BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

LƯƠNG THÙY TRANG

TINH THẦN LẠC QUAN TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM

VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN 1954 – 1985

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Hà Nội – 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

LƯƠNG THÙY TRANG

TINH THẦN LẠC QUAN TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM

VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN 1954 – 1985

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)

Mã số: 60210102

Khóa: 18 (2015 – 2017)

Giảng viên hướng dẫn khoa học

PGS. TS. Bùi Thị Thanh Mai

Hà Nội – 2017

1

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Bt. MTVN Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

Nxb Nhà xuất bản

PGS Phó giáo sư

Tr Trang

TS Tiến sĩ

2

MỤC LỤC

Trang phụ bìa ......................................................................................................

Bảng chữ cái viết tắt ........................................................................................ 01

Mục lục ............................................................................................................ 02

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 03

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................ 12

1.1. Khái niệm “Tinh thần lạc quan trong hội họa” ........................................ 12

1.2. Khái niệm “Đề tài lao động sản xuất”...................................................... 17

1.3. Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 ........................... 21

Tiểu kết ............................................................................................................ 27

Chương 2: SỰ BIỂU HIỆN CỦA TINH THẦN LẠC QUAN TRONG HỘI

HỌA VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN

1954 – 1985 ..................................................................................................... 28

2.1. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua bố cục .............................................. 28

2.2. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua hình thể ........................................... 36

2.3. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua màu sắc ........................................... 45

Tiểu kết ............................................................................................................ 48

Chương 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ..... 50

3.1. Thành công và hạn chế của những tác phẩm hội họa Việt Nam mang tinh

thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 ................... 50

3.2. Bài học rút ra trong vấn đề sáng tác hội họa ............................................ 58

Tiểu kết ............................................................................................................ 65

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 68

PHỤ LỤC ........................................................................................................ 72

3

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

“Tác phẩm nghệ thuật nào cũng là con đẻ của thời đại ấy” [10; tr.25].

Kandinsky đã đưa ra nhận định như vậy khi luận bàn về tinh thần trong nghệ

thuật. Mỗi giai đoạn trong quá trình phát triển của Mỹ thuật Việt Nam nói

chung và hội họa Việt Nam Hiện đại nói riêng luôn gắn liền với bối cảnh thời

đại của toàn dân tộc, cùng những biến cố, sự kiện lịch sử của đất nước. Hiện

thực của cuộc kháng chiến những năm 1945 – 1954 đã tác động mạnh mẽ đến

cách nhìn, cách nghĩ trong quan niệm sáng tác nghệ thuật của người họa sĩ.

Cũng từ đây, một nền Nghệ thuật mới – nền Nghệ thuật Cách mạng Việt Nam

đã được hình thành, gần gũi với nhân dân, gắn bó với vận mệnh của dân tộc

và đất nước. Tiếp đó, giai đoạn 1954 – 1985 có thể coi là giai đoạn chuyển

mình của nền hội họa Việt Nam Hiện đại sang một diện mạo mới cùng với

những thay đổi của bối cảnh đất nước. Ở thời kỳ này, hội họa chứa đựng rất

nhiều thông điệp có tính thời đại, khẳng định sự thành công của phương pháp

sáng tác Hiện thực xã hội chủ nghĩa với những đề tài phản ánh chân thực nét

đẹp ngày thường của cuộc sống đất nước.

Chúng ta có thể thấy điểm chung của hội họa Việt Nam trong giai đoạn

1945 – 1985 là các tác phẩm được thể hiện bằng ngọn bút hiện thực nhưng

trên hết đều mang một tinh thần lạc quan trước thực tế gian khổ của cuộc

kháng chiến hay những khó khăn, thiếu thốn của cuộc sống thời hậu chiến.

Năm 1954 kết thúc chín năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của

nhân dân ta, đất nước bắt đầu bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

miền Bắc, đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam và dấu mốc 1975, khi miền Nam

được giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất. Lịch sử đất nước bước sang

một trang mới góp phần làm nền tảng, cầu nối thúc đẩy cho sự ra đời và phát

triển của nền Nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Trong thời kỳ này, ngoài những

4

tác phẩm hội họa về đề tài chiến tranh cách mạng đã và đang được phần đông

các họa sĩ khai thác rất thành công ở giai đoạn 1945 – 1954 thì đề tài lao động

sản xuất cũng được thể hiện hết sức sinh động, phong phú.

Các tác phẩm hội họa đề tài lao động sản xuất chủ yếu được sáng tác

trong giai đoạn 1954 – 1985 đã phản ánh cái đẹp trong lao động sản xuất với

nhân vật trong tranh là những người nông dân, công nhân mới đang hồ hởi,

hăng say lao động, yêu đời, hướng tới tương lai, tin tưởng vào công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng, Nhà nước lãnh đạo. Những tác phẩm hội họa

về đề tài này thường được thể hiện bằng các chất liệu Sơn dầu, Sơn mài, Lụa

cùng với việc sử dụng các phương tiện của ngôn ngữ tạo hình như bố cục,

hình thể nhân vật, màu sắc và không gian, v.v… Tất cả mang đặc điểm của

Hội họa Hiện thực xã hội chủ nghĩa, để lại dấu ấn riêng cho hội họa Việt Nam

về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 đồng thời cũng trở thành

một đề tài mũi nhọn, góp một vị trí quan trọng trong nền Mỹ thuật Việt Nam

hiện đại.

Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại, vẫn chưa có những đề tài, công

trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu nào về tinh thần lạc quan trong hội

họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985. Bên cạnh

đó, tôi cũng mong muốn có thể hệ thống lại, phân tích và làm rõ sự biểu hiện

cùng những thành công, hạn chế của các tác phẩm mang tinh thần lạc quan

trong hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985, đồng thời rút ra bài học trong

vấn đề sáng tác hội họa từ việc nghiên cứu đề tài. Và đó là lí do tôi thực hiện

Luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam

về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

“Tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản

xuất giai đoạn 1954 – 1985” là một đề tài có tính chất chuyên sâu, tìm hiểu

5

và làm rõ sự biểu hiện của tinh thần lạc quan thông qua những phương tiện

của nghệ thuật tạo hình được sử dụng ở từng tác phẩm hội họa cụ thể về đề tài

lao động sản xuất trong giai đoạn 1954 – 1985. Để nghiên cứu đề tài này,

ngoài việc tìm hiểu những tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan tới mỹ

thuật nói chung, hội họa nói riêng thì những tài liệu về mỹ học, văn hóa học,

tâm lí học cũng rất hữu ích cho việc nghiên cứu đề tài.

Cuốn Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại (Nxb Văn hóa) của tác giả

Nguyễn Quân xuất bản năm 1982 [31] đã đề cập tới sự ra đời, phát triển của

Nghệ thuật tạo hình Cách mạng Việt Nam, cùng với đó là sự mở rộng về đề

tài, thành công về hình tượng nói chung và hình tượng người lao động nói

riêng, trong đó người lao động là hình tượng điển hình của đề tài lao động sản

xuất. Bên cạnh đó, tác giả cũng nói tới xuất phát điểm của đề tài lao động sản

xuất trong nghệ thuật tạo hình. Ngoài ra, một số tác phẩm hội họa tiêu biểu về

đề tài lao động sản xuất cũng được tác giả đề cập, phân tích trong cuốn sách

như: Tổ đổi công miền núi – Sơn mài của Họa sĩ Hoàng Tích Chù, Tát nước

đồng chiêm – Sơn mài của Họa sĩ Trần Văn Cẩn, Bình minh trên nông trang –

Sơn mài của Họa sĩ Nguyễn Đức Nùng, Công nhân cơ khí và Tan ca mời chị

em ra họp thi thợ giỏi – Sơn dầu của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, v.v… Đó là

những phân tích dựa trên cảm nhận riêng của tác giả nhưng đã giúp cho người

viết có thể tiếp cận nhanh hơn với từng tác phẩm cụ thể, đồng thời hiểu thêm

những sáng tác hội họa về đề tài lao động sản xuất.

Cuốn Các thể loại và loại hình mỹ thuật (Nxb Mỹ thuật) của PGS.

Nguyễn Trân xuất bản năm 2005 [43] đã cung cấp những hiểu biết cần thiết

về các thể loại, loại hình, chất liệu và kỹ thuật trong hội họa nói riêng cũng

như mỹ thuật nói chung giúp người viết có thể hình dung, tiếp cận các tác

phẩm mỹ thuật được dễ dàng hơn.

6

Cuốn Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại do PGS. Họa sĩ Nguyễn Lương Tiểu

Bạch chủ biên cùng các tác giả: Bùi Như Hương, Phạm Trung, Nguyễn Văn

Chiến là cuốn sách được Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật

xuất bản năm 2005 [1] đã tập hợp những tư liệu có được từ trước tới nay về

Mỹ thuật Hiện đại Việt Nam. Cuốn sách đã mang lại cho người viết cái nhìn

tổng quát, cơ sở dữ liệu về bối cảnh lịch sử, hoạt động mỹ thuật, đặc điểm mỹ

thuật ở Việt Nam theo từng giai đoạn tương ứng với những biến động của đất

nước từ những năm cuối của thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cho tới trước thời kỳ Đổi

mới với dấu mốc là năm 1986.

Cuốn Những vấn đề Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại – Kỷ yếu Hội thảo do

Ban Thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam xuất bản năm 2009 [17] đã tập hợp

những tham luận, bài viết tiêu biểu của các họa sĩ, nhà phê bình mỹ thuật. Ở

phần thứ nhất: Tổng quan Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, một số bài viết được

người viết tham khảo như: Mỹ thuật Việt Nam Thế kỷ 20 (Họa sĩ Vũ Trung

Lương); Một số nét phác thảo về Mỹ thuật Thế kỷ 20 (Họa sĩ Quách Phong);

Sự phát triển của hội họa Việt Nam Thế kỷ 20 (Nhà phê bình mỹ thuật

Nguyễn Thanh Mai); Phân kỳ lịch sử Mỹ thuật Hiện đại Việt Nam và một số

vấn đề cần trao đổi (Nhà phê bình mỹ thuật Lê Quốc Bảo); Những thành tựu

và thực trạng của Mỹ thuật Việt Nam Thế kỷ 20; v.v…

Cuốn Mỹ thuật Việt Nam Thế kỷ 20 (Nxb Tri Thức) của tác giả Nguyễn

Quân được xuất bản năm 2010. [34] Công trình đã đưa ra một cái nhìn tổng

quát về nền Mỹ thuật Việt thông quá bốn giai đoạn phát triển. Trong các giai

đoạn được tác giả đề cập, có thể thấy ở giai đoạn 1945 – 1985, mỹ thuật mang

một đời sống mới với chủ nghĩa yêu nước và khuynh hướng tả thực, những

thành công trong sự mở rộng đề tài về chiến tranh cách mạng và lao động sản

xuất cùng hình tượng tiêu biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ và Bác Hồ.

Tuy nhiên, đây vẫn là một công trình nghiên cứu có tính chất tổng quan, khái

quát những khuynh hướng thẩm mỹ, đặc điểm nghệ thuật qua các giai đoạn

7

của Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, phần nghiên cứu về tinh thần lạc quan

trong sáng tác hội họa hay đề tài lao động sản xuất vẫn chưa được đề cập đến

một cách chuyên sâu, cụ thể. Mặc dù vậy, cuốn sách cũng đã giúp người viết

có thêm những cơ sở lí luận để làm sáng rõ hơn những luận điểm, luận cứ

trong luận văn của mình.

Để nghiên cứu về tinh thần lạc quan trong tác phẩm hội họa nói riêng

hay rộng hơn là tinh thần, tâm lý ở những sáng tác mỹ thuật cho đến nay vẫn

chưa có công trình nào mang tính chuyên biệt, chủ yếu vẫn là chỉ ra những tác

động của xã hội, bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng, quan niệm sáng tác của

nghệ sĩ một cách khái quát. Bởi vậy, để hiểu rõ hơn vấn đề, người viết sử

dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành thông qua những tài liệu về mỹ học,

tâm lý học, văn hóa học như: Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiều tính cách

dân tộc, Nxb Khoa học [28]; Viện Nghệ thuật – Bộ Văn hóa (1973), Về tính

dân tộc của nghệ thuật tạo hình, Nxb Văn hóa [50]; L.X.Vưgôtxi (1981), Tâm

lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, Nxb Khoa học xã hội [11]; Chu Quang

Tiềm (1991), Tâm lý học văn nghệ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh [40];

Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (1997), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục,

Hà Nội [47]; Đức Uy (1999), Tâm lý học sáng tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội

[48]; Lê Văn Dương – Lê Đình Lục – Lê Hồng Vân (2009), Mỹ học đại

cương, Nxb Giáo dục [5]; Kandinsky (2014), Về cái tinh thần trong nghệ

thuật, Phạm Long – Quang Việt dịch, Nxb Mỹ thuật [10]; v.v… Những tài

liệu kể trên đã mang lại sự khái quát chung về tâm lý học trong văn hóa, nghệ

thuật và là những tài liệu bổ ích để người viết có thể tham khảo, góp phần làm

rõ hơn về tinh thần lạc quan qua các sáng tác mỹ thuật và từ đó có thể hiểu

được khái niệm tinh thần lạc quan trong hội họa về đề tài lao động sản xuất.

Bên cạnh đó, một số tài liệu nghiên cứu liên quan tới ngôn ngữ tạo hình

cũng đã được người viết tham khảo như: Nguyễn Quân (1986), Tiếng nói của

hình và sắc, Nxb Văn hóa [32]; Bernard Duc, Nghệ thuật bố cục và khuôn

8

hình, Nxb Fleurus (tài liệu do Đức Hòa dịch) [2]; Đàm Luyện (2007), Giáo

trình bố cục, Nxb Đại học Sư phạm [16]; Luận văn đề tài Ngôn ngữ của mặt

phẳng hội họa của Học viên Nguyễn Trường Linh (2006) [12]; Luận văn đề

tài Yếu tố đường nét – nhịp điệu – hình thể - khoảng trống – không gian trong

hội họa của Học viên Phạm Ngọc Tuấn (2009) [45]; Luận văn đề tài Những

thay đổi về cách biểu hiện không gian trong hội họa Việt Nam của Học viên

Nguyễn Văn Thuật (2012) [38]; Luận văn đề tài Các dạng thức bố cục cơ bản

trong tranh của Học viên Nguyễn Xuân Tám (2012) [35]. Những tài liệu trên

đã giúp người viết nắm được những kiến thức khái quát về đặc điểm của ngôn

ngữ tạo hình trong hội họa, từ đó hình thành những luận điểm chính cho việc

làm rõ sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong những tác phẩm hội họa về đề

tài lao động sản xuất nói riêng.

Ngoài ra, một số Luận văn Cao học, Khóa luận Đại học khác của Học

viên, Sinh viên thuộc Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam thực hiện có liên

quan tới đề tài lao động sản xuất cũng đã được người viết tham khảo như: Đề

tài Hội họa với đề tài công nghiệp của Học viên Lê Xuân Đức (2004) [6]; Đề

tài Hình tượng người nông dân trong hội họa Việt Nam hiện đại của Sinh viên

Đồng Xuân Toàn (2004) [41]; Đề tài Hình tượng người nông dân trong hội

họa Việt Nam thế kỷ 20 của Học viên Nguyễn Chí Nguyên (2012) [20]; Đề tài

Hình tượng người nông dân trong hội họa hiện đại Việt Nam giai đoạn 1955

– 1965 của Sinh viên Nguyễn Thị Thúy Nguyệt (2015) [21]; Đề tài Những

sáng tác hội họa Việt Nam về đề tài công nghiệp giai đoạn 1976 – 1995 của

Học viên Nguyễn Hoàng Long (2016) [14]. Những đề tài nêu trên cũng chỉ là

những nghiên cứu riêng lẻ về từng vấn đề như hình tượng người nông dân, đề

tài nông nghiệp hoặc công nghiệp – những phạm trù nằm trong đề tài lao

động sản xuất. Từ việc tham khảo các đề tài nghiên cứu của Sinh viên, Học

viên đã thực hiện, người viết có thể tiếp thu và chọn lọc nhất định, giúp cho

nội dung của bài luận văn được sáng rõ hơn.

9

Như vậy, đề tài “Tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam về đề tài

lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985” có thể xem là một cách tiếp cận

mang tính chuyên sâu để tổng hợp và kế thừa những nghiên cứu đi trước

nhằm làm rõ sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong hội họa về đề tài lao

động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985, những thành công và cả những hạn chế

của các tác phẩm được đề cập, từ đó rút ra bài học trong vấn đề sáng tác hội

họa.

3. Mục đích của luận văn

Nghiên cứu sự biểu hiện của inh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam

về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985.

Từ việc nghiên cứu đề tài, luận văn cũng chỉ ra những thành công, hạn

chế của các tác phẩm hội họa mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản

xuất giai đoạn 1954 – 1985 của nền Mỹ thuật Việt Nam, đồng thời rút ra bài

học trong vấn đề sáng tác hội họa.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tinh thần lạc quan trong hội họa

Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những tác phẩm hội họa Việt Nam

về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985. Tuy nhiên trong quá trình

tổng hợp, thống kê, chủ yếu các tác phẩm hội họa sáng tác về đề tài này được

các họa sĩ miền Bắc thể hiện và mang dấu ấn đậm nét của khuynh hướng Hiện

thực xã hội chủ nghĩa, chú trọng những đề tài gắn liền với đời sống con người

trong đó có lao động sản xuất. Ngoài ra, luận văn cũng điểm qua một số tác

phẩm hội họa cùng đề tài được sáng tác vào giai đoạn sau Đổi mới.

10

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu văn bản học: nghiên cứu, thu thập và tổng

hợp tài liệu của các học giả đi trước.

- Phương pháp liên ngành: nghệ thuật học, mỹ học, tâm lý học.

- Phương pháp quy nạp: từ những thông tin thu thập được, phân tích và

hệ thống lại để tìm ra những đặc điểm ngôn ngữ tạo hình thông qua các tác

phẩm hội họa mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai

đoạn 1954 – 1985.

- Phương pháp lịch sử: tìm hiểu bối cảnh lịch sử xã hội nói chung và hội

họa Việt Nam nói riêng, từ đó hiểu được sự ảnh hưởng, tác động tới quan

niệm sáng tác của các họa sĩ giai đoạn 1954 – 1985.

- Phương pháp phân tích: phân tích tác phẩm để thấy được sự biểu hiện

của tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất

giai đoạn 1954 – 1985.

6. Những đóng góp khoa học của luận văn:

- Bước đầu thống kê, phân loại các tác phẩm hội họa Việt Nam về đề tài

lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 mang tinh thần lạc quan.

- Làm rõ được sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong sáng tác của mỗi

họa sĩ được thể hiện qua bố cục, hình thể, màu sắc, v.v… đối với từng tác

phẩm cụ thể.

- Chỉ ra những thành công, hạn chế của những tác phẩm hội họa Việt

Nam mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 –

1985, đồng thời rút ra bài học trong vấn đề sáng tác hội họa.

- Góp phần tìm hiểu sâu các lớp ý nghĩa của tinh thần lạc quan trong

những tác phẩm hội họa về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985.

- Góp phần tìm hiểu sự tác động của bối cảnh xã hội, đất nước tới suy

nghĩ, tư tưởng, quan niệm, phong cách sáng tác và chọn đề tài của các họa

sĩ Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985.

11

- Là tài liệu nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu, đóng góp thêm cho nghiên

cứu về tinh thần lạc quan trong những tác phẩm hội họa Việt Nam về đề

tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985.

7. Cấu trúc luận văn

Luận văn gồm (105 trang): Ngoài phần Bảng chữ cái viết tắt (1 trang),

Mục lục (1 trang), Mở đầu (9 trang), Kết luận (2 trang), Tài liệu tham khảo (4

trang), Phụ lục (34 trang) Phần Nội dung chính (54 trang) được chia làm ba

chương:

Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu (16 trang)

Chương 2: Sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong hội họa Việt Nam

về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 (22 trang)

Chương 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài (16 trang)

12

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Để giải quyết đề tài nghiên cứu thì việc xây dựng cơ sở mang tính lý

thuyết, tìm hiểu tổng quan những vấn đề liên quan đến đề tài là điều cần thiết

đầu tiên phải thực hiện. Nội dung chương 1 của luận văn sẽ đi vào tập trung

làm rõ các khái niệm “Tinh thần lạc quan trong hội họa”, “Đề tài lao động sản

xuất”; đồng thời “Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985” để

nắm được những vấn đề chung của hội họa Việt Nam giai đoạn này.

1.1. Khái niệm “Tinh thần lạc quan trong hội họa”

Khái niệm “Tinh thần lạc quan”

Lạc quan theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Khoa học Xã hội in năm

1994 được định nghĩa là “Vui tin ở đời, ở người, ở tương lai, trái với bi quan.”

[36; tr.458]. Định nghĩa này đã đặt khái niệm lạc quan trong sự đối sánh với

bi quan. Lạc quan đem lại cho con người một trạng thái tâm lý tích cực khi

đứng trước mọi hoàn cảnh khó khăn thì vẫn luôn tin tưởng, hướng tới những

điều tốt đẹp.

Tinh thần trong Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1994 của Nxb Khoa

học xã hội được giải thích là “1. Thái độ hình thành trong ý nghĩ để định

phương hướng cho hành động. 2. Thái độ hình thành trong ý nghĩ, tâm tư, về

mức độ chịu đựng một nỗi khó khăn hoặc đương đầu với một nguy cơ, trong

một thời gian nhất định. 3. Nghĩa sâu xa, thực chất của nội dung, thuộc trí tuệ,

phương diện trừu tượng của đời sống con người.” [36; tr.789]. Có thể thấy

rằng, định nghĩa trên nêu ra khái niệm tinh thần dưới góc độ giá trị trừu tượng

nhưng đồng thời cũng chính là nền tảng của suy nghĩ, định hướng cho nhiều

khía cạnh trong đời sống con người. Bên cạnh đó, một số chuyên ngành khác

lại có những nhận định khác nhau về tinh thần. Có thể kể đến trong tư tưởng

13

Triết học, cụ thể hơn là tư tưởng Triết học duy vật biện chứng đã nhìn nhận

bản chất của tinh thần là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc

của con người. Các nhà triết học duy vật biện chứng của thời kỳ hiện đại đã

cho rằng: “Tinh thần, theo nghĩa rộng là một khái niệm đồng nhất với cái

quan niệm, với ý thức là hình thức hoạt động tâm lý cao nhất. Theo nghĩa hẹp

của từ thì đồng nghĩa với khái niệm tư duy” [46; tr.577]. Dưới góc độ tâm lý,

từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tâm lý học được xác định là một ngành

khoa học về tinh thần. Tinh thần chính là sự tổng hòa của các yếu tố tâm lý, tư

duy, tình cảm, không phải là những gì cao siêu, xa lạ mà chính là những gì

con người suy nghĩ, hành động và cảm nhận hàng ngày. Những cách định

nghĩa về tinh thần đã góp phần làm rõ thêm ý nghĩa đa dạng, phong phú của

tinh thần dưới nhiều góc độ và các lĩnh vực khác nhau. Tinh thần được xem là

một trong những giá trị cốt lõi của đời sống con người. Trái ngược với sự hữu

hình của vật chất, tinh thần là nền tảng hình thành nên các yếu tố trừu tượng

như tâm lý, tư duy, suy nghĩ, tình cảm, v.v… Nhờ có tinh thần, con người có

thể đưa ra các định hướng về những phản ứng hay hành động trong cuộc

sống. Những quan niệm về phạm trù tinh thần hết sức có ý nghĩa đối với việc

nghiên cứu về con người cũng như nghệ thuật.

Từ việc xác định những khái niệm về “lạc quan” và “tinh thần” nêu trên,

khái niệm “tinh thần lạc quan” có thể hiểu khái quát là một giá trị tư tưởng,

phẩm chất tốt đẹp, giúp con người không bi quan mà kiên cường đối diện, trụ

vững trước những gian khổ, khó khăn trong cuộc sống. Trong đời sống xã hội,

người có tinh thần lạc quan thường có những suy nghĩ, lời nói và hành động

tích cực, tâm trạng luôn vui vẻ, thoải mái cùng nét mặt tươi vui.

Trong cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, nhà nghiên cứu mỹ

thuật Khương Huân có đoạn viết “Người Việt Nam yêu thiên nhiên, yêu cuộc

sống, tâm lý họ là ham thích những sắc thái tươi mát…Người Việt Nam sống

trong cuộc sống lao động vất vả, luôn luôn đấu tranh dũng cảm với thiên

14

nhiên, với giặc ngoại xâm, nhưng bao giờ họ cũng nhìn nhận sự vật với những

tình cảm lạc quan, rất có hậu, hầu như không có thái độ bi quan trước cuộc

sống…Người Việt Nam vui tính, lạc quan yêu đời nên rất trữ tình, tính trữ

tình làm cho những câu ca dao, những bài dân ca và những sáng tác mỹ thuật

càng thêm sinh động.” [50; tr.103]. Tinh thần lạc quan dường như đã trở

thành một nét đẹp truyền thống từ xưa, luôn tiềm tàng và có sẵn từ trong tâm

thức của con người Việt Nam.

Trong tư tưởng Phật Giáo, tinh thần lạc quan thể hiện ở chỗ con người

luôn chấp nhận thực tại, dù thực tại có đen tối đến đâu thì vẫn sẵn sàng đối

mặt, cho đó là luật nhân quả. Họ cho rằng những việc xảy đến là những điều

đã định sẵn, con người có nghiệp, nếu gặp phải tai họa là do kiếp trước làm

điều gì đó sai trái, nên hãy cứ chấp nhận hoàn cảnh để khỏi phải lo lắng, buồn

phiền, không bi quan, tin tưởng vào tương lai để sống tiếp.

Đặt trong lịch sử đất nước, tinh thần lạc quan như một ý thức tự nhiên

của con người Việt Nam. Từ nhiều nghìn năm trước, họ đã phải đối mặt với

những khó khăn, vất vả của cuộc sống lao động, của thiên nhiên hay đấu tranh

chống giặc ngoại xâm, v.v… nhưng dường như trong tư tưởng của mình,

người Việt cũng luôn nhìn sự vật, sự việc bằng một thái độ tích cực, không bi

quan và luôn hướng tới tương lai tốt đẹp. Ngay từ những câu ca dao, sự lạc

quan của người xưa được thể hiện rất đỗi mộc mạc, giản dị mà sâu sắc

Văn học, Âm nhạc và Mỹ thuật là những lĩnh vực có thể mang đến cho

chúng ta sự phản chiếu ngay lập tức nội dung mà tác giả muốn truyền tải và

thông qua đó sẽ diễn ra sự thay đổi cảm xúc, tinh thần của người cảm thụ. Ở

lĩnh vực âm nhạc, đây có thể coi là món ăn tinh thần của con người từ xưa tới

nay, có khả năng vực dậy tâm hồn người nghe. Từ những năm tháng kháng

chiến gian khổ cho tới khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống hậu chiến

khó khăn, thiếu thốn thì sự ra đời của các ca khúc ngợi ca đất nước, con người

15

trong đời sống, trong chiến đấu hay lao động sản xuất và động viên, khích lệ

tinh thần của quần chúng nhân dân theo hướng tích cực. Khi nói tới tinh thần

lạc quan trong văn thơ, không thể không kể tới tác phẩm nổi tiếng Nhật ký

trong tù được Lãnh tụ Hồ Chí Minh viết trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù

ở Trung Quốc. Dù trong cảnh lao tù, Người vẫn giữ cho mình tinh thần lạc

quan, niềm tin vào cuộc sống, luôn hướng tới tương lai tươi sáng trước những

gian khổ, khó khăn của thực tại.

Trong nền Mỹ thuật dân gian Việt Nam, Tranh Làng Hồ – một trong số

những dòng tranh dân gian ở Việt Nam với thể loại tranh sinh hoạt đã thể hiện

những nguyện vọng, tình yêu cuộc sống, ước mơ của người dân lao động

bằng những đường nét khỏe mạnh, màu sắc rực rỡ. Làng Việt ngày xưa với

mái tranh vách đất thì thú treo tranh dân gian vào ngày Tết cũng là cách con

người mang đến tiếng cười, sự sảng khoái, gửi gắm mong ước, niềm lạc quan,

tự tin để sống một năm mới đầy hi vọng. Đó dường như là một nét đặc sắc

của Tâm hồn Việt, Mỹ cảm Việt mà chúng ta vẫn luôn gìn giữ được. Đồng

thời cũng chứng tỏ rằng người nghệ sĩ xưa cũng đã mang một tinh thần lạc

quan trong tư tưởng, quan niệm của mình. Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại giai

đoạn sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954 phát triển cùng hai đề tài

chính được các họa sĩ thời bấy giờ lựa chọn làm sáng tác chủ đạo là chiến

tranh cách mạng và lao động sản xuất. Các tác phẩm được thể hiện bằng

nhiều thể loại, chất liệu, đặc điểm tạo hình khác nhau nhưng hầu hết đều nói

lên tinh thần lạc quan cách mạng, giúp cổ vũ tinh thần con người trong đời

sống xã hội.

Khái niệm “Hội họa”

Hội họa theo Từ điển Tiếng Việt năm 1994 của Nxb Khoa học Xã hội là

“Nghệ thuật tạo hình để truyền đạt tình cảm, tư tưởng bằng cách dùng đường

nét màu sắc mà tạo nên hình người, cảnh vật.” [36; tr.403].

16

Trong Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông, Hội họa được định nghĩa

là “Nghệ thuật vẽ dùng màu sắc, hình mảng, đường nét để diễn đạt cảm xúc

của người vẽ trước vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, xã hội. Hội họa là một

ngành của nghệ thuật tạo hình… Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa

học kĩ thuật, Hội họa cũng phát triển nhanh chóng, đa dạng và phong phú.

Những khuynh hướng trừu tượng, hình thức mới với các chất liệu mới không

nhất thiết phải theo quy luật cổ điển thông thường nữa mà phát triển tự do bởi

các thế hệ họa sĩ trẻ sống ở thời đại mới, táo bạo, nhiệt tình, say mê tìm tòi

sáng tạo. Điều này thể hiện rất rõ trong hội họa Việt Nam khoảng vài thập kỉ

nay, nhất là từ ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng.” [18; tr.83].

Thông qua những quan niệm về hội họa của hai cuốn Từ điển nói trên,

ta có thể hình thành những định nghĩa tổng quan về hội họa: Hội họa là một

môn nghệ thuật lâu đời, được hình thành song song với sự tồn tại của đời sống

con người. Hội họa được xem là một bộ môn của nghệ thuật tạo hình được

sáng tác dựa trên quy luật dùng bố cục, màu sắc, đường nét, mảng khối, hình

thể nhân vật, ánh sáng, không gian, v.v… với đề tài cụ thể để khắc họa suy

nghĩ, ý tưởng cũng như cảm xúc của tác giả trước vạn vật của thế giới. Các

tác phẩm hội họa được thể hiện trên các chất liệu chính như Sơn dầu, Lụa,

Sơn mài, v.v… và từ đó truyền tải những chủ đề đa dạng, độc đáo với những

phương thức biểu đạt mang đậm dấu ấn của người nghệ sĩ. Đặc trưng của hội

họa là không gian phẳng và không gian đó bị giới hạn bởi chiều dọc, chiều

ngang. Bởi vậy mà hội họa cũng chính là sự giải phóng không gian bị giới

hạn đó bằng những sáng tạo của người nghệ sĩ.

Xác định khái niệm “Tinh thần lạc quan trong hội họa”

Tinh thần lạc quan trong hội họa được xây dựng, thể hiện bằng cách sử

dụng ngôn ngữ tạo hình như bố cục, màu sắc, hình thể nhân vật, không gian,

ánh sáng, v.v… cùng chất liệu đặc thù là Sơn dầu, Sơn mài, Lụa, v.v… Qua

17

đó, người họa sĩ sử dụng để truyền tải nội dung và giá trị nhân sinh chứa đựng

ở từng tác phẩm. Giá trị ấy, nội dung ấy được tiếp nhận thông qua thị giác, tác

động đến suy nghĩ và cảm nhận của công chúng khán giả, có thể đưa đến cho

họ những cảm quan tích cực, hướng tới những điều tốt đẹp của cuộc sống.

Song hành cùng lịch sử phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam nói riêng,

có thể thấy rằng hội họa không chỉ có sự chuyển mình về thể loại, phong

cách, trường phái mà còn có những thay đổi đầy mới mẻ trong đời sống tinh

thần. Nội dung, đề tài cũng như cách thể hiện của không ít các tác phẩm hội

họa đã mang lại cho người xem những cảm xúc tươi vui, lạc quan và thêm

yêu cuộc sống hơn.

1.2. Khái niệm “Đề tài lao động sản xuất”

Khái niệm “Đề tài”

Theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Từ điển Bách khoa in năm 2012, đề

tài được định nghĩa là “Phạm vi vấn đề mà nghệ sĩ hoặc nhà khoa học nhằm

nghiên cứu, giải quyết hay thể hiện.” [27; tr.289]. Theo Từ điển Tiếng Việt

được in năm 1988, đề tài là “Đối tượng để nghiên cứu hoặc miêu tả, thể hiện

trong tác phẩm khoa học hoặc văn học, nghệ thuật” [25; tr.330]

Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông giải thích đề tài là “Những lí do,

những vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bỏi một người hay một nhóm

người để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng một

hình thức riêng với những đối tượng cô đọng, điển hình. Ví dụ: đề tài lực

lượng vũ trang, đề tài về chiến tranh, đề tài về thiếu nhi, đề tài về xây dựng,

v.v… Nghệ thuật tạo hình thế giới qua các thời kì đều thể hiện những đề tài

nổi bật, phổ biến. Ví dụ, trong thời kì lãng mạn, đề tài là thiên nhiên, con

người và tình yêu; thời kì hiện thực, đề tài là thiên nhiên, quê hương, con

người trong lao động, trong chiến đấu, trong sinh hoạt bình thường với những

tình cảm đa dạng phong phú, v.v… Kể từ khi hình thành chủ nghĩa Ấn tượng,

18

với sự ra đời của những trường phái mới, nhất là với những trường phái mang

tính hình thức, trừu tượng thì đề tài không quan trọng và không có tính chất

quyết định nữa mà tên tranh chỉ gợi một sự chú ý, liên tưởng xa xôi, thậm chí

có khi tùy tiện. Có những bức tranh tùy hứng, vẽ theo sự thích thú ngẫu nhiên

của tác giả, không định thể hiện một ý đồ, một chủ đề nào cả, được đặt tên là

vô đề, tức là tranh không có đề tài. Nói chung, đề tài dành cho nghệ sĩ rất rộng

rãi, phong phú. Những người đã nung nấu nhiều về một đề tài thường có

nhiều cảm xúc, nhiều tư liệu nghiên cứu, tìm tòi, hư cấu sâu về đề tài đó. Nhờ

đó, họ sẽ tạo ra được những tác phẩm có chất lượng. Đề tài rộng hơn chủ đề.

Chủ đề được diễn đạt bằng hình tượng cụ thể hơn. Ví dụ: đề tài là phụ nữ, còn

chủ đề có thể là phụ nữ đi cấy, phụ nữ làm văn nghệ, phụ nữ tập quân sự,

v.v…” [18; tr.62-63].

Tóm lại, đề tài là một khái niệm dùng để đề cập đến phạm vi các sự

kiện, hoạt động hay nhân vật đã tạo nền tảng cơ sở cho đời sống của các tác

phẩm nghệ thuật nói chung và các tác phẩm hội họa nói riêng thông qua

những phương thức biểu đạt cùng hình thức thể hiện cụ thể. Nhận định về vai

trò của Đề tài, có thể nói Đề tài là giá trị cốt lõi của sáng tác nghệ thuật.

Khái niệm “Lao động sản xuất”

Lao động theo Từ điển Tiếng Việt của Nxb Khoa học Xã hội in năm

1994 được hiểu là “1. Hoạt động, việc làm bằng chân tay và trí óc để chống

lại thiên nhiên, lợi dụng và cải biến thiên nhiên, đặng mưu sự sống và tiến bộ.

2. Người làm công việc sản xuất thức ăn vật dùng; người làm công việc trí óc

(nghiên cứu, phát minh, sáng tác, dạy học…).” [36; tr.466]. Ngoài ra, theo Từ

điển Tiếng Việt xuất bản năm 2004 của Nxb Đà Nẵng, lao động được giải

thích là: “Hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản

phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội.” [26; tr.545]

19

Từ những định nghĩa nêu trên, lao động được hiểu là sự vận động, hoạt

động có mục đích hay sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực có tác động ý

thức của con người thông qua chân tay và trí óc để tạo ra vật chất, tinh thần

phục vụ cho các nhu cầu của đời sống xã hội.

Theo Từ điển Tiếng Việt in năm 1994 của Nxb Khoa học Xã hội, sản

xuất là “Dùng công cụ lao động chế biến sản vật tự nhiên thành ra thức ăn, vật

dùng.” [36; tr.682]. Bên cạnh đó, khi ở dạng động từ, Từ điển Tiếng Việt của

Nxb Từ điển Bách khoa in năm 2012 giải thích sản xuất là “Tạo ra của cải vật

chất nói chung: sản xuất lương thực, sản xuất vật phẩm tiêu dùng.”, về mặt

danh từ, sản xuất là “Hoạt động sản xuất, tạo ra vật phẩm cho xã hội bằng

cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động: sản xuất nông

nghiệp, sản xuất công nghiệp.” [27; tr.1083].

Từ định nghĩa của hai cuốn Từ điển nói trên, sản xuất được hiểu chung

là việc sử dụng các nguồn lực từ tư liệu sản xuất như lực lượng lao động,

nguyên liệu, công cụ lao động, máy móc, vốn nhà nước, tài nguyên thiên

nhiên, v.v… từ đó tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm có giá

trị kinh tế. Sản xuất là một trong những ngành nghề trụ cột của nền kinh tế

quốc gia.

Như vậy, khái niệm “Lao động sản xuất” được hiểu là những hoạt động,

tác động của sức lao động – sức người vào việc sử dụng tư liệu sản xuất gồm

đối tượng lao động và tư liệu lao động nhằm tạo ra sản phẩm, của cải mang

giá trị vật chất, giá trị tinh thần cho đời sống xã hội.

Trong lịch sử, vào thời kỳ Đồ đá mới, nhiều di tích được tìm thấy tại các

vùng Tiên Á, Trung Á, Châu Âu và Ấn Độ cho thấy đời sống vật chất và tinh

thần của con người đã phát triển hơn so với giai đoạn trước đó là đồ đá cũ và

đồ đá giữa. Từ săn bắn hái lượm, con người đã biết chuyển sang những hoạt

20

động sản xuất có tính chất kinh tế, làm tăng sản phẩm của thiên nhiên đem lại

như trồng trọt – chăn nuôi.

Xác định khái niệm “Đề tài lao động sản xuất”

Đề tài lao động sản xuất là những đối tượng, vấn đề được nghệ sĩ, nhóm

nghệ sĩ hay nhà khoa học nghiên cứu, phản ánh về hoạt động sản xuất mà

trong đó, con người dùng sức lao động cùng tư liệu sản xuất để tạo ra sản

phẩm có giá trị vật chất, tinh thần của các ngành kinh tế như nông nghiệp,

công nghiệp, ngư nghiêp, lâm nghiệp, thủ công nghiệp, v.v… Ở góc độ văn

hóa – nghệ thuật nói chung, đề tài lao động sản xuất không phải quá xa lạ đối

với các văn nghệ sĩ và được xuất hiện trong một số lĩnh vực khác nhau như

Văn học, Âm nhạc, Mỹ thuật.

Với Âm nhạc và Văn học, đề tài lao động sản xuất được thể hiện, diễn

đạt bằng ngôn từ để phản ánh nội dung chủ đạo là những vấn đề liên quan tới

các ngành kinh tế như xây dựng, trồng trọt, chăn nuôi, v.v… với con người

làm chủ thể.

Một tác phẩm Mỹ thuật nói chung và hội họa nói riêng mang đề tài lao

động sản xuất với nhân vật điển hình thường là người nông dân hoặc người

công nhân. Trong tranh, họ được khắc họa khi đang trong tư thế lao động như

gặt lúa, cày cấy, hay làm việc trong các phân xưởng, xí nghiệp, nhà máy để

tạo ra sản phầm, của cải vật chất, v.v… Mỗi họa sĩ sẽ chọn cho mình một

phương thức biểu đạt riêng cùng với đó là việc lựa chọn những hình tượng

nghệ thuật điển hình để biểu đạt, thể hiện lên tác phẩm của mình.

Xinva Velaxkie là một nhà hiện thực triệt để – một nhân vật trung tâm

của trường phái Nghệ thuật Hội họa Tây Ban Nha thế kỷ 17, bức Những

người phụ nữ kéo sợi (1657) được ông sáng tác thể hiện cảnh lao động của

những nữ công nhân. Đây có thể coi là một trong số tác phẩm đầu tiên đề cập

tới đề tài lao động sản xuất trong lịch sử hội họa Tây Âu. Trong nền Nghệ

21

thuật tạo hình Pháp thế kỷ 19, đề tài này cũng được các họa sĩ đề cập tới, nổi

bật trong số đó là tác phẩm Những người thợ đập đá (1849) của Danh họa

Gustave Courbet.

Ở Việt Nam, vào thời kỳ Văn hóa Đông Sơn, hình người giã gạo – tư

thế lao động đã được người nghệ nhân sử dụng trong hình trang trí trên trống

đồng Ngọc Lũ bằng những nét khắc đơn giản mà đúng hiện thực. Với Mỹ

thuật Việt Nam Hiện đại, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc năm

1954, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng việc

phát triển kinh tế – chính trị – xã hội. Mỹ thuật cũng nằm trong dòng chảy

cùng tiến trình của đất nước với các tác phẩm mang đề tài chủ đạo là lao động

sản xuất. Con người xuất hiện trong tranh là những người nông dân mới, công

nhân mới – nhân vật điển hình cho tầng lớp lao động. Hình ảnh của họ xuất

hiện có thể đang trong tư thế tát nước, gặt lúa, đập lúa, khi cấy cày, v.v… hay

đang làm việc tại các phân xưởng, nhà máy, công trường, xí nghiệp cùng các

công cụ lao động đặc thù của ngành công nghiệp, v.v…

1.3. Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985

Hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 có thể chia thành hai giai đoạn

nhỏ là: giai đoạn 1954 – 1975 khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, Đất nước

bị chia cắt làm hai miền Nam Bắc và giai đoạn 1975 – 1985 là khi Đất nước

hoàn toàn thống nhất cho tới trước thời kỳ đầu Đổi mới.

Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975

Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc năm 1954, lúc này đất nước bị

chia cắt làm hai miền cả về địa lý lẫn chính trị khi miền Bắc được giải phóng,

bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ nông thôn cho tới thành

phố và miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ.

Miền Bắc vào những năm đầu hòa bình, khuynh hướng Hiện thực xã hội

chủ nghĩa dần được hình thành trong nền Hội họa nói riêng và Mỹ thuật nói

22

chung thông qua những hoạt động giao lưu, trao đổi giữa Việt Nam và các

nước trong phe Xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đường lối lãnh đạo của Đảng và

Nhà nước lúc này cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, làm kim chỉ nam,

định hướng cho các hoạt động sáng tác mỹ thuật với lời khẳng định của Hồ

Chủ Tịch: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ

trên mặt trận ấy… Nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng

ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị.” [1; tr.98]. Xuất phát từ những

yếu tố trên, hội họa miền Bắc thời kỳ này chú trọng đề cập tới những vấn đề

mới, phản ánh chân thực cuộc sống qua cái nhìn tích cực, lạc quan cách mạng

của người họa sĩ với trọng tâm là con người trong lao động sản xuất, chiến

tranh cách mạng, thể loại và chất liệu tạo hình cũng được phát triển rộng mở

hơn.

Bên cạnh đó, sự kết hợp với đường lối giảng dạy của trường Mỹ thuật ở

chiến khu Việt Bắc những năm kháng chiến chống Pháp: “Dân tộc, Khoa học,

Đại chúng. Lấy Công – Nông – Binh làm đối tượng chính” càng làm cho các

họa sĩ đề cao hơn ý thức trách nhiệm của mình trước thời cuộc. Với tinh thần

lạc quan cách mạng, người Nghệ sĩ – Chiến sĩ tự nguyện đứng trong mặt trận

Văn hóa – Văn nghệ, vượt qua khó khăn gian khổ để thực hiện một nền Nghệ

thuật vị Nhân sinh, gắn với hơi thở của thời đại. Cùng thế hệ họa sĩ đi trước,

lớp học sinh được giảng dạy với đường lối đó đã trở thành lực lượng nòng cốt

cho nền Mỹ thuật Việt Nam phát triển.

Đề tài và hình tượng có sự mở rộng trong giai đoạn này. Ngoài đề tài

chiến tranh cách mạng vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng chủ đạo thì lao động

sản xuất cũng được các họa sĩ quan tâm với hình tượng chính là những con

người lao động. Một số hình tượng khác cũng được khai thác thành công như

người chiến sĩ vũ trang, chủ tịch Hồ Chí Minh và đặc biệt là hình tượng người

phụ nữ được giải phóng, bình đẳng.

23

Vào giai đoạn này, các chất liệu tạo hình của hội họa như Sơn dầu, Sơn

mài, Lụa đã được phát triển hoàn chỉnh hơn so với giai đoạn trước, trong đó

Sơn mài và Lụa đã có sự tìm tòi thêm về kĩ thuật cũng như ngôn ngữ biểu đạt.

Miền Bắc tuy kinh tế vẫn còn khó khăn, họa phẩm thiếu thốn nhiều song vẫn

có những tác phẩm hội họa được sáng tác có giá trị cao cả về hình thức lẫn

nội dung.

Năm 1954, Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc lần thứ năm được tổ chức là

cuộc tổng kết phong trào Hội họa trong suốt chín năm kháng chiến. Các tác

phẩm được treo tại triển lãm chủ yếu vẽ về người nông dân miền Trung du

Bắc Bộ, anh bộ đội và dân công trên chiến trường, quang cảnh sinh hoạt của

đồng bào miền núi, v.v… Cuộc Triển lãm năm 1955 ghi nhận những tìm tòi

mới của hội họa trong những ngày hòa bình đầu tiên ở miền Bắc. Các tác

phẩm đã thể hiện những tình cảm mới, những con người mới đang vươn lên,

vượt qua những khó khăn của cuộc sống thời hậu chiến, hàn gắn vết thương

chiến tranh, phấn khởi, lạc quan trong lao động sản xuất để xây dựng một đời

sống hạnh phúc, một tương lai tươi sáng hơn. Bên cạnh đó là những sáng tác

về lãnh tụ, bộ đội hành quân, chiến đấu với một tâm thế tích cực. Nếu cuộc

Triển lãm năm 1955 là một bước tiến mới so với cuộc Triển lãm năm 1954 thì

cuộc Triển lãm năm 1958 có thể coi là bước chuyển mình mạnh mẽ của họa sĩ

Việt Nam từ nội dung tới ngôn ngữ thể hiện tác phẩm. Cùng với đó, nhiều

Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam diễn ra ở nước ngoài được đánh giá cao như tại

Matxcova, Đức, Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, cùng một số ít những

Triển lãm nhóm, cá nhân trong nước cũng được tổ chức. Thông qua một số

những hoạt động trển lãm trên đã cho thấy sự thành công ban đầu của nền hội

họa Việt Nam Hiện đại.

Mỹ thuật miền Nam cũng phát triển song song với nền Mỹ thuật miền

Bắc. Tuy nhiên do hoàn cảnh chính trị, Mỹ thuật miền Nam theo đó cũng chia

thành hai đường hướng chính đó là Mỹ thuật Đô thị miền Nam và Mỹ thuật

24

Vùng giải phóng. Với Mỹ thuật Đô thị miền Nam, các họa sĩ hướng đến

những trường phái Trừu tượng, Siêu thực, Biểu hiện, v.v… do được tiếp xúc

với Nghệ thuật phương Tây Hiện đại cùng sự ảnh hưởng của phong cách

Nghệ thuật Đông Dương. Các đề tài chủ yếu mang tính cá nhân về cuộc sống

ngoài thời chiến, mang những ảo mộng, tự do. Một số tác phẩm nổi bật của

Mỹ thuật Đô thị miền Nam như: Hoài niệm xứ Bắc, Chúa giáng sinh, Sen tàn,

Vườn xuân Trung Nam Bắc của Họa sĩ Nguyễn Gia Trí; Lê Văn Đệ với Thánh

Mẫu nhân từ, Nắng hè; v.v… Mỹ thuật Vùng giải phóng miền Nam đi theo

hướng Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ sáng tác là những họa sĩ từ miền

Bắc vào, trong đó có một số họa sĩ được đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa

hay thoát ly từ các Đô thị miền Nam. Tác phẩm chủ yếu của họ là những ký

họa chiến trường, phản ánh về cuộc sống, chiến đấu của các chiến sĩ giải

phóng quân bằng những cảm xúc tươi sáng với niềm lạc quan cách mạng vẫn

luôn tiềm ẩn bên trong. Một số tác phẩm nổi bật như: Huỳnh Phương Đông

với Qua rừng dừa, Phút quyết liệt, Qua sông Hàm Luông, Đồng chí Ba Định,

v.v...; Má Bến Tre, Dừng lại, Chị Tư Cao của họa sĩ Lê Lam; Kỷ niệm ngày

sinh nhật Bác ở vùng ven, Trên chặng đường chiến dịch của Nguyễn Thanh

Châu.

Khái quát về hội họa Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985

Năm 1975 là nét son thắm trong lịch sử của Việt Nam, đất nước hòa

bình, Bắc Nam thống nhất, kết thúc hoàn toàn chiến tranh trên cả hai miền, cả

nước tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

Sau khi đất nước nước thống nhất, Mỹ thuật Việt Nam trong đó có hội

họa bước sang kỷ nguyên mới với sự tham gia của nghệ sĩ ba miền Bắc –

Trung – Nam. Hoạt động mỹ thuật với những cuộc Triển lãm lớn đã được

diễn ra sôi nổi, rầm rộ và tiếp tục mang tính phong trào như: Triển lãm Mỹ

thuật toàn quốc 1976, 1980, 1985; Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô; Triển lãm

25

tranh tượng toàn quốc về đề tài lực lượng vũ trang lần II năm 1984; Triển lãm

chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc 1982; Triển lãm tranh tượng các Tác giả

Trẻ toàn quốc lần II năm 1985; Triển lãm Mùa xuân; v.v..

Đặc điểm nghệ thuật của hội họa giai đoạn này chủ yếu vẫn sáng tác

theo phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó còn có thêm sự

ảnh hưởng của các trường phái Hậu Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực, Trừu

tượng, v.v… Ngôn ngữ thể hiện có phần hướng tới sự thô mộc, khỏe mạnh,

Ngoài ra thủ pháp “đồng hiện” cũng được nhiều họa sĩ sử dụng với mong

muốn khái quát được nhiều vấn đề hơn trong tác phẩm. Đây là thủ pháp đan

xen nhiều hệ thống hình tượng, nhiều lớp không gian, thời gian khác nhau.

Về chất liệu, Sơn dầu, Sơn mài và Lụa tiếp tục phát triển trên nền tảng

của giai đoạn trước đó. Tranh Lụa vẫn tiếp nối truyền thống với các Họa sĩ

Nguyễn Thụ, Vũ Giáng Hương, Trần Lưu Hậu Trần Đông Lương, Kim Bạch,

v.v… Chất hiệu Lụa không chỉ được dùng để vẽ phong cảnh, thiếu nữ mà còn

được sáng tác với các đề tài công nghiệp, nông nghiệp, chiến đấu… làm

phong phú thêm ngôn ngữ của chất liệu. Sơn dầu tiếp tục phát huy thế mạnh ở

khả năng biểu đạt, kỹ thuật, bút pháp đa dạng, phong phú hơn. Nhiều họa sĩ đã

tìm ra tiếng nói và phong cách Sơn dầu riêng của mình. Sơn mài có phần

chững lại hơn so với trước về chất liệu và kỹ thuật.

Hội họa thời kỳ này mang nội dung mới với việc mở rộng để tài, phản

ánh phong phú hiện thực đất nước. Với mảng đề tài chiến tranh cách mạng,

một số tác giả vẽ theo lối hiện thực cũ, diễn tả những trận chiến đấu trực diện

với quân thù như: Hành quân qua Trường Sơn của Vũ Giáng Hương, Trái tim

và nòng súng của Huỳnh Văn Gấm, Bảo vệ đồng quê của Trịnh Phòng, Chiến

đấu của Đinh Trọng Khang, Kéo pháo của Dương Hướng Minh, v.v… Một số

khái quát hóa các biểu tượng của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc

như: tác phẩm Mẹ du kích của Kim Bạch, Mẹ chiến sĩ của Hoàng Trầm, v.v…

26

Số khác lại đề cập đến ký ức và nỗi buồn của chiến tranh: Bài ca ngã ba Đồng

Lộc của Lê Huy Hòa, Ở mỗi xóm, Hồi ức về những con đường của Đặng Đức

Sinh, Vật kỷ niệm của đồng đội của Nguyễn Cương. Đề tài Chiến tranh cách

mạng chiếm một vị trí khá đồ sộ trong hội họa giai đoạn này. Đề tài lãnh tụ,

hình tượng Bác Hồ vẫn được các họa sĩ sáng tác nhiều với tình cảm kính yêu,

chân thành, bình dị, gần gũi với nhân dân ở mọi thể loại của hội họa như:

Những lời dạy bảo của Mai Văn Hiến, Nhà Bác của Trần Văn Cẩn, Nguyễn

Đỗ Cung, Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc của Dương Bích Liên, Bác Hồ đi công

tác của Nguyễn Thụ, Rời lều cỏ Bác tiếp tục hành quân của Trọng Kiệm, Bác

đến thăm trận địa pháo của Nguyễn Cao Thương, Núi Các Mác của Trần

Đình Thọ, v.v… Các tác phẩm về công nghiệp đã thể hiện rõ nét nhịp sống và

phát triển của đất nước trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa sau khi

chiến tranh kết thúc. Hình ảnh những con người mới làm chủ đất nước được

đề cao, ngợi ca như: Tan ca mời chị em ra thi thợ giỏi của Nguyễn Đỗ Cung,

Ánh sáng và nhịp máy của Bửu Chỉ, Xây dựng trụ cầu Thăng Long của Lò An

Quang, Công nhân lắp máy của Lê Anh Vân, Công trường than của Ngô

Phương Cúc, Những người bắc cầu của Cơ Chu Pin, Xưởng máy của Văn

Dương Thành, Đập xả lũ Phú Ninh của Đặng Thu Hương, Công nhân giày vải

của Đỗ Thị Ninh, v.v…

Tuy nhiên, 1975 – 1985 cũng là mười năm đầu vất vả khi nền mỹ thuật

Việt Nam nói chung và hội họa nói riêng lúc này đang đứng trong giai đoạn

chuyển tiếp giữa thời kỳ Hiện thực xã hội chủ nghĩa với thời kỳ Đổi mới.

Hội họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 có thể coi là giai đoạn chuyển

mình sang diện mạo mới với những thay đổi của bối cảnh đất nước. Thời kỳ

này, hội họa chứa đựng rất nhiều thông điệp của thời đại mang hơi thở của

Chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam. Có thể thấy rằng, đề tài trong

tranh tiếp tục phản ánh hiện thực đất nước nhưng đồng thời cũng được mở

rộng, phong phú hơn. Bút pháp sáng tác đa dạng, các thể loại của hội họa như

27

phong cảnh, sinh hoạt, chân dung cũng được thể hiện sinh động. Bên cạnh đó,

với vốn sống được tích lũy từ kháng chiến chống Pháp, người họa sĩ cũng đã

xây dựng thành công hình tượng Bác Hồ, hình tượng người chiến sĩ, hình

tượng người lao động, người phụ nữ, v.v… Các tác phẩm được thể hiện trên

những chất liệu như Sơn dầu, Lụa hay Sơn mài cũng có những hướng phát

triển riêng, gây được ấn tượng với nhiều tác phẩm thành công và có giá trị lưu

giữ cao.

Tiểu kết

Nội dung chương 1 đã xác định những khái niệm, quan điểm, dẫn chứng

liên quan về tinh thần lạc quan nói chung, và đặc biệt trong hội họa. Đồng

thời nắm được khái niệm về đề tài lao động sản xuất và sự khái quát về hội

họa Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985. Thời kỳ 1954 – 1985 với sự tác động

của thực tế đất nước cùng đường lối Văn hóa – Văn nghệ của Đảng, nền Mỹ

thuật Việt Nam trong đó có hội họa mang một diện mạo khác, đề tài được mở

rộng, lao động sản xuất trở thành một trong số những đề tài mũi nhọn được

các họa sĩ khai thác rất thành công. Đặc trưng của những tác phẩm hội họa

giai đoạn này mang tinh thần lạc quan, xuất phát từ chính quan niệm sáng tác

và sự biểu hiện của ngôn ngữ tạo hình mà người họa sĩ muốn truyền tải, khích

lệ tinh thần con người. Nhân vật trong đề tài lao động sản xuất thường là

những người nông dân mới, công nhân mới đang hăng say trong những lao

động tập thể, khi tát nước, gặt lúa, lúc cày cấy hay làm việc tại các phân

xưởng, công trường, xí nghiệp, nhà máy,v.v… Mỹ thuật Việt Nam giai đoạn

1954 – 1985 đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp cho nền Mỹ thuật Hiện

đại nói chung và hội họa nói riêng, đồng thời làm tiền đề cho thời kỳ Đổi mới

phát triển tiếp sau đó.

28

CHƯƠNG 2

SỰ BIỂU HIỆN CỦA TINH THẦN LẠC QUAN

TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT

GIAI ĐOẠN 1954 – 1985

Đi sâu vào tìm hiểu hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai

đoạn 1954 – 1985 với từng tác phẩm cụ thể, chúng ta có thể thấy được tinh

thần lạc quan được biểu hiện rõ nhất qua việc sử dụng những phương thức

biểu đạt của ngôn ngữ tạo hình. Trong hội họa nói riêng, ngôn ngữ tạo hình là

thành tố quan trọng tạo nên hiệu quả trên bề mặt tác phẩm, từ đó tác động tới

cảm xúc người xem những thông điệp mà người họa sĩ muốn gửi gắm. Trong

quá trình tổng hợp, phân loại và tìm hiểu những tác phẩm hội họa thể hiện

tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985, đồng

thời dựa vào những đặc trưng của ngôn ngữ tạo hình, người viết xin đưa ra ba

yếu tố chính nổi bật nhất mà qua đó, họa sĩ sẽ sử dụng để truyền đạt nội dung,

thể hiện tinh thần lạc quan trong tác phẩm với đề tài lao động sản xuất của

mình đó là bố cục, hình thể và màu sắc.

2.1. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua bố cục

Về mặt lý thuyết, đã có một số khái niệm về bố cục trong nghệ thuật

tạo hình được đưa ra. Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông đã đưa ra khái

niệm khá sát nghĩa, cơ bản và dễ hiểu: “Bố cục là sự sắp xếp kích thước và

tương quan của những đường nét, hình dáng, màu sắc của các vật thể trong

một tác phẩm. Nói cách khác, bố cục chính là sự sắp xếp tất cả các yếu tố

ngôn ngữ tạo hình để xây dựng nên một tác phẩm, làm nổi rõ ý đồ sáng tác

của nghệ sĩ.” [18; tr.31]. Ngoài ra, qua cuốn Nghệ thuật bố cục và khuôn hình

của tác giả Bernard Duc do họa sĩ Đức Hòa dịch [2] và cuốn Giáo trình bố

cục của tác giả Đàm Luyện [16], từ đó thấy được có một số dạng bố cục hay

29

được sử dụng như hình tam giác – hình tháp, hình tròn – elip, hình chữ nhật –

hình vuông, nhịp điệu, đối lập, phối cảnh, v.v… Bố cục đóng vai trò quan

trọng trong nghệ thuật tạo hình. Ở mỗi tác phẩm hội họa, người họa sĩ sẽ chủ

động sắp xếp những yếu tố tạo hình khác như màu sắc, hình dáng, hình thể,

không gian, v.v… sao cho hợp lý nhằm diễn đạt ý tưởng, nội dung, chủ đề

muốn truyền tải. Bố cục của tác phẩm nghệ thuật sẽ mang dấu ấn cá nhân của

người họa sĩ, mỗi họa sĩ có những cảm nhận, cảm xúc nghệ thuật và cách xử

lý riêng.

Bức Sơn dầu Mùa lúa chín (1954) [Hình 1.1; tr.74] của Họa sĩ Dương

Bích Liên là một ví dụ trong việc sử dụng lối bố cục hình tam giác. Cách bố

cục hình tam giác – hình tháp sẽ tạo cảm giác của sự vững chãi, chắc khỏe

cho toàn bộ bức tranh, với bố cục phần dưới chắc chắn thì phần phía trên

rộng, thoáng sẽ phù hợp cho việc diễn tả không gian hoặc bầu trời.Với hai

nhân vật em gái được cắt sát mép dưới tranh và người phụ nữ gánh lúa ở phía

tiếp sau cùng việc kết hợp những mảng ruộng lớn, hình ảnh bó lúa với diện

màu sáng tối của vành khăn và quần áo nhân vật. Từ đó thể hiện sự vươn lên,

vững chắc. Bên cạnh đó, việc sắp xếp bố cục với sự đối lập giữa một bên tĩnh

của cánh đồng, một bên động của những con người đang gánh lúa cũng góp

phần thể hiện sự sáng tạo trong cách xây dựng tác phẩm của Dương Bích

Liên.

“Bố cục hình tròn – elip là dạng bố cục cơ bản, nói đến hình tròn chúng

ta hiểu rằng nó là bố cục trọng tâm xoay tròn tạo cảm giác tập trung vào hình

tượng và nhân vật điển hình.” [16; tr.35]. Lối bố cục hình tròn – elip thường

gợi liên tưởng đến sự vận động tuần hoàn của vũ trụ, mang ý nghĩa cho sự

đoàn kết, thống nhất, tạo cảm giác tập trung vào hình tượng hay nhân vật mà

tác giả muốn làm nổi bật trong tranh. Một số Họa sĩ Việt Nam cũng đã chọn

dạng bố cục hình tròn – elip để phản ánh nội dung.

30

Có thể kể đến tác phẩm Sơn mài Gặt lúa ở Việt Bắc (1955) [Hình 1.2;

tr.75] của họa sĩ Phan Kế An cùng cách sử dụng bố cục hình tròn – elip được

tạo thành bởi những dáng điệu, hướng tư thế khi làm việc của nhóm nhân vật

được đặt ở vị trí trung tâm tranh. Tác phẩm được sáng tác năm 1955, khi miền

Bắc vừa bước vào cuộc sống hòa bình chưa lâu, vẫn còn nhiều khó khăn

nhưng qua những gì cảm nhận nơi bức họa, ta có thể thấy được sự đoàn kết,

gắn bó của tình quân dân trong không khí khẩn trương, phấn khởi thu hoạch

vụ mùa nơi núi rừng Việt Bắc.

Ở tác phẩm Sơn mài Bình minh trên nông trang (1958) [Hình 1.5;

tr.78] của Nguyễn Đức Nùng có bố cục đơn giản mà hết sức độc đáo khi thể

hiện hình tượng người nông dân cởi trần mang nét đẹp khỏe khoắn trong dáng

đứng tự tin của người làm chủ cuộc đời mình giữa ánh ngày rạng rỡ đang trải

rộng niềm vui. Với lối kết hợp như vậy, Họa sĩ muốn thể hiện một không gian

mở cho bố cục, đây có thể nói là một thành công của Nguyễn Đức Nùng về

tài quan sát thực tế. Tác phẩm diễn tả vẻ đẹp của người lao động với niềm tin

vào tương lai trong bình minh của ngày mới đang rạng ngời trước mắt người

nông dân đang vung tay gieo hạt trên cánh đồng.

Một dạng thức bố cục khác cũng được nhiều họa sĩ Việt Nam sử dụng

khi thể hiện tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất, đó là theo nhịp

điệu. Nhịp điệu ở đây có thể theo hình thể nhân vật, màu sắc hay đậm nhạt.

Bức Sơn mài Tổ đổi công miền núi (1958) [Hình 1.6; tr.79] của Họa sĩ Hoàng

Tích Chù là một trong số những điển hình đó. Tác phẩm mang lại cho người

xem cảm giác hùng vĩ mà gần gũi của thiên nhiên. Người họa sĩ đã khéo léo

diễn tả các cô gái đang cấy lúa bằng đường lượn nhịp nhàng, sinh động, gợi

lên không khí vui tươi, nhộn nhịp của buổi lao động. Bên cạnh đó, Hoàng

Tích Chù đã sắp xếp bố cục bằng cách khai thác những nhịp điệu vui mắt

trong hình mảng, màu sắc của cảnh vật, thiên nhiên hùng vĩ nơi núi rừng Tây

Bắc, đó là hình ảnh dãy núi phía xa, những ngôi nhà, đống rơm hay rặng tre

31

với sắc vàng ấm cùng bóng đổ in xuống mặt nước. Màu sắc như chủ động hòa

điệu giữa trời nước, thiên nhiên và con người hiện lên trong trẻo giữa núi

rừng hùng vĩ thật gần gũi, bình dị và ấm áp. Đặc biệt, trong không gian miền

núi có phần tĩnh lặng và hồn hậu ấy, Hoàng Tích Chù đã khéo léo đưa sắc

trắng ở trang phục áo váy, khăn chít đầu của những cô gái Thái tạo thành một

đường lượn nhịp nhàng, uyển chuyển ở hệ thống nhân vật, làm cho không

gian tranh trở nên lung linh, xao động. Bằng bảng màu của chất liệu sơn mài

truyền thống cùng cách tạo hình và sắp xếp bố cục, tất cả đã thể hiện niềm say

mê trong công việc, sự hân hoan của người nông dân khi làm chủ đồng ruộng

của mình, đồng thời cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người

của Họa sĩ Hoàng Tích Chù ẩn hiện kín đáo, ấm áp trong tranh.

Bức sơn mài nổi tiếng Tát nước đồng chiêm (1958) [Hình 1.7; tr.80]

của Họa sĩ Trần Văn Cẩn được thể hiện theo lối phối cảnh không gian xa gần

kết hợp cùng dạng bố cục hình tháp ở những dáng điệu, động tác của nhân vật

tạo thành một đường lượn mềm mại, uyển chuyển nơi bức họa. Mỗi người

một tư thế, một động tác khác nhau tạo thành bố cục sôi động, vui tươi. Trên

nền cánh đồng rộng hút tầm mắt, hình thể của các cô gái với những động tác

lúc thì dướn người vung tay gầu vào ruộng, lúc thì cúi xuống đưa tay kéo dây

gầu tạo nên sự kết nối một nhịp điệu sôi động. Trong tác phẩm, tác giả không

đi vào tả chi tiết từng nhân vật, mà họ – những con người nông dân mới cùng

không gian ruộng đồng mênh mông như được hòa hợp, ăn nhập vào nhau tạo

nên không khí, nhịp sống lao động tập thể lạc quan, tràn ngập niềm vui. Trần

Văn Cẩn đã tạo nên một bố cục đông người với những mảng màu rực rỡ, cùng

việc dùng động tác của nhân vật, kết hợp với những mảng hình đẹp của khóm

tre, cánh đồng, ruộng lúa, v.v… tất cả đan xen làm cho bố cục tác phẩm thêm

sinh động, tạo nên một khung cảnh con người và đất trời như đang hòa quyện

trong nhịp điệu lao động tập thể hăng say, tràn ngập niềm vui.

32

Hai trong số các tác phẩm nổi bật của Nguyễn Tiến Chung ở mảng đề

tài lao động sản xuất trong nông nghiệp có thể kể đến Được mùa (1958) chất

liệu Lụa [Hình 1.8; tr.81] và Đập lúa (1972) chất liệu Sơn mài [Hình 1.24;

tr.97]. Cả hai tác phẩm đã được họa sĩ thể hiện rất thành công. Trên nền

không gian ngập tràn sắc vàng của lúa chín là một bố cục chuyển động linh

hoạt trong động tác của nhân vật. Kết hợp với đó là việc sử dụng lối bố cục

đông người càng làm cho tác phẩm thể hiện rõ được không khí tấp nập, rộn rã

tiếng cười nói của các xã viên đang gặt lúa trên cánh đồng, khi người nông

dân cùng nhau lao động tập thể trong phong trào Hợp tác xã.

Tác phẩm Sơn dầu Một buổi cày (1960) [Hình 1.11; tr.84] của Họa sĩ

Lưu Công Nhân thể hiện buổi cày tập thể – một nét đặc trưng của phong trào

Hợp tác xã. Công việc đồng áng thường ngày chẳng có gì nên thơ nhưng họa

sĩ đã thể hiện trên tranh thật đẹp và giàu cảm xúc. Với sự sắp xếp bố cục nhân

vật trên cánh đồng trải rộng ánh nắng mai, những người nông dân đang đánh

trâu cày ruộng, mặt ruộng ngập nước đón nhận ánh nắng mới bừng lên thật

tươi đẹp. Phía sau chú trâu to khỏe đang kéo cày là người đàn ông đang điểu

khiển, người và trâu cùng sải bước đầy tự tin làm cho ta cảm thấy công việc

cày ruộng dường như không hề nặng nhọc, vất vả. Phía trước nữa là chị nông

dân với con trâu bị cắt ở mép tranh thể hiện không gian còn được mở rộng

mãi. Ở lớp hình phía trên là hình ảnh con trâu cùng người nông dân khác cũng

đang cày theo chiều ngược lại như muốn thể hiện công việc nối tiếp công

việc, liên tục không ngừng nghỉ, mang lại cho người xem cảm nhận được sự

hăng hái trong buổi cày tập thể của người nông dân. Ở tác phẩm này, Lưu

Công Nhân muốn thể hiện nhịp điệu chuyển động linh hoạt trong bố cục và

liền đó là chuyển động mở cả về không gian lẫn thời gian.

Tác phẩm Lụa Hợp tác xã đánh cá về (1961) [Hình 1.13; tr.86] đã được

Họa sĩ Vũ Giáng Hương thể hiện theo khuynh hướng hiện thực từ cách xây

dựng hình ảnh con người cho tới cảnh vật thiên nhiên. Bức tranh với việc sử

33

dụng lối bố cục chuyển động hình sin linh hoạt đã tạo sự liên kết giữa hai

nhóm nhân vật phía trước và cụm nhân vật phía sau. Họa sĩ đã thể hiện sự chủ

động của mình trong việc xây dựng bố cục với cách tạo những đường lượn

trong thế dáng, tư thế ngồi hay đứng khom của các nhân vật phía trước và

đường ra theo hướng đi lên của nhóm người phía xa. Bên cạnh đó, để tạo

được những lớp lang trước – sau cho không gian bức họa, Vũ Giáng Hương

cũng sử dụng đồng thời cách bố cục theo luật xa gần cùng lối nhìn gần tỏ xa

mờ với ranh giới đường chân trời chạy ngang tầm mắt là hình ảnh gợi dãy núi

phía xa, mang lại cho người xem cảm giác gần gũi, mộc mạc, yên bình của

con người, cảnh vật. Nhưng ẩn trong cái êm đềm đó là một không khí làm

việc khẩn trương mà nhịp nhàng của những ngư dân hợp tác xã vùng biển

đang mang thành quả của mình đánh bắt được trở vào bờ.

Thể hiện niềm vui trong lao động sản xuất bằng lối bố cục đông người

cũng được nhiều họa sĩ lựa chọn trong đó có thể kể tới bức Lụa Trai gái làm

thủy lợi (1967) [Hình 1.22; tr.95] với gam màu nâu vàng truyền thống làm

chủ đạo của tác giả Phạm Công Thành. Kết hợp với đó là việc sử dụng, tạo

nhịp điệu đan xen của hình và đậm nhạt ánh sáng. Cách sắp xếp bố cục của

tác giả được thể hiện ở việc sử dụng đường ngang của đòn gánh để phá, tạo

cân bằng cho những tư thế của dáng dọc, ở cách tạo các lớp nhân vật trước

sau, hay ở cách chạy nhịp đậm và nhịp sáng trên nền không gian của sắc nâu

đất, tất cả đã tạo nên sự chắc khỏe cho bức tranh nhưng cũng không kém phần

vui nhộn của không khí làm việc. Họ bình đẳng, không phân biệt trai gái,

cùng nhau đoàn kết, hợp sức, học hỏi, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc chung.

Sự vui mắt, linh hoạt trong bố cục tác phẩm còn được thể hiện ở sự thay đổi

về thế dáng trong từng động tác của nhân vật, điều này cũng thể hiện cái tài

quan sát thực tế của tác giả.

Lấy ngôn ngữ Sơn mài để thể hiện tác phẩm, với bức Xưởng đóng tàu

Bạch Đằng (1974) [Hình 1.25; tr.98], Họa sĩ Nguyễn Cương đã sử dụng lối

34

bố cục ngược sáng, lấy hình ảnh, không gian của xưởng đóng tàu thuyền làm

chính và con người tham gia vào đó. Tác giả cũng đã khéo léo trong cách xử

lý, sắp xếp những đường hướng dọc, ngang, xiên kết hợp cùng với tư thế,

dáng điệu của từng nhân vật hay nhóm nhân vật tạo nên một bố cục động cho

tổng thể bức tranh, gợi lên không khí vui tươi của buổi làm việc. Ngoài ra, nét

đặc trưng trong cách xử lý chất liệu Sơn mài trên bề mặt vóc đã làm cho bức

tranh không bị khô cứng của kết cấu ở những thân tàu. Những mảng hình

chắc khỏe cũng đã làm nên thành công cho tác phẩm này.

Ở bức Sơn mài Xóm chài Quất Lâm (1974) [Hình 1.26; tr.99], tác giả

Trần Liên Hằng đã miêu tả cuộc sống sinh hoạt của những ngư dân ở xóm

chài trong thời kỳ hậu chiến. Tác phẩm được bố cục bằng nhịp điệu đan xen

theo chiều ngang của tranh, ở phía xa là nhịp điệu của sóng biển và lưới phơi

được treo trên các cọc sào cao thấp và đặc biệt là cách sắp xếp nhân vật

những người ngư dân với những mảng trắng nhảy nhót trên nền không gian

ước lệ của sắc son đỏ. Hình thể người dân chài hiện lên với vẻ vạm vỡ cùng

các tư thế khác nhau đang say mê lao động, ẩn hiện trong thiên nhiên bao la,

kết hợp với sự cứng cáp của hình ảnh cây Phong ba – nét đặc trưng vùng biển.

Tất cả từ yếu tố màu sắc tới hình thể con người, cảnh vật đã cùng hòa quyện

một cách hài hòa, thống nhất tạo nên không khí làm việc tấp nập nơi xóm chài

Quất Lâm.

Tác phẩm Sơn dầu Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi (1976) [Hình

1.27; tr.100] của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung được thể hiện với lối sắp xếp bố

cục đăng đối của cỗ máy dệt hai bên dường như không làm át đi sự hiện hiện

của của nhóm người chính, mà ngược lại làm cho cách thể hiện ba nhân vật

thêm sinh động. Với lối bố cục này, con người đặt làm trọng tâm trong tác

phẩm, làm chủ máy móc. Bên cạnh đó, tác phẩm dường như phảng phất hơi

hướng của tính dân tộc khi họa sĩ sử dụng những mảng màu phẳng, bẹt và ít tả

khối – điều mà ta từng bắt gặp trong mỹ thuật dân gian xưa kết hợp với cách

35

tạo hình khỏe khoắn bằng những nét thẳng, dứt khoát của khuynh hướng hiện

đại tạo nên ấn tượng thị giác cho người xem. Tác phẩm đồng thời cũng là bài

ca, ca ngợi cuộc sống mới của người lao động đang dựng xây đất nước.

Ở tác phẩm Xây trụ cầu Thăng Long (1977) [Hình 1.28; tr.101], tác giả

Lò An Quang đã rất khéo léo khi đặt những máy móc ở phía đằng xa cùng với

việc sử dụng lối bố cục hình elip ở đằng trước tạo nên hiệu quả không gian

cho tác phẩm. Ngoài ra, mặc dù sử dụng những mảng hình khúc triết nhưng

nhìn bức tranh ta vẫn cảm thấy được sự chuyển động linh hoạt trong đó. Hình

thể của từng nhân vật được tác giả giản lược về hình nhưng chú ý trong những

dáng cúi tạo nên nhịp điệu liên kết giữa nhóm nhân vật phía trước và sau gợi

liên tưởng của sự đoàn kết trong lao động của những người công nhân.

Với Giã gạo (1980) [Hình 1.29; tr.102] Sơn mài của Nguyễn Thế Vinh,

nhìn tổng thể bức tranh ta có thể thấy được sự chủ động trong lối bố cục của

tác giả. Họa sĩ đã chọn những chi tiết đặc trưng nhất từ con người, đồ vật,

trang phục đến hình ảnh ngôi nhà sàn của vùng Tây Nguyên và tạo nên một

bố cục tranh khá sinh động, vui mắt. Tác giả đã xây dựng lối bố cục gồm

nhóm chính và nhóm phụ, đây là dạng bố cục thường thấy trong tranh của các

họa sĩ Việt Nam. Bằng cách kết hợp đan xen những mảng màu trên trang

phục những cô gái Tây Nguyên, của những nong, nia, gùi, thúng đầy thóc,

nhịp chày giơ lên hạ xuống cùng nhịp hướng chuyển động mạnh khác nhau

của chân nhà sàn phía sau càng làm cho bố cục tác phẩm trở nên động, luân

chuyển, toát lên không khí nhộn nhịp, vui tươi của buổi giã gạo của những cô

gái dân tộc. Bên cạnh đó, tác phẩm với sắc son đỏ cùng những mảng đậm trên

trang phục được đặt trên hòa sắc vàng ấm của không gian cảnh vật xung

quanh, của những hạt thóc vàng đầy ắp trong thúng, trong gùi kết hợp với chi

tiết đôi gà phía xa cũng gợi lên cảm giác của niềm ước ao, hi vọng về tương

lai của sự no ấm, hạnh phúc.

36

Cuối cùng, đến với tác phẩm Sơn dầu Cầu sắt sông Hồng (1980) [Hình

1.30; tr.103] của Họa sĩ Nguyễn Kim Thái. Ở đây, tác giả đã xử lý cấu trúc,

hình mảng, nhịp điệu lên xuống của những thanh cầu sắt bằng yếu tố đường

nét để tách khối. Cùng với đó là việc sử dụng những nét chặn khúc triết ở

hình thể những nhân vật đang lao động, tạo nên sự chắc khỏe giữa con người,

vật thể với không gian bức tranh. Đồng thời, tác phẩm cũng gợi lên một

không khí lao động tập thể vui vẻ, con người hăng say, góp công sức của

mình vào công cuộc xây dựng đất nước.

Như vậy, có thể thấy Bố cục đóng vai trò quan trọng cho sự thành công

của tác phẩm. Hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm còn tùy thuộc vào cách sắp

xếp mối tương quan giữa hình và màu nhằm tạo cho bức tranh sự hài hòa, cân

bằng. Ở đây, trong các tác phẩm hội họa về đề tài lao động sản xuất giai đoạn

1954 – 1985, một số dạng thức bố cục như hình tam giác – hình tháp, hình

tròn – elip, chữ nhật hay sắp xếp những yếu tố hình, màu, đậm nhạt, ánh sáng

theo nhịp điệu, sự chuyển động, v.v… đã góp phần cho tinh thần lạc quan

được thể hiện một cách mạch lạc mà năng động, linh hoạt.

2.2. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua hình thể

Trong Mỹ thuật, hình thể được dùng để chỉ dáng vẻ, cấu trúc của vật

thể hoặc con người trên bề mặt tác phẩm. Dáng vẻ bên ngoài hay nội dung

bên trong của đối tượng sẽ được mỗi họa sĩ cảm nhận theo những mức độ xúc

cảm và nhận thức khác nhau. Trên bề mặt tranh được giới hạn, hình thể là sự

biểu đạt hình thức bên ngoài và bản chất bên trong của đối tượng được người

vẽ thể hiện.

Tác phẩm Mùa lúa chín (1954) [Hình 1.1; tr.74], tranh Sơn dầu của họa

sĩ Dương Bích Liên với điểm nhấn khiến người xem sẽ chú tâm vào ngay đó

chính là nụ cười hạnh phúc, ánh mắt đang bừng sáng trên khuôn mặt của các

nhân vật. Qua đó có thể cảm nhận được niềm vui, niềm hạnh phúc, phấn khởi

37

của người nông dân. Ngoài ra, hình ảnh cánh đồng lúa chín và chi tiết bó lúa

đầy đặn nhân vật gánh trên vai cũng được họa sĩ thể hiện rất tinh tế và hết sức

cô đọng về hình nhưng vẫn tạo được cảm xúc lạc quan của vụ mùa thắng lợi,

biểu tượng cho niềm tin vào sự no đủ.

Bức Lụa Về nông thôn sản xuất (1957) [Hình 1.3; tr.76] của Họa sĩ Ngô

Minh Cầu với nhân vật trung tâm là hình ảnh anh bộ đội trở về quê hương sau

khi xuất ngũ, cùng người phụ nữ thôn quê đang cùng nhau bước đi trên con

đường làng tạo nên khung cảnh thật bình dị. Hình ảnh nhân vật trong tác

phẩm được thể hiện với cách tạo hình chắc khỏe nhưng vẫn giữ được nét mềm

mại, chân thực. Hình ảnh chiếc áo lính kết hợp với chiếc nón, quần nâu đã tạo

nên nét hài hòa trong cách tạo hình giữa nhân vật bộ đội và cô gái làng. Chi

tiết xắn quần kết hợp cùng động tác vác bừa, vác cuốc tạo nên vẻ đẹp lao

động của hai nhân vật chính. Đồng thời, có thể dễ dàng nhận ra sự hồ hởi,

phấn khởi, lạc quan trên gương mặt họ, nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân

khi nói tới nét biểu cảm này có viết: “Anh lính nhìn sang cô gái còn cô gái thì

ngượng nghịu cúi đầu. Tình yêu nảy nở trong lao động.” [31] cho ta thấy nét

lãng mạn của một tác phẩm mang khuynh hướng Hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh đó, chi tiết cây rơm, ngôi nhà tường gạch mang những nét đặc trưng

của vùng nông thôn Việt Nam và đặc biệt là hình ảnh con bò mẹ no tròn, chú

bê con chạy tung tăng như một đứa trẻ nghịch ngợm dường như cũng đã bổ

trợ thêm cho việc thể hiện tinh thần lạc quan, gợi lên niềm hạnh phúc đang

tràn ngập, lan tỏa trong không gian tác phẩm. Trên bức tường gạch có ghi

khẩu hiểu tuyên truyền cổ vũ phong trào lao động sản xuất – một dấu ấn lịch

sử, đây là điều thường thấy ở các vùng nông thôn đương thời.

Với cách sử dụng tài tình chất liệu sơn mài đề diễn tả chất da thịt, cơ

bắp, hình khối trên cơ thể nhân vật trong điều kiện trái sáng, Họa sĩ Nguyễn

Đức Nùng đã thể hiện thành công ở tác phẩm Sơn mài Bình minh trên nông

trang (1958) [Hình 1.5; tr.78]. Tác phẩm diễn tả một anh nông dân mình trần

38

với hình thể cường tráng, vạm vỡ đứng quay lưng lại, mặt của nhân vật hướng

về phía mặt trời mọc với đôi tay chắc khỏe, tay này bê thúng, tay kia đưa lên

theo động tác của người làm nông đang gieo hạt trên cánh đồng. Gieo hạt là

công việc thường được người nông dân làm vào buổi bình minh để hạt mầm

được hưởng trọn vẹn ánh nắng từ buổi sớm, đảm bảo nguồn năng lượng cho

cây phát triển. Cách tạo hình bàn tay có một số ý kiến cho rằng hơi không tự

nhiên, nhưng dường như đây chính là điểm nhấn thể hiện tài quan sát tinh tế

của Nguyễn Đức Nùng. Hình ảnh mang lại cho ta cái nhìn vừa mang tính hiện

thực, vừa mang tính ẩn dụ như thể bàn tay này đang đưa lên để gieo mầm

sống mở ra tương lai, chạm trời mây và có thể nắm lấy cả không gian phía

trước. Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân trong cuốn Nghệ thuật tạo hình

Việt Nam Hiện đại có đưa ra nhận định: “Bàn tay gieo rắc sự sống – làm cho

thiên nhiên trở nên lộng lẫy. Trong các tác phẩm nghệ thuật tạo hình Việt

Nam, chưa bao giờ người nông dân tự hào về bàn tay của mình như ở trong

Bình minh trên nông trang. Mặc dù dáng đứng và bàn tay người nông dân có

vẻ bố trí, nhưng nhờ có ý đồ và chủ đề cô đúc nên hiệu quả của bức tranh vẫn

không bị phương hại nhiều.” [31]

Bức tranh Sơn mài Tổ đổi công miền núi (1958) [Hình 1.6; tr.79] của

Họa sĩ Nguyễn Đức Nùng đã diễn tả công việc lao động sản xuất nông nghiệp

là cấy lúa của những cô gái dân tộc Thái trong thung lũng vùng cao nơi miền

núi Tây Bắc. Các cô gái Thái với trang phục màu trắng, xanh đang cấy lúa với

tư thế khi đứng khi cúi thật nhịp nhàng. Ở tác phẩm, hình ảnh con người xuất

hiện tuy nhỏ bé giữa không gian thiên nhiên thơ mộng hùng vĩ, hoành tráng

nhưng vẫn mang lại cho ta thấy được sức mạnh của vẻ đẹp lao động cùng

không khí vui tươi, nhộn nhịp của buổi cấy.

Cảm nhận được nhịp sống tưng bừng ở nông thôn và những buổi lao

động tập thể hăng say, bức Sơn mài Tát nước đồng chiêm (1958) [Hình 1.7;

tr.80] của Họa sĩ Trần Văn Cẩn đã phản ánh công cuộc xây dựng đất nước

39

qua tác phẩm của mình. Nhân vật được thể hiện với động tác tát nước linh

hoạt, hình thể khỏe và đẹp, chắc nhưng lại hết sức mềm mại, nhịp nhàng như

những điệu múa dân gian. Người nông dân ở đây là những cô gái thôn quê

được miêu tả từ biểu cảm khuôn mặt vui tươi cho tới những tư thế tung tẩy,

hồ hởi, hăm hở làm việc với những động tác nhịp nhàng trong các dáng điệu

linh hoạt, sinh động. Dường như niềm lạc quan ấy được xuất phát từ trong

tâm hồn họ khi được cùng nhau tham gia buổi lao động tập thể trong phong

trào Hợp tác xã đương thời. Các nhân vật trong tranh tuy đều đang ở tư thế,

động tác tát nước nhưng bằng tài quan sát của mình, Trần Văn Cẩn đã đưa

được vào tác phẩm những dáng điệu khác nhau hết sức phong phú, làm cho

tác phẩm không bị nhàm chán. Họ khi cúi, khi ngẩng cùng thế tay chân nâng

lên hạ xuống theo nhịp làm không gian cánh đồng trở nên nhộn nhịp như ngày

hội. Bên cạnh đó, một số chi tiết, mảng phụ như khóm tre, hàng lúa, chiếc gầu

nước, v.v… cũng góp phần bổ trợ thêm cho việc thể hiện tinh thần lạc quan

qua hình thể trên tác phẩm.

Qua tác phẩm Lụa Được mùa (1958) [Hình 1.8; tr.81] và Sơn mài Đập

lúa (1972) [Hình 1.24; tr.97] của Nguyễn Tiến Chung, ta có thể thấy dễ dàng

được điểm chung đều xuất hiện ở cả hai tranh này là những người nông dân

gắn với hình ảnh cây lúa. Hình thể của từng nhân vật trong các tác phẩm được

họa sĩ diễn tả với dáng thế đặc trưng của việc lao động lúa nước bằng những

nét vẽ tung tẩy, khoáng đạt và khỏe khoắn. Bên cạnh đó, qua biểu cảm trên

gương mặt nhân vật, có thể thấy hình tượng những con người lao động được

xây dựng không hề mang những nét u buồn mà luôn lạc quan, vui vẻ với công

việc của mình. Qua cách tạo hình nhân vật như vậy, có thể cảm nhận được họ

là những con người nông dân yêu lao động, luôn lạc quan tin tưởng vào một

tương lai ấm no. Ngoài việc tập trung vào hình ảnh những con người lao

động, Nguyễn Tiến Chung cũng đã kết hợp với những chi tiết góp phần hỗ trợ

40

thêm cho bố cục như những đụn lúa, bó lúa đầy đặn, những thửa ruộng ngập

sắc vàng của lúa chín, mang lại cảm xúc về một vụ mùa thắng lợi.

Đến bức Sơn mài Giữ lấy hòa bình (1960) [Hình 1.9; tr.82] của Họa sĩ

Lê Quốc Lộc, tác phẩm miêu tả một gia đình đánh cá, ba nhân vật chiếm vị trí

trung tâm tranh, quay lưng sát với người xem. Trong tranh, hình thể người

chồng được diễn tả với tấm lưng ngăm đen, cường tráng đang khoác súng trên

vai. Hình ảnh người vợ – người phụ nữ không còn tạo hình theo lối mỏng

manh, liễu yếu đào tơ nữa mà rắn rỏi, chắc khỏe với dáng dấp của con người

lao động đang trong tư thế vừa bế đứa con, vừa cắp bên hông rổ cá. Trẻ thơ

luôn là biểu tượng cho mầm non của đất nước. Bởi vậy ở đây, khi được gắn

kết với hình ảnh bàn tay thô khỏe của người đàn ông làng chài đang nắm lấy

bàn tay nhỏ bé, cùng với đó là hướng nhìn của đôi vợ chồng đều tập trung, tụ

lại ở khuôn mặt đang bừng sáng của đứa con – điểm nhấn của tác phẩm đã tạo

nên một hình ảnh biểu trưng hết sức đẹp đẽ. Nó mang lại cho người xem cảm

giác như thể họ đang nắm lấy tương lai, cũng là sự trao gửi tình yêu thương,

gửi gắm, nhắn nhủ thông điệp hãy Giữ lấy hòa bình để có một tương lai hạnh

phúc, yên bình như chính nụ cười của con.

Tác phẩm Bác Hồ thăm nhà máy xe lửa Gia Lâm (1960) [Hình 1.10;

tr.83] Sơn dầu của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung cũng là một tác phẩm thành công

trong việc diễn đạt hình thể nhân vật để thể hiện tinh thần lạc quan. Trước hết,

khi tiếp cận tác phẩm, ánh nhìn của người xem sẽ hướng đến đầu tiên đó là

trung tâm của bức họa – vị lãnh tụ Hồ Chí Minh, tiếp đó là tới hình ảnh của

các nhân vật xung quanh. Hình ảnh Bác trong tác phẩm được diễn tả rất thân

thiện, gần gũi, dung dị mà vẫn toát lên vẻ thanh cao của một vị lãnh tụ với bộ

quần áo kaki quen thuộc cùng nụ cười hiền luôn thường trực trên môi. Với

biểu cảm khuôn mặt cùng động tác tay, có lẽ Bác đang trao đổi một vấn đề

nào đó với những người công nhân xung quanh. Ở đây, khoảng cách giữa Bác

và mọi người dường như được thu hẹp lại rất gần. Hình ảnh những người

41

công nhân nhà máy xe lửa được thể hiện với cách tạo hình khỏe khoắn, kết

hợp với những đặc điểm trên trang phục đặc thù của nền công nghiệp mới

cùng nét mặt tươi vui, rạng rỡ khi được Bác tới thăm. Đặc biệt, ánh mắt của

họ đều tập trung hướng về vị lãnh tụ đáng kính – tinh hoa của dân tộc. Hình

ảnh Bác như một biểu tượng cho nguồn sáng đẹp đẽ, lý tưởng và người công

nhân xung quanh như đang lĩnh hội những lời răn dạy, đón lấy sự chiếu rọi

tỏa ra từ nguồn sáng ấy mang tên Hồ Chí Minh.

Với bức Sơn mài Kéo lưới (1960) [Hình 1.12; tr.85], Họa sĩ Nguyễn

Kim Đồng đã sử dụng mạnh yếu tố nét của ngôn ngữ Đồ họa để diễn tả hình

thể nhân vật. Những người dân chài hiện lên trong vẻ ngoài khỏe khoắn, lực

lưỡng, cường tráng, cánh tay và đôi chân rắn chắc với những thế đứng vững

chãi, động tác kéo lưới, chèo thuyền đang tập trung vào công việc đánh bắt

chính của mình. Ngoài ra, họa sĩ cũng khéo léo khi đặt nhân vật kết hợp cùng

những chi tiết phụ trợ như con thuyền, làn sóng nước, tấm lưới mang những

nét đặc trưng, cô đọng về cấu trúc hình. Tất cả những điều đó đã làm tôn lên

vẻ đẹp hình thể, tình yêu công việc của con người trong lao động nơi miền

biển.

Hoàng Tích Chù thể hiện niềm vui được mùa của người nông dân qua

bố cục nhóm người đang gánh lúa về qua cổng làng trong tác phẩm Sơn mài

Gánh lúa về (1961) [Hình 1.14; tr.87]. Bốn nhân vật xuất hiện trong tranh với

những nét linh hoạt trong từng động tác, dáng đi, kiểu gánh. Hình ảnh đôi bàn

chân trần được họa sĩ chọn thể hiện theo lối hình họa diễn tả hình khối, từ đó

tạo nên nét đẹp khỏe khoắn, rắn chắc của con người lao động nơi làng quê

Việt. Động tác gánh lúa về mỗi người một dáng vẻ, cách vung tay cùng sự

nhịp nhàng trong từng bước đi tạo nên phong cách miêu tả dứt khoát và linh

hoạt của người họa sĩ. Hình ảnh từng lớp bó lúa trĩu bông xếp thành tầng

được buộc vào đôi quang gánh trên vai người nông dân là một hình tượng

biểu trưng cho vụ mùa bội thu. Cách diễn tả khuôn mặt và dáng đi của nhân

42

vật khi đang gánh lúa làm cho người xem không bắt gặp sự mệt mỏi hay nặng

nhọc nào ở đây cả. Mà ngược lại, từ ánh mắt, nụ cười cho tới động tác đều

toát lên không khí của sự phấn khởi, phấn chấn, vui tươi và lạc quan trong lao

động xuất phát từ trong con người họ. Ngoài ra, một số hình ảnh điển hình,

đặc trưng của làng quê Việt buổi đương thời cũng được họa sĩ khéo léo lồng

vào trong tác phẩm như chiếc cổng làng, dòng khẩu hiệu được viết bằng sơn

đỏ trên bức tường gạch, bờ ao, khóm cây. Một chi tiết đặc biệt được họa sĩ

đưa vào hết sức thú vị đó là hình ảnh gà đàn trên nền son đỏ gợi liên tưởng tới

bức Gà đàn trong dòng tranh Đông Hồ. Con gà xuất hiện trong bức tranh dân

gian mang nét bình dị, chân quê, tượng trưng cho một gia đình hạnh phúc

luôn quây quần, sum vầy bên nhau. Phải chăng, ngụ ý của Hoàng Tích Chù ở

đây chính là thể hiện những khát khao, ước vọng trong cuộc sống mà ông

muốn gửi gắm thông qua tác phẩm của mình.

Bức tranh chất liệu Sơn dầu Công nhân cơ khí (1962) [Hình 1.15; tr.88]

của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung đã thể hiện cảnh lao động của người thợ cơ khí

đang say sưa, hăng hái làm việc trong xưởng máy với những dáng điệu, hình

thể, tư thế được tác giả chắt lọc. Họ hiện lên thật khỏe khoắn, mạnh mẽ của sự

cách điệu cao ở vóc dáng, dứt khoát trong những động tác vặn mình theo nhịp

búa, phía xa là nhóm thợ như đang phấn khởi lôi mẻ thép mới ra lò. Trên nền

mảng không gian đậm phía bên trái, vẫn có thể nhận ra trong đó là hệ thống

máy móc đồ sộ, hiện đại cùng dòng chữ cổ vũ, khích lệ người công nhân được

viết phía trên tường. Thành công của Nguyễn Đỗ Cung ở tác phẩm đó là việc

đã xây dựng hình ảnh điển hình bằng hình tượng người công nhân mới qua

cái nhìn lạc quan của người nghệ sĩ với nét hồ hởi cả về tinh thần lẫn thể xác.

Motif nhân vật trong tranh là hình tượng những người công nhân mới của nền

công nghiệp xã hội chủ nghĩa, được làm chủ máy móc, làm chủ công việc của

mình không chỉ có ở tác phẩm Công nhân cơ khí mà còn được Họa sĩ Nguyễn

Đức Nủng thể hiện trong tác phẩm Lụa Dệt cửi quay tơ (1957) [Hình 1.4;

43

tr.77] hay Mỏ Đèo Nai (1969) [Hình 1.23; tr.96] chất liệu Sơn mài của Họa sĩ

Nguyễn Tiến Chung, v.v…

Như ở bức Sơn mài Đập lúa đêm (1964) [Hình 1.18; tr.91] của Nguyễn

Tiến Chung, tác phẩm diễn tả hình ảnh ba nhân vật đang trong tư thế đập lúa

với hình thể được họa sĩ thể hiện theo lối cường điệu tạo nên sự khỏe khoắn,

vững chãi của những con người lao động. Khi mà họ có lẽ đã được nghỉ ngơi

sau một ngày dài lao động vất vả nhưng ở đây, họ tiếp tục công việc đang

dang dở trong đêm muộn nhưng trên gương mặt ba nhân vật trong tranh, ta

không bắt gặp sự mệt mỏi, uể oải mà vẫn bừng sáng với nụ cười luôn nở trên

môi, thao tác vẫn rất chuẩn xác và nhịp nhàng. Đặc biệt ở Đập lúa đêm, chi

tiết cây đèn dầu và ánh vàng nơi khe cửa vừa là nguồn sáng giúp những con

người có thể lao động được trong đêm nhưng đồng thời cũng là hình ảnh biểu

trưng cho sự soi dẫn của niềm tin, sự hi vọng để họ có động lực vượt qua

những khó khăn của thực tại.

Tác phẩm Sơn mài Xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên (1964) [Hình

1.19; tr.92] của Nguyễn Kao Thương đã diễn tả buổi làm việc của những

người công nhân đang góp sức mình để xây dựng Khu gang thép Thái

Nguyên, đây một thời là biểu tượng, niềm tự hào của công cuộc xây dựng xã

hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Nhân vật được khoe ra với vẻ đẹp khỏe khoắn,

cường tráng của hình thể trong tư thế lao động. Đặc biệt, sắc trắng ở mảng

hình cô đọng của áo và chiếc khăn cuốn trên đầu nhân vật nam đã làm tập

trung sự nhìn của người xem trong tổng thể toàn bộ tác phẩm. Nếu ở nhóm

nhân vật phía sau, họa sĩ đã diễn tả hình thể họ bằng việc tạo những mảng

miếng gợi hình thì với nhân vật được tập trung ánh nhìn nhất này, Nguyễn

Kao Thương đã sử dụng lối vẽ hình họa trong cách miêu tả đặc biệt ở đôi bàn

tay đang nắm lấy công cụ lao động, cánh tay hứng sáng cho tới hình ảnh đôi

chân trong thế đứng vững chãi làm tôn lên vẻ đẹp của hình thể trong lao động.

44

Đồng thời, đây cũng là nét đẹp điển hình, biểu trưng cho hình tượng những

con người lao động của thời đại mới.

Bức Sơn dầu Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi (1976) [Hình 1.27;

tr.100] của Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung thể hiện trong khung cảnh buổi tan ca

của các chị em trong tổ dệt. Tuy nhiên đây không đơn thuần là cảnh tan ca

thông thường mà là buổi tan ca có phần đặc biệt khi chị tổ trưởng giơ tay

thông báo hết giờ và báo các chị em đi họp để thi thợ giỏi. Người phụ nữ lúc

này không còn trong cái dáng đứng lom khom mà là hình ảnh vững chãi của

con người sống trong xã hội mới khi mà phụ nữ đều có quyền bình đẳng, tự

tin điều khiển máy móc. Họa sĩ đã rất khéo léo khi diễn tả hết sức sinh động

tư thế khác nhau của ba người công nhân. Niềm vui lao động thể hiện trong

tác phẩm còn là do cách tạo hình khỏe khoắn, mạch lạc về hình thể và trong

nét biểu cảm khuôn mặt của nhân vật. Mỗi người một biểu cảm, một động tác

trong công việc nhưng tựu chung lại vẫn là hình ảnh điển hình, thể hiện rõ tư

tưởng, chủ đề của tác phẩm. Vẻ đẹp của con người trong tác phẩm của

Nguyễn Đỗ Cung là vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại của thời đại mới, họ

hiện lên đầy duyên dáng, mặn mà và luôn trong tư thế tự tin làm chủ đất

nước.

Như vậy nhìn chung, để biểu hiện tinh thần lạc quan qua hình thể trong

tác phẩm được đề cập ở trên, người họa sĩ đã khai khác ở phương diện cấu

trúc, tư thế, dáng điệu, động tác, biểu cảm nét mặt của người lao động, đồng

thời kết hợp với những chi tiết, hình ảnh phụ trợ cho nhóm chính. Ở họ luôn

mang niềm lạc quan, tươi vui, hăng say công việc, với dáng vóc khỏe khoắn,

mang vẻ đẹp điển hình của con người trong lao động. Đồng thời, với những

chi tiết như bó lúa, công cụ lao động đặc thù, ruộng đồng hay cảnh vật xung

quanh, v.v… ngoài việc góp phần hỗ trợ thêm cho nhân vật chính thì cũng thể

hiện được cái nhìn lạc quan của tác giả trong từng tác phẩm cụ thể.

45

2.3. Sự biểu hiện tinh thần lạc quan qua màu sắc

Màu sắc có thể nói là phương tiện tạo hình để người họa sĩ đưa trạng

thái cảm xúc thông qua tác phẩm của mình, tác động lên tâm lý người thưởng

thức tranh. Theo Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông [18], có thể hiểu màu

sắc được dùng để thu hút sự chú ý của người xem, mang lại và làm tăng hiệu

quả thẩm mỹ cho tác phẩm. Nếu thiếu màu sắc thì dường như sẽ làm không

thỏa mãn được cái nhìn. Màu sắc có thể nói là một trong những thành tố quan

trọng của hội họa. Không những làm tôn lên giá trị của hình mảng mà màu

sắc còn góp phần tạo không gian tác phẩm, biểu thị trạng thái cảm xúc của

người nghệ sĩ, đồng thời đưa đến những ấn tượng thị giác nhất định cho người

xem. Màu sắc là những màu khác nhau trong thiên nhiên hay màu bản thân

của từng vật thể, nhờ có ánh sáng tác động tạo nên những sắc độ phong phú

mà ở mỗi họa sĩ lại cảm nhận theo những hướng khác nhau. Màu sắc kết hợp

với nhau trên bề mặt tranh tạo thành hòa sắc.

Họa sĩ Dương Bích Liên với bức Sơn dầu Mùa lúa chín (1954) [Hình

1.1; tr.74] đã tạo một sắc vàng óng dường như nhuốm toàn bộ, chiếm hầu hết

bề mặt tranh từ không gian cho tới nhân vật, của cánh đồng bạt ngàn, của bó

lúa chín, điểm xuyết là sắc xanh lá của đường bờ ruộng. Ngoài ra, cũng sử

dụng sắc vàng để diễn tả không gian đồng lúa chín có thể kể đến bức Sơn mài

Gặt lúa ở Việt Bắc (1955) [Hình 1.2; tr.75] của Họa sĩ Phan Kế An. Ở tác

phẩm này, họa sĩ cũng kết hợp với những sắc màu đậm để thể hiện nhân vật

và mảng núi phía xa. Với cách sử dụng màu sắc ở cả hai tác phẩm trên, người

xem có thể cảm thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên, hay cái bao la, trải rộng của

không gian biển lúa, đồng thời thể hiện sự báo hiệu một vụ mùa bội thu, no

ấm của người nông dân.

Nét lạc quan ở tác phẩm Sơn mài Bình minh trên nông trang (1958)

[Hình 1.5; tr.78] của Họa sĩ Nguyễn Đức Nùng được thể hiện bằng mảng màu

46

nóng khi diễn tả làn da ngăm đen, rắn rỏi của một anh nông dân cởi trần với

hình thể cường tráng, vạm vỡ đứng quay lưng lại. Bên cạnh đó, cảnh sắc buổi

bình minh với gam màu ấm dần từ phía chân trời lên, tác giả đã sử dụng mảng

màu đậm ở phía trên tạo tương phản, nhấn mạnh sắc vàng ấm của bầu trời,

làm cho không gian thiên nhiên trong tranh thật đẹp và yên bình, mang lại

những rung cảm cho người xem. Mặt khác, hòa sắc vàng nơi bầu trời cùng đôi

bàn tay đưa lên của nhân vật cũng gợi lên ánh sáng của tương lai đang rộng

mở phía trước.

Nhắc tới Nguyễn Tiến Chung, có thể nhiều người sẽ nhớ tới những tác

phẩm vẽ về đề tài thôn quê, ông từng nói “Đề tài nông thôn đã cuốn hút tôi”.

Tác phẩm Được mùa (1958) [Hình 1.8; tr.81] với hòa sắc cam – đỏ – nâu nơi

bầu trời và mặt ruộng, kết hợp với ánh vàng ruộm của cánh đồng, của bó lúa

cùng cách điểm xuyết những mảng màu đậm, sáng của hình thể và trang phục

nhân vật đã tạo nên một sự tổng hòa về màu sắc rất ấn tượng, khiến cho người

xem cảm nhận được sự phấn khởi, vui tươi của ngày mùa bội thu. Ngoài ra,

bức Sơn mài Đập lúa (1972) [Hình 1.24; tr.97] của Họa sĩ Nguyễn Tiến

Chung sáng tác cũng về đề tài lao động sản xuất đã được ông thể hiện với

màu sắc thân thuộc nơi làng quê đó là gam màu nâu – vàng. Nhưng nhìn

chung, màu sắc của Đập lúa cũng vẫn mang một sự hài hòa, gần gũi cùng

những xúc cảm tương tự với bức Được mùa (1958).

Đĩa màu truyền thống của Tranh Lụa Việt Nam với những sắc nâu, đen

vàng, bã chầu được hình thành từ họa sĩ Nguyễn Phan Chánh vẫn được nhiều

thế hệ họa sĩ tiếp nối, noi theo trong đó có Vũ Giáng Hương. Với tác phẩm

Hợp tác xã đánh cá về (1961) [Hình 1.13; tr.86] qua chất liệu Lụa, hòa sắc

của gam màu truyền thống ấy đã được bà sử dụng để diễn tả những con người

lao động từ trang phục với sắc nâu – đen đặc trưng, cùng không gian cảnh vật,

thiên nhiên nơi miền biển. Màu sắc trong tranh đã mang lại cho ta cảm nhận

được sự mộc mạc, dung dị, êm ả, thân thuộc nơi làng Việt xưa.

47

Bức Sơn mài Gánh lúa về (1961) [Hình 1.14; tr.87] được Họa sĩ Hoàng

Tích Chù thể hiện bằng bảng màu đặc trưng của chất liệu Sơn mài truyền

thống với sắc vàng của bông lúa, khóm cây, mảng trứng được cẩn nơi cổng

làng và sắc son đỏ được trải khắp bề mặt tranh từ nền đất, mặt nước cho tới

không gian phía sau, cùng với đó là việc kết hợp những mảng màu đậm của

sơn then, sơn cánh gián làm cho yếu tố hình của tác phẩm thêm phần chắc

khỏe. Thông thường, một tác phẩm khi được sử dụng những màu sắc sặc sỡ

như đỏ, vàng, cam sẽ gây nên sự chú ý hoặc tạo được sự vui tươi cho người

thưởng thức. Ở Gánh lúa về, dường như điều đó đã đúng khi tác phẩm mang

lại ấn tượng xúc cảm thị giác cho ngưởi xem trước hết bởi gam màu chủ đạo.

Trên nền không gian của sắc son đỏ, ánh sáng rực rỡ của thếp vàng được sử

dụng ở chi tiết bó lúa tạo nên sự tương phản về sắc độ, làm tăng hiệu quả thị

giác cho cho hình ảnh bông lúa chín vàng, biểu trưng cho một vụ mùa thu

hoạch thành công. Sự chan hòa của sắc vàng, sắc đỏ được Hoàng Tích Chù

thể hiện rất tinh tế trong tác phẩm, từ đó người xem dường như sẽ cảm nhận

được không khí phấn khởi, khẩn trương đang diễn ra trong khung cảnh gánh

lúa về của người nông dân.

Tương tự như ở Gánh lúa về nêu trên, bức Đổi ca (1962) [Hình 1.17;

tr.90] của Họa sĩ Sỹ Ngọc cũng đã thành công trong việc sử dụng đĩa màu

truyền thống của chất liệu sơn mài với sắc đỏ, vàng, nâu đen. Tác phẩm diễn

tả buổi sáng giao ca trên vùng đất mỏ. Ánh vàng rực rỡ của bầu trời buổi bình

minh cùng sắc nâu vàng của núi đồi chiếu rọi xuống nhóm nhân vật màu nâu,

đen sậm đang dàn trải theo chiều rộng tác phẩm với những đường ven sáng

cũng làm tôn lên vẻ chắc khỏe của người công nhân. Kết hợp hòa sắc trên với

nền đất đỏ tươi tạo đối lập, lôi cuốn sự chú ý và cũng tác động tích cực đến

xúc cảm người xem. Cùng chất liệu và đề tài về lao động sản xuất công

nghiệp, Nguyễn Sỹ Ngọc cũng đã sử dụng thủ pháp tạo không gian ngược

sáng với ánh vàng ven theo hình thể nhân vật để làm nổi bật, tôn lên vè đẹp

48

của người lao động trong tác phẩm Sơn mài Một ngày mới lại bắt đầu (1965)

[Hình 1.20; tr.93]. Ngay từ tên của tác phẩm kết hợp với hòa sắc, nhịp sáng

được tác giả thể hiện đã toát lên không khí khẩn trương, nhộn nhịp trong sự

bắt đầu của một ngày mới lao động.

Bức Sơn mài Xây dựng Khu gang thép Thái Nguyên (1964) [Hình 1.19;

tr.92] của Họa sĩ Nguyễn Kao Thương trước hết đã cho ta cảm nhận được sự

chan hòa của sắc vàng được trải khắp từ mặt đất lên tới bầu trời, từ những vật

thể cho tới nhân vật. Kết hợp với đó là những nâu, đen tạo nên sự chắc khỏe

cho tổng thể bức tranh. Ngoài ra, tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng sắc trắng

ở trên áo và chiếc khăn của nhân vật đang cầm cuốc đã tạo nên một điểm

nhấn cho bức tranh, tập trung sự nhìn của người xem. Sắc vàng chủ đạo của

tác phẩm cũng làm gợi lên không gian của buổi ngày hè nóng nực, oi bức

nhưng họ – những con người lao động vẫn vượt qua sự khắc nghiệt ấy để tiếp

tục công việc của mình.

Tóm lại, khi thể hiện tinh thần lạc quan trong tác phẩm đề tải lao động

sản xuất, các họa sĩ Việt Nam hay sử dụng những màu sắc đối lập, tương phản

tươi sáng, rực rỡ tạo nên ấn tượng thị giác của sự nhộn nhịp, phấn khởi, tươi

vui được toát lên từ con người tới cảnh vật. Bên cạnh đó, ở một số tác phẩm

có hòa sắc ấm, êm dịu cũng đã đưa đến cho người xem trạng thái yên bình,

dung dị, thân thuộc của phong cảnh xung quanh.

Tiểu kết

Trong chương 2, đề tài nghiên cứu sự biểu hiện tinh thần lạc quan trong

những tác phẩm hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954

– 1985 thông qua phương tiện của ngôn ngữ tạo hình như màu sắc, hình dáng,

hình thể và bố cục. Bối cảnh lịch sử đất nước, xã hội đã tác động lớn đến tư

tưởng, ngôn ngữ tạo hình, quan niệm sáng tác nghệ thuật nói chung và hội

họa nói riêng của người nghệ sĩ.

49

Năm 1954 đánh dấu thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, cũng từ

đây, người dân miền Bắc được làm chủ công việc, họ lao động cho chính bản

thân mình, không còn bị bóc lột, làm thuê cho giai cấp địa chủ phong kiến.

Điều đó đã tạo ra một diện mạo mới cho cuộc sống lao động từ làng quê đến

thành thị. Hình tượng người lao động xuất hiện trong tranh giai đoạn 1954 –

1985 luôn mang một tâm thế, một tinh thần lạc quan, hứng khởi trong công

việc của mình. Cụ thể, khi thể hiện trên bề mặt tác phẩm, họa sĩ đã sử dụng

hòa sắc của những gam màu tươi sáng, rực rỡ cùng sự tương phản mạnh mẽ

để tạo ấn tượng thị giác cho xúc cảm người xem. Bên cạnh đó, hình thể nhân

vật trong những tác phẩm này cũng được chú trọng đó là thường được tạo

hình khỏe khoắn, khúc triết với những động tác rất linh hoạt. Tranh thường có

bố cục với nhịp điệu chuyển động nhanh, mạnh mẽ, năng động, khoáng đạt

mang tính khái quát cao. Tất cả kết hợp lại đã góp phần làm rõ sự biểu hiện

của tinh thần lạc quan qua những tác phẩm hội họa về đề tài lao động sản xuất

giai đoạn 1954 – 1985, đồng thời khích lệ, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần người

dân Việt vượt qua khó khăn, vững bước tiến lên xây dựng Tổ quốc, hướng tới

tương lai tươi đẹp của cuộc sống.

50

CHƯƠNG 3

NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về sự biểu hiện tinh thần lạc quan

trong hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985, ở

nội dung chương 3, người viết đã chỉ ra những thành công và hạn chế của

những tác phẩm nêu trên, đồng thời qua đó, rút ra được bài học trong vấn đề

sáng tác hội họa.

3.1. Thành công và hạn chế của những tác phẩm hội họa Việt Nam

mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 –

1985

Thành công của những tác phẩm hội họa Việt Nam mang tinh thần lạc

quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985

Nhà tâm lý học L.X.Vưgôtxi có viết trong cuốn Tâm lý học nghệ thuật

của mình: “Hóa ra nghệ thuật thoạt đầu mang tính chất cá nhân, song thông

qua các tác phẩm nghệ thuật nó trở thành mang tính chất xã hội.” [11; tr.314].

Đối chiếu với các lĩnh vực nghệ thuật cách mạng nước ta trong đó có hội họa

thì dường như quả đúng vậy. Cùng với đó là sự ảnh hưởng của chủ nghĩa

Hiện thực xã hội chủ nghĩa đã tác động đến tư duy và phương pháp sáng tác

của người họa sĩ. “Chủ nghĩa hiện thực xã hội, do Liên bang Xô Viết – đứng

đầu phe xã hội chủ nghĩa – đề xướng, đã nêu ra một chủ trương duy nhất là

hội họa phục vụ chính trị, phục vụ công cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước

xã hội chủ nghĩa… Đối với chủ nghĩa hiện thực xã hội, tác phẩm không phải

là để phản ánh cái bản chất hay cá tính của nghệ sĩ mà là để trình bày những

tư tưởng lớn, thúc đẩy mọi sự tiến lên, kêu gọi mọi người hành động, và đó

mới là sự mệnh căn bản của nghệ thuật.” [30; tr.34]. Điều này thể hiện ở đề

tài của các tác phẩm luôn bám sát lịch sử, đáp ứng được những nhu cầu phục

51

vụ chính trị của đất nước, đồng thời phản ánh cuộc sống con người ở cả chiều

rộng và chiều sâu theo khuynh hướng tả thực cùng sự phong phú, đa dạng của

thể loại, đề tài, nội dung tác phẩm. Nghệ thuật luôn gắn với thời đại, là hơi

thở của thời đại và hội họa cũng không ngoài quy luật đó. Các họa sĩ Việt

Nam đã phần nào viết nên trang sử của dân tộc bằng Hội họa. Trong những

năm tháng sau khi chiến tranh kết thúc, hòa chung không khí cùng cả nước,

khi nền kinh tế thị trường của đất nước trong thời kì hậu chiến đang phát triển

khó khăn thì Nghệ thuật tạo hình Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 đã đóng

góp một phần công sức không nhỏ vào công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh

tế nói riêng bằng những tác phẩm hội họa chứa đựng tinh thần lạc quan về đề

tài lao động sản xuất đã mang lại nguồn động viên hết sức to lớn, tác động

tích cực tới tư tưởng và tâm tư tình cảm của con người Việt Nam lúc bấy giờ.

Về mặt nội dung, các tác phẩm đề tài lao động sản xuất trong giai đoạn

này chủ yếu phản ánh hiện thực cuộc sống với hình tượng điển hình là người

nông dân mới, công nhân mới bằng tư tưởng nhân văn, nhân đạo của người

nghệ sĩ. Hiện thực của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cho

thấy con người bắt đầu tham gia vào những lao động tập thể ở các làng xã hay

nhà máy, công trường, xí nghiệp. Cùng với đường lối, chính sách của Đảng đã

tác động đến các đô thị, miền quê, người lao động luôn mang niềm hạnh

phúc, lạc quan khi được làm chủ công việc của mình. Chính từ những điều

đang diễn ra trong cuộc sống của con người lao động ấy đã mang lại, khơi gợi

cảm hứng sáng tác cho rất nhiều các thế hệ họa sĩ thời bấy giờ. Có thể nói các

tác phẩm giai đoạn 1954 – 1985 đã mang dấu ấn thời đại khá rõ rệt. Đặc biệt,

trong số các tác phẩm được đưa ra trong quá trình nghiên cứu, có thể thấy

motif được mùa được lặp lại khá nhiều lần và các họa sĩ đã rất thành công ở

việc thông qua đó, thể hiện cũng như truyền tải tinh thần lạc quan, giúp người

xem cảm nhận được không khí phấn khởi của người nông dân miền Bắc buổi

đầu xây dựng đất nước khi đón nhận thành quả sau một thời gian lao động là

52

vụ mùa bội thu như: Mùa lúa chín (1954) chất liệu Lụa của Dương Bích Liên,

Sơn mài Gặt lúa ở Việt Bắc (1955) của Phan Kế An, Được mùa (1958) chất

liệu Lụa của Nguyễn Tiến Chung, Hợp tác xã đánh cá về (1961) chất liệu Lụa

của Vũ Giáng Hương, Sơn mài Gánh lúa về (1961) của Hoàng Tích Chù, Sơn

mài Được mùa (1962) của Nguyễn Kim Đồng, Sơn mài Đập lúa (1972) của

Nguyễn Tiến Chung.

Khi đã xác định được khuynh hướng nghệ thuật chủ đạo là Hiện thực

xã hội chủ nghĩa, với đề tài lao động sản xuất, không thể không nhắc tới sự

thành công về hình tượng người lao động – hình tượng chủ chốt của nghệ

thuật tạo hình nước ta, cụ thể là người nông dân và người công nhân. Hình

tượng người lao động trong các tác phẩm hội họa hiện lên rõ nét và đa dạng.

Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân khi nói về hình tượng người lao động có

viết: “Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, người lao động là kẻ thống trị xã hội,

lao động sản xuất trờ thành hoạt động cao quý nhất, thành niềm vui của con

người. Là lao động tự do, nên người lao động và hoạt động sản xuất trở thành

đối tượng thẩm mỹ của nghệ sĩ cũng như người xem.” [31]. Với việc là chủ

thể của tác phẩm, hình ảnh con người xuất hiện dù đang tham gia vào những

hoạt động lao động sản xuất dù nặng nhọc, vất vả nhưng ở họ vẫn luôn toát

lên nét dung dị, mộc mạc luôn hăng say làm việc với một tinh thần lạc quan

và tràn đầy niềm tin vào cuộc sống. Hình tượng con người được xây dựng

trong tác phẩm đã không còn đơn điệu như ở giai đoạn trước mà linh hoạt, đa

dạng ở dáng điệu, hình thể, luôn mang vẻ hân hoan, hứng khởi cùng niềm lạc

quan xuất phát từ đáy lòng trong không khí vui tươi. Các tác phẩm hội họa đề

tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 đã thể hiện thành công cái đẹp,

khỏe và hữu ích, đề cao, ca ngợi và làm tôn lên vẻ đẹp lý tưởng của hình

tượng người lao động.

Các tác phẩm hội họa thời kì này không chỉ phản ánh hình ảnh con

người trong lao động sản xuất mà đồng thời, sự biểu hiện của tinh thần lạc

53

quan cũng đã được họa sĩ thể hiện thông qua các yếu tố đặc trưng của ngôn

ngữ tạo hình rất thành công. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ tạo hình, tác phẩm

có thể mang lại, truyền tới người xem những rung cảm nhất định thông qua

thị giác và đồng thời cũng thể hiện được dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ.

Trong luận văn này, ba yếu tố chính nổi bật được người viết đưa ra đó là màu

sắc, hình thể – hình dáng và bố cục mà qua đó, tinh thần lạc quan trong hội

họa về đề tài lao động sản xuất được biểu hiện rõ nhất. Màu sắc là yếu tố đưa

đến những xúc cảm thị giác đầu tiên và nhanh nhất cho người xem. Các tác

phẩm được đề cập thường mang những màu sắc tươi sáng, rực rỡ, đem lại sự

hứng thú và tác động theo hướng tích cực tới tâm trạng người xem. Bên cạnh

đó, việc người họa sĩ khai thác, sử dụng đĩa màu đặc trưng của chất liệu cũng

đã góp phần làm nên thành công của yếu tố màu sắc. Sự khỏe khoắn trong

hình dáng – hình thể của nhân vật và các đối tượng phụ trợ cũng được họa sĩ

thể hiện thành công. Qua đó ta thấy được sự lạc quan, yêu đời, thoải mái từ

biểu cảm khuôn mặt, những cử chỉ, dáng điệu, động tác khi làm việc, đồng

thời tôn lên vẻ đẹp điển hình của những con người lao động. Các dạng thức

bố cục trong tranh được họa sĩ sử dụng đã có nhiều đổi mới hơn, phong phú

hơn với sự sắp xếp các yếu tố hình và màu theo hướng mạch lạc mà năng

động, linh hoạt. Với tất cả các yếu tố trong ngôn ngữ tạo hình được sử dụng

trong tác phẩm, đề tài lao động sản xuất đã giúp họa sĩ gửi gắm thông điệp,

truyền tải nội dung tư tưởng, mang đến cho người xem có những cảm nhận,

suy nghĩ theo hướng tích cực về cuộc sống, lạc quan và tin tưởng vào tương

lai phía trước.

Bên cạnh đó, việc sử dụng chất liệu cũng là yếu tố góp phần không nhỏ

cho sự thành công của Mỹ thuật nói chung trong đó có hội họa và các tác

phẩm đề tài lao động sản xuất nói riêng ở giai đoạn 1954 – 1985. Đối với chất

liệu đặc trưng của hội họa là Sơn dầu, Sơn mài, Lụa, người họa sĩ hoàn toàn

có thể kết hợp với cá tính sáng tác của riêng mình để tạo nên một tác phẩm

54

mang “tinh thần lạc quan” cùng dấu ấn riêng biệt. Chất liệu giai đoạn này tuy

có sự thiếu thốn, khó khăn về mặt họa phẩm, song vẫn được phát triển theo

hướng hoàn chỉnh hơn so với giai đoạn trước về kĩ thuật, màu sắc.Trong loạt

tác phẩm đề tài lao động sản xuất, chất liệu Sơn mài với lợi thế ở khả năng

cách điệu cao tạo sự đanh, chắc về hình những màu truyền thống đỏ, vàng,

đen, bạc, lục đã gợi sự ấm no, khỏe khoắn. Ngoài ra, ở chất liệu Lụa vẫn với

hòa sắc vàng, nâu sồng làm chủ đạo mang lại nét dung dị, chân quê thân

thuộc. Chất liệu Sơn dầu cũng được các họa sĩ lựa chọn sử dụng với ưu thế ở

bảng màu phong phú cũng như đa dạng trong bút pháp thể hiện. Trong số các

tác phẩm được đề cập trong luận văn, có thể nhận thấy Sơn mài là chất liệu

được phần đông các họa sĩ lựa chọn để thể hiện. Cùng với Lụa, Sơn mài là

một trong những chất liệu mang tính dân tộc cao.

Ngoài ra, các Họa sĩ Việt Nam đã rất tài tình trong việc sử dụng kết hợp

những chi tiết, hình ảnh phụ hỗ trợ cho hình tượng chỉnh – con người lao

động, góp phần làm cho bố cục tác phẩm thêm sinh động. Ở mảng đề tài lao

động sản xuất nông nghiệp, nét đặc trưng của vùng miền cùng những hình ảnh

đặc trưng cho nét đẹp nơi làng quê như cổng làng, khóm tre, đồng lúa, cây

rơm, đống rạ, con trâu, con bò, v.v… đã được đưa vào tác phẩm hết sức khéo

léo. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, Văn hóa Việt – Tâm hồn Việt luôn hiện hữu,

luôn có sẵn trong con người Việt Nam.

Tựu chung lại, bằng những rung cảm mãnh liệt, chân thực cùng tư

tưởng lạc quan cách mạng, nhiều họa sĩ đã thể hiện thành công các tác phẩm

với đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985. Những con người mới

trong tranh hiện lên trong tâm thế làm chủ công việc của mình, luôn mang

tinh thần lạc quan vượt lên những khó khăn, thiếu thốn của kinh tế thời hậu

chiến, hi vọng vào tương lai đất nước được ấm no, sánh vai với các cường

quốc trên thế giới. Những tác phẩm nổi bật có thể nói đã đạt được giá trị nghệ

thuật ở tầm cao, không chỉ thành công về tạo hình, bố cục, màu sắc trong

55

tranh mà còn là mẫu mực trong việc sử dụng ngôn ngữ hội họa để truyền đạt

nội dung tư tưởng của tác giả, đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn tính dân tộc –

hiện đại – hiện thực xã hội để tạo ra những tác phẩm có tinh thần lạc quan,

gần gũi với người xem. Thông qua việc thưởng thức tác phẩm, ta có thể cảm

nhận được tinh thần lạc quan, niềm tin tưởng vào tương lai của đời sống mà

người họa sĩ muốn truyền đạt. Và trong thực tế, niềm mong ước, tin tưởng ấy

của người xưa cho tới nay đã và đang dần trở thành hiện thực.

Hạn chế của những tác phẩm hội họa Việt Nam mang tinh thần lạc

quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985

Song hành cùng những thành công đã đạt được ở các tác phẩm hội họa

mang tinh thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 thì

việc tồn tại những hạn chế nhất định trong một số phương diện là điều không

thể tránh khỏi.

Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân trong cuốn Mỹ thuật Việt Nam

Thế kỷ 20 khi nói về Mỹ thuật Việt có đưa ra nhận định: “Nền mỹ thuật phát

triển đồng nhất theo một khuynh hướng là Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Chủ

nghĩa tập thể – bình quân, sự giống nhau về phong cách phần nào hạn chế sự

độc đáo cá nhân và chỉ sau một thập niên, tức đến đầu những năm 1970,

người ta thấy bệnh sơ lược và công thức khá trầm trọng.” [34; tr.71]. Do hoàn

cảnh xã hội và những yêu cầu chính trị của đất nước nên nền Mỹ thuật nói

chung, hội họa nói riêng thời kỳ này chủ yếu phản ánh tinh thần thời cuộc và

nặng tính phong trào, tuyên truyền, phục vụ hơn tính chuyên nghiệp. Sự hạn

chế của ngôn ngữ tả thực cùng với việc các tác phẩm đều vẽ về đề tài lao

động sản xuất nên đôi khi dẫn đến sự rập khuôn, công thức, đơn điệu, sơ lược

trong cách giải quyết vấn đề và tương đồng trong phong cách sáng tác. Điều

đó dẫn đến những đặc thù của ngôn ngữ hội họa, kỹ thuật thể hiện và phong

cách cá nhân của người nghệ sĩ lúc này chưa được phát huy đúng mức.

56

Sơn mài và Lụa là hai chất liệu mang nét đặc sắc riêng của nền hội họa

Việt Nam Hiện đại. Tuy nhiên ở cách thể hiện, với từng đề tài trong đó có lao

động sản xuất thì việc sử dụng hai chất liệu này vừa là lợi thế, mang tới sự

thành công cho tác phẩm mà người viết đã đề cập ở phần trước thì vẫn mang

một sự hạn chế nhất định. Các họa sĩ vẫn chủ yếu sử dụng, đi theo đĩa màu

truyền thống cho tranh Lụa và Sơn mài Việt từ thời Mỹ thuật Đông Dương,

chưa có sự cách tân nhiều, chỉ thay đổi trong cách tạo hình về bố cục, hình thể

để truyền tải nội dung. Về chất liệu hội họa, họa phẩm Sơn mài và Sơn dầu

cũng là hạn chế mà các họa sĩ Việt Nam gặp phải trong giai đoạn này.

1975 – 1985 có thể coi là giai đoạn mười năm đầu vất vả khi nền Mỹ

thuật Việt Nam nói chung và hội họa nói riêng lúc này đang đứng trong giai

đoạn chuyển tiếp giữa thời kỳ Hiện thực xã hội chủ nghĩa với thời kỳ Đổi

mới. “Đất nước vẫn bó trong quan hệ kinh tế văn hóa với khối xã hội chủ

nghĩa, trong khi chủ nghĩa xã hội hiện thực đã quá trì trệ và lâm vào khủng

hoảng toàn diện.” [34; tr.89]. Sau khi miền Nam được giải phóng năm 1975,

mô hình Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ tiếp tục được áp

dụng đối với Văn hóa – Văn nghệ trong đó có Mỹ thuật theo mô hình của

miền Bắc trước đó. Lúc này, khi chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa là thứ

nghệ thuật cần phải phát triển thì ta lại thiếu đi lực lượng làm lý luận đã dẫn

đến sự đồng nhất, rập khuôn và theo các công thức nhất định, các tác phẩm

với các đề tài mũi nhọn trong đó có lao động sản xuất chưa có sự khởi sắc

mới về nội dung cũng như ngôn ngữ tạo hình. Giai đoạn này, số lượng các tác

phẩm về đề tài lao động sản xuất nói riêng có phần ít dần đi so với giai đoạn

1954 – 1985 trước đó.

Ở giai đoạn sau Đổi mới, họa sĩ hầu như không bị gò bó vào một khuôn

khổ nào, họ có thể thỏa sức sáng tạo trong sự phong phú, đa dạng về đề tài,

chất liệu cũng như ngôn ngữ tạo hình. Đề tài lao động sản xuất với tinh thần

lạc quan vẫn được số ít họa sĩ lựa chọn, có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu

57

như: Chống hạn (1990) – Sơn mài của Phùng Phẩm [Hình 2.1; tr.104], Tát

nước đêm trăng (1996) – Sơn mài của Trần Đình Thọ [Hình 2.2; tr.104], Bình

minh trên cây cầu tương lai (2002) – Sơn dầu của Phạm Đức Phong [Hình

2.3; tr.105], Nhịp sống mới (2004) – Sơn dầu của Nguyễn Ngọc Long [Hình

2.4; tr.105].

Tóm lại, qua các tác phẩm tiêu biểu giai đoạn 1954 – 1985 kể trên, ta

có thể thấy đề tài lao động sản xuất mang tinh thần lạc quan đã được các họa

sĩ khai thác, thể hiện nhiều và rất thành công. Con người trong tranh là con

người mới – điển hình cho thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa. Những con

người luôn mang một tinh thần lạc quan, say mê lao động và được độc lập tự

chủ cuộc sống từ khuôn mặt tới dáng điệu nhân vật, không còn thấy sự lo

lắng, mệt mỏi, đó là điểm nhấn chủ đạo trong tác phẩm. Người xem thấy được

sự ảnh hưởng của Nhà nước đối với nhân dân trong sự hăng say lao động, xây

dựng đất nước thông qua các tác phẩm hội họa. Bên trong những sáng tác ấy

là những quan niệm, tư tưởng về cách nhìn cũng như phong cách tạo hình

khác nhau của người họa sĩ. Đồng thời, bằng việc sử dụng kết hợp các

phương tiện của ngôn ngữ tạo hình, họa sĩ đã đưa vào tác phẩm những hình

ảnh điển hình, đặc trưng nhất để góp phần vào việc cổ vũ, động viên, khích lệ

tinh thần toàn dân vượt qua những khó khăn của thực tại, cùng nhau phấn đấu

lao động trong công cuộc tái thiết, đưa đất nước đi lên, phát triển ngày càng

vững mạnh, mở ra một tương lai ấm no. Không thể phủ nhận những hạn chế

mắc phải vẫn tồn tại, song với các thành công đạt được ở các tác phẩm về đề

tài lao động sản xuất đã đánh dấu những thành tựu trong tiến trình phát triển

của hội họa nói riêng, góp phần tạo nên điểm nhấn rực rỡ cho nền Mỹ thuật

Việt Nam Hiện đại nói chung.

58

3.2. Bài học rút ra trong vấn đề sáng tác hội họa

Quá trình nghiên cứu, tìm hiểu những công trình, tài liệu có liên quan

tới đề tài đã mang lại những cơ sở lý luận, giúp cho việc hình thành, xây

dựng, củng cố những luận điểm, luận cứ trong luận văn tốt nghiệp. Đồng thời,

kết hợp với những vấn đề được đề cập trong luận văn đã đem lại, bổ sung

thêm cho người viết những kiến thức khái quát chung, từ đó rút ra được bài

học trong vấn đề sáng tác hội họa.

Khác với các loại hình nghệ thuật khác, Hội họa là một ngành nghệ

thuật nhằm tạo nhu cầu thẩm mỹ cho thị giác với đặc trưng là sự biểu hiện

không gian lên mặt phẳng tranh, được diễn đạt bằng màu sắc, hình thể và sự

sắp xếp bố cục, v.v… đây cũng là cơ sở để hình thành nên tác phẩm để người

họa sĩ gửi gắm thông điệp hay những cảm xúc của mình tới người xem. Đồng

thời, người sáng tác phải biết tính làm sao để trong mặt phẳng hữu hạn đó có

thể biểu đạt được cái vô hạn của thế giới nội tâm, tình cảm của con người.

Nghệ thuật trước hết bắt nguồn từ cuộc sống, việc diễn tả được cuộc sống tự

nhiên luôn là mục đích của người nghệ sĩ. Trong hội họa, để đưa những sự

vật, hình tượng, v.v… của không gian ba chiều lên mặt phẳng, người họa sĩ sẽ

tìm hiểu và ghi nhận những đặc điểm, cấu trúc của đối tượng rồi sau đó, diễn

tả bằng một chất liệu đặc thù như Sơn dầu, Sơn mài hay Lụa kết hợp cùng với

việc sử dụng ngôn ngữ tạo hình.

Hội họa không chỉ phản ánh, tái hiện lại những điều chúng ta thấy trước

mắt mà còn là sự thể hiện thế giới nội tâm của con người, mỗi bức vẽ chứa

đựng trong đó những xúc cảm chân thành, những điều mà họa sĩ muốn gửi

gắm. Một tác phẩm mỹ thuật có chất lượng tốt sẽ luôn mang lại cho người

xem những cảm xúc thẩm mỹ tốt, hướng con người tới những giá trị tốt đẹp

của cuộc sống, thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tích cực.

59

Song hành cùng với sự phát triển của đời sống văn hóa nói chung và

nền Nghệ thuật tạo hình tại Việt Nam nói riêng, yếu tố “tinh thần” luôn được

xem là một khía cạnh quan trọng, làm nên giá trị nổi bật của các tác phẩm

thuộc từng thời kỳ Mỹ thuật. Bên cạnh những yếu tố tác động tới tinh thần

con người thì lạc quan là điều quan trọng để giúp hội họa đạt được mục đích

lớn lao của mình. “Đặc điểm tâm lý của người Việt là luôn lạc quan yêu đời,

mau chóng quên đi các ám ảnh của chiến tranh để thích nghi, hòa mình vào

cuộc sống mới. Tâm lý nghệ thuật của người Việt là tâm lý phương Đông

truyền thống, luôn hướng tới tình cảm êm đềm, dung hòa, hướng tới tính trang

trí duy mỹ, gửi gắm lên tranh những màu sắc ước vọng cá nhân, ít thích đưa

những vấn đề chính trị xã hội căng thẳng, nặng nề lên mặt tranh. Do vậy, mặc

dù đang ở vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế, trên tranh không có cảnh đói

nghèo khổ cực, mà luôn bình ổn, lạc quan, duy mỹ” [1; tr.249]. Có thể hiểu

tinh thần lạc quan ở đây là hướng tư tưởng con người đến cái tốt đẹp, đến giá

trị nhân đạo, làm cho họ xích lại gần nhau hơn, cùng nhau hướng tới tương lai

tươi sáng hơn.

Hội họa đã phản ánh hiện thực xã hội bằng cái nhìn lạc quan trong hơi

thở của thời đại, phản ánh kịp thời những dấu ấn trong dòng chảy lịch sử của

đất nước. Điều này đã được đặt nền móng trong giai đoạn mỹ thuật ở chiến

khu Việt Bắc: “Nhà trường thường xuyên tổ chức triển lãm quanh nơi học,

bày các tranh bột màu, thuốc nước, chì than khi thì cổ động cho phong trào

sản xuất và tiết kiệm đóng thuế nông nghiệp, khi thì biểu dương tinh thần

chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ, anh hùng, khi thì khích lệ lòng yêu nước

của quần chúng hăng hái đi dân công phục vụ các chiến dịch với khẩu hiệu

chung: Tất cả cho tiền tuyến.” [30; tr.32]. Đường lối giảng dạy của trường

dựa theo phương châm đường lối của Đảng: “Dân tộc, Khoa học, Đại chúng;

lấy Công – Nông – Binh làm đối tượng chính”, từ đó mà các Họa sĩ Việt Nam

đã luôn đề cao ý thức trách nhiệm của mình trước lịch sử. Với tinh thần lạc

60

quan cách mạng, tin tưởng vào tương lai tất thắng, vào độc lập – tự do, những

người Nghệ sĩ – Chiến sĩ tự nguyện đứng trong mặt trận Văn hóa – Văn nghệ

đã kiên cường, dũng cảm, đương đầu với mọi gian khổ khó khăn để thực hiện

một nền Nghệ thuật vị Nhân sinh, vì Nhân dân, vì Tổ quốc. Tiếp đó, thực tại

đất nước giai đoạn 1954 – 1985 đã trở thành nguồn cảm hứng cho các họa sĩ

và trong đó có đề tài lao động sản xuất. Khi phản ánh những hoạt động trong

lao động sản xuất, người họa sĩ thể hiện nội dung hiện thực nhưng không vì

thế mà trần trụi. Họ chọn cách biểu đạt theo hướng mở ra những cảm xúc tốt

đẹp, không thể hiện những khó khăn, thiếu thốn mà là sự đồng lòng, đoàn kết

giữa người với người. Từ đó góp phần cổ vũ, động viên, tác động tích cực tới

tinh thần của những con người nông dân mới, công nhân mới.

Khi xã hội phát triển, hội họa nói riêng cũng thay đổi và mang lại những

dấu ấn mới, tư duy mới về ngôn ngữ tạo hình. Đây là công cụ để biểu đạt, là

những từ ngữ, tiếng nói của hội họa có thể làm rung động lòng người. Trên

những bố cục với kết cấu của nhịp điệu, hình ảnh được sắp xếp theo một trật

tự nào đó, những hình thể của con người, tác động của ánh sáng, tất cả được

thể hiện bằng hình và sắc trên bề mặt tranh, bằng ngôn ngữ tạo hình riêng của

mỗi họa sĩ. Đồng thời, việc quan sát của họa sĩ khác với sự quan sát của tác

giả các loại hình nghệ thuật khác như Âm nhạc hay Văn học. Khi nhìn vào

một sự vật hiện tượng nào đó, họa sĩ thường chú trọng vào các yếu tố hình

khối, đường nét, màu sắc, nhịp hướng và mối tương quan qua lại giữa chúng.

Khả năng quan sát của mỗi cá nhân họa sĩ có thể phụ thuộc và phát triền theo

quá trình nhận thức và trải nghiệm cuộc sống của họ.

Tương ứng với mỗi nội dung, đề tài của tác phẩm, người họa sĩ sẽ tìm

phương thức biểu đạt phù hợp. Muốn có nội dung cần có hình thức, giữa nội

dung và hình thức thể hiện cần có sự thống nhất với nhau để người xem có thể

hiểu, tiếp cận rõ được vấn đề trong tác phẩm. Bên cạnh đó, hình thức biểu đạt

tác phẩm còn cho ta thấy được những chứa đựng trong tính cách, trạng thái

61

tâm lý, thậm chí là những yếu tố văn hóa đã thấm sâu bên trong con người của

tác giả. Đồng thời, đây cũng là một thành tố quan trọng để phân biệt và làm

nên cá tính nghệ thuật riêng của từng họa sĩ. Tuy nhiên, vấn đề về ý nghĩa hay

phương thức tạo hình không phải lúc nào cũng được họa sĩ đặt ra, tính toán

trước bằng lý trí cho tác phẩm của mình. Đôi khi nó chỉ là vô tình được họa sĩ

tạo ra, nhưng dù có là vậy thì những gì ta thấy được nơi bức họa cũng chính là

một phần lý trí ẩn sâu trong cảm xúc của người nghệ sĩ khi thể hiện. Những

điều đó đã thấm dần vào tư tưởng, tư duy, quan niệm sáng tác qua quá trình

rèn luyện, đúc kết và cảm nhận về cuộc sống cũng như về ngôn ngữ nghệ

thuật của người họa sĩ. Trong việc sáng tác, từ những cảm xúc ban đầu, người

họa sĩ muốn tạo nên tác phẩm hội họa ngoài việc xác định nội dung muốn

truyền tải còn cần nắm vững những phương thức biểu đạt của ngôn ngữ tạo

hình như màu sắc, hình thể, đường nét, bố cục, v.v…, đồng thời phải kết hợp,

vận dụng vốn sống, vốn kinh nghiệm thực tế để thể hiện tác phẩm. Có như

vậy, tác phẩm mới có thể dễ dàng tiếp cận, đến gần hơn và mang lại những ấn

tượng thị giác cùng xúc cảm thẩm mỹ cho người thưởng tranh.

Với một tác phẩm nghệ thuật nói chung, hình thức và nội dung luôn có

sự liên kết, thống nhất với nhau. Hình thức là phương tiện để phản ánh nội

dung và ngược lại, nội dung luôn cần có hình thức để biểu đạt, thể hiện. Khi

sáng tạo nghệ thuật, cần tìm sự khác nhau, phong phú, đa chiều trong từng tác

phẩm từ nội dung đến hình thức thể hiện, tránh sự đơn điệu, nhàm chán, dễ

dãi hay lặp lại những lối mòn mang tính công thức. Trong quá trình sáng tác

hội họa, người họa sĩ sẽ đưa cảm xúc cá nhân mình lên bề mặt tác phẩm của

mình. Bởi vậy, mỗi cá nhân sẽ có những tư duy, suy nghĩ riêng biệt về nghệ

thuật và tạo ra những phong cách đặc trưng mang dấu ấn của bản thân.

Sự hình thành ngôn ngữ tạo hình trong tác phẩm chính là sự đề cao

tính cá nhân, năng lực cảm nhận và khả năng thể hiện của người họa sĩ. Hội

họa là một công việc đòi hỏi sự sáng tạo, bởi vậy nên việc không ngừng học

62

hỏi để tìm ra những thay đổi trong hình thức thể hiện, phong cách biểu đạt

riêng cho mình nhằm tạo nên sự thỏa mãn thị giác cùng những cảm xúc mới

lạ ở tác phẩm, đồng thời giúp cho hội họa được nhìn nhận và thưởng thức

đúng hướng luôn là điều được các họa sĩ quan tâm, trăn trở.

Nhà nghiên cứu mỹ thuật Chu Quang Trứ đã đưa ra vài suy nghĩ khi

nói về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình và đồng thời, người viết cũng thấy

những điều này rất quan trọng đến vấn đề sáng tác hội họa: “Chúng ta đều là

người Việt Nam, nhưng không phải ai cũng hiểu đầy đủ tâm hồn Việt Nam.

Chính tâm hồn Việt Nam là cái chất của tính dân tộc. Tâm hồn Việt Nam là

nét sâu sắc chi phối lối suy nghĩ và cách diễn đạt của người nghệ sĩ tạo hình

trong tác phẩm của mình. Tâm hồn Việt Nam tuy không phải là cái có thể sờ

thấy, nhưng có thể cảm nhận thấy được, nó hình thành trong sự cố kết của các

tế bào trong đại gia đình Việt Nam từ hồi dựng nước, rồi trải qua suốt 4000

năm giữ nước và phát triển cho đến tận ngày nay… Là tâm hồn Việt Nam, vì

thế ta phải bắt nguồn từ vốn cũ nghệ thuật tạo hình – những thành quả của lớp

nghệ sĩ cha ông thuộc nhiều thế hệ trước. Nắm được vốn cũ rồi ta sẽ đổi mới,

cũng tức là nâng cao kịp với tâm hồn thời đại.” [44; tr.112] và “Ngày nay,

nghệ sĩ tạo hình muốn có tác phẩm mang được tính dân tộc, trước hết luôn

nhớ mình là người Việt Nam, cần nắm vững vốn cũ nhiều thế hệ nghệ sĩ cha

ông để lại. Nắm được vốn cũ rồi, phải nâng lên theo thời đại. Thời đại của

chúng ta, thời đại vĩ đại nhất trong 4000 năm lập nước, thời đại cả dân tộc anh

hùng. Xung quanh ta đâu cũng có những kỳ tích, nhưng những cái điển hình

nhất phải là những mũi nhọn của cuộc sống.” [44; tr.115].

Nghệ thuật tạo hình nói chung trong đó có hội họa luôn luôn chuyển

biến và đổi mới theo sự phát triển không ngừng của xã hội. Tuy nhiên, không

thể vì vậy mà thay đổi tận gốc những giá trị truyền thống trong nền nghệ thuật

nói chung, hội họa nói riêng cùng các ngôn ngữ tạo hình đã thành công mà

nên lựa chọn một hình thức thể hiện phù hợp, trau dồi, tiếp nối, phát triển theo

63

hướng tích cực hơn để làm giàu cho ngôn ngữ nghệ thuật ở thời đại của mình

thêm phong phú. Có thể thấy rõ điều này qua câu chuyện của các học sinh

khóa Tô Ngọc Vân – khóa đầu tiên ngày hòa bình mới lập lại, sau này hầu hết

đã trở thành lớp họa sĩ nòng cốt cho nền Mỹ thuật Việt Nam Hiện đại. Họ đã

kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo những nét tinh hoa của mỹ thuật truyền

thống cùng hiện thực dân tộc Việt Nam một thời vẻ vang của nền Mỹ thuật

Đông Dương đi trước về phương pháp thể hiện. So với nền Hội họa “hiện

thực nên thơ” thời Pháp thuộc thì hội họa nói riêng, Mỹ thuật Việt Nam nói

chung giai đoạn 1954 – 1985 đã được cải tạo và thay thế bằng một nền hội

họa mang đậm nét chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn giữ được

tinh thần dân tộc được thể hiện ở từng tác phẩm cụ thể.

Việc thúc đẩy sự phát triển của nền nghệ thuật nói chung trong đó có

hội họa là phù hợp với xu thế chung của văn hóa xã hội, giúp hội họa nhanh

chóng thích ứng được với guồng quay của xã hội, trở nên phong phú, đa dạng,

thi vị hơn trong đề tài, thể loại và ngôn ngữ biểu đạt. Đối với lớp thế hệ họa sĩ

đương đại, họ vừa tiếp thu truyền thống dân tộc, vừa tiếp cận những trào lưu,

khuynh hướng nghệ thuật mới của thế giới. Trong số họ, có những người tiếp

thu những xu hướng nghệ thuật hiện đại mới như Lập thể, Trừu tượng, Dã

thú, Siêu thực, v.v… để tìm hướng đi cho phong cách của mình, số khác lại

tìm cảm hứng sáng tác từ chính nguồn cội, quay về với hồn cốt dân gian

truyền thống của dân tộc hay tìm cách để tạo cho mình một phong cách riêng

biệt. Trên nền tảng cơ sở đó, đối với một đề tài, đối tượng cụ thể, người họa sĩ

sẽ lựa chọn phong cách phù hợp để thể hiện tác phẩm sao cho hiệu quả và

đúng ý đồ của mình.

Trong giai đoạn nước ta hiện nay, với nền kinh tế thị trường luôn có

những biến động, tác động tới tư tưởng, tâm lý của con người thì những tác

phẩm hội họa đề tài lao động sản xuất mang tinh thần lạc quan phần nào có

thể giúp họ đón nhận những mặt trái của thực tại, khó khăn bằng suy nghĩ tích

64

cực hơn. Bên cạnh đó, bản thân mỹ thuật Việt lúc này dường như cũng khó

tránh được việc bị thương mại hóa. Thông qua một số triển lãm lớn nhỏ đã

diễn ra trong nhiều năm trở lại đây, ta có thể thấy họa sĩ đôi khi hướng về tính

chủ quan, cái tôi cá nhân, về nội tâm của mình với cái nhìn có phần tiêu cực

mà ít quan tâm, chú ý tới đời sống chung. Hoặc có chăng, khi đề cập tới

những vấn đề trong xã hội hiện đại nói chung thì đôi lúc vẫn thiếu đi cái nhìn

lạc quan, từ đó làm cho tinh thần của công chúng ít nhiều bị ảnh hưởng.

Trong xã hội toàn cầu hóa mà ta đang sống, công nghệ phát triển giúp cho con

người có thể tiếp cận một cách dễ dàng những giá trị văn hóa của nhân loại.

Cùng với đó, sự tương tác giữa các nền văn hóa càng ngày càng được mở

rộng và những khuynh hướng nghệ thuật mới được ra đời. Điều này tưởng

như có lợi nhưng đồng thời cũng đặt người vẽ vào thách thức mới về vấn đề

bản sắc cá nhân. Người nghệ sĩ lúc này cũng cần có những thay đổi thích hợp

để theo kịp thời đại, xu thế phát triển của văn hóa xã hội. Tuy nhiên, việc bắt

chước cái tôi của người khác hay a dua theo một trào lưu nào đó một cách

nhất thời khi không có một kiến thức nền vững chắc, hiểu và nắm được tính

chất của vấn đề sẽ làm cho người họa sĩ không tìm được cái tôi cá nhân của

mình trong dòng chảy đó. Chính vì vây, để phát huy được giá trị tích cực

trong từng tác phẩm hội họa, thế hệ họa sĩ trẻ kế cận cần rèn luyện khả năng

quan sát, bồi đắp thế giới nội tâm, không ngừng sáng tạo kĩ năng biểu đạt,

lĩnh hội, kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống vốn có, đồng thời

tiếp thu có chọn lọc những khuynh hướng nghệ thuật mới của thế giới cùng

tinh hoa nhân loại, phản ảnh thực tại một cách lạc quan để từ đó có thể tạo

được dấu ấn, phong cách riêng độc đáo cho sự nghiệp sáng tác của mình.

Đồng thời, việc xây dựng nền tảng lý thuyết về vấn đề phát huy những giá trị

dân gian truyền thống, gìn giữ tính dân tộc trong đề tài, ngôn ngữ biểu đạt,

v.v… cũng là điều hết sức quan trọng trong thời đại và xu thế hiện nay bởi nó

giúp khai mở, tạo định hướng vững chắc, dẫn lối chỉ đường cho việc phát huy

65

tinh thần lạc quan trong các sáng tác hội họa ở các thế hệ tiếp nối. Có như

vậy, hội họa mới luôn phát triển theo hướng đi lên, vươn xa đến tầm cao mới

mà không làm mất đi những giá trị truyền thống hàng ngàn năm đã được dựng

xây, gìn giữ và bảo trọng của dân tộc Việt Nam, góp phần làm cho đời sống

tinh thần con người thêm lạc quan, yêu đời.

Tiểu kết

Chương 3 của đề tài nghiên cứu đưa ra những thành công đạt được và

hạn chế không tránh khỏi của những tác phẩm hội họa Việt Nam mang tinh

thần lạc quan về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 ở những

phương diện về nội dung, tư tưởng, đối tượng phản ánh, ngôn ngữ tạo hình,

v.v… Các tác phẩm ngoài việc chứa đựng những thông điệp của thời đại,

phản ánh hiện thực của đất nước, người họa sĩ đã truyền đến người xem niềm

lạc quan, tin tưởng vào tương tai của đất nước. Hội họa về đề tài lao động sản

xuất giai đoạn này đã tạo điểm nhấn, góp phần đánh dấu cho chặng đường

phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Đây cũng là giai đoạn làm

tiền đề cho nền Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ Đổi mới hình thành, phát triển.

Bên cạnh đó, bài học trong sáng tác hội họa cũng là vấn đề được rút ra từ việc

nghiên cứu đề tài. Đối với thế hệ họa sĩ trẻ hiện nay, việc nghiên cứu, chủ

động học hỏi, lĩnh hội, tiếp thu những giá trị quý báu về cách đặt vấn đề cũng

như thể hiện tác phẩm của các bậc thầy đi trước là một điều hết sức cần thiết

và bổ ích để có thể áp dụng vào việc sáng tác mỹ thuật của mỗi cá nhân. Đồng

thời, người họa sĩ luôn phải vận dụng vốn sống, kinh nghiệm thực tế của mình

để thể hiện tác phẩm, có vậy thì người xem mới có thể tiếp cận tác phẩm một

cách dễ dàng hơn.

66

KẾT LUẬN

Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công cùng những Đường lối

Văn hóa – Văn nghệ của Đảng đề ra đã làm thay đổi nhận thức của người

nghệ sĩ với chủ trương “Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, văn nghệ sĩ là

chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Hòa chung vào không khí của đất nước, hội họa

Việt Nam nói riêng cũng có sự chuyển mình từ chủ nghĩa cá nhân, cái tôi tự

do sang chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa với đề tài chính là chiến tranh

cách mạng và lao động sản xuất thông qua những tác phẩm được thể hiện

bằng ngọn bút tả thực nhưng đều mang tinh thần lạc quan của người nghệ sĩ.

Qua phần tìm hiểu sự biểu hiện của tinh thần lạc quan trong hội họa

Việt Nam giai đoạn 1954 – 1985 về đề tài lao động sản xuất, chúng ta có thể

thấy hầu hết các tác phẩm đều thể hiện niềm vui, yêu đời, lạc quan, hăng say

lao động với chủ trương “Lao động là vinh quang. Thi đua là yêu nước”. Tuy

đây là giai đoạn đất nước đang ở trong thời kỳ hậu chiến còn rất khó khăn, vật

chất còn thiếu thốn nhưng ta không hề bắt gặp những điều này trong tranh.

Thông qua những đặc điểm của ngôn ngữ tạo hình, người họa sĩ sử dụng bút

pháp tả thực, dễ hiểu, cùng bố cục nhịp điệu mạch lạc mà năng động, hình thể

nhân vật chắc khỏe, màu sắc tươi sáng, v.v.. để từ đó, tinh thần lạc quan được

biểu hiện rõ nét trong những tác phẩm hội họa về đề tài lao động sản xuất.

Dường như tinh thần lạc quan luôn tiềm tàng trong mọi lĩnh vực của

đời sống của con người, nó lan tỏa từ cá nhân tới cộng đồng và ngược lại,

giúp cho tư tưởng của con người được tích cực hơn khi trong hoàn cảnh khó

khăn. Thời hậu chiến, đất nước với nền kinh tế lạc hậu, khó khăn, cuộc sống

nghèo đói nhưng dường như con người Việt Nam vốn quen chịu đựng, luôn

tiềm tàng niềm lạc quan yêu đời nên đối với họ, niềm vui hòa bình mới là

điều quan trọng, tin tưởng vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước và sự

lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng, quan niệm xuất phát từ trong sâu thẳm tâm hồn

67

con người Việt Nam từ xưa vốn lạc quan, yêu cuộc sống, hướng về những

điều tốt đẹp và có lẽ bởi vậy mà các sáng tác của nền nghệ thuật nước ta nói

chung, trong đó có hội họa luôn hướng công chúng tới tương lai với những

điều tích cực cho dù hiện thực có khó khăn đi chăng nữa.

Bên cạnh những thành công của việc thể hiện tinh thần lạc quan trong

những tác phẩm hội họa Việt Nam về đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954

– 1985 thì vẫn tồn tại một số sự hạn chế nhất định ở hình thức và nội dung.

Mặc dù vậy, đây cũng là giai đoạn mang lại đặc điểm riêng cho hội họa Việt

Nam về đề tài lao động sản xuất và có nhiều đóng góp cho nền Mỹ thuật Việt

Nam Hiện đại, là tiền đề quan trọng để hội họa thời kỳ Đổi mới nói riêng phát

triển theo hướng tích cực hơn.

Hội họa quả thực là một lĩnh vực nghệ thuật vô cùng rộng lớn và kèm

với đó, sự sáng tạo là điều không có giới hạn. Trải qua tiến trình phát triển

của nền hội họa nói riêng và Mỹ thuật nói chung, có rất nhiều họa sĩ đã tới và

đã đi. Nhưng điều mà họ để lại cho chúng ta là kho tàng quý báu, vô giá với

những tác phẩm hội họa không chỉ mang dấu ấn cá nhân của người họa sĩ mà

ở đó, ta còn có thể cảm nhận được hơi thở của cả một thời đại họ từng sống.

Thời đại ngày nay – thời đại của kỷ nguyên số, người họa sĩ có thể tiếp cận

nhanh chóng những khuynh hướng, xu thế mới được ra đời trên thế giới của

lĩnh vực nghệ thuật tạo hình nói riêng. Việc hòa nhập đó luôn là con dao hai

lưỡi, bên cạnh mặt tích cực thì sẽ tồn tại những hạn chế, thách thức để làm sao

hòa nhập nhưng không hòa tan. Bởi vậy, việc gìn giữ, bảo trọng, tiếp nối và

phát triển những giá trị nghệ thuật truyền thống theo hướng tích cực là điều

cần thiết đối với các thế hệ họa sĩ trẻ kế cận, giúp cho nền Mỹ thuật Việt Nam

có thể vươn xa đến một tầm cao mới mà không làm mất đi Bản sắc Văn hóa

Dân tộc.

68

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên) (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại,

Viện Mỹ thuật – Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

2. Bernard Duc, Nghệ thuật bố cục và khuôn hình, Nxb Fleurus. (Tài liệu do

Đức Hòa dịch)

3. Trần Văn Cẩn (1975), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà

Nội.

4. Phạm Thị Chỉnh (2007), Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Đại học Sư

phạm.

5. Lê Văn Dương – Lê Đình Lục – Lê Hồng Vân (2009), Mỹ học đại cương,

Nxb Giáo dục.

6. Lê Xuân Đức (2004), đề tài Hội họa với đề tài công nghiệp, trường Đại học

Mỹ Thuật Việt Nam.

7. Trương Hạnh (1996), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại, Nxb Mỹ thuật.

8. Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội.

9. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh.

10. Kandinsky (2014), Về cái tinh thần trong nghệ thuật, Phạm Long – Quang

Việt dịch, Nxb Mỹ thuật.

11. L.X.Vưgôtxi (1981), Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, Nxb Khoa

học xã hội.

12. Nguyễn Trường Linh (2006), đề tài Ngôn ngữ của mặt phẳng hội họa,

trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

13. Nguyễn Kim Loan (2007), Họa sĩ Việt Nam – Chân dung và sáng tạo,

Nxb Mỹ Thuật.

69

14. Nguyễn Hoàng Long (2016), đề tài Những sáng tác hội họa Việt Nam về

đề tài công nghiệp giai đoạn 1976 – 1995, trường Đại học Mỹ thuật Việt

Nam.

15. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển mỹ thuật, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà

Nội.

16. Đàm Luyện (2007), Giáo trình bố cục, Nxb Đại học Sư phạm.

17. Hội Mỹ thuật Việt Nam (2009), Những vấn đề Mỹ thuật Việt nam hiện đại

– Kỷ yếu hội thảo, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

18. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ

thông, Nxb Giáo dục.

19. Hữu Ngọc (2004), Hội họa Việt Nam hiện đại thuở ban đầu, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

20. Nguyễn Chí Nguyên (2012), đề tài Hình tượng người nông dân trong hội

họa Việt Nam thế kỷ 20, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

21. Nguyễn Thị Thúy Nguyệt (2015), đề tài Hình tượng người nông dân trong

hội họa hiện đại Việt Nam giai đoạn 1955 – 1965, trường Đại học Mỹ thuật

Việt Nam.

22. Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ 1975 – 2005 (2005), Nxb Mỹ thuật.

23. Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ Đổi mới (2008), Nxb Mỹ thuật.

24. Mỹ thuật hiện đại – 1000 năm văn hiến Thăng Long – Hà Nội (2009),

Nxb Mỹ thuật.

25. Hoàng Phê – chủ biên (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.

26. Hoàng Phê – chủ biên (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung

tâm Từ điển học.

27. Hoàng Phê – chủ biên (2012), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách

khoa.

28. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiều tính cách dân tộc, Nxb Khoa học.

70

29. Quang Phòng, (1995), Phác họa một số họa sĩ trường Cao đằng Mỹ thuật

Đông Dương, tạp chí mỹ thuật, số 10, năm 1995.

30. Quang Phòng – Trần Tuy (1996), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ

thuật, Hà Nội.

31. Nguyễn Quân (1982), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

32. Nguyễn Quân (1986), Tiếng nói của hình và sắc, Nxb Văn hóa.

33. Nguyễn Quân (2005), Con mắt nhìn cái đẹp, Nxb Mỹ Thuật, Hà Nội.

34. Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Tri thức, Hà Nội.

35. Nguyễn Văn Tám (2012), đề tài Các dạng thức bố cục cơ bản trong tranh,

trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

36. Văn Tân (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.

37. Trần Đình Thọ (1973), Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

38. Nguyễn Văn Thuật (2012), đề tài Những thay đổi về cách biểu hiện không

gian trong hội họa, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

39. Phan Cẩm Thượng (2005), Nghệ thuật ngày thường, Nxb Phụ nữ.

40. Chu Quang Tiềm (1991), Tâm lý học văn nghệ, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh.

41. Đồng Xuân Toàn (2004), đề tài Hình tượng người nông dân trong hội họa

Việt Nam hiện đại, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.

42. Nguyễn Trân (1993), Lịch sử mỹ thuật thế giới, Nxb Mỹ thuật.

43. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật,

Hà Nội.

44. PGS. TS Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ thuật,

Nxb Mỹ thuật.

71

45. Phạm Ngọc Tuấn (2009), đề tài Yếu tố đường nét – nhịp điệu – hình thể -

khoảng trống – không gian trong hội họa, trường Đại học Mỹ thuật Việt

Nam.

46. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ Mátxcơva – Nxb Sự Thật.

47. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (1997), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

48. Đức Uy (1999), Tâm lý học sáng tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Thái Bá Vân (1998), Thái Bá Vân tiếp xúc với nghệ thuật, Viện mỹ thuật

Việt Nam, Hà Nội.

50. Viện Nghệ thuật – Bộ Văn hóa (1973), Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo

hình, Nxb Văn hóa.

51. Viện Mỹ thuật, Đại học Mỹ thuật Việt Nam (2000), Mỹ thuật Việt Nam

thế kỷ 20 – Kỷ yếu hội thảo, Nxb Mỹ thuật.

72

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

LƯƠNG THÙY TRANG

TINH THẦN LẠC QUAN TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM

VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN 1954 – 1985

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)

Mã số: 60210102

Khóa: 18 (2015 – 2017)

PHẦN PHỤ LỤC

Giảng viên hướng dẫn khoa học

PGS. TS. Bùi Thị Thanh Mai

Hà Nội – 2017

73

MỤC LỤC

PHẦN PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Những tác phẩm hội họa Việt Nam thể hiện tinh thần lạc quan về

đề tài lao động sản xuất giai đoạn 1954 – 1985 ................................................ 74

Phụ lục 2: Những tác phẩm hội họa Việt Nam thể hiện tinh thần lạc quan về

đề tài lao động sản xuất giai đoạn sau Đổi mới .............................................. 104

74

PHỤ LỤC 1

NHỮNG TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM THỂ HIỆN TINH THẦN LẠC

QUAN VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN 1954 – 1985

Hình 1.1: Dương Bích Liên, Mùa lúa chín (1954), sơn dầu 69x93,5 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

75

Hình 1.2: Phan Kế An, Gặt lúa ở Việt Bắc (1955), Sơn mài 49,8x64,8 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

76

Hình 1.3: Ngô Minh Cầu, Về nông thôn sản xuất (1957), Lụa 45,5x59,5 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

77

Hình 1.4: Nguyễn Đức Nùng, Dệt cửi quay tơ (1957), Lụa 55,6x70 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

78

Hình 1.5: Nguyễn Đức Nùng, Bình minh trên nông trang (1958)

Sơn mài 62x91 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

79

Hình 1.6: Hoàng Tích Chù, Tổ đổi công miền núi (1958)

Sơn mài 76,4x100cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

80

Hình 1.7: Trần Văn Cẩn, Tát nước đồng chiêm (1958), Sơn mài

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

81

Hình 1.8: Nguyễn Tiến Chung, Được mùa (1958), Lụa

Nguồn ảnh [22]

82

Hình 1.9: Lê Quốc Lộc, Giữ lấy hòa bình (1960), Sơn mài 70x120 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

83

Hình 1.10: Nguyễn Đỗ Cung, Bác Hồ thăm nhà máy xe lửa Gia Lâm (1960),

Sơn dầu 50x60 cm. Nguồn ảnh [31]

84

Hình 1.11: Lưu Công Nhân, Một buổi cày (1960), Sơn dầu 81x100 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

85

Hình 1.12: Nguyễn Kim Đồng, Kéo lưới (1960), Sơn mài 73,5x100cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

86

Hình 1.13: Vũ Giáng Hương, Hợp tác xã đánh cá về (1961)

Lụa 60,2x81,7cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

87

Hình 1.14: Hoàng Tích Chù, Gánh lúa về (1961), Sơn mài 100x150 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

88

Hình 1.15: Nguyễn Đỗ Cung, Công nhân cơ khí (1962), Sơn dầu 67x92 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

89

Hình 1.16: Nguyễn Kim Đồng, Được mùa (1962), Sơn mài 75x120 cm

Nguồn ảnh [7]

90

Hình 1.17: Nguyễn Sỹ Ngọc, Đổi ca (1962), Sơn mài 74,7x100 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

91

Hình 1.18: Nguyễn Tiến Chung, Đập lúa đêm (1964), Sơn mài

Nguồn ảnh [21]

92

Hình 1.19: Nguyễn Kao Thương, Xây dựng khu gang thép Thái Nguyên

(1964), Sơn mài 130x230 cm. Nguồn ảnh [sưu tầm]

93

Hình 1.20: Nguyễn Sỹ Ngọc, Một ngày mới lại bắt đầu (1965)

Sơn mài 94,5x114 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

94

Hình 1.21: Nguyễn Sáng, Chùa Tháp Phổ Minh (1966)

Sơn mài 100x150 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

95

Hình 1.22: Phạm Công Thành, Trai gái làm thủy lợi (1967), Lụa 65x90 cm

Nguồn ảnh [7]

96

Hình 1.23: Nguyễn Tiến Chung, Mỏ Đèo Nai (1969), Sơn mài 94,2x128 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

97

Hình 1.24: Nguyễn Tiến Chung, Đập lúa (1972), Sơn mài 50,2x201,4 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

98

Hình 1.25: Nguyễn Cương, Xưởng đóng tàu Bạch Đằng (1974), Sơn mài

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

99

Hình 1.26: Trần Liên Hằng, Xóm chài Quất Lâm (1974)

Sơn mài 75x143 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

100

Hình 1.27: Nguyễn Đỗ Cung, Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi (1976)

Sơn dầu. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

101

Hình 1.28: Lò An Quang, Xây trụ cầu Thăng Long (1977)

Sơn mài 90x120 cm. Nguồn ảnh [24]

102

Hình 1.29: Nguyễn Thế Vinh, Giã gạo (1980), Sơn mài 60x90 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

103

Hình 1.30: Nguyễn Kim Thái, Cầu sắt sông Hồng (1980),

Sơn dầu 100x120 cm. Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

104

PHỤ LỤC 2

NHỮNG TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM THỂ HIỆN TINH THẦN LẠC

QUAN VỀ ĐỀ TÀI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GIAI ĐOẠN SAU NĂM 1985

Hình 2.1: Phùng Phẩm, Chống hạn (1990), Sơn mài 120x140 cm

Nguồn ảnh [Bt. MTVN]

Hình 2.2: Trần Đình Thọ, Tát nước đêm trăng (1996), Sơn mài 74x92 cm

Nguồn ảnh [22]

105

Hình 2.3: Phạm Đức Phong, Bình minh trên cây cầu tương lai (2002)

Sơn dầu 100x120 cm. Nguồn ảnh [22]

Hình 2.4: Nguyễn Ngọc Long, Nhịp sống mới (2004), Sơn dầu 150x190 cm

Nguồn ảnh [22]