BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
LƯƠNG THÙY TRANG
TINH THẦN LẠC QUAN TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM
VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN 1954 – 1985
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Hà Nội – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
LƯƠNG THÙY TRANG
TINH THẦN LẠC QUAN TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM
VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN 1954 – 1985
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60210102
Khóa: 18 (2015 – 2017)
Giảng viên hướng dẫn khoa học
PGS. TS. Bùi Thị Thanh Mai
Hà Nội – 2017
1
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Bt. MTVN Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
Tr Trang
TS Tiến sĩ
2
MỤC LỤC
Trang phụ bìa ......................................................................................................
Bảng chữ cái viết tắt ........................................................................................ 01
Mục lục ............................................................................................................ 02
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 03
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................ 12
1.1. Khái niệm “Tinh thần lạc quan trong hội họa” ........................................ 12
1.2. Khái niệm “Đề tài lao động sản xuất”...................................................... 17
1.3. Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 ........................... 21
Tiểu kết ............................................................................................................ 27
Chương 2: SỰ BIỂU HIỆN CỦA TINH THẦN LẠC QUAN TRONG HỘI
HỌA VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN
1954 – 1985 ..................................................................................................... 28
2.1. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua bố cục .............................................. 28
2.2. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua hình thể ........................................... 36
2.3. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua màu sắc ........................................... 45
Tiểu kết ............................................................................................................ 48
Chương 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ..... 50
3.1. Thành công và hạn chế của những tác phẩm hội họa Việt Nam mang tinh
thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 ................... 50
3.2. Bài học rút ra trong vấn đề sáng tác hội họa ............................................ 58
Tiểu kết ............................................................................................................ 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 68
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 72
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Tác phẩm nghệ thuật nào cũng là con đẻ của thời đại ấy” [10; tr.25].
Kandinsky đã đưa ra nhận định như vậy khi luận bàn về tinh thần trong nghệ
thuật. Mỗi giai đoạn trong quá trình phát triển của Mỹ thuật Việt Nam nói
chung và hội họa Việt Nam Hiện đại nói riêng luôn gắn liền với bối cảnh thời
đại của toàn dân tộc, cùng những biến cố, sự kiện lịch sử của đất nước. Hiện
thực của cuộc kháng chiến những năm 1945 – 1954 đã tác động mạnh mẽ đến
cách nhìn, cách nghĩ trong quan niệm sáng tác nghệ thuật của người họa sĩ.
Cũng từ đây, một nền Nghệ thuật mới – nền Nghệ thuật Cách mạng Việt Nam
đã được hình thành, gần gũi với nhân dân, gắn bó với vận mệnh của dân tộc
và đất nước. Tiếp đó, giai đoạn 1954 – 1985 có thể coi là giai đoạn chuyển
mình của nền hội họa Việt Nam Hiện đại sang một diện mạo mới cùng với
những thay đổi của bối cảnh đất nước. Ở thời kỳ này, hội họa chứa đựng rất
nhiều thông điệp có tính thời đại, khẳng định sự thành công của phương pháp
sáng tác Hiện thực xã hội chủ nghĩa với những đề tài phản ánh chân thực nét
đẹp ngày thường của cuộc sống đất nước.
Chúng ta có thể thấy điểm chung của hội họa Việt Nam trong giai đoạn
1945 – 1985 là các tác phẩm được thể hiện bằng ngọn bút hiện thực nhưng
trên hết đều mang một tinh thần lạc quan trước thực tế gian khổ của cuộc
kháng chiến hay những khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống thời hậu chiến.
Năm 1954 kết thúc chín năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của
nhân dân ta, đất nước bắt đầu bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam và dấu mốc 1975, khi miền Nam
được giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất. Lịch sử đất nước bước sang
một trang mới góp phần làm nền tảng, cầu nối thúc đẩy cho sự ra đời và phát
triển của nền Nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Trong thời kỳ này, ngoài những
4
tác phẩm hội họa về đề tài chiến tranh cách mạng đã và đang được phần đông
các họa sĩ khai thác rất thành công ở giai đoạn 1945 – 1954 thì đề tài lao động
sản xuất cũng được thể hiện hết sức sinh động, phong phú.
Các tác phẩm hội họa đề tài lao động sản xuất chủ yếu được sáng tác
trong giai đoạn 1954 – 1985 đã phản ánh cái đẹp trong lao động sản xuất với
nhân vật trong tranh là những người nông dân, công nhân mới đang hồ hởi,
hăng say lao động, yêu đời, hướng tới tương lai, tin tưởng vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng, Nhà nước lãnh đạo. Những tác phẩm hội họa
về đề tài này thường được thể hiện bằng các chất liệu Sơn dầu, Sơn mài, Lụa
cùng với việc sử dụng các phương tiện của ngôn ngữ tạo hình như bố cục,
hình thể nhân vật, màu sắc và không gian, v.v… Tất cả mang đặc điểm của
Hội họa Hiện thực xã hội chủ nghĩa, để lại dấu ấn riêng cho hội họa Việt Nam
về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 đồng thời cũng trở thành
một đề tài mũi nhọn, góp một vị trí quan trọng trong nền Mỹ thuật Việt Nam
hiện đại.
Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại, vẫn chưa có những đề tài, công
trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu nào về tinh thần lạc quan trong hội
họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985. Bên cạnh
đó, tôi cũng mong muốn có thể hệ thống lại, phân tích và làm rõ sự biểu hiện
cùng những thành công, hạn chế của các tác phẩm mang tinh thần lạc quan
trong hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985, đồng thời rút ra bài học trong
vấn đề sáng tác hội họa từ việc nghiên cứu đề tài. Và đó là lí do tôi thực hiện
Luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam
về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản
xuất giai đoạn 1954 – 1985” là một đề tài có tính chất chuyên sâu, tìm hiểu
5
và làm rõ sự biểu hiện của tinh thần lạc quan thông qua những phương tiện
của nghệ thuật tạo hình được sử dụng ở từng tác phẩm hội họa cụ thể về đề tài
lao động sản xuất trong giai đoạn 1954 – 1985. Để nghiên cứu đề tài này,
ngoài việc tìm hiểu những tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan tới mỹ
thuật nói chung, hội họa nói riêng thì những tài liệu về mỹ học, văn hóa học,
tâm lí học cũng rất hữu ích cho việc nghiên cứu đề tài.
Cuốn Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại (Nxb Văn hóa) của tác giả
Nguyễn Quân xuất bản năm 1982 [31] đã đề cập tới sự ra đời, phát triển của
Nghệ thuật tạo hình Cách mạng Việt Nam, cùng với đó là sự mở rộng về đề
tài, thành công về hình tượng nói chung và hình tượng người lao động nói
riêng, trong đó người lao động là hình tượng điển hình của đề tài lao động sản
xuất. Bên cạnh đó, tác giả cũng nói tới xuất phát điểm của đề tài lao động sản
xuất trong nghệ thuật tạo hình. Ngoài ra, một số tác phẩm hội họa tiêu biểu về
đề tài lao động sản xuất cũng được tác giả đề cập, phân tích trong cuốn sách
như: Tổ đổi công miền núi – Sơn mài của Họa sĩ Hoàng Tích Chù, Tát nước
đồng chiêm – Sơn mài của Họa sĩ Trần Văn Cẩn, Bình minh trên nông trang –
Sơn mài của Họa sĩ Nguyễn Đức Nùng, Công nhân cơ khí và Tan ca mời chị
em ra họp thi thợ giỏi – Sơn dầu của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, v.v… Đó là
những phân tích dựa trên cảm nhận riêng của tác giả nhưng đã giúp cho người
viết có thể tiếp cận nhanh hơn với từng tác phẩm cụ thể, đồng thời hiểu thêm
những sáng tác hội họa về đề tài lao động sản xuất.
Cuốn Các thể loại và loại hình mỹ thuật (Nxb Mỹ thuật) của PGS.
Nguyễn Trân xuất bản năm 2005 [43] đã cung cấp những hiểu biết cần thiết
về các thể loại, loại hình, chất liệu và kỹ thuật trong hội họa nói riêng cũng
như mỹ thuật nói chung giúp người viết có thể hình dung, tiếp cận các tác
phẩm mỹ thuật được dễ dàng hơn.
6
Cuốn Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại do PGS. Họa sĩ Nguyễn Lương Tiểu
Bạch chủ biên cùng các tác giả: Bùi Như Hương, Phạm Trung, Nguyễn Văn
Chiến là cuốn sách được Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật
xuất bản năm 2005 [1] đã tập hợp những tư liệu có được từ trước tới nay về
Mỹ thuật Hiện đại Việt Nam. Cuốn sách đã mang lại cho người viết cái nhìn
tổng quát, cơ sở dữ liệu về bối cảnh lịch sử, hoạt động mỹ thuật, đặc điểm mỹ
thuật ở Việt Nam theo từng giai đoạn tương ứng với những biến động của đất
nước từ những năm cuối của thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cho tới trước thời kỳ Đổi
mới với dấu mốc là năm 1986.
Cuốn Những vấn đề Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại – Kỷ yếu Hội thảo do
Ban Thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam xuất bản năm 2009 [17] đã tập hợp
những tham luận, bài viết tiêu biểu của các họa sĩ, nhà phê bình mỹ thuật. Ở
phần thứ nhất: Tổng quan Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, một số bài viết được
người viết tham khảo như: Mỹ thuật Việt Nam Thế kỷ 20 (Họa sĩ Vũ Trung
Lương); Một số nét phác thảo về Mỹ thuật Thế kỷ 20 (Họa sĩ Quách Phong);
Sự phát triển của hội họa Việt Nam Thế kỷ 20 (Nhà phê bình mỹ thuật
Nguyễn Thanh Mai); Phân kỳ lịch sử Mỹ thuật Hiện đại Việt Nam và một số
vấn đề cần trao đổi (Nhà phê bình mỹ thuật Lê Quốc Bảo); Những thành tựu
và thực trạng của Mỹ thuật Việt Nam Thế kỷ 20; v.v…
Cuốn Mỹ thuật Việt Nam Thế kỷ 20 (Nxb Tri Thức) của tác giả Nguyễn
Quân được xuất bản năm 2010. [34] Công trình đã đưa ra một cái nhìn tổng
quát về nền Mỹ thuật Việt thông quá bốn giai đoạn phát triển. Trong các giai
đoạn được tác giả đề cập, có thể thấy ở giai đoạn 1945 – 1985, mỹ thuật mang
một đời sống mới với chủ nghĩa yêu nước và khuynh hướng tả thực, những
thành công trong sự mở rộng đề tài về chiến tranh cách mạng và lao động sản
xuất cùng hình tượng tiêu biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ và Bác Hồ.
Tuy nhiên, đây vẫn là một công trình nghiên cứu có tính chất tổng quan, khái
quát những khuynh hướng thẩm mỹ, đặc điểm nghệ thuật qua các giai đoạn
7
của Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, phần nghiên cứu về tinh thần lạc quan
trong sáng tác hội họa hay đề tài lao động sản xuất vẫn chưa được đề cập đến
một cách chuyên sâu, cụ thể. Mặc dù vậy, cuốn sách cũng đã giúp người viết
có thêm những cơ sở lí luận để làm sáng rõ hơn những luận điểm, luận cứ
trong luận văn của mình.
Để nghiên cứu về tinh thần lạc quan trong tác phẩm hội họa nói riêng
hay rộng hơn là tinh thần, tâm lý ở những sáng tác mỹ thuật cho đến nay vẫn
chưa có công trình nào mang tính chuyên biệt, chủ yếu vẫn là chỉ ra những tác
động của xã hội, bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng, quan niệm sáng tác của
nghệ sĩ một cách khái quát. Bởi vậy, để hiểu rõ hơn vấn đề, người viết sử
dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành thông qua những tài liệu về mỹ học,
tâm lý học, văn hóa học như: Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiều tính cách
dân tộc, Nxb Khoa học [28]; Viện Nghệ thuật – Bộ Văn hóa (1973), Về tính
dân tộc của nghệ thuật tạo hình, Nxb Văn hóa [50]; L.X.Vưgôtxi (1981), Tâm
lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, Nxb Khoa học xã hội [11]; Chu Quang
Tiềm (1991), Tâm lý học văn nghệ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh [40];
Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (1997), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục,
Hà Nội [47]; Đức Uy (1999), Tâm lý học sáng tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội
[48]; Lê Văn Dương – Lê Đình Lục – Lê Hồng Vân (2009), Mỹ học đại
cương, Nxb Giáo dục [5]; Kandinsky (2014), Về cái tinh thần trong nghệ
thuật, Phạm Long – Quang Việt dịch, Nxb Mỹ thuật [10]; v.v… Những tài
liệu kể trên đã mang lại sự khái quát chung về tâm lý học trong văn hóa, nghệ
thuật và là những tài liệu bổ ích để người viết có thể tham khảo, góp phần làm
rõ hơn về tinh thần lạc quan qua các sáng tác mỹ thuật và từ đó có thể hiểu
được khái niệm tinh thần lạc quan trong hội họa về đề tài lao động sản xuất.
Bên cạnh đó, một số tài liệu nghiên cứu liên quan tới ngôn ngữ tạo hình
cũng đã được người viết tham khảo như: Nguyễn Quân (1986), Tiếng nói của
hình và sắc, Nxb Văn hóa [32]; Bernard Duc, Nghệ thuật bố cục và khuôn
8
hình, Nxb Fleurus (tài liệu do Đức Hòa dịch) [2]; Đàm Luyện (2007), Giáo
trình bố cục, Nxb Đại học Sư phạm [16]; Luận văn đề tài Ngôn ngữ của mặt
phẳng hội họa của Học viên Nguyễn Trường Linh (2006) [12]; Luận văn đề
tài Yếu tố đường nét – nhịp điệu – hình thể - khoảng trống – không gian trong
hội họa của Học viên Phạm Ngọc Tuấn (2009) [45]; Luận văn đề tài Những
thay đổi về cách biểu hiện không gian trong hội họa Việt Nam của Học viên
Nguyễn Văn Thuật (2012) [38]; Luận văn đề tài Các dạng thức bố cục cơ bản
trong tranh của Học viên Nguyễn Xuân Tám (2012) [35]. Những tài liệu trên
đã giúp người viết nắm được những kiến thức khái quát về đặc điểm của ngôn
ngữ tạo hình trong hội họa, từ đó hình thành những luận điểm chính cho việc
làm rõ sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong những tác phẩm hội họa về đề
tài lao động sản xuất nói riêng.
Ngoài ra, một số Luận văn Cao học, Khóa luận Đại học khác của Học
viên, Sinh viên thuộc Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam thực hiện có liên
quan tới đề tài lao động sản xuất cũng đã được người viết tham khảo như: Đề
tài Hội họa với đề tài công nghiệp của Học viên Lê Xuân Đức (2004) [6]; Đề
tài Hình tượng người nông dân trong hội họa Việt Nam hiện đại của Sinh viên
Đồng Xuân Toàn (2004) [41]; Đề tài Hình tượng người nông dân trong hội
họa Việt Nam thế kỷ 20 của Học viên Nguyễn Chí Nguyên (2012) [20]; Đề tài
Hình tượng người nông dân trong hội họa hiện đại Việt Nam giai đoạn 1955
– 1965 của Sinh viên Nguyễn Thị Thúy Nguyệt (2015) [21]; Đề tài Những
sáng tác hội họa Việt Nam về đề tài công nghiệp giai đoạn 1976 – 1995 của
Học viên Nguyễn Hoàng Long (2016) [14]. Những đề tài nêu trên cũng chỉ là
những nghiên cứu riêng lẻ về từng vấn đề như hình tượng người nông dân, đề
tài nông nghiệp hoặc công nghiệp – những phạm trù nằm trong đề tài lao
động sản xuất. Từ việc tham khảo các đề tài nghiên cứu của Sinh viên, Học
viên đã thực hiện, người viết có thể tiếp thu và chọn lọc nhất định, giúp cho
nội dung của bài luận văn được sáng rõ hơn.
9
Như vậy, đề tài “Tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam về đề tài
lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985” có thể xem là một cách tiếp cận
mang tính chuyên sâu để tổng hợp và kế thừa những nghiên cứu đi trước
nhằm làm rõ sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong hội họa về đề tài lao
động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985, những thành công và cả những hạn chế
của các tác phẩm được đề cập, từ đó rút ra bài học trong vấn đề sáng tác hội
họa.
3. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu sự biểu hiện của inh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam
về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985.
Từ việc nghiên cứu đề tài, luận văn cũng chỉ ra những thành công, hạn
chế của các tác phẩm hội họa mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản
xuất giai đoạn 1954 – 1985 của nền Mỹ thuật Việt Nam, đồng thời rút ra bài
học trong vấn đề sáng tác hội họa.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tinh thần lạc quan trong hội họa
Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những tác phẩm hội họa Việt Nam
về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985. Tuy nhiên trong quá trình
tổng hợp, thống kê, chủ yếu các tác phẩm hội họa sáng tác về đề tài này được
các họa sĩ miền Bắc thể hiện và mang dấu ấn đậm nét của khuynh hướng Hiện
thực xã hội chủ nghĩa, chú trọng những đề tài gắn liền với đời sống con người
trong đó có lao động sản xuất. Ngoài ra, luận văn cũng điểm qua một số tác
phẩm hội họa cùng đề tài được sáng tác vào giai đoạn sau Đổi mới.
10
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn bản học: nghiên cứu, thu thập và tổng
hợp tài liệu của các học giả đi trước.
- Phương pháp liên ngành: nghệ thuật học, mỹ học, tâm lý học.
- Phương pháp quy nạp: từ những thông tin thu thập được, phân tích và
hệ thống lại để tìm ra những đặc điểm ngôn ngữ tạo hình thông qua các tác
phẩm hội họa mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai
đoạn 1954 – 1985.
- Phương pháp lịch sử: tìm hiểu bối cảnh lịch sử xã hội nói chung và hội
họa Việt Nam nói riêng, từ đó hiểu được sự ảnh hưởng, tác động tới quan
niệm sáng tác của các họa sĩ giai đoạn 1954 – 1985.
- Phương pháp phân tích: phân tích tác phẩm để thấy được sự biểu hiện
của tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất
giai đoạn 1954 – 1985.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn:
- Bước đầu thống kê, phân loại các tác phẩm hội họa Việt Nam về đề tài
lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 mang tinh thần lạc quan.
- Làm rõ được sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong sáng tác của mỗi
họa sĩ được thể hiện qua bố cục, hình thể, màu sắc, v.v… đối với từng tác
phẩm cụ thể.
- Chỉ ra những thành công, hạn chế của những tác phẩm hội họa Việt
Nam mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 –
1985, đồng thời rút ra bài học trong vấn đề sáng tác hội họa.
- Góp phần tìm hiểu sâu các lớp ý nghĩa của tinh thần lạc quan trong
những tác phẩm hội họa về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985.
- Góp phần tìm hiểu sự tác động của bối cảnh xã hội, đất nước tới suy
nghĩ, tư tưởng, quan niệm, phong cách sáng tác và chọn đề tài của các họa
sĩ Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985.
11
- Là tài liệu nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu, đóng góp thêm cho nghiên
cứu về tinh thần lạc quan trong những tác phẩm hội họa Việt Nam về đề
tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm (105 trang): Ngoài phần Bảng chữ cái viết tắt (1 trang),
Mục lục (1 trang), Mở đầu (9 trang), Kết luận (2 trang), Tài liệu tham khảo (4
trang), Phụ lục (34 trang) Phần Nội dung chính (54 trang) được chia làm ba
chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu (16 trang)
Chương 2: Sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam
về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 (22 trang)
Chương 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài (16 trang)
12
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Để giải quyết đề tài nghiên cứu thì việc xây dựng cơ sở mang tính lý
thuyết, tìm hiểu tổng quan những vấn đề liên quan đến đề tài là điều cần thiết
đầu tiên phải thực hiện. Nội dung chương 1 của luận văn sẽ đi vào tập trung
làm rõ các khái niệm “Tinh thần lạc quan trong hội họa”, “Đề tài lao động sản
xuất”; đồng thời “Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985” để
nắm được những vấn đề chung của hội họa Việt Nam giai đoạn này.
1.1. Khái niệm “Tinh thần lạc quan trong hội họa”
Khái niệm “Tinh thần lạc quan”
Lạc quan theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Khoa học Xã hội in năm
1994 được định nghĩa là “Vui tin ở đời, ở người, ở tương lai, trái với bi quan.”
[36; tr.458]. Định nghĩa này đã đặt khái niệm lạc quan trong sự đối sánh với
bi quan. Lạc quan đem lại cho con người một trạng thái tâm lý tích cực khi
đứng trước mọi hoàn cảnh khó khăn thì vẫn luôn tin tưởng, hướng tới những
điều tốt đẹp.
Tinh thần trong Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1994 của Nxb Khoa
học xã hội được giải thích là “1. Thái độ hình thành trong ý nghĩ để định
phương hướng cho hành động. 2. Thái độ hình thành trong ý nghĩ, tâm tư, về
mức độ chịu đựng một nỗi khó khăn hoặc đương đầu với một nguy cơ, trong
một thời gian nhất định. 3. Nghĩa sâu xa, thực chất của nội dung, thuộc trí tuệ,
phương diện trừu tượng của đời sống con người.” [36; tr.789]. Có thể thấy
rằng, định nghĩa trên nêu ra khái niệm tinh thần dưới góc độ giá trị trừu tượng
nhưng đồng thời cũng chính là nền tảng của suy nghĩ, định hướng cho nhiều
khía cạnh trong đời sống con người. Bên cạnh đó, một số chuyên ngành khác
lại có những nhận định khác nhau về tinh thần. Có thể kể đến trong tư tưởng
13
Triết học, cụ thể hơn là tư tưởng Triết học duy vật biện chứng đã nhìn nhận
bản chất của tinh thần là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc
của con người. Các nhà triết học duy vật biện chứng của thời kỳ hiện đại đã
cho rằng: “Tinh thần, theo nghĩa rộng là một khái niệm đồng nhất với cái
quan niệm, với ý thức là hình thức hoạt động tâm lý cao nhất. Theo nghĩa hẹp
của từ thì đồng nghĩa với khái niệm tư duy” [46; tr.577]. Dưới góc độ tâm lý,
từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tâm lý học được xác định là một ngành
khoa học về tinh thần. Tinh thần chính là sự tổng hòa của các yếu tố tâm lý, tư
duy, tình cảm, không phải là những gì cao siêu, xa lạ mà chính là những gì
con người suy nghĩ, hành động và cảm nhận hàng ngày. Những cách định
nghĩa về tinh thần đã góp phần làm rõ thêm ý nghĩa đa dạng, phong phú của
tinh thần dưới nhiều góc độ và các lĩnh vực khác nhau. Tinh thần được xem là
một trong những giá trị cốt lõi của đời sống con người. Trái ngược với sự hữu
hình của vật chất, tinh thần là nền tảng hình thành nên các yếu tố trừu tượng
như tâm lý, tư duy, suy nghĩ, tình cảm, v.v… Nhờ có tinh thần, con người có
thể đưa ra các định hướng về những phản ứng hay hành động trong cuộc
sống. Những quan niệm về phạm trù tinh thần hết sức có ý nghĩa đối với việc
nghiên cứu về con người cũng như nghệ thuật.
Từ việc xác định những khái niệm về “lạc quan” và “tinh thần” nêu trên,
khái niệm “tinh thần lạc quan” có thể hiểu khái quát là một giá trị tư tưởng,
phẩm chất tốt đẹp, giúp con người không bi quan mà kiên cường đối diện, trụ
vững trước những gian khổ, khó khăn trong cuộc sống. Trong đời sống xã hội,
người có tinh thần lạc quan thường có những suy nghĩ, lời nói và hành động
tích cực, tâm trạng luôn vui vẻ, thoải mái cùng nét mặt tươi vui.
Trong cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, nhà nghiên cứu mỹ
thuật Khương Huân có đoạn viết “Người Việt Nam yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống, tâm lý họ là ham thích những sắc thái tươi mát…Người Việt Nam sống
trong cuộc sống lao động vất vả, luôn luôn đấu tranh dũng cảm với thiên
14
nhiên, với giặc ngoại xâm, nhưng bao giờ họ cũng nhìn nhận sự vật với những
tình cảm lạc quan, rất có hậu, hầu như không có thái độ bi quan trước cuộc
sống…Người Việt Nam vui tính, lạc quan yêu đời nên rất trữ tình, tính trữ
tình làm cho những câu ca dao, những bài dân ca và những sáng tác mỹ thuật
càng thêm sinh động.” [50; tr.103]. Tinh thần lạc quan dường như đã trở
thành một nét đẹp truyền thống từ xưa, luôn tiềm tàng và có sẵn từ trong tâm
thức của con người Việt Nam.
Trong tư tưởng Phật Giáo, tinh thần lạc quan thể hiện ở chỗ con người
luôn chấp nhận thực tại, dù thực tại có đen tối đến đâu thì vẫn sẵn sàng đối
mặt, cho đó là luật nhân quả. Họ cho rằng những việc xảy đến là những điều
đã định sẵn, con người có nghiệp, nếu gặp phải tai họa là do kiếp trước làm
điều gì đó sai trái, nên hãy cứ chấp nhận hoàn cảnh để khỏi phải lo lắng, buồn
phiền, không bi quan, tin tưởng vào tương lai để sống tiếp.
Đặt trong lịch sử đất nước, tinh thần lạc quan như một ý thức tự nhiên
của con người Việt Nam. Từ nhiều nghìn năm trước, họ đã phải đối mặt với
những khó khăn, vất vả của cuộc sống lao động, của thiên nhiên hay đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, v.v… nhưng dường như trong tư tưởng của mình,
người Việt cũng luôn nhìn sự vật, sự việc bằng một thái độ tích cực, không bi
quan và luôn hướng tới tương lai tốt đẹp. Ngay từ những câu ca dao, sự lạc
quan của người xưa được thể hiện rất đỗi mộc mạc, giản dị mà sâu sắc
Văn học, Âm nhạc và Mỹ thuật là những lĩnh vực có thể mang đến cho
chúng ta sự phản chiếu ngay lập tức nội dung mà tác giả muốn truyền tải và
thông qua đó sẽ diễn ra sự thay đổi cảm xúc, tinh thần của người cảm thụ. Ở
lĩnh vực âm nhạc, đây có thể coi là món ăn tinh thần của con người từ xưa tới
nay, có khả năng vực dậy tâm hồn người nghe. Từ những năm tháng kháng
chiến gian khổ cho tới khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống hậu chiến
khó khăn, thiếu thốn thì sự ra đời của các ca khúc ngợi ca đất nước, con người
15
trong đời sống, trong chiến đấu hay lao động sản xuất và động viên, khích lệ
tinh thần của quần chúng nhân dân theo hướng tích cực. Khi nói tới tinh thần
lạc quan trong văn thơ, không thể không kể tới tác phẩm nổi tiếng Nhật ký
trong tù được Lãnh tụ Hồ Chí Minh viết trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù
ở Trung Quốc. Dù trong cảnh lao tù, Người vẫn giữ cho mình tinh thần lạc
quan, niềm tin vào cuộc sống, luôn hướng tới tương lai tươi sáng trước những
gian khổ, khó khăn của thực tại.
Trong nền Mỹ thuật dân gian Việt Nam, Tranh Làng Hồ – một trong số
những dòng tranh dân gian ở Việt Nam với thể loại tranh sinh hoạt đã thể hiện
những nguyện vọng, tình yêu cuộc sống, ước mơ của người dân lao động
bằng những đường nét khỏe mạnh, màu sắc rực rỡ. Làng Việt ngày xưa với
mái tranh vách đất thì thú treo tranh dân gian vào ngày Tết cũng là cách con
người mang đến tiếng cười, sự sảng khoái, gửi gắm mong ước, niềm lạc quan,
tự tin để sống một năm mới đầy hi vọng. Đó dường như là một nét đặc sắc
của Tâm hồn Việt, Mỹ cảm Việt mà chúng ta vẫn luôn gìn giữ được. Đồng
thời cũng chứng tỏ rằng người nghệ sĩ xưa cũng đã mang một tinh thần lạc
quan trong tư tưởng, quan niệm của mình. Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại giai
đoạn sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954 phát triển cùng hai đề tài
chính được các họa sĩ thời bấy giờ lựa chọn làm sáng tác chủ đạo là chiến
tranh cách mạng và lao động sản xuất. Các tác phẩm được thể hiện bằng
nhiều thể loại, chất liệu, đặc điểm tạo hình khác nhau nhưng hầu hết đều nói
lên tinh thần lạc quan cách mạng, giúp cổ vũ tinh thần con người trong đời
sống xã hội.
Khái niệm “Hội họa”
Hội họa theo Từ điển Tiếng Việt năm 1994 của Nxb Khoa học Xã hội là
“Nghệ thuật tạo hình để truyền đạt tình cảm, tư tưởng bằng cách dùng đường
nét màu sắc mà tạo nên hình người, cảnh vật.” [36; tr.403].
16
Trong Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông, Hội họa được định nghĩa
là “Nghệ thuật vẽ dùng màu sắc, hình mảng, đường nét để diễn đạt cảm xúc
của người vẽ trước vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, xã hội. Hội họa là một
ngành của nghệ thuật tạo hình… Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa
học kĩ thuật, Hội họa cũng phát triển nhanh chóng, đa dạng và phong phú.
Những khuynh hướng trừu tượng, hình thức mới với các chất liệu mới không
nhất thiết phải theo quy luật cổ điển thông thường nữa mà phát triển tự do bởi
các thế hệ họa sĩ trẻ sống ở thời đại mới, táo bạo, nhiệt tình, say mê tìm tòi
sáng tạo. Điều này thể hiện rất rõ trong hội họa Việt Nam khoảng vài thập kỉ
nay, nhất là từ ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng.” [18; tr.83].
Thông qua những quan niệm về hội họa của hai cuốn Từ điển nói trên,
ta có thể hình thành những định nghĩa tổng quan về hội họa: Hội họa là một
môn nghệ thuật lâu đời, được hình thành song song với sự tồn tại của đời sống
con người. Hội họa được xem là một bộ môn của nghệ thuật tạo hình được
sáng tác dựa trên quy luật dùng bố cục, màu sắc, đường nét, mảng khối, hình
thể nhân vật, ánh sáng, không gian, v.v… với đề tài cụ thể để khắc họa suy
nghĩ, ý tưởng cũng như cảm xúc của tác giả trước vạn vật của thế giới. Các
tác phẩm hội họa được thể hiện trên các chất liệu chính như Sơn dầu, Lụa,
Sơn mài, v.v… và từ đó truyền tải những chủ đề đa dạng, độc đáo với những
phương thức biểu đạt mang đậm dấu ấn của người nghệ sĩ. Đặc trưng của hội
họa là không gian phẳng và không gian đó bị giới hạn bởi chiều dọc, chiều
ngang. Bởi vậy mà hội họa cũng chính là sự giải phóng không gian bị giới
hạn đó bằng những sáng tạo của người nghệ sĩ.
Xác định khái niệm “Tinh thần lạc quan trong hội họa”
Tinh thần lạc quan trong hội họa được xây dựng, thể hiện bằng cách sử
dụng ngôn ngữ tạo hình như bố cục, màu sắc, hình thể nhân vật, không gian,
ánh sáng, v.v… cùng chất liệu đặc thù là Sơn dầu, Sơn mài, Lụa, v.v… Qua
17
đó, người họa sĩ sử dụng để truyền tải nội dung và giá trị nhân sinh chứa đựng
ở từng tác phẩm. Giá trị ấy, nội dung ấy được tiếp nhận thông qua thị giác, tác
động đến suy nghĩ và cảm nhận của công chúng khán giả, có thể đưa đến cho
họ những cảm quan tích cực, hướng tới những điều tốt đẹp của cuộc sống.
Song hành cùng lịch sử phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam nói riêng,
có thể thấy rằng hội họa không chỉ có sự chuyển mình về thể loại, phong
cách, trường phái mà còn có những thay đổi đầy mới mẻ trong đời sống tinh
thần. Nội dung, đề tài cũng như cách thể hiện của không ít các tác phẩm hội
họa đã mang lại cho người xem những cảm xúc tươi vui, lạc quan và thêm
yêu cuộc sống hơn.
1.2. Khái niệm “Đề tài lao động sản xuất”
Khái niệm “Đề tài”
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Từ điển Bách khoa in năm 2012, đề
tài được định nghĩa là “Phạm vi vấn đề mà nghệ sĩ hoặc nhà khoa học nhằm
nghiên cứu, giải quyết hay thể hiện.” [27; tr.289]. Theo Từ điển Tiếng Việt
được in năm 1988, đề tài là “Đối tượng để nghiên cứu hoặc miêu tả, thể hiện
trong tác phẩm khoa học hoặc văn học, nghệ thuật” [25; tr.330]
Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông giải thích đề tài là “Những lí do,
những vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bỏi một người hay một nhóm
người để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng một
hình thức riêng với những đối tượng cô đọng, điển hình. Ví dụ: đề tài lực
lượng vũ trang, đề tài về chiến tranh, đề tài về thiếu nhi, đề tài về xây dựng,
v.v… Nghệ thuật tạo hình thế giới qua các thời kì đều thể hiện những đề tài
nổi bật, phổ biến. Ví dụ, trong thời kì lãng mạn, đề tài là thiên nhiên, con
người và tình yêu; thời kì hiện thực, đề tài là thiên nhiên, quê hương, con
người trong lao động, trong chiến đấu, trong sinh hoạt bình thường với những
tình cảm đa dạng phong phú, v.v… Kể từ khi hình thành chủ nghĩa Ấn tượng,
18
với sự ra đời của những trường phái mới, nhất là với những trường phái mang
tính hình thức, trừu tượng thì đề tài không quan trọng và không có tính chất
quyết định nữa mà tên tranh chỉ gợi một sự chú ý, liên tưởng xa xôi, thậm chí
có khi tùy tiện. Có những bức tranh tùy hứng, vẽ theo sự thích thú ngẫu nhiên
của tác giả, không định thể hiện một ý đồ, một chủ đề nào cả, được đặt tên là
vô đề, tức là tranh không có đề tài. Nói chung, đề tài dành cho nghệ sĩ rất rộng
rãi, phong phú. Những người đã nung nấu nhiều về một đề tài thường có
nhiều cảm xúc, nhiều tư liệu nghiên cứu, tìm tòi, hư cấu sâu về đề tài đó. Nhờ
đó, họ sẽ tạo ra được những tác phẩm có chất lượng. Đề tài rộng hơn chủ đề.
Chủ đề được diễn đạt bằng hình tượng cụ thể hơn. Ví dụ: đề tài là phụ nữ, còn
chủ đề có thể là phụ nữ đi cấy, phụ nữ làm văn nghệ, phụ nữ tập quân sự,
v.v…” [18; tr.62-63].
Tóm lại, đề tài là một khái niệm dùng để đề cập đến phạm vi các sự
kiện, hoạt động hay nhân vật đã tạo nền tảng cơ sở cho đời sống của các tác
phẩm nghệ thuật nói chung và các tác phẩm hội họa nói riêng thông qua
những phương thức biểu đạt cùng hình thức thể hiện cụ thể. Nhận định về vai
trò của Đề tài, có thể nói Đề tài là giá trị cốt lõi của sáng tác nghệ thuật.
Khái niệm “Lao động sản xuất”
Lao động theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Khoa học Xã hội in năm
1994 được hiểu là “1. Hoạt động, việc làm bằng chân tay và trí óc để chống
lại thiên nhiên, lợi dụng và cải biến thiên nhiên, đặng mưu sự sống và tiến bộ.
2. Người làm công việc sản xuất thức ăn vật dùng; người làm công việc trí óc
(nghiên cứu, phát minh, sáng tác, dạy học…).” [36; tr.466]. Ngoài ra, theo Từ
điển Tiếng Việt xuất bản năm 2004 của Nxb Đà Nẵng, lao động được giải
thích là: “Hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản
phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội.” [26; tr.545]
19
Từ những định nghĩa nêu trên, lao động được hiểu là sự vận động, hoạt
động có mục đích hay sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực có tác động ý
thức của con người thông qua chân tay và trí óc để tạo ra vật chất, tinh thần
phục vụ cho các nhu cầu của đời sống xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt in năm 1994 của Nxb Khoa học Xã hội, sản
xuất là “Dùng công cụ lao động chế biến sản vật tự nhiên thành ra thức ăn, vật
dùng.” [36; tr.682]. Bên cạnh đó, khi ở dạng động từ, Từ điển Tiếng Việt của
Nxb Từ điển Bách khoa in năm 2012 giải thích sản xuất là “Tạo ra của cải vật
chất nói chung: sản xuất lương thực, sản xuất vật phẩm tiêu dùng.”, về mặt
danh từ, sản xuất là “Hoạt động sản xuất, tạo ra vật phẩm cho xã hội bằng
cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động: sản xuất nông
nghiệp, sản xuất công nghiệp.” [27; tr.1083].
Từ định nghĩa của hai cuốn Từ điển nói trên, sản xuất được hiểu chung
là việc sử dụng các nguồn lực từ tư liệu sản xuất như lực lượng lao động,
nguyên liệu, công cụ lao động, máy móc, vốn nhà nước, tài nguyên thiên
nhiên, v.v… từ đó tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm có giá
trị kinh tế. Sản xuất là một trong những ngành nghề trụ cột của nền kinh tế
quốc gia.
Như vậy, khái niệm “Lao động sản xuất” được hiểu là những hoạt động,
tác động của sức lao động – sức người vào việc sử dụng tư liệu sản xuất gồm
đối tượng lao động và tư liệu lao động nhằm tạo ra sản phẩm, của cải mang
giá trị vật chất, giá trị tinh thần cho đời sống xã hội.
Trong lịch sử, vào thời kỳ Đồ đá mới, nhiều di tích được tìm thấy tại các
vùng Tiên Á, Trung Á, Châu Âu và Ấn Độ cho thấy đời sống vật chất và tinh
thần của con người đã phát triển hơn so với giai đoạn trước đó là đồ đá cũ và
đồ đá giữa. Từ săn bắn hái lượm, con người đã biết chuyển sang những hoạt
20
động sản xuất có tính chất kinh tế, làm tăng sản phẩm của thiên nhiên đem lại
như trồng trọt – chăn nuôi.
Xác định khái niệm “Đề tài lao động sản xuất”
Đề tài lao động sản xuất là những đối tượng, vấn đề được nghệ sĩ, nhóm
nghệ sĩ hay nhà khoa học nghiên cứu, phản ánh về hoạt động sản xuất mà
trong đó, con người dùng sức lao động cùng tư liệu sản xuất để tạo ra sản
phẩm có giá trị vật chất, tinh thần của các ngành kinh tế như nông nghiệp,
công nghiệp, ngư nghiêp, lâm nghiệp, thủ công nghiệp, v.v… Ở góc độ văn
hóa – nghệ thuật nói chung, đề tài lao động sản xuất không phải quá xa lạ đối
với các văn nghệ sĩ và được xuất hiện trong một số lĩnh vực khác nhau như
Văn học, Âm nhạc, Mỹ thuật.
Với Âm nhạc và Văn học, đề tài lao động sản xuất được thể hiện, diễn
đạt bằng ngôn từ để phản ánh nội dung chủ đạo là những vấn đề liên quan tới
các ngành kinh tế như xây dựng, trồng trọt, chăn nuôi, v.v… với con người
làm chủ thể.
Một tác phẩm Mỹ thuật nói chung và hội họa nói riêng mang đề tài lao
động sản xuất với nhân vật điển hình thường là người nông dân hoặc người
công nhân. Trong tranh, họ được khắc họa khi đang trong tư thế lao động như
gặt lúa, cày cấy, hay làm việc trong các phân xưởng, xí nghiệp, nhà máy để
tạo ra sản phầm, của cải vật chất, v.v… Mỗi họa sĩ sẽ chọn cho mình một
phương thức biểu đạt riêng cùng với đó là việc lựa chọn những hình tượng
nghệ thuật điển hình để biểu đạt, thể hiện lên tác phẩm của mình.
Xinva Velaxkie là một nhà hiện thực triệt để – một nhân vật trung tâm
của trường phái Nghệ thuật Hội họa Tây Ban Nha thế kỷ 17, bức Những
người phụ nữ kéo sợi (1657) được ông sáng tác thể hiện cảnh lao động của
những nữ công nhân. Đây có thể coi là một trong số tác phẩm đầu tiên đề cập
tới đề tài lao động sản xuất trong lịch sử hội họa Tây Âu. Trong nền Nghệ
21
thuật tạo hình Pháp thế kỷ 19, đề tài này cũng được các họa sĩ đề cập tới, nổi
bật trong số đó là tác phẩm Những người thợ đập đá (1849) của Danh họa
Gustave Courbet.
Ở Việt Nam, vào thời kỳ Văn hóa Đông Sơn, hình người giã gạo – tư
thế lao động đã được người nghệ nhân sử dụng trong hình trang trí trên trống
đồng Ngọc Lũ bằng những nét khắc đơn giản mà đúng hiện thực. Với Mỹ
thuật Việt Nam Hiện đại, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc năm
1954, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng việc
phát triển kinh tế – chính trị – xã hội. Mỹ thuật cũng nằm trong dòng chảy
cùng tiến trình của đất nước với các tác phẩm mang đề tài chủ đạo là lao động
sản xuất. Con người xuất hiện trong tranh là những người nông dân mới, công
nhân mới – nhân vật điển hình cho tầng lớp lao động. Hình ảnh của họ xuất
hiện có thể đang trong tư thế tát nước, gặt lúa, đập lúa, khi cấy cày, v.v… hay
đang làm việc tại các phân xưởng, nhà máy, công trường, xí nghiệp cùng các
công cụ lao động đặc thù của ngành công nghiệp, v.v…
1.3. Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985
Hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 có thể chia thành hai giai đoạn
nhỏ là: giai đoạn 1954 – 1975 khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, Đất nước
bị chia cắt làm hai miền Nam Bắc và giai đoạn 1975 – 1985 là khi Đất nước
hoàn toàn thống nhất cho tới trước thời kỳ đầu Đổi mới.
Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc năm 1954, lúc này đất nước bị
chia cắt làm hai miền cả về địa lý lẫn chính trị khi miền Bắc được giải phóng,
bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ nông thôn cho tới thành
phố và miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ.
Miền Bắc vào những năm đầu hòa bình, khuynh hướng Hiện thực xã hội
chủ nghĩa dần được hình thành trong nền Hội họa nói riêng và Mỹ thuật nói
22
chung thông qua những hoạt động giao lưu, trao đổi giữa Việt Nam và các
nước trong phe Xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đường lối lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước lúc này cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, làm kim chỉ nam,
định hướng cho các hoạt động sáng tác mỹ thuật với lời khẳng định của Hồ
Chủ Tịch: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ
trên mặt trận ấy… Nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng
ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị.” [1; tr.98]. Xuất phát từ những
yếu tố trên, hội họa miền Bắc thời kỳ này chú trọng đề cập tới những vấn đề
mới, phản ánh chân thực cuộc sống qua cái nhìn tích cực, lạc quan cách mạng
của người họa sĩ với trọng tâm là con người trong lao động sản xuất, chiến
tranh cách mạng, thể loại và chất liệu tạo hình cũng được phát triển rộng mở
hơn.
Bên cạnh đó, sự kết hợp với đường lối giảng dạy của trường Mỹ thuật ở
chiến khu Việt Bắc những năm kháng chiến chống Pháp: “Dân tộc, Khoa học,
Đại chúng. Lấy Công – Nông – Binh làm đối tượng chính” càng làm cho các
họa sĩ đề cao hơn ý thức trách nhiệm của mình trước thời cuộc. Với tinh thần
lạc quan cách mạng, người Nghệ sĩ – Chiến sĩ tự nguyện đứng trong mặt trận
Văn hóa – Văn nghệ, vượt qua khó khăn gian khổ để thực hiện một nền Nghệ
thuật vị Nhân sinh, gắn với hơi thở của thời đại. Cùng thế hệ họa sĩ đi trước,
lớp học sinh được giảng dạy với đường lối đó đã trở thành lực lượng nòng cốt
cho nền Mỹ thuật Việt Nam phát triển.
Đề tài và hình tượng có sự mở rộng trong giai đoạn này. Ngoài đề tài
chiến tranh cách mạng vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng chủ đạo thì lao động
sản xuất cũng được các họa sĩ quan tâm với hình tượng chính là những con
người lao động. Một số hình tượng khác cũng được khai thác thành công như
người chiến sĩ vũ trang, chủ tịch Hồ Chí Minh và đặc biệt là hình tượng người
phụ nữ được giải phóng, bình đẳng.
23
Vào giai đoạn này, các chất liệu tạo hình của hội họa như Sơn dầu, Sơn
mài, Lụa đã được phát triển hoàn chỉnh hơn so với giai đoạn trước, trong đó
Sơn mài và Lụa đã có sự tìm tòi thêm về kĩ thuật cũng như ngôn ngữ biểu đạt.
Miền Bắc tuy kinh tế vẫn còn khó khăn, họa phẩm thiếu thốn nhiều song vẫn
có những tác phẩm hội họa được sáng tác có giá trị cao cả về hình thức lẫn
nội dung.
Năm 1954, Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc lần thứ năm được tổ chức là
cuộc tổng kết phong trào Hội họa trong suốt chín năm kháng chiến. Các tác
phẩm được treo tại triển lãm chủ yếu vẽ về người nông dân miền Trung du
Bắc Bộ, anh bộ đội và dân công trên chiến trường, quang cảnh sinh hoạt của
đồng bào miền núi, v.v… Cuộc Triển lãm năm 1955 ghi nhận những tìm tòi
mới của hội họa trong những ngày hòa bình đầu tiên ở miền Bắc. Các tác
phẩm đã thể hiện những tình cảm mới, những con người mới đang vươn lên,
vượt qua những khó khăn của cuộc sống thời hậu chiến, hàn gắn vết thương
chiến tranh, phấn khởi, lạc quan trong lao động sản xuất để xây dựng một đời
sống hạnh phúc, một tương lai tươi sáng hơn. Bên cạnh đó là những sáng tác
về lãnh tụ, bộ đội hành quân, chiến đấu với một tâm thế tích cực. Nếu cuộc
Triển lãm năm 1955 là một bước tiến mới so với cuộc Triển lãm năm 1954 thì
cuộc Triển lãm năm 1958 có thể coi là bước chuyển mình mạnh mẽ của họa sĩ
Việt Nam từ nội dung tới ngôn ngữ thể hiện tác phẩm. Cùng với đó, nhiều
Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam diễn ra ở nước ngoài được đánh giá cao như tại
Matxcova, Đức, Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, cùng một số ít những
Triển lãm nhóm, cá nhân trong nước cũng được tổ chức. Thông qua một số
những hoạt động trển lãm trên đã cho thấy sự thành công ban đầu của nền hội
họa Việt Nam Hiện đại.
Mỹ thuật miền Nam cũng phát triển song song với nền Mỹ thuật miền
Bắc. Tuy nhiên do hoàn cảnh chính trị, Mỹ thuật miền Nam theo đó cũng chia
thành hai đường hướng chính đó là Mỹ thuật Đô thị miền Nam và Mỹ thuật
24
Vùng giải phóng. Với Mỹ thuật Đô thị miền Nam, các họa sĩ hướng đến
những trường phái Trừu tượng, Siêu thực, Biểu hiện, v.v… do được tiếp xúc
với Nghệ thuật phương Tây Hiện đại cùng sự ảnh hưởng của phong cách
Nghệ thuật Đông Dương. Các đề tài chủ yếu mang tính cá nhân về cuộc sống
ngoài thời chiến, mang những ảo mộng, tự do. Một số tác phẩm nổi bật của
Mỹ thuật Đô thị miền Nam như: Hoài niệm xứ Bắc, Chúa giáng sinh, Sen tàn,
Vườn xuân Trung Nam Bắc của Họa sĩ Nguyễn Gia Trí; Lê Văn Đệ với Thánh
Mẫu nhân từ, Nắng hè; v.v… Mỹ thuật Vùng giải phóng miền Nam đi theo
hướng Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ sáng tác là những họa sĩ từ miền
Bắc vào, trong đó có một số họa sĩ được đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa
hay thoát ly từ các Đô thị miền Nam. Tác phẩm chủ yếu của họ là những ký
họa chiến trường, phản ánh về cuộc sống, chiến đấu của các chiến sĩ giải
phóng quân bằng những cảm xúc tươi sáng với niềm lạc quan cách mạng vẫn
luôn tiềm ẩn bên trong. Một số tác phẩm nổi bật như: Huỳnh Phương Đông
với Qua rừng dừa, Phút quyết liệt, Qua sông Hàm Luông, Đồng chí Ba Định,
v.v...; Má Bến Tre, Dừng lại, Chị Tư Cao của họa sĩ Lê Lam; Kỷ niệm ngày
sinh nhật Bác ở vùng ven, Trên chặng đường chiến dịch của Nguyễn Thanh
Châu.
Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985
Năm 1975 là nét son thắm trong lịch sử của Việt Nam, đất nước hòa
bình, Bắc Nam thống nhất, kết thúc hoàn toàn chiến tranh trên cả hai miền, cả
nước tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Sau khi đất nước nước thống nhất, Mỹ thuật Việt Nam trong đó có hội
họa bước sang kỷ nguyên mới với sự tham gia của nghệ sĩ ba miền Bắc –
Trung – Nam. Hoạt động mỹ thuật với những cuộc Triển lãm lớn đã được
diễn ra sôi nổi, rầm rộ và tiếp tục mang tính phong trào như: Triển lãm Mỹ
thuật toàn quốc 1976, 1980, 1985; Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô; Triển lãm
25
tranh tượng toàn quốc về đề tài lực lượng vũ trang lần II năm 1984; Triển lãm
chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc 1982; Triển lãm tranh tượng các Tác giả
Trẻ toàn quốc lần II năm 1985; Triển lãm Mùa xuân; v.v..
Đặc điểm nghệ thuật của hội họa giai đoạn này chủ yếu vẫn sáng tác
theo phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó còn có thêm sự
ảnh hưởng của các trường phái Hậu Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực, Trừu
tượng, v.v… Ngôn ngữ thể hiện có phần hướng tới sự thô mộc, khỏe mạnh,
Ngoài ra thủ pháp “đồng hiện” cũng được nhiều họa sĩ sử dụng với mong
muốn khái quát được nhiều vấn đề hơn trong tác phẩm. Đây là thủ pháp đan
xen nhiều hệ thống hình tượng, nhiều lớp không gian, thời gian khác nhau.
Về chất liệu, Sơn dầu, Sơn mài và Lụa tiếp tục phát triển trên nền tảng
của giai đoạn trước đó. Tranh Lụa vẫn tiếp nối truyền thống với các Họa sĩ
Nguyễn Thụ, Vũ Giáng Hương, Trần Lưu Hậu Trần Đông Lương, Kim Bạch,
v.v… Chất hiệu Lụa không chỉ được dùng để vẽ phong cảnh, thiếu nữ mà còn
được sáng tác với các đề tài công nghiệp, nông nghiệp, chiến đấu… làm
phong phú thêm ngôn ngữ của chất liệu. Sơn dầu tiếp tục phát huy thế mạnh ở
khả năng biểu đạt, kỹ thuật, bút pháp đa dạng, phong phú hơn. Nhiều họa sĩ đã
tìm ra tiếng nói và phong cách Sơn dầu riêng của mình. Sơn mài có phần
chững lại hơn so với trước về chất liệu và kỹ thuật.
Hội họa thời kỳ này mang nội dung mới với việc mở rộng để tài, phản
ánh phong phú hiện thực đất nước. Với mảng đề tài chiến tranh cách mạng,
một số tác giả vẽ theo lối hiện thực cũ, diễn tả những trận chiến đấu trực diện
với quân thù như: Hành quân qua Trường Sơn của Vũ Giáng Hương, Trái tim
và nòng súng của Huỳnh Văn Gấm, Bảo vệ đồng quê của Trịnh Phòng, Chiến
đấu của Đinh Trọng Khang, Kéo pháo của Dương Hướng Minh, v.v… Một số
khái quát hóa các biểu tượng của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc
như: tác phẩm Mẹ du kích của Kim Bạch, Mẹ chiến sĩ của Hoàng Trầm, v.v…
26
Số khác lại đề cập đến ký ức và nỗi buồn của chiến tranh: Bài ca ngã ba Đồng
Lộc của Lê Huy Hòa, Ở mỗi xóm, Hồi ức về những con đường của Đặng Đức
Sinh, Vật kỷ niệm của đồng đội của Nguyễn Cương. Đề tài Chiến tranh cách
mạng chiếm một vị trí khá đồ sộ trong hội họa giai đoạn này. Đề tài lãnh tụ,
hình tượng Bác Hồ vẫn được các họa sĩ sáng tác nhiều với tình cảm kính yêu,
chân thành, bình dị, gần gũi với nhân dân ở mọi thể loại của hội họa như:
Những lời dạy bảo của Mai Văn Hiến, Nhà Bác của Trần Văn Cẩn, Nguyễn
Đỗ Cung, Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc của Dương Bích Liên, Bác Hồ đi công
tác của Nguyễn Thụ, Rời lều cỏ Bác tiếp tục hành quân của Trọng Kiệm, Bác
đến thăm trận địa pháo của Nguyễn Cao Thương, Núi Các Mác của Trần
Đình Thọ, v.v… Các tác phẩm về công nghiệp đã thể hiện rõ nét nhịp sống và
phát triển của đất nước trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa sau khi
chiến tranh kết thúc. Hình ảnh những con người mới làm chủ đất nước được
đề cao, ngợi ca như: Tan ca mời chị em ra thi thợ giỏi của Nguyễn Đỗ Cung,
Ánh sáng và nhịp máy của Bửu Chỉ, Xây dựng trụ cầu Thăng Long của Lò An
Quang, Công nhân lắp máy của Lê Anh Vân, Công trường than của Ngô
Phương Cúc, Những người bắc cầu của Cơ Chu Pin, Xưởng máy của Văn
Dương Thành, Đập xả lũ Phú Ninh của Đặng Thu Hương, Công nhân giày vải
của Đỗ Thị Ninh, v.v…
Tuy nhiên, 1975 – 1985 cũng là mười năm đầu vất vả khi nền mỹ thuật
Việt Nam nói chung và hội họa nói riêng lúc này đang đứng trong giai đoạn
chuyển tiếp giữa thời kỳ Hiện thực xã hội chủ nghĩa với thời kỳ Đổi mới.
Hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 có thể coi là giai đoạn chuyển
mình sang diện mạo mới với những thay đổi của bối cảnh đất nước. Thời kỳ
này, hội họa chứa đựng rất nhiều thông điệp của thời đại mang hơi thở của
Chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam. Có thể thấy rằng, đề tài trong
tranh tiếp tục phản ánh hiện thực đất nước nhưng đồng thời cũng được mở
rộng, phong phú hơn. Bút pháp sáng tác đa dạng, các thể loại của hội họa như
27
phong cảnh, sinh hoạt, chân dung cũng được thể hiện sinh động. Bên cạnh đó,
với vốn sống được tích lũy từ kháng chiến chống Pháp, người họa sĩ cũng đã
xây dựng thành công hình tượng Bác Hồ, hình tượng người chiến sĩ, hình
tượng người lao động, người phụ nữ, v.v… Các tác phẩm được thể hiện trên
những chất liệu như Sơn dầu, Lụa hay Sơn mài cũng có những hướng phát
triển riêng, gây được ấn tượng với nhiều tác phẩm thành công và có giá trị lưu
giữ cao.
Tiểu kết
Nội dung chương 1 đã xác định những khái niệm, quan điểm, dẫn chứng
liên quan về tinh thần lạc quan nói chung, và đặc biệt trong hội họa. Đồng
thời nắm được khái niệm về đề tài lao động sản xuất và sự khái quát về hội
họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985. Thời kỳ 1954 – 1985 với sự tác động
của thực tế đất nước cùng đường lối Văn hóa – Văn nghệ của Đảng, nền Mỹ
thuật Việt Nam trong đó có hội họa mang một diện mạo khác, đề tài được mở
rộng, lao động sản xuất trở thành một trong số những đề tài mũi nhọn được
các họa sĩ khai thác rất thành công. Đặc trưng của những tác phẩm hội họa
giai đoạn này mang tinh thần lạc quan, xuất phát từ chính quan niệm sáng tác
và sự biểu hiện của ngôn ngữ tạo hình mà người họa sĩ muốn truyền tải, khích
lệ tinh thần con người. Nhân vật trong đề tài lao động sản xuất thường là
những người nông dân mới, công nhân mới đang hăng say trong những lao
động tập thể, khi tát nước, gặt lúa, lúc cày cấy hay làm việc tại các phân
xưởng, công trường, xí nghiệp, nhà máy,v.v… Mỹ thuật Việt Nam giai đoạn
1954 – 1985 đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp cho nền Mỹ thuật Hiện
đại nói chung và hội họa nói riêng, đồng thời làm tiền đề cho thời kỳ Đổi mới
phát triển tiếp sau đó.
28
CHƯƠNG 2
SỰ BIỂU HIỆN CỦA TINH THẦN LẠC QUAN
TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT
GIAI ĐOẠN 1954 – 1985
Đi sâu vào tìm hiểu hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai
đoạn 1954 – 1985 với từng tác phẩm cụ thể, chúng ta có thể thấy được tinh
thần lạc quan được biểu hiện rõ nhất qua việc sử dụng những phương thức
biểu đạt của ngôn ngữ tạo hình. Trong hội họa nói riêng, ngôn ngữ tạo hình là
thành tố quan trọng tạo nên hiệu quả trên bề mặt tác phẩm, từ đó tác động tới
cảm xúc người xem những thông điệp mà người họa sĩ muốn gửi gắm. Trong
quá trình tổng hợp, phân loại và tìm hiểu những tác phẩm hội họa thể hiện
tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985, đồng
thời dựa vào những đặc trưng của ngôn ngữ tạo hình, người viết xin đưa ra ba
yếu tố chính nổi bật nhất mà qua đó, họa sĩ sẽ sử dụng để truyền đạt nội dung,
thể hiện tinh thần lạc quan trong tác phẩm với đề tài lao động sản xuất của
mình đó là bố cục, hình thể và màu sắc.
2.1. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua bố cục
Về mặt lý thuyết, đã có một số khái niệm về bố cục trong nghệ thuật
tạo hình được đưa ra. Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông đã đưa ra khái
niệm khá sát nghĩa, cơ bản và dễ hiểu: “Bố cục là sự sắp xếp kích thước và
tương quan của những đường nét, hình dáng, màu sắc của các vật thể trong
một tác phẩm. Nói cách khác, bố cục chính là sự sắp xếp tất cả các yếu tố
ngôn ngữ tạo hình để xây dựng nên một tác phẩm, làm nổi rõ ý đồ sáng tác
của nghệ sĩ.” [18; tr.31]. Ngoài ra, qua cuốn Nghệ thuật bố cục và khuôn hình
của tác giả Bernard Duc do họa sĩ Đức Hòa dịch [2] và cuốn Giáo trình bố
cục của tác giả Đàm Luyện [16], từ đó thấy được có một số dạng bố cục hay
29
được sử dụng như hình tam giác – hình tháp, hình tròn – elip, hình chữ nhật –
hình vuông, nhịp điệu, đối lập, phối cảnh, v.v… Bố cục đóng vai trò quan
trọng trong nghệ thuật tạo hình. Ở mỗi tác phẩm hội họa, người họa sĩ sẽ chủ
động sắp xếp những yếu tố tạo hình khác như màu sắc, hình dáng, hình thể,
không gian, v.v… sao cho hợp lý nhằm diễn đạt ý tưởng, nội dung, chủ đề
muốn truyền tải. Bố cục của tác phẩm nghệ thuật sẽ mang dấu ấn cá nhân của
người họa sĩ, mỗi họa sĩ có những cảm nhận, cảm xúc nghệ thuật và cách xử
lý riêng.
Bức Sơn dầu Mùa lúa chín (1954) [Hình 1.1; tr.74] của Họa sĩ Dương
Bích Liên là một ví dụ trong việc sử dụng lối bố cục hình tam giác. Cách bố
cục hình tam giác – hình tháp sẽ tạo cảm giác của sự vững chãi, chắc khỏe
cho toàn bộ bức tranh, với bố cục phần dưới chắc chắn thì phần phía trên
rộng, thoáng sẽ phù hợp cho việc diễn tả không gian hoặc bầu trời.Với hai
nhân vật em gái được cắt sát mép dưới tranh và người phụ nữ gánh lúa ở phía
tiếp sau cùng việc kết hợp những mảng ruộng lớn, hình ảnh bó lúa với diện
màu sáng tối của vành khăn và quần áo nhân vật. Từ đó thể hiện sự vươn lên,
vững chắc. Bên cạnh đó, việc sắp xếp bố cục với sự đối lập giữa một bên tĩnh
của cánh đồng, một bên động của những con người đang gánh lúa cũng góp
phần thể hiện sự sáng tạo trong cách xây dựng tác phẩm của Dương Bích
Liên.
“Bố cục hình tròn – elip là dạng bố cục cơ bản, nói đến hình tròn chúng
ta hiểu rằng nó là bố cục trọng tâm xoay tròn tạo cảm giác tập trung vào hình
tượng và nhân vật điển hình.” [16; tr.35]. Lối bố cục hình tròn – elip thường
gợi liên tưởng đến sự vận động tuần hoàn của vũ trụ, mang ý nghĩa cho sự
đoàn kết, thống nhất, tạo cảm giác tập trung vào hình tượng hay nhân vật mà
tác giả muốn làm nổi bật trong tranh. Một số Họa sĩ Việt Nam cũng đã chọn
dạng bố cục hình tròn – elip để phản ánh nội dung.
30
Có thể kể đến tác phẩm Sơn mài Gặt lúa ở Việt Bắc (1955) [Hình 1.2;
tr.75] của họa sĩ Phan Kế An cùng cách sử dụng bố cục hình tròn – elip được
tạo thành bởi những dáng điệu, hướng tư thế khi làm việc của nhóm nhân vật
được đặt ở vị trí trung tâm tranh. Tác phẩm được sáng tác năm 1955, khi miền
Bắc vừa bước vào cuộc sống hòa bình chưa lâu, vẫn còn nhiều khó khăn
nhưng qua những gì cảm nhận nơi bức họa, ta có thể thấy được sự đoàn kết,
gắn bó của tình quân dân trong không khí khẩn trương, phấn khởi thu hoạch
vụ mùa nơi núi rừng Việt Bắc.
Ở tác phẩm Sơn mài Bình minh trên nông trang (1958) [Hình 1.5;
tr.78] của Nguyễn Đức Nùng có bố cục đơn giản mà hết sức độc đáo khi thể
hiện hình tượng người nông dân cởi trần mang nét đẹp khỏe khoắn trong dáng
đứng tự tin của người làm chủ cuộc đời mình giữa ánh ngày rạng rỡ đang trải
rộng niềm vui. Với lối kết hợp như vậy, Họa sĩ muốn thể hiện một không gian
mở cho bố cục, đây có thể nói là một thành công của Nguyễn Đức Nùng về
tài quan sát thực tế. Tác phẩm diễn tả vẻ đẹp của người lao động với niềm tin
vào tương lai trong bình minh của ngày mới đang rạng ngời trước mắt người
nông dân đang vung tay gieo hạt trên cánh đồng.
Một dạng thức bố cục khác cũng được nhiều họa sĩ Việt Nam sử dụng
khi thể hiện tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất, đó là theo nhịp
điệu. Nhịp điệu ở đây có thể theo hình thể nhân vật, màu sắc hay đậm nhạt.
Bức Sơn mài Tổ đổi công miền núi (1958) [Hình 1.6; tr.79] của Họa sĩ Hoàng
Tích Chù là một trong số những điển hình đó. Tác phẩm mang lại cho người
xem cảm giác hùng vĩ mà gần gũi của thiên nhiên. Người họa sĩ đã khéo léo
diễn tả các cô gái đang cấy lúa bằng đường lượn nhịp nhàng, sinh động, gợi
lên không khí vui tươi, nhộn nhịp của buổi lao động. Bên cạnh đó, Hoàng
Tích Chù đã sắp xếp bố cục bằng cách khai thác những nhịp điệu vui mắt
trong hình mảng, màu sắc của cảnh vật, thiên nhiên hùng vĩ nơi núi rừng Tây
Bắc, đó là hình ảnh dãy núi phía xa, những ngôi nhà, đống rơm hay rặng tre
31
với sắc vàng ấm cùng bóng đổ in xuống mặt nước. Màu sắc như chủ động hòa
điệu giữa trời nước, thiên nhiên và con người hiện lên trong trẻo giữa núi
rừng hùng vĩ thật gần gũi, bình dị và ấm áp. Đặc biệt, trong không gian miền
núi có phần tĩnh lặng và hồn hậu ấy, Hoàng Tích Chù đã khéo léo đưa sắc
trắng ở trang phục áo váy, khăn chít đầu của những cô gái Thái tạo thành một
đường lượn nhịp nhàng, uyển chuyển ở hệ thống nhân vật, làm cho không
gian tranh trở nên lung linh, xao động. Bằng bảng màu của chất liệu sơn mài
truyền thống cùng cách tạo hình và sắp xếp bố cục, tất cả đã thể hiện niềm say
mê trong công việc, sự hân hoan của người nông dân khi làm chủ đồng ruộng
của mình, đồng thời cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người
của Họa sĩ Hoàng Tích Chù ẩn hiện kín đáo, ấm áp trong tranh.
Bức sơn mài nổi tiếng Tát nước đồng chiêm (1958) [Hình 1.7; tr.80]
của Họa sĩ Trần Văn Cẩn được thể hiện theo lối phối cảnh không gian xa gần
kết hợp cùng dạng bố cục hình tháp ở những dáng điệu, động tác của nhân vật
tạo thành một đường lượn mềm mại, uyển chuyển nơi bức họa. Mỗi người
một tư thế, một động tác khác nhau tạo thành bố cục sôi động, vui tươi. Trên
nền cánh đồng rộng hút tầm mắt, hình thể của các cô gái với những động tác
lúc thì dướn người vung tay gầu vào ruộng, lúc thì cúi xuống đưa tay kéo dây
gầu tạo nên sự kết nối một nhịp điệu sôi động. Trong tác phẩm, tác giả không
đi vào tả chi tiết từng nhân vật, mà họ – những con người nông dân mới cùng
không gian ruộng đồng mênh mông như được hòa hợp, ăn nhập vào nhau tạo
nên không khí, nhịp sống lao động tập thể lạc quan, tràn ngập niềm vui. Trần
Văn Cẩn đã tạo nên một bố cục đông người với những mảng màu rực rỡ, cùng
việc dùng động tác của nhân vật, kết hợp với những mảng hình đẹp của khóm
tre, cánh đồng, ruộng lúa, v.v… tất cả đan xen làm cho bố cục tác phẩm thêm
sinh động, tạo nên một khung cảnh con người và đất trời như đang hòa quyện
trong nhịp điệu lao động tập thể hăng say, tràn ngập niềm vui.
32
Hai trong số các tác phẩm nổi bật của Nguyễn Tiến Chung ở mảng đề
tài lao động sản xuất trong nông nghiệp có thể kể đến Được mùa (1958) chất
liệu Lụa [Hình 1.8; tr.81] và Đập lúa (1972) chất liệu Sơn mài [Hình 1.24;
tr.97]. Cả hai tác phẩm đã được họa sĩ thể hiện rất thành công. Trên nền
không gian ngập tràn sắc vàng của lúa chín là một bố cục chuyển động linh
hoạt trong động tác của nhân vật. Kết hợp với đó là việc sử dụng lối bố cục
đông người càng làm cho tác phẩm thể hiện rõ được không khí tấp nập, rộn rã
tiếng cười nói của các xã viên đang gặt lúa trên cánh đồng, khi người nông
dân cùng nhau lao động tập thể trong phong trào Hợp tác xã.
Tác phẩm Sơn dầu Một buổi cày (1960) [Hình 1.11; tr.84] của Họa sĩ
Lưu Công Nhân thể hiện buổi cày tập thể – một nét đặc trưng của phong trào
Hợp tác xã. Công việc đồng áng thường ngày chẳng có gì nên thơ nhưng họa
sĩ đã thể hiện trên tranh thật đẹp và giàu cảm xúc. Với sự sắp xếp bố cục nhân
vật trên cánh đồng trải rộng ánh nắng mai, những người nông dân đang đánh
trâu cày ruộng, mặt ruộng ngập nước đón nhận ánh nắng mới bừng lên thật
tươi đẹp. Phía sau chú trâu to khỏe đang kéo cày là người đàn ông đang điểu
khiển, người và trâu cùng sải bước đầy tự tin làm cho ta cảm thấy công việc
cày ruộng dường như không hề nặng nhọc, vất vả. Phía trước nữa là chị nông
dân với con trâu bị cắt ở mép tranh thể hiện không gian còn được mở rộng
mãi. Ở lớp hình phía trên là hình ảnh con trâu cùng người nông dân khác cũng
đang cày theo chiều ngược lại như muốn thể hiện công việc nối tiếp công
việc, liên tục không ngừng nghỉ, mang lại cho người xem cảm nhận được sự
hăng hái trong buổi cày tập thể của người nông dân. Ở tác phẩm này, Lưu
Công Nhân muốn thể hiện nhịp điệu chuyển động linh hoạt trong bố cục và
liền đó là chuyển động mở cả về không gian lẫn thời gian.
Tác phẩm Lụa Hợp tác xã đánh cá về (1961) [Hình 1.13; tr.86] đã được
Họa sĩ Vũ Giáng Hương thể hiện theo khuynh hướng hiện thực từ cách xây
dựng hình ảnh con người cho tới cảnh vật thiên nhiên. Bức tranh với việc sử
33
dụng lối bố cục chuyển động hình sin linh hoạt đã tạo sự liên kết giữa hai
nhóm nhân vật phía trước và cụm nhân vật phía sau. Họa sĩ đã thể hiện sự chủ
động của mình trong việc xây dựng bố cục với cách tạo những đường lượn
trong thế dáng, tư thế ngồi hay đứng khom của các nhân vật phía trước và
đường ra theo hướng đi lên của nhóm người phía xa. Bên cạnh đó, để tạo
được những lớp lang trước – sau cho không gian bức họa, Vũ Giáng Hương
cũng sử dụng đồng thời cách bố cục theo luật xa gần cùng lối nhìn gần tỏ xa
mờ với ranh giới đường chân trời chạy ngang tầm mắt là hình ảnh gợi dãy núi
phía xa, mang lại cho người xem cảm giác gần gũi, mộc mạc, yên bình của
con người, cảnh vật. Nhưng ẩn trong cái êm đềm đó là một không khí làm
việc khẩn trương mà nhịp nhàng của những ngư dân hợp tác xã vùng biển
đang mang thành quả của mình đánh bắt được trở vào bờ.
Thể hiện niềm vui trong lao động sản xuất bằng lối bố cục đông người
cũng được nhiều họa sĩ lựa chọn trong đó có thể kể tới bức Lụa Trai gái làm
thủy lợi (1967) [Hình 1.22; tr.95] với gam màu nâu vàng truyền thống làm
chủ đạo của tác giả Phạm Công Thành. Kết hợp với đó là việc sử dụng, tạo
nhịp điệu đan xen của hình và đậm nhạt ánh sáng. Cách sắp xếp bố cục của
tác giả được thể hiện ở việc sử dụng đường ngang của đòn gánh để phá, tạo
cân bằng cho những tư thế của dáng dọc, ở cách tạo các lớp nhân vật trước
sau, hay ở cách chạy nhịp đậm và nhịp sáng trên nền không gian của sắc nâu
đất, tất cả đã tạo nên sự chắc khỏe cho bức tranh nhưng cũng không kém phần
vui nhộn của không khí làm việc. Họ bình đẳng, không phân biệt trai gái,
cùng nhau đoàn kết, hợp sức, học hỏi, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc chung.
Sự vui mắt, linh hoạt trong bố cục tác phẩm còn được thể hiện ở sự thay đổi
về thế dáng trong từng động tác của nhân vật, điều này cũng thể hiện cái tài
quan sát thực tế của tác giả.
Lấy ngôn ngữ Sơn mài để thể hiện tác phẩm, với bức Xưởng đóng tàu
Bạch Đằng (1974) [Hình 1.25; tr.98], Họa sĩ Nguyễn Cương đã sử dụng lối
34
bố cục ngược sáng, lấy hình ảnh, không gian của xưởng đóng tàu thuyền làm
chính và con người tham gia vào đó. Tác giả cũng đã khéo léo trong cách xử
lý, sắp xếp những đường hướng dọc, ngang, xiên kết hợp cùng với tư thế,
dáng điệu của từng nhân vật hay nhóm nhân vật tạo nên một bố cục động cho
tổng thể bức tranh, gợi lên không khí vui tươi của buổi làm việc. Ngoài ra, nét
đặc trưng trong cách xử lý chất liệu Sơn mài trên bề mặt vóc đã làm cho bức
tranh không bị khô cứng của kết cấu ở những thân tàu. Những mảng hình
chắc khỏe cũng đã làm nên thành công cho tác phẩm này.
Ở bức Sơn mài Xóm chài Quất Lâm (1974) [Hình 1.26; tr.99], tác giả
Trần Liên Hằng đã miêu tả cuộc sống sinh hoạt của những ngư dân ở xóm
chài trong thời kỳ hậu chiến. Tác phẩm được bố cục bằng nhịp điệu đan xen
theo chiều ngang của tranh, ở phía xa là nhịp điệu của sóng biển và lưới phơi
được treo trên các cọc sào cao thấp và đặc biệt là cách sắp xếp nhân vật
những người ngư dân với những mảng trắng nhảy nhót trên nền không gian
ước lệ của sắc son đỏ. Hình thể người dân chài hiện lên với vẻ vạm vỡ cùng
các tư thế khác nhau đang say mê lao động, ẩn hiện trong thiên nhiên bao la,
kết hợp với sự cứng cáp của hình ảnh cây Phong ba – nét đặc trưng vùng biển.
Tất cả từ yếu tố màu sắc tới hình thể con người, cảnh vật đã cùng hòa quyện
một cách hài hòa, thống nhất tạo nên không khí làm việc tấp nập nơi xóm chài
Quất Lâm.
Tác phẩm Sơn dầu Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi (1976) [Hình
1.27; tr.100] của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung được thể hiện với lối sắp xếp bố
cục đăng đối của cỗ máy dệt hai bên dường như không làm át đi sự hiện hiện
của của nhóm người chính, mà ngược lại làm cho cách thể hiện ba nhân vật
thêm sinh động. Với lối bố cục này, con người đặt làm trọng tâm trong tác
phẩm, làm chủ máy móc. Bên cạnh đó, tác phẩm dường như phảng phất hơi
hướng của tính dân tộc khi họa sĩ sử dụng những mảng màu phẳng, bẹt và ít tả
khối – điều mà ta từng bắt gặp trong mỹ thuật dân gian xưa kết hợp với cách
35
tạo hình khỏe khoắn bằng những nét thẳng, dứt khoát của khuynh hướng hiện
đại tạo nên ấn tượng thị giác cho người xem. Tác phẩm đồng thời cũng là bài
ca, ca ngợi cuộc sống mới của người lao động đang dựng xây đất nước.
Ở tác phẩm Xây trụ cầu Thăng Long (1977) [Hình 1.28; tr.101], tác giả
Lò An Quang đã rất khéo léo khi đặt những máy móc ở phía đằng xa cùng với
việc sử dụng lối bố cục hình elip ở đằng trước tạo nên hiệu quả không gian
cho tác phẩm. Ngoài ra, mặc dù sử dụng những mảng hình khúc triết nhưng
nhìn bức tranh ta vẫn cảm thấy được sự chuyển động linh hoạt trong đó. Hình
thể của từng nhân vật được tác giả giản lược về hình nhưng chú ý trong những
dáng cúi tạo nên nhịp điệu liên kết giữa nhóm nhân vật phía trước và sau gợi
liên tưởng của sự đoàn kết trong lao động của những người công nhân.
Với Giã gạo (1980) [Hình 1.29; tr.102] Sơn mài của Nguyễn Thế Vinh,
nhìn tổng thể bức tranh ta có thể thấy được sự chủ động trong lối bố cục của
tác giả. Họa sĩ đã chọn những chi tiết đặc trưng nhất từ con người, đồ vật,
trang phục đến hình ảnh ngôi nhà sàn của vùng Tây Nguyên và tạo nên một
bố cục tranh khá sinh động, vui mắt. Tác giả đã xây dựng lối bố cục gồm
nhóm chính và nhóm phụ, đây là dạng bố cục thường thấy trong tranh của các
họa sĩ Việt Nam. Bằng cách kết hợp đan xen những mảng màu trên trang
phục những cô gái Tây Nguyên, của những nong, nia, gùi, thúng đầy thóc,
nhịp chày giơ lên hạ xuống cùng nhịp hướng chuyển động mạnh khác nhau
của chân nhà sàn phía sau càng làm cho bố cục tác phẩm trở nên động, luân
chuyển, toát lên không khí nhộn nhịp, vui tươi của buổi giã gạo của những cô
gái dân tộc. Bên cạnh đó, tác phẩm với sắc son đỏ cùng những mảng đậm trên
trang phục được đặt trên hòa sắc vàng ấm của không gian cảnh vật xung
quanh, của những hạt thóc vàng đầy ắp trong thúng, trong gùi kết hợp với chi
tiết đôi gà phía xa cũng gợi lên cảm giác của niềm ước ao, hi vọng về tương
lai của sự no ấm, hạnh phúc.
36
Cuối cùng, đến với tác phẩm Sơn dầu Cầu sắt sông Hồng (1980) [Hình
1.30; tr.103] của Họa sĩ Nguyễn Kim Thái. Ở đây, tác giả đã xử lý cấu trúc,
hình mảng, nhịp điệu lên xuống của những thanh cầu sắt bằng yếu tố đường
nét để tách khối. Cùng với đó là việc sử dụng những nét chặn khúc triết ở
hình thể những nhân vật đang lao động, tạo nên sự chắc khỏe giữa con người,
vật thể với không gian bức tranh. Đồng thời, tác phẩm cũng gợi lên một
không khí lao động tập thể vui vẻ, con người hăng say, góp công sức của
mình vào công cuộc xây dựng đất nước.
Như vậy, có thể thấy Bố cục đóng vai trò quan trọng cho sự thành công
của tác phẩm. Hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm còn tùy thuộc vào cách sắp
xếp mối tương quan giữa hình và màu nhằm tạo cho bức tranh sự hài hòa, cân
bằng. Ở đây, trong các tác phẩm hội họa về đề tài lao động sản xuất giai đoạn
1954 – 1985, một số dạng thức bố cục như hình tam giác – hình tháp, hình
tròn – elip, chữ nhật hay sắp xếp những yếu tố hình, màu, đậm nhạt, ánh sáng
theo nhịp điệu, sự chuyển động, v.v… đã góp phần cho tinh thần lạc quan
được thể hiện một cách mạch lạc mà năng động, linh hoạt.
2.2. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua hình thể
Trong Mỹ thuật, hình thể được dùng để chỉ dáng vẻ, cấu trúc của vật
thể hoặc con người trên bề mặt tác phẩm. Dáng vẻ bên ngoài hay nội dung
bên trong của đối tượng sẽ được mỗi họa sĩ cảm nhận theo những mức độ xúc
cảm và nhận thức khác nhau. Trên bề mặt tranh được giới hạn, hình thể là sự
biểu đạt hình thức bên ngoài và bản chất bên trong của đối tượng được người
vẽ thể hiện.
Tác phẩm Mùa lúa chín (1954) [Hình 1.1; tr.74], tranh Sơn dầu của họa
sĩ Dương Bích Liên với điểm nhấn khiến người xem sẽ chú tâm vào ngay đó
chính là nụ cười hạnh phúc, ánh mắt đang bừng sáng trên khuôn mặt của các
nhân vật. Qua đó có thể cảm nhận được niềm vui, niềm hạnh phúc, phấn khởi
37
của người nông dân. Ngoài ra, hình ảnh cánh đồng lúa chín và chi tiết bó lúa
đầy đặn nhân vật gánh trên vai cũng được họa sĩ thể hiện rất tinh tế và hết sức
cô đọng về hình nhưng vẫn tạo được cảm xúc lạc quan của vụ mùa thắng lợi,
biểu tượng cho niềm tin vào sự no đủ.
Bức Lụa Về nông thôn sản xuất (1957) [Hình 1.3; tr.76] của Họa sĩ Ngô
Minh Cầu với nhân vật trung tâm là hình ảnh anh bộ đội trở về quê hương sau
khi xuất ngũ, cùng người phụ nữ thôn quê đang cùng nhau bước đi trên con
đường làng tạo nên khung cảnh thật bình dị. Hình ảnh nhân vật trong tác
phẩm được thể hiện với cách tạo hình chắc khỏe nhưng vẫn giữ được nét mềm
mại, chân thực. Hình ảnh chiếc áo lính kết hợp với chiếc nón, quần nâu đã tạo
nên nét hài hòa trong cách tạo hình giữa nhân vật bộ đội và cô gái làng. Chi
tiết xắn quần kết hợp cùng động tác vác bừa, vác cuốc tạo nên vẻ đẹp lao
động của hai nhân vật chính. Đồng thời, có thể dễ dàng nhận ra sự hồ hởi,
phấn khởi, lạc quan trên gương mặt họ, nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân
khi nói tới nét biểu cảm này có viết: “Anh lính nhìn sang cô gái còn cô gái thì
ngượng nghịu cúi đầu. Tình yêu nảy nở trong lao động.” [31] cho ta thấy nét
lãng mạn của một tác phẩm mang khuynh hướng Hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, chi tiết cây rơm, ngôi nhà tường gạch mang những nét đặc trưng
của vùng nông thôn Việt Nam và đặc biệt là hình ảnh con bò mẹ no tròn, chú
bê con chạy tung tăng như một đứa trẻ nghịch ngợm dường như cũng đã bổ
trợ thêm cho việc thể hiện tinh thần lạc quan, gợi lên niềm hạnh phúc đang
tràn ngập, lan tỏa trong không gian tác phẩm. Trên bức tường gạch có ghi
khẩu hiểu tuyên truyền cổ vũ phong trào lao động sản xuất – một dấu ấn lịch
sử, đây là điều thường thấy ở các vùng nông thôn đương thời.
Với cách sử dụng tài tình chất liệu sơn mài đề diễn tả chất da thịt, cơ
bắp, hình khối trên cơ thể nhân vật trong điều kiện trái sáng, Họa sĩ Nguyễn
Đức Nùng đã thể hiện thành công ở tác phẩm Sơn mài Bình minh trên nông
trang (1958) [Hình 1.5; tr.78]. Tác phẩm diễn tả một anh nông dân mình trần
38
với hình thể cường tráng, vạm vỡ đứng quay lưng lại, mặt của nhân vật hướng
về phía mặt trời mọc với đôi tay chắc khỏe, tay này bê thúng, tay kia đưa lên
theo động tác của người làm nông đang gieo hạt trên cánh đồng. Gieo hạt là
công việc thường được người nông dân làm vào buổi bình minh để hạt mầm
được hưởng trọn vẹn ánh nắng từ buổi sớm, đảm bảo nguồn năng lượng cho
cây phát triển. Cách tạo hình bàn tay có một số ý kiến cho rằng hơi không tự
nhiên, nhưng dường như đây chính là điểm nhấn thể hiện tài quan sát tinh tế
của Nguyễn Đức Nùng. Hình ảnh mang lại cho ta cái nhìn vừa mang tính hiện
thực, vừa mang tính ẩn dụ như thể bàn tay này đang đưa lên để gieo mầm
sống mở ra tương lai, chạm trời mây và có thể nắm lấy cả không gian phía
trước. Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân trong cuốn Nghệ thuật tạo hình
Việt Nam Hiện đại có đưa ra nhận định: “Bàn tay gieo rắc sự sống – làm cho
thiên nhiên trở nên lộng lẫy. Trong các tác phẩm nghệ thuật tạo hình Việt
Nam, chưa bao giờ người nông dân tự hào về bàn tay của mình như ở trong
Bình minh trên nông trang. Mặc dù dáng đứng và bàn tay người nông dân có
vẻ bố trí, nhưng nhờ có ý đồ và chủ đề cô đúc nên hiệu quả của bức tranh vẫn
không bị phương hại nhiều.” [31]
Bức tranh Sơn mài Tổ đổi công miền núi (1958) [Hình 1.6; tr.79] của
Họa sĩ Nguyễn Đức Nùng đã diễn tả công việc lao động sản xuất nông nghiệp
là cấy lúa của những cô gái dân tộc Thái trong thung lũng vùng cao nơi miền
núi Tây Bắc. Các cô gái Thái với trang phục màu trắng, xanh đang cấy lúa với
tư thế khi đứng khi cúi thật nhịp nhàng. Ở tác phẩm, hình ảnh con người xuất
hiện tuy nhỏ bé giữa không gian thiên nhiên thơ mộng hùng vĩ, hoành tráng
nhưng vẫn mang lại cho ta thấy được sức mạnh của vẻ đẹp lao động cùng
không khí vui tươi, nhộn nhịp của buổi cấy.
Cảm nhận được nhịp sống tưng bừng ở nông thôn và những buổi lao
động tập thể hăng say, bức Sơn mài Tát nước đồng chiêm (1958) [Hình 1.7;
tr.80] của Họa sĩ Trần Văn Cẩn đã phản ánh công cuộc xây dựng đất nước
39
qua tác phẩm của mình. Nhân vật được thể hiện với động tác tát nước linh
hoạt, hình thể khỏe và đẹp, chắc nhưng lại hết sức mềm mại, nhịp nhàng như
những điệu múa dân gian. Người nông dân ở đây là những cô gái thôn quê
được miêu tả từ biểu cảm khuôn mặt vui tươi cho tới những tư thế tung tẩy,
hồ hởi, hăm hở làm việc với những động tác nhịp nhàng trong các dáng điệu
linh hoạt, sinh động. Dường như niềm lạc quan ấy được xuất phát từ trong
tâm hồn họ khi được cùng nhau tham gia buổi lao động tập thể trong phong
trào Hợp tác xã đương thời. Các nhân vật trong tranh tuy đều đang ở tư thế,
động tác tát nước nhưng bằng tài quan sát của mình, Trần Văn Cẩn đã đưa
được vào tác phẩm những dáng điệu khác nhau hết sức phong phú, làm cho
tác phẩm không bị nhàm chán. Họ khi cúi, khi ngẩng cùng thế tay chân nâng
lên hạ xuống theo nhịp làm không gian cánh đồng trở nên nhộn nhịp như ngày
hội. Bên cạnh đó, một số chi tiết, mảng phụ như khóm tre, hàng lúa, chiếc gầu
nước, v.v… cũng góp phần bổ trợ thêm cho việc thể hiện tinh thần lạc quan
qua hình thể trên tác phẩm.
Qua tác phẩm Lụa Được mùa (1958) [Hình 1.8; tr.81] và Sơn mài Đập
lúa (1972) [Hình 1.24; tr.97] của Nguyễn Tiến Chung, ta có thể thấy dễ dàng
được điểm chung đều xuất hiện ở cả hai tranh này là những người nông dân
gắn với hình ảnh cây lúa. Hình thể của từng nhân vật trong các tác phẩm được
họa sĩ diễn tả với dáng thế đặc trưng của việc lao động lúa nước bằng những
nét vẽ tung tẩy, khoáng đạt và khỏe khoắn. Bên cạnh đó, qua biểu cảm trên
gương mặt nhân vật, có thể thấy hình tượng những con người lao động được
xây dựng không hề mang những nét u buồn mà luôn lạc quan, vui vẻ với công
việc của mình. Qua cách tạo hình nhân vật như vậy, có thể cảm nhận được họ
là những con người nông dân yêu lao động, luôn lạc quan tin tưởng vào một
tương lai ấm no. Ngoài việc tập trung vào hình ảnh những con người lao
động, Nguyễn Tiến Chung cũng đã kết hợp với những chi tiết góp phần hỗ trợ
40
thêm cho bố cục như những đụn lúa, bó lúa đầy đặn, những thửa ruộng ngập
sắc vàng của lúa chín, mang lại cảm xúc về một vụ mùa thắng lợi.
Đến bức Sơn mài Giữ lấy hòa bình (1960) [Hình 1.9; tr.82] của Họa sĩ
Lê Quốc Lộc, tác phẩm miêu tả một gia đình đánh cá, ba nhân vật chiếm vị trí
trung tâm tranh, quay lưng sát với người xem. Trong tranh, hình thể người
chồng được diễn tả với tấm lưng ngăm đen, cường tráng đang khoác súng trên
vai. Hình ảnh người vợ – người phụ nữ không còn tạo hình theo lối mỏng
manh, liễu yếu đào tơ nữa mà rắn rỏi, chắc khỏe với dáng dấp của con người
lao động đang trong tư thế vừa bế đứa con, vừa cắp bên hông rổ cá. Trẻ thơ
luôn là biểu tượng cho mầm non của đất nước. Bởi vậy ở đây, khi được gắn
kết với hình ảnh bàn tay thô khỏe của người đàn ông làng chài đang nắm lấy
bàn tay nhỏ bé, cùng với đó là hướng nhìn của đôi vợ chồng đều tập trung, tụ
lại ở khuôn mặt đang bừng sáng của đứa con – điểm nhấn của tác phẩm đã tạo
nên một hình ảnh biểu trưng hết sức đẹp đẽ. Nó mang lại cho người xem cảm
giác như thể họ đang nắm lấy tương lai, cũng là sự trao gửi tình yêu thương,
gửi gắm, nhắn nhủ thông điệp hãy Giữ lấy hòa bình để có một tương lai hạnh
phúc, yên bình như chính nụ cười của con.
Tác phẩm Bác Hồ thăm nhà máy xe lửa Gia Lâm (1960) [Hình 1.10;
tr.83] Sơn dầu của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung cũng là một tác phẩm thành công
trong việc diễn đạt hình thể nhân vật để thể hiện tinh thần lạc quan. Trước hết,
khi tiếp cận tác phẩm, ánh nhìn của người xem sẽ hướng đến đầu tiên đó là
trung tâm của bức họa – vị lãnh tụ Hồ Chí Minh, tiếp đó là tới hình ảnh của
các nhân vật xung quanh. Hình ảnh Bác trong tác phẩm được diễn tả rất thân
thiện, gần gũi, dung dị mà vẫn toát lên vẻ thanh cao của một vị lãnh tụ với bộ
quần áo kaki quen thuộc cùng nụ cười hiền luôn thường trực trên môi. Với
biểu cảm khuôn mặt cùng động tác tay, có lẽ Bác đang trao đổi một vấn đề
nào đó với những người công nhân xung quanh. Ở đây, khoảng cách giữa Bác
và mọi người dường như được thu hẹp lại rất gần. Hình ảnh những người
41
công nhân nhà máy xe lửa được thể hiện với cách tạo hình khỏe khoắn, kết
hợp với những đặc điểm trên trang phục đặc thù của nền công nghiệp mới
cùng nét mặt tươi vui, rạng rỡ khi được Bác tới thăm. Đặc biệt, ánh mắt của
họ đều tập trung hướng về vị lãnh tụ đáng kính – tinh hoa của dân tộc. Hình
ảnh Bác như một biểu tượng cho nguồn sáng đẹp đẽ, lý tưởng và người công
nhân xung quanh như đang lĩnh hội những lời răn dạy, đón lấy sự chiếu rọi
tỏa ra từ nguồn sáng ấy mang tên Hồ Chí Minh.
Với bức Sơn mài Kéo lưới (1960) [Hình 1.12; tr.85], Họa sĩ Nguyễn
Kim Đồng đã sử dụng mạnh yếu tố nét của ngôn ngữ Đồ họa để diễn tả hình
thể nhân vật. Những người dân chài hiện lên trong vẻ ngoài khỏe khoắn, lực
lưỡng, cường tráng, cánh tay và đôi chân rắn chắc với những thế đứng vững
chãi, động tác kéo lưới, chèo thuyền đang tập trung vào công việc đánh bắt
chính của mình. Ngoài ra, họa sĩ cũng khéo léo khi đặt nhân vật kết hợp cùng
những chi tiết phụ trợ như con thuyền, làn sóng nước, tấm lưới mang những
nét đặc trưng, cô đọng về cấu trúc hình. Tất cả những điều đó đã làm tôn lên
vẻ đẹp hình thể, tình yêu công việc của con người trong lao động nơi miền
biển.
Hoàng Tích Chù thể hiện niềm vui được mùa của người nông dân qua
bố cục nhóm người đang gánh lúa về qua cổng làng trong tác phẩm Sơn mài
Gánh lúa về (1961) [Hình 1.14; tr.87]. Bốn nhân vật xuất hiện trong tranh với
những nét linh hoạt trong từng động tác, dáng đi, kiểu gánh. Hình ảnh đôi bàn
chân trần được họa sĩ chọn thể hiện theo lối hình họa diễn tả hình khối, từ đó
tạo nên nét đẹp khỏe khoắn, rắn chắc của con người lao động nơi làng quê
Việt. Động tác gánh lúa về mỗi người một dáng vẻ, cách vung tay cùng sự
nhịp nhàng trong từng bước đi tạo nên phong cách miêu tả dứt khoát và linh
hoạt của người họa sĩ. Hình ảnh từng lớp bó lúa trĩu bông xếp thành tầng
được buộc vào đôi quang gánh trên vai người nông dân là một hình tượng
biểu trưng cho vụ mùa bội thu. Cách diễn tả khuôn mặt và dáng đi của nhân
42
vật khi đang gánh lúa làm cho người xem không bắt gặp sự mệt mỏi hay nặng
nhọc nào ở đây cả. Mà ngược lại, từ ánh mắt, nụ cười cho tới động tác đều
toát lên không khí của sự phấn khởi, phấn chấn, vui tươi và lạc quan trong lao
động xuất phát từ trong con người họ. Ngoài ra, một số hình ảnh điển hình,
đặc trưng của làng quê Việt buổi đương thời cũng được họa sĩ khéo léo lồng
vào trong tác phẩm như chiếc cổng làng, dòng khẩu hiệu được viết bằng sơn
đỏ trên bức tường gạch, bờ ao, khóm cây. Một chi tiết đặc biệt được họa sĩ
đưa vào hết sức thú vị đó là hình ảnh gà đàn trên nền son đỏ gợi liên tưởng tới
bức Gà đàn trong dòng tranh Đông Hồ. Con gà xuất hiện trong bức tranh dân
gian mang nét bình dị, chân quê, tượng trưng cho một gia đình hạnh phúc
luôn quây quần, sum vầy bên nhau. Phải chăng, ngụ ý của Hoàng Tích Chù ở
đây chính là thể hiện những khát khao, ước vọng trong cuộc sống mà ông
muốn gửi gắm thông qua tác phẩm của mình.
Bức tranh chất liệu Sơn dầu Công nhân cơ khí (1962) [Hình 1.15; tr.88]
của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung đã thể hiện cảnh lao động của người thợ cơ khí
đang say sưa, hăng hái làm việc trong xưởng máy với những dáng điệu, hình
thể, tư thế được tác giả chắt lọc. Họ hiện lên thật khỏe khoắn, mạnh mẽ của sự
cách điệu cao ở vóc dáng, dứt khoát trong những động tác vặn mình theo nhịp
búa, phía xa là nhóm thợ như đang phấn khởi lôi mẻ thép mới ra lò. Trên nền
mảng không gian đậm phía bên trái, vẫn có thể nhận ra trong đó là hệ thống
máy móc đồ sộ, hiện đại cùng dòng chữ cổ vũ, khích lệ người công nhân được
viết phía trên tường. Thành công của Nguyễn Đỗ Cung ở tác phẩm đó là việc
đã xây dựng hình ảnh điển hình bằng hình tượng người công nhân mới qua
cái nhìn lạc quan của người nghệ sĩ với nét hồ hởi cả về tinh thần lẫn thể xác.
Motif nhân vật trong tranh là hình tượng những người công nhân mới của nền
công nghiệp xã hội chủ nghĩa, được làm chủ máy móc, làm chủ công việc của
mình không chỉ có ở tác phẩm Công nhân cơ khí mà còn được Họa sĩ Nguyễn
Đức Nủng thể hiện trong tác phẩm Lụa Dệt cửi quay tơ (1957) [Hình 1.4;
43
tr.77] hay Mỏ Đèo Nai (1969) [Hình 1.23; tr.96] chất liệu Sơn mài của Họa sĩ
Nguyễn Tiến Chung, v.v…
Như ở bức Sơn mài Đập lúa đêm (1964) [Hình 1.18; tr.91] của Nguyễn
Tiến Chung, tác phẩm diễn tả hình ảnh ba nhân vật đang trong tư thế đập lúa
với hình thể được họa sĩ thể hiện theo lối cường điệu tạo nên sự khỏe khoắn,
vững chãi của những con người lao động. Khi mà họ có lẽ đã được nghỉ ngơi
sau một ngày dài lao động vất vả nhưng ở đây, họ tiếp tục công việc đang
dang dở trong đêm muộn nhưng trên gương mặt ba nhân vật trong tranh, ta
không bắt gặp sự mệt mỏi, uể oải mà vẫn bừng sáng với nụ cười luôn nở trên
môi, thao tác vẫn rất chuẩn xác và nhịp nhàng. Đặc biệt ở Đập lúa đêm, chi
tiết cây đèn dầu và ánh vàng nơi khe cửa vừa là nguồn sáng giúp những con
người có thể lao động được trong đêm nhưng đồng thời cũng là hình ảnh biểu
trưng cho sự soi dẫn của niềm tin, sự hi vọng để họ có động lực vượt qua
những khó khăn của thực tại.
Tác phẩm Sơn mài Xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên (1964) [Hình
1.19; tr.92] của Nguyễn Kao Thương đã diễn tả buổi làm việc của những
người công nhân đang góp sức mình để xây dựng Khu gang thép Thái
Nguyên, đây một thời là biểu tượng, niềm tự hào của công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Nhân vật được khoe ra với vẻ đẹp khỏe khoắn,
cường tráng của hình thể trong tư thế lao động. Đặc biệt, sắc trắng ở mảng
hình cô đọng của áo và chiếc khăn cuốn trên đầu nhân vật nam đã làm tập
trung sự nhìn của người xem trong tổng thể toàn bộ tác phẩm. Nếu ở nhóm
nhân vật phía sau, họa sĩ đã diễn tả hình thể họ bằng việc tạo những mảng
miếng gợi hình thì với nhân vật được tập trung ánh nhìn nhất này, Nguyễn
Kao Thương đã sử dụng lối vẽ hình họa trong cách miêu tả đặc biệt ở đôi bàn
tay đang nắm lấy công cụ lao động, cánh tay hứng sáng cho tới hình ảnh đôi
chân trong thế đứng vững chãi làm tôn lên vẻ đẹp của hình thể trong lao động.
44
Đồng thời, đây cũng là nét đẹp điển hình, biểu trưng cho hình tượng những
con người lao động của thời đại mới.
Bức Sơn dầu Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi (1976) [Hình 1.27;
tr.100] của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung thể hiện trong khung cảnh buổi tan ca
của các chị em trong tổ dệt. Tuy nhiên đây không đơn thuần là cảnh tan ca
thông thường mà là buổi tan ca có phần đặc biệt khi chị tổ trưởng giơ tay
thông báo hết giờ và báo các chị em đi họp để thi thợ giỏi. Người phụ nữ lúc
này không còn trong cái dáng đứng lom khom mà là hình ảnh vững chãi của
con người sống trong xã hội mới khi mà phụ nữ đều có quyền bình đẳng, tự
tin điều khiển máy móc. Họa sĩ đã rất khéo léo khi diễn tả hết sức sinh động
tư thế khác nhau của ba người công nhân. Niềm vui lao động thể hiện trong
tác phẩm còn là do cách tạo hình khỏe khoắn, mạch lạc về hình thể và trong
nét biểu cảm khuôn mặt của nhân vật. Mỗi người một biểu cảm, một động tác
trong công việc nhưng tựu chung lại vẫn là hình ảnh điển hình, thể hiện rõ tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm. Vẻ đẹp của con người trong tác phẩm của
Nguyễn Đỗ Cung là vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại của thời đại mới, họ
hiện lên đầy duyên dáng, mặn mà và luôn trong tư thế tự tin làm chủ đất
nước.
Như vậy nhìn chung, để biểu hiện tinh thần lạc quan qua hình thể trong
tác phẩm được đề cập ở trên, người họa sĩ đã khai khác ở phương diện cấu
trúc, tư thế, dáng điệu, động tác, biểu cảm nét mặt của người lao động, đồng
thời kết hợp với những chi tiết, hình ảnh phụ trợ cho nhóm chính. Ở họ luôn
mang niềm lạc quan, tươi vui, hăng say công việc, với dáng vóc khỏe khoắn,
mang vẻ đẹp điển hình của con người trong lao động. Đồng thời, với những
chi tiết như bó lúa, công cụ lao động đặc thù, ruộng đồng hay cảnh vật xung
quanh, v.v… ngoài việc góp phần hỗ trợ thêm cho nhân vật chính thì cũng thể
hiện được cái nhìn lạc quan của tác giả trong từng tác phẩm cụ thể.
45
2.3. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua màu sắc
Màu sắc có thể nói là phương tiện tạo hình để người họa sĩ đưa trạng
thái cảm xúc thông qua tác phẩm của mình, tác động lên tâm lý người thưởng
thức tranh. Theo Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông [18], có thể hiểu màu
sắc được dùng để thu hút sự chú ý của người xem, mang lại và làm tăng hiệu
quả thẩm mỹ cho tác phẩm. Nếu thiếu màu sắc thì dường như sẽ làm không
thỏa mãn được cái nhìn. Màu sắc có thể nói là một trong những thành tố quan
trọng của hội họa. Không những làm tôn lên giá trị của hình mảng mà màu
sắc còn góp phần tạo không gian tác phẩm, biểu thị trạng thái cảm xúc của
người nghệ sĩ, đồng thời đưa đến những ấn tượng thị giác nhất định cho người
xem. Màu sắc là những màu khác nhau trong thiên nhiên hay màu bản thân
của từng vật thể, nhờ có ánh sáng tác động tạo nên những sắc độ phong phú
mà ở mỗi họa sĩ lại cảm nhận theo những hướng khác nhau. Màu sắc kết hợp
với nhau trên bề mặt tranh tạo thành hòa sắc.
Họa sĩ Dương Bích Liên với bức Sơn dầu Mùa lúa chín (1954) [Hình
1.1; tr.74] đã tạo một sắc vàng óng dường như nhuốm toàn bộ, chiếm hầu hết
bề mặt tranh từ không gian cho tới nhân vật, của cánh đồng bạt ngàn, của bó
lúa chín, điểm xuyết là sắc xanh lá của đường bờ ruộng. Ngoài ra, cũng sử
dụng sắc vàng để diễn tả không gian đồng lúa chín có thể kể đến bức Sơn mài
Gặt lúa ở Việt Bắc (1955) [Hình 1.2; tr.75] của Họa sĩ Phan Kế An. Ở tác
phẩm này, họa sĩ cũng kết hợp với những sắc màu đậm để thể hiện nhân vật
và mảng núi phía xa. Với cách sử dụng màu sắc ở cả hai tác phẩm trên, người
xem có thể cảm thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên, hay cái bao la, trải rộng của
không gian biển lúa, đồng thời thể hiện sự báo hiệu một vụ mùa bội thu, no
ấm của người nông dân.
Nét lạc quan ở tác phẩm Sơn mài Bình minh trên nông trang (1958)
[Hình 1.5; tr.78] của Họa sĩ Nguyễn Đức Nùng được thể hiện bằng mảng màu
46
nóng khi diễn tả làn da ngăm đen, rắn rỏi của một anh nông dân cởi trần với
hình thể cường tráng, vạm vỡ đứng quay lưng lại. Bên cạnh đó, cảnh sắc buổi
bình minh với gam màu ấm dần từ phía chân trời lên, tác giả đã sử dụng mảng
màu đậm ở phía trên tạo tương phản, nhấn mạnh sắc vàng ấm của bầu trời,
làm cho không gian thiên nhiên trong tranh thật đẹp và yên bình, mang lại
những rung cảm cho người xem. Mặt khác, hòa sắc vàng nơi bầu trời cùng đôi
bàn tay đưa lên của nhân vật cũng gợi lên ánh sáng của tương lai đang rộng
mở phía trước.
Nhắc tới Nguyễn Tiến Chung, có thể nhiều người sẽ nhớ tới những tác
phẩm vẽ về đề tài thôn quê, ông từng nói “Đề tài nông thôn đã cuốn hút tôi”.
Tác phẩm Được mùa (1958) [Hình 1.8; tr.81] với hòa sắc cam – đỏ – nâu nơi
bầu trời và mặt ruộng, kết hợp với ánh vàng ruộm của cánh đồng, của bó lúa
cùng cách điểm xuyết những mảng màu đậm, sáng của hình thể và trang phục
nhân vật đã tạo nên một sự tổng hòa về màu sắc rất ấn tượng, khiến cho người
xem cảm nhận được sự phấn khởi, vui tươi của ngày mùa bội thu. Ngoài ra,
bức Sơn mài Đập lúa (1972) [Hình 1.24; tr.97] của Họa sĩ Nguyễn Tiến
Chung sáng tác cũng về đề tài lao động sản xuất đã được ông thể hiện với
màu sắc thân thuộc nơi làng quê đó là gam màu nâu – vàng. Nhưng nhìn
chung, màu sắc của Đập lúa cũng vẫn mang một sự hài hòa, gần gũi cùng
những xúc cảm tương tự với bức Được mùa (1958).
Đĩa màu truyền thống của Tranh Lụa Việt Nam với những sắc nâu, đen
vàng, bã chầu được hình thành từ họa sĩ Nguyễn Phan Chánh vẫn được nhiều
thế hệ họa sĩ tiếp nối, noi theo trong đó có Vũ Giáng Hương. Với tác phẩm
Hợp tác xã đánh cá về (1961) [Hình 1.13; tr.86] qua chất liệu Lụa, hòa sắc
của gam màu truyền thống ấy đã được bà sử dụng để diễn tả những con người
lao động từ trang phục với sắc nâu – đen đặc trưng, cùng không gian cảnh vật,
thiên nhiên nơi miền biển. Màu sắc trong tranh đã mang lại cho ta cảm nhận
được sự mộc mạc, dung dị, êm ả, thân thuộc nơi làng Việt xưa.
47
Bức Sơn mài Gánh lúa về (1961) [Hình 1.14; tr.87] được Họa sĩ Hoàng
Tích Chù thể hiện bằng bảng màu đặc trưng của chất liệu Sơn mài truyền
thống với sắc vàng của bông lúa, khóm cây, mảng trứng được cẩn nơi cổng
làng và sắc son đỏ được trải khắp bề mặt tranh từ nền đất, mặt nước cho tới
không gian phía sau, cùng với đó là việc kết hợp những mảng màu đậm của
sơn then, sơn cánh gián làm cho yếu tố hình của tác phẩm thêm phần chắc
khỏe. Thông thường, một tác phẩm khi được sử dụng những màu sắc sặc sỡ
như đỏ, vàng, cam sẽ gây nên sự chú ý hoặc tạo được sự vui tươi cho người
thưởng thức. Ở Gánh lúa về, dường như điều đó đã đúng khi tác phẩm mang
lại ấn tượng xúc cảm thị giác cho ngưởi xem trước hết bởi gam màu chủ đạo.
Trên nền không gian của sắc son đỏ, ánh sáng rực rỡ của thếp vàng được sử
dụng ở chi tiết bó lúa tạo nên sự tương phản về sắc độ, làm tăng hiệu quả thị
giác cho cho hình ảnh bông lúa chín vàng, biểu trưng cho một vụ mùa thu
hoạch thành công. Sự chan hòa của sắc vàng, sắc đỏ được Hoàng Tích Chù
thể hiện rất tinh tế trong tác phẩm, từ đó người xem dường như sẽ cảm nhận
được không khí phấn khởi, khẩn trương đang diễn ra trong khung cảnh gánh
lúa về của người nông dân.
Tương tự như ở Gánh lúa về nêu trên, bức Đổi ca (1962) [Hình 1.17;
tr.90] của Họa sĩ Sỹ Ngọc cũng đã thành công trong việc sử dụng đĩa màu
truyền thống của chất liệu sơn mài với sắc đỏ, vàng, nâu đen. Tác phẩm diễn
tả buổi sáng giao ca trên vùng đất mỏ. Ánh vàng rực rỡ của bầu trời buổi bình
minh cùng sắc nâu vàng của núi đồi chiếu rọi xuống nhóm nhân vật màu nâu,
đen sậm đang dàn trải theo chiều rộng tác phẩm với những đường ven sáng
cũng làm tôn lên vẻ chắc khỏe của người công nhân. Kết hợp hòa sắc trên với
nền đất đỏ tươi tạo đối lập, lôi cuốn sự chú ý và cũng tác động tích cực đến
xúc cảm người xem. Cùng chất liệu và đề tài về lao động sản xuất công
nghiệp, Nguyễn Sỹ Ngọc cũng đã sử dụng thủ pháp tạo không gian ngược
sáng với ánh vàng ven theo hình thể nhân vật để làm nổi bật, tôn lên vè đẹp
48
của người lao động trong tác phẩm Sơn mài Một ngày mới lại bắt đầu (1965)
[Hình 1.20; tr.93]. Ngay từ tên của tác phẩm kết hợp với hòa sắc, nhịp sáng
được tác giả thể hiện đã toát lên không khí khẩn trương, nhộn nhịp trong sự
bắt đầu của một ngày mới lao động.
Bức Sơn mài Xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên (1964) [Hình 1.19;
tr.92] của Họa sĩ Nguyễn Kao Thương trước hết đã cho ta cảm nhận được sự
chan hòa của sắc vàng được trải khắp từ mặt đất lên tới bầu trời, từ những vật
thể cho tới nhân vật. Kết hợp với đó là những nâu, đen tạo nên sự chắc khỏe
cho tổng thể bức tranh. Ngoài ra, tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng sắc trắng
ở trên áo và chiếc khăn của nhân vật đang cầm cuốc đã tạo nên một điểm
nhấn cho bức tranh, tập trung sự nhìn của người xem. Sắc vàng chủ đạo của
tác phẩm cũng làm gợi lên không gian của buổi ngày hè nóng nực, oi bức
nhưng họ – những con người lao động vẫn vượt qua sự khắc nghiệt ấy để tiếp
tục công việc của mình.
Tóm lại, khi thể hiện tinh thần lạc quan trong tác phẩm đề tải lao động
sản xuất, các họa sĩ Việt Nam hay sử dụng những màu sắc đối lập, tương phản
tươi sáng, rực rỡ tạo nên ấn tượng thị giác của sự nhộn nhịp, phấn khởi, tươi
vui được toát lên từ con người tới cảnh vật. Bên cạnh đó, ở một số tác phẩm
có hòa sắc ấm, êm dịu cũng đã đưa đến cho người xem trạng thái yên bình,
dung dị, thân thuộc của phong cảnh xung quanh.
Tiểu kết
Trong chương 2, đề tài nghiên cứu sự biểu hiện tinh thần lạc quan trong
những tác phẩm hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954
– 1985 thông qua phương tiện của ngôn ngữ tạo hình như màu sắc, hình dáng,
hình thể và bố cục. Bối cảnh lịch sử đất nước, xã hội đã tác động lớn đến tư
tưởng, ngôn ngữ tạo hình, quan niệm sáng tác nghệ thuật nói chung và hội
họa nói riêng của người nghệ sĩ.
49
Năm 1954 đánh dấu thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, cũng từ
đây, người dân miền Bắc được làm chủ công việc, họ lao động cho chính bản
thân mình, không còn bị bóc lột, làm thuê cho giai cấp địa chủ phong kiến.
Điều đó đã tạo ra một diện mạo mới cho cuộc sống lao động từ làng quê đến
thành thị. Hình tượng người lao động xuất hiện trong tranh giai đoạn 1954 –
1985 luôn mang một tâm thế, một tinh thần lạc quan, hứng khởi trong công
việc của mình. Cụ thể, khi thể hiện trên bề mặt tác phẩm, họa sĩ đã sử dụng
hòa sắc của những gam màu tươi sáng, rực rỡ cùng sự tương phản mạnh mẽ
để tạo ấn tượng thị giác cho xúc cảm người xem. Bên cạnh đó, hình thể nhân
vật trong những tác phẩm này cũng được chú trọng đó là thường được tạo
hình khỏe khoắn, khúc triết với những động tác rất linh hoạt. Tranh thường có
bố cục với nhịp điệu chuyển động nhanh, mạnh mẽ, năng động, khoáng đạt
mang tính khái quát cao. Tất cả kết hợp lại đã góp phần làm rõ sự biểu hiện
của tinh thần lạc quan qua những tác phẩm hội họa về đề tài lao động sản xuất
giai đoạn 1954 – 1985, đồng thời khích lệ, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần người
dân Việt vượt qua khó khăn, vững bước tiến lên xây dựng Tổ quốc, hướng tới
tương lai tươi đẹp của cuộc sống.
50
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về sự biểu hiện tinh thần lạc quan
trong hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985, ở
nội dung chương 3, người viết đã chỉ ra những thành công và hạn chế của
những tác phẩm nêu trên, đồng thời qua đó, rút ra được bài học trong vấn đề
sáng tác hội họa.
3.1. Thành công và hạn chế của những tác phẩm hội họa Việt Nam
mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 –
1985
Thành công của những tác phẩm hội họa Việt Nam mang tinh thần lạc
quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985
Nhà tâm lý học L.X.Vưgôtxi có viết trong cuốn Tâm lý học nghệ thuật
của mình: “Hóa ra nghệ thuật thoạt đầu mang tính chất cá nhân, song thông
qua các tác phẩm nghệ thuật nó trở thành mang tính chất xã hội.” [11; tr.314].
Đối chiếu với các lĩnh vực nghệ thuật cách mạng nước ta trong đó có hội họa
thì dường như quả đúng vậy. Cùng với đó là sự ảnh hưởng của chủ nghĩa
Hiện thực xã hội chủ nghĩa đã tác động đến tư duy và phương pháp sáng tác
của người họa sĩ. “Chủ nghĩa hiện thực xã hội, do Liên bang Xô Viết – đứng
đầu phe xã hội chủ nghĩa – đề xướng, đã nêu ra một chủ trương duy nhất là
hội họa phục vụ chính trị, phục vụ công cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước
xã hội chủ nghĩa… Đối với chủ nghĩa hiện thực xã hội, tác phẩm không phải
là để phản ánh cái bản chất hay cá tính của nghệ sĩ mà là để trình bày những
tư tưởng lớn, thúc đẩy mọi sự tiến lên, kêu gọi mọi người hành động, và đó
mới là sự mệnh căn bản của nghệ thuật.” [30; tr.34]. Điều này thể hiện ở đề
tài của các tác phẩm luôn bám sát lịch sử, đáp ứng được những nhu cầu phục
51
vụ chính trị của đất nước, đồng thời phản ánh cuộc sống con người ở cả chiều
rộng và chiều sâu theo khuynh hướng tả thực cùng sự phong phú, đa dạng của
thể loại, đề tài, nội dung tác phẩm. Nghệ thuật luôn gắn với thời đại, là hơi
thở của thời đại và hội họa cũng không ngoài quy luật đó. Các họa sĩ Việt
Nam đã phần nào viết nên trang sử của dân tộc bằng Hội họa. Trong những
năm tháng sau khi chiến tranh kết thúc, hòa chung không khí cùng cả nước,
khi nền kinh tế thị trường của đất nước trong thời kì hậu chiến đang phát triển
khó khăn thì Nghệ thuật tạo hình Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 đã đóng
góp một phần công sức không nhỏ vào công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh
tế nói riêng bằng những tác phẩm hội họa chứa đựng tinh thần lạc quan về đề
tài lao động sản xuất đã mang lại nguồn động viên hết sức to lớn, tác động
tích cực tới tư tưởng và tâm tư tình cảm của con người Việt Nam lúc bấy giờ.
Về mặt nội dung, các tác phẩm đề tài lao động sản xuất trong giai đoạn
này chủ yếu phản ánh hiện thực cuộc sống với hình tượng điển hình là người
nông dân mới, công nhân mới bằng tư tưởng nhân văn, nhân đạo của người
nghệ sĩ. Hiện thực của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cho
thấy con người bắt đầu tham gia vào những lao động tập thể ở các làng xã hay
nhà máy, công trường, xí nghiệp. Cùng với đường lối, chính sách của Đảng đã
tác động đến các đô thị, miền quê, người lao động luôn mang niềm hạnh
phúc, lạc quan khi được làm chủ công việc của mình. Chính từ những điều
đang diễn ra trong cuộc sống của con người lao động ấy đã mang lại, khơi gợi
cảm hứng sáng tác cho rất nhiều các thế hệ họa sĩ thời bấy giờ. Có thể nói các
tác phẩm giai đoạn 1954 – 1985 đã mang dấu ấn thời đại khá rõ rệt. Đặc biệt,
trong số các tác phẩm được đưa ra trong quá trình nghiên cứu, có thể thấy
motif được mùa được lặp lại khá nhiều lần và các họa sĩ đã rất thành công ở
việc thông qua đó, thể hiện cũng như truyền tải tinh thần lạc quan, giúp người
xem cảm nhận được không khí phấn khởi của người nông dân miền Bắc buổi
đầu xây dựng đất nước khi đón nhận thành quả sau một thời gian lao động là
52
vụ mùa bội thu như: Mùa lúa chín (1954) chất liệu Lụa của Dương Bích Liên,
Sơn mài Gặt lúa ở Việt Bắc (1955) của Phan Kế An, Được mùa (1958) chất
liệu Lụa của Nguyễn Tiến Chung, Hợp tác xã đánh cá về (1961) chất liệu Lụa
của Vũ Giáng Hương, Sơn mài Gánh lúa về (1961) của Hoàng Tích Chù, Sơn
mài Được mùa (1962) của Nguyễn Kim Đồng, Sơn mài Đập lúa (1972) của
Nguyễn Tiến Chung.
Khi đã xác định được khuynh hướng nghệ thuật chủ đạo là Hiện thực
xã hội chủ nghĩa, với đề tài lao động sản xuất, không thể không nhắc tới sự
thành công về hình tượng người lao động – hình tượng chủ chốt của nghệ
thuật tạo hình nước ta, cụ thể là người nông dân và người công nhân. Hình
tượng người lao động trong các tác phẩm hội họa hiện lên rõ nét và đa dạng.
Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân khi nói về hình tượng người lao động có
viết: “Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, người lao động là kẻ thống trị xã hội,
lao động sản xuất trờ thành hoạt động cao quý nhất, thành niềm vui của con
người. Là lao động tự do, nên người lao động và hoạt động sản xuất trở thành
đối tượng thẩm mỹ của nghệ sĩ cũng như người xem.” [31]. Với việc là chủ
thể của tác phẩm, hình ảnh con người xuất hiện dù đang tham gia vào những
hoạt động lao động sản xuất dù nặng nhọc, vất vả nhưng ở họ vẫn luôn toát
lên nét dung dị, mộc mạc luôn hăng say làm việc với một tinh thần lạc quan
và tràn đầy niềm tin vào cuộc sống. Hình tượng con người được xây dựng
trong tác phẩm đã không còn đơn điệu như ở giai đoạn trước mà linh hoạt, đa
dạng ở dáng điệu, hình thể, luôn mang vẻ hân hoan, hứng khởi cùng niềm lạc
quan xuất phát từ đáy lòng trong không khí vui tươi. Các tác phẩm hội họa đề
tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 đã thể hiện thành công cái đẹp,
khỏe và hữu ích, đề cao, ca ngợi và làm tôn lên vẻ đẹp lý tưởng của hình
tượng người lao động.
Các tác phẩm hội họa thời kì này không chỉ phản ánh hình ảnh con
người trong lao động sản xuất mà đồng thời, sự biểu hiện của tinh thần lạc
53
quan cũng đã được họa sĩ thể hiện thông qua các yếu tố đặc trưng của ngôn
ngữ tạo hình rất thành công. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ tạo hình, tác phẩm
có thể mang lại, truyền tới người xem những rung cảm nhất định thông qua
thị giác và đồng thời cũng thể hiện được dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ.
Trong luận văn này, ba yếu tố chính nổi bật được người viết đưa ra đó là màu
sắc, hình thể – hình dáng và bố cục mà qua đó, tinh thần lạc quan trong hội
họa về đề tài lao động sản xuất được biểu hiện rõ nhất. Màu sắc là yếu tố đưa
đến những xúc cảm thị giác đầu tiên và nhanh nhất cho người xem. Các tác
phẩm được đề cập thường mang những màu sắc tươi sáng, rực rỡ, đem lại sự
hứng thú và tác động theo hướng tích cực tới tâm trạng người xem. Bên cạnh
đó, việc người họa sĩ khai thác, sử dụng đĩa màu đặc trưng của chất liệu cũng
đã góp phần làm nên thành công của yếu tố màu sắc. Sự khỏe khoắn trong
hình dáng – hình thể của nhân vật và các đối tượng phụ trợ cũng được họa sĩ
thể hiện thành công. Qua đó ta thấy được sự lạc quan, yêu đời, thoải mái từ
biểu cảm khuôn mặt, những cử chỉ, dáng điệu, động tác khi làm việc, đồng
thời tôn lên vẻ đẹp điển hình của những con người lao động. Các dạng thức
bố cục trong tranh được họa sĩ sử dụng đã có nhiều đổi mới hơn, phong phú
hơn với sự sắp xếp các yếu tố hình và màu theo hướng mạch lạc mà năng
động, linh hoạt. Với tất cả các yếu tố trong ngôn ngữ tạo hình được sử dụng
trong tác phẩm, đề tài lao động sản xuất đã giúp họa sĩ gửi gắm thông điệp,
truyền tải nội dung tư tưởng, mang đến cho người xem có những cảm nhận,
suy nghĩ theo hướng tích cực về cuộc sống, lạc quan và tin tưởng vào tương
lai phía trước.
Bên cạnh đó, việc sử dụng chất liệu cũng là yếu tố góp phần không nhỏ
cho sự thành công của Mỹ thuật nói chung trong đó có hội họa và các tác
phẩm đề tài lao động sản xuất nói riêng ở giai đoạn 1954 – 1985. Đối với chất
liệu đặc trưng của hội họa là Sơn dầu, Sơn mài, Lụa, người họa sĩ hoàn toàn
có thể kết hợp với cá tính sáng tác của riêng mình để tạo nên một tác phẩm
54
mang “tinh thần lạc quan” cùng dấu ấn riêng biệt. Chất liệu giai đoạn này tuy
có sự thiếu thốn, khó khăn về mặt họa phẩm, song vẫn được phát triển theo
hướng hoàn chỉnh hơn so với giai đoạn trước về kĩ thuật, màu sắc.Trong loạt
tác phẩm đề tài lao động sản xuất, chất liệu Sơn mài với lợi thế ở khả năng
cách điệu cao tạo sự đanh, chắc về hình những màu truyền thống đỏ, vàng,
đen, bạc, lục đã gợi sự ấm no, khỏe khoắn. Ngoài ra, ở chất liệu Lụa vẫn với
hòa sắc vàng, nâu sồng làm chủ đạo mang lại nét dung dị, chân quê thân
thuộc. Chất liệu Sơn dầu cũng được các họa sĩ lựa chọn sử dụng với ưu thế ở
bảng màu phong phú cũng như đa dạng trong bút pháp thể hiện. Trong số các
tác phẩm được đề cập trong luận văn, có thể nhận thấy Sơn mài là chất liệu
được phần đông các họa sĩ lựa chọn để thể hiện. Cùng với Lụa, Sơn mài là
một trong những chất liệu mang tính dân tộc cao.
Ngoài ra, các Họa sĩ Việt Nam đã rất tài tình trong việc sử dụng kết hợp
những chi tiết, hình ảnh phụ hỗ trợ cho hình tượng chỉnh – con người lao
động, góp phần làm cho bố cục tác phẩm thêm sinh động. Ở mảng đề tài lao
động sản xuất nông nghiệp, nét đặc trưng của vùng miền cùng những hình ảnh
đặc trưng cho nét đẹp nơi làng quê như cổng làng, khóm tre, đồng lúa, cây
rơm, đống rạ, con trâu, con bò, v.v… đã được đưa vào tác phẩm hết sức khéo
léo. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, Văn hóa Việt – Tâm hồn Việt luôn hiện hữu,
luôn có sẵn trong con người Việt Nam.
Tựu chung lại, bằng những rung cảm mãnh liệt, chân thực cùng tư
tưởng lạc quan cách mạng, nhiều họa sĩ đã thể hiện thành công các tác phẩm
với đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985. Những con người mới
trong tranh hiện lên trong tâm thế làm chủ công việc của mình, luôn mang
tinh thần lạc quan vượt lên những khó khăn, thiếu thốn của kinh tế thời hậu
chiến, hi vọng vào tương lai đất nước được ấm no, sánh vai với các cường
quốc trên thế giới. Những tác phẩm nổi bật có thể nói đã đạt được giá trị nghệ
thuật ở tầm cao, không chỉ thành công về tạo hình, bố cục, màu sắc trong
55
tranh mà còn là mẫu mực trong việc sử dụng ngôn ngữ hội họa để truyền đạt
nội dung tư tưởng của tác giả, đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn tính dân tộc –
hiện đại – hiện thực xã hội để tạo ra những tác phẩm có tinh thần lạc quan,
gần gũi với người xem. Thông qua việc thưởng thức tác phẩm, ta có thể cảm
nhận được tinh thần lạc quan, niềm tin tưởng vào tương lai của đời sống mà
người họa sĩ muốn truyền đạt. Và trong thực tế, niềm mong ước, tin tưởng ấy
của người xưa cho tới nay đã và đang dần trở thành hiện thực.
Hạn chế của những tác phẩm hội họa Việt Nam mang tinh thần lạc
quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985
Song hành cùng những thành công đã đạt được ở các tác phẩm hội họa
mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 thì
việc tồn tại những hạn chế nhất định trong một số phương diện là điều không
thể tránh khỏi.
Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân trong cuốn Mỹ thuật Việt Nam
Thế kỷ 20 khi nói về Mỹ thuật Việt có đưa ra nhận định: “Nền mỹ thuật phát
triển đồng nhất theo một khuynh hướng là Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Chủ
nghĩa tập thể – bình quân, sự giống nhau về phong cách phần nào hạn chế sự
độc đáo cá nhân và chỉ sau một thập niên, tức đến đầu những năm 1970,
người ta thấy bệnh sơ lược và công thức khá trầm trọng.” [34; tr.71]. Do hoàn
cảnh xã hội và những yêu cầu chính trị của đất nước nên nền Mỹ thuật nói
chung, hội họa nói riêng thời kỳ này chủ yếu phản ánh tinh thần thời cuộc và
nặng tính phong trào, tuyên truyền, phục vụ hơn tính chuyên nghiệp. Sự hạn
chế của ngôn ngữ tả thực cùng với việc các tác phẩm đều vẽ về đề tài lao
động sản xuất nên đôi khi dẫn đến sự rập khuôn, công thức, đơn điệu, sơ lược
trong cách giải quyết vấn đề và tương đồng trong phong cách sáng tác. Điều
đó dẫn đến những đặc thù của ngôn ngữ hội họa, kỹ thuật thể hiện và phong
cách cá nhân của người nghệ sĩ lúc này chưa được phát huy đúng mức.
56
Sơn mài và Lụa là hai chất liệu mang nét đặc sắc riêng của nền hội họa
Việt Nam Hiện đại. Tuy nhiên ở cách thể hiện, với từng đề tài trong đó có lao
động sản xuất thì việc sử dụng hai chất liệu này vừa là lợi thế, mang tới sự
thành công cho tác phẩm mà người viết đã đề cập ở phần trước thì vẫn mang
một sự hạn chế nhất định. Các họa sĩ vẫn chủ yếu sử dụng, đi theo đĩa màu
truyền thống cho tranh Lụa và Sơn mài Việt từ thời Mỹ thuật Đông Dương,
chưa có sự cách tân nhiều, chỉ thay đổi trong cách tạo hình về bố cục, hình thể
để truyền tải nội dung. Về chất liệu hội họa, họa phẩm Sơn mài và Sơn dầu
cũng là hạn chế mà các họa sĩ Việt Nam gặp phải trong giai đoạn này.
1975 – 1985 có thể coi là giai đoạn mười năm đầu vất vả khi nền Mỹ
thuật Việt Nam nói chung và hội họa nói riêng lúc này đang đứng trong giai
đoạn chuyển tiếp giữa thời kỳ Hiện thực xã hội chủ nghĩa với thời kỳ Đổi
mới. “Đất nước vẫn bó trong quan hệ kinh tế văn hóa với khối xã hội chủ
nghĩa, trong khi chủ nghĩa xã hội hiện thực đã quá trì trệ và lâm vào khủng
hoảng toàn diện.” [34; tr.89]. Sau khi miền Nam được giải phóng năm 1975,
mô hình Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ tiếp tục được áp
dụng đối với Văn hóa – Văn nghệ trong đó có Mỹ thuật theo mô hình của
miền Bắc trước đó. Lúc này, khi chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa là thứ
nghệ thuật cần phải phát triển thì ta lại thiếu đi lực lượng làm lý luận đã dẫn
đến sự đồng nhất, rập khuôn và theo các công thức nhất định, các tác phẩm
với các đề tài mũi nhọn trong đó có lao động sản xuất chưa có sự khởi sắc
mới về nội dung cũng như ngôn ngữ tạo hình. Giai đoạn này, số lượng các tác
phẩm về đề tài lao động sản xuất nói riêng có phần ít dần đi so với giai đoạn
1954 – 1985 trước đó.
Ở giai đoạn sau Đổi mới, họa sĩ hầu như không bị gò bó vào một khuôn
khổ nào, họ có thể thỏa sức sáng tạo trong sự phong phú, đa dạng về đề tài,
chất liệu cũng như ngôn ngữ tạo hình. Đề tài lao động sản xuất với tinh thần
lạc quan vẫn được số ít họa sĩ lựa chọn, có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu
57
như: Chống hạn (1990) – Sơn mài của Phùng Phẩm [Hình 2.1; tr.104], Tát
nước đêm trăng (1996) – Sơn mài của Trần Đình Thọ [Hình 2.2; tr.104], Bình
minh trên cây cầu tương lai (2002) – Sơn dầu của Phạm Đức Phong [Hình
2.3; tr.105], Nhịp sống mới (2004) – Sơn dầu của Nguyễn Ngọc Long [Hình
2.4; tr.105].
Tóm lại, qua các tác phẩm tiêu biểu giai đoạn 1954 – 1985 kể trên, ta
có thể thấy đề tài lao động sản xuất mang tinh thần lạc quan đã được các họa
sĩ khai thác, thể hiện nhiều và rất thành công. Con người trong tranh là con
người mới – điển hình cho thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa. Những con
người luôn mang một tinh thần lạc quan, say mê lao động và được độc lập tự
chủ cuộc sống từ khuôn mặt tới dáng điệu nhân vật, không còn thấy sự lo
lắng, mệt mỏi, đó là điểm nhấn chủ đạo trong tác phẩm. Người xem thấy được
sự ảnh hưởng của Nhà nước đối với nhân dân trong sự hăng say lao động, xây
dựng đất nước thông qua các tác phẩm hội họa. Bên trong những sáng tác ấy
là những quan niệm, tư tưởng về cách nhìn cũng như phong cách tạo hình
khác nhau của người họa sĩ. Đồng thời, bằng việc sử dụng kết hợp các
phương tiện của ngôn ngữ tạo hình, họa sĩ đã đưa vào tác phẩm những hình
ảnh điển hình, đặc trưng nhất để góp phần vào việc cổ vũ, động viên, khích lệ
tinh thần toàn dân vượt qua những khó khăn của thực tại, cùng nhau phấn đấu
lao động trong công cuộc tái thiết, đưa đất nước đi lên, phát triển ngày càng
vững mạnh, mở ra một tương lai ấm no. Không thể phủ nhận những hạn chế
mắc phải vẫn tồn tại, song với các thành công đạt được ở các tác phẩm về đề
tài lao động sản xuất đã đánh dấu những thành tựu trong tiến trình phát triển
của hội họa nói riêng, góp phần tạo nên điểm nhấn rực rỡ cho nền Mỹ thuật
Việt Nam Hiện đại nói chung.
58
3.2. Bài học rút ra trong vấn đề sáng tác hội họa
Quá trình nghiên cứu, tìm hiểu những công trình, tài liệu có liên quan
tới đề tài đã mang lại những cơ sở lý luận, giúp cho việc hình thành, xây
dựng, củng cố những luận điểm, luận cứ trong luận văn tốt nghiệp. Đồng thời,
kết hợp với những vấn đề được đề cập trong luận văn đã đem lại, bổ sung
thêm cho người viết những kiến thức khái quát chung, từ đó rút ra được bài
học trong vấn đề sáng tác hội họa.
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, Hội họa là một ngành nghệ
thuật nhằm tạo nhu cầu thẩm mỹ cho thị giác với đặc trưng là sự biểu hiện
không gian lên mặt phẳng tranh, được diễn đạt bằng màu sắc, hình thể và sự
sắp xếp bố cục, v.v… đây cũng là cơ sở để hình thành nên tác phẩm để người
họa sĩ gửi gắm thông điệp hay những cảm xúc của mình tới người xem. Đồng
thời, người sáng tác phải biết tính làm sao để trong mặt phẳng hữu hạn đó có
thể biểu đạt được cái vô hạn của thế giới nội tâm, tình cảm của con người.
Nghệ thuật trước hết bắt nguồn từ cuộc sống, việc diễn tả được cuộc sống tự
nhiên luôn là mục đích của người nghệ sĩ. Trong hội họa, để đưa những sự
vật, hình tượng, v.v… của không gian ba chiều lên mặt phẳng, người họa sĩ sẽ
tìm hiểu và ghi nhận những đặc điểm, cấu trúc của đối tượng rồi sau đó, diễn
tả bằng một chất liệu đặc thù như Sơn dầu, Sơn mài hay Lụa kết hợp cùng với
việc sử dụng ngôn ngữ tạo hình.
Hội họa không chỉ phản ánh, tái hiện lại những điều chúng ta thấy trước
mắt mà còn là sự thể hiện thế giới nội tâm của con người, mỗi bức vẽ chứa
đựng trong đó những xúc cảm chân thành, những điều mà họa sĩ muốn gửi
gắm. Một tác phẩm mỹ thuật có chất lượng tốt sẽ luôn mang lại cho người
xem những cảm xúc thẩm mỹ tốt, hướng con người tới những giá trị tốt đẹp
của cuộc sống, thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tích cực.
59
Song hành cùng với sự phát triển của đời sống văn hóa nói chung và
nền Nghệ thuật tạo hình tại Việt Nam nói riêng, yếu tố “tinh thần” luôn được
xem là một khía cạnh quan trọng, làm nên giá trị nổi bật của các tác phẩm
thuộc từng thời kỳ Mỹ thuật. Bên cạnh những yếu tố tác động tới tinh thần
con người thì lạc quan là điều quan trọng để giúp hội họa đạt được mục đích
lớn lao của mình. “Đặc điểm tâm lý của người Việt là luôn lạc quan yêu đời,
mau chóng quên đi các ám ảnh của chiến tranh để thích nghi, hòa mình vào
cuộc sống mới. Tâm lý nghệ thuật của người Việt là tâm lý phương Đông
truyền thống, luôn hướng tới tình cảm êm đềm, dung hòa, hướng tới tính trang
trí duy mỹ, gửi gắm lên tranh những màu sắc ước vọng cá nhân, ít thích đưa
những vấn đề chính trị xã hội căng thẳng, nặng nề lên mặt tranh. Do vậy, mặc
dù đang ở vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế, trên tranh không có cảnh đói
nghèo khổ cực, mà luôn bình ổn, lạc quan, duy mỹ” [1; tr.249]. Có thể hiểu
tinh thần lạc quan ở đây là hướng tư tưởng con người đến cái tốt đẹp, đến giá
trị nhân đạo, làm cho họ xích lại gần nhau hơn, cùng nhau hướng tới tương lai
tươi sáng hơn.
Hội họa đã phản ánh hiện thực xã hội bằng cái nhìn lạc quan trong hơi
thở của thời đại, phản ánh kịp thời những dấu ấn trong dòng chảy lịch sử của
đất nước. Điều này đã được đặt nền móng trong giai đoạn mỹ thuật ở chiến
khu Việt Bắc: “Nhà trường thường xuyên tổ chức triển lãm quanh nơi học,
bày các tranh bột màu, thuốc nước, chì than khi thì cổ động cho phong trào
sản xuất và tiết kiệm đóng thuế nông nghiệp, khi thì biểu dương tinh thần
chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ, anh hùng, khi thì khích lệ lòng yêu nước
của quần chúng hăng hái đi dân công phục vụ các chiến dịch với khẩu hiệu
chung: Tất cả cho tiền tuyến.” [30; tr.32]. Đường lối giảng dạy của trường
dựa theo phương châm đường lối của Đảng: “Dân tộc, Khoa học, Đại chúng;
lấy Công – Nông – Binh làm đối tượng chính”, từ đó mà các Họa sĩ Việt Nam
đã luôn đề cao ý thức trách nhiệm của mình trước lịch sử. Với tinh thần lạc
60
quan cách mạng, tin tưởng vào tương lai tất thắng, vào độc lập – tự do, những
người Nghệ sĩ – Chiến sĩ tự nguyện đứng trong mặt trận Văn hóa – Văn nghệ
đã kiên cường, dũng cảm, đương đầu với mọi gian khổ khó khăn để thực hiện
một nền Nghệ thuật vị Nhân sinh, vì Nhân dân, vì Tổ quốc. Tiếp đó, thực tại
đất nước giai đoạn 1954 – 1985 đã trở thành nguồn cảm hứng cho các họa sĩ
và trong đó có đề tài lao động sản xuất. Khi phản ánh những hoạt động trong
lao động sản xuất, người họa sĩ thể hiện nội dung hiện thực nhưng không vì
thế mà trần trụi. Họ chọn cách biểu đạt theo hướng mở ra những cảm xúc tốt
đẹp, không thể hiện những khó khăn, thiếu thốn mà là sự đồng lòng, đoàn kết
giữa người với người. Từ đó góp phần cổ vũ, động viên, tác động tích cực tới
tinh thần của những con người nông dân mới, công nhân mới.
Khi xã hội phát triển, hội họa nói riêng cũng thay đổi và mang lại những
dấu ấn mới, tư duy mới về ngôn ngữ tạo hình. Đây là công cụ để biểu đạt, là
những từ ngữ, tiếng nói của hội họa có thể làm rung động lòng người. Trên
những bố cục với kết cấu của nhịp điệu, hình ảnh được sắp xếp theo một trật
tự nào đó, những hình thể của con người, tác động của ánh sáng, tất cả được
thể hiện bằng hình và sắc trên bề mặt tranh, bằng ngôn ngữ tạo hình riêng của
mỗi họa sĩ. Đồng thời, việc quan sát của họa sĩ khác với sự quan sát của tác
giả các loại hình nghệ thuật khác như Âm nhạc hay Văn học. Khi nhìn vào
một sự vật hiện tượng nào đó, họa sĩ thường chú trọng vào các yếu tố hình
khối, đường nét, màu sắc, nhịp hướng và mối tương quan qua lại giữa chúng.
Khả năng quan sát của mỗi cá nhân họa sĩ có thể phụ thuộc và phát triền theo
quá trình nhận thức và trải nghiệm cuộc sống của họ.
Tương ứng với mỗi nội dung, đề tài của tác phẩm, người họa sĩ sẽ tìm
phương thức biểu đạt phù hợp. Muốn có nội dung cần có hình thức, giữa nội
dung và hình thức thể hiện cần có sự thống nhất với nhau để người xem có thể
hiểu, tiếp cận rõ được vấn đề trong tác phẩm. Bên cạnh đó, hình thức biểu đạt
tác phẩm còn cho ta thấy được những chứa đựng trong tính cách, trạng thái
61
tâm lý, thậm chí là những yếu tố văn hóa đã thấm sâu bên trong con người của
tác giả. Đồng thời, đây cũng là một thành tố quan trọng để phân biệt và làm
nên cá tính nghệ thuật riêng của từng họa sĩ. Tuy nhiên, vấn đề về ý nghĩa hay
phương thức tạo hình không phải lúc nào cũng được họa sĩ đặt ra, tính toán
trước bằng lý trí cho tác phẩm của mình. Đôi khi nó chỉ là vô tình được họa sĩ
tạo ra, nhưng dù có là vậy thì những gì ta thấy được nơi bức họa cũng chính là
một phần lý trí ẩn sâu trong cảm xúc của người nghệ sĩ khi thể hiện. Những
điều đó đã thấm dần vào tư tưởng, tư duy, quan niệm sáng tác qua quá trình
rèn luyện, đúc kết và cảm nhận về cuộc sống cũng như về ngôn ngữ nghệ
thuật của người họa sĩ. Trong việc sáng tác, từ những cảm xúc ban đầu, người
họa sĩ muốn tạo nên tác phẩm hội họa ngoài việc xác định nội dung muốn
truyền tải còn cần nắm vững những phương thức biểu đạt của ngôn ngữ tạo
hình như màu sắc, hình thể, đường nét, bố cục, v.v…, đồng thời phải kết hợp,
vận dụng vốn sống, vốn kinh nghiệm thực tế để thể hiện tác phẩm. Có như
vậy, tác phẩm mới có thể dễ dàng tiếp cận, đến gần hơn và mang lại những ấn
tượng thị giác cùng xúc cảm thẩm mỹ cho người thưởng tranh.
Với một tác phẩm nghệ thuật nói chung, hình thức và nội dung luôn có
sự liên kết, thống nhất với nhau. Hình thức là phương tiện để phản ánh nội
dung và ngược lại, nội dung luôn cần có hình thức để biểu đạt, thể hiện. Khi
sáng tạo nghệ thuật, cần tìm sự khác nhau, phong phú, đa chiều trong từng tác
phẩm từ nội dung đến hình thức thể hiện, tránh sự đơn điệu, nhàm chán, dễ
dãi hay lặp lại những lối mòn mang tính công thức. Trong quá trình sáng tác
hội họa, người họa sĩ sẽ đưa cảm xúc cá nhân mình lên bề mặt tác phẩm của
mình. Bởi vậy, mỗi cá nhân sẽ có những tư duy, suy nghĩ riêng biệt về nghệ
thuật và tạo ra những phong cách đặc trưng mang dấu ấn của bản thân.
Sự hình thành ngôn ngữ tạo hình trong tác phẩm chính là sự đề cao
tính cá nhân, năng lực cảm nhận và khả năng thể hiện của người họa sĩ. Hội
họa là một công việc đòi hỏi sự sáng tạo, bởi vậy nên việc không ngừng học
62
hỏi để tìm ra những thay đổi trong hình thức thể hiện, phong cách biểu đạt
riêng cho mình nhằm tạo nên sự thỏa mãn thị giác cùng những cảm xúc mới
lạ ở tác phẩm, đồng thời giúp cho hội họa được nhìn nhận và thưởng thức
đúng hướng luôn là điều được các họa sĩ quan tâm, trăn trở.
Nhà nghiên cứu mỹ thuật Chu Quang Trứ đã đưa ra vài suy nghĩ khi
nói về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình và đồng thời, người viết cũng thấy
những điều này rất quan trọng đến vấn đề sáng tác hội họa: “Chúng ta đều là
người Việt Nam, nhưng không phải ai cũng hiểu đầy đủ tâm hồn Việt Nam.
Chính tâm hồn Việt Nam là cái chất của tính dân tộc. Tâm hồn Việt Nam là
nét sâu sắc chi phối lối suy nghĩ và cách diễn đạt của người nghệ sĩ tạo hình
trong tác phẩm của mình. Tâm hồn Việt Nam tuy không phải là cái có thể sờ
thấy, nhưng có thể cảm nhận thấy được, nó hình thành trong sự cố kết của các
tế bào trong đại gia đình Việt Nam từ hồi dựng nước, rồi trải qua suốt 4000
năm giữ nước và phát triển cho đến tận ngày nay… Là tâm hồn Việt Nam, vì
thế ta phải bắt nguồn từ vốn cũ nghệ thuật tạo hình – những thành quả của lớp
nghệ sĩ cha ông thuộc nhiều thế hệ trước. Nắm được vốn cũ rồi ta sẽ đổi mới,
cũng tức là nâng cao kịp với tâm hồn thời đại.” [44; tr.112] và “Ngày nay,
nghệ sĩ tạo hình muốn có tác phẩm mang được tính dân tộc, trước hết luôn
nhớ mình là người Việt Nam, cần nắm vững vốn cũ nhiều thế hệ nghệ sĩ cha
ông để lại. Nắm được vốn cũ rồi, phải nâng lên theo thời đại. Thời đại của
chúng ta, thời đại vĩ đại nhất trong 4000 năm lập nước, thời đại cả dân tộc anh
hùng. Xung quanh ta đâu cũng có những kỳ tích, nhưng những cái điển hình
nhất phải là những mũi nhọn của cuộc sống.” [44; tr.115].
Nghệ thuật tạo hình nói chung trong đó có hội họa luôn luôn chuyển
biến và đổi mới theo sự phát triển không ngừng của xã hội. Tuy nhiên, không
thể vì vậy mà thay đổi tận gốc những giá trị truyền thống trong nền nghệ thuật
nói chung, hội họa nói riêng cùng các ngôn ngữ tạo hình đã thành công mà
nên lựa chọn một hình thức thể hiện phù hợp, trau dồi, tiếp nối, phát triển theo
63
hướng tích cực hơn để làm giàu cho ngôn ngữ nghệ thuật ở thời đại của mình
thêm phong phú. Có thể thấy rõ điều này qua câu chuyện của các học sinh
khóa Tô Ngọc Vân – khóa đầu tiên ngày hòa bình mới lập lại, sau này hầu hết
đã trở thành lớp họa sĩ nòng cốt cho nền Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại. Họ đã
kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo những nét tinh hoa của mỹ thuật truyền
thống cùng hiện thực dân tộc Việt Nam một thời vẻ vang của nền Mỹ thuật
Đông Dương đi trước về phương pháp thể hiện. So với nền Hội họa “hiện
thực nên thơ” thời Pháp thuộc thì hội họa nói riêng, Mỹ thuật Việt Nam nói
chung giai đoạn 1954 – 1985 đã được cải tạo và thay thế bằng một nền hội
họa mang đậm nét chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn giữ được
tinh thần dân tộc được thể hiện ở từng tác phẩm cụ thể.
Việc thúc đẩy sự phát triển của nền nghệ thuật nói chung trong đó có
hội họa là phù hợp với xu thế chung của văn hóa xã hội, giúp hội họa nhanh
chóng thích ứng được với guồng quay của xã hội, trở nên phong phú, đa dạng,
thi vị hơn trong đề tài, thể loại và ngôn ngữ biểu đạt. Đối với lớp thế hệ họa sĩ
đương đại, họ vừa tiếp thu truyền thống dân tộc, vừa tiếp cận những trào lưu,
khuynh hướng nghệ thuật mới của thế giới. Trong số họ, có những người tiếp
thu những xu hướng nghệ thuật hiện đại mới như Lập thể, Trừu tượng, Dã
thú, Siêu thực, v.v… để tìm hướng đi cho phong cách của mình, số khác lại
tìm cảm hứng sáng tác từ chính nguồn cội, quay về với hồn cốt dân gian
truyền thống của dân tộc hay tìm cách để tạo cho mình một phong cách riêng
biệt. Trên nền tảng cơ sở đó, đối với một đề tài, đối tượng cụ thể, người họa sĩ
sẽ lựa chọn phong cách phù hợp để thể hiện tác phẩm sao cho hiệu quả và
đúng ý đồ của mình.
Trong giai đoạn nước ta hiện nay, với nền kinh tế thị trường luôn có
những biến động, tác động tới tư tưởng, tâm lý của con người thì những tác
phẩm hội họa đề tài lao động sản xuất mang tinh thần lạc quan phần nào có
thể giúp họ đón nhận những mặt trái của thực tại, khó khăn bằng suy nghĩ tích
64
cực hơn. Bên cạnh đó, bản thân mỹ thuật Việt lúc này dường như cũng khó
tránh được việc bị thương mại hóa. Thông qua một số triển lãm lớn nhỏ đã
diễn ra trong nhiều năm trở lại đây, ta có thể thấy họa sĩ đôi khi hướng về tính
chủ quan, cái tôi cá nhân, về nội tâm của mình với cái nhìn có phần tiêu cực
mà ít quan tâm, chú ý tới đời sống chung. Hoặc có chăng, khi đề cập tới
những vấn đề trong xã hội hiện đại nói chung thì đôi lúc vẫn thiếu đi cái nhìn
lạc quan, từ đó làm cho tinh thần của công chúng ít nhiều bị ảnh hưởng.
Trong xã hội toàn cầu hóa mà ta đang sống, công nghệ phát triển giúp cho con
người có thể tiếp cận một cách dễ dàng những giá trị văn hóa của nhân loại.
Cùng với đó, sự tương tác giữa các nền văn hóa càng ngày càng được mở
rộng và những khuynh hướng nghệ thuật mới được ra đời. Điều này tưởng
như có lợi nhưng đồng thời cũng đặt người vẽ vào thách thức mới về vấn đề
bản sắc cá nhân. Người nghệ sĩ lúc này cũng cần có những thay đổi thích hợp
để theo kịp thời đại, xu thế phát triển của văn hóa xã hội. Tuy nhiên, việc bắt
chước cái tôi của người khác hay a dua theo một trào lưu nào đó một cách
nhất thời khi không có một kiến thức nền vững chắc, hiểu và nắm được tính
chất của vấn đề sẽ làm cho người họa sĩ không tìm được cái tôi cá nhân của
mình trong dòng chảy đó. Chính vì vây, để phát huy được giá trị tích cực
trong từng tác phẩm hội họa, thế hệ họa sĩ trẻ kế cận cần rèn luyện khả năng
quan sát, bồi đắp thế giới nội tâm, không ngừng sáng tạo kĩ năng biểu đạt,
lĩnh hội, kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống vốn có, đồng thời
tiếp thu có chọn lọc những khuynh hướng nghệ thuật mới của thế giới cùng
tinh hoa nhân loại, phản ảnh thực tại một cách lạc quan để từ đó có thể tạo
được dấu ấn, phong cách riêng độc đáo cho sự nghiệp sáng tác của mình.
Đồng thời, việc xây dựng nền tảng lý thuyết về vấn đề phát huy những giá trị
dân gian truyền thống, gìn giữ tính dân tộc trong đề tài, ngôn ngữ biểu đạt,
v.v… cũng là điều hết sức quan trọng trong thời đại và xu thế hiện nay bởi nó
giúp khai mở, tạo định hướng vững chắc, dẫn lối chỉ đường cho việc phát huy
65
tinh thần lạc quan trong các sáng tác hội họa ở các thế hệ tiếp nối. Có như
vậy, hội họa mới luôn phát triển theo hướng đi lên, vươn xa đến tầm cao mới
mà không làm mất đi những giá trị truyền thống hàng ngàn năm đã được dựng
xây, gìn giữ và bảo trọng của dân tộc Việt Nam, góp phần làm cho đời sống
tinh thần con người thêm lạc quan, yêu đời.
Tiểu kết
Chương 3 của đề tài nghiên cứu đưa ra những thành công đạt được và
hạn chế không tránh khỏi của những tác phẩm hội họa Việt Nam mang tinh
thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 ở những
phương diện về nội dung, tư tưởng, đối tượng phản ánh, ngôn ngữ tạo hình,
v.v… Các tác phẩm ngoài việc chứa đựng những thông điệp của thời đại,
phản ánh hiện thực của đất nước, người họa sĩ đã truyền đến người xem niềm
lạc quan, tin tưởng vào tương tai của đất nước. Hội họa về đề tài lao động sản
xuất giai đoạn này đã tạo điểm nhấn, góp phần đánh dấu cho chặng đường
phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Đây cũng là giai đoạn làm
tiền đề cho nền Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ Đổi mới hình thành, phát triển.
Bên cạnh đó, bài học trong sáng tác hội họa cũng là vấn đề được rút ra từ việc
nghiên cứu đề tài. Đối với thế hệ họa sĩ trẻ hiện nay, việc nghiên cứu, chủ
động học hỏi, lĩnh hội, tiếp thu những giá trị quý báu về cách đặt vấn đề cũng
như thể hiện tác phẩm của các bậc thầy đi trước là một điều hết sức cần thiết
và bổ ích để có thể áp dụng vào việc sáng tác mỹ thuật của mỗi cá nhân. Đồng
thời, người họa sĩ luôn phải vận dụng vốn sống, kinh nghiệm thực tế của mình
để thể hiện tác phẩm, có vậy thì người xem mới có thể tiếp cận tác phẩm một
cách dễ dàng hơn.
66
KẾT LUẬN
Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công cùng những Đường lối
Văn hóa – Văn nghệ của Đảng đề ra đã làm thay đổi nhận thức của người
nghệ sĩ với chủ trương “Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, văn nghệ sĩ là
chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Hòa chung vào không khí của đất nước, hội họa
Việt Nam nói riêng cũng có sự chuyển mình từ chủ nghĩa cá nhân, cái tôi tự
do sang chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa với đề tài chính là chiến tranh
cách mạng và lao động sản xuất thông qua những tác phẩm được thể hiện
bằng ngọn bút tả thực nhưng đều mang tinh thần lạc quan của người nghệ sĩ.
Qua phần tìm hiểu sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong hội họa
Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 về đề tài lao động sản xuất, chúng ta có thể
thấy hầu hết các tác phẩm đều thể hiện niềm vui, yêu đời, lạc quan, hăng say
lao động với chủ trương “Lao động là vinh quang. Thi đua là yêu nước”. Tuy
đây là giai đoạn đất nước đang ở trong thời kỳ hậu chiến còn rất khó khăn, vật
chất còn thiếu thốn nhưng ta không hề bắt gặp những điều này trong tranh.
Thông qua những đặc điểm của ngôn ngữ tạo hình, người họa sĩ sử dụng bút
pháp tả thực, dễ hiểu, cùng bố cục nhịp điệu mạch lạc mà năng động, hình thể
nhân vật chắc khỏe, màu sắc tươi sáng, v.v.. để từ đó, tinh thần lạc quan được
biểu hiện rõ nét trong những tác phẩm hội họa về đề tài lao động sản xuất.
Dường như tinh thần lạc quan luôn tiềm tàng trong mọi lĩnh vực của
đời sống của con người, nó lan tỏa từ cá nhân tới cộng đồng và ngược lại,
giúp cho tư tưởng của con người được tích cực hơn khi trong hoàn cảnh khó
khăn. Thời hậu chiến, đất nước với nền kinh tế lạc hậu, khó khăn, cuộc sống
nghèo đói nhưng dường như con người Việt Nam vốn quen chịu đựng, luôn
tiềm tàng niềm lạc quan yêu đời nên đối với họ, niềm vui hòa bình mới là
điều quan trọng, tin tưởng vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước và sự
lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng, quan niệm xuất phát từ trong sâu thẳm tâm hồn
67
con người Việt Nam từ xưa vốn lạc quan, yêu cuộc sống, hướng về những
điều tốt đẹp và có lẽ bởi vậy mà các sáng tác của nền nghệ thuật nước ta nói
chung, trong đó có hội họa luôn hướng công chúng tới tương lai với những
điều tích cực cho dù hiện thực có khó khăn đi chăng nữa.
Bên cạnh những thành công của việc thể hiện tinh thần lạc quan trong
những tác phẩm hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954
– 1985 thì vẫn tồn tại một số sự hạn chế nhất định ở hình thức và nội dung.
Mặc dù vậy, đây cũng là giai đoạn mang lại đặc điểm riêng cho hội họa Việt
Nam về đề tài lao động sản xuất và có nhiều đóng góp cho nền Mỹ thuật Việt
Nam Hiện đại, là tiền đề quan trọng để hội họa thời kỳ Đổi mới nói riêng phát
triển theo hướng tích cực hơn.
Hội họa quả thực là một lĩnh vực nghệ thuật vô cùng rộng lớn và kèm
với đó, sự sáng tạo là điều không có giới hạn. Trải qua tiến trình phát triển
của nền hội họa nói riêng và Mỹ thuật nói chung, có rất nhiều họa sĩ đã tới và
đã đi. Nhưng điều mà họ để lại cho chúng ta là kho tàng quý báu, vô giá với
những tác phẩm hội họa không chỉ mang dấu ấn cá nhân của người họa sĩ mà
ở đó, ta còn có thể cảm nhận được hơi thở của cả một thời đại họ từng sống.
Thời đại ngày nay – thời đại của kỷ nguyên số, người họa sĩ có thể tiếp cận
nhanh chóng những khuynh hướng, xu thế mới được ra đời trên thế giới của
lĩnh vực nghệ thuật tạo hình nói riêng. Việc hòa nhập đó luôn là con dao hai
lưỡi, bên cạnh mặt tích cực thì sẽ tồn tại những hạn chế, thách thức để làm sao
hòa nhập nhưng không hòa tan. Bởi vậy, việc gìn giữ, bảo trọng, tiếp nối và
phát triển những giá trị nghệ thuật truyền thống theo hướng tích cực là điều
cần thiết đối với các thế hệ họa sĩ trẻ kế cận, giúp cho nền Mỹ thuật Việt Nam
có thể vươn xa đến một tầm cao mới mà không làm mất đi Bản sắc Văn hóa
Dân tộc.
68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên) (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại,
Viện Mỹ thuật – Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
2. Bernard Duc, Nghệ thuật bố cục và khuôn hình, Nxb Fleurus. (Tài liệu do
Đức Hòa dịch)
3. Trần Văn Cẩn (1975), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà
Nội.
4. Phạm Thị Chỉnh (2007), Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Đại học Sư
phạm.
5. Lê Văn Dương – Lê Đình Lục – Lê Hồng Vân (2009), Mỹ học đại cương,
Nxb Giáo dục.
6. Lê Xuân Đức (2004), đề tài Hội họa với đề tài công nghiệp, trường Đại học
Mỹ Thuật Việt Nam.
7. Trương Hạnh (1996), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại, Nxb Mỹ thuật.
8. Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội.
9. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
10. Kandinsky (2014), Về cái tinh thần trong nghệ thuật, Phạm Long – Quang
Việt dịch, Nxb Mỹ thuật.
11. L.X.Vưgôtxi (1981), Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, Nxb Khoa
học xã hội.
12. Nguyễn Trường Linh (2006), đề tài Ngôn ngữ của mặt phẳng hội họa,
trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
13. Nguyễn Kim Loan (2007), Họa sĩ Việt Nam – Chân dung và sáng tạo,
Nxb Mỹ Thuật.
69
14. Nguyễn Hoàng Long (2016), đề tài Những sáng tác hội họa Việt Nam về
đề tài công nghiệp giai đoạn 1976 – 1995, trường Đại học Mỹ thuật Việt
Nam.
15. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển mỹ thuật, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà
Nội.
16. Đàm Luyện (2007), Giáo trình bố cục, Nxb Đại học Sư phạm.
17. Hội Mỹ thuật Việt Nam (2009), Những vấn đề Mỹ thuật Việt nam hiện đại
– Kỷ yếu hội thảo, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
18. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ
thông, Nxb Giáo dục.
19. Hữu Ngọc (2004), Hội họa Việt Nam hiện đại thuở ban đầu, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
20. Nguyễn Chí Nguyên (2012), đề tài Hình tượng người nông dân trong hội
họa Việt Nam thế kỷ 20, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
21. Nguyễn Thị Thúy Nguyệt (2015), đề tài Hình tượng người nông dân trong
hội họa hiện đại Việt Nam giai đoạn 1955 – 1965, trường Đại học Mỹ thuật
Việt Nam.
22. Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ 1975 – 2005 (2005), Nxb Mỹ thuật.
23. Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ Đổi mới (2008), Nxb Mỹ thuật.
24. Mỹ thuật hiện đại – 1000 năm văn hiến Thăng Long – Hà Nội (2009),
Nxb Mỹ thuật.
25. Hoàng Phê – chủ biên (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
26. Hoàng Phê – chủ biên (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung
tâm Từ điển học.
27. Hoàng Phê – chủ biên (2012), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách
khoa.
28. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiều tính cách dân tộc, Nxb Khoa học.
70
29. Quang Phòng, (1995), Phác họa một số họa sĩ trường Cao đằng Mỹ thuật
Đông Dương, tạp chí mỹ thuật, số 10, năm 1995.
30. Quang Phòng – Trần Tuy (1996), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
31. Nguyễn Quân (1982), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
32. Nguyễn Quân (1986), Tiếng nói của hình và sắc, Nxb Văn hóa.
33. Nguyễn Quân (2005), Con mắt nhìn cái đẹp, Nxb Mỹ Thuật, Hà Nội.
34. Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Tri thức, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Tám (2012), đề tài Các dạng thức bố cục cơ bản trong tranh,
trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
36. Văn Tân (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
37. Trần Đình Thọ (1973), Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Thuật (2012), đề tài Những thay đổi về cách biểu hiện không
gian trong hội họa, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
39. Phan Cẩm Thượng (2005), Nghệ thuật ngày thường, Nxb Phụ nữ.
40. Chu Quang Tiềm (1991), Tâm lý học văn nghệ, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
41. Đồng Xuân Toàn (2004), đề tài Hình tượng người nông dân trong hội họa
Việt Nam hiện đại, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
42. Nguyễn Trân (1993), Lịch sử mỹ thuật thế giới, Nxb Mỹ thuật.
43. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật,
Hà Nội.
44. PGS. TS Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ thuật,
Nxb Mỹ thuật.
71
45. Phạm Ngọc Tuấn (2009), đề tài Yếu tố đường nét – nhịp điệu – hình thể -
khoảng trống – không gian trong hội họa, trường Đại học Mỹ thuật Việt
Nam.
46. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ Mátxcơva – Nxb Sự Thật.
47. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (1997), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
48. Đức Uy (1999), Tâm lý học sáng tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Thái Bá Vân (1998), Thái Bá Vân tiếp xúc với nghệ thuật, Viện mỹ thuật
Việt Nam, Hà Nội.
50. Viện Nghệ thuật – Bộ Văn hóa (1973), Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo
hình, Nxb Văn hóa.
51. Viện Mỹ thuật, Đại học Mỹ thuật Việt Nam (2000), Mỹ thuật Việt Nam
thế kỷ 20 – Kỷ yếu hội thảo, Nxb Mỹ thuật.
72
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
LƯƠNG THÙY TRANG
TINH THẦN LẠC QUAN TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM
VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN 1954 – 1985
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60210102
Khóa: 18 (2015 – 2017)
PHẦN PHỤ LỤC
Giảng viên hướng dẫn khoa học
PGS. TS. Bùi Thị Thanh Mai
Hà Nội – 2017
73
MỤC LỤC
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Những tác phẩm hội họa Việt Nam thể hiện tinh thần lạc quan về
đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 ................................................ 74
Phụ lục 2: Những tác phẩm hội họa Việt Nam thể hiện tinh thần lạc quan về
đề tài lao động sản xuất giai đoạn sau Đổi mới .............................................. 104
74
PHỤ LỤC 1
NHỮNG TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM THỂ HIỆN TINH THẦN LẠC
QUAN VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN 1954 – 1985
Hình 1.1: Dương Bích Liên, Mùa lúa chín (1954), sơn dầu 69x93,5 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
75
Hình 1.2: Phan Kế An, Gặt lúa ở Việt Bắc (1955), Sơn mài 49,8x64,8 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
76
Hình 1.3: Ngô Minh Cầu, Về nông thôn sản xuất (1957), Lụa 45,5x59,5 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
77
Hình 1.4: Nguyễn Đức Nùng, Dệt cửi quay tơ (1957), Lụa 55,6x70 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
78
Hình 1.5: Nguyễn Đức Nùng, Bình minh trên nông trang (1958)
Sơn mài 62x91 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
79
Hình 1.6: Hoàng Tích Chù, Tổ đổi công miền núi (1958)
Sơn mài 76,4x100cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
80
Hình 1.7: Trần Văn Cẩn, Tát nước đồng chiêm (1958), Sơn mài
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
81
Hình 1.8: Nguyễn Tiến Chung, Được mùa (1958), Lụa
Nguồn ảnh [22]
82
Hình 1.9: Lê Quốc Lộc, Giữ lấy hòa bình (1960), Sơn mài 70x120 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
83
Hình 1.10: Nguyễn Đỗ Cung, Bác Hồ thăm nhà máy xe lửa Gia Lâm (1960),
Sơn dầu 50x60 cm. Nguồn ảnh [31]
84
Hình 1.11: Lưu Công Nhân, Một buổi cày (1960), Sơn dầu 81x100 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
85
Hình 1.12: Nguyễn Kim Đồng, Kéo lưới (1960), Sơn mài 73,5x100cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
86
Hình 1.13: Vũ Giáng Hương, Hợp tác xã đánh cá về (1961)
Lụa 60,2x81,7cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
87
Hình 1.14: Hoàng Tích Chù, Gánh lúa về (1961), Sơn mài 100x150 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
88
Hình 1.15: Nguyễn Đỗ Cung, Công nhân cơ khí (1962), Sơn dầu 67x92 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
89
Hình 1.16: Nguyễn Kim Đồng, Được mùa (1962), Sơn mài 75x120 cm
Nguồn ảnh [7]
90
Hình 1.17: Nguyễn Sỹ Ngọc, Đổi ca (1962), Sơn mài 74,7x100 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
91
Hình 1.18: Nguyễn Tiến Chung, Đập lúa đêm (1964), Sơn mài
Nguồn ảnh [21]
92
Hình 1.19: Nguyễn Kao Thương, Xây dựng khu gang thép Thái Nguyên
(1964), Sơn mài 130x230 cm. Nguồn ảnh [sưu tầm]
93
Hình 1.20: Nguyễn Sỹ Ngọc, Một ngày mới lại bắt đầu (1965)
Sơn mài 94,5x114 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
94
Hình 1.21: Nguyễn Sáng, Chùa Tháp Phổ Minh (1966)
Sơn mài 100x150 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
95
Hình 1.22: Phạm Công Thành, Trai gái làm thủy lợi (1967), Lụa 65x90 cm
Nguồn ảnh [7]
96
Hình 1.23: Nguyễn Tiến Chung, Mỏ Đèo Nai (1969), Sơn mài 94,2x128 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
97
Hình 1.24: Nguyễn Tiến Chung, Đập lúa (1972), Sơn mài 50,2x201,4 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
98
Hình 1.25: Nguyễn Cương, Xưởng đóng tàu Bạch Đằng (1974), Sơn mài
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
99
Hình 1.26: Trần Liên Hằng, Xóm chài Quất Lâm (1974)
Sơn mài 75x143 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
100
Hình 1.27: Nguyễn Đỗ Cung, Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi (1976)
Sơn dầu. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
101
Hình 1.28: Lò An Quang, Xây trụ cầu Thăng Long (1977)
Sơn mài 90x120 cm. Nguồn ảnh [24]
102
Hình 1.29: Nguyễn Thế Vinh, Giã gạo (1980), Sơn mài 60x90 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
103
Hình 1.30: Nguyễn Kim Thái, Cầu sắt sông Hồng (1980),
Sơn dầu 100x120 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
104
PHỤ LỤC 2
NHỮNG TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM THỂ HIỆN TINH THẦN LẠC
QUAN VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN SAU NĂM 1985
Hình 2.1: Phùng Phẩm, Chống hạn (1990), Sơn mài 120x140 cm
Nguồn ảnh [Bt. MTVN]
Hình 2.2: Trần Đình Thọ, Tát nước đêm trăng (1996), Sơn mài 74x92 cm
Nguồn ảnh [22]
105
Hình 2.3: Phạm Đức Phong, Bình minh trên cây cầu tương lai (2002)
Sơn dầu 100x120 cm. Nguồn ảnh [22]
Hình 2.4: Nguyễn Ngọc Long, Nhịp sống mới (2004), Sơn dầu 150x190 cm
Nguồn ảnh [22]