BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Đỗ Quốc Việt

THỊ TRƯỜNG TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM

TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Hà Nội - 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Đỗ Quốc Việt

THỊ TRƯỜNG TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM

TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa

Mã số: 9229042

Người hướng dẫn khoa học:

GS. TS. Nguyễn Chí Bền

Hà Nội - 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sĩ Quản lý văn hóa Thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam từ năm 1986 đến nay là công trình nghiên cứu khoa học của riêng

tôi. Các tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất

xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất kỳ

công trình nghiên cứu nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2021

Nghiên cứu sinh

Đỗ Quốc Việt

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .……..…………………………………………….…………… i

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ……………….…………… iii

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG .………………………………….…………. iv

MỞ ĐẦU .…………………………………………………………………………. 1

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN

CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ……………………………….……………..………. 9

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ……………………………..………….. 9

1.2. Tổng quan về đối tượng nghiên cứu ……………………………………. 23

1.3. Cơ sở lý luận ……….…..………………………………….……………... 35

Tiểu kết …………………………………………………………………………... 57

Chương 2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÁC PHẨM HỘI HỌA ……….. 60

2.1. Người họa sĩ trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ….…. 60

2.2. Thị trường tác phẩm hội họa …………………………………………… 74

2.3. Người tiêu thụ tác phẩm hội họa .......…………………………………... 89

2.4. Thành tố tác động thị trường tác phẩm hội họa: bản quyền ………..…….. 106

Tiểu kết ……………………………………………………………………..…... 119

Chương 3. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÁC PHẨM HỘI HỌA, ĐỊNH

HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ................................................................................... 121

3.1. Định hướng ……………………………………………………………... 121

3.2. Giải pháp .........……….…………………………….………...………… 128

Tiểu kết ................................................................................................................. 171

KẾT LUẬN ...………………………………………………..………….……… 173

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ………. 177

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...………………………….…..…………………… 178

PHỤ LỤC ..……………………………..……………..………………………... 189

iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

Brasil, Nga (Russia), Ấn độ (Indian) BRIC

và Trung quốc (China)

CNVH Công nghiệp văn hóa

CNXH Chủ nghĩa xã hội

CĐMTĐD Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương

H. Hà Nội

MTĐD Mỹ thuật Đông Dương

MTNATL Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm

MTVN Mỹ thuật Việt Nam

NCPBMT Nghiên cứu phê bình mỹ thuật

NCS Nghiên cứu sinh

NTTH Nghệ thuật tạo hình

Nxb Nhà xuất bản

QLNN Quản lý nhà nước

SHTT Sở hữu trí tuệ

Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

UBND Ủy ban Nhân dân

USD Đô la Mỹ

VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật

VHTT Văn hóa - Thông tin

VHTTDL Văn hóa, Thể thao và Du lịch

WIPO Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

XHCN Xã hội chủ nghĩa

iv

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG

Sơ đồ 1.1. Mô hình diễn biến thị trường tác phẩm hội họa trước năm 1986 tại

Việt Nam

Sơ đồ 1.2. Mô hình diễn biến thị trường tác phẩm hội họa từ sau năm 1986 đến

nay tại Việt Nam

Bảng 2.1. Đồ thị phân bố hội viên Hội MTVN ở Việt Nam

Bảng 2.2. Đồ thị diễn biến thay đổi về số lượng gallery/phòng tranh tại Hà

Nội, Tp.HCM, phố cổ Hội An - Quảng Nam và các tỉnh thành phố

khác trong phạm vi cả nước (các năm 1986, 1996, 2006, 2016 và

2020)

Bảng 2.3. Đồ thị chỉ số thống kê việc đăng ký bản quyền tác phẩm mỹ thuật và

mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam (3 năm từ 2006 - 2008 và 5 năm từ

2015 - 2019)

1

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài

Thị trường tác phẩm hội họa là một hiện tượng xã hội văn hóa nhưng một

khái niệm chung nhất có thể hiểu là nơi chuyển giao quyền sở hữu tác phẩm hội họa

và các hoạt động dịch vụ có liên quan nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và

cầu về tác phẩm hội họa theo các quy định pháp luật. Phát triển thị trường văn hóa

nghệ thuật, trong đó có hội họa, là nhu cầu cấp thiết, đồng thời cũng là xu hướng tất

yếu để góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

và hội nhập quốc tế. Hiện nay, Việt Nam xếp hạng 42 trên tổng số 131 nền kinh tế

được đánh giá trong Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII - Global Innovation Index)

nhưng Việt Nam vẫn chưa có một thị trường tác phẩm hội họa phát triển một cách

lành mạnh, đúng với tiềm năng khi yếu tố bản quyền tác phẩm được đề cao và vai

trò quản lý của cơ quan QLNN trong hoạch định cơ chế, chính sách được phát huy.

Mùa thu 1925, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (École des Beaux -

Arts de l’Indochine) khai giảng khóa đầu tiên với ba chuyên ngành: Hội họa, Điêu

khắc và Kiến trúc, chuyên ngành Hội họa có nhiều người theo học nhất và từ đó đã

xuất hiện những hoạt động sáng tác, trưng bày giới thiệu, bán, mua những tác phẩm

tạo hình hiện đại (chủ yếu là hội họa). Tuy chưa thực sự đầy đủ nhưng vẫn có thể

coi đó là tiền đề của thị trường tác phẩm mỹ thuật nói chung hay thị trường tác

phẩm hội họa Việt Nam nói riêng. Kể từ khi khai mở và kết thúc sau 20 năm tồn tại,

cái tên “Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương” hay gọi tắt là “Mỹ thuật Đông

Dương” mà sau này trở thành thương hiệu hoặc gắn với sự chuẩn mực khi nói đến

những nghệ danh, nghệ phẩm tạo hình Việt Nam hiện đại. Kể từ sự kết thúc đó,

cùng với những năm tháng khốc liệt của các cuộc chiến tranh ở Việt Nam, hoạt

động công khai của thị trường này gần như đứt mạch. Phải đợi tới nửa thế kỷ sau,

đến những năm 90, khi Đổi Mới đi vào đời sống xã hội, “hoạt động triển lãm trong

nước cũng như giao lưu quốc tế ngày một sôi động. Các gallery tự do phát triển,

hình thành nên thị trường nghệ thuật ngay tại Việt Nam” [121, tr.9]. Một thị trường

hội họa non trẻ diễn triển trong sự tự phát, đã có lúc tưng bừng, nhộn nhịp nhưng

sau lại mờ nhạt, trì trệ rồi suy thoái cho đến ngày nay. Nhiều yếu tố được xác định

là nguyên nhân, nhưng đa phần đều cho rằng đó là vấn đề quan trọng về bản quyền,

họa sĩ, công chúng và những nhà sưu tầm ngoại, nội địa.

2

Theo Fracis Gurry (2008) Thông điệp của Tổng giám đốc WIPO năm 2008,

“Các quyền sở hữu trí tuệ đã giúp nuôi dưỡng và mở đường cho sức sáng tạo, làm

cho nó trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội”.

Vũ Ngọc Hoan (2009) Một số ý kiến về bảo hộ quyền tác phẩm mỹ thuật tại Việt

Nam cho rằng, “sở hữu trí tuệ là một trong những yếu tố tiên quyết cho phát triển

sáng tạo, góp phần thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đời sống văn hóa, xã hội,

đồng thời là động lực phát triển kinh tế tại mỗi quốc gia”. Tuy nhiên, những điều đó

còn khá xa rời với thực tế ở nước ta, đặc biệt là bản quyền tác giả tác phẩm hội họa.

35 năm đã qua kể từ khi đất nước Đổi Mới, 15 năm Luật SHTT có hiệu lực, Việt

Nam từ một nước nghèo nàn lạc hậu nay vào nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới

nhưng chưa có được đột phá đáng kể về diện cũng như về chất để mang lại hiệu quả

tích cực cho thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam. Thị trường này tiếp tục duy trì

tình trạng bất ổn, không ít bán tín bán nghi bởi một diện mạo méo mó xuất hiện từ

nhiều thập kỷ về trước khi tình trạng thật - giả lẫn lộn do dữ liệu thông tin về tác

giả, tác phẩm khó kiểm chứng và còn nhiều những lý do khác nên việc bán - mua

vẫn sơ khai, chưa chuyên nghiệp, phần nhiều dựa vào niềm tin, những thỏa thuận cá

nhân với nhau, chấp nhận may rủi, thuế thu nộp ngân sách nhà nước chưa đúng với

thực tế trong khi vai trò của cơ quan quản lý mờ nhạt. Mặc dù, thị trường này ở khu

vực và trên thế giới đã phát triển đạt tới đỉnh cao. Chợ mỹ thuật, nhà đấu giá mỹ

thuật ở một số thành phố lớn đã biến nơi đó thành trung tâm mỹ thuật uy tín, trở

thành thương hiệu là nơi cung cấp những sản phẩm mỹ thuật, tác phẩm hội họa đáp

ứng mọi nhu cầu của khách hàng trên toàn thế giới và đồng thời tạo cũng tạo thành

chuỗi cung ứng dịch vụ phụ trợ đem lại nhiều việc làm, những giá trị lợi ích khổng

lồ trong sự phát triển kinh tế xanh từ hoạt động giao thương nghệ thuật như thế. Tác

phẩm hội họa Việt Nam đã đóng góp vào chuỗi giá trị đó.

NCS nghiên cứu thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam trong giai đoạn từ

năm 1986 đến nay vì giai đoạn này nền mỹ thuật và thị trường tác phẩm hội họa

Việt Nam có rất nhiều biến đổi. Ở mỗi thị trường mỹ thuật không chỉ Việt Nam, tác

phẩm hội họa luôn là thành phần chính yếu, mang tính kiến tạo, dẫn dắt tạo nên thị

trường. Thị trường tác phẩm hội họa ở Hà Nội là phần quan trọng nhất của thị

trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam. Hà Nội là nơi đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện

các tác phẩm hội họa do những họa sĩ người Việt có danh sáng tác, được trưng bày

3

giới thiệu cùng với hoạt động bán - mua, tiền đề hình thành thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam hiện đại. Từ dữ liệu trong những lần trao đổi phỏng vấn họa sĩ, người

bán, v.v. những chuyến công tác, khảo sát, điền dã ở một số trung tâm mỹ thuật

khác ngoài Hà Nội như Tp.HCM, Hội An, thành phố Huế, Singapore, Hồng Kông,

v.v. của NCS được sử dụng để cập nhật, bổ sung một cách đầy đủ hơn những vấn đề

lớn để có thể làm rõ thêm những nghiên cứu về diện mạo của thị trường tác phẩm

hội họa Việt Nam. Thị trường tác phẩm hội họa được hoàn thiện sẽ trở thành thị

trường đúng nghĩa, có uy tín, thương hiệu khi yếu tố tiên quyết như bản quyền được

đề cao, cơ sở dữ liệu thông tin được kiểm chứng minh bạch, truyền thông hoạt động

tích cực, quyền và nghĩa vụ thuế được thực hiện đầy đủ, v.v. thì thị trường này sẽ là

một trong yếu tố quan trọng góp phần hiệu quả cho thành công của Chiến lược phát

triển các ngành CNVH, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra quốc tế.

Với vị trí công tác và hoạt động nghề nghiệp của NCS trong thời gian qua ở

các lĩnh vực: giáo dục đào tạo mỹ thuật, báo chí và công tác QLNN lĩnh vực mỹ

thuật, nghệ thuật, đồng thời là hoạ sĩ sáng tác, người tư vấn giới thiệu mua bán tác

phẩm mỹ thuật. Từ trải nghiệm thực tế của mình, NCS nhận thấy cần có những

nghiên cứu mang tính chất tổng hợp, nhân học thực địa, điều tra, thu thập dữ liệu

chi tiết, chính xác trên cơ sở tiếp cận khách quan từ nhiều nguồn, nhiều giác độ

khác nhau để có những đánh giá, đề xuất những giải pháp nhằm mục đích phát triển

thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: Thị trường

tác phẩm hội họa Việt Nam từ năm 1986 đến nay làm luận án Tiến sĩ Quản lý Văn

hóa.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích tổng quát: Luận án đề xuất một số quan điểm, giải pháp góp phần

hoàn thiện nội dung QLNN, thúc đẩy phát triển thị trường một cách bền vững, để

thay đổi tạo ra cấu trúc vận hành mới tác động tích cực đến thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam.

Mục đích cụ thể: Để thực hiện được mục tiêu tổng quát trên cần thực hiện

các mục tiêu cụ thể sau:

- Luận án phân tích các công trình đã nghiên cứu liên quan đến luận án; đánh

giá khách quan những vấn đề đã nghiên cứu, vấn đề tiếp tục nghiên cứu.

4

- Hệ thống hóa những vấn đề về cơ sở thị trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam.

- Phân tích thực trạng vấn đề thị trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam.

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách QLNN có liên quan tới

hoạt động thị trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam trong thời gian tới.

- Các giải pháp phát triển thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam trong Chiến

lược phát triển các ngành CNVH và Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, khảo sát các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên

quan đến thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam.

Thứ hai, làm rõ cơ sở lý luận về thị trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam;

phân tích kinh nghiệm của các nước trên thế giới, từ đó rút ra giá trị tham khảo cho

Việt Nam trong lĩnh vực thị trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam.

Thứ ba, phân tích thực tiễn thị trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam từ năm

1986 đến nay.

Thứ tư, đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách QLNN về thị

trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Tìm hiểu thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam qua một số tác giả, tác

phẩm có tham gia vào hoạt động thị trường và so sánh, đối chiếu với một số thông

tin từ những nghiên cứu, hoạt động gallery, đấu giá, v.v.

- Đối tượng nghiên cứu của Luận án là vấn đề của thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam, tác phẩm hội họa của các họa sĩ MTĐD và một số tác động có ảnh

hưởng nhiều nhất tới thị trường tác phẩm hội họa của các họa sĩ hiện đại sau thế hệ

các họa sĩ MTĐD trong thời gian từ năm 1986 đến nay dưới góc nhìn đa diện trong

công tác quản lý văn hóa.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Luận án nghiên cứu thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam,

sự thay đổi từ giá trị, giá cả một số tác phẩm hội họa của họa sĩ MTĐD khi tham gia

vào thị trường, trên sàn đấu giá công khai ở các cuộc đấu giá của những nhà đấu giá

5

lớn trên thế giới, tác động của vấn đề về tác quyền đối với thị trường, kinh nghiệm

một số nước khác trên thế giới trong việc phát triển thị trường mỹ thuật, hội họa.

Luận án không nghiên cứu thị trường cổ vật, tranh tượng dân gian, sản phẩm

thủ công mỹ nghệ; tác phẩm đồ họa, điêu khắc, tượng đài, tranh hoành tráng; sản

phẩm mỹ thuật ứng dụng và những hình thức nghệ thuật thị giác khác có liên quan

tới hoạt động mỹ thuật mà tập trung nghiên cứu về thị trường tác phẩm hội họa Việt

Nam.

Về thời gian: Luận án nghiên cứu trọng tâm về Thị trường tác phẩm hội họa

Việt Nam từ năm 1986 đến nay.

Về nội dung: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về thị trường tác phẩm hội họa, tác động của tác quyền tác phẩm đối với thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam. Vai trò QLNN trong việc hoạch định chính sách, định hướng, điều tiết mang ý nghĩa quyết định sự phát triển bền vững, lành mạnh và thịnh vượng các hoạt động thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam.

Luận án nghiên cứu quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả và tăng cường

công tác quản lý nhà nước để phát triển thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam.

4. Câu hỏi nghiên cứu

Từ “khoảng trống” của các công trình nghiên cứu liên quan, NCS xác định

các câu hỏi nghiên cứu của luận án bao gồm:

1) Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam có từ bao giờ?

2) Từ sau Đổi Mới thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam đã vận hành như

thế nào và để phát triển thị trường một cách lành mạnh, bền vững, CNVH

trong tương lai sẽ phải khắc phục và giải quyết được những khó khăn gì?

3) Giải pháp nào để nâng cao vai trò của cơ quan QLNN trong việc phát triển

thị trường tác phẩm hội họa một cách bền vững và lành mạnh ở Việt Nam?

5. Giả thuyết nghiên cứu

Trên cơ sở nhận thức về lý luận và các khảo sát, luận án sẽ thu thập, xử lý

thông tin nhằm kiểm chứng giả thuyết sau:

Thị trường tác phẩm hội họa ở Việt Nam được điều chỉnh phát triển một cách

lành mạnh, các quy định, chính sách được hoàn thiện, hội nhập quốc tế góp phần

thực hiện hiệu quả trong việc quảng bá văn hóa, xây dựng hình ảnh quốc gia, đóng

góp ngày càng lớn vào phát triển kinh tế, đạt và vượt mục tiêu đề ra trong Chiến

lược CNVH.

6

6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

6.1. Cách tiếp cận

- Cách tiếp cận tổng hợp về mối quan hệ dân sự và pháp lý giữa người họa sĩ,

người tiếp nhận, người tiêu dùng - khách hàng, người thực thi bản quyền và bảo hộ

bản quyền tác phẩm hội họa Việt Nam.

- Cách tiếp cận khoa học quản lý văn hóa - nghệ thuật.

- Cách tiếp cận nghiên cứu tài liệu (các công trình nghiên cứu về mỹ thuật,

tác phẩm hội họa Việt Nam, về thị trường và bản quyền tác giả, v.v.).

6.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích - tổng hợp nhằm làm rõ vai trò của người sáng tạo

tác phẩm hội họa Việt Nam, nhà đầu tư môi giới tác phẩm hội họa, người tiêu dùng -

khách hàng, việc hình thành thị trường và thực thi bản quyền, bảo hộ bản quyền tác

phẩm hội họa trong thực tiễn ở Việt Nam.

- Phương pháp định tính và định lượng, điều tra, khảo sát, phỏng vấn chuyên

gia thực tế trên địa bàn về thị trường và thực thi bản quyền tác giả tác phẩm hội họa.

- Phương pháp phỏng vấn sâu, trực tiếp phỏng vấn các nhà quản lý, họa sĩ vẽ

sáng tác tranh hội họa, nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật và khách hàng mua tác

phẩm hội họa, cũng như là việc thực thi quyền SHTT tác phẩm hội họa.

- Các phương pháp liên ngành, khảo sát thực tế, quan sát, tham dự, thống kê,

phân tích so sánh.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

7.1. Ý nghĩa khoa học

Nghiên cứu về vấn đề thị trường tác phẩm hội họa ở Việt Nam là một vấn đề

lớn, đòi hỏi nhiều tâm sức, trí, lực của một đội ngũ chuyên gia đông đảo, đa ngành,

đa lĩnh vực. Đồng thời, đề tài cũng cần có một thời gian tương ứng phù hợp với sự

quan tâm dành cho vấn đề này. Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền chưa dành sự

quan tâm thật sự phù hợp và đưa ra những giải pháp có hiệu quả cho vấn đề này.

Đáp ứng những quan tâm, trăn trở và nhu cầu thực tiễn, NCS chọn thị trường

tác phẩm hội họa, một thị trường nhiều tiềm năng và đầy rẫy những thách thức như

hiện nay, một phần tiêu biểu của thị trường mỹ thuật hiện đại để nghiên cứu nhằm

mục đích góp phần xây dựng và phát triển thị trường văn hóa Việt Nam.

7

Kết quả nghiên cứu của Luận án là những bổ sung quan trọng vào sự phát

triển của lý luận về thị trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam.

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác QLNN, giám

định, thẩm định, đầu tư, đấu giá tác phẩm hội họa, nghiên cứu lịch sử hội họa Việt

Nam, giảng dạy và học tập chuyên ngành, v.v. trong hệ thống các viện, học viện,

làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho

đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật.

Một là, Luận án làm sáng tỏ và sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về thị

trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam. Luận án đưa ra một số khái niệm và kết luận

mang tính khoa học, góp phần hoàn thiện lý luận về thị trường tác phẩm hội họa tại

Việt Nam, chuyên ngành Quản lý Văn hóa.

Hai là, Luận án tập trung nghiên cứu thị trường và một số tác động của việc

thực thi bản quyền tác phẩm hội họa ở trách nhiệm, vai trò của người sáng tạo - họa

sĩ, nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật, nhà đầu tư môi giới, nhà sưu tập, khách hàng

ở góc độ là các bên tham gia thị trường.

Ba là, Luận án làm rõ nội dung liên quan đến thị trường tác phẩm hội họa tại

Việt Nam; Nghiên cứu kinh nghiệm trong việc phát triển thị trường tác phẩm hội

họa của một số nước đã thành công trên thế giới làm giá trị tham khảo cho việc

hoạch định cơ chế, chính sách về thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Một là, Luận án góp phần thay đổi nhận thức và hành vi trong quá trình sáng

tác, sở hữu và buôn bán, trao đổi các tác phẩm hội họa.

Hai là, Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện nâng cao hiệu quả trong

công tác quản lý, thực thi hiệu quả vấn đề bản quyền tác phẩm hội để tạo ra thói

quen tiêu dùng trong công chúng không tiếp nhận những tác phẩm hội họa không rõ

nguồn gốc xuất xứ, nộp thuế cho nhà nước. Từ đó ngăn ngừa, hạn chế được nạn làm

giả, làm nhái xâm hại bản quyền tác phẩm hội họa. Khôi phục niềm tin của công

chúng đồng thời xây dựng, quảng bá thương hiệu tạo lập lại niềm tin đầu tư đóng

góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

Ba là, Luận án đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện thị trường tác

phẩm hội họa tại Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế trên cơ sở pháp lý đồng bộ,

8

đầy đủ, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn; làm cơ sở cho việc hoàn thiện hơn

các quy định về hoạt động thị trường tác phẩm hội họa tại Việt Nam.

Bốn là, Luận án là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu, có giá trị về

lý luận cũng như thực tiễn, là cơ sở để phát triển các nghiên cứu tiếp theo.

8. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (10

trang), Phụ lục (45 trang), đề tài chia thành 3 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và cơ sở lý

luận (50 trang).

Chương 2. Thực trạng thị trường tác phẩm hội họa (60 trang).

(50 trang).

Chương 3. Phát triển thị trường tác phẩm hội họa, định hướng và giải pháp

9

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Các công trình nghiên cứu

1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước

Thị trường tác phẩm mỹ thuật nói chung và thị trường tác phẩm hội họa nói

riêng cũng như bất kỳ một lĩnh vực hoạt động kinh tế nào, để có sự phát triển bền

vững thì không thể tách rời với những nghiên cứu khoa học. Thị trường tác phẩm

hội họa Việt Nam phát triển bền vững, lành mạnh, đúng nghĩa, phát huy hết tiềm

năng sẽ tạo ra một vị thế xứng đáng trong nền CNVH nước nhà, khi những nghiên

cứu là liên kết và thể hiện được vai trò của nền tảng cơ sở, chỗ dựa vững chắc cho

thị trường này.

Những công trình nghiên cứu về mỹ thuật trong đó có đề cập một cách trực

diện hay gián tiếp hoặc liên quan tới hội họa Việt Nam có số lượng không nhỏ và

tồn tại ở nhiều nguồn lưu trữ với những định dạng khác nhau. Tài liệu NCS đã tiếp

cận tại các nguồn lưu trữ như Thư viện quốc gia Việt Nam, Nhà xuất bản Mỹ thuật,

thư viện của Bảo tàng mỹ thuật, v.v. và thư viện ấn phẩm định dạng số trên môi

trường intenet để sử dụng cho việc nghiên cứu thực hiện Luận án. Sẽ không thể

tuyệt đối chính xác về số lượng và phân loại những công trình nghiên cứu MTVN

đã được công bố, xuất bản bởi một số nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau

nhưng những công trình NCS tổng hợp và đề cập sau đây sẽ là những nghiên cứu cơ

bản đại diện trong số đó. Tuy nhiều công trình không đề cập trực diện, tập trung tới

thị trường tác phẩm hội họa, khi phân loại theo nội dung sẽ không hoàn toàn thuộc

trọng tâm nghiên cứu nhưng những dữ liệu đó giúp NCS làm nên tổng quan chung

để tìm ra những bất cập làm sáng tỏ những diện nghiên cứu của luận án. Những

công trình NCS đã sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo và trình bày theo

phân loại nội dung gồm:

- Lịch sử mỹ thuật cổ Việt Nam là những công trình nghiên cứu về tiến trình

phát triển của mỹ thuật dưới thời nhà nước quân chủ qua những công trình kiến

trúc, điêu khắc, v.v. có 78 công trình của các tác giả như: Nguyễn Phi Hoanh (1970)

Lược sử Mỹ thuật Việt Nam [45]; Nguyễn Đức Nùng (chủ biên) (1978) Mỹ thuật

10

thời Lê Sơ [68]; Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1989) Mỹ thuật của người Việt

[75]; Chu Quang Trứ (2001) Mỹ thuật Lý - Trần mỹ thuật Phật giáo [103]; Trịnh

Quang Vũ (2002) Lược sử Mỹ thuật Việt Nam [119], v.v. Những công trình này có

không nhiều nội dung liên quan trực tiếp tới hội họa và thị trường tác phẩm hội họa

Việt Nam hiện đại ngoài những liên quan khi phân tích về thuộc tính dân tộc học,

v.v., của một số họa sĩ sử dụng những mô típ truyền thống trong sáng tạo để chạm

tới những miền cảm xúc riêng của người tiếp nhận và trở thành những tác phẩm hội

họa hiện đại Việt Nam có giá bán cao trên thị trường.

- Mỹ thuật dân gian trong dạng thức tranh có 21 công trình khá phổ biến,

phần lớn nghiên cứu theo chuyên đề về tranh dân gian Việt Nam. Đó là những dòng

tranh khắc gỗ tô màu của một số tác giả như: Phan Ngọc Khuê (1995) Tranh thờ

đạo giáo Việt Nam [55]; Maurice Durand (1960, dịch và giới thiệu: Nguyễn Thị

Hiệp, Olivier Tessier, tái bản 2017) Tranh dân gian Việt Nam [59]; Nguyễn Thị Thu

Hòa và cộng sự (2018) Dòng tranh dân gian Kim Hoàng [47], v.v. Cũng như

những công trình nghiên cứu về mỹ thuật cổ, những công trình nghiên cứu về mỹ

thuật dân gian có nội dung chủ yếu đề cập tới những bức tranh mang tính tôn giáo

xuất hiện nhiều địa phương của nước ta, đặc biệt ở vùng cao Việt Nam, của tác giả

Phan Ngọc Khuê, hay những tranh dân gian khắc gỗ tô màu, tranh Tết, v.v. đã trở

nên quen thuộc và thường được nhắc đến như những chợ tranh đầu tiên có trong

tiềm thức của nhiều người dân Việt Nam của tác giả Chu Quang Trứ, v.v. Phần lớn

những công trình của chuyên đề này ít đề cập thẳng tới những vấn đề về hội họa, thị

trường tác phẩm hội họa một cách cụ thể trùng khớp với nội dung nghiên cứu của

NCS nhưng đây đều là những công trình đã được nhiều họa sĩ thành danh nghiên

cứu vận dụng một cách sáng tạo trong những tác phẩm hội họa, góp phần làm giàu

thêm bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc và tạo nên thành công của họ.

- Lịch sử MTVN hiện đại có số lượng chưa nhiều so với những tác động tới

xã hội kể từ khi mỹ thuật hiện đại Việt Nam xuất hiện. Những công trình nghiên

cứu về tiến trình phát triển của MTVN hiện đại chủ yếu được xuất bản và công bố

qua hình thức xuất bản phẩm chủ yếu là sách in. Hội họa hiện đại được quan tâm và

đề cập nhiều hơn điêu khắc và đồ họa, ngược lại với những công trình nghiên cứu

mỹ thuật cổ nhưng những vấn đề về thị trường vẫn không dễ bắt gặp trong những

công trình này. 34 công trình của các tác giả như: Trần Khánh Chương (2012) Mỹ

11

thuật Hà Nội thế kỷ XX [14]; Nguyễn Hải Yến (2013) Hội hoạ Hà Nội những ký ức

còn lại [121]; Quang Phòng, Quang Việt (2015) Trường Mỹ thuật Đông Dương lịch

sử và nghệ thuật [71], v.v. cung cấp khá bao quát dữ liệu lịch sử với những ghi chép

về đời sống, hoạt động mỹ thuật của họa sĩ và một số sáng tác tiêu biểu của họ

nhưng cũng ít đề cập tới vấn đề về thị trường. Lịch sử mỹ thuật nhìn từ góc độ thị

trường chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt của các nhà nghiên cứu trong

nước nên chưa có được những dữ liệu liền mạch, sâu sắc về thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam mà chỉ là những mảnh ghép mỏng và rời rạc do việc bán, giá bán

tranh của người họa sĩ luôn là những vấn đề riêng tư ít được cởi mở.

- Kỹ năng, kỹ thuật chuyên môn về sáng tác, thực hành nghệ thuật hội họa có

nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố, xuất bản nhiều hơn đồ họa và điêu

khắc nhưng nhìn chung số lượng còn chưa nhiều. Một số tác giả tiêu biểu có công

trình đã được phổ biến đến công chúng trong thời gian qua như: Đặng Ngọc Trân

(2000) Cấu trúc hội họa [101]; Phạm Đức Cường (2003) Kỹ thuật sơn mài [27];

Nguyễn Quân (2006) Ngôn ngữ của hình và màu sắc [77]; Nguyễn Đình Đăng

(2018) Kỹ thuật vẽ sơn dầu [35], v.v. Đây là những công trình nghiên cứu có nội

dung đề cập tới vấn đề chuyên môn sâu, gắn với hoạt động đào tạo, giảng dạy hội

họa, kỹ năng nghề nghiệp, thực hành sáng tạo, v.v., nhưng lại ánh xạ ở góc nhìn

khác của sản phẩm sáng tạo của người họa sĩ khi tham gia hoạt động thị trường nên

rất cần thiết cho việc nâng cao kiến thức hỗ trợ cho những đối tượng liên quan ở

lĩnh vực khác như người quản lý, truyền thông, thụ hưởng, v.v. trong việc xây dựng

chính sách, quảng bá giới thiệu, nhận định đánh giá về tranh thật, giả, v.v. có trong

phần phân tích ở chương sau của Luận án. Ngoài ra còn có những nghiên cứu, giáo

trình phục vụ cho công tác đào tạo, giảng, dạy mỹ thuật chuyên môn ở các bậc học

phổ thông và các trường nghề có số lượng khá lớn được nhiều tác giả biên soạn

thành sách xuất bản trong thời gian qua lại không thuộc phạm vi NCS nghiên cứu.

- Vựng tập tranh theo chuyên đề được in theo dạng thức tổng hợp, thống kê

để giới thiệu những tác phẩm hội họa tiêu biểu thuộc các bộ sưu tập hoặc là tác

phẩm đã được chọn tham dự các kỳ triển lãm mỹ thuật được tổ chức tại Việt Nam,

ra nước ngoài, v.v. được biên tập, chọn lọc để xuất bản và phổ biến bởi các cơ quan

hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ VHTTDL, Hội MTVN, v.v. có số

lượng 84 cuốn như: Tuyển tập Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX [9]; Mỹ thuật Việt Nam

12

hiện đại [105]; 70 năm Mỹ thuật Việt Nam (1945-2015) [48], Tuyển tập mỹ thuật

Việt Nam thế kỷ 20; 20 năm Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986-2006 [115],

v.v. Nhìn chung, những ấn phẩm này (trừ một số ấn phẩm của Bảo tàng MTVN)

thường không dành nhiều không gian cho phần lý luận, nghiên cứu phê bình cũng

như phân tích, đánh giá, v.v mà thường sau lời mở hay giới thiệu chủ yếu là phần

ảnh chụp tranh có kèm theo thông tin trích lược ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.

Tương tự như vậy, nhiều tổ chức, cá nhân tự thực hiện việc biên tập xuất bản và phổ

biến vựng tập tranh theo nhu cầu của mình, số lượng đến nay trên thực tế là rất

nhiều (NCS có 38 cuốn sách in) như: Lưu Công Nhân (1995) Lưu Công Nhân [64];

Uyên Huy (2011) Một thoáng cái tôi [51]; Phạm Luận (2014) Phạm Luận [58]; Tạ

Quang Bạo (2014) Điêu khắc Tạ Quang Bạo [6], v.v. Mặc dù phần nghiên cứu, lý

luận hay phê bình hay miêu tả chi tiết, quá trình sáng tạo tác phẩm trong những

công trình này không nhiều nhưng những cuốn sách tranh này lại đáp ứng được một

số những yếu tố quan trọng khi ở môi trường khác mà những người thực hiện chúng

ban đầu cũng không hoàn toàn tính đến khi xuất bản. Ví dụ, yếu tố lịch sử, yếu tố

bản quyền, v.v. Những công trình này đã không chỉ có chức năng phổ biến như đem

tác phẩm hội họa đến gần với công chúng hơn, v.v. mà còn là chỗ dựa đáng tin cậy,

được xem như là thành phần hồ sơ quan trọng khi cần so sánh, đối chiếu, xem xét

như yếu tố cơ sở làm căn cứ xác định tính chân bản của tác phẩm hội họa trong

nhiều lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là hoạt động giao thương. Vì những lý do như

vậy, sách của một tác giả, nhóm tác giả đã nổi tiếng hoặc bộ sưu tập có tranh đạt giá

trị cao trên thị trường được tổ chức, cá nhân nhà sưu tập hay người mua đầu tư

tranh, v.v. đặt hàng, thuê biên tập để thực hiện cho nhiều mục đích của người sở

hữu gần đây xuất hiện nhiều hơn (25 cuốn). Phần lớn trong số sách đó được thực

hiện theo cách làm chuyên nghiệp, có hình thức đẹp, lý lịch tranh do người sở hữu

cung cấp, gắn với môi trường lịch sử cùng một vài câu chuyện, có cả những chuyện

chưa được kiểm chứng. In sách, hồ sơ hóa qua những xuất bản phẩm sẽ gây dựng

niềm tin, một phần nhờ uy tín của người viết hay biên tập và áp dụng “đi mãi thì

cũng thành đường” là phương thức hữu hiệu làm cho quen, dẫn đến thừa nhận từng

bước các tranh, tượng mà họ đang sở hữu hoặc có được từ những chuyển nhượng

sang tay từ người này sang người kia. Những tập hợp tranh từ nhiều năm trước đây,

cũng như từ nhiều nguồn khác nhau nay bỗng nhiên lại có lý lịch rõ ràng bằng cách

13

nêu trên và để củng cố niềm tin cho người mua khi người bán dẫn chứng ảnh, bài

viết về tranh đã được in ở sách này, sách kia. Những tranh, tượng đó trước đây do

hoàn cảnh lịch sử chiến tranh, đời sống khó khăn, do không có thói quen tư liệu,

v.v. nên chủ yếu không có lý lịch nghệ thuật, cũng có rất ít căn cứ pháp lý liên quan,

những giấy tờ để minh xác khi cần tới cũng khó mà có được nên một chút thông tin

rời rạc hay uy tín của người viết, biên tập cũng trở nên quý giá cho những mục đích

giao dịch, chuyển nhượng sau này. Cách làm này dần trở nên bài bản hơn và cũng

có đem lại hiệu quả. Vì thế mà những cuốn sách thực hiện theo cách thức này đã

dần xuất hiện nhiều hơn trên tủ sách mỹ thuật Việt Nam ngày nay như: Sưu tập Trần

Hậu Tuấn [109]; Hội họa Việt Nam một diện mạo khác [93]; Tạ Tỵ dấu ấn sáng tạo

[36], v.v. Những nghiên cứu khoa học phụ thuộc rất nhiều việc nghiên cứu tài liệu

lưu trữ, trong đó có tài liệu in ấn dưới dạng xuất bản phẩm, coi đó như một điểm tựa

để làm căn cứ trích dẫn thì nay sẽ điều chỉnh khi ngày càng có nhiều ấn phẩm có

những mục đích khác như vậy. Đặc biệt khi nhiều vấn đề dữ liệu, thông tin cá nhân

về họa sĩ, tác phẩm của họ chưa thực sự thuyết phục và được làm sáng tỏ tạo nên

những quan ngại về tình minh bạch của hội họa Việt Nam hiện đại trên thị trường sẽ

được phân tích ở rõ hơn ở phần sau của luận án. Một số cuốn sách sau khi xuất bản

đã gây nên tranh cãi, bị thân nhân họa sĩ yêu cầu cải chính hay đình chỉ phát hành vì

thiếu tính chính xác hay có nội dung được cho là chưa hoặc không đúng sự thật

như: Tạ Tỵ dấu ấn sáng tạo [36], Họa sĩ khóa kháng chiến [99], v.v.

- Nghiên cứu, phê bình luôn là vấn đề khó nên những công trình mang tính

chất nghiên cứu chuyên sâu về học thuật hội họa không chỉ cần thiết cho việc đào

tạo, học tập, sáng tác, v.v. có số lượng ít (ước khoảng 3%), chưa nói đến nội dung,

chất lượng nên ngoài những kỷ yếu có nội dung được tập hợp từ những tham luận

tại hội thảo, những tạp chí chuyên ngành xuất bản theo định kỳ thì loại sách này ít

phổ biến trên thị trường. Vì vậy, Phạm Quang Trung, một người làm NCPBMT

cũng đặt ra câu hỏi: “Tại sao hoạt động Mỹ thuật phê bình yếu kém, phải chăng là

sự bất cập của hệ thống nghiên cứu, giảng dạy trước những biến đổi phong phú của

đời sống Mỹ thuật hiện nay?” [102, tr.14]. Nguyên nhân đã được nhiều ý kiến nêu

ra tại các hội nghị, hội thảo tổ chức công khai trong đó có số lượng, chất lượng của

các phê bình còn quá nhiều bất cập nhưng nhận định chung là chưa sớm cải thiện

được để tương xứng với sự phát triển của mỹ thuật. Mặc dù, khóa đầu tiên của

14

trường Đại học MTVN đào tạo chuyên khoa về lĩnh vực này đã cách đây gần nửa

thế kỷ (1978) nhưng những cuốn sách như: Nguyễn Đỗ Cung (1993) Bàn về mỹ

thuật Việt Nam [22]; Thái Bá Vân (1998) Tiếp xúc với nghệ thuật [113]; Nguyễn

Quân (2010) Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20 [78]; Bùi Như Hương và Phạm Trung

(2013) Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990 - 2010 [52], v.v. vẫn chưa trải đủ diện

rộng cho nhu cầu nghiên cứu hiện tại. Ngoài ra, sách biên dịch lại của các tác giả

nước ngoài là ít ỏi với một số tác giả như: Nguyễn Phi Hoanh biên dịch (1978) Một

số nền mỹ thuật thế giới [46]; Sam Hunter (Năng An dịch, 1998) Những trào lưu

lớn của Nghệ thuật tạo hình hiện đại [81]; Cynthia Freeland (Nguyễn Như Huy dịch,

2009) Thế mà là nghệ thuật ư? [28]; Sarah Thornton (Nguyễn Như Huy dịch, 2016)

Bảy ngày trong thế giới nghệ thuật [84], v.v. Vì vậy, theo NCS thị trường tác phẩm

hội họa Việt Nam phát triển như hiện nay cũng có một phần nguyên nhân từ hoạt

động NCPBMT như đã nêu trên.

- Tạp chí đăng công trình dễ dàng hơn việc xuất bản công trình dưới dạng

sách nghiên cứu có cùng một nội dung khó với nhiều góc nhìn chuyên môn, kiến

thức tổng hợp về nghệ thuật và kinh tế như thị trường tranh Việt Nam nên phần lớn

những nhà nghiên cứu là họa sĩ, các nhà NCPBMT, v.v. đã chọn phương cách này

để thực hiện. Trước năm 1975, một số tạp chí về văn hóa, văn nghệ ở cả hai miền

Bắc - Nam Việt Nam đều có những công trình nghiên cứu, giới thiệu về mỹ thuật,

hội họa Việt Nam hiện đại. Ở miền Nam, Tạp chí Sáng tạo, Giai phẩm Bách khoa

Văn nghệ, Hiện đại, v.v. tiêu biểu là Tạp chí Sáng tạo (1956-1961) xuất bản khá

đều đặn hằng tháng, thường xuyên đăng tải các công trình nghiên cứu, phê bình và

giới thiệu hoạt động mỹ thuật, chủ yếu là hội họa của các họa sĩ khu vực phía Nam

với một số tác giả như: Thái Tuấn (1956), “Một vài nhận xét về nghệ thuật hội họa”

[110]; Trường Giang (1957), “Qua các cuộc triển lãm ở Sài Gòn” [40]; Tô Thùy

Yên (1958), “Để phục hồi hội họa” [120]; Thạch Chương (1960), “Giới thiệu một

nhận thức siêu thực về nghệ thuật” [16], v.v. Ở miền Bắc, Tạp chí Văn nghệ, Văn

nghệ quân đội, v.v. thường xuyên in tranh của một số họa sĩ nhưng không có nhiều

công trình nghiên cứu về mỹ thuật như . Trong khoảng 20 năm trở lại đây, trên một

số tạp chí, đặc san chuyên ngành về mỹ thuật bao gồm cả hai hình thức in và điện tử

đã đăng tải hàng trăm công trình nghiên cứu về thị trường tác phẩm hội họa cùng

với những vấn đề có liên quan đề cập trực diện, thông qua một số góc nhìn khác

15

nhau, v.v. Tuy nhiên, rất nhiều trong số những công trình nghiên cứu đã được đăng

tải đó chỉ dừng lại ở mức độ như đưa tin như trên báo do thiếu tính nghiên cứu

chuyên sâu, nhận định đánh giá về mặt học thuật, v.v., ngoại trừ một số lượng nhỏ

là các công trình của những nhà NCPBMT chuyên nghiệp. Nhìn chung những công

trình nghiên cứu đó ít phát hiện mới, giá trị nghiên cứu khoa học cũng chưa nhiều,

chưa đề xuất những giải pháp để có thể áp dụng một cách hiệu quả cho công tác

quản lý cũng như xây dựng chính sách phù hợp cho sự phát triển thị trường tác

phẩm hội họa Việt Nam.

- Báo in và điện tử là môi trường của một hình thái truyền thông đang hoạt

động khá hiệu quả cùng song song tồn tại. Do có số lượng bài viết nhiều nhất, cập

nhật tin tức nhanh nhất về thị trường tranh hội họa trong thời gian qua. Trước năm

1975 ở miền Nam, hoạt động mỹ thuật nói chung cũng như thị trường mỹ thuật diễn

ra khá sôi động có một số báo, tập san in phổ biến như: Sáng dội miền Nam, Thế

giới tự do, Ánh đèn dầu, v.v. Ở miền Bắc cũng có nhiều hoạt động mỹ thuật nhưng

mang những sắc thái riêng khác với xu hướng thị trường hóa ở miền Nam nên trên

báo giai đoạn đó không có nhiều bài viết mang tính truyền thông như vậy và điều

này sẽ được làm rõ hơn ở phần sau của nghiên cứu. Ngày nay, khá nhiều xuất bản

phẩm dưới dạng báo in, điện tử nhưng tiêu biểu có một số tờ báo như: Văn hoá,

Thanh niên, Tuổi trẻ, v.v. đã lập chuyên trang, chuyên mục để đăng bài tuần kỳ,

nhiều kỳ, v.v. của các tác giả như: Hà Phương (2014), “Mỹ thuật buồn tẻ vì thiếu thị

trường” [73]; Vũ Viết Tuân (2015), “Thị trường mỹ thuật: “Giấc mơ hão huyền”?”

[107]; Thùy Ân (2016), “Với vấn nạn tranh giả - pháp luật của chúng ta hết sức lỏng

lẻo”[5]; Lucy Nguyễn (2017), “Nghi vấn tranh Việt giả đấu giá tại nước ngoài”[63],

v.v. thì trên môi trường internet, một số báo điện tử như VnExpress, Nhân dân, Thể

thao văn hóa, v.v., cũng có các chuyên trang, chuyên mục và bài viết, v.v., của các

tác giả như: Lưu Hà (2006), “Gallery tư nhân thời thương mại hóa” [145]; Minh

Tâm (2011), “Mỹ thuật Việt Nam đang lao dốc” [148]; Văn Bảy (2013), “Thị

trường mỹ thuật Việt Nam: gậy ông ‘đập lưng’ cháu ông” [137], v.v. Phần lớn

các bài viết như thế chỉ dừng ở mức độ đưa tin về sự việc, hiện tượng như đã nêu

trên, rất hiếm bài viết có nhận định, đánh giá về phần học thuật. Điều này khác với

giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX ở nước ta, trong cuốn Mỹ thuật Hà Nội thế kỷ XX, tác

giả Trần Khánh Chương cho rằng: “qua các bài viết, các tác giả đã đánh giá các tác

16

phẩm về mặt chất liệu, bút pháp, diện mạo của từng triển lãm, quan niệm nghệ

thuật, quan niệm về kế thừa truyền thống dân tộc và xu hướng cách tân trong hội

họa… với những đánh giá khen chê rõ ràng, mạnh dạn phê bình từng tác phẩm,

từng tác giả, gây một phong trào hoạt động mỹ thuật trong đời sống văn hóa nghệ

thuật thời kỳ đó” như các bài viết của Tô Ngọc Vân với bút danh Ái Mỹ, Tô Tử

(1930), “Nguyễn Gia Trí và sơn ta”; (1936), “Cái đẹp trong hội họa”; (1942), “Cái

đẹp trong tranh”, v.v. Nguyễn Đỗ Cung (1938), “Tranh vẽ bằng sơn ta”; (1942),

“Sống và vẽ”, ngoài ra còn có Nguyễn Văn Tỵ, Trần Bình Lộc, Thạch Lam, v.v.

cũng viết bài đăng trên báo, tạp chí Phong Hóa, Nam Phong, Ngày Nay, Thanh

Nghị, Xuân Thu nhã tập, v.v. [13, tr.18]. Tuy nhiên, theo NCS khá nhiều bài viết

đăng trên báo đã làm tốt một số chức năng cơ bản của nó khi đưa tin, tuyên truyền,

giám sát, v.v. những diễn biến trong thời gian qua các hoạt động về thị trường mỹ

thuật phần nhiều là thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam ở cả trong và ngoài nước

tới công chúng, tác động khá tích cực tới các bên tham gia vào thị trường.

- Trang mạng xã hội, các trang thông tin điện tử cá nhân như facebook, v.v. ở

Kỷ nguyên số đã làm xuất bản phẩm truyền thống không còn giữ vị trí độc tôn,

những công trình ở nhiều mức độ chất lượng khác nhau cũng mang lại những giá trị

khác nhau, từ tham khảo đến nghiên cứu với những nội dung trao đổi về học thuật

hội họa, thị trường hội họa, về bản quyền tác giả tác phẩm hội họa, v.v. Tuy nhiên,

số lượng ở mức độ ổn định cũng chưa nhiều (8 trang), đây là môi trường mới, dễ

dàng tiếp cận, hữu ích để bổ sung thêm thông tin, kiến thức khoa học cho mọi đối

tượng quan tâm tới. Ví dụ, facebook của Nguyễn Đình Đăng, Nguyễn Đình Thành

hay Nguyễn Như Huy, v.v. đã đăng tải khá nhiều bài viết về học thuật, nghiên cứu,

phê bình mỹ thuật, hoạt động thị trường tác phẩm hội họa, v.v. tương đối có chất

lượng, khách quan trong việc phân tích, đánh giá nên có được số lượng tới hàng

nghìn người quan tâm theo dõi (follow) và truy cập thường xuyên. Trong số các

công trình đăng tải trên trang cá nhân đó, có công trình là tham luận đã từng tham

dự tại các hội thảo mỹ thuật hay là một phần trong công trình nghiên cứu đã được

xuất bản dưới dạng sách in, tạp chí in, v.v. của tác giả nêu trên như: Màu rởm trong

tranh giả; Làm thế nào để xác định tuổi của bức tranh; Thị trường tranh: Thương

hiệu và lừa đảo [141]; Mua tranh tượng cho đúng luật đã khó, thế còn mua video,

mua tác phẩm trình diễn thì làm thế nào? [143], v.v.

17

Tóm lại, thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam là đề tài khó để nghiên cứu

nên cho tới nay (thời điểm thực hiện Luận án) chưa có một công trình nghiên cứu

chuyên biệt nào xuất hiện dưới dạng ấn phẩm độc lập được in và xuất bản. Tài liệu

là ấn phẩm đã xuất bản thực hiện cho nghiên cứu của Luận án ngoài những công

trình là sách xuất bản, đăng trên tạp chí chuyên ngành, kỷ yếu hội thảo, v.v. NCS sử

dụng nguồn từ những xuất bản phẩm ở những lĩnh vực khác như văn hóa học, văn

học, v.v. Vấn đề quan hệ của văn hóa và kinh tế, nghệ thuật và tiền bạc trong xã hội

hiện đại luôn song hành nhưng lại ít đối diện, nên những yếu tố liên quan thị trường

trong những xuất bản phẩm như vậy thường chỉ đề cập thoáng qua trong một số

cuốn sách viết về những nội dung, chủ đề khác của các tác giả như Phan Cẩm

Thượng (2008), Nghệ thuật ngày thường [94]; Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010),

Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam [89]; Dương Tường (2010), Chỉ tại

con chích chòe [112]; Phạm Công Luận (2016), Sài gòn chuyện đời của phố I-V

[57], v.v. Thị trường tác phẩm hội họa trong thời gian qua là vấn đề được bàn thảo

khá nhiều không chỉ trong công chúng mà còn diễn ra tại một số hội nghị, hội thảo

hay tọa đàm của các cơ quan nhà nước có chức năng liên quan như Cục

MTNATL và Triển lãm, Hội MTVN, Trường Đại học MTVN, v.v. tổ chức và có

không ít các tham luận đề cập tới nội dung này. Tuy nhiên, ngoài hai công trình

Vi Kiến Thành (chủ nhiệm đề tài) (2016) Quản lý nhà nước về thị trường mỹ

thuật trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế [86] và Hoan Quan Vuong

và các cộng sự (2018) Paintings can be forged, but not feeling (Tranh có thể làm

giả nhưng cảm xúc thì không) [127] thì chưa có sự xuất hiện nào khác những

nghiên cứu có tính tổng thể, chuyên sâu về thị trường tác phẩm hội họa từ những

chuyên gia về hội họa, nhà quản lý, chuyên gia về kinh tế thị trường hay về bản

quyền tác giả.

Chính vì vậy, khi nói về các công trình nghiên cứu mỹ thuật, Chu Quang Trứ

(2013) Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật cho rằng: “sách về mỹ thuật không ít

…sách của các nhà phê bình và nghiên cứu chuyên nghiệp, của các cơ quan có chức

năng nghiên cứu thì lại quá ít” [104, tr.253] chưa kể tới chất lượng của những công

trình. Những công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam cho tới ngày hôm nay vẫn thiếu vắng gần như hoàn toàn trong các

danh mục xuất bản cả về in ấn truyền thống cũng như ở định dạng số trên môi

18

trường internet. Điều đó cũng là một trong những khiếm khuyết, một mắt xích yếu

nhưng lại ở vị trí quan trọng trong cỗ máy phát triển của thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam.

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài

Những công trình nghiên cứu về tác phẩm hội họa Việt Nam của những nhà

nghiên cứu nước ngoài là ấn phẩm xuất bản phẩm có số lượng không nhiều và chất

lượng cũng không đồng đều. Theo NCS, những công trình nghiên cứu về mỹ thuật

Việt Nam của các nhà nghiên cứu nước ngoài có hình thức ở dạng ấn phẩm xuất

bản khi xem xét dựa trên những tiêu chí về không gian, thời gian cũng như nội dung

nghiên cứu có thể chia làm hai giai đoạn khá rõ ràng và tách biệt như sau:

- Giai đoạn thứ nhất gồm một số công trình nghiên cứu của học giả nước

ngoài đến Việt Nam từ thời còn là thuộc địa, nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam thông

qua lăng kính của nhà khoa học về nhân học, sử học, khảo cổ học, v.v. và được phổ

biến dưới dạng xuất bản phẩm từ khá sớm. Nội dung của những công trình này từ

nghiên cứu thực địa về nền văn minh vật chất của người Việt Nam hay những

nghiên cứu về phân kỳ giai đoạn của nghệ thuật cổ ở Việt Nam, v.v. từ cuộc sống

đời thường hay từ những di sản kiến trúc hay những hiện vật tôn giáo như tượng

Phật, đồ thờ, v.v. những công trình đó đã có ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều sáng

tác của hội họa hiện đại Việt Nam. Mặc dù, phần nhiều những công trình như vậy

không đề cập trực diện mà chỉ có những mối liên hệ đến tác phẩm hội họa và họa sĩ

Việt Nam hiện đại như những hình vẽ được khái quát hóa nhưng chính xác và đầy

tình cảm được nhấn hoặc buông bởi những nét thanh, nét đậm, v.v. hay những hình

vẽ khảo tả, đạc họa một cách công phu, chi tiết và chính xác trong những công trình

của các tác giả: Henri Orge (1909), Technique du peuple Annamite (Kỹ thuật của

người An Nam) [126]; Louis Bezacier (1954), L’Art Viêtnamien (Nghệ thuật Việt

Nam) [130]; (1959), Relevés de monuments anciens du Nord Việt-Nam (Các di tích

cổ ở miền Bắc Việt Nam) [131], v.v. Cuối thế kỷ XIX cho đến đầu thế kỷ XX, tác

phẩm hội họa Việt Nam đã xuất hiện nhưng chưa đủ bề dày để những nhà nghiên

cứu khoa học như đã nêu trên nghiên cứu, tập hợp thành công trình. Tạp chí, sách in

ở giai đoạn sớm gần như chưa có những công trình nghiên cứu xuất bản bằng tiếng

Pháp hay tiếng Anh về hội họa hiện đại Việt Nam. Lý giải về điều này, nhiều ý kiến

cho rằng, do hội họa hiện đại Việt Nam còn non trẻ, trong khi đó hoạt động truyền

19

thông, xuất bản sách, tạp chí còn chưa phổ biến như ngày nay. Tuy nhiên, cũng có

một số khảo sát, công trình nghiên cứu, phê bình của không nhiều tác giả nước

ngoài như Paul Munier, Claude Mahoudot, G. Condominas, M. Barrès, .v.v. bàn

luận và giới thiệu về tranh của các họa sĩ MTĐD đăng trên một số tờ báo, tuần báo

như Le Monome, Volonté Indochinoise, Indochine Hebdomadaire Illustré, v.v.

- Giai đoạn thứ hai gồm các công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu

đến Việt Nam từ khi đất nước bước sang giai đoạn của thời kỳ mở cửa Đổi Mới.

Những công trình nghiên cứu của họ đã được xuất bản và phổ biến với nội dung chủ

yếu đề cập về tác phẩm hội họa, hoạt động sáng tạo nghệ thuật của họa sĩ hòa nhập

vào nền kinh tế thị trường. Trong những công trình nghiên cứu đó, các tác giả như:

Lisa Bixenstine Safford, Nora Annesley Taylor, Phoebe Scott, v.v. đề cập tới khá

nhiều khía cạnh, với những góc nhìn mới và đa dạng hơn khi so sánh với những

công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong nước có cùng thời điểm. Xã hội

thay đổi, những tác động của kinh tế thị trường đối với họa sĩ và sáng tạo của họ,

vấn đề về bản quyền tác giả, tranh giả tranh thật, giá cả của những tác phẩm hội họa

Việt Nam v.v. trở thành nội dung được nêu ra để luận bàn trong những công trình

của các nhà nghiên cứu nước ngoài ở giai đoạn này. Một số công trình trở nên khá

phổ biến ở Việt Nam của các tác giả như: Natalia Kraevskaia (1999 - 2000), From

Nostalgia Towards Exploration (Từ hoài cổ hướng sang miền đất mới) [61];

Corinne de Ménonville (2003), Vietnamese Painting: From Tradition to Modernity

(Hội họa Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại) [123]; Nora Annesley Taylor

(2009), Painters in Hanoi An Ethnography of Vietnamese Art (Họa sĩ Hà Nội một

dân tộc học của mỹ thuật Việt Nam) [134]; Lisa Bixenstine Safford (2015), Art at

the crossroads: Lacquer Painting in French Vietnam (Nghệ thuật ở ngã tư đường:

Sơn mài ở Việt Nam thời thuộc Pháp) [129]; Phoebe Scott (2019), Colonial or

Cosmopolitan? Vietnamese Art in Paris in the 1930s-40s (Tính thế giới hay Thuộc

địa? Mỹ thuật của người Việt Nam tại Paris những năm 1930 - 1940) [135], v.v.

Ngoài những tác giả và những công trình như đã nêu trên còn có một số công trình

nghiên cứu của các tác giả nước ngoài khác nghiên cứu về tác giả tác phẩm cụ thể,

về tổng quan hội họa hiện đại Việt Nam, v.v. nhưng ít được phổ biến tại Việt Nam

của tác giả Sherry Buchanan (2002), Tran Trung Tin - Paintings and Poems from

Vietnam (Trần Trung Tín - Những bức tranh và các bài thơ đến từ Việt Nam) [136];

20

Katherin Noppe, Jean-François Hubert (2018), Die Kunst Vietnams (Mỹ thuật Việt

Nam) [128], v.v. Mặc dù không phải là những công trình của tác giả nước ngoài,

nhưng có một số công trình nghiên cứu nội dung đề cập nhiều về hội họa Việt Nam

đã xuất bản và phát hành ở ngoài nước của các tác giả Trịnh Cung (2010), Mỹ thuật

Việt Nam - Những vấn đề xoay quanh [23], Đinh Cường (2015), Đi vào cõi tạo hình

[26], v.v. Ngoại trừ khoảng cách địa lý, những khác biệt về nhận thức chính trị và

một vài lý do dị biệt khác, những yếu tố như tính mới, yếu tố trao đổi học thuật

chưa nhiều nên cũng ít phổ biến ở Việt Nam.

- Tạp chí in, điện tử khá quen thuộc với giới mỹ thuật ở trong nước có một số

ấn phẩm như Asia Art New, Art of Asia, ArtAsiaPacific, asia-art.net, v.v. và trang

thông tin trực tuyến của các bảo tàng, nhà đấu giá, gallery, nhà xuất bản, v.v. trong

thời gian qua cũng đã tải những công trình nghiên cứu, giới thiệu về hội họa Việt

Nam hiện đại của tác giả nước ngoài với một số công trình như: Bradford Edwards

(2003), A Muscular Art (Một nền nghệ thuật khỏe mạnh) [122]; Nguyen Bao Ha -

Ian Findlay (2005), Vietnam - The view from above (Tổng quan về nghệ thuật Việt

Nam) [133], v.v. Nhiều bài viết về hội họa Việt Nam cũng được đăng lên một số tờ

báo có lượng độc giả khá lớn như của tác giả Martha Ann Overland (2009), “Copied

paintings plague Vietnam’s Museum of Fine Arts” (Những bức tranh chép gây tai

họa cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) [153]; Seth Mydans (2009), “A Legacy of

War: Fake Art in Vietnam” (Một di chứng của chiến tranh: Mỹ thuật giả ở Việt

Nam) [157]; Richard C. Paddock (2017), “Vietnamese Art Has Never Been More

Popular. But the Market Is Full of Fakes” (Mỹ thuật Việt Nam chưa bao giờ được

yêu thích hơn thế - Nhưng thị trường đầy tranh giả) [156]; v.v.

Tuy còn nhiều hạn chế trong những tiếp cận, tổng hợp, phân tích, đánh giá,

nhận định, đôi khi áp đặt cách nhìn chủ quan từ phía người nghiên cứu viết đối với

một số vấn đề chưa thực sự chắc chắn, khách quan về mỹ thuật Việt Nam nên nhiều

lúc bộc lộ rõ những khoảng trống từ thực tế của người nghiên cứu bên “ngoài cuộc”

nhưng những công trình nghiên cứu nêu trên cũng vẫn thật sự cần thiết để góp phần

cho sự phát triển thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội

nhập xu hướng phát triển toàn cầu như ngày nay.

1.1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu

Tổng quan các công trình nghiên cứu phân theo hai nhóm ở mục 1.1. cho thấy:

21

Thứ nhất, đa số các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài

nước tiếp cận giới thiệu theo hướng nghiên cứu lịch sử về mỹ thuật trong đó có

nghệ thuật điêu khắc là đồ án trong các công trình kiến trúc, tranh khắc gỗ dân gian,

tranh thờ mang yếu tố tôn giáo của mỹ thuật cổ và phần mỹ thuật Việt Nam hiện đại

kể từ thế hệ các họa sĩ MTĐD đến nay. Nhiều công trình nghiên cứu MTVN hiện

đại đã đề cập đến tiến trình phát triển của mỹ thuật thông qua các hoạt động mỹ

thuật qua từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử thể hiện ở những sáng tác của các họa sĩ,

nhà điêu khắc và được biên tập trình bày, minh họa trong những cuốn sách, vựng

tập, kỷ yếu chuyên đề, v.v. do các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập

thuộc hệ thống thiết chế mỹ thuật cũng như của các cá nhân, tổ chức ngoài công lập

thực hiện, v.v.

Thứ hai, sau những cuốn sách của một số học giả người Pháp trong thời kỳ

Đông Dương nghiên cứu về nhân học, khảo cổ học, v.v. có những khảo sát, khám

phá, phân tích và đánh giá trên cơ sở những ghi chép, phát hiện khoa học quan trọng

liên quan tới mỹ thuật cổ là những công trình nghiên cứu trong các dự án của các

tác giả nước ngoài. Phần nhiều trong số những công trình đó là những nghiên cứu

về nghệ thuật tạo hình hiện đại và trào lưu nghệ thuật thị giác đương đại mới được

du nhập vào Việt Nam kể từ sau thời kỳ Đổi Mới.

Thứ ba, ngoài những sự thay đổi, phát triển của hội họa Việt Nam hiện đại đã

được một số tác giả trong các công trình nghiên cứu của mình đề cập cả gián tiếp và

trực diện tới nhiều vấn đề được đánh giá là khá mới, nhiều gai góc của nghệ thuật

tạo hình Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế như vấn đề về

hoạt động mua bán, bản sắc, tính dân tộc và bản quyền tác giả.

1.1.3. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu

Thứ nhất, có thể nói, các công trình nghiên cứu nước ngoài là những tài liệu

tham khảo góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện thị trường mỹ thuật nói chung,

tác phẩm hội họa nói riêng của các nước đang xây dựng nền CNVH, trong đó có Việt

Nam. Mặc dù, những nghiên cứu quốc tế về lĩnh vực này tương đối đầy đủ và đồ sộ

nhưng vẫn chưa thể đáp ứng hoàn toàn các yêu cầu của từng quốc gia, bởi mỗi nước

có truyền thống văn hóa, điều kiện kinh tế và thể chế chính trị khác nhau nên có

những nhận thức, quan điểm và cách vận hành khác nhau.

22

Thứ hai, tại Việt Nam, các nghiên cứu đã chỉ ra một bức tranh khá tổng quan

về thị trường, bản quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật trong đó có tác phẩm hội họa Việt

Nam. Nếu đánh giá thật khách quan, vấn đề thị trường và bản quyền tác giả tác phẩm

hội họa tại Việt Nam cho thấy còn rất nhiều hạn chế và bất cập. Điều này đặt ra tính

cấp thiết cho các công trình nghiên cứu trong thời gian tới, để đưa ra những giải pháp

giải quyết các bất cập hiện nay, nhằm hoàn thiện thị trường và bản quyền tác giả tác

phẩm hội họa tại Việt Nam; thực hiện tốt đường lối xây dựng và phát triển văn hóa,

con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước như Nghị quyết

số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra.

Thứ ba, từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy ở Việt Nam vấn đề thị trường

và bản quyền tác giả, tác phẩm mỹ thuật đặc biệt là tác phẩm hội họa đã và đang

được quan tâm hơn trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn.

Tuy nhiên, mỗi công trình có phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

khác nhau. Các phương pháp nghiên cứu của một số công trình mới chỉ dừng lại ở

phương pháp phân tích, tổng hợp, điều tra thống kê, phương pháp chuyên gia, còn

thiếu các mô hình phân tích mang tính định lượng.

Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để làm rõ lý luận về thị trường và bản quyền

tác giả tác phẩm hội họa; đánh giá thực trạng về thị trường và bản quyền tác giả tác

phẩm hội họa tại Việt Nam và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thị trường và bản

quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết về mặt lý luận

và thực tiễn.

Thứ tư, qua các công trình nghiên cứu trên, cho thấy những hạn chế nhất định

về đối tượng, nội dung, nghiên cứu; việc đề cập đến thị trường và bản quyền tác giả

tác phẩm mỹ thuật nói chung, tác phẩm hội họa nói riêng vẫn chưa được các nhà khoa

học nghiên cứu, giải quyết một cách đầy đủ, toàn diện. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu

để đưa ra những giải pháp phù hợp là cần thiết hiện nay. Cụ thể như sau:

Một là, luận án tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện lý luận có liên quan: khái

niệm văn hóa và kinh tế, quan hệ văn hóa và kinh tế; Khái niệm về các thành phần

chính tạo nên thị trường; khái niệm về tác phẩm hội họa và thị trường; các khái niệm

về kinh tế văn hóa.

Hai là, luận án tiếp tục nghiên cứu thực trạng thị trường tác phẩm hội họa như:

Họa sĩ - Người sáng tạo và cung cấp hàng hóa; Thực trạng thị trường tác phẩm hội họa.

23

Ba là, luận án nghiên cứu các nhân tố tác động thị trường - bản quyền, như:

Các văn bản về bản quyền tác phẩm hội họa; Tác động của bản quyền tác động đến

sự phát triển của trong thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam như thế nào.

Bốn là, tác giả đánh giá một cách khách quan thực tiễn thị trường tác phẩm hội họa

ở Việt Nam (những quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại, hạn chế).

Năm là, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thị trường tác phẩm hội họa tại Việt

Nam, đề xuất các giải pháp hoàn thiện thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam hiện nay.

1.2. Tổng quan về đối tượng nghiên cứu

1.2.1. Tổng quan về tác phẩm hội họa Việt Nam

Nhiều nhà nghiên cứu về lịch sử, xã hội học và mỹ thuật cho rằng, hội họa ở

Việt Nam xuất hiện khá muộn. Do đặc điểm lịch sử, hoàn cảnh xã hội nên gần như

không có thị trường tranh hội họa Việt Nam trước thế kỷ XX và thậm chí là trước

thời kỳ Đổi Mới. Trong khi thị trường mỹ thuật đan xen với hàng thủ công được xác

định xuất hiện ở Trung Quốc từ thời nhà Tống (thế kỷ thứ X – XIII) với những giao

dịch ít khi xác định được danh tính giữa người bán, người mua. Khi phiên bản của

“Bức thư họa Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ lưu lạc hơn 600 năm ở Trung Quốc;

được nhà Thanh biên mục trong bộ Bí điện châu lâm - Thạch cừ bảo cấp tục cách

đây hơn 200 năm (1793)” [60, tr.10] xuất hiện và được bán “trong phiên giá đấu

năm 2014 tại Bắc Kinh với giá trị 1,8 triệu USD” [1, tr.16] [Xem thêm: Phụ lục 1,

tr.191] thì phần nhiều công chúng, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam mới được biết

hay quan tâm chú ý hơn tới bức tranh này. Theo Nguyễn Nam biên khảo (2012)

“Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ, Bóng hình để lại” bức tranh cổ có kích thước lớn

này “do người nước Nam tổ chức vẽ nên, khắc họa một sự kiện lịch sử với niềm tự

hào quốc tộc, quốc thổ”. Theo NCS, bởi những tiếp nhận và tiếp biến với nhiều nền

văn hóa, đặc biệt là văn hóa Trung Hoa nên tác phẩm hội họa đã sớm xuất hiện ở

Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước, muộn nhất cũng từ cuối thế kỷ thứ XIV mà bức họa

Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ là một minh chứng. Mặc dù, để có thể khẳng định

được đâu là tác giả của những họa phẩm cổ, niên đại sáng tạo và hoàn cảnh sáng tạo

như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những công trình nghiên cứu dày công, tâm

huyết và có thể phải có cả một chút may mắn. Tác phẩm hội họa đã xuất hiện trong

những tài liệu ghi chép, biên soạn lịch sử từ thời nhà nước quân chủ Việt Nam. Khi

đó, một bộ phận tinh hoa của xã hội bao gồm những quý tộc người Việt đã sử dụng

24

tranh hội họa cho nhiều mục đích khác nhau, từ việc trưng bày, trang trí cho tới việc

thờ cúng theo tín ngưỡng, tôn giáo, v.v. nhưng vì nhiều lý do mà phần nhiều không

còn lưu lại được đến ngày nay. Nghi vấn tồn tại về xuất xứ, lịch sử cũng như các giá

trị thương phẩm khác của những họa phẩm cổ đa số đều trong tình trạng chưa có cứ

liệu minh định một cách khoa học. Đại Việt Sử ký toàn thư có ghi lại việc Minh

Tông Hoàng Đế “ban cho Trần Bang Cẩn bức tranh và bài thơ rằng: Cốt cách dáng

hình chịu rét đông, Hiên ngang tướng mạo thực nên trông. Phong lưu mọi vẻ đều

nên cả, Vẽ sao canh cánh tấm lòng trung” [66, tr.234]. Trong cuốn Những giá trị

văn hóa truyền thống Việt Nam tác giả Ngô Đức Thịnh chủ biên (2012) cho biết:

“trong cung đình, vương phủ thời Lê - Trịnh cũng có những họa sĩ cung đình

chuyên vẽ chân dung cho các hoàng thân quốc thích, nhưng chất liệu mà họ sử dụng

chủ yếu là giấy dó, lụa Tầu, mực nho, và một số chất liệu màu nước, hoặc màu bột

nhập từ phương Tây về. Họ cũng kết hợp vào đó một số chất liệu dân gian như

vàng, bạc, v.v.” [89, tr.479]. Treo bày và chơi tranh đã từ lâu xuất hiện ở Việt Nam,

nên khi nói về chủ đề này, trong cuốn sách Mỹ thuật Huế tác giả Nguyễn Tiến Cảnh

chủ biên (1992) viết: “Theo truyền thống trang trí nội thất, các cung điện ở Thăng

Long thường có treo tranh hoặc vẽ lên tường, lên cột. Kinh đô nhà Tây Sơn cũng

thế …có lần Nguyễn Thế Lịch vào triều kiến Quang Trung, ông đã vâng lệnh làm 8

bài thơ nôm đề vào 8 bình phong vẽ liên hoàn 100 em bé, để trang trí cung điện Phú

Xuân” [10, tr.103]. Những ghi chép đó là minh chứng điển hình để khẳng định, tác

phẩm hội họa đã xuất hiện từ gần một thiên niên kỷ trước ở Việt Nam nhưng có thể

công chúng khi đó chưa được tiếp cận một cách phổ biến. Tồn tại và được biết đến

rộng rãi cho tới ngày nay, trước khi những tác phẩm hội họa theo phong cách tạo

hình phương Tây xuất hiện ở Việt Nam phần nhiều là những bức tranh bình dân,

phổ thông dùng nhiều cho mục đích thương mại như tranh khắc gỗ, tô màu có tính

đồ họa cao nhưng đậm chất nghệ nhân dân gian, phường thợ thủ công, thường được

bán, mua để trang trí trong các dịp lễ Tết (thường gọi là tranh Tết) với nội dung là

các sinh hoạt tín ngưỡng, chúc tụng, thể hiện ước vọng phúc lộc - an khang, cầu lộc,

cầu tài, v.v. có xuất xứ từ các làng chuyên làm tranh dân gian Đông Hồ, Kim

Hoàng, Sình, phố Hàng Trống. Tương tự như như những chợ buôn bán tranh in, thư

pháp gồm những người bán rong ven đường, các nhà Đạo giáo trong triều đại nhà

Minh (thế kỷ XIV-XVII) ở Trung Hoa. Do khí hậu khắc nghiệt, chiến tranh liên

25

miên cùng với những chính sách cai trị tàn bạo, âm mưu thâm độc của những kẻ

xâm lược nhằm mục đích đồng hóa, hủy diệt một quốc gia độc lập, nên di sản văn

hóa trong đó có mỹ thuật của cha ông để lại cho chúng ta được biết hôm nay chỉ là

một phần rất mỏng trong thực tế xã hội trước kia. Đặc biệt là những họa phẩm thể

hiện trên các chất liệu có vật liệu nền ít bền vững như giấy, lụa thậm chí là gỗ,

nhưng những gì còn tồn tại đó đã cho ta thấy được sự phong phú, đa dạng của hoạt

động mỹ thuật Việt cổ trước khi bước sang mỹ thuật hiện đại.

Chất liệu sơn dầu hay còn gọi là mầu dầu ngày càng trở nên phổ biến khi

chúng được sử dụng cho việc vẽ, sáng tác trong số phần lớn các tác phẩm hội họa.

Ban đầu “được du nhập vào Việt Nam mà nó đã được biết đến thông qua các tác

phẩm của các giáo sĩ phương Tây đem vào từ thế kỷ XVII” [89, tr.478]. Cuối thế kỷ

XIX đã có khá nhiều người biết tới ba họa sĩ Việt “tinh về nghề vẽ”, dùng thuật vẽ

phương Tây để họa chân dung bằng màu dầu là Lê Huy Miến, Thang Trần Phềnh,

Nam Sơn; một số tác phẩm của họ còn lưu lại cho tới ngày nay như: Chân dung cụ

Tú Mền (1898 – Lê Huy Miến), Phạm Ngũ Lão (1923 - Thang Trần Phềnh), Ông

già Kim Liên (1926 - Nam Sơn), v.v. Tuy nhiên, đến khi tác phẩm hội họa trở nên

phổ biến, những người làm nghề vẽ, vẽ tranh không còn phải khuyết danh hay mang

danh “phó” này, “thợ” kia, họ ký tên hay nghệ danh của mình trên tranh để công

trình ấy kết thúc sáng tạo trở thành tác phẩm được xác định đã hoàn thiện thì phải

tới thời kỳ của các họa sĩ Trường CĐMTĐD như đã đề cập ở phần mở đầu. Tác

phẩm hội họa của các họa sĩ Việt Nam hiện đại giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX chủ

yếu là những sáng tác theo lối trường quy, sử dụng chất liệu chính là sơn dầu, lụa,

sơn mài, giấy dó với phong cách, bút pháp của trường phái Hậu Ấn tượng trên cơ sở

quan sát hiện thực, thấu thị viễn cận của phương Tây mang ảnh hưởng từ những

người thầy nhiều tài năng của họ. Sau đó là thời kỳ chiến tranh, MTVN hiện đại có

sự phân chia khuynh hướng và thái độ sáng tác tương đối rõ ràng của các họa sĩ cùng

với những tác phẩm của họ ở hai miền Bắc - Nam. Phong cách tạo hình theo lối hiện

thực nhận diện được trong phần lớn những tác phẩm hội họa của các họa sĩ ở miền

Bắc. Trong khi đó ở phần nhiều tác phẩm của các họa sĩ miền Nam làm cho chúng ta

thấy có sự ngắt mạch một cách chủ động với quá khứ, điều đó được nhận thấy khá dễ

dàng trong đề tài, nội dung và bút pháp thể hiện có phần đa dạng hơn so với tác phẩm

của các hoạ sĩ miền Bắc. Vai trò của người họa sĩ trong họ khá độc lập nhưng có ảnh

26

hưởng khá rõ nét của hoàn cảnh xã hội thị trường thực dụng và đầy sôi động, phóng

khoáng ở miền Nam khi văn hóa đã nhiều phần Mỹ hoá nên phần lớn tác phẩm của

họ không mấy tạo được dấu ấn trong lịch sử nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại.

Hơn một thập kỷ sau khi đất nước thống nhất và khi những ngày cuối cùng

của thời kỳ bao cấp qua đi, thay vào đó là những chính sách Đổi Mới đã tạo nên

những luồng gió mới trong mọi mặt của đời sống xã hội cũng như nghệ thuật. Các

họa sĩ, nghệ sĩ như được cởi trói, họ dồn hết sức vào sáng tác, trưng bày và bán ở

trong nước, rồi đem ra nước ngoài, hòa chung với dòng chảy của thị trường mỹ thuật

thế giới. Họ hồ hởi, thoải mái như cởi được những tấm áo cũ chặt chội đã mặc lâu

ngày. “Mỹ thuật Việt Nam chứng kiến sự phát triển bùng nổ không chỉ hội họa hiện

đại, mà bên cạnh đó còn có cả những thử nghiệm nghệ thuật mới như sắp đặt, trình

diễn, pop-art, video-art, digital art, v.v.” [52, tr.8]. Sự bùng nổ ấy tạo ra muôn vàn sắc

thái mới trong những tác phẩm sáng tác ở giai đoạn này, điều đó đến từ những sự

hưng phấn của các họa sĩ sáng tạo. “Đây là một thời kỳ thay đổi. Các họa sĩ Việt Nam

đã trở nên năng nổ, khám phá hơn, cố gắng hòa nhịp với các trào lưu quốc tế trong

khi tận hưởng những lợi ích của tự do nghệ thuật trong khí hậu tốt lành của đổi mới”

[111, tr.5]. Trên những mảng tường của các nhà trưng bày, phòng triển lãm không chỉ

có những tác phẩm hội họa theo lối hiện thực chủ nghĩa hay chìm đắm miên man

trong ký ức của chiến tranh hoặc là những bố cục đường ngang, nét thẳng và trời

xanh, mây trắng nắng vàng trong những tác phẩm có chủ đề về xây dựng đất nước

nữa mà thêm vào đó những chất liệu thể hiện mới đa dạng phong cách, khác biệt đề

tài, khác biệt cả tên tuổi họa sĩ. Tất cả, vừa quen mà cũng rất lạ tạo thành một không

gian nghệ thuật hiện đại mới trong nền MTVN hiện đại. Từ hơn 100 họa sĩ tốt nghiệp

Trường CĐMTĐD sau 20 năm đào tạo, đến nay mỗi năm có hơn 1.000 người học về

mỹ thuật ra trường. Vì vậy, số lượng tác phẩm hội họa sáng tác mới của các họa sĩ từ

đó cũng tăng lên theo cấp số nhân, tương ứng với số lượng các họa sĩ ra trường hàng

năm. Ngoài những cái tên quen thuộc của ba bộ tứ họa sĩ MTĐD theo cách nói quen

thuộc của giới mỹ thuật gồm: Phổ - Thứ - Lựu - Đàm ở ngoài nước; Trí - Lân - Vân -

Cẩn; Sáng - Nghiêm - Liên - Phái ở trong nước còn rất nhiều tên tuổi của các họa sĩ

khác đã làm thay đổi diện mạo thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam qua những tác

phẩm sáng tạo của họ ở giai đoạn tiền thị trường tác phẩm hội họa hiện đại (NCS tạm

gọi) như: Phạm Hậu, Lê Văn Đệ, Nguyễn Khang, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tiến

27

Chung, Lê Quốc Lộc v.v. thì ở thế hệ tiếp nối ngày càng có nhiều cái tên quen thuộc

khác bổ sung vào danh sách các họa sĩ tham gia thị trường tranh ở miền Nam như:

Trịnh Cung, Nguyễn Trung, Đỗ Quang Em, Hồ Hữu Thủ, v.v. và sau thời mở cửa ở

miền Bắc khi bộ tứ đã trở nên quá quen thuộc với Nhân - Hòa - Kiệm Hậu (Lưu Công

Nhân, Lê Huy Hòa, Nguyễn Trọng Kiệm, Trần Lưu Hậu), bên cạnh những cái tên

Linh Chi, Trần Đông Lương, Mai Long, v.v. và sau đó là Thành Chương, Đặng Xuân

Hòa, Phạm Luận, Quách Đông Phương, Lê Thiết Cương, Bùi Hữu Hùng, Trần Văn

Thảo, Nguyễn Thanh Bình, v.v. rồi Đinh Quân, Vũ Thăng, Đinh Ý Nhi, Lê Kinh Tài

v.v. và gần đây hơn là Lim Khim Katy, Vũ Đình Tuấn, Lê Quý Tông, Hà Mạnh

Thắng, v.v. Tháng 8 năm 2020, “Triển lãm tranh của 19 họa sĩ hàng đầu trên thị

trường mỹ thuật Việt Nam” do Cục MTNATL - Bộ VHTTDL tổ chức thực hiện

cũng đã phần nào xác định một cách khái quát về số lượng các chủ thể sáng tạo đã

thành danh từ việc bán tác phẩm hội họa của mình trong quãng thời gian kể từ sau

Đổi Mới. Tuy nhiên, theo NCS số lượng các họa sĩ đã thành danh hàng đầu trên thị

trường mỹ thuật Việt Nam hiện đại từ năm 1986 đến nay còn sống và tiếp tục sáng

tác nên được mở rộng hơn và ít nhất số lượng cũng có tới hơn 30 họa sĩ.

Cùng với sự gia tăng về số lượng đó là sự đa dạng trong sáng tạo với các

trường phái, bút pháp mới mẻ, khác lạ mà cũng không kém phần cuốn hút người

tiêu dùng như: biểu tượng, nhận thức, tối giản, giải cấu trúc, v.v. làm cho thị trường

tác phẩm hội họa Việt Nam sau đổi mới vốn đã phong phú thì nay càng trở lên đa

dạng hơn qua các hoạt động triển lãm, giới thiệu quảng bá trên truyền thông, v.v.

Tuy nhiên, từ việc “trăm hoa đua nở” đó mà công chúng tiếp nhận, tiêu dùng có

nhiều sự chọn lựa cho nhu cầu của họ hơn và từ đó cũng tạo ra những loại hình

nghề nghiệp mới có liên quan tới họa sĩ và hoạt động thị trường như: nhà quản lý

nghệ thuật (art manager), người tổ chức và tư vấn nghệ thuật hay giám tuyển

(curator), v.v. thay vì chỉ có những thành phần cơ bản như: họa sĩ - gallery, nhà phê

bình, người môi giới - người tiêu dùng trong hoạt động thị trường trong giai đoạn

thời mới mở cửa ở thập kỷ 90 của thế kỷ XX.

Tự do sáng tạo, tự do trưng bày triển lãm, thu nhập nhiều hơn và ổn định,

quan hệ giao lưu được mở rộng, thông tin tiếp cận một cách dễ dàng từ việc giới

thiệu, bán tác phẩm của mình nên nhiều họa sĩ đã rời bỏ vị trí công việc ở công sở

để trở thành người nghệ sĩ sáng tác độc lập. Điều đó ngày càng trở nên quen thuộc

28

đối với nhiều họa sĩ Việt Nam đương đại, thế hệ trẻ sinh ra và trưởng thành trong

thời kỳ đất nước hòa bình khi họ xác định lấy sáng tác chuyên nghiệp làm nghề

nghiệp để tự phục vụ cho nhu cầu cuộc sống, phát triển sự nghiệp và hội nhập với

thế giới theo cách riêng của mình. Sự hỗ trợ của kinh tế, tài chính, truyền thông,

internet, v.v. trong thời gian vừa qua đã tạo ra một môi trường hoạt động đa dạng

hơn, tác phẩm hội họa cũng trở nên “toàn cầu hơn” nhờ vào sự thay đổi và trở nên

tích cực hơn ở một số “mắt xích” trong quy trình từ sáng tác, lưu thông sản phẩm,

đến với khách hàng, v.v. Thị trường văn hóa đặc thù như thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam phát triển bền vững, lành mạnh, hòa nhập một cách bình đẳng thực sự

với khu vực và thế giới.

1.2.2. Tổng quan về thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam

1.2.2.1. Thị trường tác phẩm hội họa ở Việt Nam

Thị trường mỹ thuật nói chung và thị trường tác phẩm hội họa nói riêng đã

được hình thành và phát triển cùng những biến động không ngừng trong dòng chảy

lịch sử của dân tộc. Thị trường tác phẩm hội họa nếu được hiểu và cắt nghĩa theo

cấu trúc lược giản gồm 3 thành tố: người bán, người mua và trung gian thì cũng có

thể được tính từ trong quá khứ sơ khai của nhà nước quân chủ Việt Nam. Khi đó

những bức tranh mang tính hội họa, hàn lâm đã được vẽ theo yêu cầu, mệnh lệnh

hay đặt hàng từ các quý tộc người Việt. Tuy nhiên, thị trường tác phẩm hội họa Việt

cổ này thực sự chưa có được những nghiên cứu chuyên sâu trong thời gian qua để

giải mã làm cho sáng tỏ. Nghề vẽ khi đó là nghề còn lại không xếp vào đâu trong “tứ

dân” cũng như “lục nghệ” theo quan niệm về nghề nghiệp và nghệ thuật của hệ tư

tưởng Nho Giáo. Những khái niệm nghệ thuật là sáng tạo, nghệ thuật có thị trường,

v.v. trong thời gian đó cũng chưa được hình thành nên không được đề cập tới trong

các ghi chép sử liệu. Hoạt động mua, bán tranh vẽ trong thời kỳ quân chủ khi đó

chưa phổ biến dưới dạng tác phẩm độc lập như ngày nay đến đối tượng là công

chúng phổ thông, nhưng hội họa đã sớm có sự giao lưu và giao thương ở bên trong

cũng như đến từ bên ngoài lãnh thổ Đại Việt. Điều đáng chú ý là các hình thức chợ

tranh hòa trộn với hàng thủ công như đề cập nêu trên còn khá phổ biến cho đến nửa

cuối kỷ XX ở Việt Nam.

Đầu thế kỷ XX, công chúng mới dần được tiếp cận rộng rãi với môi trường

hội họa và các hoạt động liên quan tới lĩnh vực nghệ thuật này ở Việt Nam. Thị

29

trường tác phẩm hội họa hiện đại sơ khai xuất hiện thực sự chỉ khi có những tên tuổi

của các họa sĩ Trường CĐMTĐD được công chúng biết đến với vai trò của người

nghệ sĩ qua những bức tranh họ vẽ. Đó là những người họa sĩ đầu tiên của nền

NTTH Việt Nam hiện đại. Tác phẩm hội họa là tranh vẽ của họ từ việc tham gia vào

các cuộc trưng bày, đấu xảo ở thị trường nội địa đã được ghi nhận ở giá trị thương

mại khá cao và tăng dần theo thời gian. Thể hiện ở số liệu thống kê về kinh doanh

các tác phẩm hội họa trong thời kỳ đó của Cục Văn thư và Lưu trữ Việt Nam

(archives.gov.vn) với doanh thu đạt được tính bằng đồng bạc Đông Dương tại các

năm: 1934 là 600 đồng; 1935 là 687 đồng; 1936 ghi nhận mức doanh thu thấp nhất

là 300 đồng; 1937, con số này đã lên tới 1.600 đồng; 1938 là 7.180 đồng; 1939 đánh

dấu bước nhảy vọt thần kỳ là 24.799 đồng, 1940 là 25.422 đồng, năm 1941 là

27.116 đồng, 1942 ghi nhận con số ấn tượng là 41.087 đồng. Nói về nội dung này,

Quang Việt cho biết: “Từ năm 1941 đến trước Cách mạng tháng Tám, người Nhật

lùng mua rất nhiều tranh (Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, v.v.) giá xê dịch từ 1300

đến 1500 piastres” (60 piastre = 1 lạng vàng) [116, tr.41].

Tranh của các họa sĩ MTĐD đã từng bước ra thế giới, hòa mình vào dòng

chảy chung để làm nên một thị trường hội họa Việt Nam hiện đại với một diện mạo

mới. Không chỉ ở trong nước mà còn là điểm sáng ở một số thị trường mỹ thuật trên

thế giới, tranh của nhiều họa sĩ Việt Nam đã trở thành những sản phẩm mỹ thuật

mang bản sắc riêng, món hàng văn hóa đặc thù đắt giá trong những lô hàng nhiều

giá trị của các cuộc đấu giá, thu hút được quan tâm của công chúng, các nhà sưu tập

mỹ thuật đến từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trong thời gian qua. Các tác phẩm hội

họa của Lê Phổ, Mai Trung Thứ có giá bán hơn 1 triệu USD là một ví dụ tiêu biểu.

Thị trường mỹ thuật nói chung, thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại

hoạt động công khai ở miền Bắc đã có một thời gian dài vắng bóng kể từ sau sự kết

thúc của Trường CĐMTĐD cho tới thời kỳ Đổi Mới, ở nửa cuối thập kỷ 80 của thế

kỷ trước. Khi những luồng sinh khí mới của “cởi trói”, Đổi Mới tràn tới làm bừng

sáng và thay đổi diện mạo của đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội. Nhu cầu hưởng thụ,

sáng tạo văn hóa nghệ thuật đã thay đổi mạnh mẽ, trong đó lĩnh vực mỹ thuật, phần

nhiều là tác phẩm hội họa là một ví dụ trực quan sinh động. Khi sau một thời gian dài

gắn bó với đề tài cách mạng, kháng chiến và công cuộc bảo vệ dựng xây đất nước,

nay đổi mới và hội nhập thành công đã tạo được dấu ấn lớn và hiệu quả tích cực trong

30

đời sống xã hội. Chưa có bao giờ, thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam lại thăng hoa

đến như vậy, sự bùng nổ trên mọi phương diện từ số lượng, hình thức, nội dung đến

giá trị kinh tế mang lại đã tạo ra muôn vàn sắc thái mới cho xã hội, không chỉ tới

riêng các họa sĩ. “Nửa sau của thập niên 90 là một giai đoạn mà người người vẽ

tranh, nhà nhà bán tranh” [115, tr.232] nên từ một vài cửa hàng bán hàng lưu niệm

cho khách du lịch ở Hà Nội, Tp.HCM, chỉ trong một thời gian ngắn đã bùng nổ số

lượng lên đến 425 (năm 2006) gallery, phòng trưng bày lớn, nhỏ ở khắp Việt Nam.

Một không gian, môi trường xã hội, nghệ thuật với những chính sách mới, tăng

trưởng kinh tế cùng những hoạt động thị trường tưng bừng đã trở thành động lực, tạo

đà cho số lượng tác phẩm hội họa của các họa sĩ từ đó tăng lên đáng kể. “Trên báo

chí, truyền thanh hầu như ngày nào cũng thấy một ông họa sĩ tươi cười đứng giữa

hoa, tranh và bạn bè của buổi khai mạc phòng tranh” [49, tr.27]. Thị trường tác

phẩm hội họa Việt Nam trong giai đoạn này đã tạo điều kiện cho công chúng có cơ

hội tiếp cận rất nhiều tác phẩm với chất liệu thể hiện mới, lần đầu tiên xuất hiện cùng

sự đa dạng phong cách, khác biệt đề tài, nội dung phong phú của các họa sĩ trong số

gần 2.000 hội viên Hội MTVN (Số liệu năm 2017) và hơn 1.000 họa sĩ mới là sinh

viên được đào tạo kiến thức về mỹ thuật ra trường hằng năm [Xem thêm: Phục lục 9,

tr.226]. Cùng với sự bùng nổ về số lượng các cuộc thi, triển lãm ở gallery, các phòng

trưng bày kết hợp với hiệu ứng lan tỏa trên phương tiện truyền thông, trên những

trang website của hạ tầng số rồi đến các nhà đấu giá, chợ nghệ thuật đã làm thành

một diện mạo mới vô cùng năng động của nền hội họa Việt Nam, cũng như thị

trường của nó. Mặc dù, số liệu doanh thu từ các hoạt động thị trường hội họa tại Việt

Nam chưa thống kê chính thức được, nhưng NCS đã điều tra, phân tích tổng hợp dựa

trên thực tế kết quả khảo sát về việc bán tranh của 50 họa sĩ hoạt động chuyên nghiệp

và 10 gallery, phòng tranh đang còn hoạt động ở ba trung tâm lớn của MTVN là Hà

Nội, Huế và Tp.HCM cho thấy, trong quãng thời gian 10 năm trở lại đây, thị trường

tác phẩm hội họa nội địa đã luôn có tăng trưởng tích cực tuy không đồng đều hằng

năm. Vì vậy, khi cơ quan QLNN xây dựng được những chính sách tốt, có giải pháp

thiết thực, phù hợp và đáp ứng được vai trò “định hướng thị trường”, phù hợp với

thông lệ quốc tế sẽ làm thay đổi phương thức vận hành, lành mạnh hóa hoạt động

mua bán, điều đó sẽ thúc đẩy phát triển thị trường tác phẩm hội họa mạnh mẽ, trở

31

thành một trong những trụ cột quan trọng để thực hiện Chiến lược CNVH, quảng bá

hình ảnh đất nước, đóng góp hiệu quả vào nền kinh tế xã hội.

1.2.2.2. Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam ở ngoài nước

Văn hóa Việt Nam phong phú, thống nhất nhưng đa dạng, bên cạnh những

đặc trưng riêng mang tính bản thể, của khu vực Đông Nam Á còn chứa đựng nhiều

yếu tố từ sự giao thoa, tiếp biến bởi nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới như Trung

Hoa, Ấn Độ, phương Tây trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Vì vậy, hội họa

cũng sớm đến Việt Nam khi ở vào vị trí là một phần của thực thể nghệ thuật tạo

hình phương Đông, rồi phương Tây. Từ đó, hội họa Việt Nam hình thành trên cơ sở

tiếp thu và nhanh chóng hòa nhập, một phần do các họa sĩ quốc nội tự tạo nhưng

đồng thời cũng mang không ít những yếu tố sáng tạo trên nền tảng nghệ thuật đến

từ bên ngoài lãnh thổ. Ban đầu, tác phẩm hội họa luôn được sở hữu bởi một số

người có quyền lực và giàu có, rồi sau đó mới dần lan tỏa tới các thành phần và nhu

cầu khác trong xã hội. Tác phẩm hội họa Việt Nam xuất hiện, tham gia vào các hình

thái hoạt động khác nhau của đời sống, trong đó có việc trưng bày, trao đổi, đặt

hàng và giao lưu từ nhiều thế kỷ trước tương tự như ở xã hội hiện đại ngày nay, mặc

dù, còn ở mức sơ khai và chưa có được những điều kiện thuận lợi để phổ biến trong

xã hội. Trong những công trình biên soạn lịch sử của dân tộc, việc ghi chép về nội

dung này chưa được phong phú và chi tiết nhưng cũng dần trở nên sáng tỏ khi

những họa phẩm cổ như “Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ” phát lộ. Nhiều chợ - thị ở

ngoài thành, cảng thị ở trong nước bên cạnh những trao đổi, buôn bán hàng hóa phổ

dụng, việc bán tranh đã sớm được hình thành và song tồn với những hoạt động

thương mại khác, mang những nét cơ bản khá tương đồng như hoạt động của thị

trường tranh hay chợ tranh ngày nay. Tuy chưa có sự tham dự một cách độc lập,

nhưng tranh vẽ đã sớm có giao dịch ở chợ và cùng sự chắp cánh bay xa của những

sản phẩm tinh xảo khác mà vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia bởi các nhu

cầu giao thương. Điều đó thực tế đã diễn ra, không phải chỉ đến khi xuất hiện các

họa sĩ mỹ thuật cận đại và các gallery trên giấy với hoạt động đơn thuần dưới dạng

bài viết như Trịnh Cung đề cập tới trong cuốn sách Mỹ thuật Việt Nam những vấn

đề xoay quanh [23], khi đó mới có thị trường tranh ở Việt Nam. Việc tham dự trưng

bày tranh, tượng trong các cuộc đấu xảo (Exposition) - cuộc thi và trưng bày triển

lãm của các họa sĩ MTĐD có yếu tố nước ngoài những năm đầu thế kỷ XX cùng với

32

các hoạt động mỹ thuật tương tự khác, chính là hoạt động xúc tiến thương mại

xuyên quốc gia đối với tác phẩm MTVN hiện đại nhìn dưới góc độ thị trường.

Tranh ở vai trò là sản phẩm văn hóa nghệ thuật tham gia mạnh mẽ vào hoạt động

thương mại nội địa và xuyên biên giới đã được ghi nhận ở những năm đầu thế kỷ

XX, thời các họa sĩ MTĐD, như họa sĩ Lương Xuân Nhị cho biết: “Tranh của tôi

thường bán được, lần triển lãm nào ít ra tôi cũng bán được một bức tranh, có khi

mang đi triển lãm bao nhiêu tranh rồi về tay không. Khoảng thời gian này năm thứ

hai (1933 - 1934)” [14, tr.557]. Việc bán tranh đã trở thành hoạt động giao thương

đem lại nguồn thu nhập không nhỏ và trở nên khá phổ biến đối với các họa sĩ

MTĐD, từ hoạt động đó đã tạo nên một thị trường tranh thu hút được sự quan tâm

của công chúng. Điều này, đã được nhắc đến trong khá nhiều công trình nghiên cứu

về lịch sử MTVN, trong cuốn sách Trường Mỹ thuật Đông Dương lịch sử và nghệ

thuật của Quang Phòng - Quang Việt đã trích dẫn bài viết trên tờ L’Avenir du

Tonkin (số ra ngày 25/2/1932) tại Triển lãm Thuộc địa Quốc tế Paris 1931 nói về

giá tiền thu được từ việc bán tranh của các họa sĩ MTĐD như sau: “Những người

tham dự triển lãm đã đạt kết quả đáng kể vì số tiền thu được từ bán tranh lên tới

khoảng 60.000 francs, trong khi chỉ riêng một học sinh, ông Nguyễn Phan Chánh,

đã thu được 20.000 francs từ các bức tranh lụa” [72, tr.8] (giá gạo 1.3 đồng/giạ - 40

listres tương đương với 68kg). Ngoài những hiệu quả thiết thực như kinh tế, giao

lưu, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài, v.v. các hoạt động thị trường còn

đem lại nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào cho các họa sĩ. Vì vậy, những hoạt động

như thế nhanh chóng trở nên sôi động khi các họa sĩ MTĐD đã tham dự khá dầy

đặc các hoạt động mỹ thuật ở nước ngoài nên khi kiểm đếm một cách khái quát chỉ

trong khoảng thời gian hơn 10 năm, từ năm 1930 - 1943, tác giả Trần Khánh

Chương (2012), Mỹ thuật Hà Nội cho biết: “Tác phẩm của các họa sĩ tốt nghiệp

Trường CĐMTĐD tham dự Đấu xảo thuộc địa năm 1931 ở Paris gồm Nguyễn Phan

Chánh, Nam Sơn, Đỗ Đức Thuận, Tô Ngọc Vân, Mai Trung Thứ, v.v. Cũng năm

1931, một số tác phẩm của họa sĩ Việt Nam đã được gửi đi dự Triển lãm tại Roma.

Năm 1932, một số tác phẩm của họa sĩ Việt Nam tiếp tục tham gia đấu xảo thuộc

địa ở Paris (Pháp), v.v. [15, tr.16] và sau đó là các năm 1935, các họa sĩ tham gia

Triển lãm tại Đấu xảo Paris, năm 1937; Triển lãm Mỹ thuật tại San Fracisco (Mỹ);

năm 1943, tại Nhật Bản, v.v.

33

Sau 20 năm, quãng thời gian tồn tại của Trường CĐMTĐD, các hoạt động

thị trường mỹ thuật Việt Nam ở nước ngoài có phần trống vắng. Sự bất ổn định có

nguyên nhân từ các cuộc chiến tranh trên thế giới và ở Việt Nam. Ở miền Bắc, hoạt

động thị trường tranh gần như không còn, nguồn lực xã hội đều dành cho các cuộc

kháng chiến. Ở miền Nam, thị trường mỹ thuật có hoạt động “từ 1967 tới 1973

…Nhiều gallery thương mại ra đời, nhiều triển lãm nhóm và cá nhân được trưng

bày. Tác phẩm chủ yếu bán cho người nước ngoài, v.v.” [78, tr.79]. Đến khi hòa

bình được lập lại, cuộc cải cách công thương nghiệp tư doanh bắt đầu trong cả

nước. Kinh tế tư nhân dần xóa bỏ nên hoạt động thị trường MTVN lại rơi vào

khoảng trống, việc bán tranh ra nước ngoài rất ít, ngoại trừ việc trưng bày giao lưu

và làm quà tặng hoặc trao đổi không công khai trong Khối các nước XHCN (bản

chính bức tranh sơn mài Tình quân dân (1949) của họa sĩ Sĩ Ngọc là ví dụ). Việc

bán tác phẩm nếu có, chỉ diễn ra ở những tư gia với khách hàng là các nhà ngoại

giao nhờ sự quen biết cá nhân (ông Petro Paris, Phó Đại sứ Italia tại Hà Nội với bộ

sưu tập tranh các họa sĩ MTĐD của ông là một ví dụ điển hình). Trong giai đoạn

này khá nhiều tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao của hội họa Việt Nam đã được bán

không công khai ra nước ngoài (ví dụ, tác phẩm Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc

Vân trong bộ sưu tập của Đức Minh). Điều đó cũng tương tự như Trung Quốc, khi

“tất cả những tác phẩm Trung Quốc đẹp nhất đã nằm trong các sưu tập hay các bảo

tàng ở London, Tokyo, Paris và nhất ở là Mỹ” [72, tr.28].

Sau Đổi Mới, thị trường mỹ thuật hay chính xác hơn là thị trường tranh ở

Việt Nam đã thực sự bùng nổ, đặc biệt từ khi có sự xuất hiện trở lại của các gallery.

Các hoạt động triển lãm, trưng bày giới thiệu, mua bán trở nên sôi động hơn bất cứ

khi nào và thị trường này đã ngày càng thêm đổi thay. Không chỉ tăng về diện mà

đã đổi cả về chất, khi một lần nữa có sự tham gia khá đông đảo của các gallery có

hoạt động khác với hình thức truyền thống, đó là gallery trực tuyến (gallery online),

nhà đấu giá, chợ nghệ thuật. Điều đó minh chứng cho việc cung cầu về tranh - tác

phẩm hội họa Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhiều tác phẩm hội họa của

các họa sĩ Việt Nam trở thành hàng hóa văn hóa có trong nhu cầu sở hữu được

nhiều người tìm mua. Thu nhập tăng lên, đời sống vật chất, tinh thần công chúng đã

thay đổi và được nâng cao. Trưng bày, trang trí từ nhà riêng cho tới các công trình

công sở công cộng của Nhà nước đã đưa tác phẩm nghệ thuật vào những hạng mục

34

trang bị thiết yếu của công trình. Trong cuốn Hội Mỹ thuật 60 năm xây dựng và

phát triển (Trần Khánh Chương biên soạn, 2017) viết: “Lần đầu tiên trong việc xây

dựng công sở, mỹ thuật được quan tâm đầu tư ngay từ đầu đó là trường hợp tranh

tượng cho nhà Quốc hội. Được biết, hiện nay Văn phòng mới của Chính phủ đang

xây dựng và cũng bắt đầu quan tâm đưa tác phẩm mỹ thuật vào trang trí nội thất.

Đây là một tín hiệu vui” [15, tr.190] làm cho việc mua tranh lan tỏa trở thành nhu

cầu trong công chúng (ví dụ, các căn hộ chung cư mẫu trong thời gian qua đều có

tranh để trưng bầy và trang trí như một phần tất yếu), họa sĩ có thêm động lực sáng

tác. Họa sĩ bán được nhiều tranh hơn, giá cả cùng giá trị tranh cũng dần tăng lên,

khiến thị trường nội địa phát triển tác động tới thị trường tranh ở ngoài nước trở nên

sôi động hơn. Thể hiện ở việc, các nhà đấu giá lớn trên thị trường nghệ thuật quốc

tế như Sotheby’s, Christie’s, Larasati, v.v. thường xuyên có tác phẩm hội họa của

các họa sĩ Việt Nam trong những phiên đấu giá thời gian qua. Hòa vào xu thế đi lên

về giá tranh của thị trường mỹ thuật Đông Nam Á và châu Á, trong đó có Việt Nam

đã làm xuất hiện tên của nhiều họa sĩ hiện đại của chúng ta ở thị trường công khai ở

khu vực này lọt vào danh sách họa sĩ có giá bán tác phẩm vượt ngưỡng 1 triệu USD.

Sau một thời gian, tranh của họa sĩ Việt Nam như Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc

Vân tiến sát mốc giá trị ấy, tháng 4/2017 tranh lụa Cuộc sống gia đình (Family life,

khoảng 1937-1939) của họa sĩ Lê Phổ, Việt Nam cũng đã vượt qua với giá 1,172

triệu USD. Cũng tại thị trường đó, hai năm sau, vẫn là tranh của Lê Phổ, tháng

5/2019, Bức tranh sơn dầu Khỏa thân (Nude, 1931) được bán với giá 1,4 triệu USD

[152]. Tháng 10/2020 tranh Thiếu nữ bên hoa mẫu đơn (Jeune fille aux pivoines,

khoảng 1940 -1945) của Lê Phổ được bán với giá hơn 1,164 triệu Euro. Những thay

đổi tích cực về giá trị tác phẩm ấy đã phản ánh một cách khách quan tốt đẹp về tiềm

năng thị trường tranh Việt Nam ở ngoài nước. Hiện nay, có không ít tác phẩm hội

họa Việt Nam tham gia vào hoạt động mỹ thuật ở một số thị trường thứ cấp lớn,

trong các cuộc đấu giá quốc tế, các chợ nghệ thuật với giá trị thương mại lớn, đồng

thời giữ những vị trí khá quan trọng trên bản đồ hội họa khu vực và thế giới, góp

phần không nhỏ vào việc quảng bá hình ảnh Việt Nam ra quốc tế.

Như vậy, qua phân tích trên, có thể thấy nếu chỉ tính riêng tác phẩm hội họa

Việt Nam hiện đại, kể từ khi dứt mạch với truyền thống trong quá khứ, được nhận

thức và định vị là sản phẩm nghệ thuật sáng tạo đến nay đã trải qua thời gian hơn một

35

thế kỷ. Tác giả, người sáng tạo từ những người nghệ nhân vô danh thuở nào, tới nay

đã có những họa sĩ lừng danh được công chúng trong và ngoài nước biết đến. Từ khi

các họa sĩ MTĐD thuở đầu tham góp từng bức tranh vào hoạt động thị trường thông

qua các đấu xảo, tới nay đã có hàng chục nghìn tác phẩm hội họa của các họa sĩ Việt

Nam tham dự trong các hoạt động triển lãm, các lô đấu giá, các cuộc mua bán tại các

gallery, phòng tranh, chợ nghệ thuật, v.v. ở trong nước và nước ngoài. Ngày nay, 35

năm sau Đổi Mới, tác phẩm hội họa nói riêng, MTVN nói chung thực sự có nhiều

biến chuyển với những thăng hoa bởi một đội ngũ họa sĩ đông đảo. Khá nhiều tài

năng đã tỏa sáng khi thị trường hoạt động sôi nổi và bùng nổ đóng góp hiệu quả trên

nhiều lĩnh vực trong công cuộc dựng xây, phát triển kinh tế đất nước, nâng cao chất

lượng của đời sống xã hội. Những tác phẩm hội họa của các họa sĩ MTĐD ngày càng

tiếp tục khẳng định uy tín và vị thế khi đem đến cho công chúng những người yêu

thích mỹ thuật Việt Nam những giá trị mới trong sự nghiệp CNVH của thế giới.

1.3. Cơ sở lý luận

1.3.1. Lý thuyết “Quan hệ văn hóa và kinh tế”

1.3.1.1. Khái niệm văn hóa và kinh tế

* Văn hóa

Khi nói khái niệm về kinh tế, người ta có thể hiểu và xác định được ngay là

nói đến vấn đề lợi ích và sở hữu, với những yếu tố cơ bản như các hoạt động sản

xuất và các mối quan hệ sản xuất như phân phối, lưu thông, tiêu dùng, v.v. để thoả

mãn các nhu cầu. Nhưng khi nói tới khái niệm về văn hóa là vấn đề thực sự khó, bởi

“nếu có ai đó bất chợt hỏi văn hóa là gì thì không ít người trong chúng ta không

khỏi lúng túng ngỡ ngàng” [56, tr.7]. Vì văn hóa là một thuật ngữ rất khó để xác

định một khái niệm chính xác và cụ thể nên đến nay, trên thế giới xuất hiện và tồn

tại hàng trăm khái niệm về văn hóa. Khái niệm riêng về văn hóa đã rất khó xác định

cụ thể như vậy thì khái niệm về quan hệ văn hóa và kinh tế cũng sẽ không thể dễ

dàng được xác định được nội hàm. Trong khi đó, thuộc lĩnh vực văn hóa nhưng khái

niệm về tác phẩm hội hoạ, thị trường tác phẩm hội họa là những thuật ngữ còn chưa

có trong từ điển, thậm chí là từ điển thuật ngữ chuyên ngành ở Việt Nam. Luận án

nghiên cứu trên cơ sở từ những tài liệu chuyên ngành, những quy định văn bản quy

phạm pháp luật về lĩnh vực có liên quan và ghi chép từ những trải nghiệm thực tế

nghề nghiệp, đồng thời sử dụng các nghiên cứu tổng hợp để làm rõ thêm một số nét

36

tổng quan cơ bản về các vấn đề nghiên cứu, từ đó thực hiện việc nghiên cứu sâu hơn

để tìm ra những giải pháp khắc phục những tồn tại hạn chế góp phần phát triển của

thị trường tác phẩm hội hoạ Việt Nam hiện đại.

Khái niệm về văn hóa: Theo nhiều nhà nghiên cứu, văn hóa là một khái niệm

mang nội hàm rộng, đa nghĩa đa tầng với nhiều cách hiểu khác nhau liên quan đa

diện, đa lĩnh vực trong đời sống vật chất, tinh thần của con người. Raymond

Williams mô tả, “văn hóa là một trong hai hoặc ba từ phức tạp nhất trong ngôn ngữ

tiếng Anh”. Trong cuốn sách Những giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam, khi nói

khái niệm về văn hóa, Ngô Đức Thịnh chủ biên cho rằng: “Văn hóa là một khái

niệm đa nghĩa, đa tầng, do vậy mỗi người, từ các góc độ chuyên môn riêng hay do

những mục đích nhận thức khác nhau mà có những quan niệm hay định nghĩa khác

nhau về văn hóa. E.B. Taylor trong công trình Primitive Culture (1871) lần đầu tiên

đưa ra khái niệm văn hóa và từ đó đến nay đã có hàng trăm định nghĩa văn hóa ra

đời” [89, tr.18].

* Kinh tế

Đại từ điển Kinh tế thị trường do Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách

khoa xuất bản năm 1998, nêu khái niệm văn hóa được hiểu theo 3 mặt như sau [80,

tr.1281]:

Một là, chỉ tổng hòa các tài sản vật chất và tài sản tinh thần mà xã hội loài

người sáng tạo và tích lũy trong quá trình thực tiễn lâu dài.

Hai là, chỉ hình thái ý thức cùng chế độ và cơ cấu tổ chức thích ứng với nó.

Ba là, chỉ văn học nghệ thuật. Cụ thể đi vào lĩnh vực nghiên cứu kinh tế, văn

hóa và thị trường văn hóa, chủ yếu nghiên cứu văn học nghệ thuật, sách báo, chế

phẩm, âm thanh, hình ảnh, vui chơi văn hóa, văn vật, văn nghệ quần chúng, v.v. kể

cả thuộc tính hữu quan tổ chức nên những mặt văn hóa này.

- Khái niệm về kinh tế: Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên

nêu khái niệm về kinh tế (tiếng Anh: Economics) là danh từ có nghĩa tổng hợp

những quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của một hình thành kinh tế -

xã hội và là hoạt động để tạo ra cơ sở vật chất cho con người và xã hội; Khi là tính

từ mang ý nghĩa có liên quan tới lợi ích vật chất. Nói đến kinh tế suy cho cùng là

nói đến sở hữu và lợi ích. Tuy nhiên, khái niệm về kinh tế cũng có sự thay đổi theo

lịch sử các hoạt động về kinh tế.

37

Trong cuốn sách Quan hệ giữa xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế ở

nước ta hiện nay, Mai Hải Oanh (2011) đưa ra khái niệm về kinh tế như sau: “Kinh

tế là tổng thể (hoặc một bộ phận) các yếu tố sản xuất, các điều kiện vật chất của đời

sống con người và các mối quan hệ vật chất giữa con người với con người trong quá

trình sản xuất và tái sản xuất xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định mà mấu chốt

là vấn đề sở hữu và vấn đề lợi ích” [69. tr.7].

1.3.1.2. Quan hệ văn hóa và kinh tế

Quan hệ văn hóa và kinh tế trong thời đại hiện nay là một trong những vấn

đề không chỉ nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu khoa học mà còn thu hút

nhiều nhà quản lý trong việc nghiên cứu và hoạch định chính sách. Nói đến quan hệ

văn hóa và kinh tế ở góc độ nghiên cứu khoa học là nói về hiện tượng kinh tế sản

xuất, lưu thông, tiêu dùng văn hóa nghệ thuật và quy luật phát triển của văn hóa

dưới nhãn quan kinh tế. Điều đó có nghĩa là nói đến quan hệ sản xuất trong quá

trình hoạt động văn hóa và quy luật phát triển của văn hóa trong môi trường kinh tế.

Theo lý thuyết kinh tế, “người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ là người bỏ tiền

ra để mua hàng hóa” [50, tr.142]. Người tiêu dùng chính là công chúng – người tiếp

nhận và hàng hóa chính là tác phẩm nghệ thuật. Công chúng luôn là người quyết

định tới việc mua hay không mua tác phẩm nghệ thuật có nghĩa là công chúng chính

là đối tượng quyết định thị trường.

Trên thế giới, khái niệm về văn hóa là khá đa dạng, không là đồng nhất,

không là bất biến mà là một hiện tượng không ngừng phát triển, chuyển dịch, đa

dạng, đa diện. Do đa nghĩa, đa tầng nên trong từng hoàn cảnh, môi trường xã hội cụ

thể lại có cách nhìn nhận khác nhau. Để xác định nội hàm một cách cụ thể của quan

hệ văn hóa và kinh tế không thể không xác định phương diện để xem xét, nhưng

nếu xét trên một khía cạnh cụ thể cũng rất dễ dẫn đến sai lầm từ sự chủ quan vội vã

hay phiến diện và cứng nhắc. Bởi, văn hóa và kinh tế là hai lĩnh vực có bản chất

khác nhau. Mỗi lĩnh vực lại có nội hàm, khái niệm riêng và luôn tác động qua lại

lẫn nhau trong quá trình phát triển. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất văn hóa với

quan hệ sản xuất và xác định được bản chất của quan hệ sản xuất văn hóa là vấn đề

lớn dễ dẫn đến sai lầm. Vì văn hóa và các hoạt động văn hóa, khó có thể tập hợp

được các yếu tố đầy đủ khi xác định trên nhãn quan của cơ sở hàng hóa và dịch vụ

văn hóa mặc dù đã được coi là hàng hóa, sản phẩm hàng hóa đặc thù sử dụng cho

38

mục đích phân tích kinh tế. Đã có khá nhiều tranh luận giữa các nhà kinh tế, văn

hóa về việc liệu có tồn tại một loại hàng hóa được định danh là “hàng hóa văn hóa”

với các tiêu chí cơ bản, cụ thể để có thể phân biệt được với “hàng hóa thương mại

phổ thông” hay không. Vì các tiêu chí đó có thể được coi là cơ sở hữu dụng đầu tiên

để phân định được những khác biệt giữa “hàng hóa văn hóa” và “hàng hóa thương

mại phổ thông”, từ đó tìm ra một khái niệm khoa học chính xác nhất cho các mục

đích hoạt động khác nhau tiếp theo.

Khi nói về quan hệ văn hóa và kinh tế, không ít người cho rằng văn hóa là

kết quả, là sự ánh xạ của trình độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế có thể

khẳng định, kinh tế chưa khi nào là nền móng cho sự phát triển văn hóa. Kinh tế, cơ

sở vật chất chỉ là yếu tố bổ sung, hỗ trợ giúp người ta nhận biết và hiểu hơn các giá

trị văn hóa. Trong cuốn sách Kinh tế và văn hóa (Economics and Culture), David

Throsby cho rằng: Cần khẳng định, kinh tế với tư cách là một nỗ lực trí tuệ, không

thể không gắn với văn hóa. Bởi trước hết, bản thân khoa học kinh tế là một tập hợp

các nền văn hóa hoặc nhóm văn hóa riêng biệt, với những niềm tin và thực tiễn khác

nhau. Kinh tế cũng có những trường phái tư tưởng khác nhau, bị tác động bởi các

thể chế nhưng luôn có sự giao thoa lẫn nhau, tương tự như tiến trình phát triển văn

hóa [124, tr.8].

Tính chính xác được xác định là thuộc tính cơ bản của kinh tế học hiện đại,

tính trừu tượng không xuất hiện trong các lý thuyết, phân tích toán học và phương

pháp khoa học không bị chi phối bởi những môi trường văn hóa khác nhau. Điều đó

cho thấy rằng kinh tế học với tư cách là một ngành học không chịu tác động của bối

cảnh văn hóa, mà vận hành trong một thế giới không bị điều kiện hóa, cũng không

bị điều kiện hóa bởi bất kỳ hiện tượng văn hóa nào. Bên cạnh đó, khi xét bối cảnh

văn hóa của kinh tế với vai trò là một hệ thống tư tưởng, nó không chỉ liên quan đến

điều kiện thực tế của những người theo trường phái đó, mà còn liên quan đến

phương pháp luận diễn ngôn. Việc lập luận, thuyết phục và các quá trình khác diễn

ra trong các cuộc trò chuyện giữa các nhà kinh tế hoặc giữa các nhà kinh tế và

những người khác có ý nghĩa văn hóa rất rõ ràng. Quá trình tạo ra các ý tưởng kinh

tế, trao đổi, thẩm định và truyền đạt luôn được đưa ra phân tích kỹ lưỡng. Đổi lại,

khi xem xét bối cảnh văn hóa của kinh tế như một hệ thống tổ chức xã hội, chúng ta

dễ dàng nhận thấy các cá thể kinh tế cũng sống, thở và đưa ra quyết định trong một

39

môi trường văn hóa. Vì thế, văn hóa luôn có ảnh hưởng nhất định đến việc hình

thành và điều chỉnh hành vi của các cá thể này.

Ngoài ra, không thể phủ nhận vai trò của văn hóa trong lịch sử các nền kinh

tế. Ở đó, các điều kiện văn hóa, nền tảng mà những hoạt động kinh tế diễn ra, có sự

gắn kết trực tiếp với những sản phẩm đầu ra của kinh tế. Mặc dù, văn hóa với chức

năng là kinh tế có hoàn cảnh riêng. Các mối quan hệ và quá trình văn hóa cũng có

thể được coi là tồn tại trong môi trường kinh tế và bản thân chúng có thể được hiểu

theo nghĩa kinh tế. Thứ nhất, nếu văn hóa có thể được coi là một hệ thống các niềm

tin, giá trị, phong tục, v.v. được chia sẻ bởi một nhóm người, thì các tương tác văn

hóa giữa các thành viên trong nhóm hoặc giữa họ với các thành viên của các nhóm

khác có thể được mô hình hóa như các giao dịch hay trao đổi hàng hóa trong khuôn

khổ kinh tế. Dưới con mắt của các nhà nhân học đối với xã hội nguyên thủy, các

khái niệm về thị trường, trao đổi giá trị, tiền tệ và những hiện tượng tương tự như

vậy có thể được xem xét theo hàm ý văn hóa. Nếu xem xét văn hóa dưới hàm ý

nghĩa chức năng, ta có thể một lần nữa khẳng định khái niệm văn hóa là kinh tế và

việc diễn giải văn hóa cũng nằm trong khuôn khổ kinh tế. Biểu hiện rõ ràng nhất

chính là việc sản xuất và tiêu dùng văn hóa có thể được đặt trong khuôn khổ công

nghiệp, đồng thời hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng có thể được coi là

hàng hóa theo cách tương tự như bất kỳ hàng hóa nào khác được sản xuất trong hệ

thống nền kinh tế. Thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” được Max Horkheimer và

Theodor Adorno của Trường Frankfurt đưa ra vào năm 1947 khi nói đến hàng hóa

trong văn hóa đại chúng. Họ cho rằng văn hóa đang bị biến đổi bởi công nghệ và hệ

tư tưởng của chủ nghĩa tư bản độc quyền; đối với họ, việc diễn giải văn hóa theo

hướng kinh tế là một cách biểu đạt của thảm họa. David Throsby cho rằng, không

thể tách lĩnh vực kinh tế hoặc sản xuất khỏi lĩnh vực tư tưởng hoặc văn hóa, vì các

sản phẩm văn hóa, hình ảnh, biểu tượng, thậm chí cả ý tưởng và cấu trúc thấu thị đã

trở thành một phần của thế giới kinh tế. Khi mô hình tiêu chuẩn của một nền kinh tế

bao gồm những người tiêu dùng cá nhân tư lợi tìm cách tối đa hóa lợi ích của họ và

những người sản xuất tư lợi tìm cách tối đa hóa lợi nhuận của họ. Tuy nhiên, trên

thực tế những hoạt động kinh tế tập thể vẫn có thể diễn ra. Nếu thị trường suy thoái

hoặc không tồn tại, có thể cần phải có hành động tự nguyện của cộng đồng hoặc bắt

buộc để đạt được các kết quả xã hội tối ưu. Những hành vi đó phản ánh tính tập thể,

40

khác biệt với các mục tiêu chủ nghĩa cá nhân, và xuất phát từ bản chất của văn hóa

là thể hiện niềm tin, nguyện vọng và sự đồng nhất ý chí của một tập thể. Những

mong muốn có thể được hàm chứa trong các sản phẩm của các loại hoạt động nghệ

thuật, có thể lấy sản phẩm nghệ thuật làm thí dụ minh họa. Nhiều sản phẩm nghệ

thuật được thực hiện bởi nhóm sáng tạo, là kết quả từ nỗ lực tập thể của nhiều người

tham gia thường thì những sản phẩm loại, dạng này thường được xác định giá trị

lớn hơn nhiều lần so với giá trị của tổng cộng các thành viên. Có thể nói, bất kể sản

phẩm nghệ thuật nào được sáng tạo ra, quá trình sáng tạo và tiêu thụ chúng không

chỉ được xem như là một hoạt động sản xuất, kinh doanh cá nhân, mà còn là sự thể

hiện ý chí của một tập thể vượt lên trên ý chí của từng cá nhân tham gia.

Phát triển kinh tế từ các sản phẩm văn hóa là một xu hướng kinh tế mới được

nhiều quốc gia nghiên cứu phát triển. “K-Pop” của Hàn Quốc là một ví dụ điển

hình. Kinh tế văn hóa tập trung vào sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm văn hóa mà

phần lớn là sản phẩm nghệ thuật được nhận thức dưới góc độ như các hoạt động

kinh tế thuần túy khác. Gốc rễ của lĩnh vực kinh tế văn hóa đã được thấm sâu vào

nội hàm của ngành kinh tế học và hiện nay nó còn được đề cao, coi trọng, xác định

là nền tảng vững bền cho của các quốc gia, dân tộc và là một lĩnh vực chuyên ngành

được công nhận chính thức và mang đặc thù riêng trong kinh tế học. Các ngành

CNVH được diễn giải bằng cách sử dụng các phương pháp phân tích kinh tế thông

thường nhưng luôn cần có một số vận dụng điều chỉnh phù hợp một cách sáng tạo

để giải thích các đặc thù của cung và cầu với đối tượng hàng hóa là sản phẩm văn

hóa nghệ thuật, NCS sẽ làm rõ hơn ở phần sau. Theo David Throsby, công việc

sáng tạo của người họa sĩ được hiểu là diễn ra trong một thị trường lao động mà

hoạt động sáng tạo của họ có thể được phân tích bằng cách sử dụng các khái niệm

quen thuộc với các nhà kinh tế như phương trình lao động và hàm thu nhập, nhưng

những dự đoán về hành vi của họ có thể không theo nguyên tắc này vì những tính

chất đặc thù của nghệ sĩ không hoàn toàn được xem như tầng lớp lao động phổ

thông hay giai cấp công nhân. Khi nhìn kinh tế văn hóa theo cách giản đơn, các

ngành CNVH có thể dễ dàng được tích hợp vào một mô hình kinh tế rộng lớn hơn,

chẳng hạn như mô hình đầu vào - đầu ra, nơi các mối quan hệ giữa văn hóa và các

ngành công nghiệp khác có thể được xác định. Việc phổ biến hóa văn hóa liên quan

đến cách tiếp cận này không làm mờ đi các bản chất khác của quy trình sáng tạo các

41

sản phẩm văn hóa, bao gồm cả quan điểm cho rằng nghệ thuật chỉ có thể được hợp

lý hóa bằng các thuật ngữ tự quy chiếu [124].

Tuy nhiên, trên thực tế có những lý thuyết, quan điểm nghiên cứu giữ nguyên

được giá trị của mình ở một mức độ nào đó nhưng lại không giữ nguyên giá trị của

mình ở một mức độ khác. Vì thế, khi áp dụng lý thuyết, quan điểm nghiên cứu vào

điều kiện Việt Nam, chúng ta luôn cần đánh giá mức độ phù hợp của lý thuyết hay

các quan điểm đó.

Ở Việt Nam, trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa - Đề cương Văn

hóa Việt Nam, Đảng ta đã xác định “quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền

tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng nên nền tảng ấy quyết định toàn

bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc)” [33,

tr.316]. Báo Cứu quốc, số 186, ngày 5/1/1952 có đăng thư của Bác Hồ gửi các anh

chị em họa sĩ hay nghệ sĩ tạo hình nhân dịp Triển lãm Hội họa năm 1951, trong đó

có đoạn viết: “Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng

ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. Một lần nữa cho chúng ta thấy rằng,

văn hóa có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, là sức

mạnh nội sinh của sự phát triển. Văn hóa nghệ thuật trở thành sức mạnh nội sinh “ở

trong kinh tế và chính trị”, đó là một yếu tố, nội dung mang tính bản chất của kinh

tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái. Văn hóa nghệ thuật không thể nhìn

nhận chỉ như những yếu tố “ở bên ngoài hay ở bên cạnh” một cách mờ nhạt để tác

động qua lại với kinh tế, chính trị, xã hội, mặc dù văn hóa nghệ thuật được nhìn

nhận có tính độc lập tương đối với các lĩnh vực này. Tiếp thu tinh thần từ các Nghị

quyết Hội nghị Trung ương của Đảng những khóa trước, đặc biệt từ Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết số 33-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 9,

khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu

phát triển bền vững đất nước lại được tiếp tục làm rõ và nhấn mạnh về quan điểm:

“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực phát triển bền

vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.

Xác định được vai trò quan trọng của văn hóa nên tại Nghị quyết sử dụng cụm từ

“phải được đặt ngang hàng” với kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó động từ “phải” là

động từ ở dạng mệnh lệnh cách chỉ sự bắt buộc, không thể khác.

42

Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình đất nước, việc kết

hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa các hoạt động văn hóa nghệ thuật với đáp ứng yêu

cầu của hội nhập quốc tế với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa và kinh tế tri thức hài hòa với các yếu tố xã hội, chính trị là những điều kiện

mang tính chất quyết định. Từ những quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển

nêu trên cho thấy rằng, quan điểm sản phẩm văn hóa được coi là hàng hóa trở nên

dung hòa hơn và khi đó, thị trường của sản phẩm văn hóa cũng chịu những ảnh

hưởng, tác động của kinh tế không còn là điều dị biệt. Mặc dù, quan điểm coi sản

phẩm văn hóa là sản phẩm hàng hóa không phải chỉ mới hình thành ít năm trở lại

đây mà đã có từ khi chưa độc lập như đã nêu ở trên, nhưng để triển khai và có

những hành động cụ thể thì phải đến sau khi Đổi Mới. Tuy nhiên, cho tới ngày nay,

quan hệ xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế chưa thực sự phát huy tốt được hiệu

quả. Bởi từ tư duy tới hành động vẫn còn có nhiều cản trở, ràng buộc từ nhiều yếu

tố khách quan và chủ quan như một phần vướng ở nhận thức, luật pháp với những

chính sách chưa theo kịp những đổi thay của xã hội; đối tượng tác động, bị tác động

đôi khi là nhân tố chưa thể cân đối và hài hòa được về mặt lợi ích; sản phẩm văn

hóa không phải là thương phẩm phổ thông có quy trình sản xuất dễ dàng thành

phẩm và nhân bản tức khắc về số lượng để áp dụng cho việc xây dựng nền CNVH.

Tuy nhiên, nhìn sản phẩm văn hóa ở giác độ kinh tế thì rõ ràng sản phẩm văn hóa

cũng chỉ là một loại hàng hóa, nhưng từ quan điểm coi sản phẩm văn hóa cũng là

một loại hàng hóa đã đơn giản hóa về khái niệm sẽ làm cho công tác quản lý trở nên

dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế ở lĩnh vực văn hóa tốt hơn,

điều đó rất phổ biến ở các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Khi sản phẩm văn hóa

là một loại hàng hóa, người ta sẽ hình thành nên một ngành CNVH và vận hành nó

giống như các ngành công nghiệp khác, tức là phải có công thức, phải tuân theo quy

luật của kinh tế, lợi nhuận là tiêu chí số một, v.v. Người ta coi mục đích căn bản của

thương phẩm văn hóa là để tăng trưởng giá trị. Sản phẩm văn hóa có giá trị thị

trường, giá trị kinh doanh kiếm lời lớn bao nhiêu thì đó chính là nhân tố quyết định

có được đầu tư hay không. Khi người ta coi văn hóa là hàng hóa, họ sẽ hình thành

các chính sách văn hóa tương tự như các trường hợp hàng hóa thông thường khác,

khi đó, sự có mặt của Bộ chủ quản về văn hóa hay không sẽ không trở nên đặc biệt

quan trọng (Mỹ, Đức, Canada, Brazil, v.v.) do văn hóa được điều tiết thông qua thị

43

trường và các luật thuế. Chính phủ theo quan điểm này cho rằng, việc điều tiết các

luật thuế sẽ giúp cho các doanh nghiệp văn hóa đầu tư nhiều hơn cho văn hóa nếu

thuế suất có lợi cho họ kinh doanh trong lĩnh vực này; giúp người sáng tạo bằng

cách trả cho họ xứng đáng với những gì mà họ được hưởng thông qua khả năng của

họ trên thị trường và khi Nhà nước thực thi nghiêm túc Luật Sở hữu trí tuệ; và giúp

cho người dân hưởng thụ văn hóa nhiều hơn khi các sản phẩm văn hóa phù hợp với

túi tiền của họ. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Tình (2009) Chính sách văn hóa trên thế

giới và việc hoàn thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam cho rằng: “Dù sản phẩm văn

hóa là một loại hàng hóa, nhưng phải coi nó như một loại hàng hóa đặc biệt, mang

tính định hướng chính trị, tư tưởng, văn hóa – xã hội” [96, tr.50]. Theo NCS, đây là

quan điểm về văn hóa mang những đặc thù riêng của những quốc gia có thể chế

chính trị tương tự như Việt Nam.

Đó thực sự là những nội dung cần nghiên cứu và làm rõ trong mối quan hệ

giữa mỹ thuật với kinh tế hay nghệ thuật với tiền bạc, Theo NCS, vai trò điều tiết

hài hòa mối quan hệ ấy để phát triển là của cơ quan QLNN. Cơ quan QLNN giữ vai

trò chủ đạo để điều chỉnh những tác động thái quá của kinh tế đối với văn hóa, thúc

đẩy phát triển văn hóa theo hướng tích cực, phù hợp, phát huy những giá trị ưu việt

của văn hóa trong hoạt động thị trường.

1.3.2. Mô hình về diễn biến thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam từ khi

xuất hiện đến trước năm 1986 và sau năm 1986 đến nay

Sơ đồ 1.1. Mô hình diễn biến thị trường tác phẩm hội họa

trước năm 1986 tại Việt Nam

Nguồn: Nghiên cứu của NCS.

44

Sơ đồ 1.2. Mô hình diễn biến thị trường tác phẩm hội họa

từ sau năm 1986 đến nay tại Việt Nam

Mô hình nghiên cứu có tham khảo mô hình vòng tròn đồng tâm ngành công nghiệp

văn hóa của David Throsby (2007, 2008). Nguồn: Nghiên cứu của NCS.

1.3.2.1. Khái niệm về các thành phần chính tạo nên thị trường tác phẩm hội

họa ở Việt Nam

- Họa sĩ - người sáng tạo, cung cấp hàng hóa

+ Khái niệm Họa sĩ: Đại Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên giải

thích từ Họa sĩ là danh từ, người vẽ tranh chuyên nghiệp, có trình độ cao. Họa sĩ

(tiếng Anh: painter) được giải thích như sau trong Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ

thông do Đặng Bích Ngân chủ biên: Họa sĩ là người làm nghề vẽ được đào tạo ở

45

một trường nghệ thuật, hoặc tự học (không theo học ở một trường nào). Họa sĩ nào

làm nghề vẽ là chính được gọi là họa sĩ chuyên nghiệp. Người nào thỉnh thoảng mới

vẽ gọi là họa sĩ nghiệp dư. Trong Luận án, từ họa sĩ có nghĩa là người vẽ tranh hay

người sáng tạo, lực lượng sản xuất, nguồn cung cấp các tác phẩm hội họa - hàng

hóa ra thị trường.

- Trung gian: là tổ chức, cá nhân tham gia làm cầu nối giữa họa sĩ và người

tiêu thụ thành phần có tính chất chuyển tiếp, có vị trí ở khoảng giữa hai đối tượng là

người sản xuất, cung ứng tác phẩm hội họa và người tiêu dùng, người tiếp nhận bao

gồm: người môi giới, giới thiệu, gallery, v.v.

- Người người tiêu dùng, tiếp nhận là công chúng - nhân dân. Công chúng là

người tiếp nhận, thụ hưởng những sáng tạo nghệ thuật, tác phẩm hội họa tạo nên thị

trường. Thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán hay nơi có quan hệ

cung cầu, cầu chính là nhu cầu, nhu cầu là tiêu dùng hàng hóa của các tầng lớp nhân

dân trong xã hội. Thị trường nghệ thuật là nơi giao thương tác phẩm nghệ thuật của

người nghệ sĩ với công chúng. Không có người tiêu thụ sản phẩm nghệ thuật sẽ

không có thị trường nghệ thuật.

Nghệ thuật với công chúng hay người sáng tạo nghệ thuật với người hưởng

thụ nghệ thuật được nhìn nhận như những yếu tố cân bằng, khi chỉ có một vế sáng

tác mà không có đối ứng là thị trường thì nghệ thuật cũng không thể phát triển

được. Trong phỏng vấn nội dung về thị trường mỹ thuật với họa sĩ Trịnh Cung của

Lê Đình Nhất Lang đăng trên diễn đàn nghệ thuật của cộng đồng người Việt ở Mỹ

có tựa đề “Không có nền nghệ thuật nào bay lên chỉ với một cánh!” [138], Trịnh

Cung đề cập đến vai trò quan trọng của một “cánh” còn lại là công chúng. Công

chúng có vai trò quan trọng được ví như một “cánh” trong “đôi cánh” của nghệ

thuật. Quan trọng là vậy, nhưng ở Việt Nam theo những tư liệu ghi chép lại và từ

những công trình nghiên cứu trong giai đoạn đó thường không nhắc nhiều đến các

nhà sưu tầm tranh của Việt Nam giai đoạn nửa đầu đến giữa thế kỷ thứ XX.

Theo lý thuyết kinh tế, “người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ là người

bỏ tiền ra để mua hàng hóa” [50, tr.142]. Người tiêu dùng chính là công chúng,

hàng hóa ở đây chính là tác phẩm hội họa. Công chúng luôn là người quyết định tới

việc mua hay không mua tác phẩm hội họa, có nghĩa là công chúng cũng là đối

tượng quyết định thị trường. Điều đó không chỉ ở Việt Nam mà bất cứ nơi đâu cũng

46

vậy. “Tất cả những tác phẩm Trung Quốc đẹp nhất đã nằm trong các sưu tập hay

các viện bảo tàng ở London, Tokyo, Paris và nhất là ở Mỹ” [72, tr.28]. Khi thị

trường nghệ thuật Trung Quốc trở thành thị trường nghệ thuật lớn nhất thế giới như

ngày nay, doanh thu nghệ thuật chiếm tới 41% của toàn cầu thì những tác phẩm đẹp

nhất của quốc gia này đã thuộc về sở hữu của các quốc gia - công chúng các quốc

gia phát triển trước khác.

1.3.2.2. Các khái niệm về tác phẩm hội họa và thị trường

- Khái niệm Tác phẩm: Đại Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên

giải thích từ Tác phẩm hội họa (danh từ) là công trình do nghệ sĩ, các nhà văn hóa,

khoa học tạo nên.

- Khái niệm Tác phẩm hội họa (tiếng Anh: painting): được giải thích như sau

trong Từ điển thuật ngữ mĩ thuật phổ thông do Đặng Bích Ngân chủ biên: Hội họa

là “Nghệ thuật vẽ dùng màu sắc, hình mảng, đường nét để diễn đạt cảm xúc của

người vẽ trước vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, xã hội. Hội họa là một ngành của

nghệ thuật tạo hình” [62, tr.88]. Điều 3 của Nghị định số 113/2013/NĐ-CP của

Chính phủ quy định về Hoạt động mỹ thuật, giải thích chất liệu của tác phẩm hội

họa bao gồm: tranh sơn mài, sơn dầu, lụa, bột màu, màu nước, giấy dó và các chất

liệu khác. Điểm g) Khoản 1 Điều 14 của Luật SHTT quy định hội họa là một thể

loại của loại hình tác phẩm tạo hình. Khi nói đến hội họa nhiều người sẽ nghĩ và

hiểu đó là hành động thực hiện việc sáng tạo nghệ thuật hay thực hành hoạt động

mỹ thuật - vẽ tranh và khi nói tới tác phẩm hội họa, người ta hiểu là nói tới bức

tranh được vẽ bởi người họa sĩ. Như vậy, tác phẩm hội họa là danh từ chỉ công trình

do họa sĩ sáng tạo nên; là tranh vẽ độc bản; là sản phẩm sáng tạo thuộc lĩnh vực

nghệ thuật tạo hình.

Theo NCS: Tác phẩm hội họa là một thể loại tranh vẽ; là sản phẩm nghệ

thuật sáng tạo do người nghệ sĩ, họa sĩ sử dụng đường nét, màu sắc, hình khối, bố

cục để sáng tạo ra mang nhiều giá trị biểu đạt có thể thấy được thông qua thị giác.

- Khái niệm Thị trường: Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên

giải thích “Thị trường là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá nói chung: Giá cả

ngoài thị trường”. Theo Đinh Sơn Hùng và Trương Thị Hiền (2020) trong cuốn

sách Những vấn đề cơ bản của các lý thuyết kinh tế cho rằng, có nhiều khái niệm về

thị trường, tuy nhiên về cơ bản: “Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi, mua

47

bán một thứ hàng hoá tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng

hàng hoá. Thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán, nơi mà các

người mua và bán đến với nhau để bán các sản phẩm và dịch vụ, v.v. [50, tr.136].

Khái niệm thị trường trong cuốn sách Kinh tế học do David Begg chủ biên giải

thích “Thị trường là sự dàn xếp giữa người bán và người mua trong trao đổi hàng

hóa và dịch vụ” [34, tr.33]. Nói đến thị trường là nói đến địa điểm, nơi trao đổi hàng

hoá mà trong kinh tế học và kinh doanh là nơi người mua và người bán (hay người

có nhu cầu và người cung cấp) tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi,

mua bán hàng hóa và dịch vụ. Cũng có thể hiểu thị trường là một môi trường cho

phép người mua và người bán giao thương hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ và thông

tin. Sự tương tác trong hoạt động này chỉ rõ tính chất cung và cầu của thị trường, vì

vậy nó là nguồn gốc cơ sở của nền kinh tế.

- Khái niệm về thị trường mỹ thuật: Thuật ngữ Thị trường mỹ thuật là từ

ghép Hán - Việt: Thị là cái chợ. Trường là nơi, chỗ. Thị trường là từ ghép để chỉ

chỗ mua bán, nơi người mua người bán, người có nhu cầu và người cung cấp, tiếp

xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ. Mỹ

là đẹp, là cái đẹp. Thuật là cách thức, phương pháp khéo léo cần phải áp dụng theo

để đạt kết quả trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Mỹ thuật cũng là từ ghép để chỉ

những sản phẩm nghệ thuật sử dụng cách thức khéo léo để tạo ra sản phẩm (nghệ

thuật) đẹp. Mặc dù, “trong từ vựng tiếng Việt không có riêng khái niệm thị trường

mỹ thuật” [79, tr.2] nhưng có thể hiểu, thị trường mỹ thuật là nơi người mua và

người bán các sản phẩm mỹ thuật, tác phẩm mỹ thuật qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián

tiếp với nhau để trao đổi, mua bán và các dịch vụ liên quan. Thị trường này cũng tuân

theo qui luật chung của thị trường tức có cung, có cầu - bên bán và bên mua hay là

quá trình tương tác giữa hai bên để các sản phẩm mỹ thuật được lưu thông và thực

hiện tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường.

- Khái niệm về thị trường tác phẩm hội họa: Thị trường tác phẩm hội họa là

một phần của Thị trường nghệ thuật tạo hình hay là một phần của Thị trường mỹ

thuật. Thị trường tác phẩm hội họa - tranh vẽ là nơi diễn ra các quá trình trao đổi,

mua bán, nơi mà người mua và bán đến với nhau để bán các sản phẩm và dịch vụ về

tranh vẽ. Vì tiếng Việt không có riêng khái niệm thị trường mỹ thuật như đã nêu

trên nên cũng không có khái niệm riêng về thị trường tác phẩm hội họa. Nhưng thị

48

trường tác phẩm hội họa có thể hiểu là thị trường tranh vẽ và là bộ phận quan trọng

của thị trường mỹ thuật hay một phần của thị trường văn hoá.

Theo NCS: Thị trường tác phẩm hội họa là nơi người mua và người bán hàng

hóa là tác phẩm hội họa hay tác phẩm NTTH là tranh vẽ thông qua hình thức tiếp xúc

trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán và dịch vụ liên quan.

- Thị trường tác phẩm hội họa công khai là nơi hoạt động mua bán, trao đổi

và cung cấp các hoạt động dịch vụ tác phẩm hội họa được cung cấp thông tin chính

thức diễn ra không giấu giếm mà mọi người có thể biết và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

- Thị trường tác phẩm hội họa không công khai còn gọi là thị trường ngầm,

thị trường mà mọi thông tin được che giấu, không được cung cấp hay phổ biến

chính thức, đặc biệt là nghĩa vụ nộp thuế hầu như không được thực hiện.

- Thị trường tác phẩm hội họa sơ cấp là thị trường chưa có hoạt động mua đi

bán lại tác phẩm hội họa.

- Thị trường tác phẩm hội họa thứ cấp là thị trường có hoạt động mua đi bán

lại tác phẩm hội họa từ thị trường sơ cấp.

- Trung gian của thị trường tác phẩm hội họa là người hoặc đối tượng ở

giữa, bên thứ ba có tính chất chuyển tiếp, kết nối, cung cấp dịch vụ giữa bên bán và

bên mua của thị trường tranh vẽ.

1.3.2.3. Các khái niệm về kinh tế văn hóa

- Quy luật kinh tế văn hóa tồn tại khách quan, không vận động theo ý chí chủ

quan của con người, khi văn hóa tham gia vào hoạt động kinh tế, văn hóa chịu tác

động của các quy luật kinh tế.

- Sản phẩm văn hóa là sản phẩm tinh thần, cũng giống như sản phẩm vật

chất bởi chúng đều là thành quả lao động của con người, cùng là sản phẩm lao động

nhưng có đặc thù riêng. Sản phẩm tinh thần khi tham gia vào hoạt động thị trường

nó cũng mang những thuộc tính của hàng hóa, nhưng khác với sản phẩm phổ thông

thể hiện ở đặc điểm như không chịu hạn chế ở mặt không gian, thời gian, có thể

truyền bá rộng, lan tỏa mạnh mẽ không có giới hạn và đặc biệt không có tính tổn

hao trong quá trình tiêu dùng.

- Nguyên lý cung cầu trong quan hệ của văn hóa và kinh kế có nhiều điểm

tương đồng nhưng song song tồn tại những dị biệt, khi thuộc tính hàng hóa không

bao giờ tuyệt đối hóa được sản phẩm văn hóa như sản phẩm phổ thông. Có nghĩa là

49

sản phẩm văn hóa thực sự sẽ không thể thương phẩm toàn diện được mặc dù nó có

thể tham gia và hài hòa với thị trường.

- Giá trị sử dụng của hàng hóa văn hóa thể hiện ở sự thỏa mãn mà hàng hóa

văn hóa đó mang lại khi người tiêu dùng bỏ ra một số tiền cho nhu cầu của họ. Hoạt

động sản xuất của văn hóa thuộc về lĩnh vực sản xuất phi vật chất, có giá trị sử dụng

mang tính đặc thù. Giá trị đặc thù của hàng hóa văn hóa đó chính là tính ý niệm, tuy

nó vô hình nhưng không phải là hư ảo mà vẫn hiện thực và là một phần tài sản trí

tuệ quan trọng của xã hội.

- Giá trị của hàng hóa văn hóa chính là giá trị của sản phẩm sáng tạo của con

người kết tinh từ lao động trí tuệ. Vì vậy, để xác định định lượng giá trị của hàng

hóa văn hóa không thể xem như hàng hóa thông thường, bởi không thể căn cứ vào

khoảng thời gian trôi qua trên dây chuyền sản xuất, với số lần vân tay ở trên máy

chấm công mà phải căn cứ vào mức độ hao phí chất xám đầy trừu tượng có ở cá

nhân mỗi người nghệ sĩ và chất lượng ở mỗi tác phẩm. Dù khoa học đã rất tiến bộ,

các phép tính được giải bởi những siêu máy tính nhưng lại không có cách nào khác

đánh giá đúng được giá trị tác phẩm nghệ thuật ngoài việc sử dụng nghệ thuật để

xác định.

- Sản xuất sản phẩm văn hóa là quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa văn hóa

và sản phẩm văn hóa như thế nào cũng sẽ trải qua hai giai đoạn có quan hệ chặt chẽ

với nhau trước được khi hoàn thiện đến với công chúng tiếp nhận đó là giai đoạn

sản xuất nguyên liệu - tinh thần và giai đoạn sản xuất vật chất. Cả hai giai đoạn đều

quan trọng đối với một sản phẩm văn hóa, nhưng giai đoạn sản xuất nguyên liệu

tinh thần sẽ quyết định hình hài, linh hồn hay tất cả những gì để nhận diện trong

một chỉnh thể là tác phẩm văn hóa đó.

- Giá thành sản phẩm văn hóa là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp biểu hiện bằng tiền

của toàn bộ hao phí, trí lực liên quan để hoàn thành, từ đó làm căn cứ xác định giá bán

và đánh giá hiệu quả kinh tế trong việc sản xuất, kinh doanh một sản phẩm văn hóa.

- Giá cả sản phẩm văn hóa là biểu hiện tiền của giá trị hàng hóa sản phẩm

văn hóa. Hàng hóa văn hóa không có giá cố định mà theo hướng tự do khi nhìn theo

cách phân loại trong hình thái vận động. Chỉ giá tự do của hàng hóa văn hóa được

hình thành và quyết định bởi thị trường nhờ sự góp phần bởi tính trừu tượng trong

sáng tạo, đơn bản, độc quyền trong sản xuất nên xác định giá trị là khó chính xác.

50

Việc định giá tác phẩm hội họa thông thường dựa trên lịch sử triển lãm, lịch sử bán

tác phẩm của họa sĩ hay trình độ nghề nghiệp (so sánh với đồng nghiệp khác) và

kích thước của tác phẩm. Nhu cầu về tác phẩm của họa sĩ càng lớn, thì tác phẩm của

họa sĩ đó càng có giá cao trên thị trường.

- Các quy luật cung cầu hay nguyên lý cung - cầu, tất cả được điều tiết thông

qua sự điều chỉnh của thị trường, một mức giá cân bằng (còn gọi là mức giá thị

trường) và một lượng giao dịch hàng cân bằng (lượng cung cấp bằng lượng nhu

cầu) sẽ được xác định. Khái niệm về Cầu và Cung được David Begg định nghĩa như

sau: “Cầu là số lượng hàng hóa mà người mua muốn mua tại mỗi mức giá chấp

nhận được” và “Cung là số lượng hàng hóa mà người bán muốn bán tại mỗi mức

giá có thể” [34, tr.34]. Vậy thì, Cầu hay nhu cầu, trong kinh tế học thường được

hiểu là nhu cầu tiêu dùng hay còn được gọi là sở thích tiêu dùng mà người mua

muốn đạt được theo mục đích của mình. Trong kinh tế học, nhu cầu nếu không có

khả năng tài chính để đáp ứng sở thích tiêu dùng đó, thì không thể gọi tắt nhu cầu là

Cầu. Thị trường tác phẩm hội họa cũng theo quy luật của cung cầu, người họa sĩ

sáng tạo không thể chỉ để cất đi mà cũng cần có cầu, tức là đầu ra của sản phẩm để

có thể giúp cho việc tái tạo sáng tạo. Thị trường này về bản chất không mấy khác

biệt với thị trường tiêu dùng hàng hóa thông thường. Tuy nhiên, người họa sĩ sáng

tạo tác phẩm mỹ thuật hiếm khi điều tra nhu cầu và sáng tác theo sở thích tiêu dùng

của thị trường như những ngành hàng hay lĩnh vực nghệ thuật khác như âm nhạc,

thời trang, điện ảnh, v.v. Bởi tính chất sáng tạo nghệ thuật khác nhau như vậy, lại

càng khác biệt so với hàng hóa tiêu dùng phổ thông nên lượng giao dịch cân bằng

trên nguyên tắc hài hòa cung cầu đối với tác phẩm mỹ thuật có thể là bất khả thi.

Phân tích khái niệm của cung - cầu trong kinh tế học, để hiểu và luận giải về

thị trường tác phẩm hội họa ở giác độ của kinh tế văn hóa cho thấy thực chất, cầu là

một thuật ngữ dùng để diễn đạt thái độ của người mua và khả năng mua về một loại

hàng hóa, cụ thể trong trường hợp hàng hóa là tác phẩm hội họa mà người mua

muốn sở hữu tại mức giá chấp nhận được. Khi chúng ta gia nhập thị trường hàng

hóa, ở đây chính là thị trường tác phẩm hội họa có hai yếu tố xác định chúng ta có

thể trở thành người mua (có nhu cầu):

Yếu tố đầu tiên: khẩu vị và sự ưa thích. Yếu tố này quyết định, chúng ta có

sẵn sàng chi tiền để mua món hàng đó hay không. Nếu món hàng đó rẻ thì có thể

51

mua chúng hoặc cũng có thể không quan tâm đến nếu được cho không, vậy cầu

trong trường hợp này bằng không. Khẩu vị và sự ưa thích đối với tác phẩm hội họa

ở đây là gì? Chính là tác phẩm hội họa đó có chia sẻ chung những ưa thích, đồng

cảm ở hoàn cảnh môi trường sống của tác giả đến với đối tượng khách hàng là

người xem và quan trọng hơn là có gây được sự rung động thẩm mỹ, truyền cảm

xúc tâm trạng sẻ chia trong mỗi lần tương tác với tác phẩm không. Nếu đối tượng

khách hàng là người xem không có được những nhìn nhận và trạng thái cảm xúc

trên thì chắc chắn sẽ không là nguồn cầu của người họa sĩ sáng tạo. Giá rẻ, không

quan tâm nếu được cho không làm cho cầu bằng không, lý thuyết này thường chỉ

phù hợp với những hàng hóa phổ thông hơn vì cả hai điều này đều hiếm xảy ra trên

thực tế đối với sản phẩm sáng tạo là tác phẩm hội họa. Bởi khi người họa sĩ sáng tạo

ra tác phẩm nghệ thuật tạo hình, ngoài giá trị vật chất luôn ở vị trí kế sau thì đối với

họ đó là đứa con tinh thần, là sự biểu đạt nội dung tâm tư, truyền, chia những thông

điệp cảm xúc tinh thần ấy, nên sự khinh rẻ, tự coi thường tác phẩm của mình (giá

rẻ), ruồng bỏ (cho không) là phi thực tiễn, điều đó bất tuân theo quy luật hàng hóa

thông thường. Vincent Van Gogh và các tác phẩm sáng tạo của ông là ví dụ.

Yếu tố thứ hai: khả năng tài chính. Khẩu vị và sự ưa thích chưa đủ để thúc

đẩy ta trở thành người mua hàng. Món hàng hợp khẩu vị mà ta rất thích, nhưng lại

quá nhiều tiền; vậy cầu trong trường hợp này cũng là số không. Khả năng tài chính

luôn là yếu tố tiên quyết chi phối mọi hoạt động thường nhật trong xã hội hiện đại

của chúng ta, không riêng gì việc đáp ứng sở thích. Nói tới khả năng tài chính,

chính là nói tới năng lực chi trả để có thể trở thành chủ sở hữu sản phẩm hàng hóa,

ở đây là tác phẩm mỹ thuật.

Như vậy, cầu xoay quanh hai yếu tố: ý muốn sẵn sàng mua và khả năng tài

chính mà ta có. Lưu ý rằng số lượng cầu hàng hóa không chỉ tùy thuộc vào hai yếu

tố kể trên mà còn tùy thuộc vào thời giá nữa, vì nếu giá cả thay đổi thì khối lượng

hàng hóa cầu cũng sẽ thay đổi. Ngay cả khi, nếu một số tác phẩm của họa sĩ trong

bộ sưu tập của một nhà sưu tập đang có giá vượt qua mong đợi của chính nhà sưu

tập đó, của nhà đấu giá dẫn đến nhiều nhà người sưu tập khác cũng có tác phẩm của

họa sĩ đó cùng đổ xô đi bán làm cho thị trường sẽ tràn ngập tranh của họa sĩ này,

quy luật cung cầu chắc chắn khi ấy sẽ tác động đến.

52

- Giá trị và giá cả của tác phẩm hội họa. Tác phẩm hội họa nhìn dưới góc độ

kinh tế học như một loại hàng hóa phổ thông thì nó cũng mang những khái niệm cơ

bản của một loại hàng hóa, đó là: Giá trị, Giá trị sử dụng và Giá trị trao đổi, Giá cả

khi tham gia vào thị trường. Tuy nhiên, tác phẩm hội họa là một sản phẩm văn hóa,

tinh thần với hàm lượng trí tuệ nghệ thuật cao, đôi khi không tuân theo bất kỳ một

nguyên tắc, quy luật nào, kể cả quy luật của kinh tế học như: quy luật giá trị, quy

luật cạnh tranh... Ngoài một số giá trị, quy luật cơ bản nhất về hàng hóa, tác phẩm

hội họa khi tham gia vào hoạt động của thị trường còn chịu sự tác động từ những

yếu tố bất định khác không như các loại hàng hóa phổ thông. Trong phạm vi giới

hạn của Luận án, NCS xem xét tác phẩm hội họa nhìn ở khía cạnh hàng hóa với

những giá trị cơ bản cốt lõi nhất của sản phẩm hàng hóa rất đặc biệt này.

+ Giá trị của tác phẩm hội họa là thuộc tính của hàng hóa của nó, đó là lao

động hao phí về vật chất, trí tuệ của người họa sĩ để sáng tạo ra tác phẩm hội họa

được kết tinh vào trong tác phẩm đó.

Giá trị của tác phẩm hội họa là giá trị lượng lao động tiêu hao để sáng tạo ra

tác phẩm đó.

Ba nhân tố ảnh cơ bản hưởng tới lượng giá trị của hàng hóa - tác phẩm hội họa:

Thứ nhất, năng suất (thời gian hoàn thành) lao động sáng tạo;

Thứ hai, cường độ (mật độ, mức độ tăng) lao động sáng tạo;

Thứ ba, mức độ tinh tế (chất lượng nghệ thuật) của lao động sáng tạo.

+ Giá cả: là biểu hiện bằng tiền của giá trị trao đổi hàng hóa, về nghĩa rộng

đó là số tiền phải trả để có được quyền sở hữu tác phẩm hội họa đó.

Tóm lại, giá cả nói chung là đại lượng thay đổi xung quanh giá trị của tác

phẩm hội họa.

- Tác phẩm hội họa là hàng hóa trong hoạt động thị trường, khi đó tác phẩm

hội họa cũng luôn mang những quy định bắt buộc khi thực hiện việc giao thương

giúp cho người tiếp nhận - tiêu dùng biết được công năng hàng hóa cũng như chất

lượng trong việc mua bán và các hoạt động giao dịch khác. Tương tự như việc kê

khai hàng hóa, chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, cấu tạo, nguồn gốc, xuất xứ thể hiện

ở nhãn mác trên sản phẩm, bao bì sản phẩm trước khi đưa vào kinh doanh trên thị

trường phải có đăng ký, kiểm định chất lượng và công bố đầy đủ chế độ bảo hành,

hậu mãi, v.v. Tác phẩm hội họa ngoài những yếu tố như hàng hóa phổ thông, khi

53

được xem xét trên phương diện sáng tạo là tác phẩm nghệ thuật cũng có kích thước,

chất liệu, nguồn gốc, xuất xứ, bên cạnh những câu chuyện về nhân học đầy ý nghĩa,

v.v. còn có những quy định riêng mang tính chất đặc thù của loại hình nghệ thuật

của nó. Người nghệ sĩ sáng tác ra và hoàn thành tác phẩm tại thời điểm nào thì đó

chính là niên đại sáng tác và những thuộc tính chất liệu liên quan sẽ là thành phần

hồ sơ lý lịch tác phẩm. Những dữ liệu thông tin về tác phẩm như vậy chính là những

căn cứ để xác định những dữ liệu liên quan tới quyền được hưởng những lợi ích cơ

bản liên quan tới tác phẩm đó. Việc xác định bản quyền tác giả; quyền sở hữu tác

phẩm đó là cách thức xác định những quyền sở hữu trí tuệ của một tài sản là tác

phẩm nghệ thuật, tác phẩm hội họa. Những dữ liệu về quyền sở hữu trí tuệ của tác

phẩm hội họa là cơ sở để chứng minh khi xảy ra những tranh chấp trong việc sử

dụng cũng như việc gây phương hại đến lợi ích của chủ sở hữu.

- Cạnh tranh là một quy luật có khái niệm về thuật ngữ phổ dụng được xác

định trong kinh tế học. Cạnh tranh trong thị trường tác phẩm hội họa nếu được nhìn

nhận như một loại hàng hóa phổ thông thì sẽ là một cái nhìn thiếu sót và có nhiều

hạn chế như đã trình bày ở trên. Mặc dù, tác phẩm hội họa khi ở phương diện hàng

hóa, với quy luật cạnh tranh thì mỗi họa sĩ sáng tạo ra tác phẩm - hàng hóa và

những người tham gia thị trường khác đều cố gắng để giành được cho mình những

điều kiện có lợi nhất trong sáng tạo - sản xuất, tiêu thụ và dịch vụ cũng như sử dụng

tiền để thực hiện các hoạt động đầu tư - vốn.

- Đời sống, kinh tế tác động tới thị trường tác phẩm hội họa

Đời sống kinh tế, chính trị, xã hội tác động tới hoạt động văn hóa nghệ thuật

và văn hóa cũng giữ vị trí trọng yếu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thị

trường tác phẩm hội họa là một phần ánh xạ của hoạt động kinh tế trong lĩnh vực

mỹ thuật, nên Nguyễn Quân cho rằng: “Ở Việt Nam trước thế kỷ 20, có thể nói rằng

không có văn hóa đô thị nên không có lớp nhà giàu đô thị. Cũng không có tầng lớp

quý tộc. Thiếu hai thành phần đủ tiền bạc và có nhu cầu tinh thần - thẩm mỹ này tất

không có việc lưu giữ, truyền bá, mua bán tác phẩm nghệ thuật” [79, tr.2]. Natalia

Kraevskaia nhận định: “Công chúng nói chung, bao gồm tầng lớp trung lưu và

thượng lưu - ở Việt Nam người ta thường không mua tác phẩm nghệ thuật. Đó là lý

do tài chính, ngoài ra còn có cả lý do xã hội không kém quan trọng là cho đến nay

‘nguồn văn hóa’ cao không tập trung trong nhóm người quyền thế và giàu có” [61,

54

tr.48]. Qua đó có thể hiểu rằng, thiếu nguồn lực kinh tế, thiếu nhu cầu thụ hưởng

nghệ thuật thì không thể có hay phát triển được thị trường nghệ thuật. Những thay

đổi của thị trường mỹ thuật Trung Quốc hay thị trường Brazil trong các nước BRIC

là ví dụ tiêu biểu. Theo NCS, mặc dù kinh tế phát triển không ổn định, có những

thịnh suy cùng thăng trầm trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, nhưng thị trường

tác phẩm hội họa ở Việt Nam đã xuất hiện khá sớm tuy ít được phổ biến. “Theo

truyền thống trang trí nội thất, các cung điện ở Thăng Long thường có treo tranh

hoặc vẽ lên tường, lên cột. Kinh đô nhà Tây Sơn cũng thế. …có lần Nguyễn Thế

Lịch vào triều kiến Quang Trung, ông đã vâng lệnh làm 8 bài thơ nôm đề vào 8 bình

phong vẽ liên hoàn 100 em bé, để trang trí cung điện Phú Xuân” [10, tr.103]. Điều

đó cho thấy những sự giao thoa, tiếp biến và ảnh hưởng văn hóa từ ngoài nước khá

mạnh mẽ, đặc biệt là Trung Hoa đã diễn ra trên khá nhiều bình diện của đời sống xã

hội trong đó có việc chơi, thưởng thức và có thể cả sáng tác tranh hôi họa đã diễn ra

ở Việt Nam từ những buổi ban đầu của thời quân chủ tự chủ. Mặc dù, phần lớn các

tác phẩm như vậy không còn lưu lại đến ngày nay. Hai tác phẩm hội họa được cho

là có kích thước lớn nhất mang ý nghĩa lịch sử và giá trị nghệ thuật nhất định được

biết đến ở Việt Nam là bức tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ vẽ bằng mực nho

trên giấy và bức bích họa hoành tráng, đại diện cho hội họa hiện đại được sáng tác

theo đơn đặt hàng của toàn quyền Đông Dương Maurice Long có kích thước

khoảng 11 x 7m do Victor Tardieu vẽ trong 6 năm ở nửa đầu thế kỷ XX (1921-

1927), từ phác thảo đến hoàn thiện với nội dung ngợi ca giá trị nhân văn từ những

lợi ích văn minh nước Pháp đem đến cho thuộc địa (La France Apportant à sa

Colonie les Bienfaits de la Civilisation) để trang trí trên tường của đại giảng đường

Trường Đại học Đông Dương. Cả hai họa phẩm đều mang tính hội họa cao với kích

thước rất lớn đều do người nước ngoài sáng tác theo đơn đặt hàng tại Việt Nam,

không là một trong những họa phẩm do những họa sĩ cung đình các thời quân chủ

Đại Việt sáng tạo. Qua đó có thể nhận thấy nhu cầu về hội họa trong công chúng ở

nhiều thành phần trong xã hội, trên thị trường nội địa từ khá sớm, xuất phát từ nhiều

nguồn khác nhau và không phải là nhỏ bé. Trong tập truyện ngắn Vang bóng một

thời của Nguyễn Tuân có đoạn viết về việc đưa hối lộ bằng tranh như sau: “Nguyên

hồi tôi còn ở chức thủ hiến vùng Hưng Yên, có một người chánh tổng huyện Ân Thi

đem dâng tôi một bức tranh để gỡ mình khỏi một vụ án hình… Cái thằng cha ấy bạo

55

thế, bây giờ tôi mới biết là tranh quý… tranh đó, cái chỗ quý giá thì không biết thế

nào mà nói cho hết được. Mua được về rồi con mắt người Mỹ mà nhìn thấy là

chúng ta sẽ có một cái cơ nghiệp để hưởng chung” [106, tr.98-99]. Điều đó thể cho

thấy, khi đời sống kinh tế - xã hội phát triển dẫn đến nhu cầu hưởng thụ văn hóa hay

chất lượng cuộc sống được tác động đến bởi đời sống kinh tế - xã hội. Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) xác định: “Xây

dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa”, có nghĩa là kinh tế phải đi

trước. Khi không còn phải lo cái ăn, cái mặc nữa thì người dân sẽ tìm tới thụ hưởng

nhu cầu tinh thần, nhu cầu hưởng thụ văn hóa, thưởng thức tác phẩm nghệ thuật.

Trên thực tế, trong những điều kiện nhất định, không chỉ ở Việt Nam, nhu cầu tăng

trưởng kinh tế luôn được coi trọng bên cạnh phát triển văn hóa. Nhà văn Tô Hoài,

một trong những nhà văn có thu nhập cao so với những đồng nghiệp khác, nên ông

cũng là người mua tranh để chơi và để tặng: “Bức Hào của Dương Bích Liên dự

triển lãm năm ấy chỉ được treo ở chỗ tranh bị loại. Tôi đã mua bức tranh bị loại về

biếu Nguyên Hồng. Đưa được bức Hào lên Nhã Nam là một công quả, không biết

Nguyên Hồng đã vác bằng cách nào. Bức tranh to kín một gian mặt tường” [43,

tr.141]. Nguyễn Tiến Chung cũng vậy, “vì mê một bức tranh của Nguyễn Tư

Nghiêm, Nguyễn Tiến Chung có lần đã bỏ hẳn một tháng lương để mua nó” [118,

tr.19].

Đời sống kinh tế - xã hội là nhân tố tác động sâu sắc tới thị trường mỹ thuật

nói chung trong đó có thị trường tác phẩm hội họa nói riêng, điển hình trên thế giới

và khu vực có thể xem Trung Quốc là một điển hình. Mặc dù là quốc gia tham dự

chính thức vào thị trường này chưa lâu, nhưng sự bùng nổ của thị trường Trung

Quốc khiến các nhà đấu giá của họ nắm giữ vị thế lớn hơn trên thị trường quốc tế.

Số lượng khách hàng mua tranh, mua tác phẩm nghệ thuật là người Trung Quốc

tăng lên nhanh chóng và đa phần trong số đó là những người giàu có. Kể từ khi

Trung Quốc đã vượt qua Pháp để trở thành thị trường kinh doanh tác phẩm mỹ thuật

lớn thứ 3 thế giới sau Mỹ và Anh với khoảng 75 cuộc đấu giá có trị giá hơn 1 triệu

USD. 5 năm sau đó (2010), thị trường Trung Quốc đã đứng đầu thế giới về lĩnh vực

kinh doanh tác phẩm mỹ thuật. Năm 2011, có đến 774 tác phẩm mỹ thuật được đấu

giá trên 1 triệu USD, nhiều gấp 10 lần năm 2007.

56

- Bản quyền hay quyền tác giả (copyright) là một hình thức bảo hộ của pháp

luật đối với tác giả của tác phẩm. Bảo hộ quyền tác giả chính là việc bảo hộ những

thành quả lao động sáng tạo của cá nhân, tổ chức. “Hiểu một cách đơn giản, quyền

tác giả cho phép tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả được được độc quyền khai thác

tác phẩm, chống lại việc sao chép bất hợp pháp” [4. tr.85]. Bản quyền tác phẩm hội

họa chính là quyền tác giả và quyền sở hữu tác phẩm hội họa hay bức tranh đã được

vẽ, được sáng tác.

Khi đời sống, nhận thức và giá trị, lợi ích của sản phẩm hàng hóa được nâng

cao, nhu cầu về bản quyền sẽ được nâng lên.

+ Ở Việt Nam, vấn đề về bản quyền và bảo vệ bản quyền còn nhiều bất cập.

Thời gian qua, trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật tình trạng vi phạm bản quyền đã

diễn ra một cách phổ biến, tràn lan và biến đổi ngày càng tinh vi hơn. Trong bối

cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành

công nghệ tiên tiến nối tiếp sau công nghệ điện tử sử dụng hạ tầng số đã tạo điều

kiện thuận lợi cho sự kết nối, tiếp cận giữa người sáng tạo, sản xuất, hoạt động

thương mại và công chúng thụ hưởng tác phẩm nghệ thuật nhưng cũng đặt ra những

thách thức mới về bản quyền tác giả.

+ Trên thế giới, đặc biệt ở những nước phát triển, quyền sở hữu trí tuệ đối

với tác phẩm nghệ thuật luôn là những yếu tố quan trọng đầu tiên cho tất cả những

hoạt động liên quan đặc biệt là hoạt động trí tuệ sáng tạo tác phẩm nghệ thuật.

Chính vì vậy, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới – WIPO, cơ quan đặc trách của Liên

hợp quốc có nhiệm vụ trọng tâm xung quanh việc khai thác và bảo hộ sản phẩm trí

tuệ của con người ra đời. Trước khi có tổ chức này, BIRPI (Bureaux Internationaux

Réunis pour la Protection de la Propriété Intellectuelle) đã là tổ chức tiền thân,

được thành lập năm 1893 để quản lý và thực thi Công ước Berne về bảo hộ tác

phẩm văn học nghệ thuật. Công ước Berne lần đầu ký tại Berne, Thụy Sĩ vào cuối

thế kỷ XIX (1886) để bảo vệ quyền tác giả giữa các quốc gia tham gia ký kết Công

ước. Việt Nam đã tham gia ký Công ước Berne năm 2004 và năm 2006 Luật SHTT

có hiệu lực tại Việt Nam, bên cạnh có các luật chuyên ngành trong lĩnh vực Văn hóa

như Luật Di sản văn hóa (2001); Luật Xuất bản (2005); Luật Điện ảnh (2006); Luật

Quảng cáo (2012), v.v. đều có các quy định liên quan đến bảo hộ quyền tác giả, phù

hợp với từng ngành cho thấy được tầm quan trọng trong vấn đề bản quyền đối với

57

tác phẩm văn hóa nghệ thuật nói chung. Tuy ngành mỹ thuật chưa có luật chuyên

ngành riêng, văn bản pháp luật cao nhất mới chỉ dừng lại ở Nghị định. Có lẽ chưa

thể nói ngay đó là bất lợi lớn của ngành, nhưng chắc rằng thuận lợi là điều không

thể. Bởi không có luật chuyên ngành, thì ngành đó sẽ thiếu nhiều quy định mang

tính chuyên môn sâu, nhiều khoảng trống còn tồn tại từ các hoạt động trong thực tế

mà các luật khác không thể lấp đầy được đó là lẽ tất yếu. Những văn bản quy phạm

pháp luật có thể áp dụng Luật SHTT và những luật khác có liên quan để bảo vệ

quyền lợi liên quan, thúc đẩy phát triển sáng tạo đến sản phẩm lĩnh vực này cũng đã

đáp ứng được những điểm chung nhất, yếu tố chuyên môn đặc thù. Hệ thống văn

bản liên quan tới việc quản lý tác phẩm mỹ thuật đã được xây dựng, sửa đổi, bổ

sung và ban hành trong thời gian qua, nhưng vẫn chưa tạo dựng một hành lang pháp

lý, lấp đầy những khoảng trống, kiến tạo một môi trường lành mạnh, khuyến khích

lao động sáng tạo, đổi mới góp phần làm tiền đề cho kinh tế văn hóa trong lĩnh vực

này một cách hiệu quả. Hoạt động của thị trường tác phẩm hội họa cho tới ngày nay

vẫn chưa phát huy hiệu quả so với tiềm năng thực tế của nó. Qua đó khẳng định

rằng, thị trường mỹ thuật nói chung, thị trường tác phẩm hội họa nói riêng cần phải

điều chỉnh, thay đổi và hoàn thiện để đạt được những mục tiêu phát triển như trong

chiến lược phát triển các ngành CNVH đã đề ra.

Tiểu kết

Qua bước đầu tìm hiểu nghiên cứu trước luận án, theo tiến trình lịch sử các

công trình nghiên cứu với những lý thuyết cơ bản có liên quan, qua những giai đoạn

phát triển của tác phẩm hội họa và thị trường của nó ở Việt Nam với nhiều thế hệ

các nhà nghiên cứu, nhìn lại các công trình, NCS nhận thấy một số vấn đề sau:

- Những công trình nghiên cứu về MTVN có số lượng khá đồ sộ, nhưng

những nghiên cứu về thị trường tác phẩm hội hoạ là quá ít ỏi. Trong khi đó, thị

trường tác phẩm hội họa Việt Nam từ năm 1986 đến nay là giai đoạn mang những

thay đổi mạnh mẽ nhất, kể từ khi hội hoạ hiện đại Việt Nam ra đời và cũng là thời

kỳ hội họa được công chúng biết đến cùng với sự trăn trở vì sự phát triển của nó

nhiều nhất. Trong các công trình nghiên cứu về nội dung này, đa phần chỉ mô tả

nhận diện về mỹ thuật mang tính khảo tả hay sơ lược bằng hình ảnh, phần văn

thường ngắn gọn, ít làm nổi bật được những giá trị khác như triết học, văn học, kinh

tế, v.v., số liệu kèm theo đôi khi chỉ là thông tin rất ngắn gọn hoặc chung chung v.v.

58

Sự thiếu hụt về tư liệu về thị trường tác phẩm hội họa trong các cứ liệu thành văn

của các nhóm, cá nhân nghiên cứu tạo ra những khoảng trống lớn trong hệ thống

nghiên cứu về mỹ thuật hiện đại. Vì vậy, vẫn luôn cần đến những trí tuệ, công sức

của các nhà khoa học trong lĩnh vực văn hóa, kinh tế cũng như mỹ thuật để tiếp tục

thực hiện.

- Các công trình nghiên cứu gần đây của một số tác giả trong đó có tác giả

nước ngoài tuy khá công phu, có nhiều yếu tố mới, chạm đúng vào những vấn đề xã

hội đang quan tâm, trăn trở nhưng chưa có nghiên cứu khai mở thực sự với các số

liệu thành văn, cũng như các công trình mang tính toàn diện hơn nên chưa đưa ra

được một con đường tiếp cận thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam phù hợp với

hoàn cảnh và điều kiện ở nước ta.

- Thị trường tác phẩm hội họa là một thị trường hàng hóa đặc thù càng trở

nên đặc thù hơn khi ở Việt Nam. Tranh hội họa, nơi mua bán, các quyền liên quan

là những vấn đề khác nhau nhưng lại là những yếu tố then chốt có tính đan cài, ràng

buộc liên quan chặt chẽ trong việc nghiên cứu phát triển thị trường tác phẩm hội

họa Việt Nam chưa được đề cập một cách hệ thống, chuyên sâu trong các công trình

đã xuất bản.

- Số liệu cụ thể về thị trường tác phẩm hội họa như số lượng tranh của các

họa sĩ MTĐD hiện đang được lưu trữ tại Việt Nam, ra nước ngoài, gallery, số lượng

phân bổ họa sĩ chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp, nguồn nhân lực là họa sĩ hằng

năm ra trường vẫn chưa được nghiên cứu tập trung nên còn nhiều khoảng trống

chưa xử lý được thấu đáo, chưa thể đáp ứng được sự quan tâm ngày càng tăng của

xã hội.

- Mối tương quan giữa thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam ở trong nước

và nước ngoài cho đến bây giờ vẫn chưa có công trình “đủ tầm” được công bố phổ

biến (trên phương diện sách) ở Việt Nam.

- Diễn ngôn về văn hóa, nghệ thuật với kinh tế khó có thể giao nhau vì bản

chất nội hàm của chúng hàm chứa nhiều dị biệt ở từng lĩnh vực. Một bên thì rõ

ràng, khô khan, lạnh lùng với lợi nhuận là yếu tố then chốt của kinh tế đối lập với tư

duy tưởng tưởng, lấy tưởng tượng nghệ thuật, cái đẹp làm cốt lõi sáng tạo. Mặc dù,

văn hóa trong kinh tế được xác định trở thành nền tảng, mục tiêu và động lực phát

triển xã hội ở Việt Nam nhưng tác động qua lại hay tác động trong ngoài hiếm khi

59

được làm rõ bởi những công trình nghiên cứu nhìn từ văn hóa. Đối với hội họa lại

càng hiếm khi. Diễn biến thị trường tác phẩm hội họa trong bối cảnh nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN từ sau Đổi Mới và hội nhập quốc tế duy trì nhiều nét

tương đồng với những thị trường ở các lĩnh vực kinh tế khác của Việt Nam khi xem

xét nó trên góc nhìn tổng quan về lý thuyết. Với các nguyên tắc của kinh tế thị

trường về pháp lý, vận hành chung với hệ thống thiết chế, nguồn nhân lực, các nhà

sưu tập, người kinh doanh tác phẩm hội họa trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật ở

Việt Nam có tồn tại được trong cùng một hệ thống khi chuyển mã hòa hợp để cùng

vận hành. Về lý thuyết các thuộc tính nghệ thuật hội họa được tiếp biến qua sản

phẩm hàng hóa khi tham gia vào thị trường, một thị trường mỹ thuật mới, hiện đại

vận hành theo cơ chế thị trường; một thị trường tác phẩm hội họa mới từ sự trở lại

có sự tiếp nối bởi những khai mở của các họa sĩ MTĐD và xuất hiện một thị trường

thứ cấp, áp dụng công nghệ số hiện đại, song song vận hành cùng thị trường sơ khai

cần nghiên cứu để phân tích giải mã những vấn đề này cho sự phát triển thị trường

tác phẩm hội họa Việt Nam.

60

Chương 2

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÁC PHẨM HỘI HỌA

2.1. Người họa sĩ trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường

2.1.1. Họa sĩ - người sáng tạo

“Có những người biết sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật giỏi hơn những người

khác. Họ được gọi là nghệ sĩ” [54, tr.3]. Khái niệm nghệ sĩ thường gắn liền với khái

niệm nghệ thuật, khi nói đến người nghệ sĩ thường được hiểu nghĩa là người chuyên

sáng tác hoặc biểu diễn trong ngành nghệ thuật. Họ là tác giả, là người sáng tạo ra tác

phẩm hoặc một phần tác phẩm (Khoản 1 Điều 13 Luật SHTT). Người nghệ sĩ được đề

cập và nghiên cứu trong phạm vi luận án là nghệ sĩ tạo hình - hoạ sĩ, là tác giả của

những sản phẩm sáng tạo nghệ thuật - người sản xuất ra sản phẩm hàng hóa văn hóa -

tác phẩm hội họa của nền mỹ thuật Việt Nam.

Họa sĩ là ai? Phan Cẩm Thượng (2005) “Chuyện thị trường nghệ thuật VN:

Họa sĩ là ai?” cho rằng: “họa sĩ là một khái niệm danh dự, hơn là một nghề nghiệp,

vì trong phân công lao động hiện tại, nó chẳng nằm trong bậc thang nào” [149].

Theo ý kiến tranh luận của Nguyên Hưng với Phan Cẩm Thượng thì lại cho rằng:

“Nghệ thuật chưa bao giờ đơn giản. Vấn đề họa sĩ là ai, cũng vậy” [144]. Theo

NCS, họa sĩ là người nghệ sĩ sáng tạo nên tác phẩm hội họa và để công chúng biết

“họa sĩ là ai” thì trước đó người họa sĩ phải có tác phẩm hội họa được công chúng

biết đến. Không có họa sĩ sẽ không có những tác phẩm hội họa và cũng không có thị

trường tác phẩm hội họa. Họa sĩ, nhìn ở nhãn quan công việc lao động là một ngành

nghề được nhà nước công nhận từ khá sớm, thể hiện ở một số VBQPPL trong đó có

các văn bản về chính sách, chế độ tiền lương, v.v. như Quyết định số 428/TCCP-

VC của Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ trưởng Bộ

Nội vụ) ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch công chức ngành VHTT; Quyết định

số 78/2004/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành danh mục các

ngạch công chức và ngạch viên chức; Nghị định số 204/2004/NĐ-CP của Chính

phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ

trang, v.v. và gần đây nhất là xác định chi tiết trong Bảng lương quy định tại Điều

10 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BVHTTDL-BNV của Bộ VHTTDL và Bộ

Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh viên chức chuyên ngành mỹ thuật.

61

Trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp, văn hóa phương Tây từng bước

xâm nhập và có tác động ảnh hưởng sâu rộng tới văn hóa bản địa là xứ An Nam thời

bấy giờ. Tuy văn hóa phương Tây dần lan tỏa, nhưng quan điểm Nho giáo làm hệ tư

tưởng vẫn còn rất thịnh hành. Theo quan niệm của hệ tư tưởng này, trong xã hội chỉ

có bốn nghề theo thứ tự gồm: sĩ, nông, công, thương và những nghề còn lại không

xếp vào đâu thì gọi là “vô loài” hay “vô loại”. Những người hoạt động trong các lĩnh

vực nghệ thuật được xếp cùng hạng với thợ thủ công do đó thường gọi “phường” này,

“con hát” (ca nhi) nọ, “phó thợ” kia nên trong dân gian có câu: “thợ may ăn giẻ, thợ

vẽ ăn hồ, v.v.”. “Những người làm mỹ thuật đều không phân biệt thầy hay thợ đều

được xếp hạng ba trong “tứ dân”, v.v. Họ bị tách xa khỏi lớp trí thức theo Khổng

học” [78, tr.41]. “Thời phong kiến các họa sĩ Việt Nam hầu như không được ký tên

dưới tác phẩm. Đơn thuần họ chỉ là những người làm công cho vua chúa hoặc nhà

giàu” [87, tr.31]. Vì vậy, gần như 100% họa phẩm cổ Việt Nam tồn tại tới nay đều

không có ghi hoặc ký tên người họa. Điều này có thể chứng minh, khi những bức

tranh mang tính hàn lâm họa viện với bút pháp khá điêu luyện, thể hiện công phu,

màu sắc phong phú, kích thước lớn thể hiện tính chuyên nghiệp được cho là vẽ vào

khoảng giữa thế kỷ XV như Chân dung Nguyễn Trãi (lụa, 151 x 92cm) hay cuối thế

kỷ XVIII như tranh Chân dung Trịnh Đình Kiên (lụa, 165 x 100cm); Vua và hoàng

hậu Lý Nam Đế (sơn quang dầu trên gỗ, 112 x 182cm), v.v. đều không có tên người

thực hiện. Trường CĐMTĐD ra đời chính là sự đánh dấu sự khởi đầu cho việc đào

tạo nghệ sĩ được thể chế hóa, theo phương pháp tạo hình châu Âu từ những năm đầu

thế kỷ XX và từ đó, tư duy về nghệ thuật, sự tôn trọng trong ứng xử như cách gọi tên

nghề nghiệp đối với những người làm nghề họa mới được “nâng cấp” từ thợ vẽ, nghệ

nhân khuyết danh thành nhà mỹ thuật, họa sĩ có danh.

Trường CĐMTĐD được khai mở năm 1925 tại Hà Nội, từ đó nơi đây trở

thành cái nôi đào tạo nguồn nhân lực hàng đầu cung cấp phần lớn các tác phẩm hội

họa Việt Nam tiêu biểu ra thị trường. Trải qua quá trình hoạt động trong quãng thời

gian 20 năm (1925-1945), trường đã đào tạo ra những tên tuổi lớn cho nền MTVN

hiện đại như Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Trần

Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, v.v. Mặc dù, Trường

CĐMTĐD không phải là ngôi trường mỹ thuật sớm nhất, duy nhất ở xứ An Nam

thời bấy giờ, bởi trước đó Trường Mỹ thuật ứng dụng (1898) ở Hà Nội; Trường Mỹ

62

nghệ bản xứ Thủ Dầu Một (1901), Trường Mỹ thuật Biên Hòa (1903), Trường

Nghệ thuật trang trí Gia Định (1913), v.v. có dạy nghề mỹ thuật nhưng các trường

này không đào tạo ra các họa sĩ - nghệ sĩ tạo hình mà chỉ đào tạo ra thợ thủ công và

công nhân mỹ thuật nên sản phẩm được cung cấp ra thị trường không có những tác

phẩm hội họa giúp họ làm nên tên tuổi như các nghệ sĩ tạo hình. Khi nói về các họa

sĩ MTĐD, Jean Tardieu (1997) Thư Hà Nội gửi Roger Martin du Gard và Jacques

Heurgon, ông cho rằng: “Hầu hết họ đều có tài, cần cù và nhất là thông minh, tinh

tế. Ngoài ra phần lớn đều là xuất thân từ gia đình tử tế, con những quan lại, tư sản

giàu hoặc quý tộc, họ có một vẻ hào hoa, tính tình ‘dễ mến’, dáng thanh nhã, mà ta

thật khó kiếm được trong học sinh các trường nghệ thuật ở Pháp” [53, tr.75-76].

Tiểu luận của Tô Ngọc Vân đăng trong Xuân Thu Nhã Tập năm 1942 viết về một số

sinh viên mỹ thuật trong lớp học thời bấy giờ làm cho ta hình dung họ rõ hơn như

sau: “Lê Phổ, lúc nào cũng trịnh trọng cái cổ cồn cứng gẫy góc, chung quanh thắt

cái cà-vạt đen dài” [72, tr.24]. Tuy nhiên trong sự nghiệp sáng tác, nhiều họa sĩ

được lịch sử ghi nhận là những cây đại thụ trong nền MTVN hiện đại với những

tính cách, những tìm tòi trong sáng tạo của họ mà cũng đã có lúc phải sống trong

những cảnh cô độc hay bần hàn, đầy cơ cực đến mức tuyệt vọng. Nguyễn Sáng,

Dương Bích Liên là ví dụ điển hình.

Các họa sĩ MTĐD thuở ấy được đào tạo, tiếp cận gần gũi, học hỏi kinh

nghiệm, kiến thức của các nghệ sĩ nhiều tài năng đến từ “kinh đô ánh sáng” mà tổng

hòa tạo nên những giá trị và tư tưởng thẩm mỹ mới thể hiện qua tác phẩm mỹ thuật

của mình. Khi xem xét, đánh giá tác phẩm của các họa sĩ Việt Nam hiện đại Ngô

Đức Thịnh chủ biên (2010) Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam cho rằng:

“những giá trị này hoàn toàn không dựa trên những gì mà cha ông ta đã hun đúc nên

từ cả ngàn năm trước, nhưng nó lại có mở ra cánh cửa liên thông với thế giới

phương Tây hoàn toàn xa lạ” [89, tr.481]. Theo NCS, điều này chưa hoàn toàn

chính xác khi ông đánh giá và nhận xét về tác phẩm của các họa sĩ MTĐD mà lại

gần với cách nhìn của Lisa Bixenstine Safford viết trong cuốn Art at the

Crossroads: Lacquer Painting in French Vietnam (Nghệ thuật ở ngã tư đường: Sơn

mài ở Việt Nam thời thuộc Pháp) [129]. Những họa sĩ MTĐD hàng đầu sớm vang

danh ra ngoài biên giới, làm nên một thị trường MTVN hiện đại sơ khởi nhưng có

tác động mạnh mẽ cho tới ngày nay. Lý do bởi những tác phẩm của họ luôn ngân

63

lên âm hưởng của sự giao thoa giữa văn hóa Đông - Tây nhưng đã Việt hóa tới mức

khó có thể trộn lẫn tác phẩm của họ với bất kỳ tác phẩm của các họa sĩ Trung Quốc,

Nhật Bản, Pháp, Ý nào. Mặc dù, những tác phẩm đó có thể sử dụng chung phương

pháp tạo hình, chất liệu, đề tài. Theo Dương Tường (1997) “Mỹ thuật Việt Nam đổi

mới” in trong cuốn Hội họa đương đại Việt Nam cho rằng, “điều đã khiến Việt Nam

vẫn tồn tại như là một quốc gia qua hơn nghìn năm tổng gộp nhiều thời kỳ đô hộ

của nước ngoài, là ở chỗ dân tộc này biết cách tiêu hóa những ảnh hưởng ngoại lai

và tích nhập những tinh hoa của chúng vào nền văn hóa của mình” [111, tr.5]. Ví dụ,

Nguyễn Phan Chánh (1931, lụa), Chơi ô ăn quan; Tô Ngọc Vân (1943, sơn dầu),

Thiếu nữ bên hoa huệ; Trần Văn Cẩn (1943, khắc gỗ), Gội đầu, v.v. Các họa sĩ

MTĐD đã tiếp thu ở truyền thống đúng như Dương Tường (2010) Chỉ tại con chích

chòe đã nói, “học không phải là bắt chước mà là vận dụng những cái hay, cái mới

sao cho, qua métabolisme (chuyển hoá, hiểu như một quá trình sinh học) của bản

ngã, nó trở thành một cái gì của chính mình” [112, tr.80]. Tranh của các họa sĩ

MTĐD có sử dụng nhiều yếu tố chất liệu thực của cuộc sống, nhưng nói và hiểu

theo cách của Lê Đạt viết Lời cuối sách Thái Bá Vân (1997) Tiếp xúc với nghệ

thuật, đó là “Hiện thực hội họa là một hiện thực khác với đời thực, nó có những liên

hệ sâu kín với đời thực; nhưng không vì thế mà tự thủ tiêu đời sống riêng của nó”

[113, tr.483]. Tiếp theo sau những đánh giá, nhận xét về sự đoạn tuyệt với truyền

thống trong tác phẩm của các họa sĩ MTĐD như đã nói trên, Ngô Đức Thịnh nhận

định: “do có sự đứt đoạn lớn với truyền thống từ thời Trường CĐMTĐD, nên khi

quay trở lại với những biểu tượng phương Đông, thì các hoạ sĩ hiện đại sử dụng yếu

tố truyền thống như một chất liệu về hình ảnh nhiều hơn công cụ tư duy” [89,

tr.485]. Về nhận định này, NCS cũng thấy cách nhìn về hội họa Việt Nam hiện đại

của Ngô Đức Thịnh phần nào đó gần với cách nhìn của một số học giả phương Tây

khi xem những bức tranh Thangka dưới góc độ nghệ thuật trang trí nên chưa thực

sự bao quát được diện mạo những tác phẩm lớn của hội họa Việt Nam hiện đại.

“Bởi chất Á Đông đậm đặc trong các họa sĩ MTĐD (họa sĩ Nguyễn Phan Chánh là

một điển hình) vẫn rất khó hòa tan ngay cả khi được tiếp thu tinh hoa phương Tây

từ những người thầy nhiều tài năng mang những làn gió mới lạ của hội họa của

“Trường phái Paris”; của “thủ đô nghệ thuật thế giới” [37, tr.47] khi ấy đến Việt

Nam. Những người thầy nhiều tài năng ấy [Xem thêm: Phụ lục 2, tr.200] đã đem tri

64

thức, sự trọng dụng nhân tài theo triết lý phương Đông kết hợp với phương thức đào

tạo khoa học của phương Tây cùng những tấm lòng nhân ái, tư tưởng nhân văn cao

cả. Từ “người sáng lập trường và những cộng sự của ông cho rằng điều cần làm

ngay là phải giúp đỡ các nghệ sĩ và nghệ nhân An-nam tìm lại được ý nghĩa sâu xa,

nguồn cảm hứng cơ bản từ chính truyền thống của họ” [72, tr.7] hun đúc tài năng trí

tuệ, ham học hỏi trong họ để trở thành những nghệ sĩ đứng trong đội ngũ tri thức

nhân tài đóng góp lợi ích cho xã hội. Trong số những người nghệ sĩ An-nam ngày

ấy, nhiều người đã là những viên gạch vững chắc của nền mỹ thuật và kiến trúc Việt

Nam hiện đại hôm nay. Chính vì thế nên “từ một góc nhỏ của lục địa Á châu (à

l’angle de l’Asie’, nói theo nhà Đông phương học Paul Mus), mỹ thuật Việt Nam đã

vươn ra thế giới và giữ vị trí riêng biệt” [57, tr.160].

Khi nói đến các thế hệ họa sĩ của nền MTVN hiện đại, Corinne De Ménonville

cho rằng có ba thời kỳ sáng tác tiêu biểu gồm: “thời kỳ Đông Dương (1925-1945),

thời kỳ chiến tranh (1945-1975), thời kỳ đổi mới (1985 tới nay)” [17, tr.39]. Thời kỳ

đầu tiên, những tác phẩm sáng tác có bố cục, tạo hình với các gam màu, bút pháp của

trường phái Hậu Ấn tượng phương Tây đã làm nên tên tuổi của các họa sĩ MTĐD.

Những họa sĩ được đào tạo bài bản theo lối kinh viện hàn lâm, thành danh và trở

thành tấm gương sáng khi ở vai trò người truyền kiến thức cho những thế hệ họa sĩ

tiếp nối. Họ là những họa sĩ đặt nền móng cho nền mỹ thuật hiện đại của dân tộc.

Thời kỳ thứ hai, khi các họa sĩ ở thế hệ thứ nhất phần nhiều tham gia vào kháng chiến

và trở thành những người thầy của thế hệ tiếp nối - các họa sĩ, chiến sĩ được đào tạo,

trưởng thành trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc của đất nước.

Những họa sĩ của Trường Mỹ thuật Trung cấp trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp

gồm các hoạ sĩ Khóa Kháng chiến hay quen gọi tắt là họa sĩ Kháng chiến (1950 -

1954, 22 sinh viên) và những người sinh ra và lớn lên trở thành họa sĩ trong thời kỳ

chiến tranh. Nhiều người trong số họ đã thành danh trong lịch sử NTTH hiện đại của

dân tộc với những tác phẩm sáng tạo của họ, trong số đó nhiều tác phẩm có tác động

và ảnh hưởng tới thị trường MTVN hôm nay. Sau thời kỳ của các họa sĩ Khóa Kháng

chiến, MTVN hiện đại có sự phân chia khuynh hướng và thái độ sáng tác tương đối

rõ ràng của các họa sĩ cùng với những sáng tác của họ ở hai miền Bắc - Nam. Môi

trường đào tạo cùng với những ảnh hưởng từ tác động của hoàn cảnh xã hội, chế độ

chính trị, với phong tục tập quán vùng miền trong bối cảnh sự chia tách bởi chiến

65

tranh, bởi nghệ thuật là tấm gương phản chiếu xã hội. Họa sĩ cũng như các nghệ sĩ

khác trong các cuộc chiến tranh, khi “nhà thơ cũng phải biết xung phong” thì họa sĩ

cầm súng cũng là bình thường. Họ đã làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

“các hoạ sĩ khẳng định vai trò chiến sĩ trên mặt trận văn hoá của các văn nghệ sĩ, chỉ

rõ các sáng tác phải phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến” [104, tr.262]. Vì

vậy, phần nhiều tác phẩm hội họa ở giai đoạn này mang nội dung phản ánh sự khốc

liệt của các cuộc chiến tranh và đề tài xây dựng tiến lên CNXH với bút pháp theo lối

hiện thực chiếm phần lớn trong những sáng tác của các họa sĩ ở miền Bắc. Hội họa

Việt Nam hiện đại trong thời kỳ kháng chiến mang tải chức năng tuyên truyền và

được coi trọng và đặt lên hàng đầu. Họa sĩ miền Bắc một phần đã trở thành cán bộ

công chức, viên chức và một phần trở thành quân nhân. Chính điều đó cũng tạo nên

một nét riêng của nền MTVN hiện đại. Khi nói đến họa sĩ miền Bắc và tác phẩm của

họ ở giai đoạn này, nhiều người thường nghĩ ngay rằng đó là những bức tranh vẽ về

cuộc chiến và những vấn đề xoay quanh nó dù ở khía cạnh sáng tác thế nào đi nữa.

Trong khi đó phần lớn tác phẩm của các họa sĩ miền Nam đã có sự rời xa với tháp

ngà cũ, một số ít tác phẩm mang chủ đề chiến tranh nhưng có góc nhìn khác, đề tài và

nội dung và phương pháp thể hiện có phần đa dạng về hình thức hơn ở tác phẩm của

các hoạ sĩ miền Bắc. Vai trò của người họa sĩ trong họ khá độc lập, chịu tác động của

hoàn cảnh xã hội thị trường thực dụng “miền Nam giờ đây sôi động cởi mở, Mỹ hoá

và nóng bỏng chiến tranh” [78, tr.82], phần nhiều tác phẩm của họ chưa tạo được dấu

ấn thực sự trong lịch sử nền hội họa Việt Nam hiện đại. Các họa sĩ được đào tạo và

trưởng thành ở mỗi cuộc kháng chiến đều có những nét riêng hiện hữu qua những tác

phẩm sáng tạo của họ. Các họa sĩ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ

cũng có thể xem như cầu nối đầy ý nghĩa, nhiều khác biệt giữa các hoạ sĩ cận hiện đại

và đương đại Việt Nam. Thời kỳ thứ ba, một thập kỷ sau ngày đất nước thống nhất,

hội họa Việt Nam chưa có nhiều sự đổi thay mạnh mẽ. Khi những tháng ngày cuối

cùng của thời bao cấp dần trôi về quá khứ, những chính sách Đổi Mới đã kiến tạo nên

những diện mạo thực sự mới, đổi thay ở muôn mặt trong đời sống xã hội cũng như

nghệ thuật. Các nghệ sĩ họa sĩ từ khi được “cởi trói”, họ lao vào sáng tác, trưng bày,

bán ở trong nước, đi ra nước ngoài, hội nhập và hòa chung với dòng chảy của thị

trường mỹ thuật thế giới. Họ hồ hởi, thoải mái như cởi những tấm áo cũ chặt chội đã

mặc lâu ngày. “Hơn 20 năm mở cửa và đổi mới, MTVN chứng kiến sự phát triển

66

bùng nổ không chỉ hội họa hiện đại, mà bên cạnh đó còn có cả những thử nghiệm

nghệ thuật mới như sắp đặt, trình diễn, pop-art, video-art, digital art, v.v.” [52, tr.8].

Sự bùng nổ ấy đã tạo ra muôn vàn sắc thái mới trong tác phẩm của giai đoạn này đến

từ những sự hưng phấn của các họa sĩ. “Đây là một thời kỳ thay đổi. Các họa sĩ Việt

Nam đã trở nên năng nổ, khám phá hơn, cố gắng hòa nhịp với các trào lưu quốc tế

trong khi tận hưởng những lợi ích của tự do nghệ thuật trong khí hậu tốt lành của đổi

mới” [111, tr.5]. Trên những mảng tường của các nhà trưng bày, phòng triển lãm

không chỉ có những tác phẩm hội họa với tư duy chỉ sáng tạo độc tôn theo lối hiện

thực chủ nghĩa hoặc chìm đắm trong ký ức với sự tàn khốc của chiến tranh hay của

những bố cục đường ngang, nét thẳng, của trời xanh, mây trắng nắng vàng trong

những tác phẩm có chủ đề về xây dựng đất nước nữa mà thêm vào đó những chất liệu

thể hiện mới đa dạng phong cách, khác biệt đề tài, khác biệt cả tên tuổi nghệ sĩ. Tất cả

vừa quen mà cũng rất lạ tạo thành một không gian nghệ thuật mới của nền MTVN

hiện đại. Số lượng tác phẩm hội họa của các họa sĩ từ đó tăng vọt thấy được qua

những cuộc triển lãm ở giai đoạn này. Tự do sáng tác, tự tổ chức trưng bày triển lãm

và có thu nhập nhiều hơn từ việc bán tác phẩm của mình. Nhiều họa sĩ đã rời bỏ vị trí

công chức, viên chức trở thành người nghệ sĩ sáng tác độc lập. Việc tham gia sáng tác

tranh, nộp sản phẩm - tác phẩm thực hiện theo hình thái công xã để hưởng lương theo

chế độ của Nhà nước cũng gần như chấm dứt từ đó. Họa sĩ thị trường cũng là cụm từ

xuất hiện ở thời kỳ thứ ba theo như phân kỳ của Corinne De Ménonville [123].

Khi nói về họa sĩ, tác phẩm hội họa trong sự vận hành của cơ chế thị trường

ở giai đoạn Đổi Mới, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những thay đổi mạnh mẽ mang

tính căn bản của hội họa hiện đại Việt Nam. Điều đầu tiên phải đề cập đến đó là số

lượng họa sĩ, nhà phê bình, các thành phần kết nối giữa họa sĩ, tác phẩm hội họa và

công chúng tiếp nhận đã gia tăng một cách khác biệt so với cả hai giai đoạn trước.

Số lượng các cuộc triển lãm tăng vọt cùng với sự phong phú, đa dạng từ hình thức

đến nội dung, phong cách, bút pháp, v.v., vấn đề về truyền thống hay du nhập trong

nhiều tác phẩm hội họa đều không khó để bắt gặp. Tuy nhiên, yếu tố hạt nhân tạo

nên những sự thay đổi và vận hành nó chưa được nhiều công trình nghiên cứu

chuyên sâu đề cập. Trong giai đoạn này, nhiều họa sĩ tham gia hoạt động thị trường

theo những cách thức khác nhau nhưng trong số những họa sĩ chịu sự tác động chi

phối, ảnh hưởng nhiều nhất của thị trường có thể chia ra mấy loại dạng như sau:

67

Thứ nhất, có số lượng lớn nhất, họ là những họa sĩ được đào tạo qua các trường dạy

nghề vẽ, có kiến thức và khá am hiểu về kỹ thuật nên họ thường làm việc chăm chỉ

như người làm công ăn lương, cho ra những sản phẩm đều đặn, không nhiều cá tính,

hài hòa về hình thức thẩm mỹ phù hợp với sở thích của đại đa số công chúng. Thứ

hai, số này không nhiều, họ có tư duy tìm tòi, “cái tôi” luôn đè nặng trong mỗi sáng

tạo nên họ không mấy khi có số lượng tác phẩm dồi dào, đều đặn và hơn thế nữa tác

phẩm của họ có thể là xa lạ khi đến với phần đông công chúng, thậm chí quái gở,

khó ưa nhìn khi mới xuất hiện. Thứ ba, là những họa sĩ có tác phẩm xuất hiện từ sau

Đổi Mới. Họ là họa sĩ có sự uyển chuyển nên nhiều ý kiến cho rằng, họ mới thực sự

là những họa sĩ thị trường một cách đúng nghĩa nhất khi vừa có thể thực hành nghệ

thuật tốt, vừa có thể đáp ứng được thị hiếu của khách hàng ở những phân khúc khác

nhau. Mục đích kiếm tiền là quan trọng nhưng đồng thời cũng dành nhiều tâm sức,

tài năng để nuôi hoài bão sáng tác nên những tác phẩm nghệ thuật lớn.

Trong bối cảnh xã hội như ở Việt Nam, thị trường tác phẩm hội họa có nhiều

diễn biến bất định, có khá nhiều ý kiến đồng cảm, chia sẻ với các họa sĩ ở nhóm thứ

ba khi cho rằng: “Thôi thì trong lúc chờ đợi làm tác phẩm tốt, phải làm một ít cái

thương mại để lấy kế sinh nhai và một ít tác phẩm bậc trung để gửi triển lãm” [2,

tr.34]. Tuy nhiên, đó chính là yếu điểm lớn của người nghệ sĩ, làm lụi tàn không ít

những tài năng sáng tạo, không thoát khỏi cám dỗ của đồng tiền khi đánh đổi lấy

chất lượng nghệ thuật, phong cách, v.v. miễn là bán được hay đúng với các tiêu chí

để trúng giải thưởng của sự kiện mỹ thuật nào đó. Trong số những họa sĩ thị trường,

có không ít họa sĩ có kỹ năng chuyên môn, năng động nhưng cũng chính họ khi kết

hợp với sự manh mún trong tư duy ngắn hạn, tự phát của nhiều gallery đã tạo ra thị

trường thứ cấp về chất lượng nghệ thuật, cản trở sự phát triển lành mạnh và vươn

tầm ra thế giới của hội họa Việt Nam. Đó là chưa kể tới, “khi có một họa sĩ nào bán

được nhiều tranh thì ngay lập tức có nhiều họa sĩ chuyển hướng và vẽ giống kiểu. Ở

Tp.HCM, khi khảo sát gallery cho thấy, có họa sĩ vẽ kiểu đầu chuột đuôi voi, màu

chép của người này, hình chép của người kia, v.v.” [115, tr.195]. Theo Đào Mai

Trang (2014) Nghệ thuật và tài năng việc “một số nghệ sĩ chấp nhận làm thuê cho

gallery thông qua việc vẽ tranh ‘copy’ theo phong cách của một vài người đã thành

danh để bán. Cách này không thể gọi là làm nghệ thuật mà đúng hơn, chỉ là cách

kiếm sống thuần túy” [98, tr.90].

68

Nhu cầu xã hội về hoạt động mỹ thuật tăng cao từ nửa cuối của thế kỷ trước,

nên nhiều trường nghệ thuật khác cũng mở ban, khoa đào tạo họa sĩ có thể sáng tác

tranh hội họa như Đại học Mỹ thuật Công nghiệp, Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà

Nội, v.v. Hằng năm, trên toàn quốc, các cơ sở đào tạo ra trường số lượng hơn nghìn

cử nhân nghệ thuật có chuyên ngành học về mỹ thuật [Xem thêm: Phụ lục 9,

tr.230]. Theo Trần Khánh Chương (2017) Hội Mỹ thuật Việt Nam 60 năm xây dựng

và phát triển cho biết: năm 2017, có 1.904 nghệ sĩ là hội viên Hội MTVN chủ yếu

là họa sĩ chuyên ngành hội họa, đồ họa và nhà điêu khắc (số lượng họa sĩ này

thường được xem là nghệ sĩ sáng tác chuyên nghiệp). Số lượng hội viên Hội này

sinh hoạt tại Hà Nội là 974 hội viên (chiếm 51,2% số lượng họa sĩ của cả nước),

Tp.HCM có 310 hội viên (16,3%), Thừa Thiên Huế có 48 hội viên (2,5%), còn lại ở

các tỉnh, thành phố khác (29,9%) [15, tr.185]. Ngoài ra, theo NCS nghiên cứu, thu

thập số liệu từ trao đổi, khảo sát với lãnh đạo các Hội Mỹ thuật địa phương như: Hà

Nội, Tp.HCM và trên website các đơn vị đào tạo, v.v. cho thấy số lượng hội viên

hội mỹ thuật của các địa phương cũng khá lớn. Hà Nội có 540 hội viên, Hội Mỹ

thuật Tp.HCM có 677 hội viên, trong số này có người là hội viên Hội MTVN (số

liệu năm 2020). Trường Đại học MTVN mỗi năm có 808 sinh viên theo học, Đại

học Mỹ thuật Công nghiệp (Hà Nội) mỗi năm có 2.000 sinh viên theo học, Đại học

Mỹ thuật Tp.HCM có hơn 1.000 sinh viên theo học hàng năm, Đại học Mỹ thuật

Huế hằng năm cũng có hơn 600 sinh viên theo học, v.v. Qua đó cho thấy nguồn

nhân lực là họa sĩ sáng tạo khá dồi dào đủ để cung cấp một số lượng không nhỏ tác

phẩm hội họa ra thị trường.

Bảng 2.1. Đồ thị phân bố hội viên Hội MTVN ở Việt Nam năm 2017

Nguồn: số liệu do NCS nghiên cứu và tổng hợp từ tài liệu của Hội MTVN và

của Trần Khánh Chương chủ biên (2017), MTVN 60 năm hình thành và phát triển

69

Tóm lại, từ khi những nhà mỹ thuật, họa sĩ - nghệ sĩ tạo hình đầu tiên của

nền MTVN hiện đại xuất hiện tới nay đã ngót một thế kỷ. Từ khi cả xứ Đông

Dương mới có được 8 người theo học hội họa khóa đầu tiên của Trường CĐMTĐD,

tới nay số lượng họa sĩ, người được đào tạo bởi gần 80 trường, ban, khoa đào tạo về

mỹ thuật hằng năm ra trường ở nước ta có tới hàng nghìn người. Đất nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa từ khi khai sinh đến nay đã hơn 75 năm, hơn 45 năm sau

ngày đất nước thống nhất, 35 năm sau Đổi Mới, mỹ thuật Việt Nam có một đội ngũ

nghệ sĩ đông đảo, đa dạng, không ít những tài năng dù còn bộc lộ những bất cập hạn

chế nhưng cũng đã tham gia đóng góp vào sự phát triển trên nhiều lĩnh vực trong

đời sống xã hội, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

2.1.2. Hàng hóa - Tác phẩm hội họa

Tác phẩm hội họa là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật của người họa sĩ; là đối

tượng vật chất được sử dụng để chuyển tải những thông điệp cảm xúc, tâm tư, tình

cảm biểu đạt qua tác phẩm của mình. Chưa có tiêu chí, tiêu chuẩn nào để đánh giá

tác phẩm hội họa được xây dựng thành công thức phổ biến. Nếu căn cứ từ những

quy định hay dựa trên những khái niệm về thuộc tính để phân biệt rạch ròi, đâu là

tác phẩm hội họa và đâu là sản phẩm hàng hóa có ứng dụng, sử dụng yếu tố hội họa

- sản phẩm mỹ thuật ứng dụng thì điều đó chỉ là hết sức tương đối. Mặc dù, trong

sản phẩm mỹ thuật ứng dụng có thể có tác phẩm hội hoạ, nhưng trong tác phẩm hội

hoạ chưa bao giờ có sản phẩm mỹ thuật ứng dụng. Yếu tố hội họa chỉ có thể là một

bộ phận hay tồn tại trên một bộ phận thuộc chủ thể vật phẩm - sản phẩm hàng hoá

có mục đích, công năng sử dụng khác. Không ít hoạ sĩ Việt Nam thường có tâm lý

tách rời hay làm đậm nét khoảng cách giữa kinh tế với nghệ thuật. Họ ít khi nhìn

nhận tác phẩm sáng tạo của mình ở trong vai trò là sản phẩm hàng hoá. Tuy nhiên,

trong hoạt động kinh tế thì tác phẩm nghệ thuật khi đã là hàng hoá thì nó cũng phải

được phân định cụ thể theo bản chất của hàng hoá, nhưng là tác phẩm mỹ thuật hiện

đại thì mọi khái niệm để chỉ ra đâu là ranh giới giữa các lĩnh vực, loại hình hay thể

loại đối với sản phẩm nghệ thuật cụ thể, để định danh thành tên gọi riêng như hàng

hoá phổ thông thì sẽ luôn là điều bất cập và rất khó chính xác. Mặc dù, tác phẩm hội

họa khi đưa nó đến với người mua, thì nó là sản phẩm hàng hoá - hàng hoá văn hoá.

Hiểu theo cách xơ cứng, thì một trong những tuyệt tác của hội họa Việt Nam hiện

70

đại đang được bảo quản, trưng bày tại Bảo tàng MTVN lại là sản phẩm mỹ thuật

ứng dụng. Bởi công năng sử dụng của nó ban đầu theo đặt hàng là bình phong sơn

mài, vẽ để trang trí ở hai mặt trước và sau. Mặt trước là tranh vẽ Thiếu nữ trong

vườn và Phong cảnh ở mặt sau (Bảo tàng MTVN đặt tên tranh) là hai tác phẩm độc

lập hoàn thiện trên một chỉnh thể có kích thước lớn (160 x 400cm, không bao gồm

phần chân đế), sáng tác năm 1939 và là một trong những tác phẩm thành công nhất

của cây đại thụ trong lĩnh vực hội họa sơn mài Việt Nam - họa sĩ Nguyễn Gia Trí.

Ngoài ra, còn có khá nhiều tác phẩm sơn mài, sơn khắc nổi tiếng với kích thước lớn

của các họa sĩ khác nhưng hầu như đều mang công năng, mục đích ban đầu tương tự

và được thực hiện theo những nhu cầu trang trí của khách hàng. Bức bích họa kiệt

tác Bữa tiệc cuối cùng (The last supper) vẽ năm 1495-1498 của Leonardo da Vinci;

hoặc như kiệt tác Bàn thờ thánh Wolfgang (St. Wolfgang Altarpiece) của Michael

Pacher thực hiện 1471-1481 cũng là những ví dụ tiêu biểu.

Từ những trường hợp cụ thể như đã nêu trên, cho thấy có rất nhiều sản phẩm

mỹ thuật ứng dụng, thương mại do người nghệ sĩ sáng tạo đều có thể được nhìn

nhận dưới góc độ là tác phẩm hội họa, nếu xem xét chúng một cách độc lập không

gắn với công năng sử dụng. Điều đó cho thấy, trong một số sản phẩm hàng hóa vật

thể mang tải trong nó ngoài giá trị sử dụng, chúng đều có ít hay nhiều giá trị nghệ

thuật. Nhìn ở góc độ nghệ thuật có thể là tác phẩm hội họa ở ngoài dụng ý cho công

năng sử dụng ban đầu của sản phẩm hoặc tác phẩm nghệ thuật có thể là toàn bộ sản

phẩm hàng hoá, nhưng cũng có khi chỉ là một phần, một bộ phận của sản phẩm

hàng hoá. Điều đó còn tùy thuộc vào đối tượng là chủ thể nào có quyền quyết định

đến hình thức của đối tượng vật chất khi tham gia vào hoạt động sản xuất và thị

trường. Vì vậy, tác phẩm nghệ thuật nói chung hay tác phẩm hội hoạ nói riêng khi

đã tham gia vào hoạt động thị trường thì nó đã là sản phẩm hàng hoá. Khi đã là

hàng hóa thì nó cũng phải tuân theo quy luật của thị trường, nhưng thị trường ở đây

là thị trường văn hóa - nơi mua bán, trao đổi, sử dụng những dịch vụ về những sản

phẩm không thay thế được và trong đó mỗi sản phẩm là một thực thể sống riêng.

Tác phẩm hội họa là hàng hoá, hàng hoá do hoạ sĩ sáng tạo ra là thứ hàng hóa có

“cuộc đời” riêng và khác với vòng đời sản phẩm tiêu dùng. Vì vậy, trong cuốn sách

Hội họa Việt Nam một diện mạo khác, Phan Cẩm Thượng cho rằng “Hội họa cũng

có số phận y như tình trạng con người. Những tác phẩm cũng long đong chân trời

71

góc bể, rơi vào tay người này, người khác, lúc thì cho không ai lấy, khi thì có bạc

tỉ… chúng có đời sống riêng, cũng đi lại, hít thở và được đánh giá, trao đổi, bất

chấp người nghệ sĩ sinh ra chúng có thích hay không” [93, tr.31; 350].

Trong một số nghiên cứu cho thấy, tác phẩm hội họa và câu chuyện thị

trường ở Việt Nam nhiều năm qua còn là vấn đề khá nhạy cảm đối với phần lớn các

họa sĩ khi nhìn tác phẩm hội họa ở góc độ là hàng hóa. Tuy nhiên, dù sáng tạo trên

chất liệu, hình thức nào, v.v. trong giai đoạn sớm của thị trường tác phẩm hội họa

Việt Nam hiện đại, các họa sĩ MTĐD tự hào khi tác phẩm hội họa của họ được công

chúng đón nhận, trở thành những giá trị kinh tế vật chất không nhỏ trên thị trường

và Victor Tardieu đã đúng khi minh chứng được điều bấy lâu ông đã phải rất vất vả

để giải thích, thuyết phục với cấp có thẩm quyền khi đó rằng, việc đào tạo ra nghệ sĩ

ở An-nam là có cơ sở vì tài năng của họ sẽ tạo ra của cải vật chất. Mặc dù, tác phẩm

hội họa vốn dĩ đã là loại hình nghệ thuật bình thường đã khá kén chọn đối tượng

tiếp nhận trong công chúng và điều đó càng được thể hiện rõ khi đem so sánh số

lượng công chúng của nó với một số loại hình nghệ thuật phổ biến khác như điện

ảnh, âm nhạc. Tác phẩm hội họa giá trị tới hàng chục, thậm chí cả trăm triệu USD

của các họa sĩ đương đại như Francis Bacon hay như Jean-Michel Basquiat, v.v. là

ví dụ. Trong khi, nhiều tác phẩm sáng tạo có yếu tố nghệ thuật đỉnh cao, mới lạ,

cùng với những yếu tố thị trường cơ bản tốt khác như nhiều người hâm mộ tác giả

(nổi tiếng), v.v. cũng chưa chắc có ngay được sự quan tâm đánh giá cao của đồng

nghiệp chứ chưa nói tới công chúng tiếp nhận. Điều đó là bình thường đối với tác

phẩm hội họa hiện đại. Nếu không có vai trò của những nhà phê bình thì có lẽ

những tác phẩm như vậy thật khó mà có được sự đón nhận của công chúng, chứ

chưa nói đến những ảnh hưởng và tác động to lớn của nó trong lĩnh vực nghệ thuật

và xã hội. Ví dụ, tác phẩm Những cô nàng ở Avignon (Les Demoiselles d’ Avignon)

của Picasso (sơn dầu, 1907) - tác phẩm hội họa có sức ảnh hưởng nhất trong 100

năm qua hiện đang được trưng bày ở Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại ở thành phố

New York nhưng khi họa phẩm này ra đời thì đồng nghiệp đương thời cho rằng họa

sĩ đang cho các bạn thưởng thức món dầu gai và mướp đắng và ngay cả người bạn

vong niên lớn tuổi hơn là họa sĩ rất tài ba Henri Matisse cũng có thái độ không hài

lòng như vậy. Tác phẩm này được cho là “vô đạo đức” (When it first exhibited in

1916, the painting was regarded as immoral) [159] khi được trưng bày năm 1916.

72

Công chúng chỉ được biết rộng rãi vào đầu những năm 20 của thế kỷ trước, sau khi

André Breton đăng lại bức ảnh và bài viết của “The wild men of Paris: Matisse,

Picasso and les Fauves” của tác giả Frank Gellet Burgess. Thái Bá Vân cho rằng:

“Chẳng cứ gì Picatxô, Gôganh của thời hiện đại, mà cả Đơlackroa lãng mạn,

Cuốcbê hiện thực thời trước ở Pháp, cũng như Malêvích, Gabô hay Vrubel, Rêrich

ở Nga, khi mới xuất hiện đều bị các nhà phê bình và công chúng đại trà la ó” [113,

tr.476-478]. Tác phẩm Đài nước (Fountain) của Marcel Duchamp đã có một ảnh

hưởng vô cùng to lớn đối với giới nghệ thuật, không chỉ riêng giới mỹ thuật kể từ

khi được biết tới. Tuy nhiên, khi tác phẩm ra đời cũng rơi vào hoàn cảnh không mấy

người ưa thích, thậm chí bị từ chối trưng bày khi tham dự triển lãm năm 1917 của

Hội nghệ sĩ độc lập (Society of Independent Artists) tại New York, nếu như không

có bài viết về tác phẩm trên tờ The Blind Man cùng với bức ảnh chụp tác phẩm của

Alfred Steiglitz thì cũng không mấy người biết về nó.

Nhiều công trình nghiên cứu về hội họa hiện đại, cùng với những ghi chép tư

liệu của lĩnh vực khác như văn học, lịch sử và từ những năm tháng tiếp cận, trải

nghiệm cuộc sống thực tế đời sống cùng các họa sĩ của NCS cho thấy, nhiều họa sĩ,

kể cả các họa sĩ MTĐD trước đây trong hoàn cảnh lịch sử của đất nước cho đến thời

kỳ đầu Đổi Mới đều phải tự xoay xở, tìm cách mưu sinh bằng cách đổi, bán tác

phẩm hay nhờ vào đồng lương hoặc nhờ vào tiền trợ giúp của những người thân

trong gia đình. Đời sống của văn nghệ sĩ rất khó khăn, họa sĩ cũng như vậy, rất ít

người có được cuộc sống đầy đủ và có điều kiện sáng tác tốt. Uyên Huy (2011) Một

thoáng cái tôi cho biết: “ngoài những giờ đi dạy ở trường Mỹ thuật, tôi phải làm

thêm bằng nghề đi thu mua bàn ghế cũ trong các làng xóm” [51, tr.173]. Bán tranh,

bán tác phẩm hội họa như bán sản phẩm hàng hóa để có thể tái tạo sáng tạo hay tự

trang trải được những chi phí cho cuộc sống bình thường của mình, của gia đình là

điều hiếm gặp ở giai đoạn trước Đổi Mới. Tác phẩm hội họa ở thời kỳ đó chưa được

coi là sản phẩm hàng hóa có giá trị, “Theo lời kể của nhà điêu khắc Trần Thị Hồng:

thời bao cấp, nhà thì chật tranh thậm chí phải xếp ở ngoài hiên, còn xe đạp thì phải

ở trong nhà, như trường hợp của ông Trần Văn Cẩn” [118, tr.20]. Điều kiện xã hội

khó khăn, tác phẩm hội họa chưa là hàng hóa có giá trị về mặt kinh tế, họa phẩm

khan hiếm tác động, ảnh hưởng khá nhiều đến chất lượng nghệ thuật của những tác

phẩm hội họa sáng tác trong giai đoạn này. Nhiều quy trình kỹ thuật được xem nhẹ,

73

thậm chí bỏ qua trong quá trình sáng tác cũng như hoàn thiện tác phẩm, cùng với

thời tiết khắc nghiệt nên nhiều tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại, trong đó có

không ít tác phẩm của các họa sĩ MTĐD sáng tác trong thời kỳ sung sức của họ đã

bị xuống cấp, thậm chí bị hư hại khá nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến uy tín, giá

trị, giá cả của tác phẩm khi nhìn riêng ở góc độ là hàng hóa. Điều đó cũng trở thành

yếu tố khách quan góp phần tác động tiêu cực đến thị trường tác phẩm hội họa Việt

Nam hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, điều đó khác hẳn với việc làm cẩu thả của nhiều

chủ thể sáng tạo tác phẩm hội họa trong thời kỳ thị trường hội họa bùng nổ sau Đổi

Mới để “chạy theo thị hiếu khách hàng với sự hào nhoáng của nhiều loại chất liệu

phi sơn ta dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém phẩm chất đầy dẫy ở các cửa

hàng văn hóa phẩm, v.v. Không chỉ có sơn mài, lụa, màu dầu, khắc gỗ, v.v. cũng

không thiếu loại ‘tranh chợ’ vẽ cẩu thả, lòe loẹt đóng con triện đỏ cho có chất

“phương Đông” [49, tr.28].

Khi nói đến việc sở hữu tác phẩm hội họa, người ta thường quan niệm đó

phải là bức tranh tồn tại được dưới dạng vật chất tức là đương nhiên ngoài việc cảm

nhận được, nhìn thấy được và phải cầm, nắm, sờ mó được và sở hữu một tác phẩm

hội họa đó là quyền tài sản vật chất của một bức tranh. Điều này không chỉ riêng

của người Việt Nam mà ở đâu cũng vậy. Việc thuyết phục để người nào đó trả tiền

cho một tác phẩm nghệ thuật mà họ không thể cầm nắm hoặc treo lên tường sẽ là rất

khó khăn. Tác phẩm nghệ thuật trình diễn (Performence) là ví dụ. Khi tiến hành

mua bán xung quanh một tác phẩm là vật chất, vật thể cụ thể người mua sẽ thấy

được rõ ràng những gì mình sẽ trả tiền. Nói tới quyền sở hữu tác phẩm hội họa như

Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân, có nghĩa là nói về quyền tài sản của vật thể

ấy, cụ thể là bức tranh có tên Thiếu nữ bên hoa huệ. Theo quy ước của xã hội hiện

đại (Luật SHTT) thì vật thể tồn tại ấy phải là bản gốc. Mặc dù, khái niệm về bản gốc

tác phẩm mỹ thuật ở Việt Nam, đặc biệt là bản gốc tác phẩm hội họa của các họa sĩ

MTĐD trong các hoạt động giao thương đã và đang là những vấn đề tồn tại chưa

khắc phục được trở thành yếu tố tiêu cực ảnh hưởng tới sự phát triển thị trường và

hội nhập của MTVN với thế giới.

Tác phẩm hội họa đó là kết quả của quá trình lao động nghệ thuật sáng tạo

của người họa sĩ, nhưng khi tác phẩm hội họa là hàng hóa trên thị trường thì ngoài

những thuộc tính và những giá trị cơ bản của tác phẩm nghệ thuật hội họa, những

74

yếu tố của môi trường mới, khác xung quanh chi phối, tác động đến sản phẩm hàng

hóa tác phẩm hội họa như: chất lượng, giá trị, giá cả, v.v. Mặc dù khó có thể chi tiết

một cách toàn diện và đầy đủ, nhưng không thể thiếu những yếu tố cơ bản thuộc

lĩnh vực kinh tế đã tổng hòa để hình thành nên những giá trị mới của tác phẩm hội

họa khi nhìn dưới nhãn quan hàng hóa. Những vết dấu của một giai đoạn, một thời

kỳ lịch sử cho tới những yếu tố đặc thù chuyên môn về kỹ thuật, v.v. đều có tác

động không kém phần quan trọng đến tác phẩm hội họa và đặc biệt khi nó trở thành

hàng hóa, hàng hóa văn hóa mang tải thông điệp của nền MTVN hiện đại.

2.2. Thị trường tác phẩm hội họa

2.2.1. Gallery, phòng tranh, người trung gian xúc tiến tiêu thụ tác phẩm

hội họa

Khi nói về thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam ở những thập niên đầu tiên

sau Đổi Mới, người ta thường nghĩ tới gallery và các hoạt động liên quan đến

gallery trong vai trò là thành phần cốt lõi của thị trường sơ cấp. Một thời gian khá

dài sau đó mới có các hoạt động trung gian, dịch vụ khác ngoài gallery tham gia vào

thị trường này.

Gallery trong từ điển tiếng Anh - Việt Cambridge Dictionary là danh từ, có

nghĩa là phòng trưng bày và có thể bán các tác phẩm nghệ thuật. “Gallery đến Việt

Nam qua sự gặp gỡ với văn hóa Pháp và nhu cầu tầng lớp giàu có” [49, tr.26]. Từ

gallery cũng đã được Việt hóa (ga-lơ-ry) từ lâu và trở nên khá quen thuộc trong đời

sống hàng ngày. Trên thực tế, khi nói đến gallery người ta cũng có thể nghĩ liên hệ

tới từ bảo tàng (museum) mỹ thuật, bởi đó đều là thiết chế mỹ thuật sử dụng cho

việc trưng bày và bán hoặc trao đổi tác phẩm mỹ thuật khi thích hợp. Do có chung

những đặc tính như thế nên gallery, bảo tàng được xem như là những yếu tố không

thể tách rời khi nói đến lĩnh vực mỹ thuật.

Đầu thế kỷ XX, thị trường mỹ thuật Việt Nam hình thành, phát triển và dần

vươn ra một số thị trường ngoài nước nhưng sản phẩm chủ lực khi đó là cổ vật,

hàng thủ công mỹ nghệ. Sơ khởi của một thị trường tác phẩm hội họa xuất hiện

ngay sau đó, bên cạnh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mỹ thuật ứng dụng có xuất

xứ từ các làng nghề và trường dạy nghề ở Biên Hòa, Gia Định, Hà Nội, v.v. trong

các đấu xảo do chính quyền tổ chức. Từ gallery trên các bảng hiệu và trở nên phổ

biến trong hoạt động thị trường MTVN thì phải tới những năm 90 của thế kỷ XX.

75

Trịnh Cung (2010) Mỹ thuật Việt Nam - Những vấn đề xoay quanh cho rằng,

“Tạp chí Ngày Nay đã trở thành một gallery mỹ thuật trên giấy đầu tiên của Việt

Nam khi mà cả đất nước lúc bấy giờ chưa có gallery dành cho mỹ thuật” [24, tr.32].

Theo NCS, không chỉ đến khi các họa sĩ cận hiện đại Việt Nam đăng đàn viết bài

nghiên cứu, phê bình tác phẩm của đồng nghiệp trên Tạp chí Ngày nay mới có

“gallery trên giấy” như Trịnh Cung nói mà những hình thái kinh doanh theo mô

thức gallery ở Việt Nam diễn ra từ khá sớm, hoạt động thương mại mỹ thuật theo

nguyên lý cung - cầu của thị trường. Tường Bách (1935) “Sắm Tết” đăng trên trang

28 Tạp chí Ngày nay số 01 năm 1935 viết: “Những hàng tranh bày la liệt thành từng

ô một ở ngoài hiên chợ”. Tham dự trưng bày triển lãm, bán tranh trong các cuộc đấu

xảo (Exposition) của các họa sĩ MTĐD cùng với các hoạt động mỹ thuật tương

đồng khác cũng chính là hoạt động xúc tiến thương mại nhìn dưới góc độ thị

trường. Lương Xuân Nhị cho biết: “Tranh của tôi thường bán được, lần triển lãm

nào ít ra tôi cũng bán được một bức tranh, có khi mang đi triển lãm bao nhiêu tranh

rồi về tay không. Khoảng thời gian này năm thứ hai (1933 - 1934)” [14, tr.557].

Việc bán tranh của các họa sĩ đã được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu

về lịch sử MTVN. Trần Khánh Chương (2012) Hội Mỹ thuật Việt Nam 60 năm xây

dựng và phát triển đã sơ lược kiểm đếm trong khoảng thời gian từ năm 1930 - 1943,

nhiều họa sĩ MTĐD gồm: Nguyễn Phan Chánh, Nam Sơn, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ,

Mai Trung Thứ, Lương Xuân Nhị, v.v đã tham dự khá dầy đặc các hoạt động mỹ

thuật ở ngoài nước như: Đấu xảo thuộc địa năm 1931 ở Paris, Roma; năm 1932 ở

Paris; năm 1935, Triển lãm Quốc tế Mỹ thuật tại Paris; năm 1937 Triển lãm tại Đấu

xảo Paris, tại San Fracisco (Mỹ); năm 1943, triển lãm tranh của ba họa sĩ Nam Sơn,

Lương Xuân Nhị và Nguyễn Văn Tỵ diễn ra tại Nhật Bản, v.v. [15, tr.16]. Ra nước

ngoài thời đó còn không ít khó khăn mà có nhiều hoạt động như vậy, thì hình dung

ngược lại cho thấy hoạt động mỹ thuật ở trong nước đã diễn ra với mật độ dày đặc

và sôi động như thế nào khi có sự hỗ trợ từ các hội, hiệp hội mỹ thuật như: Hội Ái

hữu Nghệ thuật Bắc Kỳ, Hội Khai trí Tiến Đức, v.v. [Xem thêm: Phụ lục 3, tr.202].

Từ những cơ sở dữ liệu như vậy cho thấy một thị trường MTVN hiện đại đã hoạt

động sôi nổi và đa dạng trong suốt thời gian tồn tại của Trường CĐMTĐD.

Sau 20 năm của quãng thời gian các hoạt động về giao thương nghệ thuật hết

sức sôi động đó là cả một khoảng lặng và gần như tác phẩm hội họa Việt Nam vắng

76

bóng hoàn toàn trong những hoạt động như thế ở miền Bắc. Lý do, tất cả các nguồn

lực xã hội đã dành cho kháng chiến. Ở miền Nam, thị trường mỹ thuật có phần sôi

động, “từ 1967 tới 1973 có các giải thưởng hai năm một lần của Chính phủ Sài Gòn.

Nhiều gallery thương mại ra đời, nhiều triển lãm nhóm và cá nhân được trưng bày.

Tác phẩm chủ yếu bán cho người nước ngoài” [78, tr.79]. Đến khi hòa bình được

lập lại, cuộc cải cách công thương nghiệp tư doanh bắt đầu, kinh tế tư nhân dần xóa

bỏ. “Ở miền Nam trước năm 1975 đã có một số tiền đề mở ra thị trường nghệ thuật,

tuy vậy các họa sĩ lúc đó cũng chỉ bán tác phẩm thông qua các cuộc triển lãm -

galơri thực ra cũng chưa có, có chăng là một hai cửa hàng nhỏ gọi là hành lang mỹ

thuật” [87, tr.31]. Tất cả là như vậy. Đến khi đất nước thống nhất, những nỗ lực của

toàn dân tộc tập trung cho công cuộc xây dựng tái thiết đất nước và tiến lên CNXH.

Nền kinh tế kế hoạch tập trung, không có thương mại tư nhân, hàng hóa do Nhà

nước độc quyền phân phối theo tiêu chuẩn định mức trên tem phiếu, sổ, v.v. dẫn

đến hạn chế trao đổi bằng tiền mặt nên không có thuế và gần như triệt tiêu việc mua

bán trên thị trường hay vận chuyển tự do hàng hoá ngoài xã hội. “Không có thị

trường tiêu thụ… tất cả đều sống bằng đồng lương” [14, tr.558] nên những hoạt

động giao thương liên quan tới lĩnh vực hội họa trong thời kỳ trước Đổi Mới cũng

gần như không hoặc rất hiếm khi, nếu có chỉ diễn ra dưới hình thức cá nhân khá kín

đáo tại một số ít các tư gia.

Mỹ thuật, chủ yếu là tranh hay tác phẩm hội họa luôn được xem là một trong

những loại hình nghệ thuật tiên phong về đổi mới sáng tạo và sớm tham gia hoạt

động thị trường thông qua các hoạt động dịch vụ của ngành văn hóa, thương mại

ngay từ buổi đầu thời kỳ Đổi Mới. Khi “các bộ môn nghệ thuật khác đang lúng túng

trong việc hình thành một thị trường nghệ thuật tự do theo đúng nghĩa của nó thì mỹ

thuật và âm nhạc đã thực sự có được thị trường riêng của mình” [115, tr.153]. “Ban

đầu, chỉ từ một vài cửa hàng bày bán hàng lưu niệm cho khách du lịch” [134,

tr.117] (còn gọi là cửa hàng souvernir) của mấy đơn vị sự nghiệp công lập trực

thuộc Bộ Văn hóa, Hội MTVN như: Công ty Xuất nhập khẩu sách báo

(Xunhasaba), Gallery số 7 Hàng Khay (Công ty Mỹ thuật Trung ương), Phòng tranh

thuộc Nhà triển lãm mỹ thuật 16 Ngô Quyền, v.v. rồi sau đó mới có thêm gallery

mỹ thuật của tư nhân xuất hiện ở Hà Nội và Tp.HCM như “cửa hàng bán tranh đầu

tiên do khách sạn Rex phối hợp với Hội Mỹ thuật Tp.HCM” [87, tr.31] đánh dấu sự

77

tham gia, trở lại một cách công khai thành phần kinh tế tư nhân trong hoạt động thị

trường mỹ thuật. Những gallery đầu tiên đó trở thành nơi nhiều họa sĩ Việt Nam

hiện đại được tiếp cận với thị trường một cách chính thức, hợp pháp sau những năm

vắng bóng kể từ khi tham dự những đấu xảo, trưng bày dưới thời Pháp thuộc và của

chính quyền Sài Gòn ở miền Nam. “Từ khi có cửa hàng bán tranh, một số họa sĩ ở

Hà Nội bắt đầu vẽ để gửi bán ở cửa hàng với giá rẻ. Tuy nhiên, bước đầu cũng tạo

ra vấn đề giá trị tác phẩm qua việc mua bán” [14, tr.559]. Cũng kể từ đó, gallery trở

thành một phần quan trọng không thể thiếu bên cạnh hoạt động sáng tác của các họa

sĩ trong việc nâng cao đời sống, khích lệ tinh thần, đổi mới sáng tạo, tạo động lực

phát triển.

Theo Ca Lê Thắng, gallery là một trong những thành tố chính có tác động

chi phối thị trường MTVN hiện đại khi giữ vai trò “cầu nối giữa tác giả với công

chúng” [87, tr.32] trong suốt nhiều năm qua. “Sự xuất hiện hàng loạt các gallery ở

Tp.HCM và Hà Nội. Để lần hồi hình thành hẳn một thị trường tự do của sinh hoạt

mỹ thuật” [115, tr.152]. Không chỉ là cầu nối, Ca Lê Thắng còn cho rằng, một số

gallery đã thể hiện vai trò bệ đỡ, trở thành những “mạnh thường quân” cho sự phát

triển của MTVN, khi đã mua cả ngàn tác phẩm hội họa với tổng giá trị lúc mua lên

tới hàng trăm ngàn USD, như Lamson gallery là ví dụ. Vì vậy, vị trí và vai trò của

gallery là hết sức quan trọng trong việc góp phần hình thành thị trường mỹ thuật.

Do đó, Phan Cẩm Thượng cho rằng: “đáng nhẽ từ lâu, giới mỹ thuật cần đưa các

gallery vào hoạt động mỹ thuật chung và kết nạp các chủ gallery vào hội mỹ thuật”

[94, tr.40]. Khi “hơn 80% tranh Việt Nam hiện diện ở nước ngoài đều nhờ vào sự

năng động của khoảng 100 gallery đang hoạt động trong cả nước” [41, tr.45]. Thị

trường mỹ thuật nhìn từ hoạt động của các gallery đã làm thay đổi cơ bản đời sống

cũng như sáng tác của nhiều họa sĩ Việt Nam hiện đại, đó cũng được cho là nguyên

do kết thúc sự nghiệp công chức của nhiều họa sĩ là cán bộ làm việc trong một số cơ

quan nhà nước khi họ đã có tiền thu nhập từ việc bán tranh và có thể nhiều hơn rất

nhiều so với việc đi làm hưởng lương được trả bởi các cơ quan đó.

Gallery trở thành mối gắn kết bền chặt, cùng chia sẻ lợi ích với họa sĩ khi đã

làm tốt chức năng tìm “đầu ra” cho tác phẩm sáng tạo của họa sĩ, giúp hội họa hòa

nhập với kinh tế thị trường. Ba thập kỷ rưỡi đã trôi qua kể từ ngày Đổi Mới, gallery

gần như giữ vị trí độc tôn với vai trò là nơi bao tiêu cho sản phẩm sáng tạo của họa

78

sĩ trước khi có những cạnh tranh khác có phần mới mẻ hơn. Trải qua từng ấy năm

không có sự thay đổi nào đáng kể so với khi nó mới xuất hiện, các gallery ở Việt

Nam đa phần vẫn nghiệp dư, chưa chuyên nghiệp khi khăng khăng giữ lợi ích từ

những chức năng tối giản chỉ là nơi bán tranh, sản phẩm mỹ thuật, rất ít gallery thi

thoảng có tổ chức triển lãm cho một vài họa sĩ đã được định danh về việc bán tranh

trên thị trường. “Chủ gallery không có bằng cấp gì (Bằng quản trị kinh doanh nghệ

thuật, Manage of art), không hề vì mục đích kinh doanh nghệ thuật chung của xã

hội, thuần về lợi nhuận, nên họ kinh doanh không hạn chế đối tượng, nghĩa là ai bán

chạy thì kinh doanh, không mời được nghệ sĩ thì làm tranh giả” [94, tr.41]. Trần

Hậu Tuấn - nhà sưu tập tác phẩm mỹ thuật khá nổi tiếng cho rằng: “đa số các

gallery hoạt động vì mục đích kinh tế. Lấy ‘thước đo đồng tiền’ để định giá trị nghệ

thuật” [108, tr.78]. Điều này khác khá xa so với các hoạt động ở gallery một số

quốc gia, nhất là các quốc gia có thị trường mỹ thuật phát triển trên thế giới cũng

như ở khu vực. Trong cỗ máy của nền CNVH, khi một gallery hoạt động tức là một

loạt các thành tố cấu thành khác là các “mắt xích” sẽ cùng vận hành. Tựa như khi

nói đến thị trường mỹ thuật (arts market) ở châu Âu, Mỹ hay các nước BRIC thì

không thể nào bỏ qua những hoạt động tương đồng hoặc có gallery như nhà đấu giá

(auction house), chợ nghệ thuật (art fair), v.v. và những thành phần tương hỗ xung

quanh họa sĩ với tác phẩm của họ gồm: Nhà phê bình nghệ thuật, môi giới nghệ

thuật (art dealer), giám tuyển nghệ thuật (curator), nhà báo và các công nghệ quảng

cáo, tài chính, v.v. tạo thành hệ thống dây chuyền vận hành trong nền CNVH mà

sản phẩm kinh doanh là “một hình thái nguyên tố của của cải” - tác phẩm mỹ thuật.

Trường hợp của Johnson Chang - giám tuyển, nhà buôn nghệ thuật ở Hồng Kông

hợp tác thành công với Li Xianting - một trong những nhà phê bình nghệ thuật có

ảnh hưởng nhất Trung Quốc những năm 1990 đã bắc cầu cho mỹ thuật hiện đại

Trung Quốc đến với thị trường mỹ thuật thế giới chính là ví dụ điển hình. Trịnh

Cung (2017) Nhận định và những câu hỏi về mỹ thuật cho rằng thị trường tranh ở

phương Tây phát triển nhưng có một thực tế đáng lo ngại khi họ dùng truyền thông

quảng cáo và tài chính mua chuộc giới phê bình với mục đích nắm giữ và chi phối

thị trường này. Những nhà trí thức bao gồm: những nhà triết học cũng như nhà văn

diễn ngôn thuyết giảng để làm nổi bật sự vô giá của tác phẩm mỹ thuật đến với

những doanh nhân - đối tượng mới nhiều tiềm năng sưu tập và khi đó, “thị trường

79

mà giá cả luôn bị định đoạt bởi những nhà kinh doanh nghệ thuật với sự trợ giúp

của ngành quảng cáo thượng thừa bùa phép” [23, tr.25]. CNVH ở phương Tây đã

đạt tới đỉnh cao khi họ nâng giá trị của những tác phẩm hội họa lên tới những mức

giá mà trước đó không có nhiều người nghĩ tới được. Hơn nửa tỷ USD (594,6 triệu)

là tổng giá trị chỉ của 10 tác phẩm hội họa đắt giá nhất trong mấy cuộc đấu giá mỹ

thuật năm 2013, trong khi đó thị trường chứng khoán - hàn thử biểu của nền kinh tế

Mỹ có chỉ số giảm, cùng với nợ công nước này tăng ở mức cao. Tuy nhiên, sẽ là

thiếu sót nếu không nhắc tới bức tranh Đấng cứu thế (Salvator Mundi) được cho là

của Leonardo da Vinci, tại Nhà đấu giá Christie’s ở New York ngày 15/11/2017 đã

được bán với giá 450,3 triệu USD (tương đương với giá trị khoảng 1 triệu tấn trên

tổng số 5,79 triệu tấn gạo xuất khẩu năm 2017 của Việt Nam). Những liên kết chặt

chẽ đó tạo nên nền CNVH nhưng lại trở thành khoảng trống cách biệt khi nói đến

khả năng tiếp nhận nghệ thuật của công chúng.

Gallery tại Việt Nam cũng học tập, áp dụng những cách thức tương tự như ở

thị trường nước ngoài để thu lợi bằng cách nâng giá tác phẩm nghệ thuật và “lùa bò

tơ” vào guồng quay kinh doanh của họ, bởi nguyên tắc kinh doanh bao giờ lợi

nhuận cũng ở vị trí số một, nhưng lại chưa làm được. Tuy không mấy khác nhau về

bản chất, nhưng khác nhau về cấp độ, tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực cũng như

những đặc thù của thị trường và từ những hạn chế trong chính sách, công tác quản

lý là những tác nhân cơ bản được nhận diện khá rõ trên thực tế. Gallery ở Việt Nam

hầu như chưa có mối liên kết với các nền tảng hỗ trợ khác có liên quan để vận hành

theo lối chuyên nghiệp.

Phòng tranh, gallery bùng nổ về số lượng trong một thị trường tự phát khi

nhiều người cùng kinh doanh, lợi nhuận cao, “không phải bỏ vốn nhiều, chỉ cần một

căn phòng đẹp, sáng sủa là đủ. Tranh thì thiếu gì …gallery còn là một lĩnh vực bỏ

ngỏ của cơ quan quản lý văn hóa. Dễ quá, dường như ai muốn kinh doanh là cứ mở

cửa hàng” [49, tr.27]. Do việc kinh doanh thuận lợi nên từ một vài cửa hàng chủ yếu

bán sản phẩm lưu niệm cho khách du lịch ở Hà Nội, Tp.HCM chỉ trong một thời

gian ngắn đã nở rộ lên đến mấy trăm gallery, phòng trưng bày lớn nhỏ. “Nửa sau

của thập niên 90 là một giai đoạn mà người người vẽ tranh, nhà nhà bán tranh”

[115, tr.232]. Nhiều phố “buồn nâu” ở Hà Nội, bỗng chốc tưng bừng gột bỏ rêu

phong vì nhiều mảng màu tươi sáng của phố mới - phố tranh Tràng Tiền, Hàng Gai-

80

Bông, Lý Quốc Sư, v.v. chưa kể tới phòng ở của những gia đình cũng tận dụng diện

tích để treo bày thành gallery và tại Tp.HCM, rồi những con phố ở Hội An cũng

tương tự như vậy. “Sự phát triển mang tính tự phát và bùng nổ, đặc biệt ở Hà Nội và

Tp.HCM mỗi nơi cũng đến số trăm, nếu tính cả gallery nằm trong những nhà ga,

khách sạn. Trên báo chí, truyền thanh hầu như ngày nào cũng thấy một ông họa sĩ

tươi cười đứng giữa hoa, tranh và bạn bè của buổi khai mạc phòng tranh” [49,

tr.27]. Số lượng gallery ở Hà Nội, Tp.HCM, Hội An và thành phố Huế vào những

năm 2006 - 2007 chiếm 90% trong số 425 gallery của cả nước. Trong tổng số các

gallery đó (số liệu của NCS), có 358 gallery (85%) chủ các gallery chỉ là người có

đủ điều kiện mở cửa hàng để kinh doanh, nên hầu như không có kiến thức chuyên

môn về lĩnh vực hội họa. 67 gallery (15%) còn lại hoạt động chuyên nghiệp hơn,

trong đó có khoảng 10 gallery thường được một số họa sĩ bán được nhiều tranh trên

thị trường nhắc tới với vai trò ảnh hưởng quan trọng đến thị trường MTVN. Chủ

những gallery này là “những người có liên quan tới hội họa. Họ có cha mẹ, anh chị,

con em, bạn bè hoặc chính họ là họa gia đang hành nghề” [87, tr.31].

Phần lớn các gallery ở Việt Nam hoạt động không chuyên nghiệp, nên ngoài

việc vận hành theo tư duy “đường ai nấy đi” thì hầu hết họ chỉ quan tâm đối tượng

khách hàng là người ngoại quốc, đặc biệt trong khoảng thời gian hơn 20 năm đã qua

kể từ sau Đổi Mới. Do tư duy hoạt động kinh tế manh mún, nhỏ lẻ cùng với điều

kiện khó khăn, thu nhập thấp, thưởng thức nghệ thuật chưa là nhu cầu quan trọng

của đại bộ phận người Việt Nam và tác động từ thói quen, ứng xử thời chiến vẫn

còn sâu đậm trong đời sống xã hội, gallery hoạt động thiếu chuyên nghiệp so với

các nước phương Tây, khi ít liên kết chặt chẽ với giới phê bình, nhà văn cùng sự trợ

giúp của công nghệ truyền thông quảng cáo để làm “bùa phép”, “thổi” giá trị tranh

của họa sĩ lên cao để thu lợi nhiều hơn. Hiệu quả không cao cùng sự hoài nghi trong

mối quan hệ giữa gallery, họa sĩ với nhà phê bình. Mặc dù chưa có nghiên cứu chỉ

ra những lý do cụ thể khiến các gallery ở Việt Nam không sử dụng mấy hình thái

liên kết như vậy, nhưng trên thực tế đã phản ánh rõ: Thứ nhất, do thói quen làm ăn

theo lối tư duy nhỏ lẻ, ngắn hạn vẫn bao trùm các hoạt động gallery. Thứ hai, chủ

các gallery phần nhiều là người kinh doanh theo hình thức “mở cửa hàng” vốn nhỏ,

ít có kiến thức về kinh doanh nghệ thuật. Thứ ba, không tin tưởng vào khả năng của

những nhà phê bình ở Việt Nam có khả năng làm “bùa phép” để cùng với truyền

81

thông “thổi giá” tác phẩm của các họa sĩ như nước ngoài vẫn thường làm. Đây là lý

do cốt lõi. Vì, thiếu nguồn nhân lực, bởi “cả nước nói chung cũng chỉ có vài người

là có tiếng nói trong phê bình, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu” [115, tr.190].

Trong khi đó, “nhiều nhà phê bình mỹ thuật thế hệ trước không được đào tạo chính

quy về mỹ thuật, thường ở bên sử học, ngữ văn chuyển sang lâu dần mà thành, đã

dẫn đến mặc cảm về nghề do không cảm thụ được tác phẩm, không đọc được nội

dung mỹ học của tác phẩm” [102, tr.15] và đặc biệt là nguồn sử liệu hạn chế từ nhận

thức và thói quen ít ghi chép của người Việt. Nguyễn Phi Hoanh cho rằng: “Từ

trước đến giờ, trong việc nghiên cứu lịch sử của dân tộc ta, có một chỗ trống là lịch

sử mỹ thuật chưa được nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống. Không phải vì thiếu tài liệu,

mà có lẽ vì chúng ta chưa nhận thức được đúng đắn sự quan trọng của vấn đề” [35,

tr.5]. Điều này khác hẳn với quốc gia láng giềng phía Bắc nước ta, khi họ có cả một

đội ngũ các nhà lịch sử, phê bình chuyên nghiệp cùng với việc ghi chép rất khoa

học. Bức Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ của Đại Việt được họ ghi lại, xếp vào hạng

nhất quốc bảo thư họa cổ đỉnh cao trong “Trung Quốc cổ đại thư họa mục lục” là

như thế. Mặt khác, nhiều nhà phê bình mỹ thuật thiếu “chất liên tài” như cách nói

của Trần Quốc Vượng, đặc biệt hơn cả lại là việc thiếu tính khách quan đúng đắn

trong những nhận định về nghệ thuật”. Thái Bá Vân nói về vấn đề này trong cuốn

Tiếp xúc với nghệ thuật như sau: “mấy nhà phê bình hay to tiếng lâu nay về chủ

nghĩa hiện thực XHCN đã khuyên Ban thư ký Hội (nghệ sĩ tạo hình) nên suy nghĩ

kỹ. Liệu Bùi Xuân Phái sẽ phục vụ công chúng cái gì ngoài những phố cổ buồn bã

và nhỏ bé? Và liệu Nguyễn Sáng sẽ đem đến cái gì ngoài những bức tranh theo sau

Matixơ và Picatxô hàng nửa thế kỷ” [113, tr.477-478]. Trong cuốn sách Mỹ thuật

Huế, Nguyễn Tiến Cảnh làm chủ biên khi nhận xét về cuốn sách Lược sử Mỹ thuật

Việt Nam của Nguyễn Phi Hoanh đã cho rằng: “Những người làm công tác nghiên

cứu, những nhà LLPBMT thì rất nhiều người khi đánh giá tác phẩm nghệ thuật lại

có cái nhìn từ giác độ chính trị nên không còn khách quan, hướng người quan tâm

đi sai hướng như: “tác giả Nguyễn Phi Hoanh khẳng định: Tượng ở các lăng từ Gia

Long về sau có thể nói là thuộc vào loại ấu trĩ của nghệ thuật” [10, tr.82]. Vì vậy,

“bức Hào của Dương Bích Liên dự triển lãm năm ấy chỉ được treo ở chỗ tranh bị

loại” [43, tr.141]. Phạm Quang Trung (2001) “Phê bình mỹ thuật ở Việt Nam hiện

nay Những vấn đề cần quan tâm” đặt ra câu hỏi: “Tại sao hoạt động Mỹ thuật phê

82

bình yếu kém, phải chăng là sự bất cập của hệ thống nghiên cứu, giảng dạy trước

những biến đổi phong phú của đời sống Mỹ thuật hiện nay?” [102, tr.14]. Nhưng

trên thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, những người được đào tạo học hành bài bản, có

khá nhiều công trình nghiên cứu, có trình độ nhưng ngại va chạm vì công việc này

“đòi hỏi một không khí rất dân chủ, và những người nghệ sỹ cầu thị, điều mà chúng

ta còn thiếu” [146] nên hiếm khi tham dự, viết bài phê bình cụ thể mặc dù họ có đủ

khả năng làm được. Từ đó cho thấy NCPBMT ở nước ta còn nhiều bất cập, chưa tạo

được niềm tin. Chính vì những lý do như thế, nên các “mắt xích” trong nền CNVH

lĩnh vực mỹ thuật như Trịnh Cung nói không khớp được với nhau thành dây chuyền

vận hành.

Những năm đầu của thời kỳ Đổi Mới, tác phẩm hội họa Việt Nam đến với thị

trường một cách khá bình dị, chủ yếu là qua việc gửi tranh treo bán của một số cửa

hàng tạp phẩm mỹ thuật, tiền thân của các gallery sau này. Gallery không có nhiều,

chỉ đếm trên đầu ngón tay nhưng lại hoạt động khá chuyên nghiệp ở Hà Nội như:

Nam Sơn, Đông Sơn, Sông Hồng (đều đã đóng cửa), ở Tp.HCM có Tự do là gallery

mở cửa đầu tiên năm 1989 (đã ngừng hoạt động). Sau đó là sự xuất hiện các gallery

Apricot, Cọ xanh, Thăng Long, Vĩnh Lợi, Quỳnh, v.v. Gallery luôn ở vị trí độc tôn

tác động tới phần lớn thị trường tác phẩm hội họa, cho tới khi xuất hiện hình thái

tương tự nhưng mới hơn. “Gần như 100% gallery mời họa sĩ triển lãm và lấy %

tranh (có thể là % cho từng bức, có thể là 30% đến 50% doanh thu của triển lãm), số

tiền % này, nhiều gallery tính bằng cách dựa trên sức bán” [2, tr.34]. Tuy nhiên,

trong quãng thời gian đó, không chỉ có gallery mới là nơi bán tranh. Cùng tham gia

vào việc bán tranh với gallery là các họa sĩ. Họ thường tự hỏi: “không hiểu tại sao

lại cứ phải tiếp tục bán tranh qua các gallery?”. Khi phần lớn tác phẩm bày bán tại

gallery thường ở dạng ký gửi. Có nghĩa là ngoài nơi treo bày, gallery không phải đầu

tư tốn kém gì nhiều. Trong khi đó, “một tác phẩm bán được chủ gallery được hưởng

từ 15 đến 25% tùy theo uy tín và quy mô của gallery” [87, tr.31]. Tại sao lại phải

mất những phần trăm ấy? nên nhiều họa sĩ đã lập trang thương mại điện tử cho

riêng sáng tác của mình. Phạm An Hải hay Hà Mạnh Thắng là ví dụ. Nhiều họa sĩ

khác ít thành danh hơn cũng có trang website cá nhân và hầu hết trên những website

của họ cũng đều được thiết kế chuyên nghiệp với ngôn ngữ tiếng Việt, tiếng Anh để

các họa sĩ giới thiệu về nghệ thuật của mình. Luôn sẵn sàng cho hoạt động “tự sản,

83

tự tiêu” khi có thể, thậm chí tận dụng cơ hội ngay khách hàng có nguồn gốc từ

chính đối tác ban đầu của gallery hay từ các tổ chức môi giới trưng bày, quảng bá

giới thiệu tranh cho mình. Vì vậy, Natalia Kraevskaia (2005) Từ hoài cổ hướng

sang miền đất mới cho rằng: “trong đời sống nghệ thuật hiện đại ở Việt Nam, một

số gallery đã thất bại trong việc khuếch trương một nhóm nghệ sĩ bởi vì thiếu cơ sở

nhận thức và các gallery cũng mất đi động cơ để làm điều này, vì các nghệ sĩ cứ

chạy hết từ gallery này sang gallery khác để kiếm tìm những đồng đôla” [61, tr.49].

Nhiều gallery lại phải cạnh tranh với chính họa sĩ của mình vì những lý do đó. Mặc

dù, NCS chưa có dịp khảo cứu diện rộng trên toàn quốc, nhưng trên thực tế tiếp cận

với không ít họa sĩ cho thấy, nhiều người trong số họ đã ứng xử với hoạt động mua

bán tranh theo cách làm như vậy. Đây là những hạn chế đã tạo thành thói quen và

không nhận được sự ủng hộ từ phía gallery, các tổ chức quảng bá xúc tiến thương

mại đến với các họa sĩ Việt Nam khi tham dự vào hoạt động thị trường có tính

chuyên nghiệp. Theo một người am hiểu, tham gia hoạt động thị trường mỹ thuật,

có thời gian công tác hơn 30 năm tại bảo tàng mỹ thuật lớn kể từ thời kỳ đầu Đổi

Mới và cộng tác nhiều với giám đốc điều hành một gallery quốc tế không nhỏ ở

Hồng Kông cho biết lý do tại sao một số gallery, nhà đấu giá lớn ở khu vực và trên

thế giới như Lã Vọng gallery, Sotheby’s Hong Kong, v.v. đã đến và có khởi đầu tốt

đẹp với các họa sĩ lại không tiếp tục chung con đường cùng sự phát triển với thị

trường mỹ thuật Việt Nam còn non trẻ với đầy tiềm năng. Bởi, sau những buổi ban

đầu nhiều niềm tin và hy vọng ấy, họ đều đã phải rời bỏ hoặc từ chối đầu tư vào thị

trường mỹ thuật vì họa sĩ Việt Nam sẵn sàng trực tiếp giao thương với khách hàng

của gallery cũng như làm phiên bản cho chính tranh đã bán của mình.

“Gallery không chỉ là chuyện mua bán” là tên bài viết của Nguyễn Hùng

đăng trên tạp chí Mỹ thuật thời nay [49] khẳng định “sự thiếu đứng đắn của gallery”

trở thành “con sâu làm rầu nồi canh” mỹ thuật Việt. Không riêng gallery, khi nói về

đạo đức nghề nghiệp của nghệ sĩ, họa sĩ đương đại trong “nồi canh” ấy, Dương

Tường cho rằng: “về cái đức của kẻ sĩ thì văn nghệ sĩ, trí thức Việt Nam ngày nay

thua xa các cụ ta ngày xưa” [112, tr.130]. Sau mở cửa Đổi Mới, khi nhu cầu về tác

phẩm hội họa đã trở thành món hàng luôn được kiếm tìm, nguồn tranh chất lượng

tốt được tích lũy nhiều năm trước của các họa sĩ đã dần cạn kiệt, trong khi nhu cầu

thị trường vẫn cần một số lượng lớn đáp ứng cho khách hàng, nên từ đó cũng là lúc

84

tranh giả bùng phát, bộc lộ bất cập của mặt trái cơ chế thị trường. Những nguyên

nhân góp phần “đóng băng”, không hoàn thiện được sau hơn 3/4 thế kỷ của thị

trường tác phẩm hội họa Việt Nam được lý giải, do những “nồi canh đã rầu” bởi sự

phát triển tự phát với những manh mún nhỏ lẻ còn được bổ sung bởi tính dị biệt tiêu

cực, bản sắc nhạt nhòa, thiếu cá tính trong sáng tạo nghệ thuật và tiềm ẩn nhiều

những rủi ro khi tham gia đầu tư. Qua chặng đường dài đó, gallery vẫn không là nơi

cung cấp những thông tin có uy tín về họa sĩ giúp đối tác có thể kiểm chứng.

Hiện nay, Gallery và phòng tranh đã thay đổi giảm về số lượng và quy mô so

với thời điểm những năm đầu thế kỷ XXI. Hoạt động gallery chủ yếu theo ba mẫu

hình cơ bản gồm: Một là theo hướng chuyên nghiệp hơn khi sử dụng nguồn cung là

các họa sĩ có danh, thương hiệu đã được định vị trên thị trường; Hai là các gallery

có kinh doanh tác phẩm của các họa sĩ ít hoặc chưa thành danh, trưng bày kết hợp

với các sản phẩm mỹ nghệ cao cấp; Ba là các gallery, phòng tranh (có số lượng

nhiều nhất) kinh doanh sản phẩm, phụ phẩm mỹ thuật, tổ chức chép tranh, làm tranh

nhái và nhập khẩu tranh thương mại, v.v.

Bảng 2.2. Đồ thị diễn biến thay đổi về số lượng gallery/phòng tranh tại Hà

Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, phố cổ Hội An - Quảng Nam và các tỉnh, thành

phố khác trong phạm vi cả nước (các năm 1986, 1996, 2006, 2016 và 2020)

Nguồn: Số liệu đi điền dã và khảo sát thực tế của NCS

+ Hà Nội có 186 gallery, phòng tranh chiếm khoảng 58% trong tổng số

gallery, phòng tranh của cả nước. Chỉ tính riêng phố Hàng Gai - Hàng Bông, Hà

Nội, chiều dài 500m có 24 gallery bày bán tranh. Phố Nhà Chung dài 300m, từ ngã

ba phố Lý Quốc Sư, Nhà Thờ tới Tràng Thi có 17 gallery. Phố tranh chép Nguyễn

85

Thái Học từ bến xe Kim Mã tới ngã tư giao cắt Cửa Nam chiều dài chưa đến 1 km

có 67 cửa hàng, phòng tranh trưng bày và bán tranh (số liệu của NCS năm 2019).

+ Thành phố Hồ Chí Minh có 124 Gallery, trên những con đường được gọi là

“phố tranh” lớn nhất nơi đây phải kể tới đường Trần Phú, Quận 5, cũng với chiều

dài khoảng 500m như đường Nguyễn Thái Học ở Hà Nội, từ ngã năm giao cắt với

đường An Dương Vương đến gần ngã sáu giao cắt với đường Nguyễn Văn Cừ, có

92 cửa hàng tranh, xưởng chép tranh (số liệu của NCS năm 2019). Thứ nhì là đường

Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận 3, chỉ trên đoạn đường ngắn từ ngã tư giao cắt với Lý

Chính Thắng tới gần chùa Vĩnh Nghiêm trước cầu Công Lý có hơn 20 gallery khi

hoạt động sôi động nhất có 28 gallery (số liệu năm 2006) cung cấp các sản phẩm

tranh chép, nhập khẩu nhưng nay chỉ còn lại một số phòng tranh nhỏ.

+ Hội An và thành phố Huế hiện có hơn 80 gallery, trước đây, năm 2005 có

hơn 100 gallery, phòng tranh. Mang tên phố tranh trùng với tên phố tranh ở Hà Nội,

Tp.HCM là đường Trần Phú và đường Nguyễn Thái Học ở Hội An chiều dài cũng

khoảng 1 km, tổng cộng có hơn 96 phòng tranh, gallery trong đó có gần 80 phòng

tranh (hơn 80%) treo bán tranh chép, tranh nhái phong cách, chất liệu của các họa sĩ

nổi tiếng cũng như họa sĩ bán được nhiều tranh trên thị trường.

Mặc dù có số lượng lớn, lợi nhuận thu được từ những hoạt động kinh doanh

của gallery là không nhỏ, nhưng cho tới ngày nay chưa có công trình điều tra nghiên

cứu nào có thể thống kê được nguồn doanh thu của thị trường này. Trong khi, “một

tác phẩm bán được chủ gallery hưởng từ 15 đến 25% tùy theo uy tín và quy mô của

galơri …hàng ngày galơri có thể bán tới 2000 USD (năm 1990) tiền tranh cho

khách” [87, tr.31-32]. Theo Hoàng Anh, gallery “có thể thu tới 30 đến 50% tổng số

doanh thu của triển lãm” [2, tr.34]. Thị trường mỹ thuật và hoạt động gallery cho tới

ngày nay vẫn chưa có giải pháp hiệu quả trong việc quản lý thuế từ việc kinh doanh

tác phẩm mỹ thuật. Nghĩa vụ thuế nộp vào ngân sách nhà nước vẫn chỉ là thuế kinh

doanh hàng hóa phổ thông theo quy định của Luật Doanh nghiệp, thuế nộp vào

ngân sách chưa thể tính được, nhưng chắc chắn là không đúng với thực tế.

Từ các gallery xuất hiện ngay sau Đổi Mới ở Việt Nam đến nay cũng đã ngót

ba thập kỷ tuổi đời như gallery Đông Sơn, Nam Sơn, Appricot, Tự do, v.v. đến

những gallery xuất hiện muộn hơn như: Cọ xanh, Lotus, Craig Thomas, v.v. cũng

có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động này. Mặc dù, yếu tố thị trường

86

là trọng tâm trong tôn chỉ kinh doanh và hoạt động gallery chưa thể tạo lập được

nền tảng tốt cho thị trường mỹ thuật phát triển một cách lành mạnh, bền vững. Dẫu

có những lúc huy hoàng hay mờ nhạt nhưng gallery cũng không hoàn toàn chỉ là

nơi bán tranh của các họa sĩ. Bởi, xét trên góc độ tích cực, gallery cũng có góp phần

phát hiện, nuôi dưỡng tài năng sáng tạo. Thị trường mỹ thuật hiện nay đã thay đổi

về diện và về chất tuy chưa thấy được thật rõ ràng bởi đời sống xã hội đã khác trước

nên việc mua tranh ở thị trường nội địa nhiều hơn phục vụ cho nhu cầu trang trí nhà

riêng, các công sở, trụ sở mới, v.v. cùng với hoạt động xúc tiến thị trường bùng nổ

trên môi trường internet làm cho xuất hiện các hình thái gallery, nhà đấu giá, chợ

nghệ thuật online cùng tham gia, phá vỡ trật tự hoạt động thị trường thuần theo lối

truyền thống. Gallery không còn thế độc tôn chi phối trong hoạt động thị trường,

nhưng gallery và những hình thái tương tự vẫn là nơi đến quen thuộc của nhiều nhà

sưu tầm và công chúng khi tiếp cận tác phẩm hội họa.

2.2.2. Các hoạt động thị trường khác

Các hoạt động theo hình thái trưng bày, triển lãm và gallery luôn là nguồn

xúc tiến, phát triển thị trường quan trọng kể từ khi xuất hiện tác phẩm hội họa Việt

Nam hiện đại đến nay. Sau Đổi Mới, trong thời gian kéo dài khoảng hơn hai thập kỷ

gallery ít thay đổi nên nó không còn là cầu nối duy nhất để khách hàng đến với họa

sĩ. Trong khi đó, vai trò của nhà phê bình mỹ thuật dưới nhãn quan hỗ trợ phát triển

thị trường cũng chưa tỏa sáng. Sự phát triển của khoa học công nghệ và xu hướng

số hóa mạnh mẽ, hạ tầng truyền dẫn thông tin trên internet đã làm thay đổi phương

thức sản xuất dẫn đến thay đổi sâu sắc mọi mặt trong đời sống xã hội. Sự đột phá

của công nghệ số tác động đến cả những lĩnh vực hoạt động sáng tạo nghệ thuật sử

dụng ít hàm lượng công nghệ như hội họa làm cho hoạt động trưng bày, triển lãm

và gallery cũng thay đổi. Gallery không chỉ hoạt động ở hình thái trưng bày, giới

thiệu và bán mua truyền thống như khi mới xuất hiện trước đây nữa mà cũng có

quan hệ tương tác với đối tác, khách hàng, họa sĩ trên môi trường số. Không chỉ có

như vậy, một số hình thái tương tự hoạt động gallery ở Việt Nam cũng xuất hiện

như: chợ mỹ thuật (Art for you, Tết art, v.v.), nhà đấu giá mỹ thuật chuyên nghiệp

(Lý Thị, Chọn, v.v.), sàn đấu giá tác phẩm nghệ thuật online, v.v. cùng tham gia vào

hoạt động thị trường. Những hình thái kinh doanh, dịch vụ, mua bán tác phẩm hội

87

họa đa dạng mới xuất hiện trong thời gian gần đây đã làm thay đổi căn bản về diện

mạo và một phần chất lượng của thị trường tác phẩm hội họa.

Những tiếng gõ búa xác nhận thương vụ mua bán công khai tác phẩm hội

họa đã thành công trong những phiên đấu của nhà đấu giá Chọn ở Hà Nội hay Lý

Thị ở Tp.HCM đánh dấu bước chuyển trạng thái thị trường hội họa sơ cấp sang thị

trường thứ cấp, có sự công khai. Chấp nhận và chuyển tiền từ tài khoản thanh toán

trực tuyến cho tác phẩm hội họa trên các trang thương mại, phòng trưng bày điện tử

đã không còn là điều xa lạ nữa. Việc theo dõi, nghiên cứu và phân tích hành vi, sở

thích, nhu cầu mua hàng hóa hội họa của khách hàng truy cập internet cũng được áp

dụng. Tác động của công nghệ, tiết kiệm chi phí do suy thoái kinh tế, dịch bệnh tạo

điều kiện cho xu hướng hoạt động bán hàng trực tuyến gia tăng (các phòng xem

trực tuyến OVRs - Online Viewing Rooms) làm giảm các hội chợ, đấu giá nghệ

thuật truyền thống bán hàng vật lý mà Art Basel 2019 - 2020 là ví dụ. Tuy chưa

hoàn toàn thay thế được hình thái trưng bày, sàn đấu giá hay chợ mỹ thuật truyền

thống nhưng việc sử dụng hạ tầng internet vào các hoạt động tương tự như hình thái

truyền thống đã làm cho thị trường có những thay đổi đáng kể. Mặc dù, nhiều ý

kiến cho rằng, sẽ là thảm họa nếu như OVRs trở thành hình thái thay thế cho các

hội chợ, phòng đấu giá truyền thống. Số hóa tác phẩm nghệ thuật (digital art), sở

hữu số và bán tranh số gắn nhận dạng bằng công nghệ chuỗi - khối (blockchain), tài

sản số đang trở thành một xu hướng, một phần quan trọng của thị trường. Thương

mại phát triển trên nhiều nền tảng nên vấn đề về bản quyền tác phẩm hội họa càng

được coi trọng, trở thành nguyên tắc hoạt động thương mại. NCS thực hiện việc trao

đổi với 50 họa sĩ đang có tranh bán trên thị trường cho thấy rằng, không có ai chưa

từng sử dụng phương tiện, thiết bị số để thực hiện hoạt động mỹ thuật. 42/100 trong

số những người được trao đổi, thường xuyên sử dụng môi trường internet để quảng

bá cho tác phẩm của họ. 100% trong số họa sĩ đều cho rằng vấn đề về bản quyền tác

phẩm là điều quan trọng trong việc phát triển thị trường mỹ thuật ngày nay. Điều

này đã chứng tỏ sự thay đổi lớn trong tư duy, suy nghĩ và hành động của các họa sĩ.

Bởi trước đây, họ còn rất e ngại cho việc công bố hình ảnh tác phẩm mới sáng tạo

của họ trên môi trường internet vì nhiều lý do khác nhau, đặc biệt là vấn đề tác

quyền, nạn sao chép và làm tranh giả. Những thay đổi trong chuỗi cung ứng đó

cũng làm thay đổi cách tiếp cận và nhu cầu sở hữu của thị trường tác phẩm hội họa.

88

Công nghệ đã làm thay đổi thị trường hội họa và tất cả những gì xung quanh nó. Sự

lan tỏa mạnh mẽ khi công chúng tiếp nhận dễ dàng và đa dạng nên hạ tầng công

nghệ truyền thông trở thành điều kiện tối ưu không thể phủ nhận trong việc phát

triển thị trường. Từ những buổi đấu giá từ thiện tranh, sản phẩm mỹ thuật ban đầu

năm 2015, 2016 với nhiều bỡ ngỡ, rồi đến sự xuất hiện mang tính chuyên nghiệp

hơn của nhà đấu giá Lý Thị ở Tp.HCM, nhà đấu giá Chọn, PI ở Hà Nội, v.v. Thị

trường tác phẩm hội họa đã thay đổi nhiều và nhanh chóng, thị phần trong hoạt

động thị trường của gallery đã giảm đi cùng vai trò và lợi nhuận đã bị thu hẹp một

cách đáng kể, từ khi chợ nghệ thuật thỉnh thoảng lại có phiên, nhà đấu giá Chọn, Lý

Thị, PI, v.v., duy trì hoạt động thường xuyên. Đó là chưa kể đến một số lượng lớn

các trang thương mại điện tử, các OVRs có trưng bày, giới thiệu tác phẩm hội họa

đã cung cấp trực tuyến các thông tin chi tiết, dễ kiểm chứng hơn về bản quyền tác

giả, hay giao lưu với các họa sĩ sáng tác. Số lượng nhiều đáng kể các hoạt động thị

trường mỹ thuật trên môi trường mới này đã có những tác động trực tiếp tới nguồn

khách hàng mới và cả những khách hàng truyền thống có nhu cầu mua bán tác

phẩm hội họa. Trên môi trường số, mọi khoảng cách cản trở đến sự tiếp cận đa diện,

đa chiều đều được khắc phục và tối ưu hóa làm gia tăng sự khác biệt nhiều hạn chế

của gallery ở môi trường thị trường truyền thống khi quan hệ giữa các chủ thể có sự

tương tác, chia sẻ, đồng cảm hơn, không gian và thời gian, khoảng cách địa lý, thậm

chí cả ngôn ngữ giao tiếp đã được thu hẹp đáng kể. Tuy nhiên, sau những thuận lợi

như vậy, thị trường hội họa Việt Nam hiện đại vẫn chưa thực sự thay đổi nhiều về

chất mà chỉ là có sự thay đổi về phương tiện thực hiện. Khi “điển hình nhất gần đây

về tranh giả, diễn ra công khai trên một sàn đấu giá ở trong nước, với giá gõ búa lên

đến vài trăm triệu đồng - chính là vụ bán một bức tranh giả Trần Văn Cẩn” [65,

tr.81] hay như vụ việc bức tranh Con gái nhà văn Dương Thu Hương, v.v. và thị

trường mỹ thuật thứ cấp thực sự còn chưa xuất hiện.

NCS đã tiếp cận, gặp gỡ và trao đổi với 50 họa sĩ độ tuổi từ 40 đến 80 tuổi

hoạt động sáng tác thường xuyên và có tranh bán trên thị trường trong khoảng thời

gian từ năm 1995 đến năm 2020, trong số đó có 03 người do tuổi cao nên đã dừng

sáng tác mới, 36 người (72,0%) và 22 người từ 40 đến 60 tuổi (44%) [Xem thêm:

Phụ lục 6, tr.214] trong tổng số những người được hỏi cho rằng việc đem gửi tranh

tới các gallery để bán và như trước kia không là cách duy nhất họ thực hiện nữa.

89

Môi trường số cùng với các phương tiện vật dụng sản phẩm công nghệ cá nhân

đang giúp họ tiếp cận dễ dàng và bán được nhiều tranh trực tiếp cho khách hàng

hơn mà không phải mất mấy chục phần trăm cho các gallery. Trao đổi và hỏi 10

người sưu tập tranh khá chuyên nghiệp, thường xuyên và những người thỉnh thoảng

có mua tranh để sưu tầm theo sở thích cho thấy ngoài việc xem tranh của các họa sĩ

ở các triển lãm, 100% trong số họ đều theo dõi họa sĩ mình ưa thích trên môi trường

truyền thông và intenet. Trong số khách hàng đồng ý bỏ tiền ra chi trả để sở hữu

những tác phẩm hội họa qua giao dịch trên môi trường số đó, phần lớn trong số họ

(hơn 90%) có phản hồi tích cực về sự hài lòng khi tiết kiệm được thời gian, quãng

đường đi lại so với đến gallery nhưng vẫn có được những thông tin nhanh, kịp thời

theo nhu cầu mà đôi khi tiếp cận thực tế tại gallery cũng chưa thể có hơn được.

Nhiều người trong số họ cũng cho rằng, không có quá nhiều khác biệt khi so sánh

với tác phẩm tiếp cận trên trực tuyến với ngoài thực tế khi họ cần xem trước khi

quyết định sở hữu. Nên có hơn 30% trong số họ khẳng định sẽ tiếp tục sở hữu tranh

theo cách mà họ đang tiếp cận và thực hiện với gallery trực tuyến và 70% cho rằng

cần thiết phải kiểm chứng thực tế trước khi quyết định chi tiền để sở hữu. Tuy

nhiên, cũng có trên 90% trong số họ khẳng định, việc tiếp cận tác phẩm hội họa trên

môi trường số đó giúp họ hài lòng hơn, đồng thời giúp cho họ có thêm kiến thức,

cảm hứng, tự tin hơn để từ đó cũng muốn đi xem tranh và trực tiếp sưu tầm khi có

điều kiện thích hợp.

Qua đó, NCS cho rằng các hình thức gallery sẽ là một phần không thể thiếu

của thị trường tác phẩm hội họa, nhưng đã không còn ở thế độc tôn và sẽ không là

sản phẩm trung gian chính để người thụ hưởng hướng đến khi cần sở hữu tác phẩm

hội họa và tiếp xúc với người sáng tạo.

2.3. Người tiêu thụ tác phẩm hội họa

Không có nền nghệ thuật nào không cần tới công chúng thụ hưởng nghệ

thuật. Không có công chúng tiếp nhận, tiêu thụ tác phẩm mỹ thuật sẽ không có thị

trường mỹ thuật. Thị trường mỹ thuật phát triển thường phản ánh những giá trị tích

cực có thể nhận diện được ở nhiều giác độ xã hội nơi nó diễn ra.

2.3.1. Thị trường hội họa trên thế giới

Nhiều nhà nghiên cứu chia sẻ quan điểm tích cực theo quan sát của giới

chuyên môn về những nhận xét, đánh giá và dự báo thị trường mỹ thuật thế giới đều

90

cho thấy sự phát triển sôi động cùng với những thay đổi tiếp theo đà tăng trưởng.

Thị trường mỹ thuật thế giới kể từ những năm 1980 đã đổi thay đáng kể ngoài trung

tâm mỹ thuật quen thuộc của thế giới trước đây như châu Âu và Mỹ nay đã có phát

triển nhanh chóng ở những nước BRIC; đặc biệt là sự dịch chuyển quan trọng khi

Trung Quốc đã trở thành điểm đến yêu thích của các nhà sưu tập và đầu tư tác phẩm

mỹ thuật. Từ đó, số lượng họa sĩ đã thành danh ở quốc gia này có tên trong bảng

xếp hạng những nghệ sĩ có thu nhập cao nhất thế giới đã tăng lên đáng kể khi tham

gia vào hệ thống cung tác phẩm mỹ thuật quốc tế với tổng giá trị bán tác phẩm của

những người này đã vượt trên mức nửa tỷ USD hàng năm kể từ năm 2013. Cùng xu

thế đi lên về giá của thị trường mỹ thuật châu Á, trong đó có Đông Nam Á làm xuất

hiện tên của nhiều họa sĩ đương đại, họa sĩ Việt Nam lọt vào danh sách tác giả có

tác phẩm với giá bá chạm và vượt ngưỡng một triệu USD. Ví dụ, bức tranh Cuộc

sống gia đình (Family life, 1937-1939) của Lê Phổ đã bán giá 1,172 triệu USD

(tháng 4/2017); hai năm sau (tháng 5/2019) tranh của Lê Phổ, “Bức tranh sơn dầu

Khỏa thân (Nude, 1931) được bán với giá 1,4 triệu USD” [152]; hai năm sau nữa

(tháng 4/2021), bức tranh sơn dầu Chân dung cô Phương (Madam Phuong, 1930)

của Mai Trung Thứ đã bán với giá 3,1 triệu USD. Những thay đổi tích cực về giá trị

tác phẩm ấy đã phản ánh một cách khách quan tốt đẹp về tiềm năng thị trường hội

họa Việt ở ngoài nước, mặc dù thị trường này ở nội địa vẫn còn đang trì trệ chưa

dứt hết thời kỳ suy thoái.

Nhu cầu sở hữu tác phẩm mỹ thuật của công chúng trên thị trường thế giới

tăng mạnh mẽ tạo ra những giá trị lợi ích kinh tế to lớn. Artprice.com thống kê có

khoảng hơn 4.500 tổ chức trên toàn thế giới hoạt động theo mô hình nhà đấu giá tạo

doanh thu thị trường đấu giá tác phẩm mỹ thuật công khai toàn cầu ở các mốc 65,88

tỷ USD (2007); 64,55 tỷ (2011); 68,24 tỷ USD (2014); 67,65 tỷ USD (2018); 64,35

tỷ USD (2019) và 50,06 tỷ USD (2020). Hai nhà đấu giá lớn là Christie’s và

Sotheby’s chiếm 47% doanh thu của toàn cầu; tỉ lệ này là hơn 73% trong những

năm đầu của thế kỷ XXI. Trong thời gian qua, tất cả tác phẩm hội họa không cứ cổ

điển hay hiện đại, v.v. đều tăng giá bán. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường tới

32% và đặc biệt tại thị trường đấu giá tác phẩm mỹ thuật của Trung Quốc với tỷ lệ

tăng tới 49%, trong số 1.675 tác phẩm nghệ thuật có giá đấu vượt trên ngưỡng 1

triệu USD; 59 tác phẩm vượt ngưỡng trên 10 triệu USD; tăng 493% so với những

91

năm đầu tiên của thế kỷ XXI. Thị trường này tiếp tục trở thành kênh đầu tư hấp dẫn

và an toàn của giới giàu và siêu giàu trong bối cảnh thị trường tài chính, dịch bệnh

đầy bất ổn diễn ra trên thế giới.

Sự bùng nổ của thị trường Trung Quốc khiến các nhà đấu giá của họ nắm giữ

vị thế lớn hơn trên thị trường quốc tế, mặc dù họ tham gia vào thị trường này chưa

lâu. Số lượng khách hàng là công dân của quốc gia này tăng lên nhanh chóng nên từ

năm 2007, Trung Quốc đã vượt qua Pháp để trở thành thị trường kinh doanh tác

phẩm mỹ thuật lớn thứ 3 thế giới sau Mỹ và Anh. Đến năm 2010, thị trường Trung

Quốc đã đứng đầu thế giới về lĩnh vực kinh doanh tác phẩm mỹ thuật khi có đến

774 tác phẩm được đấu giá trên 1 triệu USD (2011), nhiều gấp 10 lần năm 2007.

Năm 2020, thị trường của họ chiếm khoảng 39% thị phần mỹ thuật thế giới. Học tập

và làm theo mô hình các nhà đấu giá của Anh, nhưng doanh thu đấu giá tác phẩm

mỹ thuật công khai của Trung Quốc gần gấp đôi của châu Âu, chiếm (41,4%) doanh

thu toàn cầu cách nay một thế kỷ. Bắc Kinh vào danh sách nhóm 10 thành phố hàng

đầu thế giới về hoạt động giao dịch mỹ thuật. Không chỉ có Trung Quốc, các nhà

đấu giá ở khu vực châu Á cũng đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, việc điều

tiết, phân bố lại các thị trường truyền thống đã diễn ra trong những năm gần đây

như là một hệ quả từ những biến động lớn về kinh tế và văn hoá. Mặc dù, cuối thế

kỷ XX sự thống trị của thị trường mỹ thuật là châu Âu và Mỹ với những bộ sưu tập

mỹ thuật của các danh họa cận đại luôn là những sản phẩm truyền thống, trụ cột

vững chắc. Khác hẳn với thị trường ở châu Á trẻ, đầy năng động. Đặc biệt là thị

trường Trung Quốc, được khai mở và cất cánh trong những năm cuối thập niên 90

của thế kỷ trước, ngay khi đó họ đã tạo ra những trào lưu sưu tập mới, chú trọng các

nghệ sĩ đương đại. Ví dụ, Nhà đấu giá China Guardian khai mở năm 1994, chiếm tỷ

lệ 2% của giá trị giao dịch toàn cầu, nhưng đã nhanh chóng vượt lên vị trí thứ ba

trong bảng xếp hạng các nhà đấu giá lớn trên thế giới từ việc bán các tác phẩm mỹ

thuật, chiếm số lượng 7,79% của các cuộc đấu giá tác phẩm mỹ thuật trên toàn thế

giới trong thời gian chưa tới hai thập kỷ (2011). Lý do nào giúp họ cất cánh thành

công như vậy? Khách hàng Trung Quốc chính là những người trả giá cao kỷ lục để

mua những tác phẩm hiện đại của Trung Quốc. Nội lực của thị trường mỹ thuật

Trung Quốc chính là yếu tố giúp họ thành công. China Guardian cũng như các nhà

đấu giá hàng đầu của Trung Quốc, nhóm đầu của thế giới như Poly International (vị

92

trí thứ 4), Council (vị trí thứ 5) và Beijing Hanhai (vị trí thứ 7) đã chiếm lĩnh thị

trường mỹ thuật toàn cầu theo cách như vậy.

Thị trường mỹ thuật châu Á, sau Trung Quốc, Nhật Bản xếp thứ 11 trong số

15 quốc gia có doanh thu đấu giá tác phẩm mỹ thuật cao nhất năm 2012, chỉ thu về

khoảng 53,7 triệu USD, chiếm 0,44% thị trường toàn cầu. Thị trường mỹ thuật châu

Á chiếm 43% thị phần thị trường mỹ thuật toàn cầu và trở thành thị trường mỹ thuật

phát triển hàng đầu thế giới từ năm 2010, 2011 tạo nên sự phân cực mới. Ngoài sự

xuất hiện Trung Quốc, phải kể đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của các quốc gia Đông

Nam Á như Singapore (22%), Indonesia (39%),v.v. Philippines cũng đã có mặt

trong nhóm 20 thị trường nghệ thuật đương đại hàng đầu thế giới.

2.3.2. Công chúng nội địa và thị trường hội họa Việt Nam

Theo Nguyễn Quân, “ở Việt Nam trước thế kỷ 20, có thể nói rằng không có

văn hóa đô thị nên không có lớp nhà giàu đô thị. Cũng không có tầng lớp quý tộc.

Thiếu hai thành phần đủ tiền bạc và có nhu cầu tinh thần - thẩm mỹ này tất không

có việc lưu giữ, truyền bá, mua bán tác phẩm nghệ thuật” [79, tr.2].

Theo NCS, công chúng ở Việt Nam đã tiếp nhận hội hoạ từ sớm, dưới nhiều

hình thức trong đó có việc mua bán. Hội họa và điêu khắc là hai phương thức biểu

đạt sáng tạo của NTTH. Trong điêu khắc cổ, tượng có tượng thờ và điêu khắc có

nhiều chạm khắc theo lối trào phúng (Tiên nữ cưỡi rồng) ở đình làng thì trong hội

họa, tranh cũng có tranh chân dung để thờ và có thể có tranh vẽ theo lối trào lộng

(Đánh ghen) như điêu khắc ở đình làng đã ở những chợ tranh Đại Việt. Điều khác

biệt lớn nhất là ở chất liệu nền để vẽ tranh (lụa, giấy) đều không bền vững như chất

liệu cho điêu khắc nên ít còn tồn tại đến ngày nay. Treo, chơi tranh hay vẽ lên

tường, cột đã trở thành thói quen, truyền thống trang trí trong các cung điện ở Thăng

Long, Phú Xuân, v.v. như đã trình bày ở phần Tổng quan về tác phẩm hội họa Việt

Nam. Hai tác phẩm hội họa có kích thước lớn, mang ý nghĩa lịch sử, có giá trị nghệ

thuật được biết đến ở Việt Nam gồm: bức tranh cổ Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ

[Xem thêm: Phụ lục 1, tr.191] và bức tranh hội họa hiện đại, sáng tác theo đơn đặt

hàng của toàn quyền Đông Dương Maurice Long mang tải “nội dung ca ngợi giá trị

nhân văn cao cả của mẫu quốc Pháp đem văn minh tới cho thuộc địa (La France

Apportant à sa Colonie les Bienfaits de la Civilisation)” [129, tr.19] để trang trí trên

tường của giảng đường Trường Đại học Đông Dương do Victor Tardieu vẽ công

93

phu trong 6 năm (1921-1927). Cả hai họa phẩm đều có tính hội họa cao, kích thước

lớn, được sáng tác theo đặt hàng tại Việt Nam. Điều đó minh chứng cho nhu cầu về

hội họa của công chúng ở thị trường nội địa từ khá sớm và không hề nhỏ.

Natalia Kraevskaia cho rằng: “Công chúng nói chung, bao gồm tầng lớp

trung lưu và thượng lưu - ở Việt Nam người ta thường không mua tác phẩm nghệ

thuật. Đó là lý do tài chính, ngoài ra còn có cả lý do xã hội không kém quan trọng là cho

đến nay ‘nguồn văn hóa’ cao không tập trung trong nhóm người quyền thế và giàu có”

[61, tr.48]. Treo và chơi tranh đã trở thành truyền thống của tầng lớp cao sang trong

những cung đình, vương phủ, bên ngoài xã hội những chợ tranh bình dân đã đi sâu

vào tiềm thức nhiều người dân Việt Nam. Trong Vang bóng một thời của Nguyễn

Tuân có đoạn viết: “Nguyên hồi tôi còn ở chức thủ hiến vùng Hưng Yên, có một

người chánh tổng huyện Ân Thi đem dâng tôi một bức tranh để gỡ mình khỏi một

vụ án hình… bây giờ tôi mới biết là tranh quý… tranh đó, cái chỗ quý giá thì không

biết thế nào mà nói cho hết được. Mua được về rồi con mắt người Mỹ mà nhìn thấy

là chúng ta sẽ có một cái cơ nghiệp để hưởng chung” [106, tr.98-99]. Theo nhận

định của Natalia Kraevskaia như vậy, không hiểu nhà văn Tô Hoài có thuộc tầng

lớp “công chúng nói chung” ấy không? Nhưng ông cũng là người mua tranh và còn

mua để tặng như bức tranh Hào của Dương Bích Liên là ví dụ. Đinh Cường (1993)

“Nguyễn Gia Trí người họa sĩ đã nhìn ra cái khả năng kỳ diệu của sơn mài” khi nói

về việc công chúng sưu tập tranh sơn mài của danh họa MTĐD này cho biết: “Thời

kỳ sau năm 1954 ở miền Nam cho đến năm 1975, nhiều tranh quý của ông được

nhiều người và cơ sở sưu tập, thường nằm trong những biệt thự sang trọng” [25,

tr.31] và bộ sưu tập tranh Nguyễn Gia Trí của bác sĩ Bùi Kiện Tín treo tại hãng dầu

cù là Mac-phsu ở đường Trương Minh Giảng là ví dụ.

Theo lý thuyết kinh tế, “người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ là người

bỏ tiền ra để mua hàng hóa” [50, tr.142]. Hàng hóa là tác phẩm hội họa, người tiêu

dùng là công chúng tiếp nhận. Công chúng luôn là người quyết định việc mua hay

không mua, tiếp nhận hay không tiếp nhận tác phẩm hội họa, có nghĩa là công

chúng là đối tượng quyết định thị trường. Điều đó không riêng ở Việt Nam mà bất

cứ nơi đâu cũng vậy. Ngày nay, khi thị trường mỹ thuật Trung Quốc chiếm tới 41%

doanh thu của toàn cầu, trở thành thị trường mỹ thuật lớn nhất thế giới, nhưng “tất

cả những tác phẩm Trung Quốc đẹp nhất đã nằm trong các sưu tập hay các viện bảo

94

tàng ở London, Tokyo, Paris và nhất là ở Mỹ” [72, tr.28].

Gần thế kỷ đã qua kể từ khi Trường CĐMTĐD được khai mở thì cũng gần

như có cùng quãng thời gian như thế tác phẩm hội hoạ hiện đại tham gia vào thị

trường mỹ thuật. Khi đó, “một số họa sĩ đã bán tác phẩm của mình cho một số quan

chức người Pháp hoặc tư nhân người Việt giàu có” [14, tr.557]. Từ những buổi đầu

tham gia và hòa nhịp nhanh chóng với thị trường mỹ thuật quốc tế đã xuất hiện

những họa sĩ sớm thành danh, khẳng định nét riêng của hội họa Việt Nam hiện đại

trên những thị trường mỹ thuật hàng đầu thế giới. Đó là Nguyễn Phan Chánh với

những tác phẩm phần lớn vẽ trên lụa về đề tài nông thôn như Chơi ô ăn quan, Lên

đồng, v.v.”; Lê Phổ sáng tạo những tác phẩm chân dung tinh tế có phần lạnh lùng

mà đầy nội tâm và huyền bí trong những gia đình Bắc Bộ như Thiếu phụ ngồi, Thời

hạnh phúc, v.v. hay Mai Trung Thứ với những tác phẩm thiếu nữ mắt huyền mi ướt

buồn mang trang phục áo dài, v.v. Hồn cốt văn hóa dân tộc đậm nét trong ngôn ngữ

hội họa, phong cách tạo hình châu Âu ở mỗi tác phẩm của họ đã gây được tiếng

vang trong các cuộc đấu xảo trên những thị trường mỹ thuật quốc tế như Paris,

Roma, Tokyo, New York, v.v. cũng như tại Hà Nội và việc mua tranh của các hoạ

sĩ MTĐD để toàn quyền Đông Dương làm quà tặng ngoại giao đã trở thành một sự

thoát ly thành công, dứt mạch với quá khứ khi biến chuyển sản phẩm mỹ thuật của

người nghệ nhân vô danh trở thành tác phẩm mỹ thuật của những họa sĩ có danh.

Danh tiếng các họa sĩ cùng tác phẩm của họ đã vang về sau thành công tại các hội

chợ đấu xảo mỹ thuật ở ngoài nước trở thành điểm tựa để công chúng trong nước

tiếp nhận và hiểu, đánh giá đúng hơn giá trị những tác phẩm hội hoạ đó. Thị trường

tác phẩm hội họa Việt Nam ở ngoài nước từ những năm 30 của thế kỷ trước, nhiều

nhà sưu tập đã nhắc tới những cái tên như Nguyễn Phan Chánh và Lê Phổ; rồi sau

đó ở thập niên 40 là Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân trở thành những họa sĩ tham gia

vào danh sách các họa sĩ có tác phẩm được kiếm tìm, v.v. Giá tranh ngoài thị

trường, nhu cầu tìm kiếm của khách hàng đối với tác phẩm hội họa cũng là một

kênh đáng kể để đánh giá mức độ thành công của họa sĩ khi danh lợi hay tên tuổi và

tiền bạc thường đi liền với nhau. Điều bất ngờ đến ngay từ lần tham dự Triển lãm

Mỹ thuật Paris năm 1931 của một số họa sĩ Trường CĐMTĐD nên trên nhiều báo

lớn tại Paris trong đó có L’ Illustion, journal universel đã đồng loạt đăng tin về

doanh thu khá cao từ việc bán tranh của họ. Tại trang 2 trên tờ L’Avenir du Tonkin

95

số ra ngày 25/2/1932 đăng tải nội dung như sau: “Kết quả đáng phấn khởi vì doanh

thu từ việc bán tranh của những sinh viên tham dự triển lãm đạt số tiền lên tới

60.000 francs, trong khi đó một mình sinh viên là ông Nguyễn Phan Chánh, đã thu

được 20.000 francs từ các bức tranh lụa. Những thành công đó góp phần quan trọng

khích lệ cho hoạt động mỹ thuật phát triển mạnh mẽ, minh chứng bằng nhiều triển

lãm tranh của cá nhân, nhóm các họa sĩ trưng bày, khai mở từ năm 1933 đến năm

1944 ở Hà Nội như: “Triển lãm tranh lụa của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh tại Địa ốc

Ngân hàng Hà Nội. Năm 1933; năm 1936, triển lãm cá nhân của họa sĩ Lê Phổ…

triển lãm cá nhân của họa sĩ Nguyễn Tường Lân. Năm 1937… triển lãm tranh sơn

mài của cá nhân họa sĩ Nguyễn Gia Trí năm 1939, v.v.” [14, tr.65]. Tác phẩm hội

họa của họa sĩ Việt Nam đã thực sự trở thành món ăn tinh thần và đón nhận được

cái nhìn trân trọng của công chúng đương thời khi mang tới những điều mới mẻ như

tri thức văn hóa sáng tạo, đặc biệt là những giá trị kinh tế không nhỏ từ những hoạt

động giao thương. Những giá trị kinh tế đó là tín hiệu tốt đẹp luận giải cho những

thành công không chỉ trong mối quan hệ giữa nghệ thuật và tiền bạc của người hoạ

sĩ mà còn khẳng định hội họa là loại nghề làm ra tiền, thậm chí làm ra được nhiều

tiền. Từ đó tạo động lực mạnh mẽ, thúc đẩy họa sĩ sáng tác làm cho thị trường trong

nước cũng phát triển. Công chúng nội địa có những tiếp nhận tích cực, cởi mở hơn

tiếp nối những kết quả thành công tốt đẹp đến từ ngoài nước. Thị trường mỹ thuật

đã sớm hình thành ở nửa đầu thế kỷ XX tại Hà Nội, doanh thu từ lĩnh vực này trong

một thập niên đã có được sự tăng trưởng một cách đáng kể. Theo tài liệu lưu trữ của

Cục Văn thư và Lưu trữ Việt Nam, số liệu thống kê về doanh thu từ các tác phẩm

mỹ thuật bán được ở thị trường nội địa năm 1934 là 600 đồng (đồng bạc Đông

Dương); năm 1935 là 687 đồng; năm 1936 ghi nhận mức thấp nhất là 300 đồng. Từ

năm 1937 tăng lên tới 1.600 đồng; năm 1938 là 7.180 đồng; năm 1939 đánh dấu

bước tăng vọt là 24.799 đồng; năm 1940 là 25.422 đồng; năm 1941 là 27.116 đồng;

năm 1942 ghi nhận con số ấn tượng là 41.087 đồng, tương đương với khoảng 65%

giá trị tranh của các hoạ sĩ MTĐD tham dự đấu xảo Paris năm 1931. Điều đó cho

thấy, tuy chưa thực sự có được sự tăng trưởng ổn định nhưng thị trường mỹ thuật

nội địa cũng có nhiều tiềm năng phát triển khi các hoạ sĩ MTĐD đã có được một

lượng khá lớn khách hàng yêu thích và đánh giá cao các tác phẩm mỹ thuật của họ.

Minh Trúc (1935) “Nền mỹ thuật Việt Nam” đăng trên tạp chí Ngày nay số 3 năm

96

1935 cho biết, “những bức tranh khắc gỗ của các ông Trần Bình Lộc, Cát Tường

phổ cập tới mỗi nhà”. Claude Mahoudot (1943) “Nền hội họa Pháp và ảnh hưởng

tại Đông Dương” đăng trên tạp chí L’Indochine khi nói về tài năng, sự độc đáo làm

nên thành công của nhiều họa sĩ MTĐD đã cho rằng, “những họa sĩ An-nam như

các ông Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân - chỉ kể mấy tên đó thôi - đã chứng minh

cho điều đó và họ đã phục vụ hết sức tốt đẹp cho đất nước họ” [72, tr.29].

Công chúng có vai trò quan trọng được ví như một “cánh” trong “đôi cánh”

nâng đỡ nghệ thuật thông qua việc tiếp nhận, tiêu dùng nghệ thuật. Những tài liệu,

công trình nghiên cứu rất hiếm khi ghi lại việc mua, sưu tầm tranh giai đoạn nửa

đầu đến giữa thế kỷ XX ở Việt Nam. Theo NCS, hội hoạ Việt Nam hiện đại sớm có

được sự tiếp nhận và trợ giúp của công chúng trong và ngoài nước ở vai trò của “đôi

cánh” ấy. Công chúng nội địa có không ít những người ở cái “cánh thứ hai” của hội

hoạ Việt Nam. Nguyễn Hải Yến (2013) Hội họa Hà Nội những ký ức còn lại cho

biết: “Vào những năm 50, Hà Nội có mấy nhà tư sản quý tộc nổi bật, trong đó có ba

anh em họ Bùi với những cửa hàng mỹ nghệ vàng bạc lớn tại Tràng Tiền, Hàng

Trống. Các nhà tư sản này không những nổi tiếng trong kinh doanh mà còn thành

danh trong một thú chơi tao nhã, đó là sưu tập các tác phẩm nghệ thuật và đồ cổ”

[121, tr.206]. Thị trường nội địa có khá nhiều nhà sưu tầm, nhưng chỉ có ông Đức

Minh, tên thật là Bùi Đình Thản thường được nhắc đến với vai trò của nhà sưu tập

tác phẩm mỹ thuật thực sự. Muộn hơn sau hoặc cũng không bằng ông, còn có một

số tên tuổi khác như: Tô Ninh, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Văn Lâm, v.v. Tuy

nhiên, những trường hợp này thể hiện vai trò của nhà sưu tập ở một diện mạo khác.

Bởi để trở thành nhà sưu tập ngoài mong muốn sở hữu tác phẩm ở vị thế nhà sưu

tập tranh, sự am hiểu, tình yêu đối với tác phẩm hội họa thì điều quan trọng là phải

có đủ tiềm lực để sưu tầm nên nhà sưu tập Đức Minh luôn được xem như là một

hình mẫu điển hình.

Công chúng nội địa đã tiếp nhận tác phẩm của các họa sĩ ngày một tích cực,

phản ánh qua số liệu doanh thu tác phẩm mỹ thuật trên thị trường không ngừng tăng

qua từng năm. Tuy nhiên, sau những năm tháng khởi đầu có khá nhiều thuận lợi ấy

là những biến động chính trị, xã hội, “những cơn phong ba cách mạng, đặc biệt là

những cuộc chiến tranh kéo dài liên miên trong thế kỷ XX, đã định đoạt số phận của

thị trường mỹ thuật Việt Nam, làm cho diễn biến của thị trường này bị mất đi tính

97

liên tục, và trên thực tế, có thời kỳ hàng mấy chục năm đã hầu như ngưng trệ

(khoảng từ 1945 đến trước 1980) hoặc chưa bao giờ ổn định quá 10 năm” [116,

tr.40-41]. Đất nước thời kỳ chiến tranh, toàn dân ta vào cuộc chiến đấu, họa sĩ cũng

đều là chiến sĩ tham gia kháng chiến, phụng sự tổ quốc. “Trong suốt 30 năm chiến

tranh từ năm 1945 đến năm 1975, thị trường tranh Việt Nam gần như không có. Các

nghệ sĩ tạo hình hầu hết đều là cán bộ Nhà nước, thực hiện sáng tác theo yêu cầu

của cơ quan, tổ chức mà mình công tác hoặc sáng tác hưởng ứng các phong trào

phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ cuộc kháng chiến” [14, tr.558]. Sau thời gian

đó, cùng với điều kiện cuộc sống khó khăn trong đời sống xã hội như thế kéo dài

đến thời Đổi Mới. Dương Tường nói, “chúng ta đã sống biệt lập với thế giới trong

một thời gian dài” [111, tr.131] nên những thông tin về hoạt động mỹ thuật nước

ngoài, đặc biệt của phương Tây vào Việt Nam có nhiều hạn chế. Đời sống vật chất

khó khăn, công chúng không có nhiều điều kiện tiếp cận nghệ thuật nên ít quan

trọng tới hội họa càng trở nên phổ biến. “Thời bao cấp, nhà chật thì tranh thậm chí

phải xếp ở ngoài hiên, còn xe đạp thì phải ở trong nhà, như trường hợp của ông

Trần Văn Cẩn” [117, tr.20]. Mặc dù, “nghệ sĩ thì thời nào cũng nghèo, nhất là lúc

bấy giờ, các ông ấy thiếu đủ thứ, từ giấy, bút, màu” [121, tr.266]. Chưa có một công

trình nghiên cứu khoa học thống kê tiêu dùng sản phẩm mỹ thuật của công chúng ở

thời kỳ đó, nhưng theo Trần Khánh Chương, “giai đoạn 30 năm trước mở cửa ‘Đổi

mới’ không có thị trường tác phẩm mỹ thuật ở Hà Nội và cũng chẳng có thị trường

văn hóa nghệ thuật nào cả” [14, tr.558]. Đó cũng là lý do thời gian này không có

tranh chép hay tranh giả cho mục đích thương mại.

Chính sách Đổi Mới thiết lập mô hình kinh tế mới, kinh tế thị trường định

hướng XHCN làm xã hội thay đổi với những bước phát triển to lớn. Tốc độ tăng

trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993-1997, sau ba thập niên tăng

trưởng liên tục đưa nền kinh tế Việt Nam vào nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất trên thế

giới. Xã hội ổn định, kinh tế phát triển đời sống nhân dân thêm đủ đầy và tư duy cởi

mở thông thoáng hơn nên từ ngay sau Đổi Mới ở Hà Nội, triển lãm nhóm, cá nhân

xuất hiện thêm nhiều. Nguyễn Du Chi (1993) “Đôi điều suy nghĩ về Triển lãm Điêu

khắc toàn quốc 1993” tại Hội thảo khoa học của Triển lãm cùng tên do Bộ VHTT

phối hợp Hội MTVN tổ chức cho rằng, “gần đây các triển lãm hội họa đã mở cửa

liên tục. Cuộc này chưa bế mạc đã có cuộc khác bày ra. Có ngày đến ba cuộc cùng

98

khai mạc một lúc. Điều đó phản ánh phong trào sáng tác rầm rộ ngày nay” [11,

tr.648-649]. Sự biến đổi tích cực căn bản này là do những chính sách “cởi trói”,

“đổi mới” cùng với sự phát triển của đất nước sau nhiều năm đóng cửa nay mở cửa

chuyển sang nền kinh tế thị trường, triển lãm tranh của nhóm, cá nhân họa sĩ đều

bán được. Cung - cầu của thị trường tác phẩm hội họa đều có sự phát triển tích cực,

họa sĩ được tiếp thêm động lực hào hứng sáng tác, người tiêu dùng đa dạng hơn nên

gia tăng sức mua. Người nước ngoài du lịch đến Việt Nam, “nhiều Việt kiều về

thăm nước khi đi thường cất công tìm theo một cái gì đượm phong vị quê hương.

Không ít người, kể cả những người không sành hội họa, đã cố tìm một bức phố

Phái, bất kể kích cỡ nào” [112, tr.274]. Do nhu cầu nhiều, nên không chỉ Hà Nội và

Tp.HCM mà nhiều tỉnh, thành phố có đông khách du lịch đều diễn ra các hoạt động

mỹ thuật sôi nổi. Theo Hoa Cương (1997) “Có một gallery …như thế” khi nói về

Trung tâm Giới thiệu và trao đổi nghệ thuật, 43 Tràng Tiền, Hà Nội viết: “không lúc

nào không có triển lãm; đôi khi do quá đông, Trung tâm phải thương lượng để những

tác giả đã trưng bày nhiều lần nhường lại cho các tác giả mới ra mắt” [24, tr.29].

Những cuộc triển lãm tiếp nối triển lãm “sau sự phát hiện ra nghệ thuật Việt

Nam những năm 1990 - 2000” [79, tr.6], đó cũng là khoảng thời gian thị trường tác

phẩm mỹ thuật trên thế giới và khu vực đang trên đà phát triển mang đến nhiều triển

vọng về tương lai công nghiệp hóa lĩnh vực văn hóa này tại Việt Nam. Quyết định

số 1755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2016 phê duyệt Chiến

lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030,

đặt mục tiêu: ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm đến năm 2020 đạt khoảng 80

triệu USD, đến năm 2030 ngành này đạt 125 triệu USD một phần dựa trên sự phát

triển trên. Tuy nhiên, “thời kỳ bùng nổ của thị trường hội hoạ Việt Nam sau thời

điểm đổi mới, 1988 và kéo dài đến những năm 2000, hội hoạ Việt Nam bắt đầu

được biết đến trên trường quốc tế, và việc mua bán cũng trở nên nhộn nhịp, ít nhất

trong 10 năm từ 1990 - 2000, sau đó thì giảm dần, đến nay thì gần như quay lại thời

điểm không bán được tranh như thời bao cấp, ở một hoàn cảnh khác” [93, tr.24].

Theo Bernice Chan (1997) “Giai đoạn khởi sắc của Hội họa Việt Nam” khi lệnh

cấm vận thương mại bị bãi bỏ (1994), ở Hồng Kông hội họa hiện đại Việt Nam trở

thành trào lưu khá mạnh mẽ đem đến cảm giác tươi mới trong không gian mỹ thuật,

nhiều tranh độc đáo có giá cả phải chăng được giới thiệu bởi những phòng tranh

99

như Lã Vọng hay LKF hay nhờ những cuộc triển lãm tranh như ở Furama Resort

(Đà Nẵng) và những nhà sưu tập như Yip Shing Yiu, v.v. Nên khi Bernice Chan

đến Lã Vọng Gallery, Hong Kong, “Giám đốc Shirley Hui của phòng tranh này có

mặt ở đó, cho tôi xem một bức tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái. Bà cho biết họa sĩ

ấy là ai và tranh nói về cái chi. Bà chưa kịp dứt lời, tranh đã được bán” [8, tr.42]. Sự

đóng băng ở thị trường tranh nội địa theo Quang Việt (1998) Số 3: “Một mảng trích

từ thị trường tranh Việt Nam” là do “sự gia tăng bột phát, thiếu cơ chế điều hòa và

thiếu tính chuyên nghiệp của thị trường nghệ thuật đã tạo ra nhiều nghịch lý. Chẳng

hạn: Thị trường tăng nhanh trong khi chất lượng nghệ thuật ngày càng giảm sút”

[116, tr.42]. Theo NCS, ngoài những nguyên nhân nêu trên, lý do thực sự khiến

người tiếp nhận, những nhà sưu tầm thận trọng dẫn đến thờ ơ với tác phẩm hội họa

Việt Nam chủ yếu là do những yếu tố về tác quyền, thiếu sự hỗ trợ theo tiêu chuẩn

quốc tế về hồ sơ pháp lý liên quan tới tác phẩm ở thị trường quốc nội. Corinne de

Ménonville nhận xét về một triển lãm quan trọng ở Bảo tàng Le Pavillon des Arts

mang tên Pari - Hà Nội - Sài Gòn, cuộc phiêu lưu của nghệ thuật hiện đại Việt Nam

như sau: “Bên cạnh những kiệt tác trong một số bộ sưu tập của tư nhân là những

bức tranh có xuất xứ đáng ngờ. Điều này làm mất giá trị và tính đáng tin cậy của

các bộ sưu tập đó. Hơn nữa, cần ý thức được rằng việc làm tranh giả làm cho bức

tranh mất uy tín và mất giá trị một cách tai hại” [17, tr.41]. “Một số nhà đấu giá

nước ngoài có tổ chức đấu giá một số tranh của các hoạ sĩ Việt Nam như Bùi Xuân

Phái, Nguyễn Sáng… Tuy nhiên do một số tranh được đem ra đấu giá lại bị phát

hiện là tranh giả, làm ảnh hưởng tới uy tín của MTVN” [14, tr.565]. Theo Văn Bảy

(2008) “Mở gallery ở Singapore không dễ” cho biết: “khi một nhà sưu tập Việt Nam

hỏi họ có để ý đến các họa sĩ đương đại Việt Nam không, họ nói có biết đến Đỗ

Hoàng Tường, Đặng Xuân Hòa, Trần Trọng Vũ… nhưng không mua, vì họ không

có thông tin từ các gallery uy tín để kiểm chứng”. Ngay cả tranh được cho là của

Bùi Xuân Phái cũng không gặp thuận lợi khi tham gia “đấu giá tại Singapore mà chỉ

dựa vào các nguồn gốc tư liệu không rõ ràng để làm căn cứ xác định; kết quả, do

chẳng biết tin tưởng ai nên không có nhà sưu tầm nghệ thuật nào đầu tư” [134,

tr.68]. Trong khi công chúng nội địa chưa là bệ đỡ, điểm tựa vững chắc cho thị

trường tác phẩm hội họa trong nước khiến thị trường này chẳng thể “bay lên với

một cánh”.

100

15 năm là quãng thời gian thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam trì trệ. Khác

với thị trường ở trong nước, thị trường tranh Việt Nam ở nước ngoài đã có những

khởi sắc. Theo xu thế đi lên của thị trường mỹ thuật châu Á, Đông Nam Á, nhiều

tác phẩm của họa sĩ Việt Nam cũng tiệm cận và vượt ngưỡng giá bán một triệu

USD. Khi thị trường tác phẩm hội họa trong nước không đáp ứng được nhu cầu,

công chúng nội địa giàu có tìm mua tác phẩm đắt giá của họa sĩ Việt Nam qua

những nhà đấu giá quốc tế lớn như Christie’s, Sotheby’s Hong Kong, v.v. dù cho

giá bán tác phẩm hội họa Việt Nam liên tục tăng. Ví dụ, ngày 22/11/2014 bức tranh

View from the hilltop (Nhìn từ đỉnh đồi, 1937) của Lê Phổ được bán với giá 844.697

USD; Hai năm sau, ngày 02/4/2017, bức tranh Family life (Đời sống gia đình,

khoảng 1937-1939) của Lê Phổ với 1.172.080 USD; Hai năm sau nữa, ngày

26/5/2019 bức tranh Nude (Khỏa thân, 1931) của họa sĩ Lê Phổ được bán với giá

1,4 triệu USD, v.v. Liên tục các mốc giá đỉnh cao của tác phẩm hội họa Việt Nam

hiện đại công khai giá bán bị vượt qua tại thị trường mỹ thuật quốc tế. Mặc dù

không công bố danh tính người mua, nhưng theo tìm hiểu của NCS những khách

hàng đó phần lớn là người Việt Nam. Điều đó minh chứng, công chúng không quay

lưng lại với hội họa Việt Nam nhưng họ thờ ơ với những tác phẩm có chất lượng

nghệ thuật chưa cao và lý lịch pháp lý không rõ ràng cho dù tác phẩm đó ở thị

trường quốc tế hay nội địa. Những thị trường lớn, chuyên nghiệp không chấp nhận

sự nghiệp dư, mập mờ về lý lịch của tác phẩm, theo Nguyễn Đức Tiến (2016) “Đi

học cách đầu tư tác phẩm nghệ thuật” cho biết: “ Từ xa xưa, thời kỳ phục hưng (thế

kỷ CVI) cho đến nay, đầu tư mua những tác phẩm nghệ thuật đã trở thành một cách

đầu tư ‘chưa bao giờ lỗ’, nhưng hãy luôn nhớ khẩu quyết học viện nghệ thuật

Sotheby’s, nhà đấu giá truyền cho các học viên đó là ‘Artwork’ provenance - Nguồn

gốc tác phẩm’, mới mong đầu tư thành công” [95, tr.52]. Khi tranh của họa sĩ Lê

Phổ lần đầu có giá bán hơn một triệu USD khiến nhiều người Việt Nam tự hào. Tuy

nhiên, điều đó không làm cho giới sưu tầm chuyên nghiệp và nhiều nhà NCPBMT

trong nước ngạc nhiên, bởi đó chỉ là những tác phẩm hội họa Việt Nam có giá bán

cao trên sàn đấu giá công khai ở ngoài nước, chưa là tác phẩm đỉnh cao của tác giả.

Ở thị trường nội địa có những giao dịch chưa công khai hoặc ít được biết đến vì nhiều

lý do khác nhau, nhưng một số tác phẩm của các danh họa Nguyễn Gia Trí, Nguyễn

Sáng, v.v. đã có giá trị tương đương ở mức triệu USD như ở thời điểm hiện tại từ khá

101

sớm. Ví dụ, ba bức tranh sơn mài: Trừu tượng, Hoài Niệm xứ Bắc, Vườn xuân được

Nguyễn Gia Trí bán năm 1967 với giá 2.475 nghìn đồng [Phụ lục 4, tr.207], v.v.

Khi tranh của một số họa sĩ MTĐD được các nhà đấu giá quốc tế lớn bán

liên tiếp vượt ngưỡng triệu USD, thì tranh của nhiều họa sĩ đương đại Việt Nam

cũng có giao dịch ở đây. Theo Phạm An Hải cho biết có khá nhiều người trong số

họ hợp tác trực tiếp với các nhà đấu giá, gallery quốc tế: “Chính xác là bao nhiêu

họa sĩ thì tôi không biết. Nhưng chắc chắn những họa sĩ như: Đỗ Quang Em, Đặng

Xuân Hòa, Nguyễn Trung, Hồng Việt Dũng có sự hợp tác với Sotheby’s, v.v.” [3,

tr.13]. Phạm An Hải trong một số lần trao đổi với NCS cũng cho biết, tranh của họa

sĩ đã bán được với giá tiền tỷ hoặc thậm chí có tranh hơn mấy tỷ đồng. Nhiều người

cho rằng, với xu hướng đi lên của thị trường như hiện nay, giá tranh của một số họa

sĩ đương đại ưu tú của Việt Nam sẽ có khả năng chạm và vượt mốc triệu USD trong

thập kỷ tới, nếu công chúng trong nước đảm nhận tốt vai trò là điểm tựa. Hiện tại ở

Việt Nam, “hai thành phần đủ tiền bạc và có nhu cầu tinh thần - thẩm mỹ” trong

công chúng như Nguyễn Quân nói đã có một số lượng không nhỏ. Tuy nhiên, để trở

thành bệ đỡ, nội lực phát triển của thị trường không chỉ cần có như vậy mà cần

nhiều hơn nữa công chúng “Phải biết xem tranh tượng cũng như phải biết đọc văn,

đọc thơ hay nghe nhạc” [37, tr.6] - tức là phải có tri thức về mỹ thuật. Tri thức có là

qua giáo dục đào tạo, trải nghiệm thực tế. Theo Nguyễn Đình Đăng gần đây “số hoạ

sĩ và sinh viên mỹ thuật ở Việt Nam bắt đầu thực sự hiểu được cái đẹp trong các

kiệt tác của các bậc thầy cổ điển đã tăng lên đáng kể” [35, tr.8]. Tri thức về mỹ

thuật trong công chúng tăng lên dẫn đến nguồn “nhu cầu tinh thần - thẩm mỹ” sẽ

tăng, trở thành điểm tựa vững chắc cho thị trường hội họa Việt Nam phát triển. Đây

là những yếu tố cốt lõi tác động làm thay đổi diện và chất thị trường nội địa, đồng

thời trả lời được câu hỏi bấy lâu của nhiều người trăn trở như Hoàng Anh do đâu,

“Việt Nam là một đất nước đông dân, số lượng nghệ sĩ của chúng ta cũng không

phải là ít, văn hóa truyền thống thì lâu đời, nền mỹ thuật cũng không phải non trẻ

với 100 năm lịch sử. Vậy tại sao thị phần tranh của ta nhỏ, giá tranh cứ lẹt đẹt thua

mấy nước trong khu vực Đông Nam Á” [3, tr.13-14].

Cho tới nay, chưa có một thống kê, báo cáo khoa học về thị trường mỹ thuật,

đặc biệt là thị trường tác phẩm hội họa được công bố để làm cơ sở nghiên cứu quy

hoạch phát triển ngành hội họa hay giải pháp thực hiện Chiến lược phát triển CNVH

102

tại Việt Nam. Cơ sở để thị trường MTVN có thể đạt doanh thu năm 2030 là 125

triệu USD (tương đương 3000 tỷ đồng) như nội dung trong Quyết định 1755/QĐ-

TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2016 chưa thể xác định được khi chưa

có thống kê số liệu theo hệ thống chỉ tiêu thống kê của bộ chủ quản về việc bán mua

tác phẩm hội họa. Lĩnh vực mỹ thuật chưa có doanh nghiệp vốn nước ngoài đến đầu

tư kinh doanh, chưa có tổ chức chuyên phân tích dữ liệu doanh thu gallery ở Việt

Nam. Vì thế, số liệu, dữ liệu để lượng hóa doanh thu ngành mỹ thuật chưa có cơ sở

dữ liệu khoa học để kiểm chứng.

Trong những năm qua, sức tiêu thụ tác phẩm hội họa trên thị trường của Việt

Nam so với thế giới và khu vực có nhiều sự khác biệt. Đánh giá thị trường tác phẩm

hội họa dưới góc nhìn của nguyên lý cung - cầu trong kinh tế học ở Việt Nam chưa

thấy có sự cân bằng. Đó là nguồn cung dồi dào khi hàng năm các cơ sở đào tạo cho

ra trường tới hơn nghìn cử nhân nghệ thuật được đào tạo mỹ thuật - họa sĩ, có nghĩa

là nguồn cung được bổ sung thêm số lượng lớn, vậy thì nguồn cầu, chủ thể tiêu thụ

cũng phải có số lượng tăng trưởng tương ứng để đảm bảo cung không vượt cầu. Khi

số lượng nhu cầu không cân bằng dẫn đến số lượng sản phẩm đã được “sản xuất” ra

ấy không tìm được người sở hữu tiếp nhận sẽ trở thành sản phẩm dôi dư, hàng tồn

không bán được. Trong trường hợp như vậy, để bán được “hàng”, những nguồn

cung có bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh hay tự loại bỏ sản phẩm của mình

để giữ giá ? Thị trường tranh Việt Nam suy thoái và đóng băng trong thời gian qua

có những nguyên nhân như nêu trên nên cần có sự điều chỉnh thị trường. Khi Việt

Nam hội nhập quốc tế và thế giới “phẳng hơn” trong Kỷ nguyên số, tác phẩm hội

họa trở nên bão hòa sau thời kỳ sôi động do những điều lạ trước kia nay đã trở

thành quen, khách hàng nhàm chán với những sản phẩm mang tính thị trường, ít đổi

mới, ít sáng tạo và được “sản xuất” hàng loạt.

Trình độ thưởng thức của công chúng là yếu tố cơ sở để phát triển thị trường.

Lê Thanh Đức (2003) Nghệ thuật Môđéc và Hậu Môđéc cho rằng: “văn hóa thị giác

chính là trình độ tạo hình và trình độ hưởng thụ tạo hình. Phải biết xem tranh, xem

tượng, cũng như phải biết đọc văn, đọc thơ hay nghe nhạc” [37, tr.6]. Nâng cao

trình độ thưởng thức tranh chính là phát triển nguồn cầu thị trường tác phẩm hội

họa. Từ số lượng khách tham quan của Bảo tàng MTVN cũng phần nào cho chúng

ta hình dung ra mức độ, số lượng công chúng quan tâm tới mỹ thuật như thế nào.

103

Theo NCS, những năm gần đây khách tham quan Bảo tàng này số lượng có tăng

nhưng chưa nhiều. Các năm 2014, 2015, 2016 số lượng trung bình mỗi năm ước đạt

50 nghìn khách. Trong đó, 35 nghìn khách (70%) là người nước ngoài đi du lịch

theo đoàn, 15 nghìn khách (30%) trong nước gồm: bộ đội; học sinh phổ thông các

cấp thực hiện chương trình học ngoại khóa; sinh viên các trường đào tạo về mỹ

thuật; phần nhỏ còn lại là công chúng yêu thích mỹ thuật. Công chúng nội địa ít

đến bảo tàng, “văn hóa thị giác” là điểm yếu trong việc phát triển và lý do giải thích

tại sao “thị trường tranh của Việt Nam vẫn lẹt đẹt so với các nước trong khu vực”.

Ví dụ, Bức tranh sơn mài Bình minh trên nông trang (1958) của Nguyễn Đức Nùng

trưng bày tại Bảo tàng MTVN, công chúng nội địa chưa có nhiều người biết đến

nhưng khi trưng bày gần một năm tại Bảo tàng quốc gia Singapore (Singapore

National Gallery) đã “nhận được một triệu lượt xem khi ở Singapore” [140]. Đến

bảo tàng mỹ thuật chưa là thói quen đối với công chúng và cũng chưa phổ biến ngay

cả với các nhà sưu tập còn đến gallery thì sao? Suzanne Lecht, giám đốc nghệ thuật

Art Gallery tại Hà Nội, người đã gắn bó với mỹ thuật Việt từ những năm 90 của thế

kỷ trước, trong một lần gặp gỡ, trao đổi với NCS cho biết: một thập kỷ mở phòng

tranh Art Vietnam tại Hà Nội, bà Suzane chỉ thấy có một vài người Việt Nam đến

mua tranh. Tuy nhiên, nguyên nhân đó không phải chỉ do hạn chế tri thức của công

chúng nội địa. Nhiều gallery thời mới “mở cửa” thường cho rằng, đối tượng khách

hàng của họ chỉ là người nước ngoài, công chúng nội địa chỉ đến để “nghiên cứu”

xem loại tranh nào bán được nhiều để về “sản xuất” nên thường không mấy thiện

cảm với khách nội là như vậy. Gần đây, thói quen bán hàng đã cũ đó mới thay đổi

khi ngoài gallery có nhiều hình thái thương mại hội họa mới đều có thể làm tốt vai

trò cầu nối giữa họa sĩ với khách hàng.

Năm 2016, phiên đấu giá tranh thương mại đầu tiên ở Việt Nam chưa thực sự

thành công nhưng tạo ra một số thay đổi đến thị trường mỹ thuật và làm mờ đi vai

trò của gallery. Lý thị và Chọn là một trong những nhà đấu giá tác phẩm mỹ thuật

theo xu hướng chuyên nghiệp đầu tiên ở Tp.HCM và Hà Nội cùng với hoạt động

thương mại điện tử, trực tuyến như gallery, nhà đấu giá, trang thương mại mỹ thuật,

v.v. làm thay đổi thị trường, kết thúc vị thế độc tôn của gallery 30 năm qua tại Việt

Nam. Những thay đổi đến với thị trường tác phẩm hội họa làm cho giới mỹ thuật và

công chúng như được đón nhận những tia nắng sưởi ấm làm “tan băng” đã tồn tại

104

hơn một thập kỷ của thị trường MTVN. Theo Nguyễn Lộc (2016) “Đấu giá tác

phẩm nghệ thuật: Sẽ không còn cảnh “đi đêm”?” cho rằng: Đấu giá tác phẩm mỹ

thuật “sẽ mang lại rất nhiều lợi ích, không chỉ hạn chế việc thất thoát thuế Nhà nước

mà còn góp phần phát triển hoạt động sáng tác và khẳng định giá trị văn hóa đất

nước” [147]. Tuy nhiên, nhiều nhà sưu tầm, người buôn đồ cổ đến với các hoạt

động đấu giá tự phát như hiện nay như là nơi điểm tựa, chỗ dựa hợp pháp hóa hồ sơ,

làm chứng thư hóa cho tác phẩm họ đã mua trước đây.

Sự hình thành và phát triển các hình thái mới đã thực sự góp phần thay đổi

thị trường mỹ thuật nội địa Việt Nam qua được thời gian dài lặng lẽ. Vừa qua, Nhà

Quốc hội, các công trình công sở, công cộng của nhà nước sử dụng tác phẩm hội

họa để trưng bày, trang trí, v.v. đã không chỉ trở thành những hoạt động kích cầu

cho thị trường nội địa mà còn là hình thái tôn vinh, quảng bá hữu hiệu tác phẩm hội

họa Việt Nam với quốc tế. Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam vẫn chưa có

nhiều thay đổi về diện cũng như về chất để trở thành một thị trường quốc tế chuyên

nghiệp. Nhìn nhận, đánh giá khách quan về thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam

không bao gồm tác phẩm của các họa sĩ MTĐD, Nguyễn Quân (2015) “Gây dựng

thị trường mỹ thuật Việt Nam hiện nay?” cho rằng: “thị trường nghệ thuật nội địa

đang là một bức tranh xộc xệch, hỗn độn và xỉn màu” [79, tr.7]. Theo NCS, sự lúng

túng trong vai trò dẫn dắt điều tiết của cơ quan QLNN, nguồn cung chưa đáp ứng

được nhu cầu chuyên nghiệp, yếu tố nâng đỡ của công chúng chưa phát huy tốt làm

thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam vẫn “xỉn màu” và chưa “cất cánh”.

2.3.3. Đánh giá chung

2.3.3.1. Những kết quả đạt được

Nghệ thuật chỉ có thể “bay lên” bởi “đôi cánh”, ngoài một “cánh cung” khỏe

mạnh, “cánh cầu” cũng phải sở hữu được những giá trị tương ứng. Công chúng tiếp

nhận, tiêu thụ là yếu tố then chốt được ví như là “một cánh”. Theo NCS, cũng có

khi nó chi phối cả đôi cánh nghệ thuật - có nghĩa là, công chúng tiếp nhận, tiêu

dùng có thể trở thành yếu tố quyết định phát triển hay không phát triển thị trường.

Không phải tất cả những thị trường mỹ thuật đã cất cánh đều có những nhà sưu tầm

nội địa khỏe mạnh mà là rất khỏe mạnh cả về tri thức, tài chính khi ở vị thế của cái

cánh thứ hai để có thể tham gia thậm chí quyết định cách “bay lên” của thị trường.

Điều này được minh chứng thực tiễn, khi phần nhiều bảo tàng nghệ thuật nổi tiếng

105

trên thế giới đều xuất phát từ những bộ sưu tập tư nhân do hoàng gia, tầng lớp quý

tộc hoặc những người giàu có như: Peter Đại đế; Catherine II ở Nga; các Hồng y

Richelieu; Mazarin của Pháp; các vị vua Philip III và IV của Tây Ban Nha; Charles

I của Anh hay Nữ hoàng Christina của Thụy Điển, v.v.

Thị trường tranh Việt Nam là cụm từ khóa được NCS thực hiện việc tìm

kiếm trên Google, tại thời điểm 10:00:00 ngày 18/4/2020 trong 0,56 giây cho

89.600.000 kết quả. Điều đó phản ánh mức độ quan tâm của công chúng nội địa đối

với hội họa Việt Nam là không nhỏ. Đời sống kinh tế xã hội hiện nay đã có nhiều

đổi thay so với những thập niên đầu Đổi Mới, công chúng nội địa đã ngày càng có

thêm nhiều người siêu giầu trên bản đồ thế giới. Thói quen và hành vi tiếp nhận,

tiêu dùng tác phẩm hội họa đang dần thay đổi trong công chúng - người thụ hưởng,

tiêu dùng tác phẩm hội họa ở Việt Nam đã khác nhiều so với trước đây khi văn hóa,

kinh tế, xã hội có nhiều biến đổi sẽ khuyến khích các yếu tố khác như sáng tạo, bản

quyền phát triển. Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam từ sơ khai đã chuyển sang

thứ cấp và bổ sung nhiều yếu tố mới xuất hiện trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tuy

nhiên, những thay đổi tích cực đầu tiên sau thời gian dài thị trường hội họa Việt

Nam trầm lắng đến từ ngoài nước. Tác động của chủ thể sáng tạo là họa sĩ MTĐD từ

gần một thế kỷ trước nay trở lại một lần nữa đảm nhiệm vai trò thành bệ đỡ, tiên

phong dẫn dắt thế hệ họa sĩ hôm nay tạo nên một diện mạo mới cho thị trường tác

phẩm hội họa Việt Nam.

2.3.3.2. Những tồn tại, hạn chế

Công chúng quyết định sự tồn tại, không tồn tại của thị trường. Thị trường

tác phẩm hội họa Việt Nam đã có được một bộ phận công chúng đáng kể ở trong và

ngoài nước để từ sơ khai âm thầm lặng lẽ đến thăng hoa, bùng nổ nhưng sau đó trở

lại sự trầm lắng. Điều đó phản ánh những hạn chế của một thị trường tự phát chưa

xây dựng được nền tảng bền vững nên dễ bị tác động bởi những yếu tố như:

- Sự tăng trưởng nóng của thị trường tranh làm phát sinh nhiều bất cập, hoạt động

làm tranh giả, tranh nhái, v.v. vi phạm pháp luật khá tràn lan diễn ra trong nhiều năm.

- Mua bán tác phẩm hội họa phần lớn diễn ra theo hình thức các cá nhân tự

thỏa thuận và giao dịch, thanh toán bằng tiền mặt nên ít có ràng buộc về mặt pháp lý

làm cho thị trường chưa được lành mạnh hóa để phát triển ổn định.

106

- Sự phối hợp giữa các chủ thể trong hoạt động thị trường còn nhiều hạn chế,

bất cập.

- Chưa chuyên nghiệp hóa và thực sự hội nhập quốc tế.

2.3.3.3. Nguyên nhân

Gần một thế kỷ đã trôi qua kể từ khi tác phẩm hội họa hiện đại xuất hiện ở

Việt Nam và đi ra thị trường mỹ thuật thế giới nhưng tới nay, thị trường này vẫn

trong tình trạng chưa hoàn thiện, bởi một số nguyên nhân như:

- Thứ nhất: Hệ thống pháp luật điều chỉnh thị trường hội họa từ sáng tác,

giao dịch mua bán còn nhiều khoảng trống.

- Thứ hai: Thiếu quy hoạch ngành trong việc đào tạo nguồn lực dựa trên căn

cứ vào nhu cầu thực tế và dự báo phát triển thị trường và của xã hội. Ngoài ra chất

lượng đào tạo chưa phù hợp được tiến trình đổi mới của xã hội và đáp ứng tiêu

chuẩn quốc tế khi hội nhập.

- Thứ ba: Chính sách phát triển thị trường hội họa chưa thực sự được quan

tâm, vai trò của Nhà nước trong việc kiểm soát, định hướng và dẫn dắt thị trường

chưa thực sự được vận hành.

- Thứ tư: Hệ thống thiết chế mỹ thuật khá đầy đủ nhưng chưa thực sự hoàn

thiện, chưa được tạo thành chuỗi kết nối một cách khoa học, có hiệu quả với các

hoạt động khác như: gallery, nhà đấu giá, chợ mỹ thuật, v.v.

- Thứ năm: Chính sách thuế, phí liên quan tới hoạt động mua bán, giao dịch

tác phẩm hội họa chưa là công cụ góp phần công khai, minh bạch cho tác phẩm hội

họa và hỗ trợ cho sự phát triển thị trường.

- Thứ sáu: Công tác quản lý hoạt động thị trường mỹ thuật nói chung, thị

trường tác phẩm hội họa nói riêng còn nhiều bất cập chưa phát huy được vai trò của

QLNN trong việc điều chỉnh, kiểm soát thị trường tạo sự ổn định và lành mạnh.

2.4. Thành tố tác động thị trường tác phẩm hội họa - bản quyền

2.4.1. Các văn bản về bản quyền tác phẩm hội họa

2.4.1.1. Các văn bản quản lý thị trường tác phẩm hội họa

Họa sĩ cũng cần bán tác phẩm của mình để phục vụ nhu cầu cuộc sống. Tác

phẩm hội họa được mua ở thị trường sơ cấp rồi cũng sẽ đến với thị trường thứ cấp.

Ở cả thị trường sơ cấp hay thứ cấp, giá trị, giá bán của tác phẩm hội họa thường

được xác định bởi các yếu tố tình trạng, nguồn gốc, xuất xứ, vị trí của tác phẩm

107

trong sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của người họa sĩ và yếu tố nguồn gốc, xuất xứ

càng quan trọng hơn nếu ở thị trường thứ cấp. Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế

thị trường, toàn cầu hóa, công nghệ số đã tác động đến mọi mặt của đời sống sẽ

không có hình thái hoạt động thị trường hội họa nào có thể độc lập hay tác rời để

phát triển riêng mà bỏ qua yếu tố cơ bản như tác giả và bản quyền tác giả tác phẩm.

“Tăng cường bảo hộ quyền tác giả, phát triển CNVH đi đôi với xây dựng,

hoàn thiện thị trường văn hóa” là một trong những nội dung quan trọng nêu trong

Kết luận số 76/KL-TW năm 2020 của Bộ Chính trị về báo cáo sơ kết 5 năm thực

hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây

dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền

vững đất nước. Tuy nhiên, việc thể chế hóa đường lối của Đảng thành các văn bản

quản lý thị trường tác phẩm hội họa làm cơ sở pháp lý để quản lý, điều chỉnh các

hoạt động liên quan như các mối quan hệ trong thị trường của người sáng tạo, lưu

thông và tiêu thụ tác phẩm hội họa, v.v. nhằm phát triển theo định hướng của Đảng

còn chưa được xây dựng. Mặc dù, các cơ quan quản lý hành chính chuyên ngành

văn hóa trong đó có mỹ thuật từ trung ương tới địa phương là hệ thống đa tầng và

khá dày đặc như: Bộ VHTTDL, cơ quan cấp trung ương có là Cục MTNATL làm

đầu mối tổ chức thực hiện. Ở địa phương các sở văn hóa trực thuộc UBND tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương và giúp việc cho sở có các Phòng văn hóa nghiệp

vụ ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Hiện nay, văn bản quy phạm

pháp luật về thị trường tác phẩm hội họa chưa được xây dựng thành hệ thống văn

bản có tính chất chuyên ngành để phục vụ cho công tác QLNN nên việc thực thi

hoạt động QLNN về thị trường tác phẩm hội họa thường được dẫn chiếu, vận dụng

bởi các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực khác như: Luật Thương mại; Luật Bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng, v.v.

Một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới mỹ thuật, hội họa được

xây dựng đã không theo kịp sự phát triển của hoạt động này ngay tại thời điểm nó ra

đời. Ví dụ, triển lãm sắp đặt, sắp đặt video, v.v., thuật ngữ về thị trường, về bản

quyền tác phẩm hội họa chưa trở thành khái niệm được giải thích từ ngữ trong Quy

chế Hoạt động triển lãm Mỹ thuật và gallery (Quyết định số 10/2000 của Bộ

VHTT) và cũng không quy định cụ thể đơn vị QLNN nào có chức năng, nhiệm vụ

quản lý hoạt động này. Những chính sách quan trọng có tác động tới sự thay đổi

108

ngành mỹ thuật trong đó có việc hình thành và phát triển thị trường mỹ thuật chưa

được xây dựng trong Quy chế 2000 vừa qua đã được bổ sung, nâng cấp thành Nghị

định số 113/2013 của Chính phủ: Về hoạt động mỹ thuật. Tuy nhiên, Nghị định này

chưa thực sự hoàn thiện, chưa xóa hết những khoảng trống pháp lý, chưa tạo được

sự hỗ trợ phát triển phù hợp với hiện tại và dự báo cho tương lai cho hoạt động thị

trường mỹ thuật. Ví dụ, thiếu quy định cụ thể trong trường hợp nào phải giám định,

thẩm định hay những chính sách ưu đãi trong việc phát triển thị trường tác, v.v.

Ngoài những văn bản về quản lý hành chính nhà nước nêu trên, còn có một

số văn bản về định hướng phát triển thị trường tác phẩm hội họa được Thủ tướng

phê duyệt như: Quyết định số 581/QĐ-TTg năm 2009 về Chiến lược phát triển văn

hoá đến năm 2020; Quyết định số 1755/QĐ-TTg năm 2016 về Chiến lược phát triển

các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số

1253/QĐ-TTg năm 2014 về Quy hoạch phát triển mỹ thuật đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2030 (nay đã hết hiệu lực nhưng chưa có văn bản thay thế) [Xem thêm:

Phục lục 5, tr.217]. Trong đó xác định phát triển mỹ thuật, thị trường mỹ thuật từ

nhãn quan xây dựng văn hóa trong kinh tế như: Quyết định số 581/QĐ-TTg năm

2009 của Thủ tướng Chính phủ xác định “Phát triển mỹ thuật nhằm góp phần xây

dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người

Việt Nam phát triển toàn diện, v.v.”; “Đưa mỹ thuật và nhiếp ảnh Việt Nam ngang

tầm khu vực và từng bước theo kịp các nước phát triển”; “Đóng góp cho phát triển

kinh tế và hội nhập quốc tế”. Quyết định số 1755/2016 tại khoản a) mục 2 Phần II

của Điều 1 xác định: “từng bước phát triển các ngành: Kiến trúc; thiết kế; xuất bản;

mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng,

đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Trong

đó, “ngành MTNATL đạt khoảng 80 triệu USD. Cùng với doanh thu của ngành

CNVH đóng góp khoảng 3% GDP tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, đáp ứng nhu

cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu;

góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam”. Mục tiêu đến năm

2030: “Phấn đấu doanh thu của các ngành CNVH đóng góp 7% GDP và doanh thu:

“ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm đạt khoảng 125 triệu USD” (khoảng 3.000

tỷ đồng, tăng hơn 50% so với năm 2020).

Những quyết định có tính pháp lý nêu trên đều là những văn bản quan trọng

109

của ngành mỹ thuật bao trùm những mục tiêu, giải pháp mang định hướng phát triển

và tầm nhìn của những nhà hoạch định chính sách của một ngành để đưa MTVN phát

triển ngang tầm khu vực và từng bước hội nhập quốc tế. Các văn bản dưới hình thức

thông tư, quyết định như: Thông tư số 18/2013 của Bộ VHTTDL quy định chi tiết thi

hành một số điều tại Nghị định số 113/2013 về Hoạt động mỹ thuật; Thông tư số

06/2019 của Bộ VHTTDL về Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm

định nội dung triển lãm; Quyết định số 4145 của Bộ VHTTDL quy định tiêu chí,

tiêu chuẩn, nội dung, quy trình cung cấp dịch vụ, định mức kinh tế - kỹ thuật tổ

chức thi, liên hoan, triển lãm tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh phục vụ nhiệm vụ chính

trị, v.v. đều là những văn bản pháp lý có liên quan nhưng trong thực tế ít có tác

động tới hoạt động thị trường tác phẩm mỹ thuật.

Trong thời gian qua, để giải quyết phần lớn các vụ việc vi phạm pháp luật có

liên quan tới bản quyền tác phẩm hội họa phát sinh từ thực tế cuộc sống đều phải

dẫn chiếu đến các văn bản quy phạm pháp luật ở nhiều lĩnh vực chuyên ngành khác

nên chưa tạo được hiệu quả cao. Theo NCS, một số văn bản quy phạm pháp luật về

quản lý hoạt động mỹ thuật đã có bổ sung, điều chỉnh để tiếp cận những diễn biến

từ đời sống thực tế nhưng còn khá nhiều hạn chế tại. Trong thời gian hơn 20 năm

qua (kể từ Quy chế 2000) là quãng thời gian thị trường tác phẩm hội họa đã có

nhiều đổi thay, phát triển nhưng cũng là giai đoạn không ổn định nhiều nhất kể từ

sau Đổi Mới. Tuy nhiên, việc bổ sung, ban hành những văn bản để xây dựng hành

lang pháp lý, tạo điều kiện cho thị trường tác phẩm hội họa phát triển vẫn chưa hoàn

thiện. Thiếu những chính sách khuyến khích, thiếu những dự báo cũng như điều

chỉnh thích hợp dựa trên cơ sở nghiên cứu thực tế để có tác động mang lại hiệu quả

tích cực đối với thị trường MTVN nên khi nói về vấn đề này, Vũ Huyên (2007)

“Cách hiểu của tôi về Đổi Mới” đăng trên Kỷ yếu khoa học nhan đề 20 năm Mỹ

thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986 - 2006 của Viện Mỹ thuật, Trường Đại học Mỹ

thuật Hà Nội cho rằng: “Các cơ quan quản lý cấp dưới thì vẫn loay hoay chần chừ

trong tư duy cũ, bước thấp bước cao chuệnh choạng đuổi theo sự biến đổi nhanh

chóng của cuộc sống và của nghệ thuật” [115, tr.18].

2.4.1.2. Các văn bản quản lý bản quyền tác giả tác phẩm hội họa

“Pháp luật quốc tế và pháp luật của hầu hết các quốc gia đều công nhận và

bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân nhằm khuyến khích hoạt động

110

sáng tạo trong mọi lĩnh vực, bảo đảm cho việc phổ biến tiến bộ khoa học, công

nghệ, văn hóa nghệ thuật vào mục đích phát triển xã hội mà không bị người khác

đánh cắp” [20, tr.9].

Hệ thống pháp luật về SHTT của Việt Nam được hình thành từ đầu thập niên

80 của thế kỷ XX. Trước năm 1980, Nhà nước đã có một số văn bản pháp luật liên

quan đến quyền tác giả, nhưng về cơ bản không được tiếp cận dưới dạng một loại

tài sản cần được bảo hộ, mà chủ yếu liên quan đến việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo

mang tính phong trào. Đến nay, hệ thống này trải qua các giai đoạn từ hình thành,

củng cố, phát triển và tiến tới hoàn thiện. Khởi đầu hình thành hệ thống pháp luật về

SHTT chỉ bao gồm các Quy chế của Bộ và cao hơn là Nghị định do Chính phủ ban

hành điều chỉnh từng nhóm đối tượng riêng lẻ của quyền SHTT. Đến năm 1995,

SHTT đã được quy định cụ thể trong một số điều của Bộ Luật Dân sự do Quốc hội

ban hành. Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Berne ngày 26/10/2004.

Đến năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật SHTT nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển

đất nước và hội nhập quốc tế. Các cơ quan là thành viên của Chính phủ cùng các

bên liên quan đã xây dựng, hoàn thiện nội dung, Chính phủ đã ban hành các văn bản

hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật SHTT.

Văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu

tác phẩm hội họa thuộc nhóm sản phẩm văn hóa quy định tại Luật SHTT. Theo

thống kê của Cục SHTT, Bộ Khoa học và Công nghệ có tới 19 Nghị định, 21 Thông

tư hướng dẫn thi hành Luật SHTT và liên quan đến SHTT, trong số đó có 7/21

(khoảng 30%) những quy định có liên quan tới tác phẩm mỹ thuật. Điều đó cho

thấy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về SHTT có thể nói là khá phong phú

cho tới thời điểm này. Hướng dẫn thực thi Luật có nội dung chuyên sâu về lĩnh vực

văn hóa nghệ thuật gồm: Nghị định số 105/NĐ-CP năm 2006 quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT và QLNN về

SHTT; Nghị định số 119/NĐ-CP năm 2010 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 105/NĐ-CP năm 2006; Nghị định số 22/NĐ-CP năm 2018 quy định chi tiết

một số điều và biện pháp thi hành Luật SHTT năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật SHTT năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị định

số 21/NĐ-CP năm 2015 quy định về nhuận bút, thù lao đối với tác phẩm điện ảnh,

mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu và các loại hình nghệ thuật biểu diễn, v.v.

111

Tiếp tục hoàn thiện văn bản pháp luật để bảo vệ bản quyền tác giả, các quyền

liên quan phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, Bộ VHTTDL đang kiến nghị trình

cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật SHTT về nội dung quyền tác giả,

quyền liên quan theo cam kết tại Hiệp định CPTPP, đồng thời phối hợp với Bộ

Khoa học và Công nghệ rà soát, sửa đổi nội dung về quyền tác giả, quyền liên quan,

trình Chính phủ hồ sơ Đề nghị xây dựng sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

SHTT; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược SHTT đến năm 2030. Soạn

thảo và ban hành Quyết định phê duyệt Quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung,

quy trình cung cấp dịch vụ và định mức kinh tế - kỹ thuật giám định quyền tác giả,

quyền liên quan. Tiếp tục triển khai số hóa dữ liệu về đăng ký quyền tác giả, quyền

liên quan.

Ngoài ra, một số văn bản quy phạm pháp luật khác có tính chất liên quan có thể

được áp dụng chung khi xem xét tác phẩm mỹ thuật dưới góc độ là tài sản, hàng hóa

như Bộ Luật Dân sự, Luật Đấu giá tài sản, Luật Di sản văn hóa, v.v. trở thành một sự

bổ khuyết cho những thiếu vắng của các văn bản quy phạm pháp luật có tính chuyên

ngành trong lĩnh vực mỹ thuật, hội họa khi tham gia vào hoạt động của thị trường.

Tóm lại, trong những năm qua, hệ thống văn bản QLNN về quyền tác giả,

quyền SHTT ở Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện với mục tiêu bảo đảm

quyền lợi cho các đối tượng liên quan và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh để

thị trường văn hóa nghệ thuật trong đó có tác phẩm hội họa phát triển. Vấn đề về

bản quyền tác phẩm hội họa được công chúng ngày càng quan tâm và đề cập tới

nhiều hơn sẽ đòi hỏi một bộ luật chuyên ngành sẽ ra đời để đáp ứng nhu cầu thực tế.

2.4.1.3. Các tổ chức bảo vệ bản quyền tác phẩm hội họa ở Việt Nam

Quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật là quyền được pháp luật công nhận đối với

tác phẩm mỹ thuật do mình sáng tạo hoặc sở hữu. Bảo vệ bản quyền tác phẩm mỹ

thuật là bảo vệ quyền lợi, danh dự hợp pháp của tác giả đối với tác phẩm đó. Nhiều

năm qua ở Việt Nam việc vi phạm tác quyền tác phẩm hội họa diễn ra một cách

phức tạp. Theo Phạm Tuấn Anh chủ biên (2011) Quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ

cho rằng: “Nhiều người còn chưa hiểu SHTT là gì, ngay cả ở các cán bộ thực thi

quyền; hệ thống pháp luật của Việt Nam về SHTT còn tản mạn, chồng chéo nhiều

văn bản, thiếu sự thống nhất đồng bộ, cho nên khó áp dụng; mức phạt các vi phạm

SHTT còn nhẹ, thiếu khả năng răn đe và thực thi; hệ thống các cơ quan thực thi còn

112

yếu” [4, tr.3]. Vì vậy, hoạt động bảo vệ bản quyền tác phẩm hội họa ở Việt Nam

hiện nay còn khá hạn chế. Ngoài Cục Bản quyền tác giả - tiền thân là Hãng Bảo hộ

quyền tác giả thành lập năm 1987 là cơ quan QLNN trong phạm vi toàn quốc về

quyền tác giả và quyền liên quan thì chưa có cơ quan chuyên trách khác hoạt động

độc lập trong lĩnh vực bảo vệ quyền tác giả tác phẩm hội họa ở Việt Nam.

Bảo vệ bản quyền tác phẩm hội họa được quan tâm nhiều hơn trong thời gian

qua và được đề cập tới tại các hội nghị, hội thảo về văn hóa nghệ thuật và chuyên đề

về mỹ thuật. Từ hoạt động khá hiệu quả của Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả Âm

nhạc Việt Nam (VCPMC), nhiều ý kiến cho rằng, nên sớm có một trung tâm bảo vệ

quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật đặc biệt đối với tác phẩm hội họa. Tuy nhiên, hiện

nay vẫn chưa tổ chức tập thể bảo vệ quyền tác giả tác phẩm hội họa được thành lập.

Việc thành lập Trung tâm Giám định và triển lãm tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh

thuộc Cục MTNATL, Bộ VHTTDL ngày 6/12/2018 có lẽ cũng chỉ là giải pháp tình

thế để giải quyết vấn đề của mục đích khác. Trước đó có Trung tâm Giám định tác

phẩm mỹ thuật thuộc Bảo tàng MTVN được thành lập, nhưng gần như chưa kịp có

hoạt động nào đáng kể vượt ra khỏi phạm vi của Bảo tàng thì đã phải giải thể và sáp

nhập vào một phòng khác của Bảo tàng này. Theo NCS căn cứ nhu cầu xã hội hiện

nay, không lâu nữa dự báo sẽ có những tổ chức tập thể hoạt động giám định và bảo

vệ tác quyền tác phẩm mỹ thuật, hội họa hoạt động độc lập được ra đời ở Việt Nam.

Bởi, gần như 100% những nhà sưu tập, người chơi tranh chuyên nghiệp, đã hoặc sẽ

chi rất nhiều tiền cho việc sưu tầm, mua tác phẩm hội họa của các họa sĩ và phần

lớn trong số họ đều có nhu cầu được chứng nhận giám định của tổ chức có uy tín và

bảo hộ tác quyền khi cần thiết. Trong khi cơ quan QLNN hoàn toàn có thể xây dựng

những quy định pháp luật để định lượng hóa những vấn đề chưa từng được xác

định, cụ thể như về khung thuế cho mỗi giao dịch, sử dụng bản quyền tác phẩm hội

họa cụ thể như thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sáng tạo cũng

như bảo vệ tác quyền trên cơ sở khuyến khích phát triển của lĩnh vực này. Nhà nước

thu được thuế; công chúng, nhà sưu tập yên tâm, hài lòng với những đóng góp cho

xã hội trong việc sưu tập và đầu tư; nghệ sĩ nâng cao đời sống, phát triển sáng tạo từ

việc thụ hưởng sản phẩm sáng tạo, giải quyết hài hòa yếu tố thị trường để phát huy

toàn diện sức mạnh của nghệ thuật. Đó cũng là giải pháp góp phần làm lành mạnh

hóa thị trường xuất phát từ vấn đề về bản quyền tác phẩm hội họa, đáp ứng thông lệ

113

khi tham gia hội nhập thị trường quốc tế. Chủ thể sáng tạo tự hào hơn khi tác phẩm

hội họa của mình đóng góp nghĩa vụ thuế vào ngân sách nhà nước để xây dựng phát

triển xã hội, minh bạch hóa thị trường, hạn chế rủi ro, kích thích sáng tạo nghệ thuật

và hoàn thiện yếu tố chân - thiện mỹ trong công chúng.

2.4.2. Tác động của bản quyền trong thị trường tác phẩm hội họa

2.4.2.1. Nhận thức về sở hữu trí tuệ

Theo David Throsby (2010) The economics of cultural policy cho rằng, văn

hóa và nghệ thuật ngày càng có tầm quan trọng và ảnh hưởng trong lĩnh vực kinh tế.

Nói đến cơ sở kinh tế về vấn đề bản quyền là đề cập đến đặc tính SHTT của hàng

hóa văn hóa, các quy định và quản lý bản quyền dựa trên các vấn đề tài chính nhằm

tạo động lực cho những người sáng tạo và sản xuất ra sản phẩm văn hóa. Việc đăng

ký bản quyền tác phẩm hội họa là để bảo vệ quyền tài sản, quyền nhân thân đối với

một sản phẩm văn hóa và là tạo điều kiện cho phát triển sáng tạo [124].

Theo Phạm Tuấn Anh chủ biên (2011) Quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ

cho rằng: “Bảo hộ bản quyền tác giả là một công cụ hữu hiệu nhất nhằm khuyến

khích, làm giàu và phổ biến di sản văn hóa quốc gia. Sự phát triển của một đất nước

phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động sáng tạo của người dân và việc khuyến khích sáng

tạo cá nhân, phổ biến các sáng tạo đó là điều kiện thiết yếu đối với quá trình phát

triển” [4, tr.10]. Đăng ký bản quyền tác giả hay bảo hộ quyền tác giả, có nghĩa là

chứng nhận quyền lợi của người sáng tạo hay sở hữu tác phẩm một cách hợp pháp

để đảm bảo chống lại các hành vi sử dụng trái phép tác phẩm như: trộm cắp, sao

chép, sử dụng bất hợp pháp tác phẩm đó. Trên thế giới có Tổ chức quốc tế về SHTT -

WIPO. Tại Việt Nam, Cục Bản quyền tác giả, Bộ VHTTDL là cơ quan QLNN về bảo

hộ quyền tác giả, quyền liên quan các sản phẩm văn hóa.

2.4.2.2. Đăng ký bản quyền tác phẩm

Đăng ký bản quyền để bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp là hình thức tự

nguyện, xuất phát từ nhu cầu của đối tượng sở hữu tài sản trí tuệ cần bảo vệ. Theo

Thomas L. Friedman (2016) Chiếc Lexus và cây ô liu cho biết: “Các nước công

nghiệp chiếm giữ 97% tác quyền các sản phẩm trên thế giới” [90, tr.389] điều đó

được hiểu, việc đăng ký bản quyền sáng tạo ở những quốc gia đó là phổ biến. Ở

Việt Nam, nhu cầu đăng ký bảo vệ tác quyền chưa tạo thành được thói quen của

phần lớn người dân, trong đó có các họa sĩ. Trao đổi để khảo sát việc đăng ký bản

114

quyền để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tác giả cho tác phẩm của mình, chống lại

việc sao chép làm giả tác phẩm vi phạm pháp luật của NCS với 30 họa sĩ chuyên

sáng tác tranh có tham gia hoạt động thị trường và khá nổi tiếng tại thời điểm năm

2007 và 2017 cho thấy, các hoạ sĩ đã thay đổi hẳn so với 10 năm trước đây. Từ

những ý kiến cho rằng, việc đăng ký bản quyền không cần thiết nay là khá cần thiết,

khi tranh của họ bị chép và làm giả dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, hơn 95% trong

số họ chưa từng đăng ký bản quyền cho tác phẩm hội hoạ nào mới sáng tác của

mình. Lý do, hoạ sĩ vốn làm việc độc lập với sáng tạo cá nhân, ít muốn tham gia vào

các hoạt động pháp lý, ngại các thủ tục hành chính, ngại va chạm, v.v.

Sau 15 năm Luật SHTT có hiệu lực tại Việt Nam, chưa có nhiều tác phẩm hội

họa được đăng ký bản quyền tác giả. Mặc dù, các quy trình thủ tục hành chính để

thực hiện là khá dễ dàng. Điều đó cho thấy những quy định của Luật này chưa song

hành cùng hoạ sĩ và sự phát triển của hội hoạ Việt Nam. Số lượng đăng ký tác quyền

cho tác phẩm mỹ thuật vẫn tăng giảm bất định qua từng năm nhưng ở mức thấp và

còn khá nhỏ so với số lượng tác phẩm hội hoạ sáng tạo mới được công bố trong các

trưng bày triển lãm, thậm chí là ít ỏi khi so với số lượng các họa sĩ hàng năm được

đào tạo ra trường. Số lượng đăng ký bản quyền chủ yếu là loại hình mỹ thuật ứng

dụng. Số lượng tác phẩm NTTH đăng ký bản quyền khá hạn chế và ít thay đổi xung

quanh ngưỡng 100 - 150 tác phẩm mỗi năm, chiếm tỉ lệ nhỏ, hiếm khi vượt quá

10% của tổng các tác phẩm mỹ thuật đăng ký bản quyền. Từ nửa cuối năm 2006,

khi Luật SHTT có hiệu lực và đi vào đời sống xã hội, số lượng các vụ việc kiện,

khiếu nại, thắc mắc nội dung có liên quan tới bản quyền tác giả tác phẩm hội họa đã

gia tăng đáng kể. Phan Cẩm Thượng (2018) Nghệ thuật ngày thường cho rằng,

“chúng ta chưa có một hoạt động chuyên nghiệp tương xứng với sự phát triển của

nghệ thuật” trong khi nhìn phần nổi của những vi phạm bản quyền tác phẩm hội họa

có nhiều biểu hiện nghiêm trọng nhưng nếu chỉ “xử lý vi phạm bằng hành chính hay

đăng ký bản quyền tác phẩm cũng không giúp cho nghệ thuật phát triển tốt hơn và

có thể đối đầu với các vụ kiện về bản quyền ở quốc tế. Cần xây dựng một hoạt động

nghệ thuật chuyên nghiệp mới là căn bản” [94, tr.42-43]. Theo NCS cách nhìn của

Phan Cẩm Thượng như đã nêu trên không sai, nhưng cũng không hoàn toàn đúng.

Bởi giải pháp cho những vấn đề khó, tác động nhiều chiều tới xã hội để thay đổi

thói quen của công chúng trong thời gian qua, ngoài những trông chờ ở nhận thức, ở

115

những ứng xử có trách nhiệm, v.v. cần có những cơ chế kiểm tra, giám sát, chế tài

xử phạt đủ mạnh có tính răn đe. Ví dụ, Nghị quyết 32/2007/NQ-CP về một số giải

pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông… (Quy định bắt buộc đội mũ bảo

hiểm…); Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về xử phạt hành

chính trong lĩnh vực đường bộ và đường sắt hành (vi sử dụng rượu bia khi tham gia

giao thông), v.v. Do đó, ngoài việc tuyên truyền, bổ sung kiến thức, ứng xử có văn

hóa về bản quyền để hạn chế vi phạm pháp luật về SHTT thì ngoài việc xây dựng

cơ chế quản lý, giám sát phù hợp cần có chế tài xử phạt mạnh đủ sức răn đe là điều

cần thiết và hiệu quả đối với tình hình thực tế vi phạm bản quyền tác phẩm hội họa

ở Việt Nam hiện nay.

Vi phạm bản quyền tác giả gây bức xúc và tác động tiêu cực tới hoạt động

kinh tế, văn hóa trong xã hội. Để chấn chỉnh vấn nạn vi phạm bản quyền tác giả,

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 36/2008 về tăng cường quản lý và thực

thi bảo hộ bản quyền tác giả và Bộ VHTTDL năm 2009 đã tổ chức các hội nghị,

hội thảo về chuyên đề này tại Hà Nội, Tp.HCM và Đà Nẵng. Theo một lãnh đạo của

Cục Bản quyền tác giả cho biết, việc đăng ký bản quyền tác giả, tác phẩm mỹ thuật

chưa thực sự được nhận thức và quan tâm đúng đắn của họa sĩ cũng như người sở

hữu tác phẩm. Số liệu tổng hợp, thống kê trong 3 năm liên tiếp kể từ năm 2006 -

2008 của Vũ Ngọc Hoan (2009) “Một số ý kiến về bảo hộ quyền tác giả tác phẩm

mỹ thuật tại Việt Nam” [44, tr.16] và Niêm giám Đăng ký quyền tác giả Việt Nam

của Cục Bản quyền tác giả phản ánh sự sụt giảm số lượng (trừ sự gia tăng đột biến

của năm 2016) thêm một lần nữa khẳng định điều đó.

Bảng 2.5. Biểu đồ chỉ số thống kê việc đăng ký bản quyền tác phẩm mỹ thuật

và mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam (3 năm từ 2006 - 2008 và 5 năm từ 2015 - 2019)

Nguồn: Số liệu của NCS nghiên cứu từ tài liệu của Cục Bản quyền tác giả

116

Về vấn đề bản quyền tác phẩm của nghệ sĩ sáng tạo: Theo nguyên tắc bảo vệ

tự động của Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật được hiểu,

bất kỳ tác phẩm nào mà bạn tạo ra đều có bản quyền khi sáng tạo, miễn là bạn là

nghệ sĩ gốc của công việc. Bản quyền tác giả bao gồm: quyền nhân thân và quyền

tài sản đối với tác phẩm. Gốc của công việc đối với tác phẩm hội họa Việt Nam

cũng là nguyên nhân tác động tới thị trường tác phẩm hội họa ở Việt Nam.

- Quyền nhân thân thuộc quyền tác giả theo Phạm Thị Kim Oanh (2018),

“Bảo vệ quyền tác giả và tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng - nhìn từ khía cạnh

pháp lý” bao gồm: “Đặt tên cho tác phẩm; Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác

phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; Công

bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,

không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức

nào gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả” [70, tr.21].

- Quyền tài sản thuộc quyền tác giả bao gồm: Sao chép tác phẩm; làm tác

phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước công chúng; phân phối, nhập khẩu bản

gốc và bản sao tác phẩm; Truyền đạt tác phẩm đến công chúng. Tác phẩm được bảo

hộ phải là bản gốc. Bản gốc tác phẩm được hiểu phải là bản được tồn tại dưới dạng

vật chất mà trên đó việc sáng tạo tác phẩm được định hình lần đầu tiên.

Tóm lại, bảo vệ SHTT được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự phát

triển kinh tế một cách lành mạnh hóa và phát triển thị trường tạo ra sự thịnh vượng

cho xã hội. Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam còn non trẻ, năng lực cạnh tranh

thấp, uy tín để quảng bá thương hiệu hạn chế nên để có thể phát triển bền vững và

hội nhập hiệu quả đóng góp vào tăng trưởng của đất nước thì bản quyền tác giả tác

phẩm hội họa phải được đặt đúng vị trí của nó dựa trên cơ sở thay đổi nhận thức và

hành vi về SHTT của công chúng và hoạ sĩ ở Việt Nam.

2.4.3. Đánh giá chung

2.4.3.1. Kết quả đạt được

Luật SHTT ở Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tiếp thu luật và các điều

ước song phương, đa phương quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan. Quyền tác

giả được hiểu một cách đơn giản là “quyền tác giả cho phép tác giả và chủ sở hữu

quyền khai thác tác phẩm, chống lại việc sao chép bất hợp pháp”. “Về khái niệm

pháp lý, quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm quy định và bảo vệ quyền nhân

117

thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn

học nghệ thuật, khoa học” [4, tr.85]. Vì vậy, quyền tác giả đối với tác phẩm văn học

nghệ thuật nói chung và đối với tác phẩm hội họa nói riêng đã tạo hành lang pháp lý

an toàn, thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh, khuyến khích hoạt động sáng tạo,

bảo hộ thành quả sáng tạo, cho phép tác giả và chủ sở hữu tác phẩm nghệ thuật khai

thác tác phẩm, chống lại việc sao chép bất hợp pháp tác phẩm.

Những mặt tích cực của Luật SHTT liên quan tới quyền tác giả tác phẩm hội

hoạ đã khuyến khích sáng tạo, phát triển lành mạnh cho hoạt động mỹ thuật nói

chung và hội hoạ nói riêng. Ngoài việc bán tác phẩm, bản quyền tác phẩm hội hoạ

có thể đem lại giá trị kinh tế cho tác giả tương tự như bản quyền các sản phẩm công

nghiệp khác, bản quyền tác phẩm hội hoạ còn đảm bảo quyền nhân thân của tác giả,

hay nói cách khác là đảm bảo uy tín, danh dự của tác giả gắn với tác phẩm của

mình. Liên quan tới quyền tài sản và quyền nhân thân quy định tại Điều 18 và chi

tiết tại Điều 19 Luật SHTT 2013.

Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam đã phát triển không ổn định trong

nhiều năm qua nhưng việc bán mua tác phẩm hội họa cũng đã góp phần làm thay

đổi tích cực đến đời sống xã hội. Phần lớn việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của

các chủ thể tham gia thị trường như hợp đồng mua bán, nghĩa vụ tài chính thuế, v.v.

chưa theo đúng quy định nên khi đến thị trường thứ cấp đã tạo ra diện mạo méo mó

ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại. “Các khâu

tư liệu có thể nói là vô cùng gian nan, nhất là khi phải xác định lý lịch và nội dung

cho từng tác phẩm, khi hầu hết các họa sĩ đã chết, việc lưu trữ tư liệu ở nước ta chưa

bao giờ là tốt cả” [93, tr.13] nhưng cũng đã được các chủ thể tham gia thị trường

này coi trọng hơn, phản ánh những kết quả tiến bộ trong quá trình phát triển.

Theo Vũ Ngọc Hoan (2009) “Một số ý kiến về bảo hộ quyền tác phẩm mỹ

thuật tại Việt Nam” cho rằng, “việc xây dựng ý thức tôn trọng về thực thi quyền tác

giả là việc làm không chỉ của riêng giới trí thức, văn nghệ sĩ, nhà quản lý trong

ngành văn hóa, mà còn là việc làm của các cấp, các ngành, các tổ chức cá nhân và

toàn xã hội” [44, tr.17]. Từ khi Việt Nam tham gia Công ước Berne, là thành viên

Tổ chức thương mại thế giới và Luật SHTT đi vào đời sống đã có không ít vụ việc

vi phạm bản quyền tác giả tác phẩm hội họa không chỉ còn ở phạm vi đơn nguyên ở

lãnh thổ một quốc gia phải xem xét giải quyết. Điều đó phản ánh những tác động

118

của tác phẩm hội họa đối với xã hội ngày một tăng lên theo chiều tích cực khi công

nghệ truyền thông phát triển giúp cho công chúng, họa sĩ có nhiều tiếp cận hơn với

quy định pháp luật, nâng cao được nhận thức về bản quyền và đặc biệt từ khi tác

phẩm phẩm hội họa sinh ra lợi ích kinh tế lớn và lan tỏa những ảnh hưởng tốt đẹp

hơn đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều chủ thể đã đăng ký bản quyền, quyền

sở hữu cho tài sản sáng tạo của mình. Mặc dù, số lượng đăng ký các quyền nêu trên

so với số lượng tác phẩm hội họa đến với người tiêu dùng còn khiêm tốn nhưng

cũng cho thấy công chúng dần nhận thức được quyền và nghĩa vụ của mình khi

tham gia vào hoạt động thị trường tác phẩm hội họa. Văn bản quy phạm pháp luật

về lĩnh vực này còn nhiều khuyết thiếu nhưng đang dần được bổ sung và hoàn thiện.

2.4.3.2. Hạn chế

Đặc điểm về quyền tác giả như đã nêu trên là chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo,

không bảo hộ nội dung sáng tạo; Việc đăng ký bảo hộ quyền tác giả chỉ có giá trị

chứng cứ chứ không có giá trị pháp lý, v.v. tác phẩm được bảo hộ phải có tính

nguyên gốc, tức là không sao chép, bắt chước tác phẩm khác. Đây cũng chính là

những yếu tố chưa tạo được hấp dẫn với người muốn đăng ký bản quyền đối với tác

phẩm hội họa bởi không chỉ có tác phẩm hội họa của các họa sĩ MTĐD mà phần lớn

tác phẩm của các họa sĩ Việt Nam đều không có đăng ký bản quyền. Việc mua bán

chủ yếu vẫn là giao dịch thỏa thuận rồi trao tay, các hình thức hợp đồng dân sự cũng

không phổ biến, nghĩa vụ nộp thuế cũng chưa tồn tại trong tiềm thức nên càng chưa

thể nói là thói quen, v.v. dẫn đến mọi ràng buộc về mặt pháp lý gần như là điều

không có trên thực tiễn ở Việt Nam.

Luật SHTT đối với tác phẩm hội hoạ mang lại rất nhiều ưu điểm cho sự phát

triển của xã hội. Tuy nhiên, Luật cũng gây nên những hạn chế nhất định về mặt tiếp

cận, thụ hưởng đối với phần lớn công chúng. Đặc biệt đối với những tác phẩm hội

họa đắt giá thuộc sở hữu của tư nhân. Trong khi lĩnh vực hội họa chưa có được quy

định độc lập ở trong văn bản luật, án lệ về hội họa chưa được áp dụng ở Việt Nam.

Bản quyền tác giả tác phẩm hội hoạ là quyền tài sản của chủ sở hữu và quyền nhân

thân được hưởng theo pháp luật quy định đối với tác phẩm. Tác phẩm hội hoạ là

một bộ phận quan trọng, chiếm tỉ lệ lớn trong số những loại hình thuộc tác phẩm mỹ

thuật, có tác động nhiều đến đời sống xã hội nên cần thiết xây dựng những quy định

riêng để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và phát huy hết tiềm năng của nó.

119

2.4.3.3. Nguyên nhân hạn chế

Những nguyên nhân hạn chế thực sự có cả phần khách quan và chủ quan đã

tác động đến lĩnh vực hội họa ở Việt Nam gồm:

- Nguyên nhân khách quan đầu tiên phải nói tới nhận thức, ý thức về bản

quyền chưa đúng đắn trong đại bộ phận công chúng cũng như nhiều nghệ sĩ.

Nguyễn Đỗ Cung cũng cho rằng: “Một họa sĩ ‘đứng đắn’ vẽ xong một bức, lại tự

nhiên có một cái thích thành thực muốn thử vẽ lại một cái mới, đúng như cái cũ.

…là một cuộc thử thách gay go tài nghệ của mình đáng quý lắm sao? Vẽ xong hai

bức mất rồi, lại không có quyền bán cả hai hay sao? Người ta còn bán cả những bức

vẽ phác thảo mà vẫn được công nhận là một hành vi rất đứng đắn” [22, tr.32]. Tư

duy làm lại tranh của chính mình sáng tác để bán lại như thể lấy tiền từ ví nọ để

sang ví kia của chính mình trước khi tiêu dùng thì không có gì đáng chê trách có

trong số nhiều các họa sĩ trước khi Luật SHTT ra đời và lan tỏa trong đời sống xã

hội. Nhiều người cũng cho rằng, “tranh giả không bao giờ làm chết người (và rồi

chẳng chóng thì chày chúng cũng bị phát hiện và bị đánh dấu), nên một cuộc chiến

chống lại tranh giả dường như chưa bao giờ mang tính cấp thiết như các cuộc chiến

chống lại thực phẩm giả hay thuốc chữa bệnh giả?!” [65, tr.81].

- Nguyên nhân chủ quan phải kể đến là do hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật còn thiếu đồng bộ, chưa tạo được đồng thuận cũng như thuận lợi cho người dân

tham gia thực hiện nghĩa vụ dân sự.

15 năm Luật SHTT được áp dụng vào đời sống xã hội, một số tổng kết theo

niên hạn của 5 năm, 10 năm về Luật đã được các cơ quan quản lý và tổ chức có liên

quan triển khai. Trên thực tế, việc thực thi quyền SHTT trong lĩnh vực văn hóa nghệ

thuật nói chung và với tác phẩm hội hoạ nói riêng đã có những thay đổi nhất định,

song những thành quả đạt được còn khiêm tốn nhưng khi xã hội phát triển ở tầm

cao mới, pháp luật được thượng tôn, nhận thức thay đổi hành vi ứng xử, hiểu biết

đúng đắn hơn những giá trị vật chất, tinh thần đối với những loại tài sản, những sản

phẩm sáng tạo nhiều hàm lượng trí tuệ như những tác phẩm hội hoạ.

Tiểu kết

Cải cách mở cửa Đổi Mới năm 1986, đến nay đã hơn 1/3 thế kỷ, gần bốn

mươi năm kể từ khi vấn đề SHTT được đưa ra thảo luận tại Quốc hội, 16 năm Công

ước Berne, 15 năm Luật SHTT được thực thi tại Việt Nam đã trôi qua, chưa có

120

nhiều chuyển biến tích cực tác động đến thị trường tác phẩm hội họa ở Việt Nam.

Mặc dù, thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại xuất hiện trở lại liền ngay

sau chính sách mở cửa Đổi Mới. Số lượng họa sĩ tăng nhanh, công chúng tiếp nhận,

thụ hưởng, tiêu dùng tác phẩm hội họa cũng không còn là điều xa lạ trong đời sống

bình thường của xã hội. Những hoạt động trưng bày triển lãm và mua bán tranh

nhộn nhịp đã làm tăng nhanh số lượng gallery, phòng triển lãm khiến thị trường trở

nên sôi động hơn bất cứ khi nào kể từ khi tác phẩm hội họa hiện đại xuất hiện ở

Việt Nam. Hoạt động thị trường đã làm thay đổi không chỉ diện mạo của hội họa

hiện đại Việt Nam mà còn tác động đến đời sống vật chất tinh thần họa sĩ cũng như

với công chúng. Tác phẩm hội họa trở thành hàng hóa trong nhãn quan người tiếp

nhận, tiêu dùng khi tham gia vào hoạt động thị trường. Vấn đề thị trường tác phẩm

hội họa ở nội địa, ở ngoài nước cùng với vấn đề bản quyền tác giả hay chính sách

khuyến khích phát triển thị trường, v.v. trở thành những điều trăn trở được luận bàn

trong xã hội và là nội dung nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, quản lý. Hội nhập

quốc tế diễn ra trong một hoàn cảnh mới khác xa so với những năm tháng trước Đổi

Mới. Những điều ước quốc tế, nguyên tắc về bảo hộ SHTT sản phẩm sáng tạo, thay

đổi về công nghệ tạo ra những thách thức mới khi hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật chưa hoàn thiện và đồng bộ bộc lộ những khuyết trống về pháp lý, cơ chế chính

sách cho việc phát triển. Nguồn nhân lực trong các “mắt xích” để vận hành nền

CNVH lĩnh vực hội họa còn chưa hoàn thiện, ít gắn kết, chưa đáp ứng được những

yêu cầu đặt ra cho sự phát triển trong tình hình mới.

Kết quả khảo sát, nghiên cứu, trao đổi, phân tích, tổng hợp của NCS về hoạt

động thị trường tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam với một số họa sĩ, nhà sưu tập,

người bán tranh cho thấy thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam tồn tại nhiều bất

cập, thuế chưa tạo thuận lợi, khuyến khích cho hoạt động thị trường trong khi đó

nhiều vụ việc vi phạm bản quyền gây ra tác động tiêu cực nhưng chưa thực sự có

một tổ chức thực sự chuyên nghiệp được thành lập để bảo vệ tác quyền, phân tích

đánh giá thị trường, giám định, thẩm định tác phẩm hội họa và những khoảng trống

trong hành lang pháp lý chưa được khắc phục tác động tiêu cực đến sự phát triển

lành mạnh của thị trường.

121

Chương 3

PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÁC PHẨM HỘI HỌA,

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

3.1. Định hướng

3.1.1. Bối cảnh kinh tế xã hội

Từ năm 1986, sau hơn một thập kỷ đất nước thống nhất, Việt Nam đã chính

thức thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đây là bước ngoặt quan trọng

trong tiến trình phát triển xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa. Chính sách đổi mới đã phát huy sức mạnh toàn dân, giải phóng sức lao động

và tiếp nối vào những thành công của đất nước hôm nay. Sự vận động xã hội này

thực sự thay đổi về chất và có tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó

có văn hóa - nghệ thuật. Từ việc đổi mới tư duy, coi tư duy kinh tế là trọng tâm để

từng bước đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo và tiến lên CNXH phù hợp với hoàn

cảnh, điều kiện xã hội của Việt Nam.

Bên cạnh tư duy về kinh tế xã hội, việc phát huy nhân tố con người, lấy con

người làm trung tâm cùng vấn đề về xây dựng nền văn hóa tiến đậm đà bản sắc dân

tộc cũng được quan tâm trong chính sách đổi mới của Đảng. Xây dựng và phát triển

nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đều là những nội dung lớn

nêu ra trong nghị quyết quan trọng về lĩnh vực văn hóa của Đảng, của Bộ Chính trị,

của Trung ương nhiều khóa. “Đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa

VIII đã gắn kết văn hóa với sự phát triển kinh tế - xã hội và với việc thực hiện tiến

bộ và công bằng xã hội; gắn kết văn hóa với mọi hoạt động xã hội về tất cả các mặt

chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, v.v.” [11, tr.9]. “Trong hơn 30 năm thực hiện

công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta từng bước nhận thức và làm sáng tỏ hơn mối

quan hệ giữa kinh tế và văn hóa. Nhờ đó, thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa kinh

tế và văn hóa đạt được những kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào sự phát triển

bền vững đất nước” [42, tr.44].

Thời kỳ chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam kéo dài một thập kỷ rưỡi kể từ

sau Đổi Mới, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị

trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Các hình thức hạn chế giao thương,

chia cắt thị trường dần được xóa bỏ, kế hoạch kinh tế của nhà nước được thực hiện

trên cơ sở hạch toán. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể lại được

122

thừa nhận và được tạo điều kiện hoạt động. Nền kinh tế dần dần được thị trường

hóa một cách khá rõ rệt. Hiện nay, Việt Nam trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 trên

tổng số 11 quốc gia ở Đông Nam Á và vị trí thứ 44 trong bảng xếp hạng 45 nền

kinh tế lớn nhất trên thế giới (tính theo GDP). Nền kinh tế thị trường đã làm thay

đổi toàn diện nền kinh tế Việt Nam khi tăng trưởng đạt được vào các năm 1995,

1996 đều xấp xỉ ở mức gần 10%. Đây là quãng thời gian Việt Nam đã tận dụng tốt

thời cơ Mỹ bỏ hoàn toàn cấm vận để mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương, tích

cực hội nhập kinh tế, đỉnh cao là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại

Thế giới WTO và các hiệp ước quốc tế cùng các hiệp định song phương, đa phương

khác. Giai đoạn 1986 - 2000, thời kỳ đổi mới với những chuyển biến thực sự về

nhận thức tư duy kinh tế, áp dụng kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế sâu rộng và

hiệu quả.

Từ năm 2006 đến nay, đất nước với nền tảng chính trị xã hội ổn định nên duy

trì được sự phát triển kinh tế ở mức khá cao. Tuy nhiên, thể chế kinh tế thị trường

định hướng XHCN mang những đặc thù riêng cũng không tránh khỏi những tác

động từ ảnh hưởng suy thoái từ kinh tế bên ngoài khi tham gia và hội nhập sâu rộng.

Suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không thuận lợi tới kinh tế Việt Nam. Tuy

nhiên, đó cũng là thời gian để Việt Nam nhìn nhận, đánh giá lại những thành tựu

phát triển trong thời gian qua và định hướng cho thời gian tiếp theo. Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng

trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trên quan điểm: “tăng trưởng kinh tế đi đôi với

phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn đề về xã hội vì mục tiêu

phát triển con người” [31, tr.77-78]. Đại hội đại biểu lần thứ toàn quốc lần thứ XII

của Đảng xác định rõ mục tiêu: “Đến năm 2020, phấn đấu hoàn thiện đồng bộ hệ

thống thể chế kinh tế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa

giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến

bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền

vững” [32, tr.104] với quan điểm tư duy nhấn mạnh vào việc phát huy giá trị văn

hóa và sức mạnh con người Việt Nam khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn

vinh, hạnh phúc, đất nước trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045. Văn hóa đạt

được một số thành tựu quan trọng. Theo số liệu của Chương trình phát triển Liên

Hiệp Quốc (UNDP) công bố chỉ số về phát triển con người (HDI), Việt Nam đang ở

123

thứ hai trong bảng các nước có chỉ số trung bình có giá trị 0.693 xếp thứ 118 trên 192

thành viên của Liên Hiệp Quốc và 2 vùng lãnh thổ (năm 2019 tăng 0.003 so với

2018). Cho thấy mức độ cải thiện đời sống của người dân Việt Nam đang có tăng

trưởng tích cực về thu nhập quốc dân, tăng tuổi thọ, xóa mù chữ và giáo dục tiểu học

cũng như giải quyết việc làm đi cùng với xóa đói giảm nghèo, v.v.

Những đổi mới về kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lĩnh vực của đời

sống xã hội, văn hóa, chính trị đến an ninh - quốc phòng và đối ngoại đã đạt được

những thành tựu quan trọng. Đời sống xã hội ngày càng cởi mở, văn hóa truyền

thống được coi trọng và quan tâm nhiều hơn, lễ hội truyền thống được phục hồi, di

tích lịch sử - văn hóa được bảo tồn và phát huy giá trị, nhu cầu tâm linh được đáp

ứng hài hòa cùng sự phát triển chung của đất nước, v.v. Người dân được tiếp cận,

thụ hưởng những thành tựu của các nền văn hóa đa dạng với các giá trị văn hóa

nghệ thuật của các dân tộc trên thế giới và tạo ra những giá trị văn hóa mới. Đổi

Mới - văn hóa Việt Nam bước vào một diện mạo phát triển mới trong đó mỹ thuật

nói chung và hội họa nói riêng là một trong những điểm sáng ấy.

3.1.2. Định hướng phát triển thị trường tác phẩm hội họa

Thị trường tác phẩm hội họa là một trong những thị trường văn hóa sớm

được hình thành và là một phần quan trọng của thị trường văn hóa Việt Nam. Từ

khi xuất hiện đến nay, thị trường này phát triển không ổn định, có những lúc sôi

động nhưng cũng có không ít những khoảng thời gian trầm lắng trì trệ. Mặc dù, có

phần liên thông với thị trường hội họa khu vực, thế giới do tác động của toàn cầu

hóa nhưng nhìn chung thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam là thị trường tự phát,

chưa hoàn thiện và còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.

Một Việt Nam thực sự mới kể từ sau Đổi Mới, những hoạt động của mang

tính thị trường trước đây còn xa lạ như thị trường mỹ thuật, điện ảnh, âm nhạc, v.v.

nay đã trở nên quen thuộc trong đời sống xã hội. Hằng ngày, trong các chương trình

truyền hình trên hạ tầng truyền thông, công chúng không khó để bắt gặp hình ảnh

một vài tác phẩm hội họa. Hiện nay, tác phẩm hội họa dần trở thành nhu cầu mua

trưng bày, sở hữu tài sản trong nhiều gia đình ở Việt Nam. Văn hóa được xác định

là một trong những trọng tâm phát triển kinh tế nêu trong Nghị quyết của Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XI và được làm rõ hơn, sâu sắc hơn ở trong các kỳ Đại

hội XII, XIII. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 trình bày

124

trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định phát triển

văn hóa là một trong những nguồn lực để xây dựng đất nước và xây dựng môi

trường văn hóa một cách toàn diện để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát

triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế. Trên cơ sở coi trọng mọi nguồn lực thông

qua việc khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực

tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội từ đó hình thành và phát triển thị

trường sản phẩm dịch vụ văn hóa. Cụ thể: “Nâng cao vai trò của văn hóa, nghệ

thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của con người Việt Nam, nhất là

trong thế hệ trẻ. Bảo đảm quyền hưởng thụ, tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa,

nghệ thuật của mỗi người dân và cộng đồng. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát

triển CNVH; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo, sáng tạo có sức

lan tỏa để quảng bá và giới thiệu ra thế giới” [32, tr.263-264]. Định hướng phát

triển thị trường tác phẩm hội họa là một phần trong thực thể định hướng phát triển

kinh tế văn hóa của Đảng và được Chính phủ cụ thể hóa triển khai thực hiện. Định

hướng phát triển thị trường tác phẩm hội họa chính là định hướng quan hệ xã hội

giữa người với người trong sáng tác trao đổi và tiêu dùng tác phẩm hội họa.

Xã hội phát triển, nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn,

những chính sách trụ cột văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và phát triển con người

dần được hoàn thiện và trở thành định hướng hữu hiệu cho sự phát triển. Nhân tố

văn hóa ở trong chính trị và kinh tế được nhận thức đúng đắn kết hợp với sự phát

triển toàn diện con người Việt Nam đang dần trở thành nguồn lực tổng thể tiềm

năng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện phát triển CNVH Việt

Nam theo tinh thần Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng, Chính phủ ban hành một

số văn bản dưới hình thức Quyết định của Thủ tướng Chính phủ như: Quyết định số

581/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020; Quyết định

số 1253/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch phát triển Mỹ thuật đến năm 2020 tầm nhìn

đến năm 2030; Quyết định số 1755/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển

CNVH đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Quyết định mới nhất được Thủ

tướng phê duyệt (Quyết định số 1755/QĐ-TTg), phần Mục tiêu đã xác định cụ thể

12 ngành CNVH trong đó có Mục tiêu chủ yếu đến năm 2020 doanh thu các ngành

CNVH đạt 3% GDP; năm 2030 đạt 7% GDP đồng thời tiếp tục tạo thêm nhiều việc

làm cho xã hội trên cơ sở phát triển bền vững, đa dạng, đồng bộ và hiện đại, được

125

ứng dụng công nghệ tiên tiến; các sản phẩm, dịch vụ văn hóa có thương hiệu, uy tín

trong khu vực và quốc tế, đạt tiêu chuẩn của các nước phát triển và tham gia sâu

rộng vào chuỗi giá trị sản phẩm, dịch vụ toàn cầu. Mỹ thuật thuộc ngành MTNATL

được xác định là ngành kinh tế văn hóa mũi nhọn đến năm 2020 doanh thu đạt 80

triệu USD (gấp 5 lần ngành Nghệ thuật biểu diễn); 2030 đạt 125 triệu USD. Bộ

VHTTDL ra Quyết định ban hành kế hoạch triển khai thực hiện “Quy hoạch phát

triển ngành mỹ thuật đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030”, v.v.

Mỹ thuật là ngành văn hóa quan trọng có quyết định riêng được Thủ tướng

ban hành Quy hoạch phát triển Mỹ thuật đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, với

3 quan điểm, 4 mục tiêu và 6 giải pháp nhằm định hướng mỹ thuật phát triển đúng

với tiềm năng của nó. Tuy nhiên, thực tiễn 35 năm sau Đổi Mới cho thấy, việc phát

triển kinh tế thị trường trong lĩnh vực hội họa đã được triển khai nhưng vai trò quản

lý chưa được đảm bảo và chưa thấy rõ được sự điều tiết của nhà nước nên tác phẩm

hội họa Việt Nam đã đi ra thị trường mỹ thuật thế giới từ khá sớm nhưng chưa đáp

ứng nhu cầu của phần đông công chúng, chưa thật sự làm người tiêu dùng không

chỉ ở những thị trường khó tính hay cao cấp hài lòng về chất lượng. Do thời gian

qua không ít tác phẩm hội họa chạy theo thị trường sáng tác theo trào lưu thị hiếu

tầm thường, xa rời bản sắc, giá trị đạo đức truyền thống thậm chí lệch lạc về nhận

thức. Việc đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, ứng dụng nghiên

cứu khoa học cho hội họa chưa tương xứng sự phát triển kinh tế. Công chúng nội

địa - nguồn nội lực để phát triển thị trường tiêu dùng sản phẩm hội họa trong nước

phần lớn chưa được trang bị kiến thức, cảm thụ thẩm mỹ nghệ thuật hội họa. Hiện

nay, nhận thức và quan niệm của nhiều nhà quản lý, công chúng về thị trường tác

phẩm hội họa trong mục tiêu phát triển CNVH còn khá mơ hồ nên còn tồn tại nhiều

hạn chế như thiếu những quy định hỗ trợ cho hoạt động thị trường, thiếu chính sách

khuyến khích đầu tư từ nguồn lực xã hội hóa cho việc khuyến khích sưu tầm tác

phẩm vì mục đích cộng đồng hay xây dựng điển hình hay hỗ trợ tạo dựng nghệ sĩ

sáng tác hội họa đỉnh cao. Việc thể chế hóa nghị quyết, chiến lược thành các biện

pháp chính sách, pháp luật còn gặp nhiều khó khăn khi tư duy bao cấp vẫn còn tồn

tại trong nhận thức của không ít những nhà quản lý, các hoạt động tổ chức, các thiết

chế có liên quan như bảo tàng, nhà trưng bày triển lãm ở các cấp, v.v. khiến cho xã

hội nhìn nhận vai trò, vị trí của mỹ thuật đối với sự phát triển đất nước, tiềm năng

126

kinh tế của tác phẩm hội họa chưa xứng đáng với thực chất của nó. Trong khi đó,

Giáo dục sáng tạo - yếu tố then chốt trong phát triển CNVH lĩnh vực hội họa chưa

được đổi mới, nâng cấp phù hợp với thế giới. Bên cạnh đó, việc đào tạo về kỹ năng

kinh doanh, nghiên cứu phân tích thị trường tác phẩm hội họa chưa được đưa vào

chuyên ngành đào tạo ở các trường mỹ thuật khiến cho các yếu tố sáng tạo, kinh

doanh, thụ hưởng thiếu tính kết nối và bổ trợ lẫn nhau để hình thành nên các chuỗi

liên kết sáng tạo đáp ứng nhu cầu của thực tế hoạt động thị trường.

Thị trường tác phẩm hội họa là một thành tố quan trọng của thị trường mỹ

thuật Việt Nam và chỉ riêng nó cũng đã đủ đầy yếu tố, xứng đáng là một thị trường

văn hóa độc lập bên cạnh thị trường văn hóa khác như điện ảnh, kiến trúc, v.v.

Đảng, Chính phủ đã có định hướng chiến lược phát triển chung cho thị trường văn

hóa, cũng có riêng cho thị trường tác phẩm hội họa để phát huy những tiềm năng,

nguồn lực sức mạnh nội lực của hội họa trong thị trường văn hóa Việt Nam như đã

nêu trên. Tuy nhiên, để bắt nhịp với xu hướng thời đại, cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0 và phù hợp với tình hình phát triển thực tế. Quy hoạch phát triển ngành

mỹ thuật sẽ được xây dựng mới sau khi hết hiệu lực theo Nghị quyết số 63/NC-CP

năm 2019 của Chính phủ thực hiện theo Luật Quy hoạch, trên cơ sở đó cần được bổ

sung những định hướng cơ bản cho thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam như sau:

Định hướng phát triển chung:

- Một là: Cấu trúc lại thị trường tự phát hiện nay theo hướng có sự điều tiết

hợp lý của nhà nước (định hình lại thị trường) để phát triển lành mạnh, bền vững

xây dựng niềm tin cho công chúng song song với việc kiến tạo môi trường miễn,

giảm thuế đặc biệt cho các hoạt động thị trường để trở thành điểm đến của các nhà

đấu giá quốc tế, tổ chức hội chợ mỹ thuật, hội họa.

- Hai là, khai thác hiệu quả phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị trường nội địa,

xây dựng thị trường trọng điểm, khôi phục thị trường truyền thống, các thị trường

có quan hệ đối tác bền vững, chú trọng phát triển phân tầng thị trường theo từng

mức nhu cầu của công chúng. Nhiều nhiệm vụ được xác định trong Chiến lược xây

dựng Hà Nội, Tp.HCM trở thành hai trung tâm CNVH lớn của cả nước nay bổ sung

hội họa là trọng tâm ưu tiên sớm được triển khai để khai thác tốt lợi thế khi Hà Nội

là thành phố đầu tiên của Việt Nam và là một trong 3 thủ đô đầu tiên của các nước

Đông Nam Á được vinh dự nhận danh hiệu là thành phố sáng tạo trong lĩnh vực

127

thiết kế thuộc mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO, trong khi đó

Tp.HCM là trung tâm kinh tế lớn, trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của cả

nước. Đây là cơ hội thuận lợi để Hà Nội và Tp.HCM định vị thương hiệu, quảng bá

hình ảnh trong các lĩnh vực sáng tạo, văn hóa, kinh tế, chính trị. Với tầm nhìn và

thương hiệu của mình, hai trung tâm văn hóa, kinh tế này đều có thể xây dựng, thúc

đẩy vị trí cạnh tranh trong thu hút đầu tư quy mô lớn, kích thích tái cấu trúc đô thị

hiện đại trong việc tập trung các chương trình phát triển toàn diện như nguồn nhân

lực, giáo dục - đào tạo chất lượng cao, không tách rời công nghệ với nền kinh tế tri

thức và các sự kiện văn hóa gắn liền với tầm nhìn tổng thể có ý nghĩa quan trọng

cho mục tiêu nâng cao tầm vóc, tạo dựng hình ảnh mới, hấp dẫn cho Việt Nam.

- Ba là, tận dụng lợi thế giá, chất lượng để cạnh tranh, khẳng định vị thế và

khai thác hiệu quả thị trường hội họa trong khu vực, truyền thống, phát triển thị

trường mới và các thị trường tiềm năng khác.

Định hướng phát triển cụ thể:

- Xây dựng và mở rộng các thị trường gồm:

+ Thị trường nội địa: Mở rộng, đẩy mạnh khai thác, phát triển đúng tầm để

trở thành thị trường chủ lực;

+ Thị trường ngoài nước: Khu vực Đông Nam á: Củng vị trí và giữ thị phần;

Thị trường Trung Quốc: Khai thác thị trường nghệ thuật lớn nhất thế giới, có nhiều

tương đồng về văn hóa, thể chế chính trị để thúc đẩy phát triển ổn định, hiệu quả,

chất lượng, thương hiệu; Thị trường Châu âu: Khai thác tiềm năng thị trường có bề

dày kinh nghiệm kinh doanh nghệ thuật, nhu cầu của cộng đồng người Việt; Thị

trường Mỹ: Tăng cường triển lãm giao lưu khai thác tiềm năng thị trường lớn, có

cộng đồng người Việt, người Châu á.

- Xây dựng chương trình hành động phát triển thị trường giai đoạn 2021-

2030.

Tóm lại, tác phẩm hội họa Việt Nam đã có vị thế riêng trên thị trường hội

họa thế giới, định hướng phát triển thị trường tác phẩm hội họa nằm trong định

hướng phát triển văn hóa đã được xác định trong Nghị quyết của Đảng và cụ thể

trong Chiến lược của Chính phủ, Quyết định của Bộ VHTTDL, v.v. đây là những

lợi thế ban đầu trong việc phát triển. Tuy nhiên, việc triển khai các chiến lược,

quyết định như thế vẫn chủ yếu đang dừng lại ở giai đoạn truyền thông nâng cao

128

nhận thức do nhiều cấp thực thi chưa nhận thức rõ được vị trí, vai trò của CNVH

nhất là lĩnh vực hội họa trong sự phát triển của đất nước dẫn đến việc chưa hoặc

chậm triển khai hay triển khai còn mang tính chất hình thức nên cần có những biện

pháp cụ thể để phát huy tiềm năng, đúng tính chất là ngành CNVH.

3.2. Giải pháp:

3.2.1. Nâng cao vai trò cơ quan quản lý nhà nước

3.2.1.1. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước

Ở nhiều quốc gia có thị trường mỹ thuật phát triển, cơ quan QLNN giữ vai

trò chủ đạo trong việc tìm ra những giải pháp phù hợp tác động đến việc điều tiết thị

trường sản phẩm văn hóa mang để nó mang bản sắc, đặc thù hay được nhận diện

như là thương hiệu của một quốc gia đó nhằm đảm bảo uy tín hình ảnh đất nước,

khai thác hiệu quả kinh tế từ sự phát triển bền vững và lâu dài.

Từ Đổi Mới đến nay, bối cảnh toàn cầu hóa và môi trường số làm cho thị

trường văn hóa trong đó có thị trường tác phẩm hội họa nhiều cơ hội phát triển

nhưng cũng làm bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế đặc biệt là vai trò QLNN. Thể chế

kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nhìn ở góc độ thị trường hội họa

trong sự vận động phát triển theo xu hướng có sự điều tiết của nhà nước là phù hợp

vì nếu chỉ để thị trường tự điều tiết sẽ không khắc phục được những khó khăn mà

trong thực tế đã gây ra những tổn hại nghiêm trọng. Tuy nhiên, những vướng mắc

bất cập từ sự không theo kịp của cơ quan QLNN thể hiện ở việc chưa hoàn thiện

được hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cùng với chất lượng chưa cao của một

số văn bản đã được ban hành, đặc biệt là chính sách phát triển chưa đáp ứng được

nhu cầu phát triển thực tế đã trở thành rào cản cho sự phát triển của thị trường này.

Việc chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực, cũng như chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ từ những mắt xích lỏng lẻo nhưng ở những vị trí quan trọng trong khi hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển chưa khớp với nhau, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, tính đồng bộ và sự liên thông giữa giáo dục, đào tạo trình độ nghề nghiệp với thực tiễn, v.v. chưa

cao nên chưa trở thành nền tảng phát triển vững chắc, thực hiện được định hướng

CNVH như Nghị quyết của Đảng, Chiến lược của Chính phủ đã đề ra.

Thị trường tác phẩm hội họa, một thành tố quan trọng của thị trường mỹ

thuật, lĩnh vực mũi nhọn của thị trường văn hóa được xác định ở phần mục tiêu

trong Chiến lược các ngành CNVH Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

129

và nhiều văn bản pháp lý quan trọng khác đã trình bày ở phần trên. Trong nhiều

năm qua, các hoạt động sáng tác, bán mua và dịch vụ của thị trường này diễn ra khá

sôi động tạo tiền đề cho phát triển CNVH. Tuy nhiên, đến nay CNVH ở lĩnh vực thị

trường tác phẩm hội họa chưa phát triển mặc dù thị trường này bộc lộ nhiều tiềm

năng từ khá sớm. Những đặc thù khó có thể nhầm lẫn với những thị trường hàng

hóa văn hóa khác là ưu thế nhưng cũng trở thành điểm nghẽn cho sự phát triển của

thị trường này. Việc phần đông công chúng và nhiều nhà quản lý còn chưa nhận

thức và xác định được một cách đúng đắn về tiềm năng phát triển CNVH của thị

trường này đặt ra nhiều vấn đề trong đó nâng cao vai trò quản lý của cơ quan

QLNN là vấn đề tiên quyết cho sự đổi mới và phát triển. Vai trò của cơ quan QLNN

chưa được phát huy, thị trường sẽ thiếu những tác động tích cực như sự điều tiết

lành mạnh, không xác định được trọng tâm phát triển, không có những sản phẩm

đầu ra đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, v.v. Thực tế thị trường tác phẩm

hội họa Việt Nam 35 năm qua là một minh chứng sinh động và cụ thể. Khi vai trò

của cơ quan QLNN được nâng cao trong hoạt động thị trường tác phẩm hội họa

Việt Nam sẽ có những tác động phù hợp bên cạnh sự vận hành đúng hướng, điều

chỉnh hợp lý sẽ trở thành một ngành CNVH góp phần quan trọng xây dựng, phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu thụ

hưởng văn hóa ngày càng cao của công chúng, quảng bá hình ảnh, phát huy lợi thế

cạnh tranh của văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Nâng cao vai trò tham mưu QLNN, chú trọng công tác nghiên cứu khoa học

để làm căn cứ tham mưu, đề xuất định hướng những vấn đề mang tính chiến lược

trong việc phát triển thị trường tác phẩm hội họa. Vai trò của cơ quan QLNN thực

hiện chức năng QLNN, chức năng chính là vận hành thường xuyên bằng bộ máy

Nhà nước bảo đảm mọi hoạt động của xã hội cũng như trên từng lĩnh vực đời sống

xã hội vận động theo một hướng, đường lối nhất định do nhà nước định ra. Từ đó

tìm ra yếu điểm làm nghẽn mạch và hạn chế quá trình phát triển của thị trường này.

Ví dụ, thực hiện việc kiểm tra, thanh tra thường xuyên nhằm đảm bảo việc tuân thủ

pháp luật được thực hiện nghiêm túc, ngăn ngừa và hạn chế những hành vi tiêu cực.

Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam phát triển tự do, thiếu những sự điều tiết,

can thiệp của cơ quan QLNN trong thời gian qua nên những quyền lợi hợp pháp

không được đảm bảo khiến cho thị trường này không huy được tiềm năng, phát

130

triển cũng không đúng chủ trương “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

của Đảng. Mô hình kinh tế nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước

giữ vai trò chủ đạo chưa được triển khai. Vai trò chủ đạo của Nhà nước ở đây được

hiểu là vai trò dẫn dắt theo cách vận hành đầy đủ, đồng bộ vừa tuân theo quy luật

của kinh tế thị trường vừa định hướng trong hoạt động thị trường, đảm bảo phù hợp

với sự phát triển của hội họa Việt Nam và tình hình thực tế của đất nước. Nhiều

thập kỷ đã trôi qua kể từ sau Đổi Mới, vai trò của cơ quan QLNN trong việc điều

hướng phát triển thị trường tác phẩm hội họa thực sự rất mờ nhạt, chưa nói đến vị

trí chủ đạo mặc dù thị trường này cũng đã phát triển nóng, tăng nhanh chóng về số

lượng, quy mô gallery và các hoạt động triển lãm, có tác động không nhỏ tới xã hội.

Vì vậy, việc phát huy, nâng cao vai trò của cơ quan QLNN trong các hoạt động của

thị trường tác phẩm hội họa để thị trường này có sự phát triển lành mạnh, bền vững

đóng góp vào sự nghiệp CNVH và phát triển chung của đất nước là nhiệm vụ cấp

thiết, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Đổi mới theo Nghị quyết số 99/NQ-CP

của Chính phủ: Về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực áp

dụng vào thị trường tác phẩm hội họa, cơ quan QLNN nên điều chỉnh, lược bỏ

những hoạt động mang tính sự nghiệp, nâng cao vai trò QLNN như đã phân tích,

tránh chồng chéo với chức năng đã có của các đơn vị khác. Ví dụ, chức năng “sưu

tầm các tác phẩm bổ sung cho bộ sưu tập mỹ thuật của Bộ” - cũng là sưu tầm cho

nhà nước của Cục MTNATL, trùng với chức năng của Bảo tàng MTVN vì bảo tàng

này hằng năm vẫn bổ sung vào bộ sưu tập của Bảo tàng - bộ sưu tập của nhà nước

những tác phẩm mỹ thuật có giá trị cao theo quy định của Luật Di sản văn hóa và

thực hiện quy trình chặt chẽ trên cơ sở đề xuất từ công tác nghiên cứu sưu tầm, hội

đồng khoa học chuyên ngành, v.v. Trong khi cơ quan này cần tập trung để xây

dựng, hoàn thiện, bổ sung khá nhiều các văn bản pháp lý vì hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật với những chính sách thuộc lĩnh vực đã có nhiều khoảng trống tồn tại

kéo dài trong nhiều năm qua dẫn đến chưa khai thác được tiềm năng, lợi thế, nguồn lực

trong lĩnh vực mỹ thuật cho việc phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu

cầu phát triển bền vững đất nước cũng như thực hiện Chiến lược CNVH. Những hạn

chế của phát triển thị trường tác phẩm hội họa cũng đến từ việc chưa thực hiện kết nối

dữ liệu, chế độ báo cáo tình hình hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia kinh

doanh, hoạt động thị trường; chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu thống kê bộ, ngành,

131

lĩnh vực do cơ quan QLNN làm đầu mối thực hiện theo quy định tại khoản 1; 2 của

Điều 19 Luật Thống kê, v.v. Việc dành khá nhiều thời gian, nguồn kinh phí từ ngân

sách nhà nước để tổ chức các hoạt động sự nghiệp trong khi việc thu hút đầu tư, xã hội

hóa gần như chưa đạt hiệu quả. Tuy nhiên, những hoạt động này luôn được nhìn nhận

là một trong những nhiệm vụ chính, thường niên và trọng tâm của cơ quan QLNN mặc

dù chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của xã hội, chưa tạo hiệu quả định hướng phát

triển cho ngành, lĩnh vực cũng như thị trường tác phẩm hội họa trong tình hình thực tế

hiện nay. Triển lãm Mỹ thuật quốc gia được tổ chức với niên hạn thường kỳ 5 năm một

lần là ví dụ. Nhiều người hoạt động trong lĩnh vực mỹ thuật cho rằng, mô hình, phương

thức tổ chức thực hiện đã có từ thập niên 80 của thế kỷ trước chưa có sự đổi mới nên

chưa tạo được đột phá cũng như việc phát huy hiệu quả kinh tế.

Nhiều nhiệm vụ có tính định hướng và những giải pháp phát triển thị trường

tác phẩm hội họa, nền hội họa Việt Nam mang tính then chốt thuộc lĩnh vực QLNN

chưa được xác định giải quyết. Ví dụ, việc xây dựng chính sách cho đào tạo nguồn

nhân lực phát triển thị trường tác phẩm hội họa đỉnh cao hay việc quản lý hoạt động

thị trường tác phẩm hội họa, đặc biệt là tác phẩm hội họa của các họa sĩ MTĐD là

những yếu tố cốt lõi làm nên thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam mang tầm quốc

tế nhưng những vụ việc tranh giả thổi bùng lên sự nghi ngại đã tác động tiêu cực tới

việc mua bán, thu hút đầu tư phát triển thị trường này trong thời gian qua.

Theo NCS, để nâng cao vai trò của cơ quan QLNN trong việc phát triển thị

trường tác phẩm hội họa phù hợp với thực tế xu thế phát triển công nghiệp 4.0 như

hiện nay cần thực hiện một số giải pháp như sau:

Một là, xây dựng, ban hành Luật Mỹ thuật và hoàn thiện hệ thống văn bản

pháp quy để nền mỹ thuật phát triển bền vững, bên cạnh vai trò nghệ thuật xác định

hội họa trong kinh tế làm cơ sở xây dựng một cấu trúc nền mỹ thuật vững chắc với

hoạt động vận hành thị trường tác phẩm hội họa hướng tới CNVH.

Hai là, truyền thông đầy đủ, chính xác về vai trò, hoạt động QLNN, đặc biệt

của Bộ VHTTDL trong việc xác lập, điều tiết làm ổn định thị trường tranh hội họa

đối với các hoạt động mua bán, dịch vụ, đồng thời nâng cao nhận thức, hiểu biết

pháp luật của cộng đồng về bản quyền tác giả, quyền và nghĩa vụ của người tiêu

dùng, các hành vi phạm pháp luật liên quan tới tác phẩm hội họa, v.v.

132

Ba là, nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng việc xây dựng cơ

sở dữ liệu thống kê để quản lý hoạt động bán mua và dịch vụ về hội họa phục vụ

công tác quản lý, thiết lập một mối liên kết lâu dài giữa các chủ thể, cải thiện khả

năng truy xuất nguồn gốc của các tác phẩm hội họa, sự hiểu biết của các họa sĩ và

giá cả thị trường về tác phẩm của họ hay thân nhân của họ, đồng thời làm tính minh

bạch của thị trường này.

Bốn là, xây dựng chương trình quảng bá, giới thiệu, tôn vinh họa sĩ đồng thời

phát hiện và xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động sản xuất,

kinh doanh, trưng bày tác phẩm hội họa giả, mạo danh, v.v.

Năm là, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ làm công tác QLNN ở

trung ương và các tỉnh, thành phố có hoạt động thị trường hội họa. Tăng cường phối

hợp, hợp tác quốc tế trong việc trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ, thực thi thống nhất

các quy định pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức, tiêu

chuẩn quốc tế tạo cơ hội, làm cầu nối cho hoạt động gallery, phòng tranh, nhà đấu

giá và các nhà sưu tầm với họa sĩ trong và ngoài nước.

Sáu là, đổi mới căn bản toàn diện, tổng thể phương thức QLNN theo hướng

đổi mới, kiểm soát nội dung phù hợp, thông thoáng để kiến thiết môi trường kinh

doanh, đầu tư thuận lợi, an toàn, thông thoáng và minh bạch. Điều chỉnh giảm hoặc

bãi bỏ các loại thuế, thủ tục hải quan đối với hội họa tạo sự phát triển (mô hình Hàn

Quốc), bổ sung những chính sách ưu đãi cho việc sử dụng công trình công cộng

hiện đại mang tính biểu tượng quốc gia làm nơi trưng bày giới thiệu các hoạt động

nghệ thuật của các nhà đấu giá quốc tế, kết nối các hạ tầng cơ sở để vận hành đồng

bộ, liên thông trong hoạt động thị trường (mô hình Hồng Kông).

3.2.1.2. Hoàn thiện các quy định chính sách

- Một là, các quy định thị trường trong đó bao gồm:

+ Hoàn thiện các quy định về thị trường tác phẩm hội họa để quy định đi vào

đời sống ở các hoạt động có liên quan tới tác phẩm hội họa như sáng tác, phổ biến,

mua bán, trao đổi, v.v. hoàn thiện những quy tắc, chuẩn mực trong ứng xử, những

định mức về kinh tế, kỹ thuật được cơ quan QLNN có thẩm quyền ban hành hoặc

thừa nhận và buộc các tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân thủ.

+ Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về hội họa để hướng tới hoạt

động hội họa chuyên nghiệp, trong đó có sáng tạo và phát triển thị trường, nghiên

133

cứu kinh nghiệm quản lý và vận hành thị trường của các nước đã thành công trong

lĩnh vực CNVH như Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Singapore, v.v. làm cơ sở đánh

giá một cách khoa học để lựa chọn áp dụng cho phát triển thị trường tác phẩm hội

họa ở Việt Nam. Một số giải pháp góp phần thực hiện việc hoàn thiện quy định

trong thời gian tới đó là xây dựng và ban hành Luật Mỹ thuật để điều chỉnh những

vấn đề chung, đặc thù trong từng loại hình của mỹ thuật mà các luật khác có liên

quan như Luật SHTT, Luật Di sản văn hóa, Luật Thương mại, Luật Đấu giá tài sản,

Bộ Luật Dân sự, v.v. không thể thay thế được. Trong thời gian chưa có Luật Mỹ

thuật, sửa đổi một số quy định tại Nghị định số 113/NĐ-CP của Chính phủ: Về hoạt

động mỹ thuật để tạm thời bù đắp những khoảng trống, giải quyết tình huống cho

những vấn đề thực tiễn xảy ra dự báo cho tương lai phát triển, phù hợp với những

cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Để hoàn thiện các quy định về thị

trường tác phẩm hội họa cần: Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện quy định về việc

lưu trữ dữ liệu hồ sơ tác giả, tác phẩm hội họa, bộ nhận diện tác giả, tác phẩm thông

qua chữ ký gắn với giai đoạn sáng tác tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động về

thị trường cũng như các hoạt động khác có liên quan. Thứ hai, xây dựng và hoàn

thiện tiêu chuẩn, định mức, quy định về hoạt động giám định tác phẩm hội họa. Thứ

ba, quy định về hoạt động đấu giá tác phẩm hội họa. Thứ tư, quy định về việc tổ

chức hoạt động chợ tranh, đặc biệt yếu tố thuế, phi thuế tại một số khu vực tổ chức

chợ nhằm mục đích thúc đẩy phát triển thị trường trên cơ sở tham khảo từ các mô

hình hoạt động hiệu quả ở Singapore, Trung Quốc, Mỹ, v.v. Thứ năm, xây dựng và

ban hành những quy định cụ thể về hoạt động mua bán tác phẩm hội họa, đưa vào

diện hàng hóa văn hóa đặc biệt đối với những họa phẩm có giá trị kinh tế cao (theo

định mức) làm căn cứ quy định việc áp dụng khai báo thuế, khai báo thống kê bắt

buộc định kỳ đối với việc mua - bán tác phẩm. Ví dụ, ở một số quốc gia như Trung

Quốc việc mua bán tác phẩm nghệ thuật được quy định áp mức thuế ở mức mặt

hàng xa xỉ cao nhất có thể lên tới 38%. Ở Mỹ cũng với nhiều loại thuế được phân

loại ở những giá trị nhất định như: thuế thu nhập, thuế đầu tư, thuế bản quyền sang

nhượng lại, thuế an sinh xã hội, v.v. thậm chí còn có mức thuế riêng ở mỗi bang

(thuế doanh thu đối với tác phẩm nghệ thuật ở Tennesse là 9,46%, New York là

8,75%). Người bán có thể sẽ thu thuế của người mua để nộp cho Nhà nước. Thứ

sáu, Luật SHTT và các văn bản dưới luật chưa có quy định cụ thể về bản quyền tác

134

phẩm cho tác giả, chủ sở hữu khi khai thác và sử dụng tác phẩm hoặc một phần tác

phẩm hội họa vào những mục đích thương mại thứ cấp khác nhau, hoặc là quy định

bắt buộc các hoạt động thương mại phải trả cho các nghệ sĩ còn sống hay người

được thừa kế tỉ lệ phần trăm từ việc bán lại tác phẩm của họ (80 quốc gia áp dụng)

[161] là giải pháp hỗ trợ cho nghệ sĩ sáng tạo nhưng cũng giúp thị trường phát triển

minh bạch hơn, đặc biệt các giao dịch trên các nền tảng hạ tầng số.

- Hai là, xây dựng và hoàn thiện chính sách phù hợp tạo điều kiện phát triển

cho thị trường tác phẩm hội họa ở Việt Nam. Những quốc gia có CNVH phát triển,

phần lớn đều có sự quan tâm tạo điều kiện, hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp của Nhà

nước bằng chính sách cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật sáng tạo để khuyến

khích đa diện, đa tầng trên cơ sở tận dụng mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế

trong xã hội cùng tham gia đầu tư và kinh doanh. Tuy nhiên, chưa có chính sách hỗ

trợ cho gallery - thành phần quan trọng của thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam.

Theo Trần Hậu Tuấn (2000) “Gallery và thị trường mỹ thuật” cho rằng, cơ quan

QLNN chưa nhìn nhận các gallery như là thiết chế văn hóa trong khi đó “ở nước

ngoài có chính sách về văn hóa và kinh tế, nên Hội Mỹ thuật và các cơ quan nghệ

thuật sẽ được nhận một phần thuế thương mại của gallery” đồng thời “Nhà nước

cần có chính sách tài trợ cho nghệ thuật” [108, tr.77-78]. Theo Nguyễn Văn Kiêu và

Trần Tiến (1993) Tổng thuật Chính sách văn hóa của một số nước trên thế giới cho

biết, “Ba Lan cũng quan niệm là sự giúp đỡ của Nhà nước và các thể chế xã hội cho

các nhà sáng tạo và cho những người được hưởng thụ các tài sản văn hóa là không

thể thiếu được; nó nhằm duy trì sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân và của cộng

đồng, tất nhiên là phải dành ưu tiên cho lợi ích của xã hội” [56, tr.46]. Tác phẩm hội

họa là một trong sản phẩm văn hóa nghệ thuật thuộc nhóm những sản phẩm mang

“sức mạnh mềm” trong xu hướng phát triển của thời đại ngày nay. Theo một hoạ sĩ,

nguyên lãnh đạo điều hành Quỹ Thụy Điển - Việt Nam cho rằng, để Phát triển Văn

hóa Việt Nam, chúng ta cần đưa CNVH trở thành mục tiêu chiến lược của việc xây

dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi đó là một bộ phận của “sức

mạnh mềm” của nước ta, là một công cụ quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Vì

vậy, để hoàn thiện chính sách cần:

+ Thứ nhất, đầu tư xây dựng để hoàn thiện nguồn nhân lực, vật lực, cơ sở vật

chất, v.v. theo Quy hoạch Chiến lược phát triển ngành mỹ thuật, lĩnh vực hội họa

135

thực hiện mục tiêu chiến lược CNVH. Đầu tư, khuyến khích hỗ trợ cho tổ chức, cá

nhân xây dựng và phát triển các bộ sưu tập tác phẩm hội họa hiện đại, tác phẩm hội

họa đỉnh cao. Xây dựng thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam theo hướng chuyên

nghiệp để bắt kịp với thị trường khu vực, nâng cao uy tín, chất lượng, phát triển với

quy mô CNVH.

+ Thứ hai, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của

các hội mỹ thuật từ trung ương tới địa phương theo hướng tổ chức hoạt động xã hội

- nghề nghiệp. Phân vùng các hoạt động nghề nghiệp nâng hiệu quả hoặc tách riêng

phần chính trị, hành chính hóa trong các hoạt động mỹ thuật có sử dụng ngân sách

nhà nước. Phân cấp cho các tỉnh, thành phố trong diện đặc biệt được chủ động xây

dựng và ban hành các chính sách mỹ thuật phù hợp trong phạm vi của địa phương

mình để phát huy hết tiềm năng đặc thù. “Kinh nghiệm xây dựng và vận hành chính

sách quản lý văn hóa linh hoạt và hiệu quả của Vương quốc Anh, Mỹ, v.v. thông

qua các hình thức của Hội đồng nghệ thuật, mỹ thuật cũng tương tự như ở một số

nước trên thế giới” (khoảng 45% trong tổng số 170 quốc gia khảo sát có Hội đồng

Nghệ thuật) [96, tr.107]. Nghiên cứu, thành lập các hội đồng mỹ thuật hoạt động

độc lập giúp cho công tác quản lý, hoạch định chính sách về ngành, lĩnh vực theo

mô hình hội đồng nghệ thuật của Hàn Quốc, Singapore, v.v. để đề xuất, tư vấn về

chính sách; đánh giá thẩm định các đề án, dự án về chính sách mỹ thuật đã được đầu

tư chiều sâu trên cơ sở tiềm năng, đề xuất với cơ quan quản lý của Chính phủ quyết

định các mức tài trợ kinh phí cho các dự án, cũng như giám sát, đánh giá kết quả

thực hiện các dự án.

+ Thứ ba, khuyến khích xây dựng bộ chỉ số, niêm giám thống kê về hoạt

động mỹ thuật, đặc biệt là bộ chỉ số về hoạt động bán, mua tác phẩm hội để dự báo

xu hướng phát triển của ngành trong xã hội, là cơ sở để hoạch định chính sách phù

hợp và nâng cấp, cải thiện phát triển hệ thống thiết chế văn hóa có liên quan.

+ Thứ tư, tài trợ cho công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và ứng

dụng công nghệ cao trong hoạt động giám định, thẩm định tác phẩm mỹ thuật; đào

tạo, bồi dưỡng nhân lực về chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý hoạt động mỹ thuật

song song với việc xây dựng cơ chế phản biện, phản hồi trong việc thực hiện chính

sách mỹ thuật.

136

+ Thứ năm, hỗ trợ các tổ chức tham gia xây dựng chiến lược thương mại

điện tử lĩnh vực hội họa, tối ưu hóa công cụ tìm kiếm, truyền thông quảng bá mạnh

mẽ trên môi trường số với sự tham gia phối hợp của các công ty đa quốc gia, tập

đoàn lớn.

+ Thứ sáu, xây dựng chính sách khuyến khích, ưu đãi (incentive) về thuế,

hoạt động mua bán, đầu tư để phát triển thị trường hội họa gắn với mục tiêu tổng

thể xây dựng, phát triển nền CNVH Việt Nam. Tham khảo mô hình quản lý thị

trường mỹ thuật ở Trung Quốc, Hàn Quốc về chiến lược ưu tiên cho tiếp thị, quảng

bá trên nền tảng truyền thông công nghệ số; chính sách miễn giảm thuế doanh

nghiệp khi mua, tặng hiện vật, tác phẩm mỹ thuật cho bảo tàng, v.v. Nhờ các chiến

lược hợp lý, chính sách ưu đãi, kích cầu tiêu dùng khiến cho giá trị kinh doanh qua

đấu giá công khai trở thành động lực tăng trưởng của thị trường Trung Quốc ước

đạt gần 10 tỉ USD (năm 2011) chiếm 70% doanh số tổng thị trường, 30% là các

gallery và nhờ đó có hàng chục họa sĩ đương đại có giá tranh trên 1 triệu USD.

+ Thứ bảy, xây dựng và thành lập Quỹ hỗ trợ, xúc tiến phát triển mỹ thuật để

gây dựng nên nhiều tác phẩm hội họa nghệ thuật đỉnh cao, hỗ trợ cho các hoạt động

khác để phát triển mỹ thuật sáng tạo. Quỹ hỗ trợ phát triển mỹ thuật bao gồm nguồn

hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, tài trợ của các tổ chức, cá nhân.

+ Thứ tám, sử dụng sản phẩm, tác phẩm hội họa Việt Nam bản gốc trong các

trụ sở cơ quan nhà nước, công trình công cộng đặc biệt là những công trình quốc gia

có nhiều các hoạt động lớn hoặc giao lưu quốc tế.

Chính phủ quy định cụ thể việc thực hiện các chính sách để hỗ trợ phát triển

mỹ thuật. Cơ quan QLNN luôn giữ vai trò quan trọng trong việc đưa ra giải pháp

tích cực, quyết liệt để điều tiết thị trường nghệ thuật theo chiều sâu, nhằm đảm bảo

sự phát triển bền vững và lâu dài. Để không lẫn lộn giữa thị trường nghệ thuật với

thị trường tài chính khác; làm cho công chúng nhận thức và hiểu được phát triển

mạnh mẽ CNVH là một hướng đi, đồng thời là biện pháp quan trọng đẩy mạnh việc

xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và

hội nhập là một phương thức quan trọng thoả mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao

của nhân dân, phát huy lợi thế cạnh tranh của văn hóa Việt Nam trong một “thế giới

phẳng”. Cơ quan QLNN thực hiện chức năng QLNN trong hoạt động hành chính

nhà nước thuộc Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ có vai trò quan trọng, chỉ đạo các

137

cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Chức năng QLNN là chức năng quan

trọng nhất vận hành thường xuyên bằng bộ máy Nhà nước bảo đảm mọi hoạt động

của xã hội cũng như trên từng lĩnh vực đời sống xã hội vận động theo một hướng,

đường lối nhất định do nhà nước định ra. Trong đó việc kiểm tra, thanh tra nhằm

đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước thực hiện đầy đủ, kịp thời,

đúng pháp luật để ngăn ngừa và phòng tránh những hành động tiêu cực xảy ra là

việc làm thường xuyên được thực hiện. Cục MTNATL là tổ chức thuộc Bộ

VHTTDL có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện QLNN về MTNATL;

được Bộ trưởng giao trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn phát triển sự nghiệp

MTNATL trong cả nước theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước.

Tuy nhiên, trên thực tế số lượng các văn bản quản lý hoạt động mỹ thuật

chưa hoàn thiện, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, hoạch định chính sách về

lĩnh vực quản lý còn nhiều khoảng trống. Ví dụ, chưa xây dựng được Hệ thống chỉ tiêu

thống kê bộ, ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước do Cục này làm đơn vị quản lý đầu

ngành đã được quy định tại khoản 1; 2 của Điều 19 Luật Thống kê. Phối hợp với Cục

Bản quyền tác giả xây dựng bộ tiêu chuẩn cho chức danh, quy trình hoạt động của

giám định viên tư pháp hội họa, v.v. Việc tổ chức các sự kiện chiếm khá nhiều thời

gian và nguồn kinh phí tổ chức từ ngân sách nhà nước trong khi đó việc thu hút đầu tư,

xã hội hóa gần như không đạt hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động này luôn được xem như

là một trong những nhiệm vụ chính của cơ quan này mỗi khi đến niên hạn thực hiện

mặc dù những hoạt động mỹ thuật như vậy chưa thực sự tạo hiệu quả định hướng phát

triển cho ngành, lĩnh vực trong tình hình mới hiện nay. Ví dụ, Triển lãm Mỹ thuật toàn

quốc. Mặc dù được tổ chức với niên hạn thường kỳ 5 năm một lần, nhưng với phương

pháp tổ chức, mô hình đã tồn tại từ thập niên 80 của thế kỷ trước không có sự thay đổi,

không tạo được đột phá cũng như việc phát huy hiệu quả kinh tế trong hoạt động.

3.2.1.3. Nâng cao vai trò của các thiết chế mỹ thuật

Với các thiết chế văn hóa (Cultural Institution) là thuật ngữ chỉ các tổ chức

hoạt động văn hóa do Nhà nước hay cộng đồng xã hội, cá nhân lập ra trong khuôn

khổ pháp luật hoặc quy định của ngành đặt ra nhằm đáp ứng nhu cầu về văn hóa,

tinh thần, kinh tế, chính trị. Những thiết chế này có vai trò đặc biệt quan trọng,

quyết định đến mức độ thành công trong việc xây dựng và phát triển văn hóa con

138

người xã hội. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chỉnh thể đầy đủ của thiết chế bao

gồm: cơ sở vật chất, tổ chức bộ máy, nhân sự, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí.

Nếu căn cứ như vậy, có thể nói thiết chế mỹ thuật ở Việt Nam hiện nay là một chỉnh

thể khá đầy đủ về mặt hình thức và số lượng. Tuy nhiên, mỗi một thành phần của

thiết chế mỹ thuật lại có những tiêu chí hoạt động và vận hành theo hướng độc lập,

ít có liên kết với nhau và phần lớn trong số đó chưa thể hiện được là một chỉnh thể

hoàn thiện. Sự hoạt động rời rạc, thiếu những quan hệ gắn kết nhưng có nhiều sự

trùng lặp, thiếu tính chuyên môn sâu trong mỗi lĩnh vực đã khiến cho hệ thống thiết

chế này ít phát huy được hiệu quả so với tiềm năng vốn có của nó, đặc biệt là các

tác động tới xã hội hiện đại ngày nay. Chính vì vậy, việc đổi mới hoạt động của các

thiết chế lĩnh vực này sẽ có tác động không nhỏ trong việc định hướng và góp phần

thực hiện các giải pháp phát triển thị trường tác phẩm hội họa.

Hoàn thiện thiết chế văn hóa lĩnh vực mỹ thuật là hoàn thiện cơ sở vật chất,

bộ máy tổ chức hoạt động, quy chế, kinh phí và những vấn đề khác có liên quan. Để

thiết chế về mỹ thuật được đầy đủ, đồng bộ, hiện đại đáp ứng được yêu cầu phát

triển trong giai đoạn hiện nay, góp phần tạo cơ sở, nền tảng để mỹ thuật nói riêng

cũng như văn hóa nói chung “cất cánh”, trở thành cầu nối cho các hoạt động xúc

tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, thúc đẩy giao lưu, hội nhập kinh tế văn hóa

của toàn xã hội.

Các thiết chế văn hóa nghệ thuật như bảo tàng, trung tâm triển lãm v.v. chính

là nơi nuôi dưỡng, ươm mầm nghệ thuật. Hệ thống “nuôi dưỡng” và “ươm mầm”

cho mỹ thuật tại Việt Nam hiện nay khá đa dạng và phong phú song song tồn tại cả

hai hệ thống do Nhà nước quản lý và do cộng đồng xã hội lập ra, tuy nhiên hiệu quả

hoạt động còn khá khiêm tốn, chỉ đáp ứng được phần nào theo yêu cầu thực tế. Vấn

đề đầu tư, xây dựng và quản lý, tổ chức hoạt động của thiết chế mỹ thuật công lập

còn nhiều bất cập và hạn chế do chính sách khuyến khích chưa cụ thể và thiết thực

nên chưa thu hút được nguồn lực xã hội hóa, chưa làm tốt được vai trò định hướng,

dẫn dắt. Trong khi đó, thiết chế mỹ thuật ngoài công lập có sự chủ động, tiềm năng

nhưng thiếu cơ chế ưu đãi và hoạt động thiếu tính chuyên nghiệp.

Hệ thống thiết chế mỹ thuật của Nhà nước gồm thiết chế cấp trung ương và

địa phương tùy theo cấp độ gồm: các cơ quan quản lý nhà nước về mỹ thuật, các hội

139

mỹ thuật, bảo tàng mỹ thuật, nhà xuất bản, tạp chí, các trường đào tạo về mỹ thuật,

phòng trưng bày triển lãm.

Hệ thống thiết chế mỹ thuật của tư nhân: bảo tàng mỹ thuật tư nhân, nhà đấu

giá, gallery, phòng trưng bày, nhà lưu niệm.

Để hoàn thiện hệ thống thiết chế mỹ thuật theo hướng chuyên nghiệp hóa cần

một số giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, quán triệt chủ trương của Đảng, nhà nước về xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ với tăng trưởng

kinh tế không ngừng phát triển con người văn hóa. Xây dựng và hoàn thiện mạng

lưới thiết chế mỹ thuật kết nối toàn diện, sâu rộng nâng cao tính chuyên nghiệp.

Thứ hai, đầu tư nguồn lực chất lượng cao phù hợp với chuẩn quốc tế, cơ sở

vật chất cho hệ thống thiết chế mỹ thuật hiện đại trên cơ sở xây dựng mang tính

trung tâm, trọng điểm; thực hiện quy hoạch và phát triển ngành mỹ thuật một cách

khoa học, đi vào cụ thể hóa (có số liệu thống kê) thực hiện được mục tiêu đã đề ra.

Thứ ba, bảo tàng quốc gia, nơi lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật củng cố,

xây dựng và hoàn thiện hệ thống sưu tập, thông tin về hiện vật sưu tập một cách

khoa học, chính xác làm định hướng cho hoạt động khác có liên quan tới mỹ thuật.

Ví dụ, học tập, nghiên cứu, sưu tập, đầu tư, .v.v. Trên cơ sở xây dựng đội ngũ cán

bộ chuyên môn có trình độ, năng lực theo tiêu chuẩn quốc tế về bảo tàng để quản lý,

vận hành, khai thác có hiệu quả các tác phẩm trong bộ sưu tập của Bảo tàng; tăng

cường quảng bá hình ảnh, giá trị bộ sưu tập thông qua các hoạt động giao lưu, giáo

dục trải nghiệm, khám phá; nâng cấp hệ thống trưng bày khoa học, hiện đại và xây

dựng, bổ sung các bộ sưu tập mới để hoàn thiện bộ sưu tập theo tiến trình lịch sử

mỹ thuật Việt Nam; đồng thời tập trung nâng cao chất lượng truyền thông, áp dụng

công nghệ số, v.v. để mở rộng khả năng tiếp cận, giáo dục, v.v. làm cho công chúng

hiểu, gia tăng nhu cầu đến với bảo tàng mỹ thuật.

Thứ tư, xây dựng và vận hành Bảo tàng mỹ thuật đương đại Việt Nam, trở

thành nơi sưu tập, lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật đương đại (hiện nay chưa có)

theo tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng tiêu chí của bảo tàng quốc gia. Bởi, ngoài những

vai trò truyền thống của một bảo tàng mỹ thuật, bảo tàng này sẽ là nơi khuyến

khích, thử nghiệm, định hướng và phát triển mỹ thuật đương đại, tiếp nối vào dòng

140

chảy lịch sử mỹ thuật dân tộc và phối hợp với Quỹ hỗ trợ phát triển mỹ thuật sẽ trở

thành trung tâm xúc tiến các hoạt động mỹ thuật hiện đại.

Thứ năm, xã hội hóa các hoạt động mỹ thuật (xây dựng chính sách khuyến

khích mua tặng tranh cho bảo tàng, vinh danh họa sĩ có tác phẩm đỉnh cao, v.v.),

đẩy mạnh đổi mới trong việc xây dựng triển khai vận hành các thiết chế mỹ thuật

hiện tại gắn với các hoạt động dịch vụ có liên quan khác (du lịch, ẩm thực, v.v.) đã

có và bổ sung mới đáp ứng nhu cầu của hoạt động mỹ thuật gắn liền với phát triển

CNVH.

Thứ sáu, xây dựng những mô hình thí điểm gallery, chợ nghệ thuật có sự bảo

trợ của Nhà nước (mô hình Art Basel, Art Beijing v.v.), để từ đó rút kinh nghiệm

học tập những mô hình hoạt động hiệu quả, tiến tới không những không sử dụng

ngân sách nhà nước mà đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển CNVH Việt

Nam. Đan xen với hình thức học tập, trải nghiệm cộng đồng giúp mỹ thuật đến với

công chúng, nâng cao hiệu quả hoạt động, tận dụng tối ưu được nguồn lực cơ sở vật

chất, kinh phí và nhân sự của thiết chế.

3.2.1.4. Nâng cao hiệu quả quản lý qua giải pháp truyền thông

Truyền thông là phương tiện phổ dụng, hiệu quả để thực hiện các hoạt động

truyền đạt và lan truyền dữ liệu thông tin. Trong xã hội hiện nay, truyền thông có

vai trò đặc biệt quan trọng nên nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các chính

sách, xúc tiến những dự án sử dụng các phương tiện truyền thông trở thành những

công cụ để truyền tải mở rộng cơ hội tiếp cận nội dung, thông điệp một cách hiệu

quả, đắc lực lan tỏa đến cộng đồng và xây dựng phát triển nền CNVH. Xác định

truyền thông là phương pháp mạnh mẽ nhất đem thương hiệu đến với khách hàng,

giúp định hướng khách hàng thông qua các hoạt động quảng bá, truyền tải, chia sẻ

nhờ tính tương tác đa chiều, từ đó có thể nhận biết được những thông tin phản hồi

từ khách hàng để có thể điều chỉnh hạn chế, phát huy tích cực nên nhiều doanh

nghiệp, tập đoàn kinh tế đã sử dụng phần lớn ngân sách marketing cho hoạt động

truyền thông.

Xã hội càng hiện đại thì truyền thông càng phát triển mạnh mẽ, vai trò của nó

ngày càng trở nên quan trọng, không thể thiếu trong đời sống của mỗi con người

trong xã hội. Hòa nhập với xu hướng phát triển của thế giới, thời gian qua Việt Nam

coi trọng và đánh giá cao vai trò của truyền thông trong hoạt động kinh tế - xã hội

141

nên nhiều đề án được xây dựng, nhiều nguồn lực xã hội được huy động để triển khai

như: Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn I, II; kênh truyền hình bổ trợ kiến

thức văn hóa trên VTV2, kênh truyền hình giáo dục quốc gia VTV7, v.v. Xác định

việc phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng, sự cạnh tranh trở

thành một quy luật tất yếu, diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,

xã hội, v.v. ưu thế luôn ở những tổ chức, cá nhân vận hành tốt việc sử dụng truyền

thông. Văn hóa là ngành sản xuất có khả năng tạo ra các sản phẩm tinh thần đồng

thời cũng mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực đã thay đổi trong tư duy của nhiều

nhà lãnh đạo, quản lý nên định hướng, cũng như những chính sách phát triển văn

hóa, CNVH đã có nhiều thay đổi. Khi chưa có truyền thông như hiện nay nên người

dân Đại Việt không mấy ai biết đến bức tranh Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ. Nếu

như không có truyền thông, không có bài viết về tác phẩm trên tờ The Blind Man

cùng với bức ảnh chụp tác phẩm của Alfred Steiglitz có lẽ trên thế giới công chúng

sẽ không biết tới tác phẩm Đài nước của Marcel Duchamp; không có mấy người

Việt Nam biết đến tranh Chân dung cô Phương của Mai Trung Thứ đã có giá 3,1

triệu USD và làm sao có với một loạt các thành tố cấu thành khác tạo thành các

“mắt xích” như nhà môi giới nghệ thuật, nhà phê bình, giám tuyển, nhà báo cùng

các công nghệ quảng cáo sẽ cùng vận hành “trong cỗ máy” của nền CNVH khi một

gallery hoạt động như Trịnh Cung nói.

Thị trường tác phẩm hội họa ở Việt Nam trong thời gian qua đã thu hút được

sự quan tâm và sử dụng hạ tầng truyền thông trong hoạt động vận hành của thị

trường. Kênh truyền hình, trang thương mại điện tử, v.v. được sử dụng để quảng bá,

giới thiệu, truyền dẫn thông tin, v.v. Ngay sau khi internet ở Việt Nam kết nối toàn

cầu, nhiều gallery như Apricot, Green palm, v.v. hay nhóm họa sĩ, cá nhân họa sĩ

như Phạm An Hải, Hà Mạnh Thắng, v.v. đã sử dụng, vận hành phương tiện, hạ tầng

truyền thông để thực hiện mục đích quảng bá, bán tranh theo cách riêng của mình.

Gần đây, những cuộc trưng bày triển lãm, đấu giá truyền thống hay trên hạ tầng kỹ

thuật số đều có sử dụng các phương tiện truyền thông như Youtube, Facebook, v.v.

và những thương vụ giao dịch thành công trên hạ tầng truyền thông số ngày càng

nhiều, đặc biệt khi dịch bệnh COVID 19 bùng phát trên thế giới. Khai thác tốt

truyền thông, sản phẩm văn hóa đã trở thành sản phẩm của nền CNVH thành công

đem lại thành tựu kinh tế trong đó có hoạt động thị trường mỹ thuật ở nhiều quốc

142

gia như Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, v.v. Tuy nhiên, ở Việt Nam những

hoạt động như thế chưa phát huy được hiệu quả cao từ tiềm năng dồi dào bởi đó chỉ

là những hoạt động truyền thông rời rạc do thiếu sự gắn kết của các “mắt xích”

trong nền CNVH. Những cá nhân, nhóm hay tổ chức đơn lẻ, chưa tạo được môi

trường chuyên nghiệp cho hoạt động ở tầm quốc gia, quốc tế khi thiếu vai trò dẫn

dắt của cơ quan QLNN. Cơ sở dữ liệu làm nền tảng cho nghiên cứu, giáo dục, phát

triển thương mại của hội họa Việt Nam chưa được xây dựng một cách khoa học, có

bài bản và được tổ chức chặt chẽ là một phần nguyên nhân chính cho thị trường tác

phẩm hội họa khó có thể phát triển như đã trình bày ở phần Tổng quan của Luận án.

Tóm lại, nâng cao vai trò của cơ quan QLNN trong việc phát triển thị trường

tác phẩm hội họa là bảo đảm thị trường được vận hành thuận lợi theo xu hướng phát

triển của tự nhiên có sự điều tiết của Nhà nước để thúc đẩy sự phát triển nhanh và

lành mạnh hơn. Trong đó có việc hoàn thiện được hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật, nâng cao chất lượng loại hình dịch vụ còn thấp, kết nối hiệu quả giữa nghiên

cứu, sáng tác, kinh doanh, truyền thông và quảng bá, tạo liên kết chặt chẽ từ những

mắt xích quan trọng còn lỏng lẻo, tìm ra yếu điểm làm nghẽn mạch làm hạn chế quá

trình phát triển thị trường và tạo ra những sản phẩm đầy đủ sức cạnh tranh trên khi

hội nhập thị trường quốc tế.

3.2.2. Chú trọng và nâng cao bản quyền tác phẩm hội họa trong thị trường

tác phẩm hội họa

3.2.2.1. Vi phạm bản quyền tác phẩm hội họa trong hoạt động thị trường

Mỗi quốc gia phát triển nhanh, bền vững đều được xây dựng trên nền tảng tri

thức, công nghệ và hệ thống pháp luật hoàn thiện, việc thượng tôn pháp luật luôn là

vấn đề được quan tâm và đặt lên hàng đầu. “Về bản chất, quyền SHTT bảo hộ

quyền nhân thân và quyền tài sản của chủ thể, quyền đối với các thành quả lao động

sáng tạo hay uy tín thương mại” [4, tr.13]. Vì bản quyền tác phẩm là quyền nhân

thân và quyền tài sản tác phẩm nên vi phạm bản quyền hay còn gọi là ăn cắp bản

quyền chính là việc sử dụng sản phẩm sáng tạo - tài sản được bảo vệ theo quy định

của pháp luật một cách bất hợp pháp. Vi phạm bản quyền tác phẩm hội họa được dư

luận đề cập đến từ trước tới nay chủ yếu là việc làm tranh giả, tranh chép và tranh

nhái phong cách. Những hành vi này đã có từ khá sớm trong lịch sử nghệ thuật tạo

hình thế giới. Tuy nhiên, việc làm giả và những hậu quả đó mới chỉ thu hút được sự

143

quan tâm của công luận trong thời gian hai thế kỷ trở lại đây. Khi khoa học, công

nghệ và truyền thông phát triển trở thành những yếu tố quan trọng trong việc góp

phần nhận diện được thật, giả thì một số kiệt tác của những họa sĩ nổi tiếng có thể

trở thành món hàng ít hoặc không có giá trị khi được xác định đó chỉ là những họa

phẩm giả - tranh giả. Chính vì vậy, công chúng biết đến bên cạnh những bậc thầy về

hội họa được thế giới ghi nhận như: Leonardo da Vinci, Johannes Vermeer, v.v. thì

nạn làm tranh giả cũng tạo ra những “bậc thầy” trong nghề đạo tranh khét tiếng như:

Yves Chaudron, Han Van Meergeren, v.v.

Ở Việt Nam, tranh chép, tranh giả và tranh nhái được biết đến muộn hơn so

với thế giới ước chừng khoảng gần hai thế kỷ rưỡi, từ khi các họa sĩ MTĐD xuất

hiện rồi trở thành những họa sĩ bậc thầy của nền NTTH Việt Nam hiện đại, được

công chúng tiếp nhận đánh giá cao và càng đặc biệt hơn khi những tác phẩm của họ

được kiếm tìm và trở thành tài sản quý, hiếm có giá trị lớn trên thị trường. Nguyễn

Đỗ Cung có đề cập tới vấn nạn này trong bài “Cái ‘hiếm’ có đáng quý không” đăng

trên Tạp chí Thanh Nghị số 90 năm 1944 như sau: “có một người mua tranh của

một họa sĩ, không ngờ một hôm đến chơi nhà bạn cũng thấy một bức giống hệt như

vậy. Hai bức cùng của một họa sĩ vẽ và bán. Không hẹn mà nên, hai người cùng gặp

nhau ở nhà ông họa sĩ quý hóa, vì cùng mang trả lại tranh” [21, tr.7]. Việc sao chép,

làm giả tranh của các họa sĩ tạo ra thu lợi được dễ dàng mà không mấy khi bị vướng

phải rào cản về pháp lý từ nhiều năm về trước đã dẫn đến việc sao chép trở thành

thói quen của khá nhiều người hoạt động trong lĩnh vực mỹ thuật. Khá nhiều tác

phẩm hội họa của những họa sĩ đã thành danh bị sao chép phục vụ theo nhu cầu của

thị trường. Vì vậy, vấn đề sao chép, làm giả, làm nhái tác phẩm hội họa đã trở thành

vấn nạn của thị trường tranh Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua còn tồn tại cho

đến ngày nay. Từ khi tham gia ký Công ước Beurn, đến khi Luật SHTT có hiệu lực

tại Việt Nam đã có một thời gian dài “tình trạng lúng túng không chỉ từ phía các nhà

quản lý, những thiếu sót cần bổ sung ở khung pháp lý, tình trạng mơ hồ (về luật và

về lý luận) của một số nghệ sĩ dẫn đến làm bừa, làm ẩu” [91, tr.41].

Vấn nạn về việc vi phạm bản quyền tác phẩm hội họa trên thực tế là khá

nghiêm trọng, nạn tranh giả, tranh mạo danh, tranh nhái hoạt động phức tạp và diễn

ra tương đối ngang nhiên gây nhiều bức xúc trong xã hội, nhưng chưa thực sự có

được giải pháp căn cơ để xử lý triệt để nên dẫn đến kìm hãm sự phát triển và gây ra

144

tình trạng băng hoại thị trường mỹ thuật lành mạnh. Điều đó được cho là xuất phát

từ nhiều nguyên nhân trong đó có cả nguyên nhân chủ quan cũng như nguyên nhân

khách quan.

+ Nguyên nhân chủ quan: Do kiến thức, nhận thức về pháp luật của những

người làm công tác quản lý, người làm tranh giả chưa cao; công việc nhẹ nhàng

nhưng thu nhập lại dễ dàng, việc xử lý chưa hiệu quả, đào tạo thiếu quy hoạch dẫn

đến khủng hoảng thừa, vấn đề xuống cấp đạo đức xã hội, nghề nghiệp và đặc biệt chế

tài xử lý chưa hiệu quả, thiếu tính răn đe dẫn đến tình trạng vi phạm tràn lan.

+ Nguyên nhân khách quan: do hoàn cảnh chiến tranh, gia đình khó khăn,

không tìm được việc làm hợp pháp phù hợp với công việc được đào tạo, trong khi

thiếu những chính sách đảm bảo an sinh xã hội cho người thất nghiệp dẫn đến vi

phạm pháp luật.

Hoàn thiện thể chế trong đó có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trên cơ

sở phù hợp với luật pháp quốc tế được quan tâm coi trọng và trở thành nghị quyết

của Đảng làm cơ sở để triển khai thực hiện “ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây

dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa,

xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi

tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất

nước.” [32, tr.328]. Lấy pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ và duy trì trật tự

trong xã hội. Lĩnh vực văn hóa trong đó hội họa cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên,

trên thực tế, không ít họa sĩ vì có nguyên nhân như nêu trên đã trở thành người vi

phạm pháp luật khi sử dụng tranh của chính mình để thu lợi bất chính, không quan

tâm tới quyền lợi hợp pháp của người tiếp nhận, cũng như sự phát triển bền vững và

lâu dài của nền mỹ thuật nước nhà.

Trong lĩnh vực thương mại hay văn hóa nghệ thuật khi nhìn từ khía cạnh thị

trường, những hạn chế của việc bảo hộ tác quyền sẽ làm méo mó diện mạo và cản

trở sự phát triển lành mạnh. “Một quốc gia có hệ thống bảo hộ quyền SHTT yếu

kém sẽ tạo kẽ hở cho các hoạt động sao chép một cách bất hợp pháp... Một hệ thống

bảo hộ quyền SHTT mạnh và phù hợp sẽ tạo điều kiện cho việc chuyên nghiệp hoá

trong hoạt động kinh doanh, giảm thiểu rủi ro của quá trình kinh doanh và đó chính

là tiền đề thúc đẩy sự phát triển của nền thương mại của một quốc gia nói riêng và

của toàn cầu nói chung” [20, tr.10]. Tại Việt Nam, chủ trương, chính sách đúng đắn

145

của Đảng và Nhà nước đã tạo ra những biến chuyển trong việc sử dụng tác quyền

của sản phẩm sáng tạo.

Sau khi Luật SHTT có hiệu lực ở Việt Nam, hành vi, ứng xử đối với những

sản phẩm trí tuệ sáng tạo có bản quyền cũng được cải thiện tích cực hơn ở môi

trường truyền thống và được phản ánh được khá rõ nét. Tuy nhiên, trên môi trường

phi truyền thống như internet, khi biên giới, lãnh thổ không bị giới hạn bởi yếu tố

vật lý, địa lý sẽ cần có những giải pháp mới, hiệu quả và phù hợp hơn đối với tác

quyền tác phẩm nghệ thuật.

Những thiết chế của văn hóa, vai trò “đầu tàu” của các tổ chức luôn cần thiết

cho việc thực thi và định hướng trong phát triển ngành theo quy định pháp luật lại

chưa phát huy được đúng với tiềm năng, thậm chí đôi khi còn tác động ngược lại.

Khi nói về việc phản ngược lại vai trò của một thiết chế, Phan Cẩm Thượng (2018)

Nghệ thuật ngày thường và khá nhiều người cho rằng: “Do chiến tranh, có thời Bảo

tàng Mỹ thuật đã phải đưa nhiều tác phẩm đi sơ tán, và treo những phiên bản… thật

giả trở nên lẫn lộn sau cuộc chiến tranh, cứ thế kéo dài cho tới bây giờ, càng ngày

càng thấy tệ hơn, và dường như tới mức không thể xác định được thật giả nữa” [94,

tr.37]. Từ đó, Phan Cẩm Thượng khẳng định: “tình hình tranh giả, tranh chép, tranh

nhái theo một phong cách nào đó… diễn ra rất phức tạp ít nhất trong vòng 25 năm

qua, khiến các họa sĩ tuyệt vọng về vấn đề bản quyền”.

Theo nghiên cứu của NCS, đã có một thời gian một số tổ chức, cá nhân làm

phiên bản tác phẩm hội họa, điêu khắc cũng như khá nhiều cổ vật để phục vụ những

mục đích khác nhau có sự cho phép của cơ quan QLNN. Tuy nhiên, những công

việc như thế chính thức đã kết thúc vào thập niên 1990. Việc đó bắt nguồn từ những

quan niệm có phần chưa chuẩn mực nếu nhìn nhận ở thời điểm, tư duy như hiện nay

đối với công tác quản lý cũng như hoạt động chuyên môn trong những điều kiện

lịch sử giai đoạn bấy giờ hay xuất phát từ những suy nghĩ tích cực nhất thời mang

tính chất đối phó với hoàn cảnh xã hội có chiến tranh. Tuy nhiên, hậu quả để lại cho

nền MTVN hiện đại từ những việc làm đó là tiêu cực và chưa dễ dàng gột bỏ ngay

được. Chưa có nghiên cứu nào công bố chính xác có bao nhiêu tác phẩm mỹ thuật

hay tác phẩm hội họa được trưng bày tại Bảo tàng mỹ thuật lớn nhất Việt Nam hiện

nay là bản phiên, phiên bản thứ bao nhiêu hay là bao nhiêu bản gốc. Trên thực tế

nghiên cứu thực địa của NCS cho thấy, phần lớn những tác phẩm mỹ thuật và hiện

146

vật đang được trưng bày trong sưu tập của Bảo tàng này là có lý lịch rõ ràng. Những

thông tin thiếu tích cực, không có căn cứ trên cơ sở khoa học đã gây phương hại

không chỉ riêng Bảo tàng mà còn gây nghi ngại, định kiến bất lợi với nền MTVN.

Theo Lương Xuân Đoàn (2019), “Tranh giả - Câu chuyện chưa bao giờ cũ” cho rằng:

“Trưng bày phiên bản có thể chấp nhận được trong thời chiến tranh. Nhưng chiến

tranh đã qua hơn 30 năm rồi” [142] nên nhiều người xem như, phải xác định đâu là

bản gốc đâu là phiên bản cho các tác phẩm thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật

quốc gia để làm chuẩn mực đối sánh cho hoạt động mỹ thuật khi cần thiết. Việc

trưng bày bản gốc như những nguyên tắc gần như mặc định tuy bất thành văn

nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với bảo tàng, đặc biệt là bảo tàng quốc gia. Vì

thế, Nora Taylor (2004), Painters in Hanoi An Ethnography of Vietnamese Art (Các

họa sĩ Hà Nội một dân tộc học của mỹ thuật Việt Nam) [134]; Phan Cẩm Thượng

(2011), Nghệ thuật ngày thường cũng như nhiều nhà NCPBMT khác “bày tỏ những

nghi ngờ của mình về tính chân bản của một số tác phẩm hội họa treo ở Bảo tàng

Mỹ thuật Việt Nam… Rất nhiều người trong nghề và khán giả nước ngoài đều có

cảm nhận như vậy, và ngoài việc thất vọng, không có cách gì khác” [94, tr.37].

Trước khi hoạt động gallery ở Việt Nam trở nên phổ biến, có việc sao chép,

làm phiên bản tác phẩm mỹ thuật, nhưng xuất phát điểm vì mục đích kinh tế ít phổ

biến. Ngoại trừ việc sao chép làm thêm phiên bản theo đề nghị của một số tổ chức,

cá nhân với một số họa sĩ có tác phẩm tốt trong thời chiến tranh. Việc sao chép, làm

phiên bản khá nhiều tác phẩm với mục đích để lưu trữ bản gốc và trưng bày bản

phiên phòng trường hợp bị tổn hại do chiến tranh. Tuy nhiên, số lượng bản phiên và

việc lưu giữ bản gốc đã không được làm theo quy trình khoa học có sự quản lý chặt

chẽ nên để lại hậu quả như đã nêu trên. Việc làm giả tác phẩm mỹ thuật vì lý do

kinh tế bùng phát khi nền kinh tế thị trường triển khai, hoạt động của gallery ở Việt

Nam bùng nổ về số lượng. Nguồn cầu tác phẩm hội họa tăng cao sau nhiều năm

tháng “đóng cửa” với rất nhiều khó khăn trong đời sống vật chất của xã hội, nay đột

ngột “mở cửa”. Tư liệu gốc ít được công bố khi xuất bản phẩm và truyền thông

chưa phát triển, bên cạnh thói quen ngại ghi chép sử liệu của họa sĩ. Ý thức về về

bản gốc, bản sao và bản quyền chưa định hình trong khái niệm của phần đông công

chúng do chưa có Luật SHTT. Việc sao chép tác phẩm thu lợi nhanh, dễ dàng mà

không vướng bất cứ trách nhiệm pháp lý nào nên gần như bên cạnh sự thăng hoa

147

của mỹ thuật là sự xuất hiện những trào lưu của tranh giả, tranh nhái cùng lan tỏa

khắp các gallery, phòng tranh ở Việt Nam. Đời sống xã hội khó khăn kéo dài nhiều

năm trong và sau các cuộc chiến nên nhiều tác phẩm của các họa sĩ, đặc biệt của các

họa sĩ MTTĐD đến nay phần nhiều không có đủ tài liệu để làm căn cứ xác định

chính xác lý lịch của tác phẩm trong khi phiên bản, tranh giả đã tồn tại trong nhiều

năm qua, được mua bán trao tay tại gia đình cũng như các gallery, phòng tranh,

thậm chí cả hoạt động của nhà đấu giá mới vừa qua. Quan trọng là tranh giả, tranh

không rõ lý lịch, nguồn gốc vẫn bán được do có nguồn cầu. Đến nay, thật khó xác

định được đâu là tác phẩm gốc nguyên bản, đâu là bản do tác giả sao chép, không

do tác giả sao chép bởi phần nhiều lẫn lộn trong số đó đã thuộc những bộ sưu tập

hay trôi nổi ngoài thị trường. Do đó, theo NCS việc nhân bản, sao chép tác phẩm

hội họa không đúng với quy định của pháp luật dù với mục đích nào, đều góp phần

phát sinh thêm hệ lụy cho chính bản gốc. Vì vậy, Phan Cẩm Thượng cho rằng: “Có

thể nói bây giờ khó mà trông thấy một bức tranh tự tay Nguyễn Phan Chánh vẽ.

Tương lai là Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tiến Chung… Ngay cả

những hoạ sĩ đang sống và còn trẻ như Đỗ Quang Em, Bùi Hữu Hùng, Lê Thiết

Cương… tranh giả đầy rẫy mọi nơi” [93, tr.42]. Đây chính là những yếu tố đã góp

phần trong việc hình thành cũng như việc phá vỡ nhanh thị trường tác phẩm hội họa

Việt Nam hiện đại.

Theo NCS, việc minh định chi tiết làm sáng tỏ lý lịch bản quyền đối với hiện

vật, tác phẩm hội họa nói riêng, tác phẩm mỹ thuật nói chung ở các thiết chế văn

hóa công lập, đặc biệt là ở những bảo tàng lớn là việc làm cần thiết để xây dựng và

quảng bá một thương hiệu MTVN hiện đại vươn tầm quốc tế.

3.2.2.2. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

Từ những năm đầu khi Luật SHTT có hiệu lực và đi vào đời sống xã hội ở

Việt Nam, công tác thanh, kiểm tra được xác định là những hoạt động quan trọng

của một nhóm chức năng của hoạt động QLNN, là hoạt động mang tính chất phản

hồi của chu trình quản lý. Vì vậy, Bộ VHTT đã tổ chức một số đoàn thanh, kiểm tra

và xử lý vi phạm tác quyền tác phẩm nghệ thuật tạo hình, đặc biệt là tác phẩm hội

họa tại các địa phương có hoạt động thị trường mỹ thuật sôi động như Hà Nội, Huế,

phố cổ Hội An và Tp.HCM. Qua công tác kiểm tra đã phát hiện vi phạm tác quyền

tác phẩm hội họa khi những tranh giả, tranh chép được bày bán tại một số gallery.

148

Tranh bị phát hiện vi phạm tác quyền phổ biến và dễ nhận biết bằng trực quan thông

thường là tranh chép lại từ những tác phẩm của các tác giả có tên tuổi, bán chạy

hoặc được nhiều người ưu thích trên thị trường gồm các họa sĩ MTĐD như: Tô

Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, v.v., các họa sĩ đương đại

có tranh bán tốt trên thị trường như tranh của Phạm Luận, Bùi Hữu Hùng, Hồng

Việt Dũng, Đào Hải Phong, v.v. và gần đây hơn là tranh của Phạm An Hải, Đặng

Phương Việt, v.v. Mặc dù, Luật SHTT cùng các văn bản hướng dẫn dưới Luật đã

khá đầy đủ được ban hành để thực hiện. Việc thiếu nhiều kiến thức pháp lý, kinh

nghiệm trong công tác quản lý, xử lý, thanh tra lĩnh vực mỹ thuật đặc biệt là hội họa

nên hiệu quả của các đoàn công tác không cao, chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở vi

phạm, chưa có vụ việc nào được phát hiện và xử phạt hành chính hay xử lý hình sự.

Mặc dù, trên thực tế có khá nhiều vụ việc gây bất bình trong công chúng. Những

hoài nghi, thắc mắc cũng như những bất cập liên quan đến bản quyền tác phẩm mỹ

thuật nói chung, hội họa nói riêng vẫn còn chưa thể giải quyết một cách căn cơ. Nạn

tranh giả, tranh nhái, tranh mạo danh vẫn tiếp tục hoành hành trên thị trường trong

nước và ngoài nước khi số lượng các vụ việc diễn ra ngày càng nhiều ở các nhà đấu

giá quốc tế, nội địa, các chợ nghệ thuật truyền thống, online ngày càng thêm đa

dạng về cách thức cũng như thể loại. Một phần do tính trừu tượng trong việc xác

định đã được quy định trong Luật, một phần bởi những yếu tố căn cứ pháp lý làm

cơ sở thẩm định, đánh giá như đã trình bày ở phần trên. Khi những câu hỏi “sao

chép có phải là sáng tạo hay không? Sao chép như thế nào, ở mức độ nào thì là đạo,

sao chép như thế nào là sáng tạo?” và “một tác phẩm của nghệ thuật chuyển dụng -

Appropriation art cũng có thể được bảo vệ bởi luật bản quyền, ngay cả khi nó đã

copy một cách rất chi tiết một tác phẩm đã xuất hiện trước đó” [91, tr.37; 40] vẫn

chưa thực sự có được lời giải chính thức ở Việt Nam.

Theo thời gian, các vụ việc vi phạm bản quyền cũng đã tăng về số lượng, đa

dạng ở nhiều hình thái khác nhau hơn. Việc vi phạm diễn ra tại các triển lãm, cuộc

thi, liên hoan tới các vi phạm trên truyền thông, sách giáo khoa, v.v. nhưng chủ yếu

các kết luận về sai phạm và đánh giá các mức độ sai phạm đều từ phương pháp trực

quan, chưa thể khẳng định một cách chính xác tuyệt đối trên cơ sở khoa học. Mức

xử phạt đã có quy định rõ ràng nhưng việc áp dụng xử phạt phải căn cứ trên những

yếu tố pháp lý có liên quan khác chưa thực sự đồng bộ, nên việc xử lý còn nhiều

149

khó khăn và chưa đạt được hiệu quả như kỳ vọng của công chúng. Việc sao chép,

làm giả tác phẩm mỹ thuật nay đã trở thành một quy trình khép kín và phạm vi hoạt

động của việc làm giả, nhái tác phẩm hội họa không còn chỉ trong giới hạn một

quốc gia mà đã trở thành tổ chức làm giả quốc tế, với những quy trình, thủ đoạn

mới hết sinh tinh vi. Trong khi đó các cơ quan QLNN, thực thi pháp luật ở Việt

Nam gặp nhiều khó khăn do hạn chế nhân lực, vật lực, thiếu cơ sở dữ liệu, v.v. chưa

có tổ chức tập thể nào có thể giám định, thẩm định thực hiện kết luận trên cơ sở

khoa học, chính xác nên dẫn đến nhiều lúng túng trong xử lý vi phạm làm cho

người vi phạm chưa thực sự “tâm phục, khẩu phục” như đã nêu trên.

Khi internet Việt Nam kết nối với thế giới, ngoài việc trưng bày tranh tại các

phòng trưng bày, không ít gallery, họa sĩ còn giới thiệu trên trang website thương

mại, mạng xã hội của mình những tác phẩm sao chép vi phạm bản quyền. Khi Luật

SHTT có hiệu lực và đi vào đời sống, ngoài các chế tài xử phạt, bị dư luận xã hội

lên án về hành vi kinh doanh tranh giả, tranh chép nên nhiều gallery, cá nhân cũng

đã thay đổi phương thức thực hiện cho phù hợp với tình hình mới. Thay việc sao

chép vi phạm bản quyền một cách công khai, nhiều gallery, phòng tranh đặt hàng

họa sĩ thực hiện việc sao chép theo phong cách (tranh nhái) các nghệ sĩ đã thành

danh hoặc bán chạy để kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận mà cơ quan QLNN khó có

thể xử lý theo luật pháp vì thiếu những quy định cụ thể. Vi phạm bản quyền tác

phẩm hội họa trong trường hợp này sẽ phải trông chờ vào nhận thức, đạo đức kinh

doanh cũng như đạo đức nghề nghiệp của tổ chức gallery hay ở bản thân của mỗi

họa sĩ. Tuy nhiên, những kiến thức về bản quyền hay đạo đức nghề nghiệp lại chưa

được chuyển tải vào nội dung chương trình đào tạo chính thức trong các cơ sở đào

tạo cũng như hệ thống giáo dục phổ cập quốc dân.

Tóm lại, sau Đổi Mới, gallery hoạt động bùng nổ đã làm cho thị trường mỹ

thuật trở nên sôi động hơn bất cứ thời điểm nào trước đó, nhờ vậy mà thu nhập của

các hoạ sĩ cũng tốt lên hơn. Nhiều hoạ sĩ làm giàu được bằng việc sáng tác và bán

tác phẩm hội hoạ. Thị trường tác phẩm hội họa trong lịch sử MTVN chưa bao giờ

lại sôi động và thu hút được sự quan tâm của công chúng đến như vậy thời gian qua.

Tuy nhiên, khi nhu cầu thị trường nhiều, nguồn cung không đáp ứng đủ thì tư duy

ngắn hạn, chụp giật, phường thợ lại trở lại từ chính các họa sĩ và gallery. Khi cơ hội

có thể kiếm tiền bằng những sản phẩm sao chép, thứ cấp của hội họa sẽ giúp họ sản

150

xuất nhanh hơn, thu lợi lớn hơn và ngoài lương tâm thì gần như không phải chịu

trách nhiệm gì khác. Việc thanh, kiểm tra và xử phạt vi phạm tác quyền tác phẩm

hội hoạ rất ít khi xảy ra. Kết quả, thị trường tác phẩm hội hoạ Việt Nam đã ngập

tràn những sản phẩm nghệ thuật hội hoạ thứ cấp, tranh giả từ nhiều năm về trước và

lan rộng ra tới các sàn đấu giá quốc tế hôm nay.

Vì vậy, việc nâng cao nhận thức và thực thi bản quyền trong hoạt động thị

trường tác phẩm hội họa trong công chúng, chủ thể sáng tạo qua hình thức tuyên

truyền là việc làm cần thiết, nhưng việc thanh tra, kiểm tra cũng phải luôn được coi

trọng, thường xuyên được thực hiện để có thể đánh giá, nhận xét góp phần tạo hiệu

lực, hiệu quả trong hoạt động QLNN.

3.2.3. Nâng cao tri thức thị trường cho chủ thể sáng tạo

Hơn năm thế kỷ trước, Thân Nhân Trung đã soạn bài văn bia khoa Nhâm

Tuất và được dựng ở Quốc Tử Giám năm 1484 trong đó có đoạn: “Hiền tài là

nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh”. Tri thức

luôn được đề cao trong nhiều hoàn cảnh xã hội khác nhau.

Theo Chu Quang Trứ (2013) Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật cho rằng,

“Thế kỷ XXI đã được khẳng định là thế kỷ của kinh tế tri thức. Tri thức khoa học tự

nhiên là động lực mạnh mẽ trực tiếp tác động vào sản xuất tri thức” [104, tr.265].

Kinh tế tri thức được nhiều quốc gia lựa chọn làm chiến lược phát triển đất nước.

“Từ thập kỷ 60 tổng thống Mỹ đã tuyên bố rằng, không có một chính phủ nào có thể

làm nảy sinh nghệ thuật siêu việt, nhưng có thể tạo ra môi trường thuận lợi cho

nghệ thuật phát triển” [56, tr.49]. Trong kinh tế tri thức, các nguyên tắc, cách thức

là yếu tố chủ yếu chi phối các hoạt động kinh tế là con người. Việc tổ chức xây

dựng, hoàn thiện những quy định, chính sách với mục đích tài trợ, bảo trợ, khuyến

khích, ưu đãi, quản lý vận hành một cách linh hoạt phù hợp, tạo thuận lợi cho phát

triển hoạt động MTVN theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quốc

gia là giải pháp thiết thực hiện nay.

Tri thức hiểu đơn giản nhất chính là sự hiểu biết. Nâng cao kiến thức thị

trường cho chủ thể sáng tạo trong trường hợp này là nâng cao sự hiểu biết về thị

trường cho họa sĩ sáng tạo, đây là con đường ngắn nhất, nhanh nhất và bền vững

nhất dẫn đến thành công. Họa sĩ là chủ thể sáng tạo tác phẩm hội họa nhưng nhiều

người trong số họ chưa ý thức, hiểu hết được những diện giá trị cơ bản sản phẩm trí

151

tuệ của họ có thể mang lại để từ đó quan tâm, bảo vệ tốt sản phẩm tinh thần, quyền

lợi của mình cũng như quyền lợi liên quan đến mình. Ví dụ, việc đăng ký bản quyền

tác giả tác phẩm hội họa hay việc bán tác phẩm hội họa mà không có hợp đồng ký

kết xác nhận, v.v. Số liệu đăng ký bản quyền tác phẩm hội họa không có sự gia tăng

mang tính thay đổi tích cực trong nhiều năm (Bảng 2.3), giá trị thuế thu nộp vào

ngân sách nhà nước từ những hoạt động thương mại của thị trường hội họa chưa

thống kê được số liệu nhưng sẽ chưa là sự bùng nổ tạo nên nhân tố quyết định

CNVH. Theo NCS, những điều chưa tích cực đó phần nhiều là do nhận thức chưa

tạo thành ý thức thực hiện nghĩa vụ công dân, trách nhiệm của người hoạt động

trong lĩnh vực văn hóa đối với sự phát triển văn hóa của đất nước. Những vụ việc vi

phạm pháp luật liên quan tới bản quyền tác giả phát sinh từ các hoạt động thị trường

tác phẩm hội họa ngày càng nhiều hơn, phản ánh những hạn chế tiêu cực chưa được

cải thiện mà có phần trở nên phức tạp, trầm trọng hơn từ những mối quan hệ có

phần được mở rộng của thị trường này. Đặc biệt là những vụ việc vi phạm pháp luật

về tác quyền tác phẩm hội họa Việt Nam có những yếu tố mới, đến từ bên ngoài

lãnh thổ hay của chủ thể sáng tạo trẻ tuổi, kỹ năng, chuyên môn nghề nghiệp vững

vàng có được qua sự rèn luyện và đào tạo bài bản, v.v. Việc phổ biến, tuyên truyền

nhằm nâng cao ý thức, thực thi pháp luật tới chủ thể và các đối tượng tiếp nhận tác

phẩm hội họa ở những mục đích khác nhau được thực hiện nhiều hơn trong thời

gian qua, trên các phương tiện, hạ tầng truyền thông để hướng tới sự thay đổi nhận

thức, ứng xử và tạo nên những chuyển biến trong hoạt động mỹ thuật Việt Nam.

Tuy nhiên, từ thực tế cho thấy những hiệu quả đem lại từ những giải pháp truyền

thông như vậy trong nhiều năm qua chưa nhận thấy được sự thay đổi rõ nét nào

được ghi nhận. Mặc dù, tác động tích cực thực chất ra sao, đến đâu thì cần phải

nghiên cứu đánh giá nhưng việc tiếp tục thực hiện công tác tuyên truyền nâng cao

nhận thức cho chủ thể sáng tạo từ trong môi trường giáo dục phổ thông tiếp đến

trong đào tạo nghề nghiệp là cần thiết như một hoạt động nhắc lại, bổ sung, cập nhật

thông tin từ thực tế đến từ sau công tác giáo dục, đào tạo để tạo nên những thế hệ

trẻ, những thế hệ nghệ sĩ được trang bị kiến thức pháp luật một cách đầy đủ và toàn

diện về đạo đức nghề nghiệp. Đó là việc tạo chuyển biến sâu rộng, bền vững và hiệu

quả nhất cho việc nâng cao tri thức cho chủ thể sáng tạo.

152

Nâng cao tri thức về thị trường không là việc làm đầu tiên dành cho đối

tượng trực tiếp vận hành những hoạt động của thị trường tác phẩm hội họa mà đối

tượng việc nâng cao tri thức cho chủ thể sáng tạo, người tạo ra hàng hóa phải là đối

tượng đầu tiên tác động đến thị trường. Nút thắt giữa chủ thể sáng tạo, nguồn cung

hàng hóa vào hoạt động thị trường - họ là những người thực hiện, thậm chí khởi

nguồn các sáng tạo và người tiếp nhận sáng tạo đều là những điểm mấu chốt để thay

đổi thị trường. Như đã phân tích, không có người tiêu dùng sẽ không có thị trường,

người tiêu dùng quyết định phát triển của thị trường. Trung gian trong thị trường là

khâu trung chuyển, là cầu nối từ người sản xuất, chủ thể sáng tạo đến người tiếp

nhận, người tiêu dùng hàng hóa bằng những hình thái, phương thức khác nhau.

Trong thời đại ngày nay, vai trò tri thức ở mỗi chủ thể sáng tạo càng trở nên có ý

nghĩa nhiều hơn đối với việc phát triển thị trường. Sáng tạo như thế nào, chất lượng

ra làm sao, v.v. của sản phẩm đó là tấm gương phản ánh tư duy, trình độ, khả năng

nhận thức của người sáng tạo. Nhiều cá nhân tạo nên cộng đồng. Nâng cao tri thức

cho chủ thể sáng tạo cũng là nâng cao tri thức một bộ phận trong cộng đồng. Khi tri

thức trong cộng đồng được nâng cao và được nhân lên, lan tỏa rộng rãi thì đó cũng

chính là nâng cấp tri thức cho xã hội. Khi tri thức được nâng cao, điều tốt đẹp sẽ

đến được nhiều hơn, rộng rãi hơn, điều không đúng, việc làm sai sẽ được hạn chế,

tiết giảm theo và xã hội cũng tốt đẹp hơn. Cùng với việc nâng cao tri thức, những

vấn đề do sự phát triển xã hội đặt ra trên các phương diện khác nhau từ kinh tế đến

tư tưởng, từ đối nội đến đối ngoại, từ các vấn đề văn hóa đến những vấn đề của

quản lý xã hội, v.v., tri thức về thị trường có vai trò to lớn, giúp xã hội nhận thức

vấn đề rõ ràng hơn, đầy đủ, đúng đắn hơn, tìm ra các giải pháp giải quyết khoa học

và thích hợp hơn, định hướng dư luận và hình thành ý thức xã hội đúng đắn, kịp

thời, thông qua đó giúp xã hội định hướng nhận thức và định hướng giá trị đúng

đắn, làm cho xã hội ổn định và phát triển đúng hướng, đúng quy luật khách quan.

Tri thức thị trường cho chủ thể sáng tạo không chỉ có những vai trò trên đây

mà còn có các vai trò khác, thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau, từ kinh tế đến

văn hóa, từ chính trị đến ngoại giao, từ giáo dục, đào tạo đến văn hóa, tư tưởng, v.v.

Thị trường tác phẩm hội họa ngày càng phát triển thì vai trò của tri thức thị trường

của chủ thể sáng tạo càng gia tăng, ảnh hưởng của nó trong hoạt động thị trường.

153

Hiện nay, dù rằng trên phạm vi cả nước, đội ngũ chủ thể sáng tạo tác phẩm

hội họa Việt Nam đã được đào tạo được một số lượng khá lớn nguồn nhân lực trong

đó có cả nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhưng so với yêu cầu phát triển của đất

nước trên thực tế, nguồn nhân lực chất lượng cao này còn rất thiếu và yếu so với

nhu cầu phát triển xã hội. Hệ thống giáo dục, đào tạo nghề nghiệp chưa có nhiều đổi

mới và còn tồn tại khá nhiều bất cập. Nguồn nhân lực trình độ cao đáp ứng tiêu

chuẩn quốc tế khi hội nhập còn chưa đáp ứng được, dẫn đến tình trạng sản phẩm

đào tạo vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu, vừa không đồng bộ, không sát với nhu cầu xã

hội. Tính chuyên nghiệp, trình độ và năng lực tư duy, vốn văn hóa, triết học của

nguồn nhân lực chất lượng cao cũng chưa cao, chưa theo kịp với sự phát triển của

xã hội trong tình hình mới.

Sự lạc hậu, bất cập của NCPBMT tác động tiêu cực đến chủ thể sáng tạo

trong việc sáng tác cũng như hoạt động thị trường, tồn tại trong thực tế nhiều năm

qua chưa được khắc phục dẫn đến những hạn chế kìm hãm sự phát triển ngay trong

nội tại của ngành.

Nghiên cứu, ứng dụng cho sáng tạo và phát triển tư duy nghệ thuật đỉnh cao

trong các tác phẩm hội họa hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập

của đất nước. Số lượng, chất lượng các công trình nghiên cứu, sáng tạo tác phẩm

hội họa còn khiêm tốn khi hội nhập với khu vực và thế giới. Chưa xứng tầm giá trị

thương mại khi so các tác phẩm có cùng chất lượng nghệ thuật của các họa sĩ khu

vực và trên thế giới. Trong phạm vi quốc gia, các giá trị tác phẩm hội họa hiện đại

đang chịu sự tác động của khủng hoảng tranh giả, tranh nhái với những biến động

dữ dội, nhưng chậm được khắc phục. Những lệch lạc trong hoạt động này diễn ra

trong thời gian qua trên phạm vi cả nước chậm được khắc phục cũng thể hiện sự thụ

động, chậm chạp, thậm chí là yếu kém về nhận thức về thị trường của đội ngũ chủ

thể sáng tạo trong lĩnh vực này. Việc giao lưu, hợp tác về văn hóa giữa các địa

phương, vùng miền và quốc tế cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nói

chung của đất nước. Những hạn chế, bất cập khái quát nói trên cho thấy số lượng,

chất lượng của đội ngũ trí thức còn thiếu, yếu, còn chưa đủ sức mạnh, hoặc chưa

phát huy được và chưa thể hiện được tính độc lập, chủ động của trí thức trong các

lĩnh vực hoạt động của mình. Vai trò, sức mạnh và cả đóng góp của trí thức trong

các lĩnh vực và cho sự phát triển của đất nước nói chung còn nhiều hạn chế. Có

154

nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng đó. Theo NCS có một số nguyên nhân chính

như sau:

Thứ nhất, là hạn chế trong nhận thức của xã hội về vai trò của đội ngũ trí

thức trong xã hội đương đại, nhất là trong điều kiện cách mạng KHCN hiện nay.

Thứ hai, một số cơ chế, chính sách và phương thức quản lý đội ngũ trí thức

và hoạt động của họ còn có những bất cập, hạn chế, chưa thực sự tạo điều kiện

thuận lợi, thậm chí cản trở lao động sáng tạo và cống hiến của đội ngũ trí thức. Các

cơ chế, chính sách nặng về hành chính, bị hành chính hóa, không phù hợp với đặc

điểm và tính đặc thù của lao động trí óc, lao động sáng tạo, v.v. chính sách phát

triển khoa học, đầu tư nghiên cứu chưa tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích để

nguồn nhân lực chất lượng cao cống hiến, tham gia sáng tạo, có quá nhiều thủ tục

hành chính rườm rà dẫn đến tình trạng kìm hãm sự phát triển. Trong thực tế, hoạt

động khoa học công nghệ đã bị hành chính hóa từ lâu và không còn khách quan

khoa học thuần túy đúng với bản chất của nó. Thay đổi để khắc phục được tình

trạng này sẽ không thành công nếu không có sự quyết tâm, quyết liệt của cả hệ

thống chính trị. Các cơ chế, chính sách như phát hiện, tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ,

tôn vinh, v.v. có nhiều bất cập nên chưa thực sự xây dựng được nguồn nhân lực

mạnh, chưa phát huy được sức mạnh của nguồn nhân lực này, chưa phát huy hết

tiềm năng, sự sáng tạo của nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là nguyên nhân

chính không phát huy được sức mạnh “nguyên khí quốc gia”, kìm hãm sự phát triển

của đất nước hiện nay.

Thứ ba, môi trường, điều kiện làm việc của chủ thể sáng tạo chưa thực sự

đảm bảo để phát huy năng lực lao động sáng tạo của họ. Môi trường hoạt động của

chủ thể sáng tạo còn nhiều hạn chế nhất là các địa phương.

Thứ tư, phải thẳng thắn thừa nhận rằng một bộ phận chủ thể sáng tạo có năng

lực hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNVH, hội nhập kinh tế quốc tế.

Điều đó xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, như phẩm chất cá nhân, điều kiện đào

tạo. Chất lượng chủ thể sáng tạo còn nhiều biểu hiện hạn chế. Sự hạn chế đó trước

hết biểu hiện ở sự chủ động, tích cực, ở năng lực lao động sáng tạo, năng lực ứng

dụng cập nhật tri thức tiến bộ khoa học công nghệ để giải quyết những vấn đề đặt ra

trong quá trình phát sáng tạo. Số lượng chủ thể sáng tạo chất lượng cao rất thiếu,

nguồn nhân lực kế cận còn hụt hẫng, tình trạng thiếu hụt các chuyên gia, các nhà

155

nghiên cứu phê bình đầu ngành kéo dài trong thời gian dài khiến cho nghiên cứu

phê bình không gắn với sáng tác tạo nên những khuyết thiếu của yếu tố nghệ thuật

đỉnh cao, của thị trường hoàn thiện và chưa đáp ứng yêu cầu CNVH trong thực tiễn.

Một bộ phận của chủ thể sáng tạo thiếu ý chí phấn đấu, ít cố gắng vươn lên

về chuyên môn từ sự đào sâu nghiên cứu về học thuật, ngại làm công tác nghiên cứu

khoa học. Bên cạnh một bộ phận chủ thể sáng tạo không nhỏ có ý thức trách nhiệm

với xã hội không cao, sở hữu nhiều kỹ năng nhưng yếu kém về nghề nghiệp, đạo

đức nghề nghiệp và thiếu thực tế, chạy theo lợi ích thị trường trong ngắn hạn, v.v.

Tình trạng đó đã làm cho diện mạo méo mó của thị trường trong thời gian qua, ảnh

hưởng tới hình ảnh của chủ thể sáng tạo - người họa sĩ. Công chúng nhìn nhận,

đánh giá không tích cực về chủ thể sáng tạo với những bức xúc về họ về những họa

sĩ thị trường. Đây là hiện tượng nguồn nhân lực trình độ kỹ năng nghề nghiệp cao

nhưng có chất lượng chưa cao, cần sớm được khắc phục.

Nhằm phát huy tốt hơn vai trò tri thức của chủ thể sáng tạo, để phát triển

CNVH, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với một số thị trường hội họa trong khu

vực, xây dựng nền kinh tế văn hóa, phát triển đất nước. Theo NCS, điều tất yếu cần

phải thực hiện gồm:

Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội về vai trò của chủ thể

sáng tạo tác phẩm hội họa trong sự nghiệp CNVH.

Kết hợp nhiều hình thức khác nhau như: tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, tổ

chức cuộc thi, hội thảo, v.v. nhằm nâng cao nhận thức cho công chúng về vai trò

chủ thể sáng tạo trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, coi trọng công tác đào tạo, giáo

dục và truyền thông. Bản thân chủ thể sáng tạo cũng phải được nâng cao nhận thức

về chính bản thân mình. Nếu bản thân chủ thể sáng tạo, như đã phân tích, không tự

ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với thị trường, xã hội thì sẽ rơi vào

trạng thái thụ động, trông chờ, ỷ lại sự trợ giúp bên ngoài, không thể vượt qua khó

khăn, không phát huy được sức mạnh trí tuệ nội lực để phát triển. Đồng thời phải

đổi mới nhận thức của chính chủ thể sáng tạo, của nguồn nhân lực trong công tác

quản lý và công chúng tiếp nhận.

Thứ hai, xây dựng môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của chủ

thể sáng tạo. Môi trường và điều kiện thuận lợi sẽ là bệ đỡ, chất xúc tác cho chủ thể

sáng tạo phát huy cao nhất năng lực sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động. Mô hình

156

Không gian nghệ thuật 798 (798 Space) tại Bắc Kinh, Trung Quốc là ví dụ điển

hình. Những ưu đãi, không gian cho nguồn nhân lực là chủ thể sáng tạo có trình độ

cao. Ngược lại, môi trường không thuận lợi sẽ làm cản trở, kìm hãm năng lực sáng

tạo. Môi trường và điều kiện hoạt động gồm nhiều yếu tố khác nhau, nhưng quan

trọng nhất là không khí dân chủ, tự do sáng tạo, khuyến khích phát huy được nghiên

cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ, đồng thời có sự cởi mở, sẵn sàng trao

đổi, lắng nghe của các nhà quản lý, thực hiện đúng định hướng của Đảng với những

chính sách ưu đãi, sự thông thoáng, đơn giản của các thủ tục hành chính, v.v.

Thứ ba, nâng cao thực sự, có hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính

trong hoạt động nghiên cứu khoa học, thực thi nghiêm túc Luật SHTT.

Thứ tư, đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại phù hợp với tiêu chuẩn quốc

tế, phù hợp cho hoạt động nghiên cứu đồng thời triển khai thử nghiệm phát triển

văn hóa trong kinh tế (mô hình Không gian nghệ thuật 798). Đây là một nội dung

căn bản của môi trường, điều kiện có vai trò đặc biệt trong bối cảnh cách mạng

khoa học công nghiệp 4.0. Cơ sở vật chất, điều kiện sáng tạo là tiền đề không thể

thiếu cho hoạt động của chủ thể sáng tạo. Ngày nay, hệ thống cơ sở vật chất - kỹ

thuật không chỉ giản đơn là sách vở, thư viện, phòng, xưởng thí nghiệm mà nội

dung của nó phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào từng lĩnh vực, ngành, nghề, vấn đề

nghiên cứu, sáng tạo. Thiếu cơ sở vật chất - kỹ thuật cho mục đích thử nghiệm sáng

tạo thì chủ thể sáng tạo khó có thể nghiên cứu, sáng tạo, hay ứng dụng vào thực tiễn

sáng tác tạo ra những sản phẩm chất lượng cao thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Thứ năm, Việc cần làm ngay là đổi mới một số chính sách đối với chủ thể

sáng tạo cho phù hợp hơn với bối cảnh, tình hình phát triển của đất nước cả lợi ích

vật chất và tinh thần. Bởi đây chính là động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của

chủ thể sáng tạo.

Thứ sáu, Đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, khuyến khích, các chủ thể

sáng tạo để khuyến khích tạo nguồn nhân lực. Cách thức giáo dục, đào tạo hiện nay

chưa nhiều đổi mới dẫn đến không phát huy được sức mạnh sáng tạo. Đào tạo vẫn

thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị

trường. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học.

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp, lối sống vẫn còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn nhân

lực là chủ thể chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và thực

157

tiễn xã hội. Nguồn nhân lực làm công tác đào tạo và cán bộ quản lý trên một số

phương diện còn khá nhiều bất cập nên chưa khuyến khích tạo điều kiện cho chủ

thể sáng tạo phát huy được hết năng lực trong hoạt động thị trường.

3.2.4. Đổi mới hoạt động của galery và thành lập các tổ chức tập thể hỗ trợ

cho hoạt động thị trường

3.2.4.1. Đổi mới hoạt động gallery

35 năm kể từ ngày Đổi Mới, gallery vẫn tồn tại và hoạt động độc lập theo

hướng tự phát tùy thuộc vào năng lực của mỗi gallery và phần nhiều chỉ là nơi kinh

doanh sản phẩm mỹ thuật. 10 năm sau Đổi Mới, số lượng gallery đã tăng gấp nhiều

lần. Trên cả nước, từ một lượng gallery đếm chưa hết được trên đầu ngón tay ở

những năm đầu Đổi Mới, nay đã trở thành một thị trường mỹ thuật có số lượng

gallery nhiều không kém những thị trường phát triển. Sự trồi sụt về số lượng (Bảng

2.2) cho thấy một thị trường dưới góc nhìn của các hoạt động gallery vẫn là quan

trọng. Các gallery thuộc lĩnh vực quản lý của ngành văn hóa (cấp Sở ở địa phương)

hoạt động kinh doanh theo quy định của Luật Thương mại dưới hình thức xúc tiến

thương mại và các quy định của Luật có liên quan khác như: Luật Doanh nghiệp,

Luật Quản lý thuế, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, v.v. Tác phẩm bán ra

chịu thuế thu nhập cá nhân từ tiền bản quyền. Cơ quan QLNN lĩnh vực văn hóa

thực hiện chức năng QLNN về nội dung đối với hoạt động gallery là cấp Sở ở các

địa phương theo quy định tại Nghị định số 113/2013 của Chính phủ quy định về

hoạt động mỹ thuật, tuy nhiên những quy định về có tính chuyên sâu, mang tính

điều kiện của một ngành nghề có nhiều đặc thù để hạn chế những việc mua “nhầm”,

trưng bày và bán “nhầm” tranh giả, v.v. và quan trọng là để định hướng cho một thị

trường hoạt động kinh doanh sản phẩm mỹ thuật phát triển lành mạnh còn bỏ ngỏ.

Vì vậy, đã dẫn đến phát sinh khá nhiều sai phạm có nguyên nhân khách quan và chủ

quan từ các bên khi tham gia vào hoạt động thị trường qua hình thái gallery, phòng

trưng bày và cả nhà đấu giá trong thời gian qua mà chưa có giải pháp giải quyết triệt

để. Đặc biệt là vấn đề về mặt bản quyền tác giả tác phẩm hội họa. Ví dụ, vụ việc

bức tranh Ông công nhân già của họa sĩ Văn Thơ hay tác phẩm trong bộ tranh

Crazy People của họa sĩ Bùi Thanh Tâm, v.v. Mặc dù, theo thời gian gallery sẽ có

những tiến triển khi những người vận hành gallery đã được tiếp cận với thông tin,

học hỏi, điều kiện tiếp xúc về mỹ thuật, về hội họa nhiều hơn, ứng dụng công nghệ

158

cao hơn, v.v. Theo NCS, tác động của cơ quan QLNN vẫn chưa đến với các gallery

và các gallery vẫn hoạt động đơn độc, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, chưa tận dụng được trợ

giúp của giới nghiên cứu phê bình, của những chính sách hỗ trợ và định hướng phát

triển. Vì vậy, nhận xét chung nhất về galler và các hình thái mới hơn tương tự đó là

không có nhiều biến đổi và tác động tích cực cho thị trường tác phẩm hội họa Việt

Nam khi ở đó gallery nhìn chung vẫn chỉ là nơi mua bán, giải quyết mối quan hệ

cung cầu một cách sơ khai và đôi khi là điểm gặp gỡ, giao lưu của số ít họa sĩ trong

mỗi đợt trưng bày triển lãm.

Theo đánh giá của một số chuyên gia, việc đổi mới để gallery phát triển lành

mạnh, cạnh tranh được với các gallery trong khu vực và trên thế giới, phát triển

trong môi trường toàn cầu hóa cần:

- Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong việc định hướng điều tiết hoạt

động gallery. Đầu tư, hỗ trợ xây dựng những gallery, nhà đấu giá có nguồn nhân lực

chú trọng yếu tố bình đẳng giới, cơ sở vật chất, không gian trưng bày, theo tiêu

chuẩn khu vực và quốc tế, xây dựng và phát huy tiềm năng của thị trường nội địa,

xúc tiến phát triển thị trường ngoài nước.

- Xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức cho hoạt động gallery trong đó có

việc ứng dụng mô hình kinh doanh mới có áp dụng công nghệ số trực tiếp và trực

tuyến vào các hoạt động dịch vụ của thị trường gallery theo tiêu chuẩn bảo tàng.

- Xây dựng chuỗi liên kết, các hoạt động nghiên cứu cung cấp thông tin cho

khách hàng, kết nối các hoạt động gallery, nhà đấu giá với các nhà thẩm định, bảo

hiểm có uy tín trong nước và quốc tế, NCPBMT và với truyền thông tạo dựng hệ

thống cung cấp hồ sơ họa sĩ, tác phẩm và các dịch vụ hội họa tin cậy cho khách

hàng.

3.2.4.2. Các trung tâm cơ sở dữ liệu, bản quyền

Ở Việt Nam, có thể do thị trường tác phẩm hội họa chưa tạo ra được những

giá trị mang tính đột phá tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nên chưa có được nhiều

sự quan tâm, đặc biệt là các chuyên gia pháp lý chuyên sâu về bản quyền tác phẩm

nghệ thuật tạo hình. Trong khi đó, vấn đề cơ sở dữ liệu, bản quyền và truyền thông

số trong thời đại công nghiệp 4.0 như hiện nay là những yếu tố then chốt để phát

triển thị trường mỹ thuật mang lại nhiều lợi ích về kinh tế trong tổng thể chung về

159

CNVH cũng gần như chưa vận hành. Việt Nam chưa xây dựng được một trung tâm

cơ sở dữ liệu và phân tích cơ sở dữ liệu nào về ngành mỹ thuật.

Cơ sở dữ liệu ngành mỹ thuật là yếu tố đặc biệt quan trọng cho việc phân

tích, đánh giá các chỉ số một cách có hệ thống có liên quan, đơn giản nhất là để xác

định tác quyền của nghệ phẩm cũng như việc nghiên cứu toàn bộ quá trình hình

thành phát triển của một nền mỹ thuật và dự báo phát triển giúp cho việc hoạch định

chính sách, lập phương án, kế hoạch đầu tư sưu tầm, kinh doanh v.v. Ví dụ của nhà

đấu giá Sotheby’s đáng để nghiên cứu học tập. Góp phần vào sự phát triển với

những thành công và duy trì ở vị trí dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực mỹ thuật của

Sotheby’s luôn có sự đóng góp của những chuyên gia phân tích dữ liệu. Đặc biệt là

những dữ liệu của trung tâm phân tích cơ sở dữ liệu The Sotheby’s Mei Moses của

Sotheby’s, những chỉ số dữ liệu của trung tâm này đã được sử dụng như chuẩn mực

số liệu cung cấp cho toàn cầu. Họ đã tiến hành phân tích toàn bộ dữ liệu của ngành,

thị trường từ khi mới khai mở nhà đấu giá cho đến ngày nay để đưa ra những chỉ số

đưa đến những quyết định, thay đổi thị trường. Tác quyền luôn là một giá trị cốt lõi

của xây dựng thương hiệu trên thị trường. Chính vì quan trọng như vậy, nên chỉ với

việc quản trị thương hiệu của riêng Pablo Picasso mà Claude Picasso, người thừa kế

trực tiếp phải thành lập tổ chức dân sự có tên Picasso Administration (1995) để

kiểm soát việc sử dụng bản quyền tác phẩm của danh họa này vào những hoạt động

thương mại khác. Pablo Picasso rất nổi tiếng nên không có gì ngạc nhiên khi các

nhà kinh doanh từ Mỹ cho đến Trung Quốc, v.v., đều muốn sử dụng nhãn “Picasso”

lên đủ loại sản phẩm hàng hóa từ máy cày, thiết bị vệ sinh, áo phông, cho đến bưu

thiếp, v.v. Mỗi năm, tổ chức này phải xét duyệt tới hơn 2.000 yêu cầu đề nghị được

khai thác nhãn hiệu “Picasso” và chỉ có 85% trong tổng số đề nghị đó được cấp

phép sử dụng nhãn hiệu [159].

Hiện nay, lĩnh vực Âm nhạc có Trung tâm Bảo vệ Quyền tác giả âm nhạc

Việt Nam (VCPMC) hoạt động theo mô hình tổ chức quản lý tập thể dựa trên một

số nguyên tắc cơ bản: Phi lợi nhuận, minh bạch, chính xác, hiệu quả. Những nguyên

tắc cơ bản đó được giải thích cụ thể là: Hoạt động không nhằm kinh doanh sinh lợi

nhuận mà vì mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả và chủ sở hữu tác

phẩm âm nhạc; minh bạch về thông tin tài chính; lưu trữ dữ liệu tác giả - tác phẩm

chính xác; theo dõi và quản lý chính xác việc sử dụng tác phẩm; phân phối chính

160

xác tiền bản quyền tới các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm; sử dụng các nguồn lực một

cách tối ưu, đạt hiệu quả một cách cao nhất có thể. Lĩnh vực Văn học có Trung tâm

quyền tác giả văn học Việt Nam (VLCC) cũng với nguyên tắc hoạt động tương tự

như VCPMC. Lĩnh vực Điện ảnh cũng vừa mới ra đời Hội bảo vệ quyền tác phẩm

điện ảnh và phim truyền hình Việt Nam. Vậy là trong mấy loại hình nghệ thuật tiêu

biểu thường được nhắc tới gồm: văn - thơ - nhạc - họa, thì chỉ có họa - mỹ thuật

chưa có được một tổ chức đại diện tập thể về quyền tác giả như vậy. Nhiều ý kiến

nêu ra lý do tại sao, khi thị trường mỹ thuật là một trong những thị trường văn hóa

đầu tiên hình thành ở Việt Nam, có tác động không nhỏ đến đời sống xã hội và sớm

hội nhập thế giới. Theo NCS, trong thời gian tới, với xu hướng phát triển của thị

trường này, việc trung tâm dữ liệu và bản quyền tác phẩm mỹ thuật có thể sẽ sớm

được thành lập để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Để thực hiện các giải pháp cho nội dung trên, cơ quan QLNN và Bảo tàng

Mỹ thuật quốc gia cần phải phát huy vai trò dẫn dắt để thành lập và đi vào hoạt

động một cách có hiệu quả trung tâm cơ sở dữ liệu, bản quyền ngành mỹ thuật làm

tiền đề, định hướng song song với đổi mới toàn diện hoạt động các thiết chế văn hóa

về mỹ thuật xác định là giải pháp cấp bách mang tính khả thi cao để xây dựng phát

triển kinh tế văn hóa, thực hiện mục tiêu CNVH và hội nhập quốc tế.

3.2.4.3. Các trung tâm thẩm định, đấu giá

Các quốc gia, vùng lãnh thổ có thị trường nghệ thuật thành công như châu

Âu và Mỹ, các nước BRIC, Hồng Kông, Singapore, v.v. đều là nơi đặt trụ sở chính

những nhà đấu giá lớn. Bên cạnh những hoạt động thị trường khác không kém phần

náo nhiệt như chợ nghệ thuật, gallery và các trưng bày cá nhân. Số lượng giao dịch

nghệ thuật thành công hàng năm theo hình thức đấu giá thường chiếm tới trên 41%

tổng số giao dịch (Trung Quốc tỷ lệ là hơn 70%) còn lại là giao dịch ở các chợ nghệ

thuật, gallery và phần nhỏ còn lại ở một số hình thức khác. Để đến với những thành

công các nhà đấu giá lớn như Sotheby’s, Christie’s hay China Guardian, Larasaty, v.v.

đều cần có sự trợ giúp của tổ chức giám định, thẩm định hiện vật trực thuộc.

Ở Việt Nam, Bảo tàng mỹ thuật lớn nhất của cả nước đã cho ra đời một trung

tâm với mục đích giám định tác phẩm, thẩm định tác phẩm mỹ thuật theo mô hình

của một số nhà đấu giá lớn. Nhưng chỉ sau vài năm thành lập mà trên thực tế gần

như chưa mang lại hiệu quả, trung tâm này đã kết thúc hoạt động độc lập và được

161

sáp nhập với một phòng chuyên môn khác. Ngày 06/12/2018, Trung tâm Giám định

và Triển lãm tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh thuộc Cục MTNATL được thành lập và

đi vào hoạt động. Mặc dù tên gọi và chức năng có khác khi thêm phần triển lãm và

nhiếp ảnh, nhưng về cơ bản đây lại là một trung tâm thành lập ra có mục đích là

giám định tác phẩm mỹ thuật lần thứ hai xuất hiện, đều là đơn vị cấp hai trực thuộc

một trong hai đơn vị có chức năng về mỹ thuật của Bộ VHTTDL. Tuy nhiên, thực

chất nó được sinh ra để giải quyết cho mục đích hành chính khác. Vì vậy, chưa có

gì để nghiên cứu thêm trong luận án này.

Khởi đầu ở Việt Nam vào tháng 5/2016, có phiên đấu giá mỹ thuật thương

mại đầu tiên và được cho là không mấy thành công của Công ty cổ phần bán đấu giá

Lạc Việt. Tiếp đến là sự xuất hiện các nhà đấu giá mỹ thuật mang tính chuyên

nghiệp hơn như Nhà đấu giá Lý thị tại Tp.HCM và nhà đấu giá Chọn ở Hà Nội, v.v.

Đánh dấu bước chuyển sang thị trường mỹ thuật thứ cấp theo hình thức công khai ở

Việt Nam. Nhiều người cho rằng đó là báo hiệu khởi sắc tiến đến chuyên nghiệp

hóa của hoạt động thị trường MTVN. Tuy nhiên, từ đó phát sinh không ít những

nghi ngại của thị trường ở hình thái mới này như mức độ chuyên nghiệp, tính trung

thực như đấu giá tranh giả, tạo ra cung cầu giả tạo xuất phát từ việc, người đấu giá

không mua tác phẩm do mình đã thắng giá đấu hoặc có giá đấu thắng cao bất

thường cho đến những việc mập mờ khác, v.v. khiến thị trường này càng thêm

những sự hoài nghi. Vì vậy, vai trò của cơ quan QLNN làm hạt nhân giữ ổn định,

định hướng, gây dựng niềm tin, v.v. đảm bảo cho sự phát triển lạnh mạnh và bền

vững đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu và hội nhập như ngày nay càng trở nên cấp

bách. Tại Hội thảo khoa học Giải pháp phát triển thị trường MTVN trong bối cảnh

kinh tế - xã hội đương đại, một lãnh đạo của Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi

trường (Bộ VHTTDL) cho rằng: “Muốn xây dựng thị trường mỹ thuật nội địa, giai

đoạn đầu nhất thiết phải có sự điều tiết của Nhà nước thông qua các cơ chế, chính

sách” rồi mới có thể phát triển được CNVH. “Thực tế có những khách hàng mua

được tranh đẹp và có giá trị vừa ra khỏi gallery đã bị nói là tranh giả… gây hoang

mang cho khách hàng. Thị trường nghệ thuật vốn phức tạp càng thêm rối loạn. Lòng

tin giữa khách hàng và gallery cũng như với nghệ sĩ, là điều quan trọng nhất ngày

càng mất dần” [108, tr.78]. Từ kết quả hoạt động hai trung tâm giám định, thẩm

định của nhà nước như đã nêu trên, nhiều ý kiến cho rằng, để hoạt động giám định,

162

thẩm định tác phẩm mỹ thuật một cách thực sự hiệu quả, thị trường mỹ thuật, hội

họa sẽ cần phải tìm đến tổ chức khác.

Thành lập trung tâm đấu giá tác phẩm mỹ thuật với sự vai trò của Nhà nước

là điều cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay tại Việt Nam. Kinh nghiệm thiết thực có

thể tham khảo và áp dụng tại Việt Nam từ các hoạt động đấu giá của Sotheby’s tại

Nga năm 1988 hay từ mô hình nhà đấu giá China Guardian Auctions - “nhà đấu giá

đáng tin cậy” do Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập và bảo trợ ra

đời vào tháng 5 năm 1993 và trở thành một trong những nhà đấu giá hàng đầu tại

Trung Quốc [151], giữ vị trí thứ ba trong bảng xếp hạng trên thế giới. Nhà đấu giá

này đã tạo ra hàng tỷ USD từ việc bán các sản phẩm nghệ thuật và chiếm số lượng

7,79% của các cuộc đấu giá nghệ thuật trên thế giới, v.v. Những trung tâm đấu giá

và thành công như vậy luôn tồn tại, ẩn chứa những thông điệp, những bài học mang

giá trị về cam kết hợp tác với các bên có liên quan trong lĩnh vực nghệ thuật giúp

chuẩn hóa các cuộc đấu giá tác phẩm văn hóa nghệ thuật, tạo niềm tin và hỗ trợ

doanh nghiệp đầu tư, thu tiền thuế từ ích lợi của việc mua bán tác phẩm nghệ thuật

và làm minh bạch thị trường, nâng tầm giá trị tác phẩm nghệ thuật và hồi hương

những kiệt tác nghệ thuật của dân tộc. Để thực hiện mục đích dẫn dắt và định hình

lại hoạt động theo hướng chuyên nghiệp với mục đích là đem những sản phẩm sáng

tạo quảng bá rộng rãi với khu vực và thế giới, phát huy lợi thế của văn hóa Việt

Nam trên trường quốc tế, đồng thời mang đến nhiều lợi ích về kinh tế, tạo cơ hội

giao lưu hội nhập để nâng cao uy tín, thu nhập cho các nghệ sĩ, nhà sưu tập, nhà đầu

tư, các thành phần xã hội có liên quan khác cũng như tăng cường lượng du khách

phát triển du lịch.

Mặc dù có sự khai mở khá sớm với nhiều tiềm năng nhưng sự phát triển

của thị trường MTVN so với khu vực có nhiều phần thua thiệt nhưng tiếp tục

một thị trường mỹ thuật tự phát như hiện nay thì “hỗn độn và xỉn màu” theo cách

nói của Nguyễn Quân sẽ chưa thay đổi ở tương lai gần. Chính vì vậy, rất cần có

các trung tâm đấu giá có sự bảo trợ, điều tiết từ Chính phủ để tạo điều kiện thuận

lợi cho việc phát triển trở lại thị trường lành mạnh đóng góp vào sự phát triển

của kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động đấu giá tác phẩm nghệ thuật đang

trở thành một kênh đầu tư kinh doanh hấp dẫn đem lại hiệu quả ở nhiều hơn ở

các diễn ngôn.

163

Để thực sự phát huy được hiệu quả các trung tâm thẩm định, đấu giá phù hợp

với tình hình phát triển của thị trường mỹ thuật ở Việt Nam cần có sự hỗ trợ của

Chính phủ, hoàn thiện các quy định, chính sách có liên quan (Kinh nghiệm thành

công và thất bại từ thị trường mỹ thuật của Nga từ năm 1988 – 2008). Đó là:

Thứ nhất, xây dựng trung tâm thẩm định có thể trực thuộc nhà đấu giá hoặc

Bảo tàng MTVN nhưng vận hành theo cơ chế phân quyền độc lập, được phép công

bố và chịu trách nhiệm công khai về kết quả giám định trên cơ sở phân tích khoa

học và nghiên cứu lịch sử dựa trên kinh nghiệm quốc tế áp dụng phù hợp với điều

kiện tại Việt Nam.

Thứ hai, thành lập nhà đấu giá có sự bảo trợ từ Nhà nước là mô hình hoạt

động theo hướng Nhà nước đầu tư ban đầu cho mục tiêu quan trọng là quảng bá văn

hóa Việt Nam kết hợp phát huy giá trị kinh tế. Thông qua một loạt các giải pháp

như đào tạo, đầu tư, áp dụng giải pháp công nghệ để đổi mới một cách căn bản và

toàn diện trong công tác quản lý vận hành, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong việc

phân tích, thẩm định và tư vấn phát triển văn hóa, v.v., xây dựng và hoàn thiện hành

lang pháp lý với chủ trương hỗ trợ mạnh các hoạt động thương mại nghệ thuật

chuyên nghiệp; trao trách nhiệm phát triển văn hóa cho các thiết chế nhà nước trên

cơ sở lập và thực hiện kế hoạch CNVH để kích hoạt có hiệu quả, thành công được

thị trường này.

Thứ ba, Nhà nước quan tâm bằng những chính sách cụ thể của Chính phủ để

khuyến khích nguồn xã hội hóa mạnh mẽ từ những doanh nhân thành đạt để đầu tư,

hỗ trợ phát triển; tuyển chọn những nhà quản lý mỹ thuật giỏi am hiểu lĩnh vực kinh

tế; những nhà thẩm định, phê bình mỹ thuật; những chuyên viên tu sửa phục chế

được đào tạo bài bản ở trình độ quốc tế. Thành lập các quỹ nghiên cứu, tài trợ cho

các hoạt động hội họa và các hoạt động trao đổi mỹ thuật khác. Thị trường hội họa

phát triển sẽ góp phần nâng cao trình độ, giáo dục thưởng thức thẩm mỹ của nhân

dân, thúc đẩy du lịch và kinh tế phát triển, thu hút những nhà đầu tư đến, tham gia,

kích thích tiêu dùng kinh tế trong nước.

3.2.4.4. Hội chợ mỹ thuật

Các sự kiện lớn như chợ mỹ thuật đang dần trở thành nền tảng cho thị trường

mỹ thuật ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nơi đây diễn những gặp gỡ, giao lưu tương

tác giữa các gallery, nhà sưu tập, nhà môi giới, quản lý bảo tàng, curator, v.v. cùng

164

nghệ sĩ với những sáng tạo nghệ thuật của họ tạo ra rất nhiều lợi ích, đặc biệt là đem

công chúng tiếp cận gần với nghệ thuật. Nói về bản chất các hoạt động giao dịch

văn hóa Nguyễn Văn Tình (2009), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn

thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam cho rằng, “giao dịch trong quản lý văn hóa

không phải là bán hàng như trong quản lý kinh tế mà là thiết kế các hợp đồng về

nghệ thuật. Các mục tiêu, ưu tiên và giá trị trong quản lý văn hóa cũng có những

điểm khác biệt. Mục tiêu hàng đầu là về văn hóa nghệ thuật chứ không phải lợi

nhuận kinh tế, dù vấn đề kinh tế cũng được tính đến để đảm bảo sự đầu tư trở lại

cho phát triển văn hóa nghệ thuật” [96, tr.85]. Nhiều người cho rằng, mức độ rủi ro

trong hoạt động kinh doanh sản phẩm văn hóa thường cao hơn các hoạt động kinh

doanh khác vì sản phẩm và dịch vụ văn hóa nghệ thuật luôn phụ thuộc một cách

chặt chẽ vào những yếu tố như tâm lý, thị hiếu và các yếu tố cá nhân bất định khác

của cả người sáng tạo và người tiêu thụ. Tuy nhiên, theo triết lý kinh doanh của các

nhà đấu giá lớn như China Guardian thì kinh doanh sản phẩm văn hóa là một hoạt

động có trách nhiệm để hài hòa giữa nghệ thuật - kinh doanh là hai yếu tố cốt lõi

luôn cân bằng và hài hòa cùng phát triển. Mục tiêu tập trung và khai thác tiềm năng

mỹ thuật, sản phẩm mỹ thuật phục vụ nhu cầu tinh thần, phát triển kinh tế, kinh

doanh du lịch, các dịch vụ giá trị gia tăng có liên quan và hoạt động tuyên truyền

quảng bá những giá trị văn hóa, tinh thần, hình ảnh đất nước, con người, tôn vinh

các nghệ sĩ, nghệ nhân qua các hình thức trưng bày, trải nghiệm, trình diễn kỹ nghệ,

v.v. cho công chúng tiếp nhận. Kết hợp kinh tế văn hóa với phát triển du lịch góp

phần không nhỏ vào GDP của mỗi quốc gia.

Chợ mỹ thuật hay chợ nghệ thuật mới xuất hiện trong thời gian gần đây ở

Việt Nam, khoảng hơn 20 năm sau khi hình thái chợ nghệ thuật trở nên phổ biến

(1990) và được coi là sự kiện chính của thị trường nghệ thuật toàn cầu. Điều 129

Luật Thương mại giải thích khái niệm Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động

xúc tiến thương mại. Hoạt động này được thực hiện tập trung trong một thời gian và

tại một địa điểm nhất định. Tuy nhiên, chợ nghệ thuật trên thế giới không chỉ là nơi

thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy tìm

kiếm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ mà còn là sự kiện văn

hóa quan trọng đối với quốc tế và địa phương khi có tới hàng chục nghìn khách

thăm quan, các cuộc tranh luận của giám tuyển, nhà sưu tập và các nghệ sĩ nổi

165

tiếng, v.v. Sản phẩm mỹ thuật là hàng hóa, việc đem hàng hóa ra chợ hay hội chợ,

mục tiêu chính được hiểu một cách đơn giản sẽ là để bán, tìm kiếm cơ hội bán và

bán được càng nhiều càng tốt nhưng trên thực tế, những ý nghĩa của các hoạt động

văn hóa đó đã mang lại những giá trị cộng hưởng to lớn hơn nhiều những diễn ngôn

nhìn từ giá trị kinh tế.

Việt Nam đã sớm hình thành Trung tâm Triển lãm Văn hóa Nghệ thuật quốc

gia Việt Nam (Vietnam Exhibition Centure for Culture and Arts –VECCA, 1958) và

Trung tâm Hội chợ triển lãm Việt Nam (Vietnam Exhibition and Fair Centure –

VEFAC, 1974). Trung tâm VECCA với chức năng nhiệm vụ là nơi thông tin, giới

thiệu quảng bá cho các hoạt động có tính tổng hợp chuyên sâu về văn hóa. Nhìn

dưới góc độ kinh tế, trung tâm triển lãm này mang những giá trị như công cụ cho

các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, thúc đẩy giao lưu, hội nhập

kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, sau nhiều năm hoạt động Trung tâm vẫn chủ

yếu duy trì hoạt động của một đơn vị sự nghiệp công lập để tuyên truyền cho các

hoạt động phong trào, giao lưu về văn hóa nghệ thuật của Nhà nước nên nhiều triển

lãm mỹ thuật và hội chợ nghệ thuật đã được tổ chức hoặc phối hợp tổ chức tại đây

không mang lại hiệu quả kinh tế.

Một số hoạt động chợ mỹ thuật vừa qua như Tết Art, Domino Art Fair, Art

For You, v.v., theo mô hình chợ mỹ thuật giá hợp lý ở một số quốc gia trên thế giới,

bao gồm các hoạt động như triển lãm, trải nghiệm mỹ thuật, hội thảo, tọa đàm, v.v.

đã trở thành trung tâm tự phát của mỹ thuật Việt. Chợ mỹ thuật luôn được coi là chợ

“xa xỉ phẩm” không chỉ ở Việt Nam, khi thời gian tổ chức thường ngắn ngày, chi

phí tổ chức lớn nên các phòng tranh tham dự thường đến đây để tìm quan hệ, đối tác

cho các hoạt động tiếp tới là chủ yếu. Việc xúc tiến thương mại tại hội chợ thường

không phải là tiêu chí quan trọng, trưng bày trong những gian hàng hội chợ với

không gian hạn chế, chủ yếu chỉ mang tính quảng bá tìm đối tác hợp tác “thiết kế

những hợp đồng nghệ thuật”.

Giá trị kinh tế của tác phẩm luôn là yếu tố quan trọng tác động tới các hoạt

động phát triển của thị trường. Tạo dựng cộng đồng chơi tranh, sở hữu tác phẩm hội

họa để phát huy giúp những giá trị tiềm năng phát triển thị trường. Những thành

công mang lại từ những thị trường mỹ thuật lâu đời như São Paulo, Venice và gần

đây ở khu vực là của Singapore, Trung Quốc, v.v. nên ngày càng có nhiều quốc gia

166

quan tâm, đầu tư cho việc phát triển thị trường văn hóa, đặc biệt là thị trường mỹ

thuật. Toàn cầu hóa, công nghệ số đã ảnh hưởng đến sản phẩm văn hóa, bản sắc dân

tộc của không ít quốc gia. Tuy không thể không theo xu hướng chung nhưng mỗi thị

trường đều tạo ra những đặc thù, tích cực xây dựng thị trường văn hóa của riêng mình.

Thomas L.Friedman (2016) Chiếc Lexus và cây ô liu cho rằng, trong thời đại “thế giới

phẳng”, khi toàn cầu hóa đã biến nhiều hoạt động thị trường trong lĩnh vực thông

thường trước đây thành cuộc chơi mà ai không tham gia hay bị chậm chân sẽ không chỉ

tụt hậu phía sau mà thậm chí bị giẫm nát dưới chân. Thế giới đã có quá nhiều thay đổi,

“chúng ta đang di chuyển từ một thế giới cá lớn nuốt cá bé sang một thế giới những kẻ

nhanh chân sẽ tiêu diệt những kẻ chậm chân” [90, tr.273].

Tuy nhiên, hội chợ mỹ thuật ở Việt Nam mới trong giai đoạn khởi đầu, chập

chững của những bước chân “vào cuộc chơi”. Những hội chợ mỹ thuật thường niên

trở thành địa chỉ quen thuộc, môi trường giao lưu, phát triển mỹ thuật đem lại thành

công cho thị trường hội họa, thị trường mỹ thuật ở nhiều quốc gia như: Anh, Mỹ,

Singapore, v.v. Do đó việc xây dựng những quy định và chính sách cụ thể để

khuyến khích phát triển cho chợ mỹ thuật, chợ tranh trở thành một phần quan trọng

của thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam và hội nhập khu vực, thế giới.

3.2.4.5. Quỹ hỗ trợ phát triển mỹ thuật quốc gia Việt Nam Các họa sĩ cũng như đa số các nghệ sĩ sáng tạo thường phải đối mặt với

những khó khăn, thách thức về kinh tế đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường

nên phần lớn các nước có thị trường văn hóa phát triển đều áp dụng những cách

thức hỗ trợ nghệ thuật riêng. Mặc dù, trên thế giới còn nhiều ý kiến khác nhau về

việc nên hay không nên thành lập Quỹ, nguồn vốn, phương thức vận hành, v.v.

nhưng Quỹ hỗ trợ phát triển mỹ thuật quốc gia Việt Nam (sau đây gọi tắt là Quỹ)

nên phải được thành lập để thấy được vai trò của nhà nước ở trung tâm trong việc

điều tiết, hỗ trợ phát triển nghệ thuật hội họa và nhân dân sẽ là chủ thể được thụ

hưởng nhiều hơn từ những điều tốt đẹp ấy. Quỹ sẽ do nhà nước cung cấp vốn điều

lệ ban đầu kết hợp các nguồn xã hội hóa, các hỗ trợ từ hoạt động thương mại có liên

quan trong quá trình vận hành để thực hiện các mục đích: tìm kiếm, nuôi dưỡng và

phát triển tài năng, khuyến khích sáng tạo nghệ thuật hướng tới đỉnh cao cùng với

phát triển kinh tế để nhân dân được thụ hưởng những thành tựu tốt đẹp nhất, v.v.

“Một số trợ cấp đó có thể được coi như tiền đặt hàng với nghĩa là cấp để tạo ra một

tác phẩm đã xác định, nhưng không có một tác phẩm nào trong số tác phẩm đó

167

thành sở hữu của Nhà nước. Các tiền trợ cấp và các giải thưởng đó được coi như sự

giúp đỡ trực tiếp khiến cho nghệ sĩ có thể bố trí thời gian cần thiết để tạo ra tác

phẩm của mình trong điều kiện tốt nhất” [56, tr.50].

Hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận, khuyến khích nguồn xã hội hóa

đóng góp cho Quỹ từ các hoạt động mỹ thuật, tạo thêm nguồn lực cho phát triển mỹ

thuật. Đây là những phương thức hoạt động không mới trong lĩnh vực mỹ thuật ở

Việt Nam. Việc thành lập và hoạt động của các quỹ phát triển mỹ thuật mang tính

độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận ở Việt Nam có thể thấy được từ trước đây

thông qua hình thức quỹ của các tổ chức Hội An-nam khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ

nghệ (SADEAL) thành lập tháng 5/1934, v.v. được thành lập với mục đích là “đóng

góp cho sự phát triển nghệ thuật và nghệ thuật ứng dụng, cho nghệ thuật trang trí và

kỹ nghệ ở xứ Đông Dương, phục vụ cho lợi ích các thành viên của Hội và giúp đỡ

họ trong trường hợp bất hạnh. Vì mục đích ấy, Hội tổ chức các kỳ thi với các cấp

tiền thưởng và văn bằng cho người được giải; Hội chấp thuận bảo trợ cho các tác

phẩm phổ biến mang tính chất mỹ thuật và kỹ nghệ” [72, tr.21].

Kinh nghiệm từ một số thị trường mỹ thuật phát triển: Ở Vương quốc Anh,

Quỹ nghệ thuật hằng năm khoảng 900 triệu Bảng Anh, phần lớn đến từ nguồn ngân

sách của Chính phủ thông qua các khoản thu từ xổ số, thuế. Quỹ phân bổ nguồn cho

Hội đồng nghệ thuật (Art Council England), Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao

quyết định tài trợ cho đối tượng được tài trợ từ nguồn tài trợ của. Nhiều ý kiến cho

rằng, nguồn kinh phí đó là hạn chế vì mỗi gia đình chỉ được hưởng 33 bảng Anh

cho một năm. Ở Mỹ - quốc gia không có Bộ Văn hóa, Quỹ Tài trợ quốc gia cho

nghệ thuật (National Endowment for the Arts - NEA) đã huy động được một số tiền

hàng năm do quỹ tư nhân cấp tài trợ cho hoạt động nghệ thuật trung bình từ 60 triệu

USD đã đạt tới 155 triệu USD năm 2019. 85% trong tổng số nguồn tiền đóng góp

cho các hoạt động văn hóa từ các công ty tư nhân và cá nhân ngoài tiền tài trợ từ

liên bang. Trong 3 năm đầu khi mới thành lập, Quỹ này đã dành 2,5 triệu trong tổng

số 20 triệu USD thưởng cho các nghệ sĩ có tác phẩm ưu tú. Ở Trung Quốc - quốc

gia có nhiều nét tương đồng với thể chế chính trị và văn hóa với Việt Nam, Quỹ

nghệ thuật quốc gia (China National Arts Fund - CNAF) là quỹ phi lợi nhuận được

Chính phủ thành lập, với mục đích hỗ trợ phát triển sáng tạo nghệ thuật, quảng bá

các kiệt tác, ươm mầm tài năng nghệ thuật và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của

168

nghệ thuật quốc gia. Nguồn vốn của Quỹ chủ yếu từ nguồn tài chính trung ương

trích lập, kết hợp với tài trợ của cá tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (vùng lãnh

thổ). Hội đồng Quỹ nghệ thuật quốc gia điều hành Quỹ dưới sự chỉ đạo, giám sát

của Bộ Văn hóa và Du lịch và Bộ Tài chính, kinh phí hằng năm được cấp thông qua

Bộ chủ quản. Theo Tân Hoa Xã (Xinhua) ra ngày 5/01/2017 “Chính phủ Trung

Quốc đã chi 1,8 tỷ nhân dân tệ (khoảng 259,7 triệu đô la Mỹ) trong ba năm qua, hỗ

trợ hơn 2.000 dự án nghệ thuật trong nước” [158] một số lượng không nhỏ trong số

đó dành cho mỹ thuật.

Tóm lại, Quỹ hỗ trợ phát triển mỹ thuật đã xuất hiện từ khá sớm ở Việt Nam,

tồn tại trong môi trường của tổ chức tập thể là các Hội, tác động của nó đã thấy

được qua các hoạt động mỹ thuật thời kỳ đó [Xem thêm: Phụ lục 3, tr.202]. Ngày

nay, quỹ nghệ thuật được thành lập và ngày càng trở nên phổ biến dù được vận

hành dưới nhiều quy mô, hình thức khác nhau tại hầu hết các quốc gia, vùng lãnh

thổ trên thế giới có thị trường văn hóa phát triển không phân biệt thể chế chính trị,

kinh tế, .v.v. Từ những điều kiện, thực tế khách quan ở nước ta, cùng với những

nghiên cứu như đã nêu trên, NCS cho rằng, những điều kiện cần và đủ để triển khai

thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển mỹ thuật Việt Nam đã đủ chín muồi. Nhà nước giữ

vai trò định hướng, điều tiết hỗ trợ các hoạt động nghệ thuật trong đó có hội họa có

sự kết hợp nguồn lực xã hội hóa phù hợp vơi xu hướng phát triển chung của xã hội,

đúng với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước để phát huy tối đa nguồn lực trong

sáng tạo nghệ thuật, phát triển kinh tế xây dựng quảng bá hình ảnh quốc gia. Quỹ

mỹ thuật được thành lập và vận hành tốt sẽ là nền tảng, động lực nâng tầm mỹ thuật

ở Việt Nam trên trường quốc tế.

3.2.5. Nâng cao tri thức cho người tiêu thụ tác phẩm hội họa trong nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Tác phẩm hội họa khi tham gia vào hoạt động thị trường trong nền kinh tế thị

trường được nhận diện là hàng hóa, những nhân tố liên quan tới thị trường tác phẩm

hội họa như họa sĩ, người môi giới, người mua bán, v.v. chịu sự điều chỉnh của các

quy định pháp luật khác như Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Luật Chất

lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật Thương mại, v.v. Người tiêu thụ trong nghiên cứu

này là chủ thể hay khách hàng, người tiêu dùng tác phẩm hội họa Việt Nam. Theo

quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng cũng như các bên liên quan tới hoạt động

169

tiêu dùng của người tiêu dùng ở Việt Nam đều phải thực hiện những quy định về

quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức cá nhân kinh doanh

hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức xã hội trong

việc tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; giải quyết những tranh chấp

của người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm

quản lý nhà nước bảo vệ người tiêu dùng. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước

về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và có bộ máy là lực lượng thực thi trách nhiệm

bảo vệ người tiêu dùng từ trung ương tới địa phương như Tổng cục Quản lý thị

trường; Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng trực thuộc Bộ Công thương; các

Cục Quản lý thị trường tỉnh, Đội quản lý thị trường cấp huyện thực hiện chức năng

tham mưu, QLNN và tổ chức thực thi pháp luật về phòng, chống, xử lý các hành vi

kinh doanh hàng hóa nhập lậu, sản xuất buôn bán hàng giả, hàng hóa không rõ

nguồn gốc xuất xứ, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; hành vi vi phạm pháp

luật về chất lượng, đo lường, giá, an toàn thực phẩm; hành vi vi phạm pháp luật về

bảo vệ người tiêu dùng và các hành vi gian lận thương mại theo quy định của pháp

luật, v.v. Ngoài những cơ quan hành chính như đã nêu trên còn có các tổ chức xã

hội của công dân, hoạt động trong lĩnh vực liên quan đến bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng như Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, v.v.

Trong thời gian vừa qua có rất nhiều khiếu nại về hàng hóa nhưng gần như

chưa có vụ việc người tiêu dùng ở Việt Nam khiếu nại, tố cáo hay khởi kiện về

hàng hóa là tác phẩm hội họa hay đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ

chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng như đã

nêu trên xử lý những tranh chấp pháp lý có liên quan tới sản phẩm hàng hội họa.

Những vụ việc khiếu nại có liên quan tới tác phẩm hội họa chủ yếu do các chủ thể

là họa sĩ, tác giả bị xâm phạm quyền tác giả, quyền nhân thân theo quy định của

Luật SHTT. Họ sử dụng phương tiện truyền thông để đưa ra công luận dưới góc độ

phản ánh sự việc, lên án hành vi vi phạm bản quyền về tranh giả, tranh mạo danh,

v.v. nhiều hơn cách nhìn nhận sự việc dưới nhãn quan hàng giả. Kết quả xử lý các

vụ việc vi phạm như vậy của cơ quan có thẩm quyền phần lớn chưa triệt để, khó

thuyết phục và ít có hiệu quả để răn đe ngăn ngừa. Ví dụ, vụ việc đấu giá bức tranh

Con gái nhà văn Dương Thu Hương người vẽ đã mạo danh tên họa sĩ Vũ Giáng

Hương hay bức tranh Trừu tượng của họa sĩ Thành Chương bị làm giả chữ ký mạo

170

danh họa sĩ Tạ Tỵ trong triển lãm Những bức tranh trở về từ châu Âu, v.v. Việc yêu

cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật,

chất lượng, hoặc những nội dung khác mà tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, đã

công bố hay cam kết, v.v. nay đã trở thành những nội dung quen thuộc trong các

khiếu nại của người tiêu dùng khi bộc lộ ở mặt trái của nền kinh tế thị trường nhưng

lại hiếm khi xuất hiện ở thị trường tác phẩm hội họa. Điều đó không phản ánh rằng

hàng hóa là tác phẩm hội họa không thuộc nhóm chịu sự tác động như vậy. Mặc dù,

các vụ việc xâm hại quyền tài sản, quyền SHTT tác phẩm hội họa không còn ở mức

chuyển thể hay chép, nhái tranh để biến đổi thành tranh khác, với tính chất nhỏ lẻ, ít

giá trị mà đã lan rộng tới các hoạt động và sản phẩm thương mại thuần tính chất

công nghiệp khác với giá trị kinh tế không nhỏ như sử dụng tác phẩm, một phần tác

phẩm in trên áo phông, áo dài, túi sách, v.v.

Hiện nay, nhiều người Việt Nam có thu nhập trung bình cao theo cách tính

của Ngân hàng thế giới (World Bank), đặc biệt ở các thành phố lớn và họ đã trở

thành khách hàng tiềm năng tiêu thụ tác phẩm hội họa của thị trường nội địa. Tuy

nhiên, phần lớn người tiêu dùng ở thị trường nội địa này chưa được trang bị và được

bảo vệ đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của mình và hầu như ít biết đến 8 quyền của

người tiêu dùng được quy định tại Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi của người tiêu

dùng nên khá dễ dãi khi mua hàng hóa cho dù hàng hóa là tác phẩm hội họa. Ví dụ,

việc người tiêu dùng không được thông tin đầy đủ về tác phẩm hội họa mà họ mua,

kể cả việc mua từ nhà đấu giá này hay gallery kia. Khoản 1 Điều 4 Nguyên tắc bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nêu: “Bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xã hội”. Vì vậy,

tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật là điều kiện tiên quyết nhưng việc nâng cao

tri thức cho người tiêu thụ tác phẩm hội họa là việc làm hết sức cần thiết để nâng

cao tri thức, nâng cao sự hiểu biết một cách có hệ thống kiến thức về hội họa để

người tiêu thụ có thể tự bảo vệ mình là việc làm được coi trọng hàng đầu cho người

tiêu thụ tác phẩm hội họa khi tham gia vào hoạt động thị trường cũng như phát triển

và hoàn thiện thị trường. Điều 9 nghĩa vụ của Người tiêu dùng cũng phải có trách

nhiệm kiểm tra hàng hóa trước khi nhận; lựa chọn hàng hóa, dịch vụ có nguồn gốc,

xuất xứ rõ ràng, v.v. và có thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên

171

quan khi phát hiện hàng hóa, dịch vụ không theo công bố, v.v. hay xâm hại đến

quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

“Có tiền và học cách tiêu tiền” là câu nói khá quen thuộc của nhiều người

Việt Nam, ứng vào hoạt động thị trường tác phẩm hội họa có nghĩa là mua tranh hội

họa của họa sĩ nào, trường phái gì, kích thước như thế nào rồi sẽ trưng bày sử dụng

ra sao phải hợp lý, phù hợp với điều kiện của mình và quan trọng phải thể hiện được

người mua là người có văn hóa, am hiểu về nghệ thuật hay không trong khi văn hóa

kinh doanh và văn hóa xem và mua tranh ở Việt Nam còn chưa được định hình rõ

ràng thì người tiêu dùng phải luôn biết tự bảo vệ mình bằng cách mua hàng hóa hội

họa phải lấy hợp đồng như lấy phiếu mua hàng hóa công nghiệp thông thường để có

cam kết bảo đảm, khi phát sinh vấn đề còn có cơ sở để giải quyết phân định.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội XII của Đảng, từ thực tiễn công

cuộc đổi mới đã rút ra một số bài học kinh nghiệm trong đó xác định: “Nhân dân là

trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [32,

tr.96]. Vì vậy, nhìn ở giác độ thị trường tác phẩm hội họa việc nâng cao tri thức cho

người tiêu dùng, người thụ hưởng kiến thức pháp luật, tiêu dùng cũng chính là nâng

cao sự hiểu biết, dân trí sự hưởng thụ là điều kiện tiên quyết để phát triển. Tuy

nhiên, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ ra: việc “chỉ đạo và tổ chức thực

hiện vẫn luôn là khâu yếu, chậm khắc phục; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ

trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ, làm cho pháp

luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp” [32, tr.94]. Theo NCS, để

đạt được hiệu quả cao cần có sự vào cuộc một cách đồng bộ, quyết liệt của toàn thể

xã hội nhưng nâng cao năng lực, nhận thức đúng đắn về chức năng, nhiệm vụ từ

những người làm công tác quản lý, thực thi pháp luật phải được đặt ở vị trí tiên

phong. Giải quyết nghiêm những vụ việc vi phạm không phân biệt lớn, nhỏ theo

quy định của pháp luật.

Tiểu kết

Thị trường hội họa hiện đại ở Việt Nam kể từ những buổi ban đầu, khi sơ

khởi việc hình thành thị trường bắt đầu bởi các họa sĩ Trường Cao đẳng MTĐD cho

tới nay cũng đã có lịch sử gần thế kỷ. Ngày nay, những tác phẩm hội họa Việt Nam

hiện đại đắt giá nhất trên thị trường quốc tế công khai đều là của các họa sĩ MTĐD.

172

Khi tác phẩm hội họa trở thành những món hàng có giá trị kinh tế lớn, tác động

nhiều đến hoạt động thị trường từ đó làm phát sinh nhiều vấn đề như sở hữu, tranh

chấp pháp lý về bản quyền, v.v. Gallery, các hoạt động thị trường mua bán tác phẩm

hội họa đã trở lại và bùng nổ từ gần 30 năm về trước, nay đã bổ sung thêm cho thị

trường những hình thức mới nhưng hoạt động manh mún tự phát, thiếu lành mạnh

vẫn tiếp diễn do những khoảng trống pháp lý, những chính sách hỗ trợ nên chưa

được cải thiện được môi trường đầu tư, tiêu dùng. Nhận thức và đăng ký tác quyền

hội họa của các chủ thể còn nhiều hạn chế, chưa phổ biến. Nhiều nghi vấn để từ

quan ngại dẫn đến lùm xùm về tác quyền mà hệ lụy của nó đã góp phần tạo nên sự

thờ ơ dẫn đến vắng bóng những tác phẩm hội họa Việt Nam ở những thị trường

hàng đầu Đông Nam Á, cũng như trong phiên đấu giá tác phẩm mỹ thuật quốc tế

trong thời gian qua. Nâng cao vai trò của cơ quan QLNN, thành lập các trung tâm

hỗ trợ các vấn đề về pháp lý cho thị trường, hoàn thiện các chính sách (đặc biệt là

chính sách thuế) bên cạnh việc truyền thông, giáo dục nâng cao tri thức thẩm mỹ

cho công chúng tiếp nhận, tiêu thụ chưa trở thành giải pháp khả thi, hữu hiệu nên

chưa xây dựng được thị trường nội địa một cách lành mạnh, bền vững.

Thị trường tác phẩm hội họa cũng thay đổi khi kinh tế - xã hội Việt Nam đã

chuyển mình phát triển ở vị thế mới và “tạo ra một hệ sinh thái mới”, về cơ bản đã

khác toàn diện so với những năm đầu của thời kỳ tiền Đổi Mới. Nhiều họa sĩ,

gallery, nhà môi giới, v.v. đều sử dụng công nghệ, môi trường truyền thông, môi

trường số để tác nghiệp đưa hội họa đến với công chúng. Nâng cao kiến thức cho

các chủ thể, hoàn thiện vai trò QLNN sẽ là yếu tố then chốt hoàn thiện thị trường,

phát triển CNVH lĩnh vực hội họa.

173

KẾT LUẬN

Luận án được tác giả nghiên cứu một số vấn đề về hội họa từ góc nhìn về thị

trường tác phẩm hội họa Việt Nam. Công trình được đúc rút kết quả quá trình

nghiên cứu, điền dã, thâm nhập trải nghiệm thực tế hoạt động ở các góc nhìn khác

nhau trong lĩnh vực mỹ thuật của tác giả từ năm 1992 đến nay và được sắp xếp lại

trong một môi trường mới - môi trường khoa học nhờ có sự dẫn dắt, giúp đỡ, điều

chỉnh theo cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu của các giáo sư, nhà khoa học,

nhà nghiên cứu và đồng nghiệp. Mặc dù, một số nội dung dữ liệu của đề tài khi

được tiếp tục nghiên cứu sẽ sâu sắc, hoàn thiện hơn và sẽ mở ra những cánh cửa

mới cho việc nghiên cứu khác nhưng qua bước đầu tìm hiểu nghiên cứu trước luận

án, theo tiến trình lịch sử của các công trình nghiên cứu với những lý thuyết cơ bản

có tính liên thông, những giai đoạn phát triển của tác phẩm hội họa và thị trường

của nó ở trong và ngoài nước. Từ sự tiếp thu thành tựu của nhiều thế hệ các nhà

nghiên cứu, nhìn lại các công trình, NCS nhận thấy một số vấn đề sau:

Những công trình nghiên cứu về MTVN có số lượng khá đồ sộ, nhưng

những nghiên cứu về thị trường tác phẩm hội họa còn quá ít ỏi, đa phần chỉ mô tả

nhận diện về hội họa hay sơ lược bằng hình ảnh, phần văn thường ngắn gọn, ít làm

nổi bật được những giá trị có liên quan khác và số liệu kèm theo đôi khi chỉ là thông

tin rất ngắn gọn hoặc chung chung làm cho sự thiếu hụt tư liệu về thị trường tác

phẩm hội họa không được thu ngắn lại bên cạnh những khoảng trống không nhỏ

trong hệ thống nghiên cứu, phê bình về hội họa hiện đại.

Hội họa xuất hiện từ thời nhà nước quân chủ tại Việt Nam và thị trường tác

phẩm hội họa Việt Nam đã sơ khởi hình thành kể từ khi các họa sĩ MTĐD tham gia

vào các cuộc trưng bày, đấu xảo nên Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam từ năm

1986 đến nay thực chất chỉ là sự trở lại của thị trường trong một hoàn cảnh mới.

Hơn 1/3 thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày mở cửa Đổi Mới, 15 năm Luật SHTT được

thực thi tại Việt Nam, số lượng họa sĩ tăng nhanh, công chúng tiếp nhận, tiêu dùng

tác phẩm hội họa cũng không còn là điều xa lạ trong đời sống bình thường của xã

hội. Những hoạt động trưng bày triển lãm và mua bán tranh trở nên sôi động khiến

cho số lượng gallery, phòng tranh tăng nhanh. Tác phẩm hội họa trở thành hàng hóa

trong nhãn quan người tiêu dùng và thị trường tác phẩm hội họa làm thay đổi không

174

chỉ diện mạo của mỹ thuật Việt Nam hiện đại mà còn tác động đến nhiều mặt của

đời sống, kinh tế - xã hội.

Sự ra đời của các nhà đấu giá nội ở Việt Nam đánh dấu cho bước chuyển

sang thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam theo hình thức thứ cấp, công khai, trực

tuyến, v.v. Lợi nhuận từ người bán tác phẩm hội họa Việt Nam ở thị trường thứ cấp

ngày càng lớn nhưng các nghệ sĩ hiếm khi được hưởng lợi từ những tác phẩm đã

bán ở thị trường sơ cấp. Lý lịch, giá tiền của nhiều tác phẩm hội họa được giao dịch

trên thị trường thường là điều bí ẩn, mơ hồ nên không hỗ trợ cho việc sáng tác của

họa sĩ, đồng thời cũng không làm cho nhà đầu tư yên tâm khi xem xét về mức độ rủi

ro và khả năng sinh lời của tác phẩm sẽ mang lại. Đây là một trong những điểm yếu

của thị trường được tác giả dành thời gian nghiên cứu, phân tích, đánh giá để làm rõ

một số vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật - tiền bạc, tác động bản quyền tác giả

trong hoạt động thị trường đã tác động đến chủ thể sáng tạo như thế nào; những bất

cập trong việc quản lý, đào tạo nguồn nhân lực, trung gian, của những chính sách

thuế và sự rời rạc của các thiết chế cản trở sự phát triển thị trường tác phẩm hội họa.

Tác động của internet, công nghệ số và toàn cầu hóa cùng những tồn tại có

liên quan tới tác quyền hội họa góp phần làm dày thêm những nghi vấn, quan ngại

về nguồn gốc, xuất xứ trở thành một trong những lý do dẫn đến sự vắng bóng tác

phẩm hội họa Việt Nam hiện đại ở những thị trường mỹ thuật quốc tế. Chưa có một

tổ chức thực sự chuyên nghiệp bảo vệ tác quyền, phân tích đánh giá thị trường,

giám định tác phẩm hội họa. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa hoàn thiện,

đồng bộ bộc lộ những khuyết trống về pháp lý, cơ chế chính sách cho việc phát

triển. Thiếu nguồn nhân lực trong các “mắt xích” để vận hành nền CNVH lĩnh vực

hội họa. Nâng cao vai trò của cơ quan QLNN, thành lập các trung tâm hỗ trợ các

vấn đề về pháp lý cho hoạt động thị trường, hoàn thiện chính sách bên cạnh việc

truyền thông, giáo dục nâng cao tri thức thẩm mỹ cho công chúng tiếp nhận, tiêu

dùng sẽ trở thành giải pháp khả thi, hiệu quả để xây dựng được thị trường nội địa

một cách lành mạnh, bền vững trở thành yếu tố then chốt hoàn thiện thị trường, phát

triển CNVH. Nhiều tác phẩm hội họa của các họa sĩ MTĐD đến nay đã trở thành

tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất trên thị trường quốc tế nhưng điều đó chưa làm

cho thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam phát triển ổn định hơn. Tác phẩm hội

họa, nơi mua bán, tác quyền và quyền liên quan là những vấn đề thuộc những phạm

175

trù khác nhau, được xâu chuỗi lại trong luận án từ những vấn đề rời rạc của lĩnh vực

có vị trí độc lập: nghệ thuật - kinh tế - bản quyền. Tuy khác nhau nhưng lại là những

yếu tố then chốt có tính đan cài, ràng buộc liên quan chặt chẽ trong việc nghiên cứu

phát triển thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam được tác giả đề cập một cách hệ

thống, chuyên sâu trong đề tài này. Những số liệu chi tiết về thị trường tác phẩm hội

họa như số lượng tranh của các họa sĩ MTĐD hiện đang được lưu trữ tại Việt Nam,

ra nước ngoài, gallery, số lượng phân bổ họa sĩ chuyên nghiệp, không chuyên

nghiệp, nguồn nhân lực là họa sĩ hằng năm ra trường đã được dùng để chứng minh

những luận điểm một cách cụ thể cùng những nghiên cứu tập trung để trám vào

những khoảng trống chưa được nhiều nhà nghiên cứu đi trước chú trọng đến nên

chưa thể xử lý được toàn diện trong khuôn khổ có phần hạn chế của Luận án mà chỉ

đáp ứng được những vấn đề khái quát cơ bản.

Để có một thị trường tác phẩm mỹ thuật, hội họa Việt Nam phát triển hội

nhập với quốc tế, CNVH cần có một cấu trúc mới, vận hành khoa học và minh bạch

hơn. Nhiều giải pháp đã được tác giả nghiên cứu, đề xuất trong đó có quyền tác giả

được hưởng trong việc bán lại tác phẩm của mình ngoài thị trường sẽ làm tôn vinh

sự đóng góp của họ đối với giá trị của một tác phẩm và sẽ giúp họ thiết lập mối liên

kết lâu dài với nó, đồng thời cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc của các tác

phẩm nghệ thuật và tính minh bạch của thị trường nghệ thuật đã được toàn cầu hóa.

Bởi văn hóa nghệ thuật không chỉ là nhân tố nội sinh thúc đẩy sự phát triển, hoàn

thiện nhân cách con người Việt Nam mà còn là yếu tố tạo ra động lực thúc đẩy việc

tái cấu trúc nền kinh tế, góp phần ổn định chính trị, an toàn xã hội, phát triển bền

vững đất nước. Thị trường tác phẩm hội họa là một hiện tượng xã hội văn hóa, tác

phẩm hội họa là thành tố cấu thành nên văn hóa của Việt Nam hiện đại cũng như

của nhân loại ngày nay. Theo Randall White nền mỹ thuật ngày nay được xác định

bằng thị trường mỹ thuật nhưng những gì diễn ra trên thị trường tác phẩm hội họa

Việt Nam chưa phản ánh đúng để nhận diện được nền hội họa Việt Nam hiện đại.

Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam từ năm 1986 đến nay không phải là một thị

trường mới được sinh ra từ sau ngày Đổi Mới mà chỉ là sự trở lại một cách tưng

bừng và mạnh mẽ hơn trước bởi tiếp nối từ những khai mở thành công từ nửa thế kỷ

đã trôi về quá khứ của các họa sĩ MTĐD và sau sự gián đoạn làm dồn nén hoạt

động thị trường kéo dài hơn 1/3 thế kỷ trong các cuộc chiến tranh. Thị trường tác

176

phẩm hội họa Việt Nam ngày nay là một thị trường thị trường hàng hóa văn hóa

phản ánh đầy đủ hơn so với chính nó ở những giai đoạn trước khi những yếu tố cơ

bản như: cung cầu, giá cả, chất lượng, dịch vụ, v.v. đều có yếu tố công nghệ hay

những tác động bởi các biến đổi môi trường ở một giai đoạn đầy ắp những đổi thay

của xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước.

Luận án Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam từ năm 1986 đến nay là một

tập hợp các kết quả của quá trình điền dã khảo sát, trao đổi phỏng vấn, nghiên cứu,

phân tích tổng hợp dữ liệu ở những phương pháp tiếp cận, ở những góc nhìn, những

vai trò khác nhau của người nghiên cứu như: đồng nghiệp, trung gian, quản lý khi

tiếp xúc, gặp gỡ với các họa sĩ, người bán tranh tại các gallery, phòng tranh hay nhà

sưu tập, v.v. để hoàn thiện công trình nghiên cứu về thị trường tác phẩm hội họa

Việt Nam hiện đại và việc tiếp nối các thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước

tạo tiền đề để làm sáng tỏ, sâu sắc hơn những vấn đề về hàng hóa văn hóa là tác

phẩm hội họa - hàng hóa không có sản phẩm thay thế; hội họa - tiền bạc với sự tác

động, biến động trong môi trường số; vai trò quản lý nhà nước, tổ chức đại diện tập

thể về quyền tác giả, cơ chế ưu đãi cho sáng tạo và phát triển, v.v. qua đó tìm ra

những giải pháp phát triển thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu là sự bổ khuyết cho một mảng ghép còn thiếu trong toàn

cảnh bức tranh nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Từ kết quả của luận án

cho thấy, thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc

với những giải pháp đồng bộ, quản lý nhà nước phát huy đúng vai trò sẽ đạt mục

tiêu Chiến lược công nghiệp văn hóa, trở thành một thị trường phát triển vươn tầm

thế giới. Trong phạm vi của luận án này, nghiên cứu sinh đã nêu ra những phiến

diện khi luận giải dẫn đến sai lầm trong nhận định như vai trò của chủ thể, của

nghiên cứu phê bình, vấn đề về bản quyền, v.v. nêu ra một số giải pháp từ kinh

nghiệm quốc tế của khu vực và thế giới nhằm rút ra bài học hữu ích cho sự phát

triển thị trường tác phẩm hội họa ở Việt Nam. Luận án có thể làm cơ sở cho nghiên

cứu tiếp theo về thị trường nghệ thuật Việt Nam đương đại để tiếp tục đóng góp vào

sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, kinh tế - xã hội; thực hiện thành công

Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, quảng bá cho hình ảnh đất

nước, con người Việt Nam và trở thành một viên gạch góp phần xây dựng nên một

công trình hùng vĩ - nền mỹ thuật Việt Nam./.

177

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG

BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Đỗ Quốc Việt, Nguyễn Thị Thu Hương (2015), Un musée et des collections

vietnamniennes en contexte de mondeialisation (Một bảo tàng và những bộ sưu tập

của người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa), Presses Universitaires de Rennes

(Ấn phẩm của nhà xuất bản Đại học Rennes) do Caroline Herberlin, Béatrice

Wisnewski & Francoise Dalex thực hiện, Art du Vietnam (Nghệ thuật Việt Nam), tr.

217-222.

2. Đỗ Quốc Việt (2020), Xây dựng thị trường mỹ thuật nội địa từ việc tạo lập văn hóa

xem tranh trong cộng đồng, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 435, tr. 76-80.

3. Đỗ Quốc Việt (2020), Gallery và thị trường tranh ở Việt Nam, Tạp chí Văn hóa Nghệ

thuật, số 440, tr. 61-64.

178

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Chí Anh (2013), “Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn đồ”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học,

số 2, tr.16 - 20.

2. Hoàng Anh (1998), “Mối quan hệ thương mại giữa Gallery - họa sĩ - thị trường”,

Tạp chí Mỹ thuật thời nay, số 18, tr.32-34.

3. Hoàng Anh (2015), “Bán tranh Việt Nam ra nước ngoài”, Tạp chí Mỹ thuật, số

275-276, tr.10 - 14.

4. Phạm Tuấn Anh (chủ biên và cộng sự) (2011), Quản lý nhà nước về sở hữu trí

tuệ, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.

5. Thùy Ân (2016), “Với vấn nạn tranh giả - pháp luật của chúng ta hết sức lỏng

lẻo”, Báo Lao động, số 161, tr.6.

6. Tạ Quang Bạo (2014) Điêu khắc Tạ Quang Bạo, Nxb Mỹ thuật, H.

7. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2006), Văn hóa Việt Nam, mấy vấn đề lý luận và

thực tiễn, Nxb Văn hóa Thông tin, H.

8. Bernice Chan (1998), “Giai đoạn khởi sắc của Hội họa Việt Nam”, Lê Đào dịch

theo HK Life, 2.11.1997, Tạp chí Mỹ thuật thời nay, số 19, tr.42 - 44.

9. Bộ Văn hóa - Thông tin (2003) Tuyển tập Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, Nxb

Văn hóa Thông tin, H.

10. Nguyễn Tiến Cảnh (chủ biên) (1992), Mỹ thuật Huế, Xí nghiệp in Thừa Thiên

Huế, Thừa Thiên Huế.

11. Nguyễn Du Chi (2001), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Nxb Mỹ thuật, H.

12. Nguyễn Trọng Chuẩn (2017), Văn hóa và sự phát triển bền vững đất nước trong

bối cảnh biến đổi toàn cầu, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,

Tạp chí Xã hội học, số 2 (138), tr.9 - 15.

13. Claude Mahoudot (1943), Nền hội họa Pháp ảnh hưởng ở Đông Dương, Tạp chí

L’Indochine, No 171 ngày 9/12/1943.

14. Trần Khánh Chương (2012), Mỹ thuật Hà Nội thế kỷ XX, Nxb Mỹ thuật, H.

15. Trần Khánh Chương (chủ biên) (2017), Hội Mỹ thuật Việt Nam 60 năm xây

dựng và phát triển, Nxb Mỹ thuật, H.

16. Thạch Chương (1960), “Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật”, Tạp

chí Sáng tạo, số 5 (11/1960), tr.97 - 102.

179

17. Corinne de Ménonville (1998), “Cuộc phiêu lưu của nghệ thuật hiện đại Việt

Nam”, Tạp chí Mỹ thuật thời nay, số 19, tr.39 - 41.

18. Cục Bản quyền tác giả (2013), Học hỏi quá khứ, sáng tạo tương lai: Nghệ thuật

và quyền tác giả.

19. Cục Bản quyền tác giả (2013), Từ nghệ sĩ đến công chúng (sách in nội bộ).

20. Cục Sở hữu trí tuệ (2013), Tài liệu tập huấn về sở hữu trí tuệ dành cho cán bộ quản

lý sở hữu trí tuệ của các cơ quan nhà nước, Nxb Khoa học Kỹ thuật, H.

21. Nguyễn Đỗ Cung (1944), “Cái ‘hiếm’ có đáng quý không”, Báo Thanh Nghị số

90 (11/1944), tr.7.

22. Nguyễn Đỗ Cung (1993), Bàn về mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật, H.

23. Trịnh Cung (2010), Mỹ thuật Việt Nam - Những vấn đề xoay quanh, Nxb Cửa

California, Mỹ.

24. Hoa Cương (1997), “Có một gallery… như thế”, Tạp chí Mỹ thuật thời nay, số

14, tr.29 - 30.

25. Đinh Cường (1993), “Nguyễn Gia Trí người họa sĩ đã nhìn ra cái khả năng kỳ

diệu của sơn mài”, Tạp chí Thế Kỷ 21 số 53 (9/1993), tr.30 – 34.

26. Đinh Cường (2015), Đi vào cõi tạo hình, Nxb Văn Mới, California, Mỹ.

27. Phạm Đức Cường (2003) Kỹ thuật sơn mài, Nxb Văn hóa Thông tin, H.

28. Cynthia Freeland (2009), Thế mà là nghệ thuật ư?, Như Huy dịch, Nxb Tri thức, H.

29. Nguyễn Văn Dân (2006), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa,

Nxb Sự thật, H.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ X, Nxb

Chính trị quốc gia sự thật, H.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7 (1940 - 1945),

Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H.

34. David Begg và các cộng sự (2007), Kinh tế học, Biên dịch: nhóm dịch giảng

viên Khoa Kinh tế học Đại học Kinh tế quốc dân, phiên bản thứ 8,

Nxb Thống kê, H.

180

35. Nguyễn Đình Đăng (2018), Kỹ thuật sơn dầu, Nxb Dân Trí, H.

36. Nguyễn Quốc Định (biên soạn) (2019), Tạ Tỵ dấu ấn sáng tạo, Nxb Hội Nhà văn, H.

37. Lê Thanh Đức (2003), Nghệ thuật Môđéc và Hậu Môđéc, Nxb Mỹ thuật, H.

38. Francis Gurry (2008), Thông điệp của Tổng giám đốc WIPO năm 2008.

39. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (2012), Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến

trình hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, H.

40. Trường Giang (1957), “Các cuộc triển lãm hội họa ở Sài Gòn”, Tạp chí Sáng

tạo, số 15 (12/1957), tr. 54-55.

41. Nguyễn Lương Hiệu (1998), “Tranh Việt Nam có thị trường trên thế giới?”,

Tạp chí Mỹ thuật thời nay, số 19, tr.45-46.

42. Võ Thị Hoa (2019), “Thực tiễn nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh

tế và văn hóa ở nước ta trong hơn 30 năm đổi mới”, Tạp chí Cộng sản,

số 927, tr.44-48.

43. Tô Hoài (2017), Cát bụi chân ai, tái bản lần 2, Nxb Hội Nhà văn, H.

44. Vũ Ngọc Hoan (2009), “Một số ý kiến về bảo hộ quyền tác phẩm mỹ thuật tại

Việt Nam”, Hội thảo Tăng cường Quản lý và thực thi bảo hộ bản

quyền tác giả, Bộ VHTTDL tổ chức năm 2009 tại Đà Nẵng.

45. Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.

46. Nguyễn Phi Hoanh biên dịch (1978) Một số nền mỹ thuật thế giới, Nxb Văn hóa, H.

47. Nguyễn Thị Thu Hòa và cộng sự (2018) Dòng tranh dân gian Kim Hoàng, Nxb

Thế giới, H.

48. Hội Mỹ thuật Việt Nam (2018), 70 năm mỹ thuật Việt Nam (1945 - 2015), Nxb

Mỹ thuật, H.

49. Nguyễn Hùng (1997), “Gallery không chỉ là chuyện mua bán”, Tạp chí Mỹ

thuật thời nay, số 14, tr.26 - 28.

50. Đinh Sơn Hùng, Trương Thị Hiền (2020), Những vấn đề cơ bản của các lý

thuyết kinh tế, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.

51. Uyên Huy (2011), Một thoáng cái tôi, Nxb Mỹ thuật, H.

52. Bùi Như Hương, Phạm Trung (2013), Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990 -

2010, Nxb Tri thức, H.

53. Jean Tardieu (1997), Thư Hà Nội gửi Roger Martin du Gard và Jacques

Heurgon, Đặng Thị Hạnh dịch, tái bản bổ sung 2006, Nxb Phụ nữ, H.

181

54. Jens Otterbech (1997), Hội hoạ Việt Nam đương đại (Hội họa Việt Nam đương

đại do Trương Hạnh chịu trách nhiệm xuất bản), Nxb Mỹ thuật, H.

55. Phan Ngọc Khuê (2001), Tranh đạo giáo Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, H.

56. Nguyễn Văn Kiêu, Trần Tiến (1993), Tổng thuật Chính sách văn hóa của một

số nước trên thế giới, Nxb Văn hóa - Thông tin, H.

57. Phạm Công Luận (2016), Sài Gòn chuyện đời của phố V, tái bản lần 4, Nxb Hội

Nhà văn, H.

58. Phạm Luận (2014), Pham Luan, Nxb Mỹ thuật, H.

59. Maurice Durand (1960), Tranh dân gian Việt Nam, dịch và giới thiệu: Nguyễn

Thị Hiệp, Olivier Tessier, tái bản 2017, Nxb Văn hóa, Văn nghệ,

Tp.HCM.

60. Nguyễn Nam (biên khảo) (2012), “Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ, Bóng hình để

lại”, Đặc san Suối nguồn, số 7, biên khảo, Nxb Hồng Đức, Tp.HCM.

61. Natalia Kraevskaia (2005), Từ hoài cổ hướng sang miền đất mới, Nxb Kim

Đồng, H.

62. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, Nxb

Giáo dục, H.

63. Lucy Nguyễn (2017), “Nghi vấn tranh Việt giả đấu giá tại nước ngoài”, Báo

Thanh niên, số 275, tr.18.

64. Lưu Công Nhân (1995), Lưu Công Nhân, Nxb. Mỹ thuật, H.

65. Hà Nhì (2018), “Giả thì bảo thật Thật thì bảo giả Sự thật ở đâu?”, Tạp chí Mỹ

thuật, số 307&308, tr.81 - 83.

66. Nhiều tác giả (1697), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển VI, dịch

giả: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H.

67. Nhiều tác giả (1996), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, H.

68. Nguyễn Đức Nùng (1978), Mỹ thuật thời Lê Sơ, Nxb Văn hóa, H.

69. Mai Hải Oanh (2011), Quan hệ giữa xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế ở

nước ta hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, H.

70. Pham Thị Kim Oanh (2018), Bảo hộ quyền tác giả tác phẩm tạo hình, mỹ thuật

ứng dụng – nhìn từ khía cạnh pháp lý và thực tiễn, Cục Bản quyền tác giả.

71. Alan Phan (2014), Một tư duy khác về kinh tế xã hội Việt Nam, Nxb Văn hóa

dân tộc, H.

182

72. Quang Phòng, Quang Việt (2015), Trường Mỹ thuật Đông Dương lịch sử và

nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật, H.

73. Hà Phương (2014), “Mỹ thuật buồn tẻ vì thiếu thị trường”, Báo Văn hóa, số

2466, tr.10.

74. Nguyễn Thị Thu Phương (2016), Cải cách thể chế văn hóa Trung Quốc từ năm

1978 đến nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (103), tr.86-96.

75. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb Mỹ

thuật, H.

76. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1991), Mỹ thuật ở làng, Nxb Mỹ thuật, H.

77. Nguyễn Quân (2006), Ngôn ngữ của hình và màu sắc, Nxb Văn hóa Thông tin, H.

78. Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Tri thức, H.

79. Nguyễn Quân (2015), “Gây dựng thị trường mỹ thuật Việt Nam hiện nay?”,

Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số 7/2014, tr. 2-7.

80. Nguyễn Hữu Quỳnh, Đỗ Huy Lân, Trần Đức Hậu (1998), Đại Từ điển Kinh tế

thị trường, Nxb Từ điển Bách khoa, H.

81. Sam Hunter (Năng An dịch, 1998) Những trào lưu lớn của Nghệ thuật tạo hình

hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin, H.

82. Đào Xuân Sâm, Vũ Quốc Tuấn (chủ biên) (2008), Đổi mới ở Việt Nam: Nhớ lại

và suy ngẫm, Nxb Tri thức, H.

83. Bùi Hoài Sơn (2006), Ảnh hưởng của Internet với thanh niên Hà Nội, Nxb

Khoa học xã hội, H.

84. Sarath Thornton (2016), Bảy ngày trong thế giới nghệ thuật, Nguyễn Như Huy

dịch, Nxb Văn học, H.

85. Phùng Trung Tập (2005), Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ, Nxb Tư pháp, H.

86. Vi Kiến Thành (chủ nhiệm đề tài) (2016), Quản lý Nhà nước về thị trường mỹ

thuật trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

87. Ca Lê Thắng (1992), “Gallery thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Mỹ thuật của

Hội Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.31 - 33.

88. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản lần 2), Nxb Giáo dục, H.

89. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, H.

183

90. Thomas L. Friedman (2016), Chiếc Lexus và cây ô liu, Lê Minh dịch, Nxb Thế

giới, H.

91. Vũ Huy Thông (2010), “Sao chép là sáng tạo?”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật

Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam – Viện Mỹ thuật, số 2(34), tr.36 - 41.

92. Đặng Hoài Thu, Phạm Bích Huyền (2009), Giáo trình các ngành công nghiệp

văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.

93. Phan Cẩm Thượng (2015), Hội họa Việt Nam một diện mạo khác, Nxb Thế giới, H.

94. Phan Cẩm Thượng (2011), Nghệ thuật ngày thường, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

95. Nguyễn Đức Tiến (2016), Đi học cách đầu tư tác phẩm nghệ thuật, Tạp chí Mỹ

thuật, số 277 & 278, tr.52 - 53.

96. Nguyễn Văn Tình (2009), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn thiện

chính sách văn hóa ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.

97. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (2005), Những điều cần biết về sở hữu trí

tuệ, Cục Sở hữu trí tuệ (2008, Quyền tác giả đối với bản tiếng Việt).

98. Đào Mai Trang (2014), Nghệ thuật và tài năng, Nxb Phụ nữ, H.

99. Đào Mai Trang (2014), Họa sĩ kháng chiến, Nxb Phụ nữ, H.

100. Huỳnh Ngọc Trảng (1995), Mỹ thuật châu Á, Nxb Mỹ thuật, H.

101. Đặng Ngọc Trân (2000), Cấu trúc hội họa, Nxb Mỹ thuật. H.

102. Phạm Quang Trung (2001), “Phê bình mỹ thuật Việt Nam hiện nay Những vấn

đề cần quan tâm”, Tạp chí Mỹ thuật, số 38, tr.14 - 16.

103. Chu Quang Trứ (2001), Mỹ thuật Lý Trần, mỹ thuật Phật Giáo, Nxb Mỹ thuật, H.

104. Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, H.

105. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Viện Mỹ thuật (2005), Mỹ thuật Việt Nam

hiện đại, Cục Xuất bản cho phép xuất bản, H.

106. Nguyễn Tuân (1940), Vang bóng một thời, Nxb Văn học, H.

107. Vũ Viết Tuân (2015), “Thị trường mỹ thuật: “Giấc mơ hão huyền”?”, Báo

Tuổi trẻ, số 31, tr. 16.

108. Trần Hậu Tuấn (2000), “Gallery và thị trường mỹ thuật”, Tạp chí Văn hóa

Nghệ thuật, số 196, tr. 76-78.

109. Trần Hậu Tuấn (2005), Sưu tập Trần Hậu Tuấn, Nxb Văn hóa Sài Gòn,

Tp.HCM.

184

110. Thái Tuấn (1956), “Một vài nhận xét về nghệ thuật hội họa”, Tạp chí Sáng

tạo, số 1 (10-1956), tr. 36 – 43.

111. Dương Tường (1997), “Mỹ thuật Việt Nam đổi mới” (Hội họa Việt Nam

đương đại do Trương Hạnh chịu trách nhiệm xuất bản), Nxb Mỹ

thuật, H.

112. Dương Tường (2010), Chỉ tại con chích chòe, Nxb Kim Đồng, H.

113. Thái Bá Vân (1997), Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật Việt Nam, H.

114. Viện Goethe Hà Nội (2010), Hà Nội một thành phố trong nghệ thuật, Năm

Đức tại Việt Nam, Viện Goethe Hà Nội xuất bản, H.

115. Viện Mỹ thuật - Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (2007), 20 năm Mỹ thuật

Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986 - 2006, Nxb Mỹ thuật, H.

116. Quang Việt (1998), “Một mảng trích từ thị trường tranh Việt Nam”, Tạp chí

Mỹ thuật thời nay, số 18, tr.40 - 42.

117. Quang Việt (2017), Nguyễn Sáng, Nxb Mỹ thuật, H.

118. Quang Việt (2016), “Họa sĩ, Tranh và chuyện bán tranh thời bao cấp”, Tạp chí

Mỹ thuật, số 277 & 278, tr.18 - 22.

119. Trịnh Quang Vũ (2002), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, H.

120. Tô Thùy Yên (số 27/1958), “Để phục hồi hội họa”, Tạp chí Sáng tạo, số 27

(12/1958), tr.68 - 71.

121. Nguyễn Hải Yến (2013), Hội họa Hà Nội Những ký ức còn lại, PICTURE Art

Foundation xuất bản, HK, China.

Tài liệu tiếng nước ngoài

122. Bradford Edwards 2003), “A Muscular Art” (Một nền nghệ thuật khỏe mạnh),

Asian Art News, volume 13 Number 1 /2003, tr. 31 - 33

123. Corrine de Ménonville (2003), La peinture vietnamienne, une aventure entre

tradition et modernité (Hội họa Việt Nam, cuộc phiêu lưu giữa truyền

thống và hiện đại), ARHIS – Paris, French.

124. David Throsby (2001), Economics and Culture, Cambridge University, UK.

125. Eric Schmidt Jared Cohen (2013), The New Digital Age (Kỷ nguyên số), First

Published in Great Britain, by John Murray (Publishers), UK.

126. Henri Orge (1909), Technique du peuple Annamite (Kỹ thuật của người An

Nam), (tác giả tự xuất bản).

185

127. Hoan Quan Vuong and patners (2018), Paintings Can Be Forged, But Not

Feeling, available at: https://www.mdpi.com/2076-0752/7/4/62/htm,

Arts, Published by MDPI, (accessed on 10 March 2021).

128. Katherin Noppe, Jean-François Hubert (2018), Die Kunst Vietnams (Mỹ thuật

Việt Nam), Publisher: Parkstone International.

129. Lisa Bixenstine Safford, Art at the Crossroads: Lacquer Painting in French

Vietnam (Nghệ thuật ở ngã tư đường: Sơn mài ở Việt Nam thời thuộc

Pháp), Prabook Transcultural Stadies 2015, Hirem College, US.

130. Louis Bezacier (1954), L’Art Viêtnamien (Nghệ thuật Việt Nam), Publisher:

Ed De L'Union Francaise.

131. Louis Bezacier (1959), Relevés de monuments anciens du Nord Viet-Nam

(Các di tích cổ ở miền Bắc Việt Nam), École Française D' Extreme-Orient.

132. Mulcahy, K.V. and Swaim, C.Richard (1982), Public Policy and the arts

(Chính sách và nghệ thuật), Boulder, Co, Westview Press.

133. Nguyen Bao Ha - Ian Findlay (2005), “Vietnam - The view from above”

(Tổng quan về nghệ thuật Việt Nam), Asian Art News, volume 15

Number 4 /2005, tr. 32 - 33.

134. Nora Annesley Taylor (2004, First Published), Painters in Hanoi An

Ethnography of Vietnamese Art (Họa sĩ Hà Nội một dân tộc học của

mỹ thuật Việt Nam), University of Hawai’i Press, USA.

135. Phoebe Scott (2019), Colonial or Cosmopolitan? Vietnamese Art in Paris in the

1930s-40s (Tính thế giới hay Thuộc địa? Mỹ thuật của người Việt Nam

tại Paris những năm 1930 - 1940), Published by NUS Press Pte Ltd.

136. Sherry Buchanan (2002), Tran Trung Tin - Paintings and Poems from Vietnam

(Trần Trung Tín - Những bức tranh và các bài thơ đến từ Việt Nam),

Publisher: Asia Ink.

Tài liệu từ nguồn thông tin điện tử

* Tiếng Việt

137. Văn Bảy (2013), “Thị trường mỹ thuật Việt Nam: gậy ông “đập lưng” cháu

ông”, xem tại: https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/thi-truong-my-thuat-

viet-nam-gay-ong-dap-lung-chau-ong-n20130405082808026.htm, truy

cập ngày 06/7/2015.

186

138. Trịnh Cung (2013), Không có nền nghệ thuật nào bay lên chỉ với một cánh!,

xem tại: http://damau.org/archives/27671, truy cập ngày 11/01/2019.

139. Ngọc Diệp, Nghi vấn đấu giá tranh giả, mạo danh Tô Ngọc Vân: Xâm phạm đến

“bàn thờ” của Mỹ thuật Việt Nam! Xem tại: https://thethaovanhoa.vn/.

van-hoa/nghi-van-dau-gia-tranh-gia-mao-danh-to-ngoc-van-xam-pham-

den-ban-tho-cua-my-thuat-viet-nam-n20170608070455297, truy cập

ngày Thứ Năm, 08/06/2017

140. Kiều Dương (2020) “Bức tranh 600.000 USD của Việt Nam” xem tại:

https://vnexpress.net/buc-tranh-600-000-usd-cua-viet-nam 4035997.html,

truy cập ngày 6/1/2020.

141. Nguyễn Đình Đăng, Thị trường tranh: “Thương hiệu và lừa đảo”; “Làm thế

nào để xác định tuổi của bức tranh”; “Màu rởm trong tranh giả”, xem

tại: https://nguyendinhdang.wordpress.com/2016/07/28/thuong-hieu-

va-lua-dao, truy cập: was posted on 28/07/2016 at 6:02 chiều.

142. Lương Xuân Đoàn (2019), Tranh giả - Câu chuyện chưa bao giờ cũ, xem tại:

http://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/tranh-gia-cau-chuyen-

chua-bao-gio-cu-117788, truy cập ngày 1/1/2019.

143. Nguyễn Như Huy (2019), “Mua tranh tượng cho đúng luật đã khó, thế còn

mua video, mua tác phẩm trình diễn thì làm thế nào?”, xem tại:

https://www.facebook.com/668022263/posts/10158477939817264/,

truy cập ngày 02/8/2020.

144. Nguyên Hưng (2005), Về họa sĩ là ai?, xem tại: http://www.talawas.org/

talaDB/showFile.php?res=4481&rb=0202, truy cập ngày 28/11/2020.

145. Lưu Hà (2006, vnexpress.net), Gallery tư nhân thời thương mại hóa, xem tại:

https://vnexpress.net/gallery-tu-nhan-thoi-thuong-mai-hoa-1889696.html,

truy cập ngày: 10/8/2016.

146. Minh Ngọc (2011), Số phận chìm nổi của các bức họa Việt Nam nổi tiếng (kỳ 1-5), xem tại:

https://thanhnien.vn/van-hoa/so-phan-chim-noi-cua-cac-buc-hoa-vn-noi-tieng-

ky-4-dang-sau-nhung-buc-chan-dung-197327.html, truy cập ngày 25/08/2011.

147. Nguyễn Lộc (2016) “Đấu giá tác phẩm nghệ thuật: Sẽ không còn cảnh ‘đi

đêm’?”, xem tại: http://www.m.baokiemtoannhanuoc.vn/doi-song-

187

van-hoa/dau-gia-cac-tac-pham-nghe-thuat-se-khong-con-canh-di-dem-

136685, truy cập ngày: 26/5/2016.

148. Minh Tâm (2011), Mỹ thuật Việt Nam đang lao dốc, https://nhandan.vn/dien-

dan/M%E1%BB%B9-thu%E1%BA%ADt-Vi%E1%BB%87t-Nam-%C4

%91ang...-lao-d%E1%BB%91c-563275/, truy cập ngày: 04/5/2018.

149. Phan Cẩm Thượng (2005), Chuyện thị trường nghệ thuật VN: Họa sĩ là ai?,

xem tại: https://tuoitre.vn/chuyen-thi-truong-nghe-thuat-vn-hoa-si-la-

ai-74365.htm, truy cập ngày 16/11/2020.

150. Ngã Văn (2009), Một tác hại đối với mỹ thuật Việt Nam, xem tại:

https://tuoitre.vn/mot-tac-hai-doi-voi-my-thuat-viet-nam-316268.htm,

truy cập ngày 04/02/2019.

* Tiếng nước ngoài

151. Liza Flora, China Guardian President Hu Yanyan on Chinese Collectors and

Corporate Changes (Bà Hu Yanyan, Chủ tịch nhà Đấu giá China Guardian

nói về thay đổi của các nhà sưu tập và tập đoàn), available at:

https://jingdaily.com/exclusive-interview-china-guardian-president-hu-yanyan-

on-chinese-collectors-and-corporate-changes, accessed 1 May, 2015.

152. Le Pho, available at: https://www.christies.com/lotfinder/Lot/le-pho-

francevietnam-1907-2001, accessed 27 May, 2017.

153. Martha Ann Overland (2009), “Copied paintings plague Vietnam’s Museum of Fine

Arts” (Những bức tranh chép gây tai họa cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam),

available at: http://content.time.com/time/world/article/0,8599,1895577,00.html,

accessed 04 May, 2009.

154. Mengjie editor (2017), “China spends 1.8 bln yuan in artistic support in 3

years”, available at: http://www.xinhuanet.com/english/2017-

01/05/c_135958352.htm, accsessed on Tuesday, April 3, 2017.

155. Noah Charley, The art of the fake: forgers are the art world’s antiheroes,

available at: https://www.salon.com/2017/11/26/the-art-of-the-fake-

forgers-are-the-art-worlds-antiheroes, accessed November 26, 2017.

156. Richard C. Paddock (2017), Vietnamese Art Has Never Been More Popular.

But the Market Is Full of Fakes (Mỹ thuật Việt Nam chưa bao giờ

được yêu thích hơn thế - Nhưng thị trường đầy tranh giả), available at:

188

https://www.nytimes.com/2017/08/11/arts/design/vietnamese-art-has-

never-been-more-popular-but-the-market-is-full-of-fakes.html,

accessed on July 31, 2009.

157. Seth Mydans (2009, nytime.com), A Legacy of War: Fake Art in Vietnam (Một

di chứng của chiến tranh: Mỹ thuật giả ở Việt Nam), available at:

https://www.nytimes.com/2009/08/01/arts/design/01copies.html,

accessed July 31, 2009.

158. WIPO. International Conference on the Artist's Resale Right (Hội nghị quốc tế về

quyền bán lại tác phẩm của nghệ sĩ), available at:

https://www.wipo.int/meetings/en/2017/resale_right_conference.html,

vailable at: https://www.nytimes.com/2009/08/01/arts/design/01copies.html,

accessed July 31, 2019.

159. https://www.pablopicasso.org/avignon.jsp, accessed 23:31’, Wend, August 17, 2016.

160. https://www.sothebys.com, accessed 20:52’, Saturday, April 22, 2017.

161. https://www.Theglobalipcenter.com/report/inpindex 2017/ accessed 18:25’,

Saturday, Sunday, May 14, 2017.

162. https://www.christies.com/lotfinder/Lot/le-pho-francevietnam-1907-2001,

accessed on Tuesday, April 3, 2017.

189 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

THỊ TRƯỜNG TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM

TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

PHỤ LỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Hà Nội - 2021

190

MỤC LỤC

Trang

Phụ lục 1. Vài nét về họa phẩm cổ ở Việt Nam thời quân chủ và Bức thư

họa Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ 191

Phụ lục 2. Những người thầy nhiều tài năng của các họa sĩ Trường Cao

đẳng Mỹ thuật Đông Dương 200

Phụ lục 3. Các hội, hiệp hội mỹ thuật ở Việt Nam đầu thế kỷ XX 202

Phụ lục 4. Một số tác phẩm hội họa Việt Nam đắt giá trên sàn đấu giá công

khai ở nước ngoài trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2020 và Một số chi

tiết giá mua (năm 1967) ba bức tranh sơn mài của họa sĩ Nguyễn Gia Trí 207

Phụ lục 5. Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật 220

Phụ lục 6. Bảng câu hỏi khảo sát, Kết quả bảng câu hỏi khảo sát; Danh sách

họa sĩ đã tham gia trao đổi, trả lời phỏng vấn (Dành cho họa sĩ) 222

Phụ lục 7. Bảng hỏi khảo sát và Tổng hợp kết quả bảng hỏi khảo sát (Dành

cho người bán tác phẩm hội họa tại các gallery, phòng triển lãm…) 227

Phụ lục 8. Danh sách các nhà sưu tầm tranh đã tham gia trao đổi, trả lời

phỏng vấn 229

Phụ lục 9. Số lượng hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, Chi hội Mỹ thuật

Việt Nam, Hội Mỹ thuật địa phương và Số lượng người được đào tạo ở

trình độ cử nhân ngành mỹ thuật tại một số cơ sở đào tạo trong những năm

230 gần đây

191

Phụ lục 1

VÀI NÉT VỀ HỌA PHẨM CỔ Ở VIỆT NAM THỜI QUÂN CHỦ

VÀ BỨC THƯ HỌA TRÚC LÂM ĐẠI SĨ XUẤT SƠN ĐỒ

1. MỘT SỐ HỌA PHẨM CỔ Ở VIỆT NAM THỜI QUÂN CHỦ

Từ trong quá khứ sơ khai của nhà nước Việt Nam thời quân chủ đã có khá

nhiều những bức tranh mang tính hội họa mang tính hàn lâm họa viện được vẽ theo

đặt hàng từ các quý tộc người Việt. Do nhiều nguyên nhân như chiến tranh liên

miên, thời tiết khí hậu nhiệt đới, v.v. nên phần nhiều không còn lưu lại đến ngày

nay, nếu còn cũng trong tình trạng chưa có tài liệu khảo cứu minh chứng chính xác

những nghi vấn chưa được giải minh và khẳng định một cách khoa học về lý lịch

cũng như giá trị thương phẩm.

Theo Ngô Đức Thịnh (2010, chủ biên), Những giá trị văn hóa truyền thống

Việt Nam cho rằng, “trong cung đình, vương phủ thời Lê - Trịnh cũng có những họa

sĩ cung đình chuyên vẽ chân dung cho các hoàng thân quốc thích, nhưng chất liệu

mà họ sử dụng chủ yếu là giấy dó, lụa Tầu, mực nho, và một số chất liệu màu nước,

hoặc màu bột nhập từ phương Tây về. Họ cũng kết hợp vào đó một số chất liệu dân

gian như vàng, bạc, v.v. Thực tế cho thấy, mặc dầu không đậm nét nhưng nghệ

thuật Việt khi có sự giao lưu, đã có những thay đổi tự thân để cộng đồng nhập vào

những giá trị mới” [67, tr.479].

Theo Nguyễn Tiến Cảnh (1992, chủ biên), Mỹ thuật Huế việc sử dụng tranh

thời phong kiến là bình thường và khá phổ biến nên trong sách có đoạn viết: “Theo

truyền thống trang trí nội thất, các cung điện ở Thăng Long thường có treo tranh

hoặc vẽ lên tường, lên cột. Kinh đô Phú Xuân nhà Tây Sơn cũng thế. Nhà nghiên

cứu Ngọc Liên cho biết theo sách niên phả của Nguyễn Thế Lịch thì có lần Nguyễn

Thế Lịch vào triều kiến Quang Trung, ông đã vâng lệnh làm 8 bài thơ nôm đề vào 8

bình phong vẽ liên hoàn 100 em bé, để trang trí cung điện Phú Xuân. Tranh đã mất,

chỉ còn thơ nôm đề trên tranh tả cảnh rất khái quát, không nói gì đến các bố cục,

hình màu, nét và việc xử lý nó để xây dựng hình tượng ra sao. Chỉ chắc chắn những

nội dung trong 8 bức tranh đều là cảnh thực, có ngay trong đời thường, mà từng

phần có thể đã thấy ở điêu khắc đình làng trước đấy. Nói cách khác, tranh vẽ ở cung

đình không xa lạ với người dân và nghệ thuật trong làng quê” [7, tr.103].

192

Tồn tại và được biết đến rộng rãi cho tới ngày nay là những họa phẩm tạo

hình cổ của bản địa có niên đại phổ biến ở thế kỷ 19 và một số lượng rất nhỏ cuối

thế kỷ 18. Trước khi những tác phẩm hội họa theo phong cách tạo hình phương Tây

xuất hiện ở Việt Nam, công chúng chủ yếu được tiếp cận tới những bức tranh bình

dân, phổ thông dùng nhiều cho mục đích thương mại như tranh khắc gỗ, tô màu.

Tính đồ họa cao nhưng đậm chất nghệ nhân dân gian, phường thợ thủ công, thường

được bán, mua để trang trí trong các dịp lễ Tết (thường gọi là tranh Tết) với nội

dung là các sinh hoạt tín ngưỡng thể hiện ước vọng phúc lộc - an khang, cầu lộc,

cầu tài, tranh trướng, đối, liễn, v.v. hoặc lấy những cốt truyện Nôm làm đề tài như

Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, v.v. được in và kết hợp tô màu trên các loại giấy như

giấy dó, giấy điệp, giấy hồng điều, v.v. hay những bức tranh chân dung về các nhân

vật anh hùng dân tộc, lịch sử, tranh truyện Phật giáo như Bà Triệu đánh giặc, Hai bà

Trưng cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, v.v. chủ yếu có xuất xứ

từ các làng chuyên làm tranh dân gian Đông Hồ, Kim Hoàng, Sình, phố Hàng

Trống. Những tranh có tính chất trang trọng, quý giá hơn được đặt các họa gia

chuyên nghiệp vẽ riêng, thường là tranh vẽ chân dung để thờ nên là đơn bản có bút

pháp nghiêm cẩn, sử dụng màu thuốc cái, son, mực nho, vàng, bạc, điệp, v.v. thể

hiện tinh tế trên nền giấy, lụa bồi trên giấy như tranh chân dung: Nguyễn Trãi, Thụy

Trung Hầu Trịnh Đình Kiên, Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan, v.v. Ngoài thể loại

tranh chân dung còn có những tranh chạm nổi trên gỗ, tranh sơn ta đắp nổi, sơn son

thếp vàng, sơn quang dầu trên gỗ sử dụng viễn cận họa theo lối đồng hiện có niên

đại khoảng thế kỷ 18 như tranh: Thập điện Diêm vương, Vua Lý Nam Đế và hoàng

hậu, Vua Rộc, v.v.

2. BỨC THƯ HỌA TRÚC LÂM ĐẠI SĨ XUẤT SƠN ĐỒ

Trước thế kỷ thứ XVIII, gần như không có họa phẩm cổ Việt Nam nào tồn

tại và được công chúng, nhà nghiên cứu biết đến cho đến ngày nay. Ngoại trừ bức

tranh kích thước lớn vẽ cảnh Phật Hoàng Trần Nhân Tông rời động Vũ Lâm - bức

thư họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ được một số nhà nghiên cứu và công chúng

trong nước biết đến qua hình ảnh được chụp tranh và phiên bản tranh giới thiệu

trong thời gian vừa qua. “Bức thư họa Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ lưu lạc hơn 600

năm ở Trung Quốc; được nhà Thanh biên mục trong bộ Bí điện châu lâm-Thạch cừ

bảo cấp tục biên cách đây hơn 200 năm (1793) và được in màu toàn bộ trong tuyển

tập Thanh cung tán dật thư họa quốc bảo đặc tập” [47, tr.10]. “Bức họa Trúc lâm

193

Đại sĩ là do người nước Nam tổ chức vẽ nên, khắc họa một sự kiện lịch sử với niềm

tự hào quốc tộc, quốc thổ”. Đây là một bức tranh, nói đúng hơn là một tác phẩm hội

họa kết hợp với thư pháp đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật thời quân chủ Đại Việt.

Để thuận lợi và chính xác hơn trong việc nghiên cứu về tác phẩm thư họa

sáng tác về các nhân vật trong thực cảnh của thời Trần ở Đại Việt, NCS sẽ trích dẫn

bằng hình thức chụp lại nguyên bản từ trang 20 - 21 và từ trang 42 - 47 tài liệu

nghiên cứu đã đăng của Nguyễn Nam (2012), Đặc san Suối nguồn, số 7, biên khảo,

Nxb Hồng Đức, Tp.HCM.

194

195

196

197

198

199

200

Phụ lục 2

NHỮNG NGƯỜI THẦY NHIỀU TÀI NĂNG

CỦA CÁC HỌA SĨ TRƯỜNG CAO ĐẲNG MỸ THUẬT ĐÔNG DƯƠNG

Mùa thu 1925, Trường CĐMTĐD (Escole des Beaux-Arts de L’Indochine)

khai giảng khóa đầu tiên với ba chuyên ngành: Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc và

từ đó đã xuất hiện những hoạt động sáng tác, trưng bày giới thiệu, bán, mua những

nghệ phẩm tạo hình hiện đại.

Từ đó, Hà Nội trở thành cái nôi đào tạo nguồn nhân lực hàng đầu cung cấp

sản phẩm mỹ thuật, nghệ thuật tạo hình tiêu biểu của Việt Nam ra thị trường. Các

họa sĩ MTĐD thuở ấy được đào tạo, tiếp cận gần gũi và học hỏi được kinh nghiệm,

kiến thức từ các nghệ sĩ nhiều tài năng đến từ Kinh đô ánh sáng (thời gian đó trung

tâm Nghệ thuật hiện đại của thế giới là ở Paris)” [31, tr.47] và đã tạo nên những giá

trị và tư tưởng thẩm mỹ mới thể hiện qua tác phẩm NTTH của mình. Theo Quang

Phòng, Quang Việt (2015), Trường Mỹ thuật Đông Dương lịch sử và nghệ thuật

cho biết, “người sáng lập trường và những cộng sự của ông cho rằng điều cần làm

ngay là phải giúp đỡ các nghệ sĩ và nghệ nhân An-nam tìm lại được ý nghĩa sâu xa,

nguồn cảm hứng cơ bản từ chính truyền thống của họ, và muốn thế thì phải đặt

trước mắt các sinh viên càng nhiều càng tốt những mẫu của nghệ thuật An-nam cổ.

…đó là thực hiện một diễn biến hiện đại trong sự kéo dài một nghệ thuật truyền

thống” (tạp chí L’Illustration No.4608 ngày 27 tháng 6 năm 1931). “Và thực tế đã

chứng minh đó là một chủ trương cực kỳ sáng suốt” [55, tr.7].

Chính từ những điều cần làm và đã làm của các ông thầy Tây ngày đó đã

giúp cho các tác phẩm của danh họa Việt Nam hiện đại trở thành những họa phẩm

đắt giá được săn lùng trong nhiều phiên đấu giá của những nhà đấu giá hàng đầu

trên thế giới ngày hôm nay.

Những người thầy nhiều tài năng của các họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật

Đông Dương khi đó tới Việt Nam là một tập thể ngay sau ngày khai mở, không chỉ

riêng họa sĩ Victor Tardieu như nhiều người biết đến và cũng không chỉ có các thầy

ở ba khoa Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc. Tuy nhiên, những người thầy tiêu biểu

đồng hành hay gắn liền với những dấu ấn thành công của các họa sĩ MTĐD sau này

thường được nhắc tới gồm:

201

- Về hội họa có họa sĩ Victor Tardieu, ông là hiệu trưởng khai mở Trường

CĐMTĐD, người thầy dạy môn vẽ hình, hội họa này đã giành được hàng loạt giải

thưởng cho những tác phẩm lớn và những công trình trang trí nghệ thuật tại một số

toà thị chính và nhà thờ ở Paris: Giải thưởng hạng Danh dự năm 1899; Huy chương

Đồng tại Triển lãm Toàn cầu năm 1900; Giải thưởng quốc gia năm 1902; Giải

thưởng hạng Ba năm 1907; Giải Vàng của Hội nghệ sĩ Pháp; Giải thưởng Đông

Dương năm 1920.

- Những cộng sự đầy tài năng khác của vị hiệu trưởng đầu tiên của Trường

CĐMTĐD không ít nhưng trong số đó phải nhắc tới Joseph Inguimberty, giảng viên

môn hội họa, trang trí. Joseph Inguimberty trước khi đến Việt Nam đã học ở trường

Nghệ thuật trang trí quốc gia Pháp khá nổi tiếng với những sáng tác tranh vẽ phong

cảnh và xuất sắc đoạt giải thưởng Quốc gia Pháp với tác phẩm sơn dầu nổi tiếng:

Những người bốc dỡ hàng ở Marseille. Sau khi đến Việt Nam đó là quãng thời gian

ông dành khá nhiều để sáng tác những tác phẩm sử dụng chất liệu sơn dầu ghi lại vẻ

đẹp tiềm ẩn về đất nước con người Việt Nam ở những năm nửa đầu thế kỷ 20 như:

Những người phụ nữ (1932), Gia đình bên bờ ao (1934), v.v.

- Về điêu khắc có Évarit Jonchère, giảng viên điêu khắc, hiệu trưởng tiếp nối

sau Victor Tardieu. Ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Paris, Giải thưởng lớn Roma

1925 và giành được một loạt giải thưởng khác như: Huy chương Vàng ngoại hạng

Triển lãm các nghệ sĩ Pháp 1930; Giải thưởng Đông Dương 1932. Mặc dù nhà điêu

khắc này có bày tỏ tư tưởng thực dân, không tiếp nối được tư tưởng nhân văn của

người tiền nhiệm trong việc đào tạo nhưng nhìn nhận dưới nhãn quan khách quan

và tích cực như nhận xét “sông nào cũng chở phù sa”, thì ở một góc độ khách quan,

ông cũng có những đóng góp nhất định vào bước ngoặt của lịch sử mỹ thuật Việt

Nam “từ truyền thống sang hiện đại” bởi “trong giai đoạn này nhà trường vẫn đào

tạo được nhiều họa sĩ, nhiều điêu khắc, kiến trúc sư có tên tuổi, họ là những viên

gạch vững chắc của nền mỹ thuật và kiến trúc Việt Nam Hiện đại” [14, tr.9], Vũ

Cao Đàm là một ví dụ.

- Lĩnh vực kiến trúc có Arthur Kruze hay kiến trúc sư Bussy, Hébrad, một

kiến trúc sư bậc thầy đã giành được giải thưởng ở Rome đã đến tham gia giảng dạy

và làm việc với các học trò tại Việt Nam.

202

Phụ lục 3

CÁC HỘI, HIỆP HỘI MỸ THUẬT Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

Kể từ đấu xảo (triển lãm - hội chợ) đầu tiên năm 1902 tại Hà Nội (Exposition

1902) là một cuộc triển lãm quốc tế, được tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội từ ngày

03/11/1902 đến ngày 31/1/1903. Theo xu hướng của các cuộc Triển lãm Hoàn cầu

(Exposition Universelle) thịnh hành vào thế kỷ XIX như những hội chợ được tổ

chức hàng năm tại các nước phát triển trên thế giới. Khu vực nghệ thuật có gian

trưng bày Pháp và gian Đông Dương. L’Exposition de Hanoi 1902-1903 là cuốn

sách tiếng Pháp đầu tiên giới thiệu và mô tả về cuộc đấu xảo này đã khẳng định vai

trò của Hà Nội như một trung tâm văn hóa có đời sống hiện đại, một đô thị sầm uất

của Á Đông đầu thế kỷ XX. Theo sau những hoạt động này là các cuộc triển lãm

nghệ thuật An Nam lần lượt được tổ chức tại phòng Thương mại Hà Nội vào các

năm 1909, 1911, 1912, 1913, 1915 và 1916 dưới sự bảo trợ của Phủ toàn quyền,

Nhà nước Bảo hộ và tòa thị chính Hà Nội – Hải Phòng. Tại đây, người ta tổ chức

bán hàng ngay tại triển lãm và nhận các đơn đặt hàng.

Trong cuốn sách Mỹ thuật Hà Nội thế kỷ XX của Trần Khánh Chương cho

biết: “Vào đầu thế kỷ XX, thị trường mỹ thuật Việt Nam chủ yếu là hàng thủ công

mỹ nghệ đã bắt đầu hình thành và phát triển vươn ra một số thị trường thế giới” [14,

tr.557]. Ngay sau đó là sự sơ khởi của một thị trường tác phẩm mỹ thuật hiện đại

của các họa sĩ Trường CĐMTĐD xuất hiện bên cạnh sự tham gia phần nào đã ổn

định của các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mỹ thuật ứng dụng có xuất xứ từ các

trường dạy nghề mỹ nghệ và mỹ thuật sau thời gian được khai mở và đi vào hoạt

động tại Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Gia Định, Hà Nội tại các đấu xảo do chính quyền

thực dân phong kiến tổ chức. Từ đó, một thị trường mỹ thuật Việt Nam hiện đại hay

như nhiều người thường gọi là mỹ thuật cận hiện đại Việt Nam đã hoạt động hết sức

phong phú và đa dạng trong suốt thời gian tồn tại của Trường CĐMTĐD.

Việc tham dự trưng bày tranh, tượng trong các cuộc đấu xảo (Exposition) -

cuộc thi và trưng bày triển lãm của các họa sĩ MTĐD cùng với các hoạt động mỹ

thuật tương tự khác là hoạt động xúc tiến thương mại nhìn dưới góc độ thị trường

thông qua việc trưng bày, giới thiệu và bán tác phẩm nhưng vẫn trong tình trạng tự

phát, nhỏ lẻ chưa có sự trợ giúp của các tổ chức xã hội. Một số họa sĩ MTĐD trong

đó có họa sĩ Lương Xuân Nhị thường gửi tranh cá nhân tham gia các cuộc trưng bày

203

tại một số phiên đấu xảo. Họa sĩ Lương Xuân Nhị cho biết, “tranh của tôi thường

bán được, lần triển lãm nào ít ra tôi cũng bán được một bức tranh, có khi mang đi

triển lãm bao nhiêu tranh rồi về tay không. Khoảng thời gian này năm thứ hai (1933

- 1934)” [14, tr.557]. Nội dung này đã được nhắc đến trong khá nhiều công trình

nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Theo họa sĩ Trần Khánh Chương kiểm

đếm một cách khái quát chỉ trong khoảng thời gian hơn 10 năm, từ năm 1930 - 1943

các họa sĩ cận hiện đại Việt Nam đã tham dự khá dầy đặc các hoạt động mỹ thuật ở

nước ngoài như: “tác phẩm của các họa sĩ tốt nghiệp Trường MTĐD tham dự Đấu

xảo thuộc địa năm 1931 ở Paris (L’exposition coloniale internationale de 1931 à

Paris) gồm Nguyễn Phan Chánh, Nam Sơn, Đỗ Đức Thuận, Tô Ngọc Vân, Mai

Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Lê Văn Đệ, Đỗ Đức Thuận, Lê Phổ, Công Văn Trung, Vũ

Cao Đàm, Georges Khánh, Nguyễn Hữu Dật. Cũng năm 1931, một số tác phẩm của

họa sĩ Việt Nam đã được gửi đi dự Triển lãm tại Roma. Năm 1932, một số tác phẩm

của họa sĩ Việt Nam tiếp tục tham gia đấu xảo thuộc địa ở Paris (Pháp) với tác

phẩm của các tác giả Nguyễn Phan Chánh, Nam Sơn, Đỗ Đức Thuận, Tô Ngọc

Vân, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu…Năm 1935, dự Triển lãm Quốc tế Mỹ thuật tại

Paris (Pháp). Năm 1937, các tác giả Trần Văn Cẩn và Lương Xuân Nhị tham gia

Triển lãm tại Đấu xảo Paris. Cũng trong năm này, một số tác phẩm của các họa sĩ

Việt Nam được gửi Triển lãm Mỹ thuật tại San Fracisco (Mỹ). Tháng 6 năm 1943,

triển lãm tranh của ba họa sĩ Nam Sơn, Lương Xuân Nhị và Nguyễn Văn Tỵ diễn ra

tại Nhật Bản”[14, tr.16].

Thị trường mỹ thuật hiện đại ở Việt Nam kể từ những buổi bình minh ban

đầu, khi sơ khởi việc hình thành thị trường bắt đầu bởi các họa sĩ trường Cao đẳng

MTĐD cho tới nay cũng đã có lịch sử gần thế kỷ. Ra đời trong hoàn cảnh đất nước

còn là thuộc địa, nhưng phần lớn những tác phẩm của các danh họa Việt Nam đắt

giá nhất trên thị trường quốc tế và có chất lượng nghệ thuật cao hiện nay lại được

sáng tác trong giai đoạn này. Tác phẩm nghệ thuật tạo hình là một loại hình nghệ

thuật luôn ở trong tình trạng khá kén chọn công chúng. Bởi, công chúng ngày nay

nhiều người trong số những người đã từng tiếp cận với tác phẩm tạo hình hay cụ thể

đối với tác phẩm hội họa cũng không dễ dàng để có thể nhận diện và gọi đúng tên

trường phái, bút pháp được họa sĩ sử dụng đang hiện hữu ở tác phẩm ngay trước

mắt người xem. Đó là chưa nói đến việc đọc hiểu được những ẩn ý sâu xa được giãi

bày trong tác phẩm nếu không phải là người am hiểu, sành về nghệ thuật chứ không

204

phải ở những năm nửa đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam nhiều người dân còn mù chữ và

cái ăn, cái mặc còn chưa đủ. Nhiều người chưa biết tới khái niệm nghệ thuật chưa

chưa nói đến mỹ thuật hay tác phẩm mỹ thuật. Hiện nay, đã có nhiều người tham

gia vào hoạt động trong lĩnh vực mỹ thuật, nhưng chưa thể nào là nhiều khi so với

lĩnh vực nghệ thuật khác của ngành văn hóa như: điện ảnh, ca nhạc, v.v. Tuy nhiên,

khi các họa sĩ các MTĐD có tài năng đã biến những kiến thức, hình thức, những

phương pháp của các người thầy nhiều tài năng thành sở hữu riêng trong những tác

phẩm của mình. Tác phẩm của họ đã trở thành những sản phẩm được quan tâm chú

ý và tạo ra nhiều giá trị và lợi ích thương mại. Mặc dù, có sự hỗ trợ của chính quyền

thời đó (các đặt hàng của toàn quyền Maurice Long là ví dụ), là nội lực quan trọng

nhằm bảo đảm rằng nền mỹ thuật Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và mang

dấu ấn riêng nhưng ngay từ khi đó, để các hoạt động giao thương, quảng bá, xúc

tiến nghệ thuật tại các trung tâm, nhà bán đấu giá hiện vật, tác phẩm nghệ thuật

đồng thời xây dựng quỹ phát triển mỹ thuật có sự bảo trợ của một số tổ chức để

khuyến khích, phát triển tài năng mỹ thuật.

Theo Quang Phòng, Quang Việt (2015), Trường Mỹ thuật Đông Dương lịch

sử và nghệ thuật cho rằng: “Các hiệp hội ra đời nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của

mỹ thuật Việt Nam. Mục đích của Hội là đóng góp cho sự phát triển nghệ thuật và

nghệ thuật ứng dụng, cho nghệ thuật trang trí và kỹ nghệ ở xứ Đông Dương, phục

vụ cho lợi ích các thành viên của Hội và giúp đỡ họ trong trường hợp bất hạnh. Vì

mục đích ấy, Hội tổ chức các kỳ thi với các cấp tiền thưởng và văn bằng cho người

được giải; Hội chấp thuận bảo trợ cho các tác phẩm phổ biến mang tính chất mỹ

thuật và kỹ nghệ” [55, tr.21]. Một số Hội tiêu biểu có hoạt động trợ giúp hoạt động

mỹ thuật và các họa sĩ Trường CĐMTĐD được biết đến như:

- Hội Ái hữu Nghệ thuật Bắc Kỳ (Groupe Amical Artistique du Tonkin,

thành lập năm 1909;

- Hội Khai trí Tiến Đức (L’Association pour la Formation Intellectuelle et

Morale des Annamites – AFIMA, thành lập năm 1919;

- Hội An Nam Khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ (Sociéste Annamite d’

Encourement à l’ Art et à l’Industrie - SEDEAL, thành lập năm 1934;

- Hiệp hội các Nghệ sĩ Đông Dương (Association des artistes de

l’Indochine, thành lập năm 1939;

205

- Hội FARTA (Foyer l’Art Annamite - Trung tâm Nghệ thuật Việt Nam,

thành lập năm 1943.

Tác giả sử dụng tư liệu của Trần Khánh Chương (2012), Mỹ thuật Hà Nội

thế kỷ XX từ trang 93 đến trang 94 đề cập tới các Hội mỹ thuật ở Hà Nội. Tuy nhiên,

tác giả có sự chọn lọc, lược bỏ, sắp xếp lại những nội dung để phù hợp với yêu cầu

của Phụ lục Luận án:

Nửa đầu thế kỷ XX, một số hiệp hội Mỹ thuật đã được thành lập ở Hà Nội

nói lên sự phát triển của các nghệ sĩ, nghệ nhân hoạt động trong các lĩnh vực mỹ

thuật và mỹ thuật ứng dụng, số lượng hội viên của các hội không nhiều, nhưng các

hộ đã góp phần tổ chức triển lãm, tôn vinh tác giả và tác phẩm với công chúng rộng

rãi. …tất cả bước đầu tạo nên nền tảng của nền MTVN hiện đại. Hình thành một

dòng chảy nghệ thuật tạo hình hiện đại liên tục và bền vững sau này.

“Từ năm 1909 Hội Ái hữu mỹ thuật Pháp – Việt được thành lập ở Hà Nội đề

ra tôn chỉ ‘vì các sản phẩm mỹ thuật của xứ Bắc Kỳ’ và cõi Đông Dương để truyền

bá nhãn thức cái đẹp cho công chúng, để cải hoàn những nền nghệ thuật địa

phương. Khuyến khích các nghệ sĩ, nghệ nhân bản xứ. Hội ái hữu mỹ thuật Pháp –

Việt đã tổ chức được 6 triển lãm vào các năm 1909, 1911, 1913, 1915 và tổ chức

được 2 Đấu xảo thuộc địa. Thực chất Hội nhằm cổ xúy cho sự phát triển các ngành

nghề thủ công Việt Nam nhằm sản xuất nhiều sản phẩm truyền thống và cải tiến cả

về nghệ thuật và chất liệu phục vụ việc xuất khẩu ra nước ngoài của thực dân Pháp.

Tháng 3 năm 1919, Hội Khai trí Tiến Đức được thành lập theo sáng kiến của

Louis Marty là công chức cao cấp của nha chính trị phủ toàn quyền và giao cho

Phạm Quỳnh, Hoàng Trọng Phu đứng ra tổ chức, mục đích tập hợp tầng lớp trí

thức, quan lại và nhà công thương có tên tuổi để đáp ứng yêu cầu mới của xã hội

Việt nam sau thế chiến thứ nhất, ở đây đa số là thanh niên ham hiểu biết cái mới của

phương Tây. …Hội Khai trí tiến Đức đã tổ chức Triển lãm Đấu xảo năm 1923 với

sự tham gia của các họa sĩ, nhà điêu khắc Việt Nam ở Hà Nội”.

Ngày 03 tháng 5 năm 1934 cho phép Hội An Nam Khuyến khích nghệ thuật

và kỹ nghệ được thành lập, Hội trưởng là ông Tardieu; 4 Phó Hội trưởng là Nguyễn

Cao Luyện, Lê Phổ, Georges Khánh và Phúc Mỹ. Tổng thư ký là Tô Ngọc Vân;

Thủ quỹ là Nam Sơn. tổ chức vận hành. “Mục đích của Hội là dùng mỹ thuật ứng

dụng vào kỹ nghệ: ‘Từ sự hợp tác của Chính phủ cùng sáng kiến của tư gia, đổi mới

những kiểu mẫu các kỹ nghệ theo mỹ thuật, từ sự đồng lao cộng lực của các họa sĩ,

206

các nhà kỹ nghệ, các nhà sản xuất công nghệ phẩm cùng các nhà mỹ nghệ’. Đồng

thời “Khuyến khích việc học mỹ thuật chuyên nghiệp và biệt nghiệp – tổ chức các

cuộc thi có tiền thưởng, văn bằng và huy chương – Tổ chức các cuộc triển lãm

trưng bày các tác phẩm mỹ thuật và kỹ nghệ. Đồng thời, Hội cũng cố gắng tìm cách

giúp đỡ những nhà mỹ thuật, công nghệ, mỹ nghệ bằng sự giới thiệu họ với các

quan chức để họ được đăng đàn truyền bá mỹ thuật và mỹ nghệ,v.v.” .Hội SADEAL

đã tổ chức được bốn triển lãm mỹ thuật (hội họa, điêu khắc, trang trí, kiến trúc) vào

các năm 1935, 1936,91937, 1939 và tập hợp được nhiều họa sĩ nhà điêu khắc, kiến

trúc tốt nghiệp hoặc đang học tại trường MTĐD tham gia.

Tháng 11 năm 1938 Hiệp hội các nghệ sĩ Đông Dương ra đời nhân triển lãm

các tác phẩm về sơn mài của trường MTĐD. Các nghệ sĩ tham gia hiệp hội gồm có

họa sĩ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Văn Tỵ, Lê Quốc

Lộc, Phạm Hậu… Mục đích của Hiệp hội là thúc đẩy sự phát triển sáng tác và giúp

đỡ các nghệ sĩ sáng tác tranh sơn mài cũng như tổ chức thị trường để tiêu thụ các

tác phẩm sơn mài. Hiệp hội đã tổ chức triển lãm chuyên đề về sơn mài.

Cuối năm 1939 Hội nghệ thuật An Nam hình thành và đi vào hoạt động ở Hà

Nội. FARTA là một nhóm anh em họa sĩ chơi thân với nhau và thường đi sáng tác.

Năm 1943, nhóm FARTA tổ chức triển lãm lần thứ nhất với nhiều tác giả: Lê Văn

Đệ, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn,v.v. Năm 1944, nhóm tổ chức lần thứ hai cũng với

nhiều tác giả như lần thứ nhất [14, tr.93 - 98].

207

Phụ lục 4

MỘT SỐ TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM ĐẮT GIÁ TRÊN SÀN ĐẤU

GIÁ CÔNG KHAI Ở NƯỚC NGOÀI TRONG THỜI GIAN TỪ NĂM 2014

ĐẾN NĂM 2020 VÀ MỘT SỐ CHI TIẾT VỀ GIÁ MUA (NĂM 1967)

BA BỨC TRANH SƠN MÀI CỦA HỌA SĨ NGUYỄN GIA TRÍ

1. MỘT SỐ TÁC PHẨM HỘI HỌA VIỆT NAM ĐẮT GIÁ TRÊN THỊ

TRƯỜNG CÔNG KHAI

Trong số những tác phẩm hội họa cổ mang tính hàn lâm, họa viện cũng như

nhiều tác phẩm hội họa hiện đại đạt tới đỉnh cao sáng tạo của các họa sĩ MTĐD đã

thuộc các bộ sưu tập ngoài nước mà không còn lưu lại hình ảnh, tài liệu liên quan

trên mảnh đất quê hương hình chữ S sau khi nó được sinh ra. Vì vậy, phần tư liệu,

hồ sơ có liên quan để có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về các

tác phẩm như thế là rất hiếm hoi và khó khăn. Ví dụ, bức tranh Trúc lâm Đại sĩ xuất

sơn đồ, Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân, v.v. Một phần do khí hậu, thời tiết

khắc nghiệt và hoàn cảnh đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh lớn nhỏ nên đời

sống vật chất của nhân dân luôn gặp khó khăn thiếu thốn. Trong xã hội trước đây

không có mấy người xem việc sở hữu tác phẩm nghệ thuật tạo hình là nhu cầu, một

lý do khác không kém phần quan trọng là do ít có thói quen ghi chép để lưu giữ

thành hồ sơ của người Việt.

Đến khi thống nhất đất nước, non sông đã liền một dải nhưng phải đến sau

Đổi Mới đời sống xã hội phát triển, công chúng hiểu hơn được giá trị giúp cho giá

cả tác phẩm mỹ thuật, đặc biệt là tác phẩm của các họa sĩ MTĐD không ngừng tăng

lên ở các thị trường. Giá trị và giá cả tác phẩm mỹ thuật luôn là yếu tố quan trọng

tác động tới các hoạt động của thị trường, trong đó có vấn đề phát triển. Những yếu

tố này luôn là phần của quy luật cung – cầu, khi giá trị và giá cả tác phẩm của các

họa sĩ mỹ thuật hiện đại tăng cũng đã góp phần tạo dựng một nhóm công chúng tiếp

nhận, sưu tập, chơi và buôn bán tranh nội địa nối lại từ những khoảng đứt gãy của

một số cá nhân trước đây từng tham gia làm manh nha một thị trường. Sở hữu tác

phẩm NTTH với những giá trị được chia sẻ giúp cho thị trường NTTH phát triển.

Sản phẩm nghệ thuật tạo hình hiện đại của các họa sĩ MTĐD tới nay đã được

định hình, tuy không phải là nhiều, nhưng những ý nghĩa giá trị vật chất và tinh thần

nó mang lại thì chưa thể được lượng hóa. Thế giới biết đến tranh lụa, tranh sơn-mài

208

và những sáng tác trên nhiều chất liệu khác theo cách của người Việt Nam cũng đa

phần từ đó. Những người gõ búa ở trong những phiên đấu của nhà đấu giá hàng đầu

của thế giới khi sướng tên tác phẩm vượt ngưỡng một triệu Mỹ kim đã thực sự vui

mừng khi tác phẩm đó có giá đề xuất khởi đầu không bằng được một phần ba, phần

năm hay thậm chí phần mười của giá đấu thắng cuộc. Ví dụ, tranh Người bán gạo

(La Marchande Riz - 1932) của Nguyễn Phan Chánh. Khi thị trường nghệ thuật

Trung Quốc trở thành thị trường nghệ thuật lớn nhất thế giới như ngày nay, doanh

thu nghệ thuật chiếm tới gần 1/2 của toàn cầu thì “tất cả những tác phẩm Trung

Quốc đẹp nhất đã nằm trong các sưu tập hay các viện bảo tàng ở London, Tokyo,

Paris và nhất là ở Mỹ” [55, tr.28] – tức là thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân ở

những quốc gia phát triển trước khác. Bởi công chúng luôn là người quyết định, là

đối tượng quyết định thị trường. Điều đó không chỉ ở Việt Nam mà bất cứ nơi đâu

cũng vậy.

Những tác phẩm có giá trị lớn trước đây thường được bán ra nước ngoài, ở

Việt Nam quen gọi là “chảy máu chất xám” trong văn hóa nghệ thuật. Những tác

phẩm của họa sĩ MTĐD tốt nhất phần lớn được sáng tác trong giai đoạn sớm đã

được chủ sở hữu nước ngoài mua từ những cuộc đấu xảo, những chợ nghệ thuật

trong và ngoài nước từ những năm nửa đầu của thế kỷ trước tại “khu trưng bày nghệ

thuật có gian trưng bày Pháp và gian Đông Dương” trang 14, cuốn sách của Paul

Doumer (2016), Xứ Đông Dương – hồi ký, nhóm dịch: Lưu Đình Tuân, Hiệu Constant,

Lê Đình Chi, Hoàng Long, Vũ Thúy. Đấu xảo thuộc địa tại Hà Nội, Paris và một số

thành phố khác như ở Mỹ, Nhật Bản những năm 30 của thế kỷ XX đã có rất nhiều

tác phẩm đạt tới đỉnh cao rực rỡ của các họa sĩ MTĐD đã ra nước ngoài như:

Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, v.v. ngoài ra còn

có nhiều những thương vụ mua bán trực tiếp khác với các họa sĩ do mức độ am hiểu

nghệ thuật của những thương gia phương Tây và những nhà đầu tư nghệ thuật của

họ. Ngay cả trong thời gian chưa thống nhất, chưa Đổi mới thì những tác phẩm của

các họa sĩ hiện đại cũng vẫn tiếp tục được bán ra cho những người nước ngoài đến

Việt Nam, trong đó có các nhà ngoại giao. Theo họa sĩ Quang Việt: “Từ năm 1941

đến trước Cách mạng tháng Tám, người Nhật lùng mua rất nhiều tranh (Tô Ngọc

Vân, Trần Văn Cẩn…) giá xê dịch từ 1300 đến 1500 piastres.” (60 piastre tương

đương 1 lạng vàng) “Một bức sơn mài thể nghiệm (hai tấm, nền son đỏ) của Tô

Ngọc Vân, thực hiện năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc, đã vào tay ông Patrice

209

Jorland - Tùy viên văn hóa Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, với giá tương đương 5

lạng vàng - một giá cao bậc kỷ lục của thập kỷ 1980”. [87, tr.41]. Điều đó không chỉ

riêng ở Việt Nam mà ngay cả những quốc gia có truyền thống lâu đời về nghệ thuật

như Trung Quốc cũng vậy: “Cũng xin đừng quên rằng tất cả những tác phẩm Trung

Quốc đẹp nhất đã nằm trong các sưu tập hay các bảo tàng ở London, Tokyo, Paris

và nhất ở là Mỹ” [55, tr.28]. Trong xu thế đi lên về giá của thị trường mỹ thuật châu

Á, trong đó có Đông Nam Á làm xuất hiện tên của nhiều họa sĩ, có cả tên họa sĩ

đương đại ở thị trường khu vực này lọt vào danh sách họa sĩ có tác phẩm có giá bán

vượt ngưỡng 1 triệu USD. Sau một thời gian, tác phẩm của họa sĩ Việt như Nguyễn

Phan Chánh, Tô Ngọc Vân tiến sát mốc giá trị ấy, tháng 4/2017 tranh lụa Cuộc sống

gia đình (Family life, 82 x 66cm, sáng tác khoảng năm 1937-1939) của họa sĩ Lê

Phổ, Việt Nam cũng đã vượt qua với giá 1,172 triệu USD. Cũng tại thị trường đó,

hai năm sau, vẫn là tranh của Lê Phổ, tháng 5/2019 Bức tranh sơn dầu Khỏa thân

(Nude, 90,5 x 180,5cm, 1931) được bán với giá 1,4 triệu USD. Những thay đổi tích

cực về giá trị tác phẩm ấy đã phản ánh một cách khách quan tốt đẹp về tiềm năng

thị trường tranh Việt Nam ở ngoài nước.

210

Phần tranh vẽ của họa phẩm Trúc lâm Đại sĩ xuất sơn đồ TRẦN GIÁM NHƯ được cho là tác giả (1363), Giấy, Kích thước phần tranh: 28 x 308,3cm; Kích thước tổng thể: 28 x 558,6cm (theo Trần Quang Đức: 28 x 961cm) Phiên bản phục chế được bán đấu giá tại Công ty Bảo Lợi, Bắc Kinh năm 2014, giá 1.800.000 USD (Nguồn: Nguyễn Nam (2012), Trúc lâm Đại sĩ xuất sơn đồ, Bóng hình để lại)

Trích đoạn trong tranh vẽ của họa phẩm Trúc lâm Đại sĩ xuất sơn đồ

211

Khỏa thân

LÊ PHỔ (1931), Sơn dầu, 90,5cm x 180,5cm

được đấu giá tại Nhà đấu giá Christie’s Hong Kong

ngày 26/5/2019, giá bán 1.400.000 USD tương đương khoảng 33 tỷ VNĐ

(Nguồn: Christie’s Hong Kong)

212

Vỡ mộng

TÔ NGỌC VÂN (1932), Lụa, 92,5cm x 57cm

được đấu giá tại Nhà đấu giá Christie’s Hong Kong

ngày 26/5/2019, giá bán 1.162.080 USD

(Nguồn: Christie’s Hong Kong)

213

Em bé cho chim ăn

NGUYỄN PHAN CHÁNH (1931),

Lụa, 82cm x 66cm

được đấu giá tại NĐG Christie’s Hong Kong ngày 27/5/2018,

giá bán 853.921 USD

(Nguồn: Christie’s Hong Kong)

214

Dân làng

NGUYỄN GIA TRÍ (1939), Sơn mài, 99 x 198cm (6 tấm)

được đấu giá tại Nhà đấu giá Sotheby’s Hong Kong

ngày 26/5/2019, giá bán 782.381 USD

(Nguồn: Sotheby’s Hong Kong)

* Lưu ý: Trước khi được đem đấu giá, bức tranh này đã có những nghi vấn về tính xác thực của

tranh với tên tác giả là họa sĩ Nguyễn Gia Trí.

215

Chân dung cô Phương

MAI TRUNG THỨ (1930), Sơn dầu, 138,5cm x 80cm

được đấu giá tại Nhà đấu giá Sotheby’s Hong Kong ngày 18/4/2021,

giá bán 3.100.000 USD

(Nguồn: Sotheby’s Hong Kong)

216

MỘT SỐ CHI TIẾT VỀ GIÁ MUA (1967) BA BỨC TRANH SƠN MÀI CỦA

HỌA SĨ NGUYỄN GIA TRÍ

Từ nhiều năm nay, khi nói tới họa sĩ Nguyễn Gia Trí nhiều người thường

hiểu ngay đó là đang nói tới những vấn đề về sơn mài, về nghệ thuật sơn mài đỉnh

cao, v.v. nhưng đặc biệt cũng không thể quên mà không nhắc tới những bức tranh

sơn mài đắt giá của ông. Khi công chúng cùng quốc gia với tác giả, nơi tác phẩm

mang quốc tịch ấy thực sự có nhiều người vui mừng, tự hào nhưng cũng có nhiều

nhà sưu tập tại Việt Nam cũng không mấy ngạc nhiên. Bởi giá cả như vậy cho

những bức tranh “thật” tương tự của các họa sĩ MTĐD hàng đầu ở Việt Nam, người

sưu tầm đã phải trả cái giá ngang như thế, hơn như thế, thậm chí gấp vài lần như thế

từ khá lâu rồi. Chỉ có điều, giá đó của họ chưa bao gồm thuế, và cũng chưa một lần

chính thức công khai ở nơi mua bán danh giá như thế. Một trong những nhóm tác

phẩm có chất lượng nghệ thuật khá tốt được sáng tác trong thời kỳ sung mãn, còn

lưu lại ở Việt Nam đó là 3 bức tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí gồm: Trừu tượng,

Hoài Niệm xứ Bắc, Vườn xuân.

Đây là 3 bức tranh sơn mài được chính quyền Sài Gòn đặt hàng và mua để

trưng bày trong công trình thư viện quốc gia (chính quyền Sài Gòn) với tổng trị giá

2 triệu 475 nghìn đồng (tương đương 7.071 lượng vàng năm 1967) chiếm tỉ lệ 3%

trong tổng số 120 triệu đồng tiền xây dựng Thư viện Quốc gia trên văn bản do ông

Nguyễn Lưu Viên, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Trung ương, Tổng Ủy viên Bộ

Văn hóa – Xã hội kiêm Ủy viên Văn hóa – chính quyền Việt Nam Cộng hòa ký

ngày 06/9/1967 (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia II).

Một số chi tiết khái quát về 3 bức tranh sơn mài để tham khảo:

1. “Hoài niệm xứ Bắc” kích thước: 3m10 x 2m10; giá: 975.000 Đồng (tỷ giá

năm 1966: 1USD tương đương 80 Đồng); Ước tính tương đương với 121.875 USD;

(giá vàng: 38 đồng/ 1chỉ; 975.000 tương đương: 2565,7 cây vàng)

2. “Vườn xuân” kích thước: 2m4 x 2m88 = 6m2 5 / giá: 1.050.000 Đồng

(80/1USD; tương đương với 131.000 USD);

3. “Trừu tượng” kích thước 3m2, giá 450.000 Đồng (80đ/1 USD; tương

đương 56.200 USD.

217

Một số hình ảnh chụp văn bản có liên quan tới giá mua ba bức tranh sơn mài

của họa sĩ Nguyễn Gia Trí

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia II

218

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia II

219

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia II

220

Phụ lục 5

DANH MỤC CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1. CÔNG ƯỚC BERNE VỀ BẢO HỘ CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC NGHỆ

THUẬT (Đạo luật Paris, ngày 24/07/1971 Sửa đổi ngày 28/09/1979 - do Cục Bản

quyền tác giả văn học-nghệ thuật, Bộ VHTT cung cấp)

2. Luật số 36/2009/QH12 của Quốc hội: LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT

SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ (Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH

2019 LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ).

3. Luật số 28/2001/QH10 của Quốc hội: LUẬT DI SẢN VĂN HÓA (Văn

bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH 2013 LUẬT DI SẢN VĂN HÓA).

4. Luật số 01/2016/QH14 của Quốc hội: LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN.

5. Luật số 91/2015/QH13 của Quốc hội: BỘ LUẬT DÂN SỰ.

6. Luật số 100/2015/QH13 của Quốc hội: BỘ LUẬT HÌNH SỰ.

7. Luật số 36/2005/QH11 của Quốc hội: LUẬT THƯƠNG MẠI

8. Luật số 59/2020/QH14 của Quốc hội: LUẬT DOANH NGHIỆP.

9. Luật số 89/2015/QH13 của Quốc hội: LUẬT THỐNG KÊ.

10. Luật số 38/2019/QH14 của Quốc hội: LUẬT QUẢN LÝ THUẾ.

11. Luật số 59/2010/QH12 của Quốc hội: LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI

NGƯỜI TIÊU DÙNG.

12. Luật số 05/2007/QH12 của Quốc hội: LUẬT CHẤT LƯỢNG SẢN

PHẨM, HÀNG HÓA.

13. Luật số 21/2017QH14 của Quốc hội: LUẬT QUY HOẠCH.

14. Nghị định số 113/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Hoạt động mỹ thuật

(Văn bản hợp nhất 605/VBHN-BVHTTDL 2019 NGHỊ ĐỊNH số 113/2013/NĐ-CP

ngày 02 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ về hoạt động mỹ thuật).

15. Nghị định số 37/2019/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết một số

điều của Luật Quy hoạch.

16. Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương

Đảng Khóa XI.

17. Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về

việc phê duyệt chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020.

18. Quyết định số 1253/QĐ-TTg ngày 25/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ

Phê duyệt Quy hoạch phát triển mỹ thuật đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

221

19. Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ

Phê duyệt chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2030.

20. Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 26/8/2019 Nghị quyết Ban hành danh

mục các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ thể, ấn định

khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm được sản xuất, tiêu thụ hết hiệu

lực theo quy định tại điểm D Khoản 1 Điều 59 Luật Quy hoạch thuộc thẩm quyền

phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.

21. Quyết định số 542/QĐ-BVHTTDL ngày 26/02/2015 của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch Ban hành kế hoạch triển khai thực hiện “Quy hoạch phát triển

mỹ thuật đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.

22. Quy chế sao chép tác phẩm tạo hình (Ban hành kèm theo Quyết định số

17/2004/QĐ-BVHTT ngày 05/5/2004 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin).

23. Thông tư số 07/2011/TT-BVHTTDL ngày 07/6/2011 về việc Sửa đổi, bổ

sung, thay thế hoặc bãi bỏ, huỷ bỏ các quy định có liên quan đến thủ tục hành chính

thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.

24. THÔNG TƯ Quy định quy trình giám định tư pháp về quyền tác giả,

quyền liên quan (Thông tư số 02/2019/TT-BVHTTDL ngày 01 tháng 9 năm 2019

của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).

25. THÔNG TƯ Quy định hồ sơ, các mẫu văn bản thực hiện giám định tư

pháp; áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh

vực văn hóa; điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện giám định của

văn phòng giám định tư pháp về di vật, cổ vật, quyền tác giả, quyền liên quan.

(Thông tư 08/2019/TT-BVHTTDL ngày 23/7/2014 của Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch).

222

Phụ lục 6

BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT, KẾT QUẢ BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT;

DANH SÁCH HỌA SĨ ĐÃ THAM GIA TRAO ĐỔI, TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

Nguồn: NCS thực hiện

223

KẾT QUẢ BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT

(Dành cho các họa sĩ)

Nguồn: NCS thực hiện

Độ tuổi các họa sĩ tham gia khảo sát: 03 người tuổi từ 30-40; 29 người tuổi

từ 40-50; 8 người tuổi từ 50-60; 6 người từ 60-70 tuổi và 4 người tuổi từ 70 đến 80.

1. 50 họa sĩ được hỏi là hội viên của Hội Mỹ thuật Việt Nam.

2. 43 họa sĩ tham gia khảo sát đều là các họa sĩ sáng tác đều đặn và duy trì

việc bán tranh thường xuyên.

3. 35 họa sĩ đã từng giới thiệu tranh của mình trên các trang Website thương

mại trực tuyến.

4. 8 họa sĩ có trang website thương mại trực tuyến cá nhân để giới thiệu

những sáng tác của mình;

5. 44 họa sĩ cho rằng việc sử dụng trang thương mại trực tuyến để giới thiệu

tranh có hiệu quả; 5 họa sĩ cho rằng không hiệu quả và 2 họa sĩ không quan tâm.

6. 32 họa sĩ đã tham gia triển lãm nhóm hoặc có triển lãm cá nhân.

7. 25 họa sĩ cho rằng việc bán tranh qua gallery vẫn là phù hợp nhất; 22 họa

sĩ cho rằng cần kết hợp cả hai hình thức và 3 người không ý kiến.

8. 28 họa sĩ cho rằng việc bán tranh của mình theo hình thức trực tiếp, nhờ

giới thiệu trên website, triển lãm cá nhân, qua môi giới và 22 người thường bán qua

hình thức gallery, phòng tranh.

9. 48 họa sĩ thường trả tiền hoa hồng họa sĩ phải trả cho môi giới theo tỉ lệ

10%; và 16 họa sĩ đã từng trả trên 25% tiền hoa hồng cho gallery.

10. 42 chấp nhận tiền trả cho môi giới và gallery là phù hợp; 8 người cho

rằng trả cho gallery là quá cao và không chấp nhận cách làm như vậy nữa.

11. 31 họa sĩ cho rằng vẫn muốn tiếp tục bán tranh qua gallery và phòng

trưng bày; 19 họa sĩ cho rằng sẽ tự bán qua trang website và những quan hệ của

mình.

12. 37 họa sĩ cho rằng sẽ duy trì các phương thức giới thiệu và bán tranh trực

tuyến sẽ là phương thức chủ yếu trong thời gian tới. 12 họa sĩ cho rằng bán tranh

qua gallery, nhà đấu giá là phương thức chủ yếu trong thời gian tới. 1 họa sĩ chưa

xác định được phương thức nào.

224

13. 28 họa sĩ cho rằng việc gửi bán tranh qua hình thức gallery là phù hợp

với tình hình và xu hướng phát triển của thị trường.

14. 7 họa sĩ rất hài lòng 39/50 người cho rằng gallery và nhà đấu giá là khá

hài lòng và 4 người không hài lòng.

15. 6 họa sĩ có tranh từ bị người khác làm giả.

16. 46 họa sĩ cho rằng tình trạng vi phạm bản quyền tranh hiện nay chưa hạn

chế được.

17. 2 họa sĩ đã từng có lần đi đăng ký bản quyền tranh của mình.

18. 50 họa sĩ cho rằng tình trạng vi phạm bản quyền tác giả tác phẩm hội họa

Việt Nam hiện nay làm ảnh hưởng nhiều tới sự phát triển của thị trường.

19. 7 họa sĩ đã từng có lần nộp thuế bán tác phẩm của mình.

20. 45 họa sĩ cho rằng tranh của các họa sĩ Việt nam trên thị trường có giá

thấp so với mặt bằng chung.

225

DANH SÁCH HỌA SĨ ĐÃ THAM GIA TRAO ĐỔI, TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

(Sắp xếp theo nhóm tuổi và thứ tự A-B-C)

Nguồn: NCS thực hiện

226

227

Phụ lục 7

BẢNG HỎI KHẢO SÁT VÀ TỔNG HỢP KẾT QUẢ BẢNG HỎI KHẢO SÁT

(Dành cho người bán tác phẩm hội họa tại các gallery, phòng triển lãm…)

Nguồn: NCS thực hiện

228

TỔNG HỢP KẾT QUẢ BẢNG HỎI KHẢO SÁT

Có 05 người bán tranh hội họa ở 05 phòng tranh được hỏi và trao đổi, trong

số đó có 03 người đồng ý thực hiện việc trả lời bảng hỏi nhưng không đồng ý việc

ghi họ tên và địa chỉ nơi làm việc. NCS chỉ có thể tập hợp theo ý kiến do các cá

nhân đồng ý trả lời và đã tích vào các ô trong bảng hỏi cho kết quả như sau:

229

Phụ lục 8

DANH SÁCH CÁC NHÀ SƯU TẦM TRANH ĐÃ THAM GIA TRAO ĐỔI,

TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

Nguồn: NCS thực hiện

10 nhà sưu tập tác phẩm hội họa Việt Nam ở trong và ngoài nước trong số

những người đã trao đổi, trả lời một số câu hỏi của NCS trong thời gia thực hiện

luận án. Vì lý do cá nhân và một số yếu tố bí mật nghề nghiệp khác, NCS không

đăng đầy đủ tên đệm, tên của nhà sưu tập và hạn chế những thông tin khác có liên

quan tới yếu tố cá nhân khi thực hiện nội dung trao đổi, phỏng vấn theo thỏa thuận

từ ban đầu với các nhà sưu tập. NCS tập hợp các ý kiến của họ để nghiên cứu, phân

tích, tổng hợp thực hiện cho Luận án ở từng nội dung:

Nguồn: NCS thực hiện

230

Phụ lục 9

SỐ LƯỢNG HỘI VIÊN HỘI MỸ THUẬT VIỆT NAM, CHI HỘI MỸ THUẬT

VIỆT NAM, HỘI MỸ THUẬT ĐỊA PHƯƠNG VÀ SỐ LƯỢNG NGƯỜI ĐƯỢC

ĐÀO TẠO Ở TRÌNH ĐỘ CỬ NHÂN NGÀNH MỸ THUẬT TẠI MỘT SỐ CƠ

SỞ ĐÀO TẠO TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

1. Số liệu hội viên hội mỹ thuật Việt Nam, Chi hội Mỹ thuật Việt Nam và Hội

Mỹ thuật địa phương

Thị trường tác phẩm hội họa Việt Nam trong giai đoạn này đã tạo điều kiện cho công

chúng có cơ hội tiếp cận rất nhiều tác phẩm với chất liệu thể hiện mới, lần đầu tiên xuất hiện

cùng sự đa dạng phong cách, khác biệt đề tài, nội dung phong phú của các họa sĩ trong số

gần 2.000 hội viên Hội MTVN và gần 1.000 họa sĩ mới là sinh viên được đào tạo kiến thức về mỹ thuật ra trường hằng năm.

Theo Trần Khánh Chương biên soạn (2017), Hội Mỹ thuật Việt Nam 60 năm

xây dựng và phát triển cho biết, ngày đầu thành lập Hội có 123 Hội viên đầu tiên thì

“Tính đến tháng 10 năm 2017, số lượng Hội viên của Hội được kết nạp là 2.329,

trong đó có 425 hội viên đã mất và 1.904 Hội viên đang sinh hoạt tại 73 Chi hội

thuộc 63/63 tỉnh thành trong cả nước” [15, tr.185].

Lượng phân bổ hội viên trong Hội MTVN, Chi hội ở các địa phương và Hội

Mỹ thuật ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng có

nhiều đặc thù. Trong cuốn Hội Mỹ thuật Việt Nam 60 năm xây dựng và phát triển

Trần Khánh Chương biên soạn năm 2017 đã đưa ra số liệu chi tiết và cụ thể như

sau: “Do ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có đông hội viên nên các Chi hội

được thành lập theo chuyên ngành; trường hợp một chuyên ngành có đông hội viên

sẽ được chia thành nhiều Chi hội chuyên ngành để đảm bảo Chi hội đông nhất

không quá 150 hội viên, cụ thể thành phố Hà Nội có 9 Chi hội - 974 người (Hội họa

1 - 133 người, Hội họa 2 - 114 người, Hội họa 3 - 117 người, Hội họa 4 - 147

người, Đồ họa 1 - 104 người, Đồ họa 2 - 89 người, Điêu khắc 126 người, Mỹ thuật

ứng dụng - 109 người, Phê bình mỹ thuật - 35 người) và Thành phố Hồ Chí Minh

có 5 Chi hội - 310 người (Hội họa 1 - 111 người, Hội họa 2 - 112 người, Đồ họa -

35 người, Điêu khắc - 45 người, Phê bình mỹ thuật - 7 người. Có 12 tỉnh , thành có

số lượng hội viên Chi hội Hội MTVN trên 15 người: Thừa Thiên - Huế - 48 người;

Đà Nẵng - 28 người; Bình Dương - 22 người; Hải Phòng, Thanh Hóa - 21 người;

231

Bắc Ninh - 20 người; Khánh Hòa - 19 người; Quảng Ninh - 18 người; Vĩnh Phúc,

Nghệ An 17 người; Thái Binh, Đắc Lắc - 15 người. Có 13 tỉnh, thành có số lượng

hội viên Chi hội Hội MTVN từ 10 đến 15 người: Ninh Bình, Lâm Đồng -14 người;

Phú Thọ, Cà Mau - 13 người; Hải Dương, Bình Định, Đồng Nai, Vĩnh Long -12

người; Thái Nguyên -11 người; Nam Định, Bắc Giang, Quảng trị, Đồng Tháp - 10

người. 35 Chi hội còn lại có từ 3 đến 9 hội viên: Hòa Bình, Tiền Giang - 9 người;

Lạng Sơn, Yên Bái, Quảng Nam, Long An, An Giang - 8 người; Quảng Bình, Gia

Lai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bến Tre, Kiên Giang - 7 người; Bắc Kạn, Lai Châu, Hà

Tĩnh, Tây Ninh, Ninh Thuận, Đắc Nông, Trà Vinh - 6 người; Hưng Yên, Lào Cai,

Điện Biên, Phú Yên, Quảng Ngãi, Bình Phước, Bạc Liêu - 5 người; Hà Nam, Hà

Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Kom Tum, Bình Thuận, Cần Thơ, Sóc Trăng - 4

người; Hậu Giang - 3 người [15, tr.185-186].

2. Số lượng người được đào tạo ở trình độ cử nhân ngành mỹ thuật tại một số

cơ sở đào tạo trong những năm gần đây

NCS tổng hợp số liệu sinh viên được đào tạo thuộc các nhóm ngành về mỹ

thuật từ nhiều nguồn, trong đó có báo cáo hằng năm về công tác giáo dục, đào tạo

lĩnh vực mỹ thuật của Bộ VHTTDL, một số tài liệu đã được công bố của Vụ Đào

tạo - Bộ VHTTDL; Bộ Giáo dục Đào tạo và trên trang website, cổng thông tin tuyển

sinh của các trường có đào tạo về mỹ thuật, có khả năng vẽ, sáng tác tranh hội họa

Điêu khắc (7210105 ), v.v. Cụ thể mã ngành từ 7210101 đến 7210110 của nhóm

theo bảng danh sách có mã số: 72101 trong đó hội họa (7210103); Đồ họa (7210104);

ngành Mỹ thuật và Mỹ thuật ứng dụng từ trang thông tin tuyển sinh như:

www.thongtintuyensinh.vn; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Thông tư số 24/2017/TT-

BGDDT Ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV trình độ đại học.

Nhóm ngành Mỹ thuật

Mã ngành Tên ngành

7210101 Lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật

7210103 Hội hoạ

7210104 Đồ hoạ

7210105 Điêu khắc

7210107 Gốm

7210110 Mỹ thuật đô thị

232

Nhóm ngành Mỹ thuật ứng dụng

Mã ngành Tên ngành 7210402 7210403 7210404 7210406 Thiết kế công nghiệp Thiết kế đồ họa Thiết kế thời trang Thiết kế mỹ thuật sân khấu, điện ảnh

Danh sách 29 trường đại học có tuyển sinh đào tạo một hoặc một số

ngành trong các nhóm ngành nêu trên

Tên trường Mã ngành đào tạo

Khu vực thành phố Hà Nội

Trường Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội 7210404

Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 7210404

Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội 7210403-7210404-7210105

Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp 7210103-7210105-7210107-

7210402-7210403-7210404

Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Á Châu 7210403-7210404

Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam 7210101-7210103-7210104-

7210105-7210403

Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội 7210406

Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương 7210103-7210403-7210404

7210403-7210404 Viện Đại học Mở Hà Nội

7210403 Trường Đại học FPT

7210403-7210404 Trường Đại học Hòa Bình

Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội 7210402-7210403

Trường Đại học Nguyễn Trãi 7210403

Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh

Trường Đại học Công nghiệp Tp.HCM 7210404

Trường Đại học Kiến trúc Tp.HCM 7210402-7210403-7210404

Trường Đại học Mỹ thuật Tp.HCM 7210101-7210103-7210104-

7210105-7210403

Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM 7210403-7210404

Trường Đại học Tôn Đức Thắng 7210402-7210403-7210404

233

Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn 7210402

Trường Đại học Công nghệ Tp.HCM 7210403-7210404

Trường Đại học Hoa Sen 7210403-7210404

Trường Đại học Nguyễn Tất Thành 7210403

Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng 7210402-7210403-7210404

Trường Đại học Văn Lang 7210402-7210403-7210404

Các khu vực khác

Trường Đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch 7210103-7210104-7210404

Thanh Hóa

Trường Đại học Kinh Bắc 7210403-7210404

Trường Đại học Nghệ thuật – Đại học Huế 7210103-7210104-7210105-

7210403-7210404

Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng 7210403

Trường Đại học Trà Vinh 7210402

Nguồn: Cổng thông tin tuyển sinh; địa chỉ truy cập http//:www.thituyensinh.vn

Một số trường hoặc trường có ban, khoa đào tạo ngành học mỹ thuật ở

trình độ đại học và cao đẳng có nhiều người tham gia các hoạt động mỹ thuật

TT

TÊN TRƯỜNG/KHOA

NĂM

(Mỹ thuật)

SỐ LƯỢNG (Chính thức/chỉ tiêu)

GHI CHÚ (Hình thức khác)

1 Đại học Mỹ thuật Việt Nam 142/140 2020

2 Đại học Mỹ thuật TP.HCM 209/200 + 15 liên thông 2020

3 Đại học Nghệ thuật - Đại học 2020 49/60 + 30

Huế (Đại học Mỹ thuật Huế)

4 Đại học Sân khấu - Điện ảnh 2020 60/82

Hà Nội/Khoa Thiết kế Mỹ

thuật

5 Cao đẳng Mỹ thuật trang trí 2020 282/250

Đồng Nai

6 Đại học Mỹ thuật Công 2020 170/419 + 45

nghiệp (hội họa, đồ họa và

điêu khắc)

234

7 Trường Đại học mở Hà Nội 2020 191/150

8 Đại học Sư phạm nghệ thuật 2020 + 100 liên thông 330/300

trung ương

9 Đại học Sư phạm Hà Nội 2020 20/283

(Sư phạm Mỹ thuật)

10 Cao đẳng Nghệ thuật Hà nội 2020 75/65 + 145 (trung cấp

(Hội họa và thiết kế đồ họa hệ có thể liên thông

cao đẳng) lên cao đẳng)

1428/2095 190 Tổng cộng

Nguồn: NCS tham khảo ý kiến từ cán bộ lãnh đạo của các trường, ban, khoa

và chỉ tiêu tuyển sinh tổng hợp từ trang website của các trường nêu trên

Số lượng người được đào tạo về mỹ thuật được NCS thống kê và ước tính

(do nguồn cung cấp số liệu về số lượng người học chính thức chưa tuyệt đối chính

xác) thông qua báo cáo tổng kết, thông tin trao đổi với các cán bộ lãnh đạo các

trường, ban khoa và thông tin đào tạo, chỉ tiêu tuyển sinh đăng tải trên các trang tin

điện tử của những cơ sở đào tạo có một hoặc một số ngành trong nhóm ngành mỹ

thuật nêu trên. Học viên được đào tạo tại những cơ sở này có thể sáng tác tác phẩm

hội họa và tham gia vào các hoạt động mỹ thuật qua nhiều hình thức khác nhau.

Đến nay, chưa có một tài liệu, báo cáo nào đề cập chi tiết, chính xác và đầy

đủ số lượng người được đào tạo về mỹ thuật ở trình độ cao đẳng, đại học hằng năm.

Những di biến động ngoài số lượng học viên sau đại học, cao đẳng chính quy còn

có hình thức đào tạo tương đương khác như vừa học – vừa làm; liên thông (hệ

không chính quy) NCS chưa đủ được điều kiện để cập nhật bổ sung.