BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN PHƯƠNG THU
SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ TẠO HÌNH
TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI Ở VIỆT NAM
TỪ 1995 ĐẾN 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT
Hà Nội – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN PHƯƠNG THU
SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ TẠO HÌNH
TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI Ở VIỆT NAM
TỪ 1995 ĐẾN 2015
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60 21 01 02
Khóa: 18 (2015 – 2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Nguyễn Nghĩa Phương
Hà Nội – 2017
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Cty Công ty
GS Giáo sư
H Hình
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
TK Thế kỉ
TS Tiến sĩ
Tr Trang
TK Thế kỉ
1
MỤC LỤC
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
MỤC LỤC ........................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU .. 10
1.1. Khái niệm “Sự chuyển biến về tạo hình trong minh họa truyện thiếu
nhi” .................................................................................................................. 10
1.2. Khái quát về nghệ thuật minh họa tranh truyện cho thiếu nhi tại Việt
Nam. ................................................................................................................ 15
1.2.1. Nghệ thuật minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam trước 1995 .. 15
1.2.2. Nghệ thuật minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến
2015. ............................................................................................................ 18
1.3. Những nhân tố tác động đến sự chuyển biến về mặt tạo hình trong
minh họa tranh truyện thiếu nhi tại Việt Nam. .......................................... 19
1.3.1. Sự thay đổi về nhu cầu thẩm mĩ ........................................................ 19
1.3.2. Sự thay đổi về thế hệ họa sĩ .............................................................. 20
1.3.3. Sự thay đổi về công nghệ trong sáng tác minh họa .......................... 22
Tiểu kết ........................................................................................................... 23
Chương 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHUYỂN BIẾN TẠO HÌNH
TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI TẠI VIỆT NAM TỪ
1995 ĐẾN 2015 .............................................................................................. 25
2.1 Sự chuyển biến về hình thể trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
Việt Nam từ 1995 – 2015 ............................................................................... 25
2.1.1. Hình thể mang tính tả thực .............................................................. 28
2.1.2. Hình thể mang tính trang trí ............................................................ 31
2.2. Sự chuyển biến về màu sắc trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
Việt Nam từ 1995 – 2015 ............................................................................. 33
2
2.3. Sự chuyển biến về bố cục và không gian trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 – 2015 ................................................ 35
2.3.1. Sự chuyển biến về bố cục ................................................................ 35
2.3.2. Sự chuyển biến về không gian ........................................................ 37
2.4. Sự chuyển biến về chất liệu và kĩ thuật sáng tác.............................. 41
Tiểu kết .......................................................................................................... 43
Chương 3: THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ
TẠO HÌNH TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT
NAM TỪ 1995 – 2015 ................................................................................... 45
3.1. Những thành công của chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi giai đoạn 1995 – 2015 ....................................................... 45
3.1.1. Sự phong phú về tạo hình ................................................................ 45
3.1.2. Sự đa dạng về phong cách .............................................................. 50
3.1.3. Sự cởi mở trong tư duy sáng tác ..................................................... 51
3.2. Những hạn chế của sự chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi ở Việt Nam từ 1995 – 2015 ............................................ 51
3.2.1. Hạn chế về mặt tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi ở
Việt Nam từ 1995 - 2015 ........................................................................... 51
3.2.2. Hạn chế về biểu hiện tính dân tộc trong minh họa tranh truyện
thiếu nhi ở Việt Nam từ 1995 - 2015 ........................................................ 53
Tiểu kết .......................................................................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 58
PHẦN PHỤ LỤC ........................................................................................... 62
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Những ấn phẩm tranh truyện thiếu nhi tốt mang nhiều giá trị quan trọng
trong việc truyền tải kiến thức, phát triển nhân cách cũng như định hướng
thẩm mĩ cho trẻ em. Đó gần như là một trong những viên gạch đầu tiên góp
phần xây dựng thế giới quan cũng như định hướng thẩm mĩ cho trẻ em.
Trong số rất nhiều thể loại sách, truyện dành cho thiếu nhi thì tranh
truyện là thể loại rất phổ biến và rất gần gũi tại Việt Nam. Vẽ tranh truyện
thiếu nhi ở Việt Nam đã bắt đầu được triển khai từ khoảng cuối những năm
1950 khi nhà xuất bản Kim Đồng được thành lập. Tuy nhiên, từ năm 1995
cho đến 2015, tức là 20 năm mở cửa tiếp xúc nhiều hơn với thế giới, nhìn
chung các ấn phẩm tranh truyện thiếu nhi đã có nhiều chuyển biến. Có nhiều
đổi mới trong công nghệ phục vụ việc vẽ và in ấn, cũng như có nhiều xu
hướng thẩm mĩ mới được du nhập. Thêm vào đó, mỗi năm lại có một thế hệ
họa sĩ mới tham gia vào công việc sáng tác tranh truyện. Sự vận động nhanh
dần về mọi mặt đó ảnh hưởng rất lớn đến công việc minh họa tranh truyện của
các họa sĩ, mà dễ nhận thấy nhất chính là mảng tranh truyện cho thiếu nhi. Đi
đôi với những sáng tác chất lượng và mới mẻ thì cũng ngày càng nhiều những
ấn phẩm có minh họa còn dễ dãi, tạo hình yếu kém và thiếu tính thẩm mĩ đang
cùng tồn tại.
Thực trạng về minh họa tranh truyện cho thiếu nhi Việt Nam cũng từng
được đề cập đến trong một số bài viết, bài báo, luận văn. Tuy nhiên thường
được đề cập chung chung cùng với truyện tranh, sách khoa học…v.v dành
cho thiếu nhi chứ chưa từng được nghiên cứu sâu sự chuyển biến về mặt tạo
hình trong tranh truyện thiếu nhi. Ta có thể thấy rằng tranh truyện thiếu nhi là
một loại sách vừa có tính giải trí, vừa có tính giáo dục. Hình ảnh đẹp sẽ hấp
dẫn trẻ em và giúp ghi dấu trong kí ức trẻ nhỏ những câu chuyện hay, những
bài học về cuộc sống. Sau nhiều năm phát triển, sự thay đổi, chuyển biến về
4
tạo hình trong các minh họa tranh truyện dành cho thiếu nhi của Việt Nam là
vấn đề cần được quan tâm và nghiên cứu một cách nghiêm túc. Chính vì vậy,
học viên chọn nghiên cứu đề tài “Sự chuyển biến về tạo hình trong minh họa
tranh truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1995 – 2015” làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1 Tình hình nghiên cứu đề tài ngoài nước:
Minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam cũng như sự chuyển biến tạo
hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam chưa được đề cập tới.
Tuy nhiên vấn đề về tạo hình và minh họa có thể tìm được trong một số cuốn
sách sau:
Bernard Duc (1992) L’Art de la composition et du cadrage: peinture,
photographie, bandes dessinées, publicité, nxb Fleurus, Paris. ( Bản tiếng Việt
là Nghệ thuật bố cục và khuôn hình dành cho hội họa, nhiếp ảnh, tranh truyện
và quảng cáo, họa sĩ Đức Hòa lược dịch). Cuốn sách phân tích rất nhiều vấn
đề cơ bản về bố cục trong nghệ thuật thị giác như hội họa, nhiếp ảnh, tranh
truyện và quảng cáo. Cuốn sách bao gồm 16 chương phân tích một cách khoa
học nguyên tắc hoạt động của mắt người và các lý thuyết bố cục theo sau đó.
Cuốn sách là một công cụ cần thiết cho việc nghiên cứu sự chuyển biến tạo
hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi.
Uri Shulevitz (1985) Writing with Pictures: How to Write and Illustrate
Children's Books. Cuốn sách dày 272 trang, với khoảng hơn 600 minh họa
lớn nhỏ và rất nhiều kiến thức về minh họa sách thiếu nhi. Cuốn sách bao
gồm 4 phần. Phần 1 mở đầu bằng việc phân biệt các thể loại sách cho thiếu
nhi, quan hệ giữa hình ảnh và lời trong tranh truyện. Phần 2 cụ thể hóa công
việc vẽ minh họa tranh truyện của chính tác giả qua việc lên kế hoạch từng
bước làm việc rất khoa học và rõ ràng. Phần 3 được bắt đầu với lý thuyết:
mục đích minh họa là để làm rõ thêm hoặc sáng tỏ một số nội dung truyện, do
5
vậy các họa sĩ minh họa cần phải tạo nên những hình ảnh có nhiều thông tin.
Sau đó là nghiên cứu kĩ tất cả các vấn đề xoay quanh như kích thước, số
lượng tranh, hình ảnh tham khảo, bố cục, kỹ thuật và phong cách. Phần 4 nói
về các vấn đề in ấn trước khi xuất bản. Mặc dù chương cuối vào thời điểm
hiện tại ít còn giá trị thực tế, nhưng toàn bộ phần còn lại của cuốn sách vẫn là
tài liệu tham khảo cực kì hữu ích đối với các họa sĩ minh họa hiện đại, đồng
thời cũng là nguồn tư liệu cần thiết cho nghiên cứu của luận văn.
Bài viết trên website design.tutsplus.com của Monika Zagrobelna
(2015) có tự đề “10 Basic Mistakes in Digital Painting and How to Fix Them”
chỉ ra một số vấn đề cơ bản trong kỹ thuật vẽ trên máy tính (Digital painting)
mà những họa sĩ nghiệp dư thường hay mắc phải. Qua bài viết ta cũng nhận
thấy rằng rất nhiều minh họa tranh truyện thiếu nhi tại Việt Nam vẽ trên máy
tính có chất lượng chưa cao một phần là do kỹ thuật yếu kém được chỉ ra
trong bài viết.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước:
“Minh họa” được đề cập đến nhiều trong các sách nghiên cứu mỹ thuật
trong nước. Minh họa được xác định nằm trong nghệ thuật đồ họa. Có rất
nhiều cuốn sách nghiên cứu về nguyên lý của nghệ thuật tạo hình. Những tài
liệu này mang tính khoa học, khái quát, đưa ra những khái niệm và ví dụ cụ
thể, trở thành tài liệu tham khảo mang tính lý thuết của đề tài nghiên cứu.
Cuốn Nghệ thuật đồ họa của Phó giáo sư Nguyễn Trân, tác giả hệ
thống những đặc thù cơ bản của ngôn ngữ đồ họa, khái quát lịch sử đồ họa
cùng với một số họa sĩ chuyên sâu về đồ họa. Sách được chia làm bốn phần.
Tác giả đã dày công nghiên cứu khoa học và hệ thống về đồ họa, tuy nhiên
không đi sâu vào thể loại đồ họa nào. Tác giả đưa ra khái niệm về minh họa
sách, báo, không đề cập đến minh họa tranh truyện thiếu nhi.
Nói về tạo hình, phải kể đến cuốn Nguyên lý hội họa đen trắng do tác
giả Vương Hoằng Lực dày công nghiên cứu trong hơn 10 năm. Là một tác
6
phẩm lý luận mỹ thuật có tính khoa học, tính hệ thống, tính hoàn chỉnh với
nội dụng phong phú, trình bày xác thực, tỉ mỉ, tranh và lời tương ứng, cố gắng
hình tượng hóa lý nghệ thuật thị giác. Những người nghiên cứu về vấn đề mỹ
thuật đều cần một cuốn sách tham khảo như thế này. Cuốn sách bao quát
những quy luật và nguyên tắc hội họa. Bắt đầu từ viễn cổ, đi ra theo hướng
tương lai. Trình bày lý luận bằng ngôn ngữ tinh luyện, sau mỗi đoạn văn lại
được phối hợp minh họa bằng những bức tranh được lựa chọn kỹ, hình tượng
tươi mới, sinh động, có sức thuyết phục. Như vậy về mặt lý luận, giúp ích rất
nhiều cho việc lý giả và trình bày. Từ góc độ mỹ thuật, công trình nghiên cứu
này đã trình bày khái quát hình thức nghệ thuật của hội họa, ý nghĩa sâu sắc
của hình thức, giá trị của cái đẹp hình thức, quy luật và nguyên tắc của hình
hình thức, nhiều hình thức biểu hiện của cái đẹp hình thức và những nhân tố
kết cấu bên trong… Nhìn rộng ra, cuốn sách không dừng lại ở hội họa đen
trắng, còn chứa đựng cả nguyên lý của nghệ thuật hội họa, là tài liệu hữu ích
cho vấn đề nghiên cứu đưa ra ở luận văn.
Ngoài các sách công cụ, một số khóa luận, luận văn cũng đã đề cập một
phần về minh họa hay tranh truyện.
Nguyễn Hữu Khoa (1997), Họa sĩ với hướng tìm mới cho tranh truyện
thiếu nhi, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
Luận văn nghiên cứu về tranh truyện thiếu nhi, nhưng không phân định rõ
được khái niệm truyện tranh và tranh truyện, nội dung nghiên cứu cũng không
rõ ràng.
Lê Duy Nhiếp (2000), Những suy nghĩ và cảm nhân xem tranh truyện
của họa sĩ Tạ Thúc Bình, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học mỹ thuật Hà
Nội. Luận văn phân tích về tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi của
họa sĩ Tạ Thúc Bình qua một số tác phẩm tiêu biểu.
Nguyễn Quang Huy (2014), Thẩm mỹ tạo hình trong truyện tranh hiện
đại Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay, Luận văn tốt nghiệp Đại học mỹ thuật
7
Việt Nam, Hà Nội. Luận văn đi sâu vào phân tích về tạo hình truyện tranh
hiện đại Việt Nam, các vấn đề trong quá khứ và hiện tại. Có phân tích rất rõ
ràng về sự khác nhau giữa truyện tranh và tranh truyện.
Lê Quang (2016), Tạo hình nhân vật điển hình trong truyện tranh lịch
sử Việt Nam nhà xuất bản Kim Đồng, giai đoạn 1990 – 2015. Luận văn thạc
sỹ. Luận văn đóng góp nhiều giá trị về vấn đề tạo hình nhân vật trong các ấn
phẩm truyện tranh và tranh truyện lịch sử của nhà xuất bản Kim Đồng.
Một số bài báo viết về sách thiếu nhi cũng cung cấp nhiều thông tin về
hoạt động sáng tác tranh truyện thiếu nhi của Nhà xuất bản Kim Đồng từ
trước đến nay, hoặc cũng đặt ra một vài vấn đề cơ bản về hoạt động sáng tác
cho thiếu nhi ở Việt Nam như:
Tô Chiêm có bài viết “55 năm làm mỹ thuật trên sách thiếu nhi”,
Vnexpress, 16/6/2012. Bài báo khái quát 55 năm hoạt động của nhà xuất
bản Kim Đồng về mảng sách thiếu nhi và tổng hợp thông tin về các thế hệ
họa sĩ đã và đang tham gia sáng tác tranh truyện thiếu nhi tại nhà xuất bản
Kim Đồng.
“Tranh truyện Việt Nam: Bỏ ngỏ đến bao giờ?” của Tô Chiêm trên
Tienphong online, 1/6/2014. Bài báo đưa ra một số thống kê và nêu lên hiện
trạng sáng tác và xuất bản truyện tranh, tranh truyện Việt Nam thời hiện đại.
Tài liệu tham khảo “Sách tranh dành cho thiếu nhi” trên trang chủ của
nhà xuất bản Nhã Nam giới thiệu thể loại sách tranh (picturebook) và phân
biệt với các thể loại truyện tranh (comic) và tranh truyện (Illustrated book).
Nhìn chung các tài liệu trên đã có ít nhiều đề cập đến vấn đề tạo hình,
minh họa tranh truyện… Song, chúng chưa đi vào khía cạnh sự chuyển biến
về tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt Nam từ 1995 – 2015.
3. Mục đích của luận văn
- Nghiên cứu để làm rõ sự chuyển biến về mặt tạo hình trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1995 – 2015.
8
- Luận văn góp phần đánh giá sự chuyển biến về tạo hình của tranh truyện
thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1995 – 2015.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Sự chuyển biến về mặt tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
tại Việt Nam
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu chọn khoanh vùng các ấn phẩm tranh truyện cổ tích và
tranh truyện dân gian Việt Nam giai đoạn 1995 – 2015, chủ yếu tập trung vào
các ấn phẩm của Nxb Kim Đồng vì các lí do sau:
- 1995 là thời điểm đánh dấu sự mở cửa của đất nước. Có rất nhiều sự thay
đổi trong kinh tế, xã hội và nó bắt đầu kéo theo sự thay đổi về văn hóa,
nghệ thuật.
- Tranh truyện cổ tích, dân gian là một trong số những thể loại sách dành cho
thiếu nhi luôn được đặc biệt quan tâm và tái bản rất nhiều lần, với nhiều minh
họa khác nhau. Qua các phiên bản ta có thể thấy rõ hơn về sự chuyển biến
trong tạo hình tranh truyện thiếu nhi tại Việt Nam giai đoạn 1995 – 2015.
- Nxb Kim Đồng là đơn vị có lịch sử gắn bó lâu dài với thể loại tranh truyện
và các ấn phẩm dành cho thiếu nhi. Các họa sĩ minh họa tiêu biểu trong nước
hầu hết đều đã từng hợp tác với Nxb Kim Đồng. Vì vậy luận văn tập trung
chủ yếu vào các ấn phẩm tranh truyện cổ tích của Nxb Kim Đồng, tuy nhiên
vẫn cố gắng tổng hợp ấn phẩm tranh truyện cổ tích của các Nxb khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng ba phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu: Sưu tầm các đề tài nghiên cứu,
các bài báo khoa học liên quan đến các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của
luận văn, từ đó tổng hợp lại thông tin.
9
Phương pháp phân tích, so sánh: Phân tích sự chuyển biến tạo hình
của tranh truyện thiếu nhi giai đoạn 1995 – 2015 và so sánh với giai đoạn
trước đó.
Phương pháp nghệ thuật học: phân tích thẩm mỹ tạo hình các đối tượng
nghiên cứu.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn:
- Đóng góp về mặt lí luận: Góp phần nghiên cứu về vấn đề chưa được
quan tâm là sự chuyển biến về tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
Việt Nam giai đoạn 1995 -2015.
- Đóng góp thực tiễn: Nghiên cứu chỉ ra thực trạng về sự chuyển biến
trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam, là tài liệu tham khảo
cho các cơ sở đào tạo Mỹ thuật, đồ họa, các nhà xuất bản, các họa sĩ và các
đối tượng cần nghiên cứu khác.
7. Cấu trúc luận văn
Kết cấu của đề tài nghiên cứu, ngoài phần Mở đầu (7 trang), Kết luận (2
trang) và Phụ lục (28 trang), Tài liệu tham khảo (3 trang), nội dung chính
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung của đề tài nghiên cứu ( 13 trang)
Chương 2: Những biểu hiện về chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi tại Việt Nam từ 1995 đến 2015 ( 19 trang)
Chương 3: Thành công và hạn chế của sự chuyển biến về tạo hình trong minh
họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt Nam từ 1995 - 2015 (10 trang)
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Nhằm làm rõ những vấn đề nghiên cứu về sự chuyển biến tạo hình
trong minh họa tranh truyện từ 1995 đến 2015, trong chương 1 luận văn
hướng tới làm rõ các khái niệm liên quan đến nội dung của đề tài như khái
niệm sự chuyển biến tạo hình và minh họa tranh truyện Việt Nam. Bên cạnh
đó chương 1 đưa ra cái nhìn khái quát về minh họa tranh truyện Việt Nam từ
1995 đến 2015.
1.1. Khái niệm “Sự chuyển biến về tạo hình trong minh họa truyện
thiếu nhi”
Khái niệm “sự chuyển biến”
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng của Hoàng Phê, chuyển biến là:
“Biến đổi sang trạng thái khác trước” [32; tr 144].
Theo Từ điển tiếng Việt 1994 – Nxb Khoa học xã hội, giải thích đơn giản
chuyển biến là: “Bắt đầu thay đổi tích cực” [10; tr 191]. sTuy nhiên, trong hội
họa, sự chuyển biến có thể là tích cực hoặc tiêu cực (thường là tích cực)
Sách Từ điển tiếng Việt phổ thông – Nxb Khoa học xã hội giải thích
chuyển biến là: “Biến đổi sang trạng thái khác với trước, thường nói về lĩnh vực
tư tưởng, hoạt động của con người và thường theo hướng tích cực” [41; tr 252]
Sách Đại từ điển Tiếng Việt (1999) của tác giả Nguyễn Như Ý, cho
rằng: “Chuyển biến là những biến đổi theo chiều hướng tích cực của tư tưởng
và hoạt động của con người: những chuyển biến đáng mừng, tạo ra sự chuyển
biến căn bản” [46; tr 407]
Khái niệm về tạo hình
Theo Từ điển tiếng Việt – Viện ngôn ngữ học thì tạo hình là: “Tạo ra
các hình thể bằng đường nét, màu sắc, hình khối.” [38; tr 860].
11
Trong Từ điển tiếng Việt 1994 – Nxb Khoa học xã hội có ghi tạo hình
là: “ nghệ thuật biểu hiện bằng cách ghi lại, tạo nên những hình thể với những
bức họa, pho tượng” [10; tr 716]
Trong cuốn Từ điển bách khoa – T-Z thì tạo hình là “thủ pháp sáng tạo
nghệ thuật bằng ngôn ngữ hình khối, màu sắc, chất cảm, không gian, bố cục.
Theo nghĩa rộng, tạo hình bao gồm hoạt động hội họa, điêu khắc, mỹ thuật
ứng dụng, kiến trúc, nhiếp ảnh. Theo nghĩa hẹp, tạo hình là hoạt động thuộc
hội họa giá vẽ và điêu khắc. Hội họa là nghệ thuật tạo hình trên mặt phẳng,
bằng các yếu tố đường nét, màu sắc, hình diện. Điêu khắc là nghệ thuật tạo
hình trong không gian ba chiều, bằng các khối có thể tích. Mỹ thuật ứng dụng
và kiến trúc sử dụng các phương tiện tạo hình vào việc tạo dáng sản phẩm, sáng
tạo môi trường không gian mang giá trị thẩm mỹ và công năng.” [45; tr 60]
Về cơ bản, các từ điển trên giải thích khái niệm tạo hình một cách đơn
giản là nghệ thuật được biểu hiện bằng hình thể trong nghệ thuật tạo hình
thông qua các yếu tố tạo hình cơ bản. Nghệ thuật tạo hình gồm có hội họa,
đồ họa, điêu khắc và kiến trúc. Những yếu tố tạo hình nghệ thuật chung
nhất ở các thể loại tạo hình nghệ thuật là đường nét, màu sắc, không gian,
ánh sáng...
Mảng là một lượng màu nào đó chiếm diện tích nhất định trên mặt
tranh, tạo thành một mảng riêng, phân biệt rõ rệt với các mảng màu xung
quanh nó… thì đó được gọi là mảng màu. Sự phân biệt này có thể do độ đậm
nhạt, nóng lạnh của màu sắc hoặc về nội dung hình thể trong tranh. Khi nói
đến mảng màu, người ta thường chỉ các mảng màu lớn. Tuy nhiên, trong các
mảng màu lớn, có chứa đựng các mảng màu nhỏ hơn. Trong tranh đen trắng
thì đó là những mảng màu mang các sắc độ khác nhau của đen và trắng. Các
nét, hình và điểm, khi được tổ chức, sắp xếp một cách có ý thức, sẽ tạo nên
một hình hoặc một khối. Như vậy, trong một mảng có thể có một hoặc nhiều
12
hình, tập hợp của các nét và điểm và ngược lại, hình hoặc khối có thể là tập
hợp của một hoặc nhiều mảng. [30; tr 129]
Hình dạng là một vùng nổi bật từ không gian kề cận hoặc không gian
bao quanh nó, do nó được xác định hoặc có liên quan đến một đường biên
hoặc do những khác biệt về sắc độ, màu sắc, cấu trúc cơ bản. [30; tr 115]
Qua các lập luận trên, quan điểm riêng của luận văn về mảng như sau:
Mảng là sự cấu thành của một hoặc nhiều hình, khối, được bao quanh và giới
hạn bởi đường và nét tạo nên. Một bức tranh được hình thành trên cơ sở của
nhiều mảng tập hợp lại. Sự sắp xếp, tổ chức của các mảng, qua sự sáng tạo
của họa sĩ, đã để lại cho nhân loại những kiệt tác với rất nhiều trường phái và
phong cách khác nhau.
Còn đường nét là con đường của một điểm chuyển động được tạo ra
bởi công cụ, khi nó chuyển động ngang qua một vùng. Một đường nét thường
có vẻ rõ ràng vì nó tương phản với những sắc độ quanh nó. Các đường nét ba
chiều có thể được thực hiện bằng một sợi dây, những cái ống, các que cứng,
dây kim loại và nhiều thứ tương tự. [46; tr 96]
Không gian, theo “Từ điển thuật ngữ mĩ thuật phổ thông” là khoảng
cách giữa các vật thể trong tranh theo chiều ngang, dọc và sâu. Trên mặt
phẳng của tranh, người xem dễ dàng thấy khoảng cách giữa các vật thể
theo chiều ngang và dọc, còn để nhận biết được vị trí trước sau của các vật
thể, người xem chỉ có thể thấy rõ ở tranh vận dụng luật xa gần hoặc độ đậm
nhạt rõ ràng. [30; tr 96]
Theo cuốn “Những nền tảng mỹ thuật”, không gian là khoảng cách
hoặc tầm xa có thể đo được giữa các điểm hoặc những hình ảnh. [46; tr 217]
Trong “Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông” màu sắc là các màu
khác nhau trong thiên nhiên hay màu bản thân của từng vật thể. Màu sắc nhờ
ánh sáng rọi vào nên chúng có nhiều sắc độ phong phú mà người họa sĩ phải
quan sát và khám phá. Màu sắc phối hợp với nhau trên tranh tạo thành hòa
13
sắc. Ngày nay, khoa học phân tích màu sắc vẫn đang được nghiên cứu. Nhiều
nhà bác học đã thấy được bản chất của một số màu. Tuy thế, khái niệm màu
sắc chưa được xác định rõ về nội dung và ranh giới của nó. Vì vậy, thuật ngữ
màu sắc chỉ được mang ý nghĩa tương đối [30; tr 104]
Màu sắc theo cuốn “Những nền tảng mỹ thuật” là đáp ứng của thị
giác đối với những bước sóng của ánh sáng mặt trời được xác định như đỏ,
lục, lam…, những phẩm chất có tính vật lý của cường độ, sắc độ và sự
chuyển màu. [46; tr 175]
Chất cảm, theo “Từ điển thuật ngữ mĩ thuật phổ thông” là cảm xúc
được tạo nên thông qua các phương tiện tạo hình (hay ngôn ngữ nghệ thuật)
hoặc cấu tạo vật chất của một bức tranh, tượng... Chất cảm của phương tiện
tạo hình đã tác động trực tiếp lên mắt (cơ quan của thị giác). Người ta nhận
biết một vật thể không chỉ ở kích thước, tỉ lệ, màu sắc mà còn ở cảm nhận cấu
tạo vật chất của nó nữa. Từ cấu tạo vật chất ấy mà nghệ thuật cần truyền đạt
được đến người xem cái cảm xúc về chất hay còn gọi là chất cảm. Cảm giác
về vật chất hay chất cảm là yếu tố không thể thiếu trong một bức tranh dù vẽ
theo trường phái nào. [30; tr 40]
Khái niệm “minh họa tranh truyện thiếu nhi”
Theo “Từ điển tiếng Hán” thì dịch nghĩa từ minh tức là làm sáng tỏ,
họa tức là hình vẽ. Vậy minh họa là dùng những hình vẽ để làm sáng tỏ một
vấn đề nào đó.
Theo “Từ điển Bách khoa tập 2 từ E-M” thì minh họa là hình ảnh gắn
liền với bài viết giống như tiểu họa trong các cuốn sách viết tay cổ. Minh họa
vừa có chức năng tư liệu, vừa có chức năng thẩm mỹ làm sáng tỏ thêm nội
dung bài viết, vừa tạo hứng thú cho người đọc. Ban đầu minh họa đóng vai trò
thứ yếu mang tính chất tư liệu cho những sách tôn giáo, về sau minh họa mới
đi vào những cuốn sách đời thường. Kĩ thuật đầu tiên dùng cho minh họa là khắc
14
gỗ, sau đó đến khắc kim loại (thế kỉ 16), khắc đá (thế kỉ 18). Đến cuối thế kỉ 19
kĩ thuật chụp in đã giúp cho việc làm minh họa thêm dễ dàng. [43; tr 920]
Trong sách “Con mắt nhìn cái đẹp” của Nguyễn Quân cho rằng, minh
họa thuộc thể loại đồ họa. Khi xuất hiện nghề in, báo chí và công nghiệp in
sách thì nghề minh họa mới phát triển. Minh họa phục vụ các sáng tác văn
học, các bài viết văn hóa, khoa học, xã hội... Khi chưa có ảnh thì toàn bộ phần
nhìn của báo chí do minh họa đảm đương.[35; tr 83]
Theo cuốn “Giáo trình mỹ thuật học”, tranh minh họa đóng một vai trò
quan trọng trong đồ họa sách báo. Nó làm sáng tỏ thêm cho nội dung tác phẩm,
nâng cao giá trị cho nội dung và làm cho tác phẩm đẹp hơn. [18; tr 142]
Minh họa sách có từ rất sớm, từ thời xa xưa, những cuốn Kinh thánh
chép tay hay sớm hơn là cuốn “Kinh kim cương bát nhã” ở Trung Hoa đã thể
hiện về cuộc đời, những câu chuyện xoay quanh thần linh và tôn giáo.
Vậy, tranh minh họa là những hình vẽ được dùng trong sách báo,
truyện, thơ nhằm làm sáng tỏ cho nội dung của chữ viết trong đó.
Khái niệm tranh truyện thiếu nhi
Hiện nay chưa có một khái niệm riêng hoặc bao quát chung nào về
tranh truyện, chỉ có một số nhận định về tranh truyện như sau:
Nhà phê bình Nguyễn Quân cho rằng: tranh truyện là những loạt tranh
minh họa cho một cốt truyện cổ tích để trẻ em dễ theo dõi và người lớn dựa
vào tranh kể chuyện cho bé nghe. [35; tr 84]
Khái niệm này của Nguyễn Quân đã phần nào đưa ra ý kiến khá khách
quan về định nghĩa tranh truyện. Tuy vậy, định nghĩa này là vẫn chưa đầy đủ
và bao quát cho khái niệm tranh truyện.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học, thì tranh truyện là
tranh kể lại một câu chuyện có chữ lời [38; tr 1025]
Theo cuốn “Từ điển mỹ thuật phổ thông” của Đặng Bích Ngân thì tranh
truyện là tranh dùng để kể chuyện, có chú thích, nói về một truyện cổ tích,
15
một truyện lịch sử, một anh hùng, một chiến công, một nhân vật xuất sắc
trong lao động, chiến đấu, đáng được biểu dương và làm gương cho mọi
người noi theo… Tranh có thể được vẽ hoặc in trên một tờ giấy chia làm
nhiều ô, sắp xếp liên tiếp nhau hoặc theo thứ tự trước sau, dựa vào văn bản
hoặc in thành tập, thành sách. Nhiều họa sĩ Việt Nam khá nổi tiếng trong làng
vẽ tranh truyện như họa sĩ Mai Long, Nguyễn Bích, Huy Toàn, Tạ Thúc Bình,
Ngô Mạnh Lân.[30; tr 151]
Qua các định nghĩa và nhận định trên về minh họa và tranh truyện ta
có thể đưa ra được rằng: tranh truyện thiếu nhi là một thể loại đồ họa ứng
dụng, trong đó sử dụng các hình ảnh sinh động, gần gũi dễ hiểu, dễ nhớ để
minh họa cho các cốt truyện dành cho thiếu nhi, làm sáng rõ câu chuyện và
tăng tính thẩm mỹ cho câu chữ, gây sự thích thú cho thiếu nhi qua ngôn ngữ
biểu hiện.
Tranh truyện thiếu nhi gồm hai phần chính là phần truyện và phần
tranh. Phần truyện là do các nhà văn viết ra, phần tranh là do họa sĩ thể
hiện. Có thể nói, tranh truyện là sản phẩm kết hợp từ nghệ thuật văn học và
nghệ thuật tạo hình.
Qua các lập luận trên, luận văn đi đến xác định “sự chuyển biến tạo
hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi” là sự thay đổi, biến chuyển trong
cách sử dụng các yếu tố tạo hình như đường nét, hình khối, không gian, màu
sắc, bố cục…để làm rõ những ý tưởng, nội dung, sáng tạo của tác giả văn học
được biểu hiện thông qua tác phẩm minh họa của mình.
1.2. Khái quát về nghệ thuật minh họa tranh truyện cho thiếu nhi tại
Việt Nam.
1.2.1. Nghệ thuật minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam trước 1995
Các tác phẩm minh họa sách báo được lưu hành đầu tiên và luôn phát
triển cùng ngành đồ họa báo chí ở Việt Nam. Các minh họa trên báo, tạp
chí thường làm sáng tỏ hình ảnh nhân vật qua tác phẩm văn học. Trên mỗi
16
tờ báo hoặc cuốn tạp chí thường có sự xuất hiện của tranh minh họa ở trang
bìa hoặc các chuyên mục. Từ những năm 1932 những hình ảnh biếm họa
đầu tiên xuất hiện trên báo Phong Hóa của nhóm văn nghệ sĩ Tự Lực Văn
Đoàn do nhà văn Nhất Linh – Nguyễn Trường Tam làm thủ lĩnh đã gây ấn
tượng mạnh mẽ đến công chúng. Sau đó là sự tiếp nối thành công của
những minh họa Lý Toét – Xã Xệ đầu tiên của họa sĩ Lê Minh Đức trên
báo ngày nay. Tuy mới ra đời, thời kì này đã sản sinh ra những hình tượng
giàu bản sắc dân tộc, và có tính sáng tạo cao. Đây cũng là tiền đề của
những minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam sau này.
Minh họa tranh truyện thiếu nhi ra đời sớm ở Việt Nam là những minh
họa của thế hệ họa sĩ Đông Dương, trong đó, người tiên phong cho mảng
minh họa tranh truyện thiếu nhi là họa sĩ Ngô Mạnh Quỳnh. Các tác phẩm
minh họa tranh sách đều được in thủ công hoặc vẽ tay. Một số các tác phẩm
minh họa từ 1942 đến 1945, như tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du,
“Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn,“Trẻ con hát, trẻ con chơi”(1943),
“Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiều, “Lên tám” của Tản Đà (1944), và
một số minh họa dịch từ tiếng Pháp như “Quilive du kí sang nước Li-Li-Bút
và nước khổng lồ”(1944) và “Ngụ ngôn La Fontaine” (1943). Bên cạnh đó,
nhằm đáp ứng và góp phần cho cách mạng tuyên truyền, năm 1947 một số
minh họa tranh truyện thiếu nhi đề tài lịch sử như bộ “Tranh sử ký” (năm
1947), bộ “Địa lý nước Việt Nam” , “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” do Nxb
P. Văn Tươi đã tạo nên thành công cho thể loại minh họa tranh truyện thiếu
nhi. Trong những năm 1960, tranh truyện còn có thêm mảng về truyện phiêu
lưu, trinh thám và phát triển thể loại truyện cổ tích.
Sau năm 1975, cùng với một số truyện tranh phóng tác từ truyện cổ, Việt
Nam bắt đầu sản xuất hàng loạt truyện tranh mang tính tuyên truyền và giáo
dục, mà điển hình là tác phẩm “Tráng sĩ ngàn cơ” của họa sĩ Trần Văn Phú
17
(Nhà xuất bản Kim Đồng, 1991, 16 trang), “Tuổi thơ bác Hồ” trên báo Khăn
Quàng Đỏ. Giai đoạn này tuy vẫn khó khăn về công nghệ in ấn nhưng đã có
tiên bộ hơn, khi xuất hiện màu trên tranh truyện như cuốn Kim Đồng, Lê Văn
Tám, Trần Quốc Toản... và tạo nên những đặc sắc tạo hình tranh truyện giàu
tính dân tộc, văn hóa Việt. Nghệ thuật minh họa tranh truyện thiếu nhi giai
đoạn này mang đậm màu sắc dân gian, không gian trong tranh được diễn đạt
bằng cảm giác xa gần và ý niệm, khung cảnh chủ yếu lấy từ cảnh hiện thực
của vùng quê nông thôn Việt. Đường nét trong tranh sử dụng biến hóa, tạo
nên những xúc cảm, dung dị cho nhân vật và cảnh vật. Giai đoạn này, tranh
minh họa thiếu nhi chủ yếu vẫn là dùng in tay và vẽ, chưa có màu sắc(chỉ
dùng đen trắng) hoặc ít sắc độ trong tranh.
Tranh truyện Việt Nam đã xuất hiện từ trước Cách mạng tháng 8 nhằm
mục đich tuyên truyền cho kháng chiến và giáo dục cho thiếu nhi. Tranh
truyện được in ấn bởi các bản khắc gỗ với số màu tối thiểu còn đa phần là các
tác phẩm in đen trắng. Cuối thập niên 50 đầu thập niên 60, sau khi chia đôi
đất nước, trẻ em Việt Nam đã dần làm quen với rất nhiều thể loại tranh
truyện có màu từ lịch sử, cổ tích như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Bánh chưng
bánh dày… đánh dấu các tên tuổi như: Tạ Thúc Bình, Nguyễn Bích, Văn Cao,
Ngô Văn Cầu… Năm 1972 đến 1975, chiến sự xảy ra liên miên và ác liệt,
tranh truyện không còn phát triển như trước nữa mà hướng mũi nhọn nghệ
thuật phục vụ cách mạng. Đến năm 1986 – 1987, sau thời kì đổi mới, tranh
truyện Việt Nam dần tìm lại được vị trí của mình trên thị trường xuất bản với
các tên tuổi như: Nguyễn Trung Tín, Hùng Lân, Lâm Quốc Trung, Nguyễn
Tài... Sự du nhập của Manga Nhật và Comic phương Tây đã đánh dấu bước
ngoặt mới cho nền tranh truyện Việt Nam. Lúc này, tranh truyện Việt Nam
phát triển và tiếp thu khá mạnh từ lối vẽ tạo hình theo nước ngoài.
18
1.2.2. Nghệ thuật minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995
đến 2015.
Từ năm 1995 trở lại đây, cùng với sự ra đời của các kĩ thuật in ấn máy
móc hiện đại, nghệ thuật đồ họa ứng dụng dần phát triển, nhất là minh họa
tranh truyện thiếu nhi. Bên cạnh đó, truyện tranh Nhật Bản dần xâm lấn trong
tranh truyện đã ảnh hưởng phần nào đến các tạo hình trong tranh truyện thiếu
nhi Việt Nam. Minh họa tranh truyện thiếu nhi phát triển với một tốc độ
nhanh chóng. Đi cùng với đó là sự góp mặt của nhiều lớp họa sĩ trẻ hướng
mũi nhọn tranh truyện thiếu nhi vào việc thể hiện bằng những công nghiệp
máy móc in ấn, vẽ máy… tạo nên một thị trường tranh truyện thiếu nhi thực
sự. Giai đoạn này, những ấn bản, tái bản tranh truyện của các họa sĩ thuộc
nhiều nhà xuất bản khác nhau đã cho thấy sự đa dạng trong tạo hình của minh
họa tranh truyện thiếu nhi. Điều này đã góp phần đẩy mạnh hội nhập văn hóa
văn nghệ với các nước bạn. Nghệ thuật tranh minh họa thiếu nhi từ sau năm
1995 đã ứng dụng thiết bị máy móc trong việc thiết kế tranh truyện, nhân vật
trong tranh mang tính chất hoạt hình hơn, màu sắc rực rỡ bắt mắt hơn. Không
gian trong tranh minh họa sử dụng kết hợp nhiều loại như không gian xa gần,
không gian ý niêm và không gian đồng hiện…Bên cạnh đó, nhờ có thiết bị in
ấn mới tạo nên độ chuẩn xác và rõ nét của màu sắc của các minh họa tranh
truyện đã thu hút thị giác các độc giả trẻ. Từ sau năm 2000 đến năm 2015,
minh họa tranh truyện thiếu thi vẫn tiếp tục phát triển với nhiều lối vẽ tạo
hình khác nhau của các họa sĩ. Bên cạnh đó, các nhà xuất bản cạnh tranh nhau
và ngày càng quan tâm đến chất lượng tạo hình, vì thế, cùng một câu chuyện
có thể có nhiều ấn phẩm của nhiều họa sĩ khác nhau và nhiều nhà xuất bản
cùng sản xuất. Thị trường minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam ngày
càng sôi nổi. Cùng với việc phát triển, minh họa tranh truyện còn được đưa
vào giảng dạy ở một số trường mỹ thuật như một môn học thực thụ. Sức sống
19
bền bỉ của minh họa tranh truyện thiếu nhi cho thấy nội dung mang tính dân
tộc và truyền thống luôn được người đọc đón nhận và quan tâm.
Tranh truyện Việt Nam có bề dày phát triển với nhiều tác giả, phong
cách đa dạng và để lại một số lượng tác phẩm lớn từ truyện cổ tích, dân gian,
lịch sử, xã hội. Trong tranh truyện họa sĩ phải đọc rất kỹ nội dung tác phẩm,
phải đồng hành cùng tác phẩn để lựa chọn những chi tiết đắt giá nhất để xây
dựng tác phẩm bằng ngôn ngữ tạo hình. Điều này khiến cho một tác phẩm
minh họa tranh truyện thiếu nhi vừa mang tính dân tộc, giáo dục vừa mang
tính nghệ thuật trong đó.
Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực, hạn chế của minh họa tranh
truyện vẫn được bộc lộ khá rõ trong nhiều ấn phẩm được xuất bản từ
1995 – 2015.
1.3. Những nhân tố tác động đến sự chuyển biến về mặt tạo hình trong
minh họa tranh truyện thiếu nhi tại Việt Nam.
1.3.1. Sự thay đổi về nhu cầu thẩm mĩ
Từ năm trước năm 1975, nghệ thuật đi cùng với nhịp thở của chiến
tranh cách mạng, trước tình hình đó, Bác Hồ từng nói: Văn hóa nghệ thuật
cũng là một mặt trận, các anh chị em nghệ sĩ cũng là chiến sĩ trên mặt trận đó.
Do đó, giai đoạn này nghệ thuật vị nhân sinh. Không nằm ngoài tư tưởng đó,
các minh họa tranh truyện thiếu nhi giai đoạn này hướng tới các chủ đề lớn
lịch sử, bản sắc dân tộc, cổ tích Việt Nam. Trong đó, nhân vật và khung
cảnh thể hiện giản dị, gần gũi với cuộc sống thực tại của người dân trong
mọi tầng lớp. Hình tượng trong tranh được chắt lọc, khái quát hóa, tạo nên
cá tính riêng của nhân vật thông qua cử chỉ, điệu bộ, hình nét tạo nên hình
tượng nhân vật điển hình nhấn mạnh trọng tâm của tranh truyện. Tạo nên
sự dễ hiểu, dễ gần, dễ nhớ. Thông qua hình thức ngôn ngữ đồ họa in tay và
vẽ tay, các họa sĩ đã thể hiện thành công nhân vật chỉ với màu sắc sơ giản
đen trắng hoặc những màu có sắc nhưng nhạt.
20
Từ sau năm 1986, chính sách đổi mới kinh tế mở cửa và hội nhập, cùng
với sự thâm nhập của nhiều luồng văn hóa khác đã đẩy mạnh xu hướng thẩm
mỹ tìm tòi và khám phá những cái mới, đem văn nghệ đất nước hội nhập
nhưng không hòa tan. Minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam kể từ sau
đổi mới đã có những biến chuyển rõ nét về hình thức, chất liệu, phương
tiện biểu hiện.
Sau năm 1995, nghệ thuật Manga Nhật Bản cùng với truyện Comic
phương Tây du nhập vào Việt Nam và được công chúng đón nhận rất nhiều.
Vì thế, các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi cũng bị ảnh hưởng một
phần nào đó bởi lối tạo hình của truyện tranh hiện đại với tạo hình nhân vật
ngộ nghĩnh và có màu.
Từ năm 2000 đến nay, nghệ thuật tranh truyện vẫn tiếp tục được đón
nhận bởi nội dung và tính giáo dục cao. Minh họa tranh truyện thiếu nhi phát
triển và dần hoàn thiện theo nhu cầu thẩm mỹ thời đại, tranh truyện ngày càng
chú ý đến hình thức in ấn, chế bản nhân vật mang tính động, màu sắc bắt mắt,
minh họa bối cảnh mang tính cách điệu cao.
Qua các giai đoạn, nhận thức thẩm mỹ từ các họa sĩ và công chúng
trong xã hội đương đại là khác nhau. Có thể thấy được hơi thở của thời đại
bởi yếu tố tạo hình luôn phù hợp với dòng trào lưu nghệ thuật lúc bấy giờ.
Vì vậy, nhận thức và nhu cầu thẩm mỹ ở các giai đoạn cũng chi phối nghệ
thuật và làm nên sự chuyển biến trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu
nhi Việt Nam.
1.3.2. Sự thay đổi về thế hệ họa sĩ
Trước năm 1975, thời kì những năm đầu xây dựng NXB Kim Đồng,
có thể thấy được sự góp mặt của các gương mặt họa sĩ gạo cội của mỹ
thuật Đông Dương như: Nguyễn Đỗ Cung, Mạnh Quỳnh, Sỹ Ngọc, Tạ
Thúc Bình, Mai Văn Hiến, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Tỵ, Trần Duy...
cho đến các họa sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp như :Ngô
21
Mạnh Lân. Mai Long, Nguyễn Thụ, Phạm Công Thành, Huy Oánh... Ở họ
với kinh nghiệm tạo hình bài bản hàn lâm đã phần nào tác động lối vẽ tạo
hình mang tư duy vào nghệ thuật tranh truyện. Từ đó làm nên những đặc
sắc đỉnh cao của tranh truyện vẽ tay thời bấy giờ.
Sau năm 1975, các NXB mở rộng về phía Nam, các họa sĩ Hà Quang
Phương, Ngô Minh Càu, Kim Khánh... đã góp thêm nhiều minh họa cho tranh
truyện nơi đây.
Từ năm 1991, các NXB đã tiếp nhận thêm đội ngũ họa sĩ và cộng tác
viên trẻ thay thế lớp họa sĩ cũ, đã hứa hẹn tư duy trong sáng tác minh họa
mới. Phần lớn họ đều là những họa sĩ tiên phong trong thời kì đổi mới mỹ
thuật như Thành Chương, Lương Xuân Đoàn, Hà Trí Hiếu, Thọ Tường . Họ
đã đóng góp cho minh họa tranh truyện thiếu nhi một bộ mặt mới.
Bên cạnh đó, việc xuất hiện yếu tố truyện tranh Nhật Bản đổ bộ và kĩ
thuật in ấn mới đã tạo nên chiến lược mới về tạo hình tranh truyện cho các
NXB. Thế hiện họa sĩ như Lý Thu Hà, Phương Hoa, Minh Trí, Phạm Ngọc
Tuấn, Nguyễn Công Hoan, Lê Minh Hải, Tạ Duy Long… đã có những đóng
góp mới cho tranh truyện thiếu nhi Việt.
Càng về sau, tuy bị ảnh hưởng khá nhiều bởi nghệ thuật manga Nhật
Bản, cùng với sự ra đời của ngành học thiết kế mỹ thuật, các lớp họa sĩ trẻ
cũng cho thấy phong cách minh họa tranh truyện thiếu nhi theo cách của riêng
họ như Lê Minh Hải, Vũ Đình Giang, Bích Khoa, Bùi Hải Nam, Vũ Xuân
Hoàn, Lưu Quang Thụy, Quốc Cường, Mai Hoa, Kim Điệp, Nguyễn Trường
Linh, Lê Phương, Nguyễn Thành Phong, Vũ Hương Quỳnh, Nguyễn Ngọc
Quân, Trần Minh Tâm, Đỗ Đình Tân, Phạm Huy Thông, Bích Phượng, Phạm
Hoàng Giang, Vũ Thùy Dung, Phùng Xuân Ngân... hay lứa trẻ hơn nữa là
Hoài Sâm, Ngọc Lâm, Thanh Trúc, Thanh Hằng, Nguyễn Thùy Anh, Nguyễn
Đồng, Nguyễn Thị Hợp đã tạo nên những thành công trên thị trường minh
họa tranh truyện Việt Nam.
22
Từ những lứa họa sĩ minh họa tranh truyện đầu tiên đến nay, sự thay
đổi từ lối vẽ, lối tạo hình và nền tảng tri thức khác nhau, ở mỗi thời kì, các
họa sĩ đã cho thấy tiếng nói nghệ thuật minh họa của riêng mình. Từ đó đã
làm nên một yếu tố biến chuyển tạo hình minh họa tranh truyện thiếu nhi
Việt Nam.
1.3.3. Sự thay đổi về công nghệ trong sáng tác minh họa
Từ những năm 1930 đến trước năm 1954, những bản vẽ minh họa đầu
tiên được các họa sĩ vẽ tay hoặc dùng thủ pháp in ấn truyền thống. Tuy chỉ
giới hạn ở hai màu đen trắng, các họa sĩ đã tạo nên những hình ảnh nhân vật
được thể hiện bằng bút pháp nghệ thuật đa dạng như vờn nét, tạo không gian,
đánh khối tạo nên vẻ đẹp riêng của thể loại minh họa với sự kết hợp giữa các
yếu tố hội họa phương Tây và hội họa phương Đông. Giai đoạn này, minh
họa tranh truyện hầu hết được vẽ tay hoặc sử dụng kỹ thuật đồ in ấn truyền
thống khiến các tác phẩm minh họa truyện như một bức tranh.
Đến năm 1960, các nhà in tiến bộ sử dụng in “Offset” trong in ấn
xuất bản và thử nhiệm in màu tạo nên sự bắt mắt cho các minh họa tranh
truyện thiếu nhi.
Đến năm 1995 trở về sau, cùng với sự hội nhập của đất nước và sự
thâm nhập của truyện tranh Nhật Bản đã tạo nên bước chuyển mình của nghệ
thuật minh họa tranh truyện ở nước ta. Kĩ thuật máy tính dần xâm lấn, các họa
sĩ không còn phải làm thủ công hoàn toàn như trước nữa, thay vào đó, các
ứng dụng phần mềm tích hợp những màu sắc, đường nét, hình khối có sẵn đã
tạo nên sự tiện lợi hơn bao giờ hết. Giờ đây, các họa sĩ minh họa có thể vẽ tay
các minh họa rồi đưa lên xử lý hình ảnh lại bằng máy tính để tạo nên những
hiệu quả mới để hoàn thiện minh họa hơn. Kĩ thuật in ấn ngày càng hoàn
thiện và ra đời nhiều thể thức in ấn tái bản đẹp mắt hơn nữa.
Từ năm 2005 đến 2010, công nghệ ngày càng phát triển, các phần mềm
xử lý hình ảnh ngày càng hoàn thiện và trở thành công cụ đắc lực cho họa sĩ
23
minh họa. Từ tạo hình, sắp xếp bố cục cho đến tô màu đều có thể làm hoàn
toàn trên máy tính. Họa sĩ có thể sử dụng con chuột (Mouse) hoặc bảng và bút
vẽ điện tử (Wacom) để thực hiện thao tác vẽ. Việc hoàn thiện màu sắc cho
một bức minh họa trên máy tính cũng hiệu quả và tiết kiệm thời gian. Tuy
vậy, một số các họa sĩ quá sa đà áp dụng máy móc theo thể thức rập khuôn,
thiếu đầu tư về tạo hình đã khiến các minh họa trở nên khô cứng, mang tính
công nghiệp và dần mất đi tính nghệ thuật.
Sau năm 2010, hàng loạt các nhà xuất bản đã bắt tay cùng với nhiều
họa sĩ minh họa tranh truyện có tiếng để ấn bản lại các minh họa tranh
truyện cổ tích thiếu nhi nhằm đem đến các sản phẩm có chất lượng nghệ
thuật cao, tiêu biểu như nhà xuất bản Nhã Nam, Kim Đồng, Đồng Nai…
Công nghệ in ấn được sử dụng chủ yếu vẫn là in offset, chất lượng của chất
liệu giấy in ngày càng tốt hơn.
Sự thay đổi về công nghệ minh họa tranh truyện thiếu nhi qua nhiều
giai đoạn đã chi phối về mặt tạo hình và chất lượng in ấn, từ đó tạo nên các
biến chuyển trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam một
cách rõ nét.
Tiểu kết
Nội dung chương 1 nghiên cứu và nêu ra khái niệm về “sự chuyển
biến”, “tạo hình”, “minh họa tranh truyện thiếu nhi” và “khái quát về nghệ
thuật minh họa tranh truyện cho thiếu nhi tại Việt Nam. Đồng thời ở đây
cũng chỉ ra những nhân tố tác động đến sự chuyển biến về mặt tạo hình
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi tại Việt Nam. Minh họa tranh truyện
thiếu nhi là một mảng đồ họa phát triển khá sớm trong văn nghệ nước ta.
Qua các giai đoạn, từ các lứa họa sĩ Đông Dương đầu tiên đến nay, cùng
với sự biến động của chính trị, văn hóa và xã hội, đã phản ánh các minh
họa tranh truyện những đặc điểm, những tạo hình tranh truyện khác nhau.
Đặc biệt, từ thời kì 1995 đến 2015 đã đánh dấu những bước đi hội nhập và
24
phát triển của thể loại tranh truyện. Việc ứng dụng các kĩ thuật in ấn mới
hay những sự giao thoa với các thể loại tranh truyện nước ngoài đã dẫn đến
nhiều khuynh hướng sáng tác tranh truyện khác nhau. Qua đó, hiểu rõ hơn về
những nhân tố tác động đến sự chuyển biến để thấy những thay đổi, biến đổi
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn từ 1995 đến 2015.
25
Chương 2
NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHUYỂN BIẾN TẠO HÌNH
TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI TẠI VIỆT NAM
TỪ 1995 ĐẾN 2015
Trong một bức minh họa tranh truyện thiếu nhi, những yếu tố tạo hình
bao gồm hình thể, màu sắc, không gian và bố cục và chất cảm là những yếu tố
không thể thiếu nhằm làm sáng rõ chủ đề và thành công cho cuốn truyện. Kết
hợp những yếu tố trên, các họa sĩ sắp xếp để tạo nên hình thể cho các nhân vật
và khung cảnh trong minh họa. Để hiểu rõ hơn về những chuyển biến trong
tạo hình minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt Nam từ 1995 – 2015, chương
2 sẽ tập trung nghiên cứu về những biểu hiện của sự chuyển biến về yếu tố tạo
hình trong các tác phẩm minh họa giai đoạn này.
2.1 Sự chuyển biến về hình thể trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
Việt Nam từ 1995 – 2015
Hình thể hay còn gọi là hình dáng (form) là chỉ một vật, đường nét
hay mảng màu tương đương với dáng vẻ cấu trúc của vật đó trên tranh hoặc
tượng. Thuật ngữ này còn được dùng chỉ hình thức của vật thể, đường nét
hay mảng màu, khối hình trong không gian hoặc trong tranh. Đối với mỹ
thuật, hình thể đóng vai trò quan trọng. Mỗi hình chiếm vị trí trong không
gian mang ý nghĩa nhất định. Vị trí của các hình trong tác phẩm tạo nên sự
vững chãi, chặt chẽ cho bố cục, mô tả được sự vận động của nhân vật theo
chủ đề và ý định của tác giả. Dù vẽ theo mẫu hay lập bố cục theo đề tài, tác
giả cũng phải lưu ý đến hình dáng của vật hoặc người và sự sắp xếp các
hình dáng đó trong một bố cục chung trên mặt phẳng tranh, trong một
không gian tạo hình. [30]
Hình thể tạo ra cái đẹp độc đáo, đa dạng của minh họa tranh truyện
thiếu nhi Việt Nam và tạo hiệu quả rõ rệt về nội dung của tác phẩm. Hình
thể thể hiện qua sự tìm tòi, chắt lọc được hình ảnh điển hình để xây dựng
26
hình tượng. Lịch sử phát triển của minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt
Nam được biểu hiện qua hình thể qua các kiểu thức, phong cách vô cùng đa
dạng và phong phú. Trong tranh truyện, hình thể nhân vật được thể hiện
dưới hai hình thức chính là tả thực, cách điệu. Tùy vào hướng tạo hình hình
thể thì ngôn ngữ hữu hiệu trong tạo hình gây ấn tượng thị giác, tác động
sâu vào tâm hồn người đọc những cách khác nhau bởi cách thức chọn lọc
hình tượng đặc sắc để phản ánh nội dung. Ẩn chứa trong tạo hình hình thể
là chuẩn mực cái đẹp trong tiềm thức của cá nhân họa sĩ.
Hình thể của nhân vật là nói tới hành vi được thể hiện thông qua cử
chỉ, động tác, dáng vẻ (ngôn ngữ cơ thể) của nhân vật, ngoại hình động tác
của bước đi, bàn tay, cấu trúc… nghĩa là dù nhân vật có tính cách ra sao,
tạo hình phải thể hiện được nhịp điệu của nó trong tổng thể như: vẽ chân,
tay, các góc độ gương mặt, xây dựng khuôn mặt theo tỉ lệ, lý tưởng thẩm
mỹ cá nhân tác giả nhằm gây ấn tượng đến người xem. Ngoài ra một gương
mặt biểu cảm đặc tả thần thái cũng là điều không thể thiếu khi họa sĩ muốn
tác phẩm của mình chân thực.
Tiếp cận từ góc độ Mỹ thuật học thì hình thể trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi là yếu tố quan trọng hàng đầu cần chú ý trong khâu thiết
kế của người họa sĩ.
Hình thể trong tranh truyện là kết quả của sự hòa quyện giữa nhu
cầu, quan niệm xã hội cùng với sự hiểu biết tương xứng về tự nhiên. Trong
giai đoạn từ 1995, trên cơ sở của mối tương quan chính trị và những đổi
mới nghệ thuật trong nước. Nghệ thuật tranh truyện đã chuyển mình thay
đổi dần đi theo những tiến trình hội nhập văn hóa văn nghệ đất nước. Sự
nhận thức về đổi mới tư duy khi nghệ thuật Manga Nhật Bản xâm nhập, đổi
mới trong công nghệ in ấn và nền tảng xã hội là làm động lực thúc đẩy
tranh truyện rẽ sang một hướng mới. Giai đoạn những năm 1995 đến năm
2000, tranh truyện vẫn được vẽ tay là phần nhiều. Vì thế, các minh họa
27
tranh truyện thiếu nhi chính là những tác phẩm hội họa mang đầy đủ triết
lý, lý tưởng của họa sĩ. Hình thể trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
dùng những đường nét khúc triết, cô đọng. Hình thể nhân vật được diễn tả
khỏe khoắn, chân chất, đầy đặn, thể hiện vẻ đẹp nội tâm, tinh thần hóa mọi
thể chất, tác động mạnh mẽ và đạt hiệu quả tới suy nghĩ và cảm thụ của
thiếu nhi, nhằm tạo nên hình thể lý tưởng mang đầy đủ những linh hồn đậm
chất văn hóa Việt. Sau năm 2000 trở đi, khi công nghệ truyện tranh Nhật
Bản và truyện comic dần xâm lấn vào lĩnh vực giải trí nghệ thuật đọc
truyện ở Việt Nam cùng với sự thay đổi lứa họa sĩ mới và công cụ thiết kế
đã ảnh hưởng rất nhiều đến lối tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu
nhi. Càng về sau, hình thể trong minh họa tranh truyện thiếu nhi với các
tuyến nhân vật được thể hiện đa dạng theo nhiều lối thể hiện từ tả thực đến
lối cách điệu.
Lịch sử phát triển của minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam cho
thấy vai trò to lớn của hình thể qua nhiều kiểu thức, nhiều phong cách đa
dạng và phong phú. Trong đó, hình thể được thể hiện dưới nhiều hình thức
như tả thực, đơn giản hóa, cách điệu hóa, ước lệ hóa, trừu tượng hóa, thậm
chí là châm biếm, cường điệu, bóp méo… Nó là một ngôn ngữ hữu hiệu
trong tạo hình gây ấn tượng về thị giác, tác động sâu vào tâm hồn người
thưởng thức bởi cách chọn lọc hình tượng đặc sắc, phản ánh rõ nét nội
dung chủ đề, đó là quan điểm về chuẩn mực cái đẹp trong tiềm thức con
người. Cách thức tạo hình thể trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt
Nam từ 1995 đến 2015 là rất đa dạng, nhưng quy chung thành hai chiều
hướng tạo hình thể là hình thể mang tính tả thực và hình thể mang tính
trang trí.
Trong minh họa tranh truyện, đường nét là yếu tố cơ bản để tạo nên
hình thể. Có nhiều loại đường nét như: đường thẳng, đường cong, đường
xoáy ốc, đường lượn sóng, đường zigzag… nét đanh, nét thô, nét mảnh.
28
Trong đó đường nét được người nghệ sĩ vẽ tranh sử dụng trong mỗi giai
đoạn sáng tác, sẽ tạo nên hiệu quả thị giác và ấn tượng chuyển động về
không gian và thời gian trên bề mặt tranh.
Hình thể phổ biến nhất trong các tác phẩm minh họa tranh truyện
Việt Nam thời gian ban đầu từ những năm 1995 đến năm 2015 được phân
chia làm hai luồng phong cách rõ rệt là hình thể mang tính tả thực và hình
thể mang tính chất trang trí và biến chuyển theo chiều hướng phong cách
cá nhân tạo hình của các họa sĩ qua các thời kì. Tuy vậy, tựu chung thì hai
phong cách này lại đều biến chuyển theo yếu tố hình mảng và đường nét
thể hiện trong hình thể khi xây dựng tranh. Ở mỗi thời kì, mỗi người họa sĩ
đều có sự biểu đạt ý tưởng của riêng mình qua màu sắc, đường nét, hình
mảng… nhưng hai yếu tố đường nét và mảng luôn là điều quan trọng nhất
khi xây dựng hình thể và bố cục cho tác phẩm.
Minh họa trong tranh truyện thiếu nhi Việt Nam đã bộc lộ sự phân rẽ
giữa các họa sĩ xây dựng tranh của mình chủ yếu bằng đường nét và các
họa sĩ dự kiến bố cục theo mảng. Một đường có thể tạo ra hình thể hoặc tạo
nên không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều. Bất cứ bức tranh nào dù
được diễn tả bằng mảng cũng phải cần có đường viền giới hạn mảng.
Trong giai đoạn từ 1995 đến cuối năm 2005, các tác phẩm vẫn được
sử dụng những mảng chính phụ phẳng bẹt để biểu hiện không gian và nhân
vật. Sang thời kì sau, từ 2005 đến 2013, các hình thể nhoà đi và đường viền
biến mất trong bóng bao quanh bề mặt các nhân vật và khung cảnh cũng
được thể hiện một cách mềm mại, uyển chuyển hơn và có phần cá tính hơn,
mang phong cách cá nhân của tác giả.
2.1.1. Hình thể mang tính tả thực
Trong quan niệm truyền thống, tả thực được hiểu như là sự thể hiện
một cách trung thành hiện thực. Tính hiện thực trong tác phẩm sẽ có cấu
trúc đồng đẳng với hiện thực vốn có ngoài đời. Với minh họa tranh truyện
29
thiếu nhi Việt Nam, lối tả thực là dựa vào đối tượng và tính chất của hình
tượng nghệ thuật, tính cách nhân vật, khung cảnh thật để vẽ lại, tạo nên
một hình tượng nghệ thuật lý tưởng mang tính hiện thực. Trong đó, hình
tượng được khắc họa bằng kết cấu, hình thể, dung mạo, khung cảnh mang
đặc điểm cốt lõi và đặc trưng nhất của đời thực. Với xu hướng này, các họa
sĩ đi sâu nghiên cứu hình họa, tả kĩ khối, cơ bắp của các nhân vật. Đây là
xu hướng hình thể khi vẽ minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam được
xuyên suốt đến ngày nay.Trong các tác phẩm của có thể thấy đường nét
đã được dùng để biểu đạt các mảng trong tranh gợi sự tưởng tượng về hình
hài các nhân vật, sự vật. Các nhân vật được quy về một nhóm với những
đường viền bo giới hạn rõ nét mang giá trị tượng trưng. Sang thời kì sau,
các hình thể nhoà đi và đường viền biến mất trong bóng bao quanh bề mặt
các nhân vật và khung cảnh cũng được thể hiện một cách mềm mại, uyển
chuyển hơn và có phần cá tính hơn, mang phong cách cá nhân của tác
giả.Nhưng đến những năm gần đây từ 2011 – 2015 hình thể dùng nét để
tách các mảng và tạo khối. Tuy vậy, khác với thời kì trước đó, đường nét
bo hình thể không đều, đậm mà được sử dụng biến hóa hơn.
Trong nghệ thuật tranh truyện, độc giả được tiếp xúc trực tiếp với
hình ảnh của nhân vật, bối cảnh thông qua cách thể hiện của họa sĩ. Trong
tác phẩm “Âu Cơ Lạc Long Quân” của Phạm Ngọc Tuấn do Nxb Kim
Đồng ấn hành năm 1996 [H1] là một minh họa tiêu biểu cho lối vẽ nhiều
yếu tố tả thực giai đoạn này. Hình thể trong tranh được chú trọng nghiên
cứu sâu, tả thực và không cách điệu. Chân dung nhân vật Lạc Long Quân,
Âu Cơ được định hình rõ nét, qua đó cá tính được thể hiện. Hình tượng
nhân vật được khai thác từ trang phục, cơ bắp, dáng điệu thật. Có thể thấy
phong cảnh được thể hiện công phu và có đặc trưng vùng miền riêng trong
mỗi bức tranh. Lối sử dụng màu nước chủ động, thành thạo tạo hiểu quả
nhỏe mờ. Màu sắc trong tranh trầm dịu, gần với thực tế. Không gian được
30
diễn tả theo xa gần. Càng về sau, việc diễn tả chân thực hình thể nhân vật
càng được chú ý cùng với việc phát triển của công nghệ máy móc dẫn đến
sự lược bớt yếu tố một số hình thể cảnh vật và lược bỏ diễn tả không gian
xa gần mà chỉ tập trung vào tác phẩm. Trong truyện “Chàng Đăm Bri”
[H2] của Phạm Ngọc Tuấn, Nxb Kim Đồng năm 2005, tác giả đi sâu vào
phân tích từng tạo hình nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính là chàng Đăm
Bri. Có thể thấy, tác giả chú ý thể hiện nhân vật với hình thể cơ bắp cuồn
cuộn, các thế dáng hoạt động mang tính động. Không gian trong tranh chỉ
mô tả những cảnh gần, những cảnh xa bị lược bỏ, chỉ chú trọng người xem
để ý thị giác vào nhân vật trung tâm. Sang thời kì sau, các hình thể nhoà đi
và đường viền tạo khối biến mất trong bóng bao quanh bề mặt các nhân vật
và khung cảnh cũng được thể hiện một cách mềm mại, uyển chuyển hơn và
có phần cá tính hơn, mang phong cách cá nhân của tác giả. Tác phẩm “Âu
Cơ Lạc Long Quân” [H3] của Minh Kiên - Nxb Mỹ thuật năm 2010, được
vẽ bằng tay, tác giả chỉ tập trung mô tả cảnh vật sinh hoạt của nhân vật
chính. Không gian các lớp trước lớp sau bị lược bỏ và chỉ còn để gợi bóng.
Nhân vật được vẽ theo hình thể thực tế thật. Tác giả lược bỏ đi phần nét bo
viền và gợi khối bằng các mảng đậm nhạt chồng lớp. Trang phục lấy từ
thực tế được đặc tả chi tiết ở các lớp quần áo và độ gấp của nếp vải. Điều
này tạo nên thành công mới cho tác phẩm.
Tranh truyện “Sự tích bánh chưng bánh dày” [H4] do Nguyễn Quốc
Hiệu minh họa năm 2010 đã cho thấy một mạnh ngầm xuyên suốt. Tính tả
thực trong tranh được đẩy lên cao. Không gian được đặc tả thành hai lớp
chính phụ rõ ràng, lớp nhân vật chính tuyến hiện rõ lên trên, lớp không
gian phụ chìm xuống. Tuy vậy, lớp không gian trước, sau vẫn được đặc tả
một cách chi tiết, rõ ràng tạo nên sự mới mẻ trong cách biểu đạt hình thể.
Hình thể nhân vật vẫn diễn tả các dáng theo giải phẫu nhưng các khối hình
được chạy bằng những đường nét kỷ hà tạo nên độ độc đáo cho tác phẩm.
31
Minh họa tranh truyện “Bánh chưng bánh dày” của Nguyễn Quốc Hiệu là
một trong những tác phẩm thành công bởi quá trình xử lý máy trong tạo
hình. Tuy hiện đại nhưng không bị mất đi tinh thần dân tộc.
Tóm lại, hình thể trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ
1995 đến 2015 theo phong cách tả thực đã được chuyển biến nhiều lần theo
các giai đoạn và hoàn thiện dần, không gian, cảnh vật thật ngày càng bị
lược bỏ và tập trung mô tả chi tiết hình thể nhân vật.
2.1.2. Hình thể mang tính trang trí
Thủ pháp trang trí là biện pháp sử dụng một bố cục phong phú kết
hợp rất nhiều lớp họa tiết to nhỏ, đơn giản, phức tạp, có nội dung, vị trí
khác nhau để làm nên vẻ đẹp riêng trong tổng thể. Trong đó, hoa tiết trang
trí phải có hình thể rõ (đường nét cụ thể, dứt khoát, có hình thể độc đáo)
được sáng tạo theo lối vẽ đặc trưng của trang trí: đơn giản hóa, cách diệu
hóa, được lặp lại theo phương pháp vẽ đối xứng qua đường trục, xen kẽ
nhắc lại theo phương pháp vẽ trang trí đường diềm” [28]
Đây là phong cách phổ biến trong các minh họa tranh truyện thiếu
nhi Việt Nam cuối những năm 1990. Các họa sĩ dùng đường nét để tạo
hình, nhân vật được tạo nên từ nhiều đường kỉ hà và các nét tự do chạy trên
các mảng dẹt. Trong tranh, nhân vật được tạo hình theo lối cách điệu đơn
giản, khái quát hình theo mảng và nét với bố cục đơn giản. Các tác giải tập
trung sử dụng nét để khai thác mảng hình, không gian, gợi khối ảo và tạo
các mảng hình chính để tạo nên cảm giác khỏe khoắn, ấn tượng, có không
gian xa gần. Phong cách này tạo cho ngôn ngữ hình thể vừa mang tính hội
họa vừa mang tính đồ họa.
Trong truyện Trê cóc của Ngô Mạnh Lân (1997) [H5] đã sử dụng
những yếu tố tạo hình dân gian mang tính trang trí độc đáo. Ở đây, các
nhân vật được nhân cách hóa, màu được vẽ theo mảng bẹt, sắp xếp mảng
màu và họa tiết trang trí để diễn tả không gian trên bề mặt hai chiều. Không
32
gian mang tính ước lệ, không diễn tả kĩ về khối mà dùng sự kết hợp của
màu sắc, đường nét cách sắp xếp bố cục để gợi không gian. Màu sắc trong
tranh gần với màu của tranh dân gian Đông Hồ. Hay truyện “Ai mua hành
tôi” của Nguyễn Bích [H6] cũng cho thấy lối tạo hình cách điệu mang tính
trang trí. Trong đó, tác giả sử dụng những mảng để minh họa. Từ tuyến
nhân vật, cảnh vật đều sử dụng các mảng phẳng, đơn sắc đặt cạnh nhau để
diễn tả nội dung. Từ sự khúc triết, khái quát bằng hình mảng tạo nên toàn
bộ hình thể cho câu chuyện, họa sĩ Nguyễn Bích đã diễn tả thành công câu
chuyện bằng phong cách riêng biệt, độc đáo của mình.
“Ngưu lang chức nữ” [H7] do Lý Thu Hà minh họa 2005 là sự kế
thừa trên cơ sở tranh truyện của các họa sĩ đi trước. Việc sử dụng hình thể
theo khối mảng trang trí, cách điệu đã tạo nên ấn tượng trong tác phẩm của
cô. Trong đó các nhân vật vẫn được vẽ theo mảng lớn, bên cạnh đó công
nghệ ứng dụng máy đã tạo nên hiệu quả chất mới cho minh họa. Màu sắc
trong mảng phẳng được thay đổi tạo nên khối hình cho mảng và sử dụng
thêm họa tiết hoa văn như trong tà áo của người mẹ.
Cùng với công nghệ truyện tranh nước ngoài và công nghệ ứng dụng
kĩ thuật mới đã chi phối họa sĩ. Trong tác phẩm “Tấm cám” – Phạm Tùng,
Lê Trang vẽ năm 2015 [H8], nhân vật và phong cảnh không còn được mô
tả mang tính manga nhiều hơn với đầu to, chân tay nhỏ, cơ thể người kéo
dài, trang phục vẫn được tả các lớp. Khuôn mặt có đôi mắt to và gợi những
đường nét để tạo nên trạng thái tâm lý nhân vật. Không gian được lược bỏ,
chỉ để phẳng hoặc chuyển sắc để gợi tạo không gian. Việc ứng dụng máy
móc khiến hình thể trong tranh khô cứng không tạo nên hiệu quả dung dị
như ban đầu.
Qua phân tích yếu tố hình thể ở các giai đoạn sáng tác minh họa
tranh truyện thiếu nhi Việt Nam cho thấy sự phong phú trong biểu hiện
hình thể và những thay đổi tất yếu của hình thể. Mỗi thời kì, những quan
33
niệm thẩm mỹ và nhu cầu người đọc là khác nhau theo thời đại. Hình thể
mang tính cách điệu là một trong những hình thức đặc trưng nhất của tranh
truyện thiếu nhi.
2.2. Sự chuyển biến về màu sắc trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
Việt Nam từ 1995 – 2015
Trong không gian, dưới tác dụng của ánh sáng, các vật thể hầu như
đều có màu. Màu sắc của chúng hết sức phong phú nên khi dùng màu để tả
chất sẽ đạt được các hiệu quả khác nhau. Màu trong minh họa thường được
sử dụng trên mặt phẳng có kèm nét thanh mảnh hoặc thô mộc tùy vào cách
thể hiện của từng truyện. Lối vẽ màu trên mặt phẳng như vậy được thể hiện
trên nhân vật, ít tạo khối và tính chất về mặt của sự vật. Với minh họa
tranh truyện thiếu nhi, màu sắc là yếu tố không thể thiếu để tạo nên thành
công cho câu chuyện. Màu trong minh họa tranh truyện thiếu nhi thường sử
dụng những màu chói, bắt mắt.
Họa sĩ vẽ minh họa tranh truyện thường sử dụng màu sắc để gợi sự
liên tưởng và thu hút mắt nhìn.
Trên thực tế, màu sắc có sức hút rất lớn so với các ngôn ngữ tạo hình
khác, nếu nhìn một đối tượng, sự vật thì mắt chúng ta sẽ nhạy cảm với màu
sắc hơn hìnhkhối. Màu sắc có tác động rất lớn đối với tâm lý, suy nghĩ của
người xem. Màu sắc trong minh họa tranh truyện không chỉ mang tính chất
trang trí thuần mỹ, nó luôn được sử dụng với dụng ý nghệ thuật rõ ràng.
Màu sắc trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam những giai đoạn
từ 1995 khi ngành in ấn mới mở rộng phát triển, bảng màu in ấn vẫn còn
đơn giản. Các họa sĩ sử dụng lối điểm màu giản dị. Khuôn mặt các nhân
vật thường để trắng hoặc để một màu. Giai đoạn này, các họa sĩ đã sử dụng
những màu sắc cơ bản, nguyên bản để thể hiện nội dung tác phẩm. Màu sắc
thường không rực rỡ mà trầm dịu, đôi chỗ lắng xuống mà khỏe khoắn, tươi
vui. Trong khuôn hình, ta đều nhận thấy đâu là chính – phụ nhờ vào điểm
34
nhấn màu. Những năm 1995, chất liệu màu của các họa sĩ vẫn thường vẽ là
màu nước và màu sáp. Vì thế, màu sắc trong tranh truyện minh họa thiếu
nhi còn có thể tả chất với độ loang dung dị, mờ ảo của màu nướchoặc khô
sáp, khỏe khoắn của màu sáp. Về sau, sự hỗ trợ đắc lực về máy móc và in
ấn đã tạo ra những biến chuyển trong bảng màu minh họa tranh truyện
thiếu nhi. Màu sắc được thể hiện đa sắc, rực rỡ mà khi vẽ tay hoặc dùng
màu tự nhiên không có được. Cùng với kỹ thuật tô màu bằng tay và bằng
máy cũng tạo nên các hiệu ứng màu khác biệt ở minh họa tranh truyện.
Với thể loại đơn sắc và nhị nguyên, những năm 1995 được coi là
đỉnh cao rực rỡ của tranh truyện thiếu nhị. Các tác phẩm của họa sĩ như Tạ
Thúc Bình, Mai Long, Ngô Mạnh Lân, Tạ Huy Long… phần lớn in trên
giấy chất liệu xấu và dùng màu nước hoặc màu sáp để tô màu nhưng vẫn
thu hút được rất đông độc giả. Trong tác phẩm “Hai ông tiến sĩ” của Ngô
Mạnh Lân sáng tác năm 1998 [H9], ở đây, tác giả sử dụng toàn bộ cuốn
sách là gam màu nâu vàng chủ yếu và kết hợp chúng bổ túc với các màu
xám, xanh coban để làm nổi bật nhân vật. Màu sắc trong tranh chỉ sử dụng
những màu đơn sắc, theo từng mảng màu đặt cạnh nhau và tạo nên không
gian viễn cận. Về sau, cùng với sự kết hợp của công nghệ máy móc và in
ấn, màu sắc trong tranh sử dụng nhiều màu mới, có độ chuyển sắc để tạo
khung cảnh mang tính thời gian và không gian. Trong tác phẩm “Dũng sĩ
Đam Dông” của Tạ Huy Long [H10] đã cho thấy điều này. Tuy sử dụng
gam màu nóng xuyên suốt tác phẩm này, nhưng với việc thể hiện nhiều sắc
độ trên cùng một màu đã tạo nên được trạng thái sự giận dữ của ngọn lửa,
dòng chảy của nước, đặc biệt, yếu tố gợi tả không gian và thời gian qua tín
hiệu của độ chuyển màu đã tạo nên chiều sâu của không gian. Càng về sau,
cùng với sự thay đổi lứa họa sĩ mới và thay đổi về in ấn minh họa tranh
truyện đã sử dụng nhiều màu hơn, đa sắc hơn. Mỗi họa sĩ thể hiện với một
phong cách riêng. Các họa sĩ như Lê Minh Hải, Lý Thu Hà, Phạm Huy
35
Thông đã sử dụng phối hợp nhiều màu trên một nhân vật, tạo hình ảnh bắt
mắt hơn. Tuy nhiên ở tác phẩm “Cây tre trăm đốt” của Phạm Ngọc Tuấn
năm 2015 [H11] , màu sắc được sử dụng theo các mảng lớn, tương phản
đậm nhạt rõ rệt. Đôi lúc có sự xuất hiện những mảng màu chuyển sắc nhẹ
nhàng ở không gian xung quanh nhân vật.
2.3. Sự chuyển biến về bố cục và không gian trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 – 2015
2.3.1. Sự chuyển biến về bố cục
Trong minh họa tranh truyện thiếu nhi, ngoài yếu tố là lời văn, lời
kể thì điều quan trọng không kém là bố cục của mỗi trang truyện. Bố cục
ảnh hưởng tới mạnh kể, diễn biến câu chuyện. Đôi khi, chỉ cần nhìn hình
ảnh mà ta có thể đoán được nội dung câu chuyện.
Bố cục là một thuật ngữ được xem như là một biểu hiện tương quan
giữa các yếu tố hình thức với nhau để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, nhịp
điệu cho tác phẩm. Khi xét đến bố cục của minh họa tranh truyện trước
tiên ta cần xét tới cốt truyện. Trong minh họa tranh truyện thiếu nhi cốt
truyện thường theo quy trình: thắt nút – phát triển - cao trào và mở nút.
Sự tương đồng của truyện tranh so với những hình thức tự sự khác đã cho
thấy tinh văn học sâu sắc của thể loại truyện tranh. Hơn hết, do quy luật
tiếp nhân trực quan chi phối đa phần người tiếp nhận là độc giả nhỏ tuổi,
nên truyện tranh bắt buộc phải đề cao tính sự kiện, tôn vinh tính cao trào
và chú ý đến mở nút thật ấn tượng.
Để giải quyết vấn đề này, bố cục trong minh họa tranh truyện vừa
phải có tính bao quát vừa tạo nên tình tiết phù hợp với nội dung. Những
năm 1995, các họa sĩ Nguyễn Bích, Mai Long, Ngô Mạnh Lân được coi là
những họa sĩ gạo cội vẽ minh họa tranh truyện với số lượng tác phẩm đồ sộ
như Thánh Gióng, Thạch Sanh…Bố cục trong tranh thường xây dựng bằng
những mảng lớn nhưng lại sâu sắc, mượt mà. Lúc này, trong một trang hình
36
chỉ thuần nhất mô tả một nội dung có chủ đề và có bố cục một trang minh
họa sẽ tương tự một bức tranh hoàn chỉnh. Có các mảng chính phụ, không
gian theo xa gần, phần nội dung chữ thường được để phía dưới, bên trên
hoặc bên cạnh tranh. Chỉ cần nhìn tranh là có thể đoán được nội dung câu
chuyện mà không cần chữ. Sau này, bố cục trong minh họa tranh truyện
ngày càng linh hoạt hơn, một trang truyện sẽ không bó hẹp trong một
khung hình nhất định, bố cục đa dạng từ thể thức đồng hiện, hoặc hình vẽ
chạy quanh chữ viết…Tuy vậy khi bỏ chữ đi thì hình vẽ trở lên khó hiểu
hoặc vô nghĩa.
Cụ thể trong loạt các tác phẩm từ năm 1995 như “Ai mua hành tôi”
[H12], “Cây Khế” [H13] của Nguyễn Bích, “Âu Cơ và Lạc Long Quân”
của Mai Long [H14], “Cây tre trăm đốt” của Ngô Mạnh Lân [H15]…
Trong đó, bố cục mỗi trang hình liên hoàn tạo thành một nội dung nhất
quán cho câu chuyện. Không gian được vẽ theo luật xa gần được thể hiện
bằng những đường nét có hướng, độ đậm nhạt của màu sắc. Bố cục này
tiêu biểu và xuyên suốt trong các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi
từ 1995 nay.
Những năm về sau, bố cục trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
được thay đổi đa dạng, vừa kế thừa bố cục truyền thống, vừa tìm ra bố cục
lạ, cắt cúp táo bạo. Tranh minh họa đã không còn đững độc lập với phần
chữ mà được kết hợp hài hòa, bổ trợ lẫn nhau để tạo nên một tổng thể hoàn
chỉnh trong mỗi trang truyện. Các ấn phẩm về sau này cũng sử dụng rất đa
dạng và linh hoạt các loại bố cục trong một truyện chứ không thường
xuyên sử dụng lối vẽ tranh liên hoàn như trước.
Bên cạnh đó, cùng với sự ảnh hưởng của truyện tranh nước ngoài
một số tác phẩm tranh truyện hiện đại đã cho thấy sự chuyển biến trong
cách tư duy và sắp xếp bố cục mới. Trong các minh họa “Chàng học trò có
chí” [H17]của Vũ Duy Nghĩa, hình ảnh trong mỗi trang được biểu hiện đa
37
dạng về không gian và bố cục. Nhân vật có lúc được đặt trong không gian
thật, có lúc được đặt trong không gian ước lệ. Trong “Đeo nhạc cho mèo”
[H24] của Bút chì, họa sĩ mô tả hai phân cảnh cùng lúc theo kiểu không
gian cắt lớp, đồng hiện. Nhóm nhân vật chuột xuất hiện cùng lúc trên mặt
đất và trong lòng đất với hai chiều hướng đối lập, đối xứng nhau qua một
hộp thoại chữ để tạo nên hiệu quả truyền tải hai việc liên tiếp xảy ra. Hay ở
một trang khác [H16], những hình đầu chuột với các hình dáng, động thái
nhìn từ dưới nhìn lên được xếp tròn chạy xung quanh đoạn văn để gợi nên
không gian tề tựu, họp hành. Lối sử dụng bố cục này mang hơi hướng ảnh
hưởng của truyện tranh Nhật Bản.
Bên cạnh đó, ngoài sự ảnh hưởng của nghệ thuật Manga thì minh họa
tranh truyện thiếu nhi Việt Nam những năm gần đây cũng cho thấy sự ảnh
hưởng của nhiếp ảnh. Trong đó, tỉ lệ nhân vật và khung tranh thường cân
xứng, không gian được trình bày theo dụng ý nghệ thuật, góc nhìn đa điểm
hơn. Trong tác phẩm “Sự tích dưa hấu” của Thái Mỹ Phương [H18] cũng
cho thấy sự khai thác góc nhìn bố cục mới. Ngoài những bố cục thông
thường, tác giả còn khai thác thêm bố cục được nhìn từ trên cao xuống.
Cảnh vật được nhỏ bé, tạo nên một không gian mênh mông cho khung
cảnh. Với lối bố cục này, Thái Mỹ Phương đã truyền tải thành công đến
người đọc khung cảnh biển rộng lớn trong câu chuyện. Điểm nhìn không
gian trong tranh truyện cho chứa đầy hàm ý và xúc cảm.
Qua đó, có thể thấy, sự biến chuyển trong cách sử dụng bố cục từ
1995 đến 2015 qua các tác phẩm một cách rõ rệt. Bố cục được khai thác đa
góc nhìn qua các giai đoạn chuyển biến từ bố cục cổ điển đến bố cục cắt
cúp, mang hơi hướng hiện đại.
2.3.2. Sự chuyển biến về không gian
Nói đến không gian hội họa, người ta không chỉ chú ý đến cảm giác
ba chiều trên mặt phẳng mà con quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả diễn đạt
38
không gian đó như thế nào về chiều sâu, độ nổi, đặc điểm của mỗi sự vật
như hình, chất, màu sắc… Hiệu quả không gian vừa là điểm xuất phát vừa
là đích đến trong việc sáng tác hội họa.
Không gian được mô tả trong truyện tranh thường được quy định bởi
tính chất của không gian xa gần, trời mây, cây cỏ, hoa lá trong thực tế mà
không phải chỉ bằng sáng tối đậm nhạt, màu sắc để mô tả, tái hiện không
gian cụ thể. Tuy nhiên, không gian trong minh hoa không chỉ thể hiện
trường nhìn quang học thuần túy của con người, mà nó còn thể hiện cái
nhìn về tâm lý và thẩm mỹ. Vì vậy, không gian trong minh họa tranh
truyện được biến chuyển liên tục để phù hợp với thẩm mỹ và lý tưởng của
tác giả.
Xét về mặt hình thức của minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam
giai đoạn 1995 – 2015, quy luật phối cảnh viễn cận rất được chú trọng sử
dụng trong tác phẩm như họa sĩ Văn Minh, Mai Long, Tạ Huy Long.
Chính nhờ cách phối cảnh này mà tranh truyện đã có sự khác biệt đối
với tranh truyện hiện đại. Phối cảnh sáng tối cũng hết sức được chú trọng,
có thể dùng các mảng đậm nhạt, sáng tối hoặc dùng màu sắc để biểu hiện
nên tính chất không gian.
Giai đoạn sau 1995 không gian trong tranh thường sử dụng là không
gian cảm giác gợi cho người xem sự liên tưởng về một thế giới hiện thực,
với chiều sâu, sự hiện hiện của các nhân vật theo thứ tự trước sau. Càng về
sau, bên cạnh việc vẫn tiếp tục sử dụng không gian cảm giác thì ở một số
tác phẩm minh họa tranh truyện không gian không còn theo quy luật của
không gian cảm giác mà thay vào đó là không gian ý niệm. Nhân vật trung
tâm được phóng to, nền không gian không còn tả thực nữa mà bị lược bỏ.
Không gian được tạo nên từ các mảng lớn. Đến năm 2010, không gian
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi lại sử dụng không gian phối hợp
mang tổng hòa đặc điểm của hai loại không gian trên. Từ sự đa dạng trong
39
lối biểu hiện không gian qua các giai đoạn đã tạo nên đặc điểm về biến
chuyển không gian trong minh họa tranh truyện thiếu nhi.
Trong các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi sau năm 1995,
để gợi cho người xem sự liên tưởng về một thế giới hiện thực, không gian
cảm giác bao gồm một điểm nhìn và một điểm tụ hay một đường chân trời
để tạo cảm giác về không gian thực. Hoặc dùng phương hướng của đường
nét để biểu hiện chiều sâu không gian theo kiểu thấu thị tuyến tính, đồng
thời cũng có thể dùng màu sắc đậm nhạt sáng tối để phân biệt thấu thị theo
quy luật xa nhạt, gần đậm. Hình thức không gian này được sử dụng nhiều
như trong tác phẩm: Âu Cơ và Lạc Long Quân của Mai Long, Chàng Dăm
Bri của Phạm Ngọc Tuấn,…
Bức minh họa truyện: “Con cóc là cậu ông trời” của họa sĩ Tạ Thúc
Bình [H19] thể hiện cảnh sinh hoạt của những con ếch, con cóc trong hồ.
Các nhân vật ếch cóc được bố cục thành một hình tam giác hướng đỉnh tam
giác vào phía trên nhằm vừa nhấn mạnh hình tượng con cóc vừa để tạo nên
chiều sâu không gian. Bức tranh sử dụng đường thẳng để phân chia hồ
nước và chân trời phía xa tạo nên tách bạch cho không gian trong tranh.
Bên cạnh đó, một kiểu không gian được các họa sĩ gạo cội sử dụng
nhiều từ 1990 đến 1995 là không gian được gợi thông qua chất liệu giấy
điệp. Tranh lấy hình để gợi ý, con người và cảnh vật được cách điệu, vẽ
màu phẳng, bố cục cô đọng hình vẽ theo tỉ lệ thuận mắt kết hợp với những
nét vay bổng để tạo ra hiệu quả độc đáo riêng. Tiêu biểu là tác phẩm “Hai
ông tiến sĩ” của Ngô Mạnh Lân [H20]. Trong đó, mảng phẳng lớn màu
được sử dụng, xen kẽ là các mảng mang tính chi tiết. Mà sắc chủ yếu là
màu xám, đỏ, xanh, hồng, những màu đơn sắc giống với bảng màu cảu
tranh dân gian.
Về sau, các họa sĩ lược bỏ đi việc miêu tả không gian theo chiều sâu
mà tập trung mô tả nhân vật chính và sử dụng không gian theo ý niệm.
40
Không gian ý niệm thường mang yếu tố ám thị và chỉ tiếp nhận bằng suy
tưởng hay nường tượng. Trong không gian thường để phẳng, nhân vật
chính sẽ được thể hiện to, rõ ràng nhất. Hình tượng trong tranh đã được
tinh lọc thông qua phản ánh chủ quan của người nghệ sĩ. Không gian ý
niệm được biểu hiện trong các tác phẩm như: “Cây khế” của Đinh Thanh
Liêm [H21]… Đặc biệt, trong minh họa tranh truyện “Thánh Gióng” của
Nguyễn Quang Vinh [H22], hình thể được cách điệu toàn bộ bằng những
hình khối hình học, không gian để phẳng. Tuy vậy, tác phẩm vẫn tạo nên
chiều sâu về ý thức không gian.
Trong những năm gần đây, xu hướng sử dụng không gian kết hợp
để tạo nên nhiều góc độ, ví dụ trong truyện “Ai mua hành tôi” của Tạ Lan
Hạnh [H23] đã thể hiện đã diễn tả những sự việc xảy ra đồng thời bằng
không gian phối hợp. Trong tranh, họa sĩ thể hiện hai lớp nhân vật, một
lớp phía trên và một lớp phía dưới. Khác với không gian ý niệm, ở đây
các nhân vật trên mặt tranh đều có độ lớn bằng nhau do họa sĩ sử dụng
cùng lúc nhiều điểm nhìn khác nhau. Nếu như trong không gian cảm giác,
khi diễn tả một khung cảnh như vậy thì điểm tụ đường chân trời sẽ hiển
thị rõ rệt, nhưng trong không gian phối hợp, họ sẽ sử dụng nhiều điểm
nhìn khác nhau, tạo nên các nhóm nhân vật vẫn giữ được hình dáng như
nhau khi ở xa gần. Điều này tạo nên các góc nhìn đồng thời mà không bị
tách rời trong cùng một không gian.
Ngoài ra, không gian kết hợp còn được biểu hiện dưới phương thức
tổ chức không gian thể hiện cảnh vật bị che khuất bởi vật thể mà bình
thường mắt không nhìn thấy. Loại không gian này thường miêu tả một
không gian bị cắt lớp tạo nên sự kết hợp giữa không gian hiện thực và
không gian ảo. Như tác phẩm “Đeo nhạc cho mèo” [H24] của Bút Chì biểu
hiện những hoạt động bên trong lòng đất của đàn chuột. Ở đây, họa sĩ đã
thể hiện sinh động được bối cảnh đường hầm của lũ chuột với một đường
41
ống nằm ngang. Thủ pháp tổ chức không gian này cho phép họa sĩ đồng
thời có thể mô tả được hai trạng thái đối ngược nhau.
Bên cạnh đó, tranh truyện ngày nay đang phát triển theo hướng khai
thác và nâng cao không gian nội tâm nhân vật mà bỏ qua không gian thực
tại của tác phẩm. Trong rất nhiều truyện tranh, bao bọc xung quanh nhân
vật chỉ là những biểu tượng có tính chất ước lệ về không gian nội tâm. Như
trong tác phẩm “Bánh chưng bánh dày” của Nguyễn Quốc Hiệu [H25].
Trong đó không gian nội tâm đặc đặc tả bằng những đường sọc dọc phản
chiếu trên khuôn mặt nhân vật chàng Liêu từ ô cửa cho thấy cảm xúc trăn
trở, suy nghĩ, bị bó buộc trong khuôn phép của nhân vật.
Sự chuyển biến từ không gian hiện thực đến không gian nội tâm đã
cho thấy sự thay đổi về tư tưởng thẩm mỹ của thời đại trong minh họa
tranh truyện thiếu nhi.
2.4. Sự chuyển biến về chất liệu và kĩ thuật sáng tác.
Đối với nghệ thuật thì chất liệu thể hiện không bao giờ là có giới
hạn. Để xây dựng những tác phẩm từ hình ảnh và từ ngữ thành những câu
chuyện thì những vật liệu gần gũi nhất với họa sĩ là bút và giấy. Ngoài ra,
còn có thêm nhiều chất liệu khác cũng dùng để hỗ trợ, thể hiện một tác
phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi như các chất liệu màu hay trong
thời đại hiện nay, các phần mềm hỗ trợ vẽ máy tính cũng trở nên thông
dụng trong việc sáng tác.
Giai đoạn 1995, khi tranh truyện chỉ sử dụng kỹ thuật thủ công là vẽ
tay và đem đến nhà in bởi công nghệ lúc đó còn hạn chế chất liệu phổ biến
trong việc minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam được các họa sĩ sử
dụng nhiều là các loại màu nước và màu khô (màu sáp). Hiện nay, với nhu
cầu sống được tăng cao nên đòi hỏi thưởng thức những tác phẩm chất
lượng. Điều kiện công nghệ cho phép họa sĩ có thể sáng tạo thỏa mái và tận
42
dụng tối đa hiệu qua của các chất liệu sáng tác khi kết hợp chúng với nhau
trên cùng một sản phẩm.
Vì vậy, chất liệu sáng tác chi phối kĩ thuật sáng tác. Có thể nói rằng
chất liệu và kỹ thuật sáng tác minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam
luôn song hành với nhau.
Trong tác phẩm “Cây khế” do Nguyễn Bích vẽ năm 1996 [H26], tác
giả đã sử dụng màu nước. Có thể thấy được các đặc điểm của chất liệu màu
nước như tạo các lớp màu trong, các lớp màu lan tỏa, hòa quyện vào nhau
tạo nên độ trong trẻo và sâu hơn cho ra độ chuyển màu và sự ngẫu nhiên
của bút pháp gây hiệu ứng mờ ảo, bay bổng.
Bên cạnh đó, chất liệu màu khô cũng cũng mang những sắc thái, biểu
đạt riêng. Như trong tác phẩm khác của Nguyễn Bích là “Ai mua hành tôi”
– 1995 [H27] đã cho thấy hiệu quả riêng của chất liệu này. Chất liệu này
làm cho nét, hình có tính khô ráp, khỏe khoắn. Chất liệu màu sáp khi sử
dụng để lại các vệt ganh của màu làm nên chất cảm cho chất liệu.
Về sau, khi công nghệ tiên tiến hơn các chất liệu trên thường sử dụng
để tạo bản thô của minh họa tranh truyện, sau đó tác phẩm lại được thực
hiện ở máy tính để lên màu và chuốt lại hình và nét. Màu sắc trên máy
ngày càng đa dạng và sử dụng tương đối thuận tiện. Bên cạnh đó, công cụ
máy cũng có những hiệu ứng thị giác có sẵn tạo cho người vẽ nhiều hình
thức biểu đạt cao hơn. Công cụ in ấn và đồ họa được sử dụng một cách
sáng tạo chưa từng thấy. Truyện được vẽ trên máy, để quá trình vẽ được
nhanh gọn hơn, họa sĩ đã vẽ riêng từng bộ phận, từng hình ở nhiều tư thế
và góc nhìn khác nhau. Khi cần đến nhân vật ở tư thế, góc độ nào chỉ cần
lấy các mảnh ghép hình tương ứng và ghép lại. Đặc điểm của thể loại sáng
tác này là nhanh gọn, chính xác, không tốn công nhưng nhược điểm là đơn
điệu về hình thể và thiếu biểu cảm. Như trong một số tác phẩm “Cây tre
trăm đốt” – 2000, của họa sĩ Phương Hoa [H28] đã sử dụng kết hợp giữa
43
hai kĩ thuật vẽ tay và máy móc. Tác phẩm vừa cho thấy việc sử dụng mảng
màu lớn và độ chuyển màu ở không gian bằng máy tạo nên hiệu ứng thị
giác bắt mắt hơn. Tuy vậy, việc sa đà quá nhiều vào công cụ máy móc cũng
khiến cho các minh họa tranh truyện trở lên khô cứng và dần mất đi tính
nghệ thuật ban đầu. Trong tác phẩm “Cây tre trăm đốt” của Phạm Ngọc
Tuấn [H11] đã cho thấy điều này. Việc sử dụng máy móc hoàn toàn từ
khâu vẽ hình và tô màu theo mảng màu không tạo nên sự khúc triết cho
khối hình mà trái lại minh họa bị đều ở các mảng, hình khối căn chỉnh đều,
có chăng chỉ thay đổi to nhỏ mà hình không đổi, bị lặp lại nhiều lần gây
nên sự nhàm chán. Điều này cũng là một hạn chế lớn của việc minh họa
tranh truyện hiện nay.
Tiểu kết
Chương 2 nghiên cứu về sự chuyển biến về hình thể, màu sắc, bố cục
và không gian… đó là những yếu tố tạo hình trong minh họa tranh truyện
thiếu nhi, thông qua đó tác giả thể hiện được những quan điểm riêng,
những nhận thức, tư tưởng của mình khi sử dụng kết hợp hiệu quả những
yếu tố này. Bên cạnh đó, nghiên cứu thêm về biến chuyển chất liệu và kỹ
thuật sáng tác. Từ đó làm nên những giai đoạn biến chuyển khác nhau ở
các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến 2015.
Sự chuyển biến của nghệ thuật minh họa tranh truyện qua tạo hình ở
các thời kì từ 1995 đến 2015 đã làm nên đa dạng về cách thức thể hiện của
các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam. Qua những phần
phân tích trên cho thấy, để thành công trong xây dựng tạo hình trong minh
họa tranh truyện thiếu nhi cần có sự đầu tư của họa sĩ trong nhiều vấn đề từ
hình thể, đường nét, màu sắc, bố cục, không gian… Do đó, ngôn ngữ tạo
hình đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện các ý tưởng họa sĩ. Phân
tích các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam cho thấy từ
họa sĩ Nguyễn Bích, Ngô Mạnh Lân, Tạ Thúc Bình đã sử dụng ngôn ngữ
44
tạo hình mang tính dân gian, cô đọng, hiện thực càng về sau các lứa họa sĩ
minh họa tranh truyện mới và cùng với máy móc đã tạo nên dòng trào lưu
minh họa mới mang tính hiện đại khiến chuyển biến minh họa tranh truyện
thiếu nhi từ hình thể, bố cục, không gian, ánh sáng …
Qua các tác phẩm minh họa tranh truyện đã thể hiện được dòng chảy
trào lưu nghệ thuật minh họa và sự phát triển, kết thừa các yếu tố tạo hình
làm nên tác phẩm có chiều sâu về không gian, sự kịch tính trong nội tâm
nhân vật mang dáng dấp của đời sống hiện thực. Hình ảnh nhân vật kiểu
thức hóa dần biến mất nhường chỗ cho sự nghiên cứu chuẩn mực trong cơ
thể người trên tranh.
45
Chương 3
THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ
CỦA SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ TẠO HÌNH
TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM
TỪ 1995 – 2015
3.1. Những thành công của chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi giai đoạn 1995 – 2015
3.1.1. Sự phong phú về tạo hình
Việt Nam sau giải phóng miền Nam thống nhất đến nay đã trải qua
rất nhiều biến động về những thay đổi về mặt kinh tế, xã hội, vật chất và
môi trường. Kể từ sau chính sách mở cửa năm 1995, đất nước hòa nhập vào
xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường đòi hỏi tính cạnh tranh cao. Khi
tiếp xúc với kĩ thuật hiện đại và sự phổ biến của internet, thẩm mỹ hiện đại
đã bắt đầu được chú ý nhiều trong các ngành nghề mỹ thuật ứng dụng.
Trong lĩnh vực minh họa tranh truyện thiếu nhi ngày càng chú trọng và đòi
hỏi tính thẩm mỹ và hợp thời trong khâu thiết kế, trình bày đã tạo nên sự
phong phú trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu nhi.
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu một số tác phẩm minh họa tranh
truyện thiếu nhi Việt Nam giai đoạn từ 1995 đến 2015, phân tích các yếu tố
tạo hình từ góc độ mỹ thuật học ở trên, ta có thể thấy được các sự phong
phú trong các cách biểu hiện ngôn ngữ tạo hình trong việc thể hiện minh
họa tranh truyện.
Phong phú về tạo hình hình thể nhân vật
Trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam, yếu tố hình thể của
nhân vật chính là ngôn ngữ cơ thể của nhân vật là yếu tố quan trọng hàng
đầu cần chú ý trong khâu tạo hình bởi tính điển hình và thẩm mỹ của nhân
vật sẽ quyết định ý thức của người xem, giúp ngừơi xem định hình được
46
nội dung trong một tác phẩm, từ đó hiểu được ý nghĩa của tác phẩm đó.
Những yếu tố hình thể kết hợp với các yếu tố tạo hình khác sẽ tạo nên hiệu
quả về tạo hình tổng thể của tác phẩm.
Tạo hình trong minh hoạ tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995
đến 2015 đã cho thấy những biến chuyển hình thể nhân vật là liên tục.
Thông qua hình thể, họa sĩ biểu hiện được các yếu tố thẩm mỹ và tính thời
đại và tính cá nhân trong đó. Vì vậy, mỗi họa sĩ phải chọn cho mình
phương pháp xây dựng hình thể riêng. Từ đó tạo nên tính đa dạng phong
phú trong hình thể nhân vật.
Hình thể nhân vật trong các minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt
Nam cho thấy sự am hiểu và sử dụng nhuần nguyễn khi xây dựng nhân vật.
Sự khác biệt về giới tính cũng thể hiện rất rõ với cách thể hiện hình thể.
Với nhân vật nam giới việc mô tả tạo hình, các họa sĩ sẽ nhấn mạnh chiều
ngang, sử dụng các nét đậm để thể hiện sự cứng rắn đặc trưng giới tính.
Với nhân vật nữ, tạo hình thường sử dụng những đường cong, nét thanh để
tạo nên vẻ mềm mại, nữ tính. Nhìn chung là như vậy, nhưng tùy vào phong
cách hình thể mà các họa sĩ ứng biến ra tạo hình chung, diễn đạt nhân vật
theo phong cách của mình mà không mất đi cá tính và thần thái của nhân
vật. Bên cạnh đó, việc biểu cảm thần thái qua ngôn ngữ hình thể cũng được
các họa sĩ nghiên cứu và tìm tòi phong phú. Ngôn ngữ cơ thể được thay đổi
khá đa dạng, liên tục từ cử chỉ, điệu bộ để phù hợp với tính cách nhân vật
đã thay đổi các lứa họa sĩ phản ánh theo nhiều cách khác nhau. Từ đó làm
nên sự phong phú trong tạo hình nhân vật trong minh họa tranh truyện
thiếu nhi Việt Nam.
Trong hình thể nhân vật, yếu tố nét là một là yếu tố cơ bản để tạo nên
hình thể. Trong đó đường nét được người nghệ sĩ vẽ tranh vận dụng theo
cách riêng mình, sẽ tạo nên hiệu quả thị giác và ấn tượng chuyển động về
không gian và thời gian trên bề mặt tranh khác nhau. Trong các minh họa
47
tranh truyện giai đoạn đầu, hình và nét được đầu tư công phu để diễn tả
hình và không gian. Hình thể nhân vật sẽ sử dụng nét và các hình để tạo
nên sắc độ đậm và trung gian trong trang minh họa. Đôi khi, có những họa
sĩ lại chỉ sử dụng nét và mảng đậm mà không dùng đến độ trung gian. Điều
này cho thấy được sử phong phú trong cách vận dụng hình khối, đường nét
để tạo nên hiệu quả thị giác cho hình thể. Điển hình như trong tác phẩm
“Sát thát” của Nguyễn Bích, cách sử dụng nét tinh tế và các mảng đậm, hay
trong tác phẩm của họa sĩ Tạ Huy Long, các đường nét mềm mại để định
hình và nhấn khối cho nhân vật. Từ đó tạo nên sự phong phú trong việc
diễn tả hình thể nhân vật trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam.
Phong phú trong cách sử dụng màu sắc
Bên cạnh sự phong phú về mặt tạo hình nhân vật, sự thay đổi khuynh
hướng sử dụng màu sắc trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam đã
tạo nên nhiều sự đột phá mới mẻ. Trong giai đoạn 1995, các minh họa
tranh truyện vẫn sử dụng màu nước và màu bột theo các mảng và sử dụng
các bút pháp cá nhân họa sĩ để tạo nên độ rung cảm riêng cho chất liệu.
Càng về sau, cùng với sự phát triển của công nghệ in ấn và kĩ thuật vi tính
đã dẫn tới sự đa dạng từ cách thể hiện màu sắc đến sắc độ màu. Nhiều kĩ
thuật thể hiện màu với phong cách đa dạng đã tạo nên một thế giới truyện
lung linh màu sắc. Mỗi họa sĩ đều có cách sử lý chất liệu và sử dụng màu
riêng, bên cạnh đó, việc sử dụng máy móc sau khi vẽ tay hoặc tô màu hoàn
toàn trên máy cũng là một phương thức mới mẻ trong việc thể hiện màu.
Yếu tố màu sắc và hình thể có mối quan hệ tương hỗ nhất định. Màu
sắc có khả năng hoàn thiện cho khối, và đem lại cho hình thể sự đa dạng về
biểu diễn chất, làm phong phú bề mặt hình thể. Trong minh họa tranh
truyện những năm 1995, màu sắc luôn sử dụng sắc tươi nguyên, và ít màu
tạo nên hiệu quả mạnh mẽ về thị giác còn trong minh họa tranh truyện hiện
48
đại, màu sắc khi sử dụng thường nhẹ, màu sắc trong in ấn phong phú, nhiều
sắc độ và hài hòa trong minh họa tranh truyện thiếu nhi hiện đại. Từ đó làm
nên sự phong phú về màu sắc trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu
nhi Việt Nam.
Trong tạo hình minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam, các họa sĩ
luôn có những phong cách cá nhân của riêng mình sẽ biểu thị màu sắc theo
lối riêng và trong mỗi tình huống cốt truyện cụ thể mà họa sĩ sử dụng màu
sắc linh hoạt theo các tông màu đậm nhạt, nóng lạnh, hòa sắc để tạo nên
hiệu quả cho minh họa tranh truyện. Vì vậy, tính cá nhân trong việc thể
hiện màu sắc cũng tạo nên sự chuyển biến và phong phú trong việc tư duy
và sử dụng màu sắc.
Phong phú trong lối thể hiện không gian
Tranh truyện là truyện bằng tranh: vẽ có tính chất gần giống với hoạt
hình, vì thế trong minh họa tranh truyện sẽ có rất nhiều diễn biến hành
động liên tục được tạo như một cuốn phim. Bằng cách vẽ mô tả cho người
xem những đặc trưng không gian diễn biến theo thời gian, các họa sĩ minh
họa đã xây dựng thành công và phong phú trong lối thể hiện yếu tố không
gian trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam.
Thông qua sự nghiên cứu về các chuyển biến về không gian trong tạo
hình minh họa tranh truyện thiếu nhi từ 1995 đến 2015 đã cho thấy được cụ
thể những chuyển biến về các hình thái không gian chính được sử dụng
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi thường là: không gian cảm giác,
không gian ý niệm và không gian phối hợp tổng hợp. Tuy vậy phương thức
để diễn tả tạo hình ba loại không gian trên được các họa sĩ minh họa và sử
dụng một cách linh hoạt và rất phong phú. Mỗi loại không gian đều có
những tác dụng khác biệt, ảnh hưởng đến cảm xúc và thị giác người xem
tạo nên hiệu quả phong phú về mặt thẩm mỹ cho tác phẩm.
49
Phong phú trong chất liệu và kĩ thuật sáng tác
Đối với nghệ thuật thì chất liệu thể hiện thì không bao giờ có giới
hạn. Để xây dựng những tác phẩm minh họa tranh truyện thì việc chú ý đến
chất liệu biểu đạt hình thức minh họa cũng là một trong những công cụ hỗ
trợ tạo nên thành công cho minh họa tranh truyện.
Từ những năm 1995 đến 2015, các họa sĩ đã làm việc với nhiều chất
liệu vẽ minh họa khác nhau. Ngay từ ban đầu, chất liệu giấy, màu chỉ là
những chất liệu màu nước, màu bột thông thường, tuy vậy, hiệu quả tạo
chất trên mỗi chất liệu đã tạo nên phong cách khác nhau trong minh họa
của các họa sĩ. Đến nay, khi công cụ hộ trợ ngày càng tiên tiến và hiện đại,
chất liệu màu vi tính đã trở thành công cụ đắc lực cho lứa họa sĩ trẻ. Từ đó
tạo nên những phong phú trong cách biểu đạt chất liệu theo phong cách và
kĩ thuật sáng tác của họa sĩ.
Những năm 1995, lứa họa sĩ nòng cốt như Nguyễn Bích, Mai Long,
Ngô Mạnh Lân… đã hiệu quả thị giác khi sử dụng các loại màu nước và
màu bột. Trong đó, họa sĩ nổi bật là Mai Long, Ngô Mạnh Lân, Tạ Huy
Long đã thành công với chất liệu màu nước. Chất liệu này cho độ chuyển
màu và sự ngẫu nhiên của bút pháp trong việc sử dụng màu loãng, khiến
tạo hình trong tranh truyện có hiệu quả mờ ảo, bay bổng. Đặc điểm tạo
được các lớp màu chồng xếp lên nhau mà vẫn có độ trong trẻo và mang
tính biểu đạt cao. Màu bột lại cho ra hiệu quả khỏe khoắn và độ xốp của
mảng mang sắc thái biểu đạt riêng cho họa sĩ Nguyễn Bích, Tạ Thúc
Bình…Tuy vậy, cùng sử dụng một chất liệu nhưng các họa sĩ lại có lối diễn
đạt tạo hình khác nhau. Hiện nay, các chất liệu trên thường chỉ sử dụng để
tạo nên bản thô của tác phẩm minh họa tranh truyện và được hoàn thiện
trên máy. Màu sắc đa dạng kết hợp với phong cách thẩm mỹ của các họa sĩ
minh họa tranh truyện hiện đại cũng cho thấy sự phong phú về chất liệu và kĩ
50
thuật. Từ đó cho thấy sự phong phú trong việc sử dụng chất liệu và kĩ thuật
sáng tác trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến 2015.
3.1.2. Sự đa dạng về phong cách
Thể loại minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam những năm 1995
phần nhiều lựa chọn lối bố cục với một khuôn hình chiếm toàn bộ trang
truyên, trong mỗi ô hình đó, cảnh trang trí, con người được sắp xếp như
một bức tranh cổ điển. Càng về sau các họa sĩ trẻ càng linh hoạt trong cách
sắp xếp và sử dụng không gian, bố cục. Từ đó tạo nên những đa dạng về
phong cách minh họa trong tranh truyện.
Sự đa dạng phong cách từ 1995 đến 2015 quy chung lại bao gồm
phong cách tả thực và phong cách trang trí nhưng ở mỗi giai đoạn, mỗi họa
sĩ lại có cách sử dụng ngôn ngữ tạo hình khác nhau và tạo nên thành công
khác biệt.
Những năm 1995, các họa sĩ tên tuổi như Tạ Thúc Bình, Ngô Mạnh
Lân, Mai Long với bút pháp thiên về tả thực và sử dụng sáng tạo yếu tố tạo
hình dân gian vào trong các minh họa tranh truyện. Cùng lúc đó, họa sĩ
Nguyễn Bích lại đi theo thiên hướng phong cách tạo hình mang tính trang
trí, tượng trưng. Trong mỗi khuôn hình, các họa sĩ lại tìm tòi các góc nhìn,
gia giảm về bối cảnh, không gian theo phong cách cá nhân mình. Càng về
sau, các lứa họa sĩ trẻ hơn lại thiên về lối cách điệu, sử dụng các yếu tố tạo
hình phương Tây như Tạ Huy Long, Phạm Huy Thông, Lý Thu Hà, Thái
Mỹ Phương, Lê Bích Khoa… Minh họa tranh truyện hiện đại cũng cho
thấy những phong cách khác nhau và sự tư duy tìm tòi lối vẽ khác như: Tạ
Lan Hạnh, Phạm Ngọc Tuấn, Phan Anh, … Qua đó cho thấy, ở mỗi giai
đoạn, các họa sĩ tuy theo xu hướng thẩm mỹ tạo hình riêng nhưng vẫn
khẳng định được phong cách cá nhân qua các tác phẩm minh họa của mình.
51
3.1.3. Sự cởi mở trong tư duy sáng tác
Hiện nay, tranh truyện ở Việt Nam dù đã trải qua các quá trình hình
thành và phát triển không ngừng nghệ thuật tạo hình nhưng quá trình này
vẫn còn tiếp tục. Qua các giai đoạn, truyện tranh thiếu nhi dần hoàn thiện
về cốt truyện và nội dung nhằm phù hợp với nhu cầu giải trí đương đại đòi
hỏi họa sĩ cần năng động, sáng tạo hơn nữa trong việc biểu đạt hình ảnh
mới. Đồng thời, nhằm duy trì và phát triển cộng đồng minh họa trong và
ngoài nước, đã có rất nhiều cuộc thi giành cho sáng tác minh họa ra đời. Để
khẳng định mình, các họa sĩ cần phải tìm cho mình một phong cách riêng.
Phong cách tạo hình trong sáng tác của các họa sĩ trẻ cũng nhờ đó mà
trường thành hơn, dần tạo được nền tảng riêng.
Những năm gần đây, lối tạo hình dân gian, dân tộc Việt dần cho thấy
sức hút trong minh họa tranh truyện thiếu nhi. Hàng loạt các minh họa
tranh truyện thiếu nhi của Nhã Nam ra đời và được công chúng đón nhận
bởi tạo hình các nhân vật thuần Việt hơn từ trang phục, thần thái cho thấy
sự thoát khỏi ảnh hưởng của lối tạo hình tranh truyện nước ngoài.
Cùng với việc tìm kiếm học hỏi từ nhiều nguồn tư liệu nước ngoài,
các họa sĩ trẻ không bị gò bó mình trong cách diễn tả và biểu đạt tạo hình
theo đúng quy luật không gian thực, hay tạo hình thực nữa. Họ đã tự sáng
tạo ra trong cách nghĩ khi đặt bố cục, tạo hình cũng cố gắng để tìm ra cái
mới khác trước để tạo được phong cách riêng.
3.2. Những hạn chế của sự chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi ở Việt Nam từ 1995 – 2015
3.2.1. Hạn chế về mặt tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt
Nam từ 1995 - 2015
Qua sự phân tích và khảo sát tạo hình trong minh họa tranh truyện
thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến 2015 cho thấy, ngoài những thành công về
tạo hình thì đằng sau đó vẫn còn những hạn chế sau:
52
Trong giai đoạn từ 1995 đến 2015, các minh họa tranh truyện thiếu
nhi Việt Nam việc xuất hiện và tồn tại quan niệm tạo hình phải phù hợp với
lứa tuổi, đòi hỏi các họa sĩ phải luôn tìm tòi cái mới và đi theo xu hướng
thị trường được ưa thích. Để có thể khắc họa nên một tạo hình nhân vật
trong tranh truyện, người họa sĩ không chỉ vẽ với vốn hiểu biết về cuộc
sống, về hội họa mà với cả những hiểu biết chung về văn học, âm nhạc và
nhiều lĩnh vực khác. Vì vậy, sự trang bị về tri thức của người họa sĩ nói
chung và họa sĩ vẽ tranh truyện nói riêng cần toàn diện. Trong những năm
gần đây, minh họa tranh truyện thiếu nhi là mảng nghệ thuật được quan
tâm rất nhiều. Với sự ảnh hưởng của các dòng trào lưu truyện tranh thế
giới, minh họa tranh truyện thiếu nhi hiện đại, rất nhiều họa sĩ dần sa đà
vào lối tạo hình manga như chân tay kéo dài, đầu to, mắt to… để áp dụng
vào sáng tác hình ảnh các nhân vật trong truyện của mình. Vì vậy dẫn đến
sự giống nhau về mặt tạo hình, các nhân vật nam, nữ trong tranh hầu như
không cho thấy những đặc điểm riêng về giới tính, tính cách, đồng thời, do
sử dụng ngôn ngữ tạo hình giống nhau khiến các họa sĩ trẻ rất khó khăn
trong việc khẳng định phong cách cá nhân.
Bên cạnh đó, việc sử dụng yếu tố tạo hình tạo hình không gian cũng
cho thấy điểm hạn chế . Giai đoạn những năm 1995, các họa sĩ nòng cốt
luôn sử dụng phối cảnh tuyến tính, mọi vật được vẽ theo lối nhìn thẳng
chính diện, khiến cho sự vật chỉ được nhìn từ một hướng nhìn cố định, bối
cảnh tranh minh họa luôn được các họa sĩ vẽ ở một góc nhìn cố định tạo
nên sự khô cứng, và không khái quát được toàn cảnh. Ở các giai đoạn sau,
việc sử dụng phối cảnh theo trực quan của người họa sĩ thường thay thế
cho những công thức có hệ thống nhằm tạo ra chiều sâu trong tranh. Cũng
tạo nên bước chuyển biến mới về không gian, nhưng nhìn chung vẫn mô tả
không gian theo một thể thức cố định, Những năm gần đây, các họa sĩ trẻ
53
đã khắc phục được tình trạng này, họ đã cho thấy sự mô tả đa dạng từ mọi
góc nhìn đến nhân vật như từ trên xuống, từ dưới lên, từ ngoài vào trong.
Trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam thường đi theo
tuyến kể truyện thông thường, tịnh tiến theo thời gian, đến nay vẫn chưa có
nhiều tác phẩm đổi mới ở cách dẫn truyện. Cách dẫn truyện theo một mô
típ cố định từ: Mở đầu, nút thắt, cao trào và cuối cùng là mở nút. Vì vậy,
cách vận dụng tạo hình vào biểu cảm trong các tuyến nhân vật là giống
nhau và lặp lại theo đúng một trình tự, một mô típ kể chuyện. Do đó, tranh
truyện thiếu nhi mất đi sự kịch tính và thu hút.
3.2.2. Hạn chế về biểu hiện tính dân tộc trong minh họa tranh truyện thiếu
nhi ở Việt Nam từ 1995 - 2015
Tranh truyện thiếu nhi Việt Nam là một thể loại mang đến cho lứa
tuổi nhí giá trị và kiến thức văn hóa, lịch sử đời sống một cách nhanh
chóng và ấn tượng. Minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt Nam là một
trong những phương tiện cụ thể hóa vấn đề văn hóa dân tộc bằng hình ảnh,
màu sắc làm khơi dậy những tìm tòi và ham mê hiểu biết của các em.
Tranh truyện mang lại nhiều giá trị tư duy liên tưởng qua các cốt truyện
thuần Việt. Tuy vậy, tranh truyện thiếu nhi Việt Nam ngay từ ban đầu đã
thừa kế trên văn hóa nghệ thuật minh họa nước ngoài. Cụ thể, sau chiến
tranh, minh họa tranh truyện được các họa sĩ ở hai miền Nam Bắc hình
thành các dòng trào lưu minh họa khác nhau. Ở miền Bắc, do chịu ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc, cùng với đó, các họa sĩ đã nghiên cứu
những tạo hình trong tranh liên họa của minh họa truyện nổi tiếng của
Trung Quốc như Tây du kí, Tam quốc… để lấy làm hình mẫu cho những
minh họa của mình. Còn ở miền Nam, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật tranh
truyện comics phương Tây, do đó hình tượng nhân vật mang tính động
nhiều hơn.
54
Những năm gần đây, sự thâm nhập của nghệ thuật Manga đã trải
khắp ngóc ngách trong văn hóa đọc truyện ở Việt Nam. Vì vậy, lối tạo hình
manga đã tạo nên những ảnh hưởng nhất định đến thẩm mỹ tạo hình nhân
vật của họa sĩ. Trong một số tranh truyện minh họa thiếu nhi từ năm 1995
đến 2015 sự ảnh hưởng của tạo hình manga cho các nhân vật khá rõ rệt. Cơ
thể người có tỉ lệ khá dài, khuôn mặt và biểu cảm nhân vật tương đối giống
nhau và thường được phân biệt qua quần áo, tóc... Ví dụ như truyện “Sự
tích trầu cau” (2014) của Hoàng Khắc Huyên [H29] Đây là một hạn chế
lớn trong việc biểu hiện tính dân tộc trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
ở Việt Nam từ 1995 – 2015.
Tiểu kết
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về tạo hình minh họa tranh
truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1995 đến 2015, ta thấy được sự sáng tạo và
những bước chuyển mới từ ngôn ngữ tạo hình, phong cách và tư tưởng
trong nghệ thuật tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam.
Sự chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh truyện đã cho thấy
những sự biểu cảm tuyệt vời qua bút pháp, phong cách của các họa sĩ minh
họa ở Việt Nam từ 1995 đến 2015. Cùng một chủ đề, câu chuyện trong mỗi
thời kì sự biểu đạt của mỗi họa sĩ đều có cách thể hiện khác khau. Tạo hình
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam được khai thác ở nhiều góc
cạnh qua phong cách, bút pháp, chất liệu của mỗi tác giả làm nên những tác
phẩm minh họa sinh động và giàu tính nghệ thuật. Thông qua các tạo hình
trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam đã lột tả được tiến trình
phát triển nghệ thuật minh họa tranh truyện ở nước ta. Hơn hết, ở cùng một
thể loại truyện cổ tích nhưng mỗi tác phẩm đều mang trong mình những nét
đặc trưng riêng của từng thời kì, giai đoạn nghệ thuật. Đó là sự đột phá và
chuyển biến trong phong cách biểu hiện của các tác giả
55
Tạo hình minh họa đã cho thấy những sự tìm tòi, những biểu cảm,
chắt lọc ngôn ngữ tạo hình của các họa sĩ. Tạo hình trong minh họa tranh
truyện được các họa sĩ khai thác ở nhiều góc cạnh qua đề tài, phong cách,
bút pháp của mỗi tác giả làm nên những tác phẩm thành công. Thông qua
chủ đề lột tả được tinh thần của nội dung cốt truyện và tính dân tộc.
56
KẾT LUẬN
Tranh truyện thiếu nhi Việt Nam đã có thời kì phát triển khá lâu, từ
trước cách mạng tháng 8 cho đến nay đã có cả một kho tàng đồ sộ của nhiều
nhà xuất bản và họa sĩ. Từ những tiền đề minh họa mang nội dung lịch sử,
châm biếm tranh đến nay truyện thiếu nhi đã có nền tảng vững chắc ở tạo
hình và nội dung.
Minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt Nam, họa sĩ biểu đạt đề tài nội
dung bằng ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình, bên cạnh phản ánh chủ đề, tranh
truyện phản ánh những tư tưởng thẩm mỹ của họa sĩ trong đó.
Sự chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi Việt
Nam là rất đa dạng, các họa sĩ ở các giai đoạn từ 1995 đến 2015, khai thác
và biểu đạt các hình thức tạo hình khác nhau ở hình tượng nhân vật, không
gian, màu sắc. Đó là sự đổi mới không ngừng tạo hình trong mối thống
nhất giữa quan niệm thời đại và ý tưởng nghệ thuật.
Chuyển biến tạo hình từ bố cục, hình thể, đường nét, diễn tả chất,
không gian và trong các tác phẩm minh họa tranh truyện thiếu nhi ở Việt
Nam đã cho thấy những nét đặc trưng nghệ thuật minh họa tiêu biểu ở mỗi
thời kì được thể hiện rõ trong những yếu tố tạo hình gắn với mô típ cụ thể,
bắt buộc. Qua sự chuyển biến tạo hình nhận thấy những nhận thức mới về
sự thay đổi của hình thể, không gian, màu sắc qua các giai đoạn. Càng về
sau việc miêu tả nội tâm, tâm trạng của các nhân vật trong các tác phẩm
được chú trọng tạo sự kịch tính cho nhân vật chính.
Sự ý thức về bố cục, sắp xếp hình mảng càng được làm rõ và chú
trọng theo quy tắc, hệ thống phối cảnh, tỉ lệ cân đối ở giai đoạn đầu những
năm 1995. Càng về sau, bố cục càng đa dạng và không tuân theo thể thức
hướng nhìn, bố cục nhất định. Hình tượng nhân vật trong minh họa tranh
truyện thiếu nhi không chỉ đơn thuần là đối tượng để tả kể sinh động,
57
truyền đạt nội dung, hơn hết hình tượng còn là hình mẫu mang tư tưởng
của họa sĩ.
Ngoài sự chuyển biến về nghệ thuật tạo hình, các tác phẩm minh họa
tranh truyện thiếu nhi cho thấy những nét chuyển biến về tư tưởng thẩm
mỹ của xã hội qua các tác phẩm.
Tóm lại, chuyển biến tạo hình trong minh họa tranh truyện thiếu nhi
Việt Nam từ 1995 đến 2015 đã đánh dấu bước chuyển tiếp và kế thừa giữa
các nền nghệ thuật từ trước kháng chiến đến nay. Đóng góp một phần lớn
cho phát triển nghệ thuật tranh truyện Việt Nam nói riêng và nền công
nghiệp minh họa nói chung. Đó là giá trị được lưu truyền mà chúng ta tôn
vinh, gìn giữ.
58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước:
1. Gia Bảo (2010), Vẽ truyện tranh hoạt hình – Mỹ thuật căn bản và nâng
cao, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
2. Nguyễn Bích (1996), Ai mua hành tôi, Nxb Kim Đồng
3. Nguyễn Bích (1998), Cây khế, Nxb Kim Đồng
4. Tạ Thúc Bình (1995), Con cóc là cậu ông trời, Nxb Kim Đồng
5. Bút Chì (2010) Đeo nhạc cho mèo, Nxb Mỹ Thuật
6. Lê Bá Dũng (2009), Đại cương mỹ thuật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
7. Lý Thu Hà (2005), Ngưu lang chức nữ, Nxb Mỹ thuật
8. Tạ Lan Hạnh (2011), Ai mua hành tôi, Nxb Mỹ Thuật
9. Nguyễn Quốc Hiệu(2010), Sự tích bánh chưng bánh dày, Nxb Mỹ Thuật
10. Hội đồng từ điển (1994) Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội
11. Nguyễn Quang Huy (2014), Thẩm mỹ tạo hình trong tranh truyện hiện đại
Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học
mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
12. Hoàng Khắc Huyên (2014), Sự tích trầu cau, Nxb Mỹ Thuật
13. Vũ Lan Hương (2005), “Họa sĩ truyện tranh trẻ, lúng túng tìm lối đi”, Báo
Khoa học và Đời sống, Tr.12, Hà Nội.
14. Katawu Kaji (2011), Vẽ truyện tranh phong cách Nhật Bản – Nhân vật
hành động và bối cảnh câu chuyện, Nxb Thời đại, tp. Hồ Chí Minh.
15. Đỗ Văn Khang (1985), Mỹ học đại cương, Nxb QGHN.
16. Nguyễn Hữu Khoa (1997), Họa sĩ với hướng tìm mới cho tranh truyện
thiếu nhi, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học mỹ thuật Việt Nam, Hà
Nội.
17. Minh Kiên(2010), Âu Cơ Lạc Long Quân, Nxb Mỹ thuật
18. Trần Tiểu Lâm (2001), Giáo trình Mỹ thuật học. Nxb Mỹ thuật
59
19. Ngô Mạnh Lân (1997), Âu Cơ và Lạc Long Quân, Nxb Kim Đồng
20. Ngô Mạnh Lân (1997), Trê cóc, Nxb Kim Đồng
21. Ngô Mạnh Lân (1998), Hai ông tiến sĩ, Nxb Kim Đồng
22. Ngô Mạnh Lân (1998), Cây tre trăm đốt, Nxb Kim Đồng
23. Đinh Thanh Liêm (2005), Cây khế, Nxb Mỹ thuật
24. Mai Long (1996), Âu Cơ Lạc Long Quân, Nxb Kim Đồng
25. Mai Long (2001), Âu Cơ và Lạc Long Quân, Nxb Kim Đồng
26. Tạ Huy Long (1995), Dũng sĩ Đam Dông , Nxb Kim Đồng
27. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển Mỹ thuật, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội.
28. Vương Hoành Lực (2012), Nguyên lý hội hoa đen trắng, Nxb Mỹ thuật
29. Nguyễn Duy Nhiếp (2000), Những suy nghĩ và cảm nhân xem tranh truyện
của họa sĩ Tạ Thúc Bình, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Đại học mỹ thuật
Việt Nam, Hà Nội.
30. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2012), Từ điển mỹ thuật phổ thông, Nxb Mỹ
thuật
31. Vũ Duy Nghĩa (2000), Chàng học trò có chí, Nxb Mỹ thuật
32. Hoàng Phê (1989), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb trẻ
33. Hạ Thị Lan Phi (2007), “Sự du nhập và ảnh hưởng của Manga ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Nghiên Cứu Đông Bắc Á, số 2, Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
34. Lê Quang (2016), Tạo hình nhân vật điển hình trong truyện tranh lịch sử
Việt Nam nhà xuất bản Kim Đồng, giai đoạn 1990 – 2015, Luận văn thạc
sỹ, Đại học mỹ thuật Việt Nam.
35. Nguyễn Quân (2005), Con mắt nhìn cái đẹp, Nxb Mỹ thuật
36. Lê Văn Sửu (2011), “Truyện tranh Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm Manga
Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 2, Viện Mỹ Thuật, Trường
Đại Học Mỹ Thuật Việt Nam, Hà Nội.
37. Nguyễn Quang Vinh (2005), Thánh Gióng, Nxb Đồng Nai
60
38. Viện Ngôn ngữ học (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
39. Phạm Ngọc Tuấn (2005),Chàng Đăm Bri, Nxb Kim Đồng
40. Phạm Tùng, Lê Trang (2015), Tấm cám , Nxb Đồng Nai
41. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1975) Từ điển tiếng
Việt phổ thông A – C, tập 1, Nxb Khoa học xã hội
42. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển bách
khoa Việt Nam 1 A- Đ, NXB Từ điển Bách khoa
43. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển bách
khoa Việt Nam 2 E – M, NXB Từ điển Bách khoa
44. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển bách
khoa Việt Nam 3 N – S, NXB Từ điển Bách khoa
45. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995) Từ điển bách
khoa Việt Nam 4 T – Z, NXB Từ điển Bách khoa
46. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
Tài liệu nước ngoài:
47. Bernard Duc (1992) L’Art de la composition et du cadrage : peinture,
photographie, bandes dessinées, publicité, Fleurus, Paris.
48. Otto Ocvirk; Robert Stinson; Philip Wigg; Robert Bone; David Cayton
(1985) Art Fundamentals: Theory and Practice, McGraw-Hill Education -
Europe.
49. Uri Shulevitz (1985) Writing with Pictures: How to Write and Illustrate
Children's Books. Nxb Watson-Guptill, New York.
Tài liệu internet:
50. Công ty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam (2017). Tài liệu tham
khảo “Sách tranh dành cho thiếu nhi”, tham-khao-sach-tranh-danh-cho-thieu-nhi> 61 51. Tô Chiêm (2012). 55 năm làm mỹ thuật trên sách thiếu nhi, tren-sach-thieu-nhi-2134957.html >, xem 16/6/2012. 52. Tô Chiêm (2014). Tranh truyện Việt Nam: Bỏ ngỏ đến bao giờ? bao-gio-711340.tpo>, xem 16/2014 53. Monika Zagrobelna (2015) 10 Basic Mistakes in Digital Painting and How to Fix Them < https://design.tutsplus.com/articles/10-basic-mistakes-in- digital-painting-and-how-to-fix-them--cms-23730> 54. Nguyễn Đức Sơn (2010). Đặc trưng của mỹ thuật đa phương tiện, /6/2491.html>, xem 21/6/2010. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH NGUYỄN PHƯƠNG THU TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM PHẦN PHỤ LỤC Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa) Mã số: 60 21 01 02 Khóa: 18 (2015 – 2017) GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Nguyễn Nghĩa Phương Hà Nội – 2017 62 PHẦN PHỤ LỤC [H1] Mai Long,“Âu Cơ Lạc Long Quân”, 1996 Nguồn: Nxb Kim Đồng 63 [H2] Phạm Ngọc Tuấn,“Chàng Đăm Bri”, 2005 Nguồn: Nxb Kim Đồng 64 [H3] Minh Kiên“Âu Cơ Lạc Long Quân”,2010 Nguồn: Nxb Mỹ thuật 65 [H4] Nguyễn Quốc Hiệu,“Sự tích bánh chưng bánh dày”,2010 Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam 66 [H5] Ngô Mạnh Lân, “Trê cóc”, 1997 Nguồn: Nxb Kim Đồng 67 [H6]Nguyễn Bích,“Ai mua hành tôi” , 1996 Nguồn: Nxb Kim Đồng 68 [H7] Lý Thu Hà,“Ngưu lang chức nữ” , 2005 Nguồn: Nxb Mỹ thuật 69 [H8]Phạm Tùng, Lê Trang, “Tấm cám” , 2015 Nguồn: Nxb Đồng Nai 70 [H9]Ngô Mạnh Lân,“Hai ông tiến sĩ” , 1998 Nguồn: Nxb Kim Đồng 71 [H10] Tạ Huy Long ,“Dũng sĩ Đam Dông” ,1995 Nguồn: Nxb Kim Đồng 72 [H11] Phạm Ngọc Tuấn, “Cây tre trăm đốt” , 2015, Nguồn: Nxb Mỹ thuậv 73 [H12] Nguyễn Bích,“Ai mua hành tôi” ,1996 Nguồn: Nxb Kim Đồng 74 [H13] Nguyễn Bích, “Cây Khế” của , 1998 Nguồn: Nxb Kim Đồng 75 [H14] Mai Long, “Âu Cơ và Lạc Long Quân”, 2001 Nguồn: Nxb Kim Đồng 76 [H15] Ngô Mạnh Lân,“Cây tre trăm đốt”, 1998 Nguồn: Nxb Kim Đồng 77 [H16] Bút Chì,“Đeo nhạc cho mèo” , 2010 Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam 78 [H17]Vũ Duy Nghĩa,“Chàng học trò có chí”, 2000 Nguồn: Nxb Kim Đồng 79 [H18] Thái Mỹ Phương, Sự tích dưa hấu (2011) Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam 80 [H19]Tạ Thúc Bình, “Con cóc là cậu ông trời” , 1995 Nguồn: Nxb Kim Đồng 81 [H20] Ngô Mạnh Lân, “Hai ông tiến sĩ” , 1998 Nguồn: Nxb Kim Đồng 82 [H21] Đinh Thanh Liêm, “Cây khế” , 2005 Nguồn: Nxb Mỹ thuật 83 [H22] Nguyễn Quang Vinh, “Thánh Gióng”, 2005 Nguồn: Nxb Giáo Dục 84 [H23] Tạ Lan Hạnh, “Ai mua hành tôi” , 2011 Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam 85 [H24] Bút Chì,“Đeo nhạc cho mèo” , 2010 Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam 86 [H25] Nguyễn Quốc Hiệu,“Bánh chưng bánh dày”, 2010 Nguồn: Nxb Mỹ Thuật - Cty cổ phần văn hóa và truyền thông Nhã Nam 87 [H26] Nguyễn Bích, “Cây khế”, 1996 Nguồn: Nxb Kim Đồng 88 [H27] Nguyễn Bích, “Ai mua hành tôi”, 1995 Nguồn: Nxb Kim Đồng 89 [H28]Phương Hoa, “Cây tre trăm đốt” , 2000 Nguồn: Nxb Giáo Dục 90 [H29] Hoàng Khắc Huyên, “Sự tích trầu cau”, 2014 Nguồn: Nxb Mỹ ThuậtSỰ CHUYỂN BIẾN VỀ TẠO HÌNH
TRONG MINH HỌA TRANH TRUYỆN THIẾU NHI Ở VIỆT NAM
TỪ 1995 ĐẾN 2015