ở bức chạm vinh quy bãi tổ trên ván
cốn vì nách bên phải (H.1.12.) phần đầu các nhân vật đều đội mũ chit khăn nên
khối ở đây đanh hơn, gồ ghề dứt khoát hơn.
Ở đình Trung Cần, Nghệ An ra đời cùng thế kỷ XVIII, có sự tương xứng
về phong cách chạm cũng như cách tạo khối. Như bức chạm đánh cờ ở đình
Trung Cần có nét giống với bức chạm đánh cờ của đình Hoành Sơn về khối.
Khối ở bức đánh cờ cũng mềm mại, đường nét nhẹ nhàng chuyển động. sử dụng
nhiều khối tròn ở đầu, bụng…
Sự kết hợp giữa khối tĩnh, khối động, khối cứng , khối mềm, khối lồi,
khối lõm ở đình Hoành Sơn tạo nên hiệu quả nghệ thuật của bức chạm. Sự kết
hợp đó được các nghệ nhân sử dụng thường xuyên trong những bức chạm có
hình tượng con người trong đình Hoành Sơn. Nó được hiện hữu ở những hình cơ
bản như hình trị, vuông, tròn, hình cầu, tam giác…Khi thì những hình đơn, lúc
lại đan xen chồng chéo thể hiện ý tưởng tác phẩm.
2.2.2. Hình tượng con người thể hiện qua đường nét
Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn được
thể hiện qua nét rất đa dạng và phong phú. Có những hình tượng con người sử
dụng nét khúc chiết, chắc khỏe, cứng cáp sắc cạnh, nhưng cũng có những hình
tượng con người các nghệ nhân sử dụng nét mềm mại, uyển chuyển, có chỗ sử
dụng ít nét, chỗ nhiều nét để miêu tả đặc điểm nhân vật.
Băng kỹ thuật chạm nông, nét khúc chiết, chắc khỏe, cứng cáp được các
nghệ nhân khai thác ở đề tài đua thuyền. Như ta đã nói, nét là ranh giới, đường
bao quanh của khối. Khối ở bức chạm chèo thuyền là khối tĩnh, sử dụng nhiều
đường thẳng hơn đường cong, do đó đường bao quanh của khối đó chính là nét,
nét thẳng tạo kết quả chắc khỏe, đanh, khúc chiết, thể hiện ở mái chèo, thuyền và
trên bộ phận cơ thể các chàng trai. Sử dụng nét cứng cáp ở đề tài đua thuyền tạo
41
cho người xem cảm giác đây là cuộc đua gay go quyết liệt, các vận động viên
khỏe mạnh, chắc nịch đang cố hết sức ngả mình về phía trước để vung mái chèo.
Ngoài ra nét chắc khỏe, cứng cáp, sắc cạnh còn thể hiện ở đề tài thi võ.
Như ta đã phân tích ở trên, bức chạm thi võ sử dụng khối tĩnh, sử dụng những
hình khối cứng như trang phục người võ sỹ, hay là mái nhà, đao kiếm…Do đó
nét ở đây cũng gãy góc, cứng cáp và khúc chiết. Tất cả để làm nổi rõ nội dung
bức chạm là thi võ, cần đến sức mạnh và sự khéo léo. Ngoài nét viền hình của
nhân vật, các nghệ nhân còn sử dụng các nét đứt đoạn để tả các nếp gấp quần áo,
có chỗ nét giày chỗ nét thưa tạo điểm nhấn cho bức chạm. Nét đứt đoạn được tập
trung vào hai nhân vật thi đấu cầm đao kiếm cưỡi ngựa, nên khi nhìn vào toàn
thể bức chạm mắt của chúng ta sẽ tập trung vào hai nhân vật đó và ta hiểu rằng
đó là hai nhân vật thi đấu chính.
Sự khác biệt của nét thông qua hình tượng con người trong nghệ thật
chạm khắc đình Hoành Sơn nó khác với nét của hình tượng con người trong đình
Hoàng Xá ở thế kỷ 17. Trong bức chạm “đấu vật” (H2.5) của đình Hoàng Xá,
nét ở đây động, cong, lu, êm không gãy góc, đanh, cố gắng dùng nét để tả mắt
mũi thì trong bức chạm “thi võ” của đình Hoành Sơn nét lại đanh, gãy góc
nhiều, gồ ghề, sắc cạnh, có sử dụng những nét đứt để miêu tả hình dáng nhân
vật.
Bên cạnh những nét chắc khỏe, cứng cáp thì các nghệ nhân còn sử dụng
những nét mềm mại, uyển chuyển, nhẹ nhàng để thể hiện thông qua nhân vật.
Hình tượng con người trên các mảng chạm khắc với các đề tài như vinh quy bãi
tổ, cấy lúa, giã gạo, đánh cờ nét chạm hết sức tỉ mỉ, mềm mại. Ở đây hầu hết
được chạm với kỹ thuật chạm nông khiến nét chạm thanh mảng làm tăng thêm
vẻ mềm mại trau chuốt cho các bức chạm. các nét chạm đều nhau nhưng nhờ
vào sự thay đổi mảng miếng, khoảng trống khiến cho các hình chạm khắc ở đây
sống động, không nhàm chán.
42
Sự mềm mại, uyển chuyển của nét được thể hiện trong hình tượng con
người đang đánh cờ rất rõ ở đình Hoành Sơn. Khối của hình tượng con người ở
đây là khối động, sử dụng rất nhiều khối tròn, đường cong chính vì thế nét là
đường viền ở đây cũng cong, tạo nên cảm giác động cho nhân vật. Các mảng
tiếp giáp với nhau không gãy góc, không cứng khỏe mà nó chỉ còn lại những
đường viền mảnh mai, cong, mềm mại. Nét vòng cung, đứt đoạn được các nghệ
nhân tập trung vào trang phục tạo ra tầng tầng lớp lớp nếp gấp quần áo đan ven
nhau, có lớp trước lớp sau.
Nét cong uốn lượn theo đường vòng của khối còn được thể hiện qua trang
phục, hình dáng con người trong bức chạm vinh quy bái tổ. nét ở đây cũng là nét
động, không gãy góc, cứng ráp, sắc cạnh. Bằng những nhát đục, chạm khắc trên
mặt gỗ nét ở đây được các nghệ nhân trau chuốt tỉ mỉ, mượt mà tạo nên sự mềm
mại, nhẹ nhàng cho hình tượng con người.
Ngoài ra các hình tượng trang trí khác như sóng nước, lá cờ hội, con rồng
trang trí trên thuyền đua hay là những khóm lá rũ xuống… các nghệ nhân cũng
sử dụng đường nét mềm, mảnh để tạo thành hình nằm trên các khối lớn nhằm
tôn thêm vẻ đẹp của hình tượng con người và làm cho bố cục thêm chắc chắn.
Sự biến đổi của nét và hình khối thêm phong phú và đa dạng. không gian
thêm sống động nhờ vào ánh sáng tự nhiên. Sự tác động của ánh sáng đã làm cho
đường nét biến đổi có hồn, nét thanh, nét đậm . nét rắn rỏi, khúc chiết, nhẹ
nhàng, khối tĩnh, khối động, khối lồi khối lõm…thay đổi liên tục theo ánh sáng.
Điều đó làm cho hình tượng con người trở nên sống động hơn, chất cảm trong
đương nét, hình khối trở nên rõ hơn khi ta nhìn vào.
Nét cong được các nghệ nhân sử dụng rất nhiều trong chạm khắc đình
Hoành Sơn. Đó cũng là nét đặc rắc riêng của nghệ thuật chạm khắc của đình ở
thế kỷ 18. Nếu như nét ở các bức chạm đình làng thế kỷ17 ít khi gọt dũa, nhát
chạm con thô nhám với mảng miếng rõ ràng như ở bức chạm “đánh cờ “ ở đình
Hạ Hiệp, nhát chạm chắc khỏe, nét thô kết hợp với chạm kênh bong khiến cho
43
bức chạm có chiều sâu. Thì “ đánh cờ “ ở đình Hoành Sơn thì ngược lại, nét
chạm mềm, trau chuốt, chuyển động theo chiều hướng xoáy.
Cũng giống như nét ở hình tượng con người trong đình Hoành Sơn, nét ở
hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình Trung Cần cũng được
các nghệ nhân thể hiện mềm mại và uyển chuyển .Bằng kỹ thuật chạm nông,
bức chạm “ đánh cờ” ở trong đình Trung cần các nghệ nhân sử dụng rất nhiều
nét động, tập trung vào hình tròn của đầu, diễn tả khối căng tròn của bụng và các
nếp gấp của quần áo. Nét không sắc cạnh, trau chuốt gọn gàng, hướng ngồi của
các dáng người xoay theo vòng chuyển động.
2.2.3. Hình tượng con người thể hiện qua cấu trúc tỉ lệ.
Gắn liền với sự phát triển của nghệ thật chạm khắc đình làng, hình tượng
con người trong chạm khắc của đình mỗi giai đoạn, đặc điểm cấu trúc nhân vật
cũng được thể hiện khác nhau.
Cấu trúc tỷ lệ nhân vật hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc
đình Hoàng Sơn có những đặc điểm khác với hình tượng con người trong các
đình ở thế kỷ 17. Các nhân vật ở đây có đặc điểm tỉ lệ hài hòa, cân đối nên nhìn
thuận mắt, không gian mang tính ước lệ nhưng các nghệ nhân đã có cách nhìn
theo luật xa gần.
Nếu như ở thế kỷ XVII, tỷ lệ hình tượng con người trong chạm khắc đình
làng thường có tỷ lệ giữa đầu và thân mang tính ước lệ chỉ bằng 1/3. Nên hình
tượng con người giai đoại này thường lùn, đậm như bức chạm “ đấu vật “ ở đình
Hoàng Xá. Thì ở đình Hoành Sơn hình tượng con người cũng mang tính ước lệ
nhưng cao hơn.
Tỷ lệ hình dáng người ở đình Hoành Sơn thon, gọn, cao, tuy nhiên vẫn
còn mang tính ước lệ, chưa đúng giải phẩu, tỉ lệ giữa đầu và thân là 1/5. Mặc dù
chưa đúng tỉ lệ chuẩn nhưng ta vẫn thấy hài hòa cân đối, phần đầu, thân và các
chi hài hòa, trông thuận mắt. Cấu trúc của phần đầu hơi to so với tỉ lệ của phần
thân, tỉ lệ giữa mắt, mũi, miệng cũng tương đối.
44
Tỷ lệ của hình tượng con người làm quan khác với tỉ lệ của người dân lao
động. Ỏ bức chạm: vinh quy bái tổ trên ván cốn vì nách ta thấy tỉ lệ phần đầu
của ba nhân vật chính đứng giữa bức chạm lớn, đầu to mặt tròn, tỷ lệ đầu so với
phần thân chỉ đạt 1/5 nên ta thấy hình ảnh của nhân vật chắc, đậm người, tỷ lệ
của các nhân vật phụ bé hơn nhân vật chính cũng là dụng ý của các nghệ nhân.
Đề tài vinh quy bái tổ là đề tài đề cao sự đỗ đạt, học hành nên nhân vật chính ở
đây là lớn nhất. Hay bức chạm đánh cờ ta cũng nhận thấy những người đánh cờ
ở đây là những nho quan nhàn nhã, có học thức điều đó được nhận thấy ở các tỉ
lệ điển hình như đầu, phần bụng lớn.
Nếu như ở những người làm quan tỉ lệ đâu lớn, trang phục dài thì tỉ lệ đầu
ở những người nông dân lại bé so với phần thân, trang phục ngắn hơn. Điều đó
thể hiện những người nông dân lao động, ít có cơ hội học hành.
Cấu trúc của phần vai tương xứng với phần hông, chiều ngang của vai
bằng tỉ lệ của đầu. Vì tỉ lệ hình tượng con người trong chạm khắc mang tính ước
lệ nên khi chạm khắc, tỉ lệ chung của hình tượng nhân vật trong đình Hoành Sơn
cũng mang tính ước lệ. Phản ánh tính thời đại dân tộc của nhân dân.
Ngoài tỷ lệ đầu, vai ra thì tỷ lệ bàn tay, bàn chân cũng mang tính ước lệ.
Nếu đúng tỉ lệ thực thì phần bàn tay bằng tỉ lệ phần đầu. tuy nhiên ta thấy trong
chạm khắc hình tượng con người trong đình Hoành Sơn tỷ lệ phần bàn tay lại rất
nhỏ so với tỉ lệ phần đầu, như bức đánh cờ, thi võ… nhìn chung tỷ lệ của bàn tay
nhỏ hơn tỷ lệ của phần đầu
Có những bức chạm tỷ lệ phần chi trên dài hơn so với tỉ lệ chung như bức:
vinh quy bái tổ, nếu nhân vật thả tay xuống thì tỉ lệ chi trên sẽ dài hơn đầu gối
nhân vật. Nhưng cũng có bức tỷ lệ chi trên hợp lý, tương đối đúng cấu trúc hơn,
thuận mắt hơn như bức: thi võ hai dũng sỹ cao lớn đang đấu kiếm hay thi võ tay
thì tỉ lệ phần chi nhìn thuận mắt hơn. Bức chạm đua thuyền ta thấy tỉ lệ phần
cánh ta lớn, chắc khỏe để tương xứng với phần thân vạm vỡ nhằm thể hiện sức
khỏe, thân hình cường tráng của các chàng trai đua thuyền.
45
Tỷ lệ hình tượng người thay đổi theo tỷ lệ của bức chạm khắc. Trong
chạm khắc đình Hoành Sơn, bức chạm “đánh cờ” trên ván lá đề vì nó là lớn nhất,
do vậy hình tượng con người ở bức chạm này cũng lớn, tỷ lệ của các nhân vật
chính ở đây lớn hơn nhân vật phụ. Trong các ván cốn vì nách, tỷ lệ hình tượng
con người ở đây cũng được các nghệ nhân chú trọng, số lượng con người ở đây
nhiều hơn ở các bức chạm khác, nhân vật chính cũng được tác giả chạm tỷ lệ lớn
hơn nhân vật phụ nên khi nhìn vào bức chạm ta dễ nhận thấy nội dung.
Tóm lại, cấu trúc thỉ lệ thể hiện hình tượng con người ở đình Hoành Sơn
mang tính ước lệ, không tuân theo quy luật giải phẫu tạo hình. Nhưng khi nhìn
vào hình tượng con người trong đình ta vẫn thấy thuận mắt, tỉ lệ hài hòa cân đối
nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bố cục của bức chạm, đường nét, hình khối
của hình tượng con người.
Tiểu kết chương 2.
Nội dung chương 2 nghiên cứu về hình tượng con người trong nghệ thuật
chạm khắc đình Hoành Sơn. Nó được thể hiện qua nội dung chủ đề như : lao
động sản xuất, vui chơi giải trí, chủ đề sinh hoạt, bên cạnh đó thì đường nét, hình
khối, cấu trúc tỉ lệ cũng làm nên sự thành công trong nghệ thuật chạm khắc của
đình.
Như vậy, nghệ thuật chạm khắc đình làng nói chung và hình tượng con
người trong chạm khắc đình Hoành Sơn nói riêng, ngoài mục đích làm đẹp dấu
đi những phần thô kệch trong kết cấu kiến trúc của ngôi đình, đã góp phần biểu
thị các giá trị xã hội, xác định những mối liên hệ giữa các nhóm, các thành viên
trong cộng đồng làng, nhấn mạnh những giá trị trong khung cảnh sinh hoạt của
cộng đồng làng. Đối với cư dân làng xã thời phong kiến, những trò chơi đua
thuyền, đấu võ đấu vật, cưỡi ngựa… chỉ được thấy ở các lễ hội mà thôi. Thêm
vào đó, ngoài các trò chơi rèn luyện sức khẻ đã kể trên, việc thể hiện hình tượng
con người trong khung cảnh xã hội còn cho ta thấy một quan niệm về phản ánh
hiện thực trong nghệ thuật nói chung và nghệ thuật chạm khắc nói riêng – hiện
46
thực của nghệ thuật không phải là một thứ hiện thực trần trụi, mà có cả yếu tố tả
thực và yếu tố ước lệ. Điều này cho ta thấy bản chất nghệ thuật chạm khắc dân
dan truyền thống : thể hiện những ước mơ về một xã hội no ấm, hạnh phúc,
trong đó con người thân thiện với nhau trên tinh thần bình đẳng. Cũng do thế,
mặc dù hiện thực cuộc sống còn đầy rẫy những khó khăn, vất vả, song hình
tượng con người trong chạm khắc đình Hoành Sơn luôn thể hiện tinh thần vui
tươi, lạc quan, yêu đời. Chính vì vậy nội dung chủ đề hình tượng con người
trong chạm khắc đình Hoành Sơn đều xoay quanh cuộc sống của người dân
trong làng. Các hình tượng con người trong chạm khắc của đình dù mang yếu tố
ước lệ hay tả thực, đường nét, hình khối dù thanh hay đậm, khối nổi hay
chìm…thì được biểu hiện qua đặc điểm của những người thật và có chung mục
đích là biểu thị những giá trị tốt đẹp của cả cộng đồng làng.
47
CHƯƠNG 3
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI
TRONG NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC ĐÌNH HOÀNH SƠN VÀ
NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1. Giá trị nghệ thuật của hình tượng con người trong chạm khắc đình
Hoành Sơn
Giá trị nội dung nghệ thuật:
Nội dung của tác phẩm nghệ thuật do đối tượng của tác phẩm. Đó chính là
mối quan hệ thẩm mỹ của con người với thế giới hiện thực thông qua tư tưởng
và chủ đề của tác phẩm nghệ thuật trong quá trình sáng tạo của người nghệ sỹ.
Nội dung mang tư tưởng, tâm hồn, tình cảm sâu đậm nhất. Nói tới nội
dung là nói tới con người, nhân vật của tác phẩm chạm khắc, là yếu rố mang
hình bóng, tâm hồn, hơi thở của thời đại
Từ xa xưa, con người đã là đối tượng của nghệ thuật, là hình ảnh trung
tâm. Ở mỗi giai đoạn lịch sử sự thể hiện hình tượng con người với những trạng
thái, tình cảm, hoạt động như thế nào tùy thuộc vào cách nhìn nhận trong từng
hoàn cảnh, từng giai đoạn phát triển lịch sử. Vì vậy hình tượng con người cũng
được khắc họa theo những phong cánh nghệ thuật của mỗi thời đại, đồng thời
cũng phản ánh cách nhìn nhận về cuộc sống và con người theo cách riêng đó.
Để đạt giá trị nghệ thuật trong chạm khắc đình nói chung thì yếu tố khách
quan thuộc tính thẩm mỹ của cái đẹp, cao cả trong cuộc sống được các nghệ sỹ
phản ánh vào tác phẩm theo chủ đề nhất định. Nói một cách khác đây chính là
đối tượng của nghệ thuật.
Những nghệ nhận tham gia xây dựng và sáng tạo những mảng chạm khắc
đình làng Hoành Sơn, họ là thành viên của cả cộng đồng, mọi phong tục tập
quán, lối sống, mọi ứng xử cuộc sống xã hội cũng như thiên nhiên đã hằn sâu
48
trong tâm thức họ. Vì vậy các mảng chạm khắc trong đình đã thể hiện một cách
sinh động nhất về cuộc sống xã hội người nông dân: đơn giản, hồn nhiên thuần
phác và mộc mạc như chính con người họ. Các nghệ nhân đã thể hiện tư duy
thẩm mỹ không chịu tác động bởi những áp lực của xã hội đương thời, cũng
không bị quy chuẩn nào chi phối. Họ tự do tưởng tượng, bộc lộ những cảm xúc
của cá nhân mình. Nhiều phong tục tập quán trong đời sống nhân dân như lao
động, sinh hoạt, lễ hội, biết ơn tổ tiên… được các nghệ nhân thể hiện trong chạm
khắc đình Hoành Sơn đã minh chứng rằng tinh thần luôn tràn ngập niềm vui tươi
và niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Hình tượng con người thể hiện qua nội dung chủ đề trong chạm khắc đình
Hoành Sơn rất đa dạng và phong phú. Phản ánh cuộc sống của các giai cấp
trong xã hội, từ những người nông dân chân lấm tay bùn đến tầng lớp tri thức.
Mỗi nội dung chủ đề nó phản ánh hiện thực cuộc sống của người dân đương
thời.
Các nghệ nhân là những con người lao động, gắn liền với cuộc sống của
người dân lao động, xuất phát từ tâm tư tình cảm gắn bó với đời sống hiện thực
trong xã hội, mỗi bức chạm là bức tranh phản ánh hiện sâu sắc. Con người trở
thành một hình tượng nghệ thuật qua bàn tay người nghệ sỹ.
Đề tài lao động thể hiện hình tượng con người ở đây đang cày, cấy. gánh
mạ, cất vó, giã gạo…Như muốn mang hết tất cả các hình ảnh lao động thường
ngày của người dân vào bức chạm. Bằng thủ pháp đồng hiện và kỹ thuật chạm
nông, trên một diện tích rất nhỏ và dài ở xà ngang, các nghệ nhân đã mượn hình
tượng con người để để nói lên đặc điểm cuộc sống của người nông dân lao động,
qua đó thể hiện tâm tư tình cảm của người nghệ sỹ đối với những con người lao
động, ước mơ cuộc sống thanh bình, ấm no, hạnh phúc.
Bên cạnh cuộc sống lao động của người nông dân thì đề tài những con
người trí thức, có học vấn cũng được các nghệ nhân khai thác. Bằng kỹ thuật
chạm nông, thô mộc, đơn giản, các khối không quá cầu kỳ, chi tiết,ở vị trí các
49
bức cốn vì nách đối xưng nhau là những đề tài vinh quy bái tổ. Đề tài: vinh quy
bái tổ, thi võ là những đề tài đề cao sự học hành, đõ đạt. Nghệ An là vùng đất
giàu truyền thống học thành, nhiều người đỗ đạt trong thi cử, ngoài những đề tài
phản ánh cuộc sống lao động thì các nghệ nhân còn ca ngợi sự thành công trong
học vấn, ca ngợi tinh thần biết ơn tổ tiên sau khi đỗ đạt thành tài.
Ngoài ra, đề tài phản ánh đời sống văn hóa, lễ hội như: đánh cờ, đua
thuyền…cũng được các nghệ nhân khai thác thông qua hình tượng con người
nhằn phản ánh tâm tư tình cảm, đời sống tinh thần văn hóa của người dân địa
phương. Hàng năm ngày lễ hội được tổ chức vào ngày 15 tháng 6 âm lịch diễn ra
rất sôi động, náo nhiệt, đầy đủ mọi thành phần, giai cấp tham gia. Qua hình
tượng con người thể hiện đề tài lễ hội các nghệ nhân như muốn lưu giữ khoảnh
khắc của ngày hội cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Yếu tố chủ quan là ý tưởng sáng tạo của người nghệ sỹ nói lên các xem
xét đánh giá và giải quyết chủ đề theo ý đồ chủ quan của nghệ sỹ.
Tư tưởng của tác phầm, trước hết là tư tưởng thẩm mỹ của nghệ sỹ được
thể hiện thông qua tác phẩm bằng các hình tượng nghệ thuật nhất định và cũng
qua đó công chúng nghệ thuật có cảm thụ, đánh giá được ý nghĩa tư tưởng của
tác phẩm.
Thông qua hình tượng con người, mượn hình tượng con người trong cuộc
sống đời thực để thể hiện tâm tư tình tảm của tác giả. Khi ta bước vào đình ta
dường như cảm thấy tất cả cuộc sống thường ngày của người dân Nam Đàn như
đang diễn ra trước mắt chúng ta. Mỗi hình hượng con người mang một ý nghĩa
tư tưởng khác nhau.
Chủ đề của tác phẩm gắn liền với tư tưởng của tác phẩm thông qua sự lựa
chọn của người nghệ sỹ. Trong đó tư tưởng của tác phẩm được thể hiện thông
qua nhận thức, đánh giá, sáng tạo của nghệ sỹ trong cách đặt vấn đề do chủ đề
đặt ra và ngược lại chủ đề làm cho tư tưởng thêm sâu sắc.
50
Giá trị hình thức thể hiện
Nghệ thuật nói chung và nghệ thuật chạm khắc nói riêng không bao giờ
đòi hỏi phải thừa nhận các tác phẩm của nó như là hiện thực. Bởi nó không phải
là bản thân cuộc sống, mà là sự phản ánh cuộc sống một các đặc biệt mang tính
biểu trưng và ước lệ.
Sự tổng hợp của tính biểu trưng và biểu cảm trong nghệ thuật hình khối từ
những tác phẩm chạm khắc cũng chính là quan hệ giữa hình thức và nội dung.
Hình thức là cách thể hiện nội dung của tác phẩm nghệ thuật. Hình thức là
tổ chức, là cơ cấu bên trong nội dung tác phẩm. Cho nên, hình thức là cách thể
hiện nội dung.
Nghệ thuật chạm khắc hình tượng con người ở đình Hoành Sơn khiến
người dân nơi đây rất tự hào, các bức chạm có giá trị về mặt nghệ thuật.
Những người thợ trong việc biểu đạt không gian, đường nét, tỷ lệ trong các bức
chạm và bố cục các mảng chạm có nhịp điệu hài hòa với kết cấu kiến trúc qua
các bức vì, tai cột, đầu bẩy, xà ngưỡng,... Các nghệ nhân đã đưa không gian của
vũ trụ, cỏ cây hoa lá và không gian của con người hòa đồng tạo một không gian
mộc mạc, giản dị gần gũi.
Nét chạm dứt khoát, mạch lạc, chân chất thể hiện một tâm hồn phong phú
với hình thức thể hiện đa dạng, kết hợp với các hình thức chạm nông, chạm kênh
bong tạo nhiều không gian kỳ thú.
Với kỹ thuật chạm nông, khối đây cũng được các nghệ nhân sử dụng đa
dạng. Sự kết hợp giữa khối động, khối tĩnh, khối mềm, khối cứng được vận dụng
thường xuyên làm cho bức chạm càng trở nên sống động, phong phú.
Những cảnh sinh hoạt gần gũi với đời thường đều được các nghệ nhân xưa
đưa vào cách bực chạm một cách hồn nhiên, mộc mạc làm cho ta có cảm tưởng
cuộc sống chạy thẳng vào tác phẩm chạm khắc mà không tuân theo quy luật nào
về nghệ thuật, quan điểm, thẩm mỹ. Bỏ qua định luật xa gần, những nguyên tắc
51
về giải phấu, bố cục dựa vào chạm khắc mà mô tả trực tiếp, lấy cảm xúc để thể
hiện tác phẩm.
Tùy từng nội dung để các nghệ nhân sử dụng khối. Ví dụ, nội dung đề tài
cần đến sức mạnh, khéo léo thì các nghệ nhân sử dụng khối tĩnh, như mái chèo,
thuyền… các nét bao quanh của khối tĩnh là những đường thẳng. Hoặc sự kết
hợp của các khối tĩnh tạo thành hình tượng nhân vật, như sử dụng các hình trụ
đứng, nằm dọc, nằn ngang…lắp ghép lại với nhau chỉ gọt dũa những nơi tiếp
giáp tạo thành hình tượng nhân vật, những khối đó làm cho nội dung thêm
phong phú và hình tượng nhân vật trở nên cứng cáp, chắc khỏe.
Khác với hiệu quả của khối cứng, sử dụng những khối mềm đem lại hiệu
quả giá trị nghệ thuật riêng. Diễn tả sự mềm mại, uyển chuyển, êm lu của hình
tượng con người cũng như các hình tượng khác trong các bức chạm đòi hỏi phải
sử dụng khối mềm. Những khối đó là khối tròn, khối elip, những khối cong…
được các nghệ nhân sử dụng trong các mảng quần áo, đầu, các họa tiết trang trí,
để diễn tả nội dung của hình tượng.
Nhờ hiệu quả của tạo khối kết hợp với tính xâm thực của không gian vào
khối, hiệu quả của sự kênh bong, tách mảng, hình ra ngoài khối vật liệu nên khi
ánh sáng chiếu vào, vướng mắc, ngưng đọng, bẻ gãy, ở độ nông sâu, luồn lách
mà trở nên đa sắc độ. Một không gian thể hiện cho chúng ta cảm giác như hai
chàng trai đang bay người trên lưng ngựa mà múa kiếm.
Nghệ thuật tạo hình của khối trong chạm khắc hình tượng con người ở
đình Hoành Sơn đem lại giá trị cao. Sự phong phú của khối đã làm cho hình
tượng con người ở đây trở nên đẹp đẽ, sống động, nhịp nhàng như đang chuyển
động. Tạo hình của khối đã để lại dấu ấn lịch sử trong nghệ thuật chạm khắc
hình tượng con người ở thế kỷ 18, đó là sự trau chuốt trong đường nét, phong
phú về hình khối trong các bức chạm.
52
Nếu như ở chất liệu đá cứng, đanh khi chạm trổ sẽ đem lại hiệu quả đường
nét đanh, sắc cạnh, thì ở chất liệu gỗ mềm hơn, dễ chạm hơn nên đường nét ở
đây đem lại nhiều hiệu quả thẩm mỹ.
Hiệu quả của nét trong nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn thông qua
hình tượng con người đạt kết quả lớn. Hiểu được đặc thù của chất liệu gỗ nên
bằng các kỹ thuật chạm nông, chạm bong kênh, các hình tượng con người ở đây
được tạo nên bởi nét phong phú. Chỗ nét giày- nét thưa, chỗ nét tình- nét động,
chỗ nét liền- nét đứt, có chỗ nét mềm- nét đanh… Sự kết hợp giữa kỹ thuật chạm
nét làm cho hình tượng con người ở đây nổi lên là hình tượng trung tâm của bức
chạm, tạo cho chúng ta cảm giác hình tượng con người rất động nằm trong một
không gian yên tĩnh của ngôi đình. Đó cũng là dụng ý của các nghệ nhân khi
phản ánh hình tượng con người qua nghệ thuật chạm khắc.
Chức năng của phù điêu ngoài việc án ngữ trên thành phần kiến trúc lớn,
nó còn nằm trong các thành phần nhỏ của các đối tượng khác trong tổng thể kiến
trúc. Mỗi thành phần kiến trúc đều mang lại sắc thái, đề tài, cách đục, chạm nông
sâu khác nhau…
Ở mỗi không gian, thành phần hay kiết cấu kiến trúc, chúng đều ẩn chức
những giá trị tư tưởng, văn hóa nghệ thuật. Trong chạm khắc đình làng nói
chung và chạm khắc đình Hoành Sơn nói riêng, có hai loại không gian đó là:
không gian thực là không gian đặt bức chạm vào đó, không gian ước lệ là không
gian trong bức chạm.
Ở những bức chạm khắc có hình tượng con người trong đình Hoành Sơn,
không gian ở đó là không gian ảo, không gian mang tính ước lệ. Nghĩa là không
gian không có thực. Điều đó được thể hiện giữa mối quan hệ giữa bố cục người
đứng trước người đúng sau.
Nếu như theo luật xa gần trong thực tế không gian thì người đứng trước sẽ
lớn hơn người đứng sau, người đứng trước sẽ rõ hơn người đứng sau. Nhưng
trong chạm khắc đình Hoành Sơn nhân vật chính sẽ lớn hơn nhân vật phụ…Điều
53
đó đã đem đến hiệu quả trong nghệ thuật tạo hình trong đình Hoành Sơn. Tạo
cho người xem khi nhìn vào các bức chạm khắc, hình tượng con người thể hiện
nội dung tác phẩm càng rõ nét. Kết hợp với sự xâm lấn của không gian thực như
ánh sáng, không khí càng làm tăng thêm sự cổ kính của ngôi đình cũng như giá
trị ở các bức chạm.
Phù điêu ở đây mang đề tài cụ thể với nhân vật, hình ảnh cụ thể tồn tại
trên mặt phẳng hai chiều. nó mang ý nghĩa truyền tải nội dung đến người xem
bằng hình ảnh của nó và không gian bao quanh nó là mặt phẳng. Chiều hướng
không gian phát triển ra các hướng, mọi chi tiết đều bung ra khỏi hình tượng của
phù điêu.
Một không gian có các di vật là phù điêu trang trí có cách chạm khắc tỉ
mỉ, kỹ lưỡng… sẽ cho người đứng trước nó phải điều chỉnh mình trong một
không gian tưởng là tĩnh hẳn nhưng nó vẫn đang có một sự vận động mạnh mẽ.
Những hình thức biểu đạt khác nhau cũng góp phẩn vào sự chuyển động mà
chúng ta có thể cảm nhận được không gian trong chạm khắc đình làng.
Không gian của tác phẩm và tác phẩm chạm khắc luôn có mối qua hệ mật
thiết, bổ trợ cho nhau trong tổng thể bố cục. Tương phản về khối với không gian
là một trong những cách lựa chọn về ngôn ngữ của tác phẩm trong không gian
của nó. Tương phản của khối với không gian là biểu hiện tính tương phản của
hình trong không gian hai chiều.
Cách nhìn đồng hiện cùng một lúc trên bức chạm tác giả đã diễn nhiều
hoạt cảnh như đi cấy, đi cày, gánh mạ, nơm cá…. Ở đình Hương Canh có cảnh
đi săn, quan cưỡi ngựa, cảnh đấu vật,,,,ở đình Hạ Hiệp diễn tả cảnh một người
đang đút quan tài vào miệng rồng, bên cạnh đó có cảnh hai người đánh vật, bên
trên có người ngồi bó gối…
Cái nhìn nhiều điểm nhìn cùng lúc đưa ra nhiều góc nhìn ở vị trí khác
nhau về đối tượng trên mặt phẳng như bức chạm “ đánh cờ”, bàn cờ được nhìn
từ trên xuống, mặt hòm cũng được nhìn từ trên xuống nhưng hình tượng người
54
thì lại nhìn ngang. Trong bức chạm “ đánh cờ” của đình Ngọc Canh bàn cờ cũng
được nhìn từ trên xuống, các nhân vật được nhìn ngang theo phối cảnh, không
tuân theo định luật xa gần.
3.2. Bài học rút ra từ việc nghiên cứu đề tài hình tượng con người trong
chạm khắc đình Hoành Sơn
Qua nghiên cứu đề tài hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc
đình Hoành Sơn bản thân tôi nhận thấy:
Nội dung hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc ở đình
Hoành Sơn thể hiện rất sinh động, phản ánh hiện thực cuộc sống của người dân
địa phương một cách chân thật, sâu sắc mộc mạc đến giản dị. Từ hình dáng con
người ở đây đến đời sống sinh hoạt hàng ngày, từ dụng cụ đặc trưng của người
dân bản địa lao động địa phương đến trang phục của các nhân vật thể hiện qua
các chủ đề. Cuộc sống chân thật ngoài đời như lao động hàng ngày, các lễ hội
được tổ chức hàng năm của địa phương, các chủ đề sinh hoạt truyền thống của
người dân yêu lao động, hiếu học… Tất cả được các nghệ nhân phản ánh rất
chân thực, mộc mạc đến từng chi tiết thông qua hình tượng con người trong tác
phẩm nghệ thuật.
Chính vì thế đây là bài học xây dựng hình tượng trong mỹ thuật (hội họa,
điêu khắc, đồ họa) chúng ta phải có được cái nhìn cuộc sống phản ánh hiện thực
chân thật, nhưng nó phải được thể hiện qua hình thức nghệ thuật đặc sắc. Nghệ
thuật phải luôn bám sát hiện thực, phản ánh đúng hiện thực, những đối tượng
khách quan thông qua nghệ thuật tạo hình, gắn kết với tâm tư tình cảm xúc động
của người nghệ sỹ.
Qua hình tượng con người trong chạm khắc đình Hoành Sơn, ta thấy hình
thức thể hiện tác phẩm rất thoải mái, không bị gò ép. Hình khối, đường nét chạm
khắc các nghệ nhân sử dụng vào bức chạm rất phong phú với sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa các hình thức. Tỷ lệ của hình tượng con người mang tính ước lệ
nhưng khi nhìn vào ta vẫn thấy thuận mắt.
55
Vì vậy ta thấy bản thân tạo hình của nghệ thuật điêu khắc nó hoàn toàn
phóng khoáng, ước lệ thể hiện thoải mái, bố cục đa dạng, Nên trong nghệ thuật
chúng ta phải luôn luôn đề cao thẩm mỹ. không câu nệ vào cấu trúc chỉ cần
thuận mắt … khi chúng ta sáng tác chúng ta phải có xây dựng hình tượng nghệ
thuật không bị gò bó vào tỷ lệ hay hiện thực, khuôn hình bố cục độc đáo, hoàn
toàn có thể chủ động sử dụng không gian khác nhau, sử dụng thủ pháp khác
nhau để đạt được mục tiêu trong sáng tác
Từ tình hình trên và từ những nghiên cứu về hình tượng con người trong
nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn của mình, dưới góc độ của người giảng
dạy mỹ thuật, tôi nhận thấy việc vận dụng những tài liệu thực tế về các mảng
chạm khắc đình làng vào giảng dạy và học tập bộ môn mỹ thuật trong các trường
văn hóa nghệ thuật là hết sức cần thiết. Bởi lẽ thông qua đó thế hệ trẻ nhận thức
một cách sâu sắc khá toàn diện về giai đoạn lịch sử xã hội. Bằng các chương
trình như: tổ chức đi xem bảo tàng về mảng chạm khắc đình làng tại Nam Đàn,
đặc biệt cho sinh viên đi điền dã thực tế tại ngôi đình Hoành Sơn để chép vốn cổ,
lấy tài liệu thực tế trực tiếp phục vụ cho việc học tập, sáng tạo của sinh viên. Với
kiến thức và cảm nhận của mình, sinh viên có thể sáng tạo nên những tác phẩm
vừa có sự kế thừa nhứng giá trị của nền mỹ thuật truyền thống vừa vận dụng trào
lưu mới của mỹ thuật hiện đại trong trời kỹ hội nhập.
Ngôi đình Hoành Sơn cổ kính với những mảng chạm khắc tinh tế về hình
tượng con người, ở đó có sự kế thừa về nét tinh hoa chạm khắc của thế kỷ trước
và có sự mới lạ của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ 18. Do vậy, việc bảo tồn ngôi
đình nói chung, và những mảng chạm khắc của ngôi đình nói riêng cần được đặc
biệt quan tâm. Đó chính là trân trọng lịch sử, quý trọng những sáng tạo văn hóa
của người xưa.
Tiểu kết chương 3.
Chương 3 của đề tài là sự tổng kết đánh giá giá trị nghệ thuật của hình
tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình Hoành Sơn. Đầu tiên là sự
56
đánh giá về giá trị nội dung thể hiện qua nghệ thuật chạm khắc hình tượng con
người, với nội dung đơn giản, chỉ là những mô tả về hoạt động lao động sản xuất
và sinh hoạt trong cuộc sống đời thường của người dân như: cày ruộng. gánh
mạ, cất vó, đi cày, cưỡi trâu, đánh cờ, đua thuyền, thi võ…những chủ đề ấy được
những người thợ xưa thể hiện một cách đơn giản, mộc mạc, hồn nhiên với
phương pháp thể hiện không theo một nguyên tắc nào.
Hiện thực cuộc sống được phản ánh rõ nét thông qua những thủ pháp và
kỹ thuật thể hiện điêu luyện với cảm hứng sáng tạo dạt dào, đã làm nên giá trị
nghệ thuật của hình tượng con người trong chạm khắc đình Hoành Sơn. Thông
qua việc nghiên cứu đề tài hình tượng con người trong chạm khắc đình Hoành
Sơn, tác giả cũng rút ra được bài học giá trị cho sự nghiệp sáng tác nghệ thuật của bản thân, cũng như cho công cuộc giảng dạy bộ môn mỹ thuật.
57
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, đã có một lịch sử khá dày dặn và công phu, với sự
tham gia nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, về nghệ thuật chạm khắc đình
làng. Điều này cho thấy sự hấp dẫn và giá trị đặc biệt của nghệ thuật chạm khắc
đình làng. Bởi lẽ, đình làng là một thiết chế văn hóa, tín ngưỡng ra đời từ thời Lê
sơ, đánh dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền, là biểu tượng của
tính cộng đồng và dân chủ làng xã, là trung tâm văn hóa, nơi tập trung và lưu
truyền các giá trị văn hóa dân tộc, các phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng
làng xã cổ truyền. Do đó, tác giả đã tiếp cận và nghiên cứu từ góc độ mỹ thuật
học để làm rõ hơn giá trị nghệ thuật của những mảng chạm khắc hình tượng con
người ở đình Hoành Sơn.
Đình Hoành Sơn, thuộc làng Hoành Sơn, xã Khánh Sơn, Nam Đàn, Nghệ
An là công trình kiến trúc đình làng tiêu biểu cho thời Lê. Những đề tài phản ánh
hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình hết sức phong phú, tập
trung vào yếu tố tả thực. Dù phong phú về nội dung chủ đề, đa dạng về hình thức
thể hiện, song tất thảy đều có chung đặc trưng cơ bản: hồn nhiên, mộc mạc, sinh
động trong phản ánh hiện thực, đơn giản chỉ là những mô tả về hoạt động lao
động sản xuất thường nhật, những đề tài lễ hội, và ca ngợi văn võ song toàn của
người dân Nam Đàn lúc bấy giờ, nhằm phản ánh ước mong, hi vọng về cuộc
sống bình yên, ấm no, hạnh phúc.
Những kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu nghệ thuật chạm khắc
phù điêu có hình tượng con người trong đình Hoành Sơn phần nào đã khẳng
định giá trị không hề nhỏ thông qua ngôn ngữ taọ hình. Từ hình khối. đường nét,
cấu trúc tỉ lệ ở đây là cái đẹp gắn liền với không gian thực của đình và không
gian của các bức chạm khắc.
Mỹ thuật truyền thống là nền móng góp phần vào việc xây dựng và phát
triển nền mỹ thuật ngày nay. Giá trị của nghệ thuật chạm khắc truyền thống
58
dường như luôn ẩn chứa sự tinh tế các ngôn ngữ tạo hình. Do đó, việc vận dụng
và kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống đó như thế nào là tùy thuộc vào sự
hiểu biết và cảm nhận của mỗi nguời sáng tạo nghệ thuật hiện nay, trong đó có
sinh viên của các trường mỹ thuật.
Nghệ thuật chạm khắc đình làng nói chung, nghệ thuật chạm khắc hình
tượng con người trong đình Hoành Sơn nói riêng, có giá trị nghệ thuật to lớn
trong diễn trình phát triển của nền văn hóa dân tộc. Do đó việc bảo tồn và phát
huy những giá trị truyền thống này là hết sức cần thiết nhằm giữ dìn trọn vẹn,
ngày càng trở thành khối di sản văn hóa quý báu cho dân tộc.
59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình
truyền thống Việt, Nxb Mỹ Thuật Hà Nội
2. Trần Lâm Biền (2011), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người
Việt, Nxb Mỹ Thuật, Hà Nội.
3. Trương Duy Bích (1985), Điêu khắc đình làng, T/cVăn hoá dân gian.
4. Nguyễn Đức Bình ,Nguyễn Hải Phong, (2002), Hình tượng con người
trong chạm khắc cổ Việt Nam, Nxb Mỹ Thuật
5. Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Du Chi, Trần Lâm, Nguyễn Bá Vấn (1993),
Mỹ thuật thời Mạc, Sách tư liệu Viện mỹ thuật Trường Đại học mỹ thuật
Việt Nam
6. Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung (1975), Việt Nam điêu khắc dân gian,
Nxb Ngoại văn - Hà Nội
7. Nguyễn Văn Cương (2006), Mỹ thuật đình làng vùng đồng bằng Bắc Bộ,
Nxb Văn hóa - Thông tin
8. Lê Thanh Đức (2001), Đình làng miền Bắc, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội .
9. Lê Thị Mai Hạnh (2012), Đề tài lễ hội trong chạm khắc gỗ đình Hoành
Sơn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại Học Mỹ Thuật Việt Nam.
10. Phan Văn Hùng (2007), Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và văn hóa đình
làng Việt nam, luận văn thạc sỹ trường ĐHMT Việt Nam
11. Nguyễn Hồng Kiên (1999), Mặt bằng những kiến trúc tôn giáo cổ truyền
của người Việt, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 11.
12. Nguyễn Hồng Kiên (2003), Ngôi đình làng thế kỷ XVI ở Việt Nam, Luận
án Tiến sỹ, Trường Đại học mỹ thuật Việt Nam
13. Nguyễn Văn Kự, Hà Văn Tân. (1998), Đình làng Việt Nam, Nxb Thành
Phố Hồ Chí Minh.
14. Lê Thị Liễu (2014), Phong cách tạo hình tiên nữ đình làng Bắc bộ thế kỷ
60
XVII, Tạp chí nghiên cứu mỹ thuật. Trường ĐHMT Việt Nam
15. Bùi Đức Mạnh (2013), Hình tượng con người trong chạm khắc gỗ đình
làng Lâu Thượng Việt Trì Phú Thọ Tiểu luận tốt nghiệ, ĐHMTVN
16. Vũ Thị Kim Ngân (2016), Nghệ thuật điêu khắc đá lăng Vũ Hồng Lượng,
Luận văn thạc sỹ, Trường ĐHMT Việt Nam
17. Đặng Thị Bích Ngân (2012), Từ điển Mỹ thuật phổ thông, NXB Mỹ thuật
18. Hoàng Phê (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
19. Nguyễn Hồng Quân (2016), Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc đình
Thượng Phú, Thanh Hóa, luận văn thạc sỹ trường ĐHMT Việt Nam
20. Lê Văn Sửu (2015),Ý nghĩa của việc nghiên cứu di sản đình làng vùng
châu thổ Bắc bộ, Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu mỹ thuật. Trường ĐHMT
Việt Nam
21. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1991), Mỹ thuật ở làng, Nxb Mỹ
Thuật
22. Văn Tân (1994), Từ điển tiếng việt, Nxb Khoa học xã hội
23. Nguyễn Đức Tịnh (số 137,129), Các nơi cổ tích đất Nghệ Tĩnh, tạp chí
Nam Phong, lưu trữ trong thư viện Nghệ An
24. Lê Anh Tuấn (2006), Đề tài sinh hoạt trong chạm khắc đình làng Việt
Nam, Tiểu luận tốt nghiệp, ĐHMT Việt Nam
25. Trần Đình Tuấn (2016), Hình tượng con người trong chạm khắc đình
làng vùng châu thổ sông Hồng, Nxb Lao Động
26. Chu Quang Trứ (2002), Vănhoá Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật
Hà Nộì.
27. Phan Xuân Thành (2011), Đình làng Nghệ An với lễ hội dan gian, Nxb
Nghệ An
28. Trần Đình Thọ (1973), Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
61
29. Trần Ngọc Thêm (1994), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam,Nxb Văn
Hóa Thể Thao
30. ĐàoThị Phương Thùy (2005), Tìm hiểu hình tượng con người trong
tranh dân gian đông hồ - chạm khắc đình làng – múa rối nước, khóa luận
tốt nghiệp trường, trường ĐHMT Việt Nam
31. Phan Cẩm Thượng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, Nxb Mỹ Thuật
32. Phan Cẩm Thượng (2011), Văn minh vật chất của người Việt,Nxb Tri
thức, Hà Nội.
33. Tòng Thị Trang (2010), Trò chơi dân gian trên chạm khắc đình làng Bắc
bộ thế kỷ XVII, Tạp chí nghiên cứu mỹ thuật. Trường ĐHMT Việt Nam
34. Trường ĐHMT Việt Nam Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb Thế giới
35. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng(1970), Mỹ thuật của người Việt, Nxb
Mỹ Thuật.
36. Lương Văn Phường (2016), Nghệ thuật chạm khắc đình làng Hưng Lộc,
Nam Định, luận văn thạc sỹ trường ĐHMT Việt Nam
37. Thái Bá Vân (1997), Tiếp xúc với người Việt, Nxb Bản Đồ, Hà Nội
38. Viện Mỹ Thuật (1975), Nghệ thuật chạm khắc Việt Nam qua các bản rập,
Nxb Văn Hóa.
39. Lê Trung Vũ (2009), Lễ hội trong đời sống nhân dân xưa và nay trong
cuốn Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội
62
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA ,THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ LÊ HỒNG
HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG NGHỆ THUẬT
CHẠM KHẮC ĐÌNH HOÀNH SƠN
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Chuyên ngành : Mỹ thuật tạo hình ( hội họa)
Mã số : 60 21 01 02
Khóa : K18 (2015-2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
PGS.TS. LÊ VĂN SỬU
PHỤC LỤC ẢNH
HÀ NỘI-2017
63
PHỤC LỤC1
HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG CHẠM KHẮC ĐÌNH HOÀNH SƠN
H1.1.Trích ”Cảnh cấy lúa” trang trí trên đầu đốc xà ngang, đình Hoành Sơn
( Nguồn ảnh VMT)
H1.2: Trích”cảnh đi cày”, trang trí trên đầu đốc xà ngang, đình Hoành Sơn . (nguồn ảnh VMT)
64
H1.3. Trích ”Cảnh cấy lúa” trang trí trên đầu đốc xà ngang, đình Hoành Sơn
( Nguồn ảnh VMT)
H1.4. Trích ”Cảnh cất vó, nơm cá” trang trí trên đầu đốc xà ngang, đình Hoành Sơn
( Nguồn ảnh tác giả)
65
H1.5: “Cưỡi trâu” trang trí trên ván cốn vì nách đình Hoành Sơn
(Nguồn ảnh VMT)
H1.6: “ Đua thuyền”, trang trí trên ván cốn vì nách đình Hoành Sơn.
(Nguồn ảnh VMT )
66
H1.7: “ Đua thuyền”, trang trí trên ván cốn vì nách đình Hoành Sơn.
(Nguồn ảnh VMT )
H1.8: “Đua thuyền”, trang trí trên ván cốn vì nách đình Hoành Sơn.
(Nguồn ảnh VMT)
67
H1.9:Đánh cờ”, trên ván lá đề vì nóc, đình Hoành Sơn. (Nguồn ảnh VMT)
H1.10:” Vinh quy bãi tổ”, trang trí trên ván cốn vì nách đình Hoành Sơn
(Nguồn ảnh VMT)
68
H1.11: Trích” Vinh quy bãi tổ ”trang trí trên ván cốn vì nách, đình Hoành Sơn
(Nguồn ảnh VMT)
H1.12:” Vinh quy bãi tổ “trang trí trên ván cốn vì nách, đình Hoành Sơn
( Nguồn ảnh VMT)
69
H1.13:Trích “vinh quy bãi tổ “ trang trí trên ván cốn vì nách.
(Nguồn ảnh VMT)
H1.14: “Thi võ “, trang trí trên ván cốn vì nách đình Hoành Sơn.
(nguồn ảnh VMT)
70
H1.15: Trích “Thi võ “, trang trí trên ván cốn vì nách đình Hoành Sơn.
(nguồn ảnh VMT)
H1.16: “Người và ngựa” trang trí trên vì nách tòa Đại đình đình Hoành Sơn.
(nguồn ảnh VMT)
71
H1.17: “Voi ra trận“, trang trí trên vì nách tòa Đại đình đình Hoành Sơn.
(nguồn ảnh VMT)
H1.18: “ Rước voi “, trang trí trên ván cốn vì nách tòa Đại đình đình Hoành Sơn
( nguồn ảnh VMT)
72
PHỤC LỤC 2
HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG CHẠM KHẮC ĐÌNH TRUNG CẦN
VÀ MỘT SỐ ĐÌNH MIỀN BẮC.
H2.1: “Đánh cờ“ trang trí trên ván cốn vì nách đình Trung Cần.
(Ảnh tác giả )
H2.2. Vinh Quy bái Tổ trang trí trên ván cốn vì nách đình Trung Cần.
(Ảnh tác giả )
73
H2.3: “Đánh cờ” trang trí trên ván cốn vì nách đình Hạ Hiệp.
(Ảnh sưu tầm )
H2.4: “ Đánh cờ “ trang trí trên ván cốn vì nách đình Ngọc Canh.
(Ảnh sưu tầm)
74
H2.5: “Đấu vật” đình Hoàng xá.(Ảnh sưu tầm)
H2.6: “Đấu vật” đình Hoàng xá.(Ảnh sưu tầm)
75
H2.7: “Đua thuyền“ trang trí trên ván cốn vì nách đinh Hoàng Xá.(Ảnh sưu tầm)
H2.8: “ Đua thuyền “trang trí trên ván cốn vì nách đinh Hương Canh
( Ảnh sưu tầm)
76
H2.8.: “ Đua thuyền “trang trí trên ván cốn vì nách đinh Phù Lưu
( Ảnh sưu tầm)