BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ GIANG
ĐỀ TÀI MANG TÍNH LỊCH SỬ
TRONG TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1985
LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT
Hà Nội, 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ GIANG
ĐỀ TÀI MANG TÍNH LỊCH SỬ
TRONG TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1985
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60210102
Khóa :18 (2015-2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
PGS.TS : BÙI THỊ THANH MAI
Hà Nội, 2017
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
: Hình H
: Nhà xuất bản Nxb
PGS.TS : Phó giáo sư Tiến sĩ
TCN : Trước công nguyên
: Tác phẩm TP
: Trang Tr
: Tiến sĩ TS
VHNT : Văn hóa Nghệ thuật
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Bảng chữ cái viết tắt
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỀ TÀI MANG TÍNH LỊCH SỬ
VÀ TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1985 ........................ 12
1.1. Khái niệm “đề tài mang tính lịch sử” ....................................................... 12
1.2. Khái niệm “tranh sơn mài” ...................................................................... 17
1.3. Khái quát về tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 ................. 18
Tiểu kết ............................................................................................................ 23
Chương 2: SỰ PHẢN ÁNH ĐỀ TÀI MANG TÍNH LỊCH SỬ TRONG TRANH
SƠN MÀI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1985 ............................................. 25
2.1. Phân loại sự phản ánh đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài
Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 ..................................................................... 25
2.2. Sự phản ánh trong tranh sơn mài vẽ về sự kiện cách mạng ..................... 27
2.3. Sự phản ánh trong tranh sơn mài vẽ về các nhân vật mang tính lịch sử .. 39
Tiểu kết ............................................................................................................ 44
Chương 3: THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA MẢNG ĐỀ TÀI MANG TÍNH
LỊCH SỬ TRONG TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1985 .......... 47
3.1. Thành công của đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài Việt Nam. 47
3.2. Hạn chế của đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài Việt Nam. ............. 51
Tiểu kết ............................................................................................................ 55
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 60
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 65
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đầu thế kỷ XX cùng với sự xuất hiện của trường Mỹ thuật Đông Dương,
nghệ thuật tạo hình hiện đại Việt Nam đã ra đời. Sự xuất hiện của một số
trường Mỹ thuật như trường Bách nghệ Biên Hòa (1903), trường Vẽ Gia Định
và trường Mỹ thuật Đông Dương (1925) đã tạo điều kiện là môi trường đào
tạo được nhiều họa sĩ, nhà điêu khắc theo xu hướng nghệ thuật hiện đại. Họ
đã sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài mang tính lịch sử, với những tác phẩm
lớn như: Xô Viết Nghệ Tĩnh của tập thể các họa sĩ (Nguyễn Đức Nùng,
Nguyễn Sĩ Ngọc, Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn,
Nguyễn Văn Tỵ) (H2.1.1); Quảng trường Ba Đình 2/9/1945 (Văn thơ)
(H2.1.9); Rời lều cỏ Bác tiếp tục hành quân (Nguyễn Trọng Kiệm) (H1.1.9);
Kéo pháo vào Điện Biên Phủ (Dương Hướng Minh) (H2.1.2).
Trong giai đoạn 1945 – 1985 là giai đoạn tranh sơn mài có được những
thành công về mặt tạo hình, sơn mài thoát khỏi lối vẽ trang trí truyền thống
của những năm 1925 mà từ năm 1945 trở lại đây các họa sĩ say mê tìm tòi,
đưa các yếu tố và phương pháp tạo hình phương tây để bố cục vào tác phẩm.
Hơn nữa đây là thời kỳ mà tranh sơn mài gây được nhiều tiếng vang trong
giới nghệ thuật với khả năng diễn tả, sử lý chất liệu độc đáo, kỹ thuật thể hiện
tinh tế và đặc biệt là mảng đề tài của tranh sơn mài giai đoạn này cũng được
mở rộng. Ngoài những tác phẩm thể hiện đề tài về phong cảnh, chân dung,
tĩnh vật, để phản ánh chân thực giai đoạn dân tộc có nhiều biến động với hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và giải phóng dân tộc, bằng ngôn
ngữ của hội họa các họa sĩ đã ghi lại những sự kiện và con người có sức ảnh
hưởng đến dân tộc Việt Nam. Các tác phẩm được ra đời với mục đích phản
ánh hoàn cảnh xã hội đó, sau này nhìn lại không chỉ có giá trị về mặt tạo hình
mà nó còn có ý nghĩa lịch sử. Nhưng với mục đích sáng tác chỉ để phản ánh
2
những vấn đề của thời đại mà những tác phẩm đó chỉ mang tính lịch sử mà
không phải tranh lịch sử. Tuy không đáp ứng được hết những yêu cầu khắt
khe trong sáng tác tranh lịch sử nhưng những tác phẩm mang tính lịch sử đã
phần nào phản ánh được những vấn đề thời địa một cách chân thực, khái quát
nhất, mà qua đó những người yêu nghệ thuật thưởng ngoạn những tác phẩm
này vẫn hình dung được một giai đoạn hào hùng trong lịch sử. Cùng với đó,
những sáng tác thuộc mảng đề tài này lại được thể hiện trên chất liệu sơn mài
vì vậy vẫn còn một số hạn chế. Bởi với chất liệu sơn mài không chỉ đòi hỏi
người nghệ sĩ nắm chắc về chuyên môn mà ở đó còn đòi hỏi người nghệ sĩ
cần có sự khéo léo, kiên trì với chất liệu. Hơn thế đề tài mang tính lịch sử
không chỉ phản ánh hiện thực khách quan mà nó còn gợi lại những yếu tố của
lịch sử. Và khi nhắc đến tranh mang tính lịch sử nhiều người cho rằng nó gắn
liền với lịch sử đấu tranh, sự phát triển của xã hội, ghi lại những dấu ấn tiêu
biểu của từng thời kỳ nên sẽ khô khan, chưa hấp dẫn do thiếu đi tính rung cảm
của tâm hồn nghệ sĩ trước mảng đề tài này.
Vậy vấn đề đặt ra đó là việc thể hiện những giá trị lịch sử, giá trị thẩm
mỹ và ý nghĩa của mảng đề tài này trong sáng tác nghệ thuật tạo hình như thế
nào? Vì vậy tôi chọn đề tài: “Đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985” Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu sâu
hơn về một mảng đề tài quan trọng, trên một chất liệu được cho là truyền
thống của dân trong nghệ thuật hội họa hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 –
1985” là một đề tài có tính chất chuyên sâu, để tìm hiểu và làm rõ sự phản
ánh của đề tài mang tính lịch sử trong chất liệu sơn mài giai đoạn 1945 –
1985. Ngoài việc nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố lịch sử trong Hội họa nói
riêng và nghệ thuật tạo hình nói chung đã được nhiều công trình giới thiệu,
3
nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài
viết nhắc đến các vấn đề có liên quan, đó là những tài liệu hữu ích cho việc
nghiên cứu đề tài được tốt hơn. Những công trình có liên quan đến đề tài
mang tính lịch sử trong tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985 có thể
chia thành ba nhóm sau:
Thứ nhất gồm các công trình cung cấp thông tin lý luận, giải thích các
vấn đề liên quan đến đề tài mang tính lịch sử.
Cuốn Mỹ thuật Việt Nam hiện đại (Nxb Viện Mỹ thuật – Trường Đại học
Mỹ thuật Việt Nam) [2]. Của tác giả Nguyễn Lương Tiểu Bạch chủ biên
cùng các tác giả: Bùi Như Hương, Phạm Trung, Nguyễn Văn Chiến là cuốn
được Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật xuất bản năm 2005
đã thống kê các tác phẩn nghệ thuật Việt Nam hiện đại với hệ thống hình ảnh
và phê bình nghệ thuật, cung cấp một lượng thông tin lớn về những giai đoạn
phát triển của của mỹ thuật Việt Nam cùng các tác phẩm và những thông tin
thiết thực về các phẩm nghệ thuật được đề cập. Trong cuốn mỹ thuật Việt
Nam hiện đại là hệ thống các lý luận, tư duy phân tích những vẻ đẹp và những
đóng góp của các chất liệu, các tác phẩm mỹ thuật vào nền mỹ thuật Việt
Nam. Trong đó có nhắc tới một số tác phẩm liên quan đến đề tài mang tính
lịch sử một đề tài góp phần làm lên thành công của hội họa Việt Nam ngày
hôm nay.
Cuốn Tác phẩm mỹ thuật (Nxb Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam) [7]. Tuyển
tập là hệ thống các thông tin về mỹ thuật Việt Nam qua các thời kỳ, thế kỷ.
Mỹ thuật từ thời tiền sử và sơ sử, mỹ thuật từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX đến
mỹ thuật thế kỷ XX. Tuyển tập đã giới thiệu dựa trên những thông tin hữu ích
về quá trình hình thành và phát triển của lịch sử Việt Nam. Cùng những hình
ảnh liên quan. Trong đó tuyển tập cũng đã đề cập đến và giới thiệu một số tác
phẩm thuộc mảng đề tài mang tính lịch sử trên chất liệu sơn mài Việt nam.
4
Cuốn Tính sự kiện và tính thẩm mỹ trong tranh lịch sử của Dương Văn
Chung hoàn thành năm 2012 là Luận văn Thạc sĩ mỹ thuật, Trường Đại Học
Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội [5]. Trong công trình nghiên cứu này tác giả đã
phân loại được đề tài lịch sử và các đặc trưng nghệ thuật của tranh lịch sử. Từ
đó ta hiểu hơn những vấn đề liên quan đến mảng đề tài này với giá trị nội
dung mà nó đem lại. Công trình nghiên cứu này cũng chỉ là nghiên cứu riêng
lẻ có tính khái quát những vấn đề về tranh lịch sử. Từ việc tham khảo để tài
nghiên cứu của học viên thực hiện giúp người viết tiếp thu và chọn lọc những
vấn đề nhất định, giúp cho nội dung của bài luậ văn được sáng rõ hơn.
Cuốn Mỹ thuật Hà Nội Thế kỷ XX, của Trần Khánh Chương xuất bản
năm 2012 [6]. Trong công trình nghiên cứu này tác giả trình bày các vấn đề
về mỹ thuật Hà Nội trong các lĩnh vực sáng tác, triển lãm, tác giả – tác phẩm.
Các sự kiện, số liệu và nhận định, đánh giá ở tất cả các loại hình mỹ thuật như
hội họa, đồ họa, điêu khắc, mỹ thuật ứng dụng, sân khấu, điện ảnh, nghiên
cứu – lý luận – phê bình mỹ thuật...Tuyển tập cung cấp một lượng thông tin
khá chuẩn xác và đa dạng về mỹ thuật Hà Nội suốt thế kỷ XX, trong đó có
đề cập đến một số tác giả tác phẩm sáng tác đề tài mang tính lịch sử, khái
quát được các vấn đề xã hội và sáng tác của giới mỹ thuật trong giai đoạn
1945 – 1985.
Trong bài Tính dân tộc và hiện đại trong Nghệ thuật tạo hình, của tạp
chí Hội Mỹ thuật Việt Nam xuất bản năm 2011 [12]. Trong công trình nghiên
cứu này, tác giả đã đề cập đến một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu thuộc thể
loại tranh Lich sử.
Cuốn Kỷ yếu hội thảo Sáng tác Mỹ thuật về đề tài Lịch sử Việt Nam của
Hội Mỹ thuật Việt Nam xuất bản năm 2012 [13]. Trong hội thảo các nhà quản
lý, lý luận phê bình mỹ thuật đã tập trung thảo luận thực trạng sáng tác mỹ
thuật về đề tài lịch sử trong những năm qua; đặc thù sáng tác mỹ thuật về đề
tài lịch sử Việt Nam qua các loại hình: hội họa, đồ họa, điêu khắc; các quan
5
niệm khác nhau trong sáng tác mỹ thuật về đề tài lịch sử; sự phản ánh lịch sử
trong sáng tác mỹ thuật từ trước tới nay qua các loại hình: tranh dân gian, điêu
khắc đình làng; mục đích tìm kiếm, sáng tạo về đề tài lịch sử trong mỹ thuật;
các nguyên tắc sáng tác về đề tài lịch sử; phương pháp phổ biến, giáo dục lịch
sử Việt Nam bằng nghệ thuật tạo hình, kinh nghiệm và đề xuất... dựa trên
những thảo luận về mảng đề tài này phần nào giúp bài nghiên cứu có một cái
nhìn chung về mảng đề tài lịch sử và mang tính lịch sử.
Cuốn Các bậc thầy hội họa Việt Nam Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí,
Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái (Nxb mỹ thuật) của tác giả Hoàng Công Luận,
Nguyễn Quân biên tập xuất bản năm 1994 [15]. Tập sách giới thiệu tới người
xem bốn họa sĩ ở thế hệ thứ nhất của hội họa Việt Nam hiện đại, trong đó giới
thiệu chi tiết về các tác giả và tác phẩm tiêu biểu với nhiều chất liệu và đề tài
khác nhau. Trong đó cuốn sách có giới thiệu một số thồn tin về chất liệu sơn
mài và tác phẩm hội họa với đề tài mang tính lịch sử.
Công trình nghiên cứu Đề tài lịch sử và sự phản ánh lịch sử trong hội
họa Việt Nam, đăng trên tạp chí mỹ thuật của tác giả Bùi Thị Thanh Mai phát
hành năm 2012 [16]. Trong công trình nghiên cứu này tác giả đã làm rõ khái
niệm lịch sử, tranh lịch sử và đi sâu nghiên cứu một số tác phẩm thuộc mảng
đề tài này để chỉ ra được giá trị nghệ thuật và ý nghĩa của mảng đề tài này
trong hội họa Việt Nam.
Cuốn Nghệ thuât tạo hình với đề tài lịch sử, đăng trên tạp chí mỹ thuật
của tác giả Hoàng Hoa Mai phát hành năm 2013 [17]. Tác giả đề cập một số
yếu tố lịch sử được các họa sỹ, nhà điêu khắc phản ánh trong nghệ thuật thông
qua việc giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu.
Cuốn Mỹ thuật thủ đô Hà Nội thế kỷ 20 của tác giả Nguyễn Quang
Phòng chủ biên [23]. Tuyển tập là hệ thống lý luận và hình ảnh về nghệ thuật
truyền thống và mỹ thuật thủ đô Hà Nội thế kỷ 20 qua các chặng đường hình
thành và phát triển suốt 100 năm, trong tuyển tập có thống kê chi tiết sự phát
6
triển qua các giai đoạn lịch sử 1900 – 1925, 1925 – 1945, 1945 –1975, 1975
– 2000. Trong đó tuyển tập cũng đề cập và cung cấp các thông tin về chất liệu
sơn mài Việt Nam, cùng sự thành công và phát triển. Trong tuyển cập có đề
cập đến một số tác phẩm thuộc mảng đề tài mang tính lịch sử.
Cuốn Các họa sĩ trường Cao đẳng Đông Dương (Nxb Nghệ thuật Hà
Nội) của tác giả Nguyễn Quang Phòng chủ biên xuất bản năm 1993 [22].
Cuốn sách giới thiệu về trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương với nền hội
họa Việt Nam cùng một số tác giả có tác phẩm thuộc chất liệu sơn mài với đề
tài mang tính lịch sử cùng một số thông tin bổ ích về nguồn gốc, sự hình
thành và thành phần đặc biệt của chất liệu sơn mài.
Cuốn Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại (Nxb Mỹ thuật) của tác giả
Nguyễn Quân xuất bản năm 2010 [24]. Ở công trình nghiên cứu này tác giả
đã đi sâu nghiên cứu thành tựu của Mỹ thuật Việt Nam hiện đại, trong đó có
đề cập đến một số tác phẩm tiêu biểu về hình tượng người chiến sỹ được phản
ánh trong các sự kiện lớn của đất nước trên rất nhiều chất liệu, trong đó có cả
chất liệu sơn mài.
Cuốn Mỹ thuật thế kỷ XX (Nxb Mỹ thuật) của tác giả Nguyễn Quân xuất
bản năm 2010 [25]. Tác giả đi sâu nghiên cứu những yếu tố văn hóa, xã hội,
thành tựu của Mỹ thuật Việt Nam từ 1925 đến này. Trong đó, sự mở rộng đề
tài và thành công về hình tượng nghệ thuật được đánh giá và tổng kết, rất
nhiều các tác phẩm nghệ thuật được nhắc đến trong đó có các tác phẩm phản
ánh sự kiện lịch sử.
Thứ hai gồm các công trình cung cấp các thông tin về hệ thống lý luận
và hình ảnh, trình bày giải thích các vấn đề liên quan đến chất liệu sơn mài.
Cuốn Hội họa sơn mài Việt Nam (Nxb Mỹ thuật) của tác giả Trương
Hạnh biên tập xuất bản năm 2006 [9]. Tập sách là những giới thiệu và trình
bày về lịch sử nghề sơn, sự ra đời và phát triển của hội họa sơn mài Việt Nam
qua các giai đoạn, thời kỳ với những đặc điểm và kỹ thuật thể hiện sơn mài,
7
cùng với sự xuất hiện và nguồn gốc của các màu sơn mài. Tuyển tập cung cấp
các thông tin cần thiết về hiệu quả đặc biệt của chất liệu này trong hội họa
Việt Nam.
Cuốn Tranh sơn mài Việt Nam (Nxb Mỹ thuật) của tác giả Hoàng Hữu
Tâm xuất bản năm 2009 [27]. Tác giả đi sâu phân tích thành tựu, đặc điểm,
kỹ thuật thể hiện của chất liệu sơn mài, tuyển tập cũng giới thiệu một số tác
giả, tác phẩm tiêu biểu về đề tài mang tính lich sử được thể hiện trong
tranh sơn mài.
Thứ ba gồm các công trình cung cấp hệ thống hình ảnh liên quan đến đề
tài mang tính lịch sử.
Cuốn Mỹ thuật hiện đại Việt Nam (Nxb Mỹ thuật) cuốn sách là sưu tập
của Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh [8]. Tuyển tập giới thiệu hơn 200 tranh
tượng trong số 5000 tác phẩm mỹ thuật hiện đại của Bảo tàng, đem đến cho
người xem cảm nhận về sự phong phú và đa dạng về thể loại, chất liệu, đề tài,
phong cách nghệ thuật của mỹ thuật hiện đại khu vực phía nam nói chung .
Tuyển tập còn phản ánh quá trình hình thành và phát triển của mỹ thuật Việt
Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay ở khu vực Nam Bộ với những nét riêng do sự
khác nhau về hoàn cảnh địa lý, lịch sử nhất định. Cuốn sách cũng giới thiệu
một số nét đặc trưng tiêu biểu của từng tác giả, từng giai đoạn, sự độc đáo về
nội dung và hình thức thể hiện của nhiều nghệ sĩ sáng tác trong giai đoạn
1945 –1975.
Cuốn Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ 1975 – 2005 (Nxb mỹ thuật) [18].
Tuyển tập giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật nhằm phản ánh về căn bản diện
mạo của nền mỹ thuật Việt Nam gần đây. Tuyển tập giúp người xem thấy
được sự phong phú và đa dạng của nền mỹ thuật Việt Nam trên nhiều chất
liệu và thể loại trong những năm tháng sau chiến thắng lịch sử vĩ đại mùa
8
xuân năm 1975. Trong đó tuyển tập cũng giới thiệu một số tác phẩm nổi tiếng
thuộc đề tài mang tính lịch sử.
Cuốn 50 năm tranh tượng lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng
của Nxb Mỹ thuật và Nxb quân đội nhân dân [10]. Tuyển tập giới thiệu hệ
thống các tác phẩm tranh tượng về lực lượng vũ trang và chiến tranh Cách
mạng với hàng trăm nghệ sĩ tạo hình Việt Nam qua các thế hệ từ chống Pháp
đến chống Mỹ và hiện nay. Trong rất nhiều các tác phẩm được giới thiệu
trong tuyển tập đề tài mang tính lịch sử là đề tài không thể thiếu.
Cuốn Nghệ thuật tạo hình Việt Nam (Nxb Văn Hóa) [20]. Tuyển tập giới
thiệu thông tin các tác phẩm nghệ thuật từ những năm tháng khởi đầu của nền
mỹ thuật Việt Nam, đã cung cấp một số lượng các hình ảnh bổ ích về các
mảng đề tài trong hội họa, trong đó có mảng đề tài mang tính lịch sử trên chất
liệu sơn mài.
Cuốn Tuyển tập mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX (Nxb Bộ Văn hóa thông
tin) của tác giả Nguyễn Thu Thủy, Vi Kiến Thành chủ biên xuất bản năm
2003 [28]. Tuyển tập là những đánh giá và sự nhìn nhận lại một chặng đường
của một thế kỷ mỹ thuật Việt Nam - thế kỷ XX của Bộ Văn hóa thông tin
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua việc thống kê và tuyển chọn
những tác giả, tác phẩm tiêu biểu qua các thời kỳ đã có công đóng góp cho sự
phát triển của nền văn hóa dân tộc, cuốn sách giới thiệu một chặng đường lịch
sử của nền mỹ thuật Việt Nam trong sự đóng góp vào việc xây dựng một nền
mỹ thuật phát triển. Trong rất nhiều các tác phẩm và tác giả được nêu trong
tuyển tập có không ít các tác giả sáng tác đề tài mang tính lịch sử trên chất
liệu sơn mài.
Cuốn Mỹ thuật kháng chiến (Nxb Văn hóa) của tác giả Trần Bảo Yên
xuất bản năm 2011 [31]. Tác giả đã nghiên cứu và đề cập đến những thay đổi
9
về nội dung, thể loại của Mỹ thuật giai đoạn kháng chiến qua các tác giả, tác
phẩm nghệ thuật, trong đó có tranh mang tính Lịch sử.
Cuốn Tác giả tác phẩm mỹ thuật thời kỳ chiến tranh cách mạng (Nxb Hồ
Chí Minh) [28]. Tuyển tập là những thống kê, sưu tập một phần nhỏ các tác
giả, tác phẩm trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược. Giúp người xem tiếp cận và được chiêm ngưỡng gián tiếp các sáng
tác nghệ thuật ấy. Từ đó người xem phần nào hiểu được cuộc chiến đấu gian
khổ, khốc liệt của một dân tộc kiên cường chống giặc ngoại xâm nhưng đầy
lạc quan và tin tưởng vào chiến thắng. Từ đó truyền tải đến người xem
cảm nhận trong từng tác phẩm đó không chỉ là màu sắc, đường nét mà có
cả máu xương của các họa sĩ Việt Nam. Trong rất nhiều các sáng tác đó
có không ít các tác phẩm sáng tác về đề tài mang tính lịch sử trên chất
liệu sơn mài.
Qua một số tác phẩm kể trên cho thấy chưa có nhà nghiên cứu nào đi
sâu nghiên cứu giá trị tạo hình của tranh mang tính lịch sử trong nghệ thuật
tạo hình giai đoạn 1945 – 1985. Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu của
người đi trước, đề tài đi sâu tìm hiểu giá trị tạo hình của tranh mang tính lịch
sử trong tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985.
3. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu những sáng tác nghệ thuật về đề tài mang tính lịch sử trong
chất liệu sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985.
Trên tư liệu văn bản và tư liệu ảnh sưu tầm các tác phẩm trong thực tế.
Luận văn chỉ ra những giá trị nghệ thuât của những sáng tác thuộc mảng đề
tài mang tính lịch sử trong chất liệu sơn mài Việt Nam. Nêu những điều rút ra
được từ việc nghiên cứu vấn đề khi viết luận văn. Qua đó, đề tài góp một
phần nhỏ vào vấn đề nghiên cứu hội họa, ứng dụng trong sáng tác.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
10
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đề tài mang tính lịch sử trong
Tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số tác phẩm về đề tài mang tính lịch
sử trong tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phân tích tài liệu: Tiếp cận hệ thống. Tổng hợp hệ thống các tư liệu ảnh,
văn bản về những sáng tác mỹ thuật liên quan đến đề tài mang tính lịch sử
trong tranh sơn mài. Trên cơ sở đó, tiến hành nghiên cứu từng trường hợp để
thấy được đặc điểm của từng tác phẩm. Sau đó tổng hợp nguồn tư liệu văn
bản và tiến hành so sánh đối chiếu những thông tin thu thập từ tài liệu. Việc
xử lý thông tin sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác cho các luận điểm khoa
học của luận văn.
Phân tích những sáng tác mỹ thuật tiêu biểu… từ đó làm rõ giá trị của
những tác phẩm nghệ thuật với đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài
Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu sưu tầm: thu thập, nghiên cứu, tổng hợp tài liệu
của các học giả đi trước và phân loại thông tin để tìm cơ sở lý thuyết liên
quan đến nội dung và đối tượng nghiên cứu, thống kê các tài liệu và kết quả
nghiên cứu của những người đi trước liên quan đến đề tài. Tra từ điển, sách
công cụ, sách chuyên ngành tham khảo...
Phương pháp diễn dịch: Luận văn sử dụng phương pháp diễn dịch để
trình bày và làm rõ vấn đề phản ánh đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn
mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn:
Góp phần hệ thống các tài liệu về đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn
mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985.
11
Thông qua việc nghiên cứu giá trị tạo hình và giá trị nội dung mà các tác
phẩm hội họa với đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài Việt Nam thể
hiện để thấy được tài năng, sức sáng tạo của các họa sỹ và tầm ảnh hưởng của
mảng đề tài này đối với nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
Góp phần làm rõ những giá trị về nghệ thuật và thẩm mĩ của các tác phẩm
hội họa với đề tài mang tính lịch sử.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm (86 trang), bao gồm phần mở đầu (11 trang), kết luận (2
trang). Phần nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về đề tài mang tính lịch sử và tranh sơn mài
Việt Nam giai đoạn 1945 –1985 (13 trang)
Chương 2: Sự phản ánh đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài Việt
Nam giai đoạn 1945 – 1985 (22 trang)
Chương 3: Thành công và hạn chế của mảng đề tài mang tính lịch sử trong
tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985 (11 trang)
Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo (3 trang), phụ lục ảnh (22 trang)
12
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỀ TÀI MANG TÍNH LỊCH SỬ
VÀ TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1985
1.1. Khái niệm “đề tài mang tính lịch sử”
Trước khi đi sâu tìm hiểu khái niệm “đề tài mang tính lịch sử” là gì cần
làm rõ một số khái niệm liên quan như: “đề tài”; “lịch sử”. Đó là những khái
niệm cơ bản, cần thiết giúp người nghiên cứu hiểu đầy đủ hơn khái niệm “đề
tài mang tính lịch sử” trong tranh.
Theo Từ điển tiếng Việt có viết “đề tài là đối tượng để nghiên cứu hoặc
miêu tả, thể hiện trong các tác phẩm khoa học hoặc văn học, nghệ thuật” [21,
tr.184].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học khái niệm đề tài được giải thích như
sau: “đề tài là thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi các sự kiện tạo nên cơ sở chất
liệu đời sống của tác phẩm nghệ thuật. Khái quát hơn, đề tài thể hiện phạm vi
miêu tả trực tiếp của tác phẩm nghệ thuật. Ở phương diện nhất định, khái
niệm đề tài gắn với khái niệm chủ đề của tác phẩm”. [1, tr.127]
Như vậy đề tài là cấp độ đầu tiên của nội dung nghệ thuật, những thế
giới khác nhau trong cuộc sống, từ thế giới tự nhiên đến xã hội, thậm chí là
thế giới hoang đường, kỳ ảo, chỉ có trong tưởng tượng. Đề tài chưa phải là nội
dung đích thực của tác phẩm mặc dù ngay trong việc lựa chọn vấn đề để thể
hiện ở mức độ nhất định nó đã chứa đựng cách nhìn, sự nhận thức của nghệ sĩ
đối với cuộc sống.
Còn đối với lích sử, có nhiều cách định nghĩa, khái niệm khác nhau.
Trong thực tế, những khái niệm, những định nghĩa bao giờ cũng cụ thể và
hiểu theo nghĩa tương đối về nội dung của khái niệm. Lịch sử là cái gì đã qua.
Nó là quá khứ nhưng phải là một quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với
người trong quá trình đấu tranh để tồn tại. Với ý nghĩa đó trên một tư duy
mới, cụm từ lịch sử là cả một quá trình vận động của con người từ xưa tới nay
13
bao gồm cả lịch sử cổ đại, lịch sử phong kiến và lịch sử cách mạng. Nhiều ý
kiến của các nhà phê bình mỹ thuật thì sáng tác mỹ thuật về đề tài lịch sử là
phản ánh lại những sự kiện, những nhân vật có ảnh hưởng tích cực đến xã hội
mà nhân dân yêu cầu. Khái niệm đó được lý giải chặt chẽ, sát thực và tương
đối đầy đủ. Nó phản ánh một phương pháp luận có ý nghĩa thực tiễn nhưng
đồng thời cũng rất cụ thể cho một thực tế vận động của xã hội mà các nghệ sĩ
tạo hình đã và đang sáng tạo.
Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Lịch sử là những việc trải qua của
một dân tộc được nghi chép lại” [14, tr.344]. Ở một số thông tin khác “lịch sử
là danh từ diễn tả quá trình phát sinh, phát triển cho đến tiêu vong của sự kiện
nào đó, được nghiên cứu và ghi chép lại”. [1, tr.315]
Qua một số khái niệm lý giải trên, có thể nhìn nhận lịch sử là bộ môn
khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con
người, xã hôi. Các vấn đề mà lịch sử đề cập tới thường có liên quan đến các
sự kiện trong quá khứ cũng như những, phát hiện, thu thập, ghi nhớ, tổ chức,
trình bày hay giải thích thông tin về những sự kiện này. “Theo Herodotus,
một nhà sử học thời Hy Lạp ở thế kỷ thứ V TCN được coi là "cha đẻ của lịch
sử phương Tây", và cùng với ông là Thucydides đã góp phần tạo nền tảng cho
việc nghiên cứu hiện đại của lịch sử nhân loại”. [16, tr.1]
Những ảnh hưởng từ thời Cổ đại đã giúp con người ngày nay tạo ra hàng
loạt các quan niệm về bản chất của lịch sử. Các quan niệm này đã phát triển
qua nhiều thế kỷ và nó tiếp tục thay đổi mạnh mẽ cho đến ngày hôm nay.
Tiếng Hy Lạp: ἱ στορία, historia, có nghĩa là "sự tìm hiểu kiến thức bằng
cách điều tra". Khi nói đến lịch sử, theo giải thích đơn giản, lịch sử là những
gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Với ý nghĩa đó, lịch sử
bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện do đó khó định nghĩa chính
xác và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử được rất nhiều nhà nghiên cứu
14
đưa ra” [16, tr.1]. Theo định nghĩa phổ thông thì lịch sử có mấy nghĩa sau
đây:
Thứ nhất: lịch sử là những gì thuộc về quá khứ, là toàn thể quá trình
chuyển biến từ khi phát sinh hoặc có thể trong một thời gian nhất định; Lich
sử là sự vận động của nhiều thế hệ qua các thời đại.
Thứ hai: nói đến lịch sử là nói về một việc trọng yếu xảy ra có liên quan
đến thời đại. Theo từ nguyên, lịch là cái đã trải qua, rõ ràng, sử là sách chép
việc đã qua. Lịch sử là việc biên chép những sự biến thiên, diễn cách trải qua
các thời đại.
Tuy nhiên lịch sử cũng không có khả năng ghi chép toàn bộ biến cố trong
đời sống xã hội. Bởi trong quá trình ghi chép, chịu sự chi phối của nhiều yếu
tố như: bối cảnh, thời đại, thế giới quan, nhân sinh quan của người chấp bút.
Cùng với các nhà sử gia, nghệ thuật tạo hình cũng là một phương tiện quan
trọng góp phần quan trọng trong việc ghi chép, phản ánh những trang sử hào
hùng của dân tộc bằng ngôn ngữ của màu sắc, đường nét, hình khối, bố cục.
Vì vậy, tranh lịch sử là thể loại tranh phản ánh các đề tài liên quan đến
lịch sử như lịch sử một dân tộc, lịch sử một cá nhân, lịch sử của một giai đoạn
cách mạng. Trong tranh Đã chiếm được Cung điện Mùa Đông, họa sĩ Nga
Cepob vẽ hai chiến sĩ Hồng quân đứng ở bậc thềm Cung điện – nơi Hồng
quân vừa mới chiếm được sau cuộc chiến đấu đầu tiên của Cách Mạng tháng
Mười Nga. Tranh Rút chạy khỏi nước Nga của họa sĩ Pháp Meissonnier thể
hiện hình ảnh Napoléon buồn bã trên lưng ngựa cùng đoàn quân xâm lược bại
trận đang rút khỏi cánh đồng băng giá nước Nga vào mùa đông năm 1812.
[19, tr.140]
Các họa sĩ vẽ tranh lịch sử phải bắt đầu từ sự nghiên cứu các sự kiện lịch
sử chính xác, sâu sắc đến từng chi tiết mới có thể tạo ra những tác phẩm có
giá trị. Ở phương Tây các tác phẩm vẽ về đề tài lịch sử được hình thành trong
15
bối cảnh lịch sử của họ. Những tác phẩm đó chủ yếu giải thích về quá khứ đã
qua. Cũng có thể thông qua những tác phẩm của họ cung cấp những bài học
cho xã hội. Tác phẩm “Trao chìa khóa thành Breda” (H1.1) là một ví dụ
điển hình. Như vậy có thể nhận định nhiệm vụ của tranh lịch sử là tường
thuật và phân tích các sự kiện trong quá khứ liên quan đến con người thông
qua hình ảnh.
Nếu tranh lịch sử là tranh phản ánh các đề tài liên quan đến lịch sử như
lịch sử một dân tộc, lịch sử một cá nhân, lịch sử một giai đoạn cách mạng thì
tranh mang tính lịch sử là những sáng tác gần với đề tài lịch sử, có yếu tố lịch
sử. Như vậy tranh mang yếu tố lịch sử vẫn có thể đáp ứng được các thông tin
cơ bản về sự kiện lịch sử. Tranh mang yếu tố lịch sử chứa đựng hình ảnh lịch
sử nhưng không đòi hỏi người nghệ sĩ phải diễn tả chính xác từng chi tiết,
từng đặc điểm như tranh lịch sử. Với thể loại tranh này, nội dung tranh chủ
yếu chỉ phản ánh những yếu tố lịch sử trong thời gian đã qua của cá nhân, dân
tộc, thời đại. Tranh miêu tả những sinh hoạt xã hội mang tính lịch sử là những
tranh vẽ về cuộc sống và sinh hoạt của con người trong quá khứ. Ở châu Âu,
trong giai đoạn Tiền Phục hưng, thường là tranh vẽ về đề tài tôn giáo. Đề tài
này như một cái cớ để thể hiện tranh có tính sinh hoạt xã hội, hoặc để giải
thích nó như những sự kiện lịch sử. Trong nghệ thuật nói chung, thời đó
không có sự phân biệt giữa đề tài tôn giáo và lịch sử. Vì vậy một loạt tranh
tường miêu tả Chúa bị đóng đinh trên cây thánh giá của P.Francesca thế kỷ
XV ở nhà thờ Thánh Phrancos tại Ý cũng có thể được coi là tranh mang tính
lịch sử.
Trường Mỹ thuật Đông Dương thành lập đưa Mỹ thuật Việt Nam ra khỏi
giai đoạn khuyết danh. Sự xuất hiện của các nghệ sĩ đã làm thay đổi cách nhìn
nhận của xã hội. Gắn với hiện thực xã hội là công cuộc đấu tranh cách mạng
dành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các họa sĩ đã kịp thời phản ánh
16
hiện thực xã hội vào trong tác phẩm một cách khái quát. Những sự kiện, nhân
vật tiêu biểu được ghi chép sinh động bằng ngôn ngữ tạo hình. Dựa trên các
tư liệu đó, các họa sỹ sáng tác những tác phẩm nghệ thuật, diễn tả một sự kiện
hay một nhân vật có trong lịch sử. Những tác phẩm đó ngoài giá trị tạo hình
còn có giá trị cung cấp thông tin mang yếu tố lịch sử. Nội dung tranh mang
tính lịch sử là một câu chuyện về các sự kiện lịch sử, nhân vất lịch sử được
xây dựng thông qua phương pháp, thủ pháp tạo hình, tác động đến người xem
qua kênh thông tin hình ảnh. Có thể kể đến một số tác phẩm như Anh hùng
Nguyễn Văn Quang trận sông cầu, của Huỳnh Phương Đông (H1.5), Bế Văn
Đàn lấy thân mình làm giá súng (1957) của họa sĩ Lê Vinh (H1.6), Những
năm tháng Bác ở Chiến khu Việt Bắc (H1.7), Bác Hồ trong đám tang Lê-nin
(H1.9), của họa sĩ Văn Thơ, Bác Hồ làm việc tại Bắc Bộ Phủ (1946) Tô Ngọc
Vân (H1.8), Hoàng Lệ Kha ra pháp trường (1960) Phạm Viết Song (H1.10),
La Văn Cầu (1958) Lê Vinh (H1.11), Rời lều cỏ Bác tiếp tục hành quân
(1985), Nguyễn Trọng Kiệm (H1.12), Trận Tầm Vu, (1948), Nguyễn Hiêm,
(H1.13), Đấu tranh chống bắt lính tại Thị Xã Vĩnh Long Kim Bạch (H1.14).
Trong giai đoạn 1945 – 1985 là thời kỳ hội họa Viêt Nam có nhiều biến
chuyển mạnh mẽ trong sáng tác nghệ thuật. Là thời kỳ mà điều kiện về chất
liệu tạo hình vẫn còn nhiều hạn chế. Đây cũng là giai đoạn mà các nghệ sĩ
cũng là chiến sĩ, tích cực tham gia chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ
quốc. Chính sự khắc nghiệt của hoàn cảnh xã hội mà những sáng tác của họ
chủ yếu là ký họa. Với đặc trưng ngôn ngữ và kỹ thuật thể hiện, ký họa đáp
ứng được hoàn cảnh, môi trường của chiến tranh. Hơn nữa chất liệu dùng cho
ký họa rất đơn giản và không cầu kỳ. Họa sĩ chỉ cần một tờ giấy, một cây bút,
cũng có thể là mảng bìa cotong cũng có thể ghi chép được những biến động
của cuộc sống. Ký họa cũng là cách giúp người họa sĩ ghi chép tài liệu một
cách nhanh nhất những hình ảnh của trận chiến một cách chân thực. Sau ngày
17
đất nước hòa bình, dựa trên những tư liệu ký họa trong thời chiến về sự kiện
lịch sử và nhân vật lịch sử, họa sỹ đã tái hiện lại trên chất liệu nghệ thuật tạo
hình. Vì vậy hầu hết những tác phẩm phản ánh các sự kiện, các nhân vật lịch
sử được vẽ dựa trên những tư liệu của ký họa đó phần lớn mang tính lịch sử.
Với mục đích ghi lại lịch sử các cuộc chiến tranh hoặc xây dựng hình ảnh
các nhân vật lịch sử nên tranh mang tính lịch sử luôn nhằm mục đích giáo
dục, ca ngợi, cổ vũ và nuôi dưỡng nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước và
căm thù giặc. Với ý nghĩa đó, tranh mang tính lịch sử là tài sản tinh thần,
không chỉ của một dân tộc mà của cả loài người tiến bộ.
1.2. Khái niệm “tranh sơn mài”
Sơn mài là khái niệm mới có khoảng nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, do
kỹ thuật mài được đưa vào trên cơ sở tranh sơn ta truyền thống. Tranh sơn
mài là tranh được vẽ lên tấm vóc bằng sơn ta trộn với các thứ sơn và màu
thích hợp. Trong tranh sơn mài có sử dụng vàng, bạc, vỏ trứng, vỏ trai... Khi
vẽ xong phải đem tranh vào một chỗ ẩm và kín gió ủ cho khô, rồi đem ra vẽ
tiếp. Khi đã xong toàn bộ và sơn ta đã khô thì đem ra mài bằng than gỗ, đá
hoặc giấy ráp nước cho mịn. Mặt tranh khi đã được mài nhẵn, phẳng, nếu
không có gì sửa chữa thì sẽ dùng tay xoa bột than để đánh bóng. Cuối cùng,
chỗ nào muốn lộng lẫy, sáng bật lên thì ta thếp vàng, bạc. Khi nào muốn bớt
sáng đi hoặc muốn có một hòa sắc trầm, người ta phủ lên mặt tranh một lớp
sơn cánh gián (sơn nâu) rất mỏng (từ trong nghề gọi là “toát”). Chất liệu sơn
mài ngày càng được phát triển. Ngoài chất liệu cổ truyền, người ta còn có thể
dùng thoải mái nhiều thứ khác như: bột nhũ, mùn cưa, vỏ cua, vỏ ốc, giấy các
loại bột màu của Nhật, vì chất sơn Nhật chóng khô hơn, không cần ủ, không
cần mài và đánh bóng. Những người nhiều kinh nghiệm có thể phân biệt được
dễ dàng sơn mài cổ truyền và sơn mài Nhật Bản. Sơn mài Việt Nam luôn toát
ra một cái gì đó lộng lẫy, ấm áp, sâu lắng, cổ kính. Đã có nhiều tác phẩm sơn
mài có giá trị được công chúng và lịch sử công nhận như: Tát nước đồng
18
chiêm (1958) (H2.3), Mùa đông đan áo (1957 – 1960) của Trần Văn Cẩn
(H2.2), Con nghé quả thực (1957) của Nguyễn Tư Nghiêm (H2.7), Bình minh
trên nông trang (1958) của Nguyễn Đức Nùng (H2.5), Thiếu nữ bên đầm sen
(1958) của Nguyễn Gia Trí (H2.1)... Đến nay đã trải qua nhiều thế hệ họa sĩ
kế tiếp nhau, tranh sơn mài Việt Nam đã đạt tới một trình độ nghệ thuật cao,
độc đáo, được thế giới ưa chuộng và khen ngợi. [27, tr.130]
Như vậy trong sáng tác mỹ thuật Việt Nam, chất liệu vẽ tranh sơn mài là
một chất liệu truyền thống, độc đáo gắn với nghề sơn truyền thống của dân
tộc. Có thể nói sơn mài là sự kết hợp của các chất liệu có trong tự nhiên, và
trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, từ chất của vàng, bạc đến chất liệu của
những vỏ trứng vỏ trai... thật gần gũi, chính những chất liệu đó đã tạo cho
tranh sơn mài một cảm xúc vô cùng đặc biệt, vừa giản dị mà cũng vừa xa hoa.
Từ khi sơn mài xuất hiện trong nền hội họa Việt Nam cùng với đó là
khái niệm về thể loại tranh này được hình thành và được giới họa sĩ đón
nhận. Tranh sơn mài như trở thành một đứa con tinh thần cho nền hội họa
truyền thống của dân tộc, không ít các họa sỹ đang kỳ vọng vào chất liệu
này với những hiệu ứng, thẩm mỹ đặc biệt mà các chất liệu khác khó có thể
diễn tả được.
1.3. Khái quát về tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985
Giai đoạn 1945 – 1985 là giai đoạn mỹ thuật Việt Nam bước đầu phát
triển và hội nhập, hội họa Việt Nam dần khẳng định vị trí của mình trên khu
vực. Hội họa phát triển với nhiều chất liệu như sơn dầu, lụa, bột màu, sơn
mài. Đặc biệt sơn mài là một trong những chất liệu tạo nên sự khởi sắc cho
nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại. Cùng với lụa, sơn mài đã tạo được
tiếng nói riêng cho nền mỹ thuật nước nhà bởi sự tìm tòi, sáng tạo trong kỹ
thuật cũng như ngôn ngữ thể hiện.
Có thể nói sơn mài giai đoạn 1945 – 1985 đã đạt được nhiều thành tựu.
Sự kết tinh của nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại với những nội dung
19
phong phú, phản ánh chân thực cuộc sống với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Có
thể kể đến nhiều tác phẩm thành công trong giai đoạn này “Tát nước đồng
chiêm” (H2.3); “Tổ đổi công cấy lúa” (H2.8); “Nhớ một chiều Tây Bắc”
(H2.4); “Giữ lấy hòa bình” (H2.12); “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ”
(H3.4); Các họa sỹ đã nghiên cứu mở rộng bảng màu, hoàn thiện kỹ thuật,
đưa sơn mài lên một tầm cao, khẳng định vị trí trong dòng chảy của Mỹ thuật
hiện đại. Họa sỹ có thể kết hợp giữa kỹ thuật, bố cục phương Đông với các
phương pháp tạo hình phương Tây để tạo ra những tác phẩm nghệ thuật độc
đáo, mang đậm nét đẹp của tâm hồn Việt. Tranh sơn mài giai đoạn này mang
đậm chất tạo hình. Điều đó được thể hiện ở khả năng tả khối, tả chất của chất
liệu. Giai đoạn 1945 – 1985 tranh sơn mài đã có một vị trí quan trọng trong
nền hội họa Việt Nam. Giai đoạn này sơn mài đã trở thành một trong những
chất liệu quan trọng của mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Với chất liệu nào cũng vậy, khi họa sĩ chú tâm đều có thể cảm nhận được
vẻ đẹp sâu sắc của chất liệu. Sơn mài cũng vậy với kỹ thuật vẽ nhiều lớp và
kỹ thuật mài đã làm cho chất liệu này có được vẻ đẹp riêng không giống chất
liệu tạo hình nào. Có thể nói đây cũng là một chất liệu khá đặc biệt, bởi
nguyên liệu được lấy chủ yếu từ tự nhiên, màu được dùng để vẽ sơn mài là
màu vô cơ, được khai thác từ khoáng sản, dung dịch để pha màu chính là chất
nhựa của cây sơn ta được chế biến phù hợp với hai màu chủ yếu là màu đen
(hay còn gọi là sơn then) và màu cánh dán (sơn cánh dán), ngoài nhựa của cây
sơn thì đó còn là những thếp vàng, thếp bạc, hay vỏ trứng vỏ trai, vỏ ốc đó là
những chất liệu hoàn toàn tự nhiên. Được tạo lên bởi chất liệu đặc biệt đó mà
sơn mài đã có cho mình những đặc điểm riêng biệt. Đối với các chất liệu của
nghệ thuật tạo hình khác như sơn dầu, lụa, màu nước diễn tả chất trong tranh
họa sĩ sử dụng màu sắc để diễn tả chất liệu của sự vật, nhưng ta vẫn nhận ra
đó là những chất ảo do màu sắc, đường nét tạo ra thì với chất liệu sơn mài lại
20
khác, với kỹ thuật quét sơn, gắn trứng, giáp vàng... Ta có thể nhận thấy chất
liệu được dùng để diễn tả sự vật là chất thật, chất thật của vỏ trứng, vàng và
bạc để tạo lên chất của tranh. Và từ đây những chất liệu tự nhiên, khô cứng
hay không mang giá trị nghệ thuật khi được nhào nặn dưới bàn tay nghệ sĩ đã
tạo lên những tác phẩm vô cùng đẹp mà khi thưởng thức các tác phẩm này
người ta đã quên đi chất khô sượng của vỏ trứng giữa mấy màu đen đỏ để mà
tưởng tượng được sự giàu sang như trong tranh của Nguyễn Gia Trí.
Sau cách mạng tháng Tám 1945 rồi hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, trong khói lửa của chiến tranh bom đạn, các họa sĩ với lòng nhiệt
huyết cho cách mạng nhưng vẫn không quên nhiệm vụ, không quên đam mê,
họ tiếp tục công việc hội họa, nghiên cứu và hoàn thiện bảng màu còn hạn chế
cho chất liệu truyền thống. Cũng trong thời gian này các xưởng họa được hình
thành ở Quần Tín, Thanh Hóa các họa sĩ cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị
nghệ thuật. Họa sĩ Tô Ngọc Vân từng nói với niềm tin sắt đá: “Ở tình thế đặc
biệt kháng chiến của nước ta, sơn mài là hoạt động hội họa độc nhất có thể
thực hiện được, bởi những nguyên liệu dùng cho sơn mài chúng ta có thể tự
cung” [27, tr.9].
Cũng trong giai đoạn này vào năm 1958 tại triển lãm Mỹ thuật toàn quốc
có thể coi cuộc triển lãm là dấu son trong lịch sử nghệ thuật sơn mài nói riêng
và trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam nói chung. Nhân dân – tổ quốc – nghệ
thuật hòa quyện vào nhau được thể hiện trong tác phẩm toát lên vẻ đẹp trong
sáng, dung dị nhưng cũng rất huyền bí. Các cuộc triển lãm toàn quốc tiếp theo
vào những năm 1960, 1965 cũng là một sự tôn vinh của nghệ thuật sơn mài.
Với chất liệu truyền thống được bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ thể hiện đã
làm chất sơn thô cứng có được tiếng nói riêng, diễn tả được cảm xúc phong
phú trước các đề tài và cảnh vật. Với hiệu ứng kỳ diệu của một chất liệu mới
người nghệ sĩ đã thổi hồn thơ vào tác phẩm, diễn tả cuộc sống vừa dung dị
21
những cũng vừa quý phái, kiêu sa. Đây là giai đoạn đã cho ra đời nhiều tác
phẩm giá trị với các mảng đề tài trong cuộc sống như: Tát nước đồng chiêm
(H2.3) của Trần Văn Cẩn, Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (H3.4) của Nguyễn
Sáng, Nhớ một chiều Tây Bắc (H2.4) của Phan Kế An…
Các họa sĩ vẽ tranh sơn mài đã học tập và nghiên cứu các quy luật tạo
hình của các nước khác, chủ yếu là nghệ thuật tạo hình châu Âu. Những quy
luật về không gian, xa gần, về bố cục và dựng hình, phần nào cả quy luật
dùng màu, được các họa sĩ ta áp dụng sáng tạo vào chất liệu truyền thống này.
Và chính việc áp dụng có ý thức các quy luật đó, ngược lại đã thúc đẩy việc
tìm kiếm kỹ thuật nói trên. Đồng thời các họa sĩ không từ bỏ các truyền thống
làm tranh cổ, vẫn dùng lối trang trí và cả bố cục theo lối viễn cận “tẩu mã”…
Sự học tập không mù quáng và sự khai thác truyền thống có gạn lọc về cả lý
thuyết lẫn thực hành, đã tạo ra một phong cách sơn mài Việt Nam. Khoảng từ
năm 1945 đến 1985, chất liệu tạo hình sơn mài được áp dụng phổ biến. Trong
mỹ thuật nước ta, thuật ngữ “sơn mài” chỉ xuất hiện vào những năm 30.
Nhiều họa sĩ chuyển hẳn sang vẽ tranh sơn mài và khẳng định khả năng biểu
đạt lớn lao của nó. Ở các triển lãm trong và ngoài nước, tranh sơn mài Việt
Nam ngày càng nhiều và được dư luận chú ý. Nguyễn Gia Trí là một trong
những họa sĩ làm nhiều tranh sơn mài và có nhiều cống hiến trong việc này.
Trong kháng chiến chống Pháp, điều kiện làm sơn mài khó khăn. Tuy
nhiên thời kỳ này có sự tìm tòi màu mực thêm vào bảng màu. Các họa sĩ ấp
ủ ý đồ nhưng ít người có điều kiện thực hiện. Bức sơn mài Bộ đội dừng
chân trên đèo (H2.9) của Tô Ngọc Vân đành bỏ dở khi họa sĩ ngã xuống
trên chiến trường. Cái bát (H2.10), một bức sơn mài nhỏ của Sĩ Ngọc đã là
một hiếm hoi.
Song, hình như sự dồn ép, ấp ủ trong chín năm kháng chiến chống Pháp
đã tích tụ năng lượng cho sự bùng nổ của sơn mài nước ta vào cuối những
22
năm 50 đầu những năm 60. Ở triển lãm Mỹ thuật các nước xã hội chủ nghĩa
tại Moscow năm 1958, chính sơn mài (và lụa) đã tạo ra bộ mặt mới của Mỹ
thuật Việt Nam. Một loạt các tác phẩm sơn mài thành công ra đời, đánh dấu
một giai đoạn hoàn toàn mới của sơn mài nước ta, đồng thời, dẫn tới một giai
đoạn mới cao hơn hẳn về chất lượng của toàn bộ nghệ thuật tạo hình nước ta.
Từ thời gian này, Tát nước đồng chiêm (H2.3), Mùa đông đến rồi (H2.2) của
Trần Văn Cẩn, Nhớ một chiều Tây Bắc (H2.4), của Phan Kế An, Qua bản cũ
(H2.11) và Giữ lấy hòa bình (H2.12) của Lê Quốc Lộc, Kết nạp Đảng ở Điện
Biên Phủ (H3.4) của Nguyễn Sáng, Hòa bình hữu nghị (H2.13) của Nguyễn
Khang, Đi chợ Bắc Hà (H2.14) của Mai Văn Nam, Nhà tranh gốc mít (H2.15)
của Nguyễn Văn Tỵ, Bình minh trên nông trang (H2.5) của Nguyễn Đức
Nùng, Kéo pháo vào Điện Biên Phủ (H3.2) của Dương Hướng Minh, Qua cầu
khỉ (H2.16) của Nguyễn Hiêm, Nam kỳ năm 40 (H3.6) của Huỳnh Văn
Gấm… và hàng loạt tác phẩm khác, đã làm cho sơn mài thắng thế hoàn
toàn, trở thành chất liệu dẫn đầu tuyệt đối trong mỹ thuật nước ta. Những
tác phẩm đó đến nay đã trở thành tài sản quý giá của Viện Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam.
Những đề tài rộng lớn của hiện thực được hình thành như đã giải phóng
cho khả năng tạo hình của sơn mài vốn có từ trước cách mạng. Giai đoạn
1945 – 1985 các nghệ sĩ lại tiếp tục tìm tòi, cải tiến thêm về chất liệu và kỹ
thuật, nâng khả năng biểu đạt của sơn mài lên cao.
Với những thành công đã đạt được, chất liệu sơn mài nhanh chóng khẳng
định được tiếng nói của mình trong nền hội họa Việt Nam. Đây là chất liệu có
đủ khả năng diễn tả khối nổi theo nghệ thuật cổ điển của châu Âu như bức
Bình minh trên nông trang (H2.5) của Nguyễn Đức Nùng, hay bức Lớp học
đêm (H2.6) của Nguyễn Sáng, hiệu quả diễn tả khối tả chất của da thịt rất cao.
Qua nhiều tác phẩm ta thấy dường như sơn mài có đầy đủ khả năng diễn tả
23
khối, chất theo lối kinh viện của phương tây, nhìn lại những sáng tác với chất
liệu sơn mài ta thấy đa số các tác phẩm được sáng tác ít thể hiện theo cách
diễn tả về khối, không gian thực, cổ điển mà ở đó được thể hiện nhiều với
cách thức tạo hình theo lối trang trí, đậm đà tính Việt. Đó dường như thể hiện
tư tưởng ý muốn của các họa sĩ không muốn đưa sơn mài vào cái khuôn có
sẵn của sơn dầu, để có thể khai thác sâu hơn khả năng của sơn mài, tạo dựng
một không gian nghệ thuật của riêng sơn mài mà sơn dầu khó có được.
Tiểu kết
Tranh vẽ về đề tài mang tính lịch sử là những sáng về sự kiện, nhân vật có
yếu tố lịch sử gợi lại cho người xem về các sự kiện và nhân vật có trong lịch
sử. Với đề tài mang tính lịch sử tuy nội dung không phản ánh các sự kiện lịch
sử, các nhân vật lịch sử một cách chính xác từng chi tiết như những yếu tố về
trang phục, kiểu đầu tóc, đồ trang sức...Nhưng nó vẫn phản ánh khái quát
nhất, gợi lại lịch sử một cách trung thực nhất. Bởi lịch sử cần được nhìn nhận
ở góc độ đúng đắn, dưới thế giới quan của giai cấp để phân tích, để tìm hiểu
và để vẽ cho gần đúng với lịch sử. Hình tượng nhân vật, cảnh quan không
gian trong tranh cũng phải mang tính lịch sử.
Không chỉ vậy khi chọn đề tài mang tính lịch sử để thể hiện các họa sĩ
cũng cần phải chọn lọc những sự kiện điển hình, nổi bật nêu lên được tầm
khái quát của lịch sử. Đề tài mang tính lịch sử có ý nghĩa lớn lao đối với lịch
sử, cách mạng, nhắc nhở mọi người nhớ đến truyền thống và khơi dậy niềm
tin, lòng yêu nước, nuôi dưỡng nhiệt tình cách mạng, hiểu sâu hơn về lịch sử
của dân tộc cũng như của thế giới.
Trong hội họa Việt Nam thể loại tranh mang tính lịch sử thể hiện trên chất
liệu sơn mài ít phát triển hơn so với các thể loại khác, song những tác phẩm
mang tính lịch sử được sáng tác ở giai đoạn 1945 – 1985 này đã có được
những thành công riêng về nội dung và hình thức. Sự phát triển mạnh mẽ
24
trong đề tài, nội dung, hình thức và kỹ thuật thể hiện của chất liệu sơn mài
giai đoạn này đã trở thành bước đệm cho sự thể hiện và thành công của các
tác phẩm mang tính lịch sử. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ đó, chất liệu sơn mài
giai đoạn này không thua kém bất kỳ chất liệu nào trong hội họa, tranh mang
tính lịch sử trên chất liệu sơn mài có thể ít hơn về số lượng so với các thể loại
tranh khác nhưng không thua kém về chất lượng và giá trị nghệ thuật. Thể
loại tranh này đã góp phần xứng đáng vào kho tàng chung của hội họa, những
tác phẩm tồn tại vĩnh cửu cũng giống như sự tồn tại của lịch sử. Là một chất
liêu độc đáo với khả năng tả khối, tả chất mang dấu ấn dân tộc, với vẻ đẹp
riêng biệt của mình, chất liệu sơn mài đã có cho mình một chỗ đứng đặc biệt
trong hội họa Việt Nam nói riêng và trong khu vực Đông Nam Á nói chung.
25
CHƯƠNG 2
SỰ PHẢN ÁNH ĐỀ TÀI MANG TÍNH LỊCH SỬ TRONG TRANH
SƠN MÀI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1985
2.1. Phân loại sự phản ánh đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn
mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985
Tranh phản ánh đề tài mang tính lịch sử hay đề tài lịch sử đều có những
điểm tương đồng. Điểm tương đồng của tranh lịch sử và tranh phản ánh đề tài
mang tính lịch sử là không thể tách rời lịch sử, kể cả yếu tố hoàn cảnh như:
sinh hoạt, phong tục tập quán, trang phục, nhà cửa, phố phường. Trong cuốn
Từ điển Mỹ thuật phổ thông do Đặng Bích Ngân chủ biên có viết: “Tranh lịch
sử là tranh vẽ các đề tài liên quan đến lịch sử như: lịch sử một dân tộc hay
lịch sử một cá nhân hoặc lịch sử một giai đoạn cách mạng”. [19, tr.140]
Theo định nghĩa đó các tác phẩm như: Chiếc bè của chiến thuyền Méduse
(H1.2), Lễ đăng quang của Napoleon I (H1.3), hay tác phẩm Charles I đòi
giao nộp năm nghị viên bị buộc tội (1785). Là những tác phẩm phản ánh rõ
nhất về tranh lịch sử.
Còn với tranh mang tính lịch sử, nhìn chung cũng có sự tương đồng về
mặt nội dung với tranh lịch sử. Tranh mang tính lịch sử cũng phản ánh sự
kiện và nhân vật lịch sử. Dù các sự kiện và nhân vật trong tranh mang tính
lịch sử không phản ánh chính xác như trong tranh lịch sử nhưng khi xem các
tác phẩm thuộc mảng đề tài này người xem vẫn có thể hiểu và thấy được
những điều cơ bản nhất có trong lịch sử.
Như vậy tranh mang tính lịch sử được phân chia thành hai loại: tính sự
kiện và nhân vật mang tính lịch sử.
Với tính sự kiện ta hiểu một cách đơn giản “Sự kiện” là tất cả những gì
có tính chất “điểm tụ”, có khả năng thu hút số đông quần chúng nhằm nói lên
một mục đích nào đó của chủ nhân khi hướng tới đối tượng của họ. Còn “Sự
26
kiện mang tính lịch sử” có thể hiểu là những sự kiện trọng đại của một dân
tộc, một đất nước, đã xảy ra trong lịch sử và hiện tại nó có ý nghĩa lớn lao, có
sức ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển của đất nước.
Tranh vẽ về sự kiện mang tính lịch sử là tranh phản ánh được hình ảnh,
nội dung về các sự kiện lớn của dân tộc một cách khái quát và điển hình nhất.
Thông thường các sự kiện lớn sẽ tác động mạnh mẽ đến con người không chỉ
có nghệ sĩ. Trước những sự kiện lớn đó, họa sĩ cảm nhận và thể hiện thông
qua ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình. Ví dụ như trong một số tác phẩm thể hiện
các sự kiện lớn của dân tộc như: ngày khai sinh ra nước Việt Nam, ngày
thống nhất đất nước, Xô Viết Nghệ Tĩnh, chiến dịch Điện Biên Phủ, trận đánh
Cầu Hàm Rồng, Nam kỳ khởi nghĩa...
Khi nói về lịch sử ta hiểu đó không chỉ là lịch sử của chính trị hay
chiến tranh mà còn là lịch sử của nghệ thuật, khoa học, các lĩnh vực khác
trong đời sống con người. Những danh nhân văn hóa, nhà khoa học, quân sự
có đóng góp lớn lao cho sự trường sinh của dân tộc đều được coi là
những nhân vật lịch sử.
Khi xây dựng và phản ánh nhân vật mang tính lịch sử là hướng tới đối
tượng liên quan đến những diễn biến trong quá khứ đã có sức ảnh hưởng đến
toàn dân tộc. Tuy nhiên trong đề tài mang tính lịch sử được thể hiện trên chất
liệu sơn mài giai đoạn 1945 – 1985 không nhiều. Điều đó xuất phát từ hoàn
cảnh xã hội, nhu cầu của đời sống. Tác phẩm thể hiện nhân vật mang tính
lịch sử chủ yếu là hình ảnh các anh hùng dân tộc, lãnh tụ Hồ Chí Minh. Có
thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như Bác Hồ Ở Chiến Khu Việt Bắc
(H4.1) và tác phẩm Chèn pháo ở Điện Biên Phủ (H4.2), là những dấu ấn tiêu
biểu của thể loại tranh mang tính lịch sử trong chất liệu sơn mài.
Tóm lại với mảng đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài giai
đoạn 1945 – 1985 có thể phân chia thành hai loại lớn là tranh mang tính sự
27
kiện và tranh vẽ về nhân vật mang tính lịch sử. Sau đây là phần tìm hiểu sâu
hơn, làm rõ vấn đề đang nghiên cứu. Trước tiên ta đi sâu vào phần phân tích
sự phản ánh trong tranh sơn mài vẽ về sự kiện cách mạng.
2.2. Sự phản ánh trong tranh sơn mài vẽ về sự kiện cách mạng
Trong trường hợp cụ thể, tranh mang tính lịch sử phản ánh sự kiện chứa
đựng cả hai nội dung: Nêu nên chiến thắng của quân và dân trong hoàn cảnh
nhất định (chiến thắng đó có một quy mô, tầm vóc lịch sử), hoặc chiến thắng
đó góp phần tạo ra một bước ngoặt lịch sử.
Ví dụ như chiến thắng Biên giới Thu đông 1950, chiến thắng Điện Biên
Phủ 1954, chiến dịch Hồ Chí Minh 1975…Tranh mang tính lịch sử trước hết
cần phải trung thành với lịch sử. Vì vậy yêu cầu ở người họa sĩ cần phải có
tầm nhìn khái quát, vốn hiểu biết về lịch sử, xã hội, con người để từ đó có thể
khái quát hóa các sự kiện điển hình. Nói như văn học đó là “thu muôn dặm
trong gang tấc, trong gang tấc thấy cái điệp trùng của muôn dặm”.
Với đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài phản ánh về sự kiện
cách mạng có thể kể đến tác phẩm Xô Viết Nghệ Tĩnh (H3.1), do hoạ sĩ
Nguyễn Đức Nùng phác thảo cùng năm hoạ sĩ khác: Phạm Văn Đôn, Sĩ Ngọc,
Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận và Nguyễn Văn Tỵ thể hiện trên chất liệu
sơn mài năm 1957. Để thể hiện thành công, các họa sĩ đã phải nghiên cứu,
tìm hiểu các thông tin liên quan đến sự kiện như ý nghĩa, địa điểm, thành
phần, trang phục…Trên cơ sở đó các họa sỹ thể hiện thành công vẻ đẹp điển
hình của phong trào đấu tranh yêu nước. Toàn bộ phong trào Xô Viết – Nghệ
Tĩnh như được "gói gọn" trên mặt phẳng hai chiều. Với chất liệu sơn mài
truyền thống, các họa sĩ đã truyền tải được không khí hào hùng của thời điểm
bùng nổ phong trào yêu nước. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ tạo hình, tác
phẩm đã phản ánh được màu sắc, khí thế kiên cường, mạnh mẽ như vũ bão
của ngọn lửa Xô – Viết. Tác phẩm có bố cục giàn đều trên mặt tranh. Các
nhân vật chủ yếu hướng về một phía tạo cảm giác thuận chiều.
28
Nhóm tác giả chủ yếu sử dụng nét của sơn then, sơn cánh dán, kết hợp
với những nét sáng rực của vàng đã làm nổi bật được hình ảnh của lực lượng
quần chúng nhân dân người cầm gươm, người cầm giáo, gậy gộc hướng về
phía trước. Nét vẽ trên các nhân vật được thay đổi linh hoạt. Nét mảnh, nét
đậm, nét ẩn, nét hiện tạo không gian hút về phía xa. Nét vẽ trên người khác
với nét vẽ trên cảnh tạo sự phong phú của bút pháp. Đường nét được tạo nên
từ kỹ thuật dát vỏ trứng gợi cảm giác chắc khỏe. Màu trắng đục của vỏ trứng
gợi sự phong phú về chất cảm trong tác phẩm. Với việc sử dụng linh hoạt
chiều hướng của đường nét trong tranh, tác giả đã thể hiện thành công khí thế
đang sôi sục của quần chúng vũ trang khởi nghĩa.
Bên cạnh những trạng thái của đường nét là những mảng, miếng của bố
cục được sắp xếp có chủ ý của tác giả. Phía cận cảnh bức tranh là bức tường
đổ vỡ bởi một mảng màu được tạo lên với lớp vỏ trứng trắng sáng. Sự thay
đổi về diện tích của các mảng tường tạo sự chắc khỏe của bố cục. Hình dáng
các nhân vật được thể hiện tạo sự phá thế để mảng tường trải dài không đơn
điệu. Toàn bộ bố cục tranh được thể hiện theo hai mảng chính: quần chúng
nhân dân với khí thế sục sôi và mảng nhỏ rời rạc, thất thần của quân địch.
Quần chúng nhân dân trong tư thế hăng hái vượt vươn lên được thể hiện trong
chi tiết một người đang bước qua tường, tay trái cầm vật dụng, tay phải chỉ về
phía trước, một người đứng hẳn lên bức tường, tay phải cầm vật dụng cùng
chỉ về phía trước như cổ vũ, kêu gọi mọi người tiến. Các họa sĩ đã diễn tả
được sự chuyển động nhịp nhàng mối quan hệ của các nhân vật trong tranh.
Các hình ảnh được đưa vào tác phẩm hàm chứa một ý nghĩa riêng biệt. Hình
ảnh bức tường trong tác phẩm có ý nghĩa tượng trưng phong phú về tính biểu
cảm. Bức tường đó tượng trưng cho vật cản, cũng là khó khăn, thử thách mà
quần chúng cách mạng cần vượt qua.
29
Bên trái bức tranh là một cụ già với sắc áo nâu cam đang gióng trống
hòa cùng những sắc vàng ánh lên trong đoàn người biểu tình. Phía bên phải,
trong tốp người đi đầu có hai người trẻ tuổi vừa khiêng vừa đánh trống cổ vũ
khởi nghĩa. Với gam màu trầm lắng nhưng hình ảnh chiếc trống lại như một
âm vang cuốn người xem chú ý. Có lẽ "Hồi trống" trong phong trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh đã trở thành một hình tượng đẹp không những trong hội họa mà
còn cho cả thi ca, âm nhạc. Phía trước đoàn khởi nghĩa là hình ảnh người
đang phất cao cờ đỏ búa liềm, một biểu tượng của liên minh công nông. Sắc
đỏ cam nổi bật trên nền nâu trầm của chất sơn mài truyền thống. Màu đỏ như
máu và sự nhiệt huyết của đoàn biểu tình và cũng là lý tưởng của đoàn người
đang hướng đến. Ngắm tác phẩm ta thấy các họa sĩ đã đưa được luật phối
cảnh trong tạo hình phương Tây vào tác phẩm, tạo một hiệu quả khác hẳn
cách vẽ theo lối trang trí mà nhiều họa sĩ trước đó hay thể hiện trong tranh
sơn mài. Với đường nét khỏe khoắn có chỗ buông, chỗ nhấn mạnh đã tạo
được chiều sâu không gian. Đường nét rứt khoát hướng đến điểm nhấn là
rừng cánh tay, gậy gộc, gươm giáo cho thấy tính quyết liệt của phong trào yêu
nước. Bức tranh có hòa sắc đỏ rực, đặc trưng của chất liệu sơn mài, tạo cho
người xem cảm nhận được chiều sâu hun hút của không gian bởi những lớp
màu liên tiếp lộ ra. Những lớp màu đó đã tạo nên sắc độ lung linh với các
tầng lớp màu khác nhau ánh lên, ẩn hiện, biến hóa khôn lường. Do kỹ thuật
phủ màu, mài nhẵn của chất liệu đã tạo nên yếu tố không gian đặc biệt cho
tranh sơn mài.
Trong rất nhiều tác phẩm phản ánh sự kiện lịch sử, có thể kể đến tác
phẩm Quảng trường Ba Đình mùng 2 tháng 9 năm 1945 (H3.9) chất liệu sơn
mài, sáng tác năm 1976 của họa sĩ Văn Thơ. Tác phẩm thể hiện thành công
một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với lịch sử đất nước và sự tác động
mạnh mẽ của sự kiện đến người dân việt Nam. Để hoàn thành ý đồ sáng tác,
30
họa sĩ đã phải nghiên cứu rất kỹ nội dung và lựa chọn hình thức thể hiện phù
hợp. Tác phẩm là sự tái hiện không khí hào hứng của quần chúng nhân dân
trước sự kiện trọng đại: ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Với bố cục được sắp xếp từng lớp người với những biểu hiện hành động khác
nhau tạo ra nhiều sắc thái tình cảm. Ở giữa tranh là hình ảnh một con đường
đang hướng đến, gợi chiều sâu vào quảng trường Ba Đình. Hai bên là bố cục
hai mảng người. Một là quân đội nhân dân Việt Nam với đội ngũ xếp hàng
ngay ngắn. Một bên mảng lớn là lớp người với nhiều giai cấp và tầng lớp
khác nhau đang tập trung lại. Tất cả như hòa chung thành một, háo hức,
hướng về quảng trường, nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đang đứng, trong niềm vui
và hi vọng. Thấp thoáng trong tranh là những tà áo dài truyền thống, những
chiếc áo tứ thân. Cùng với đó là màu sắc ấm nóng, nâu trầm, đậm chất Việt
Nam. Một thứ màu mà chỉ có sơn mài mới làm được. Qua những lớp màu
chồng lên nhau của sơn mài như đua nhau ẩn hiện. Với sắc đỏ, một màu rất
đặc trưng của chất liệu sơn mài đã tạo được không khí sâu lắng với màu trắng
đục của vỏ trứng tạo thành những nét màu vui tươi thể hiện hàm ý về sự khởi
sắc mạnh mẽ của Việt Nam sau ngày tuyên ngôn độc lập.
Để diễn tả đoàn người, tác giả đã sử dụng rất khéo léo sự chạy màu của
đường nét tạo nên từ bạc và vỏ trứng. Ánh sáng trắng xen kẽ trong đoàn
người tạo thành một dải nhịp nhàng, uyển chuyển, mềm mại. Nhìn vào tác
phẩm ta thấy một không gian rộng lớn của quảng trường, nơi mà bầu trời với
sắc vàng trắng nhường chỗ cho đoàn người hân hoan với niềm vui của ngày
giành độc lập. Bố cục xa dần, đoàn người hun hút phía sau, kéo dài và
không thấy điểm kết thúc. Những lá cờ ngay ngắn trang nghiêm cũng là
điểm nhấn trong tương quan màu sắc của tác phẩm. Với gam màu chủ đạo,
đặc trưng của sơn mài, màu nâu trầm, màu sơn son lộng lẫy tạo cảm giác
chắc, khỏe và uy nghiêm.
31
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, theo lịch sử ghi chép lại
đây là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra
tại lòng chảo Mường Thanh (nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện
Biên), giữa quân đội nhân dân Việt Nam và quân đội Liên hiệp Pháp. Đây là
chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1945 –
1954 của Việt Nam. Ngoài những thông tin về lịch sử có thể ghi lại bằng ngôn
ngữ của văn chương, nhưng ít ai có thể hình dung được sự khốc liệt của trận
chiến đầy cam co, thách thức. Trong sự khốc liệt của trận chiến đó, có không
ít các họa sĩ đã cố gắng thể hiện tinh thần, ý chí kiên cường đấu tranh của
những người lính. Từng là những họa sĩ đã được tham gia không ít các trận
chiến, được chứng kiến những cảnh bi hùng của dân tộc mà sau này những
người còn sống, họ kể lại quãng thời gian đó không tránh khỏi những xúc
động. Họa sĩ Dương Hướng Minh, họa sĩ và cũng là chiến sĩ, ông đã có mặt ở
một số chiến trường ác liệt. Được trải qua, chứng kiến sự tàn khốc của chiến
tranh, ý chí hào hùng của dân tộc. Hơn ai hết, ông có thể cảm nhận được
những cảm xúc mãnh liệt từ chiến trường. Trước chiến dịch Điện Biên Phủ,
tuy không trực tiếp chứng kiến cảnh kéo pháo, nhưng với những gì ông có
được trong nghề nghiệp, cùng những năm tháng trên chiến trường, ông dễ
dàng nắm bắt được tinh thần, ý nghĩa của một trận chiến trong lịch sử, chính
tác phẩm đã chứng minh được tinh thần đó của ông, khí thế của quân và nhân
dân Việt Nam được thể hiện thành công bằng ngôn ngữ hội họa. Sự ra đời của
tác phẩm Kéo pháo ở Điện Biên Phủ (H3.2) đã tạo ra một dấu ấn quan trọng,
khi mà trong đó những tư tưởng và phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa đương thời đã được họa sĩ tiếp thu và thể hiện hoàn
toàn thích hợp, thay vì một tính hiện thực vốn dĩ là “tự phát” ở các thời kỳ
nghệ thuật của ông trước đó.
Kéo pháo ở Điện Biên Phủ (H3.2) của họa sĩ Dương Hướng Minh là tác
phẩm sơn mài có khuôn khổ khá lớn (100cm x 200cm). Qua bức tranh,
32
Dương Hướng Minh đã khắc họa một cách sinh động hình tượng cao đẹp của
những chiến sĩ Điện Biên.
Lấy bối cảnh là không gian của núi rừng với sự trùng điệp, ghập ghềnh
của rừng núi, bố cục gần như bị phân đôi, nhưng các đường hướng của con
đường, cây cỏ đã làm hài hòa góc nhìn chéo của tác phẩm, tác giả thể hiện các
nhân vật bằng những nét màu, nhìn tác phẩm ta thấy nổi lên nhân vật anh
hùng Tô Vĩnh Diện các nhân vật khác như chìm lại phía sau với gam màu
xám của đá, với góc nhìn và bố cục chéo của tác phẩm, hình ảnh người anh
hùng hiên lên với sức trẻ của thanh niên, ta nhìn thấy cách diễn tả tinh tế
trong khối cơ bắp của nhân vật.
Màu sắc trong tranh ngoài những gam màu nóng của sơn ta, các sắc độ
của son, sáng của bạc, ta thấy ở đó có sự xuất hiện của màu xanh. Trong giai
đoạn 1945 – 1985 sự xuất hiện của gam màu xanh trong tranh sơn mài là sự
xuất hiện đầy mới mẻ và mang tính đột phá cho chất liệu đặc biệt này. Không
gian trong tác phẩm không chỉ là không gian rộng lớn của núi rừng mà với
hiệu ứng của các gam màu đặt cạnh nhau, tác giả cho người xem cảm nhận
chiều sâu của vực núi, sự ghồ ghề mấp mô của đá được ẩn dụ như những khó
khăn, nguy hiểm mà lực lượng quân nhân đang phải đối đầu. Tác phẩm thành
công với tính sử thi ghi lại khoảng khắc oai hùng và sâu lắng, điểm nhấn quan
trọng trong chiều dài lịch sử dân tộc. Tác phẩm cũng là sự hiện thân của mục
tiêu kiên định, ý chí đấu tranh, sức mạnh đoàn kết, khí phách và chính nghĩa
Việt Nam. Tác phẩm Kéo pháo vào Điện Biên Phủ (H3.2) của Dương Hướng
Minh ra đời năm 1957. Trên thực tế có thể là tác phẩm bố cục đầu tiên về trận
chiến lịch sử này.
Có không ít các nhà phê bình nghệ thuật Việt Nam đánh giá đây là một
tác phẩm “xuất sắc không chỉ bởi tính chất tuyên ngôn và tính chính luận cao
cả của chủ đề mà còn bởi tính sử thi chiến đấu oai hùng và sâu lắng, là hiện
33
thân của mục tiêu kiên định, ý chí đấu tranh, sức mạnh đoàn kết, khí phách và
chính nghĩa Việt Nam”.
Nhà phê bình mỹ thuật, họa sỹ Nguyễn Quang Việt từng nhận xét:
“Qua tác phẩm sơn mài Kéo pháo ở Điện Biên Phủ (H3.2), nghệ thuật của
Dương Hướng Minh đã tạo được dấu ấn quan trọng. Trong đó, những tư
tưởng và phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa đương thời đã
được ông tiếp thu và thể hiện hoàn toàn thích hợp. Thay vì một tính hiện thực
vốn dĩ là tự phát ở các thời kỳ nghệ thuật của ông trước đó. [26, tr.1]
Tác phẩm được tác giả xây dựng khá công phu, hoàn chỉnh với hiệu
quả nghệ thuật cao. Tác giả đã rất khéo léo trong vệc kết hợp ngôn ngữ của
hội họa với nội dung thể hiện. Để làm bật được ý nghĩa to lớn trong nội dung
tác giả đã phải tính toán sắp xếp các nhân vật với cảnh vật xung quanh tạo
được bố cục chặt chẽ. Nội dung tác phẩm thể hiện một tiểu đội đang hăng say,
quên mình kéo pháo. Tác giả đã rất tỉ mỉ, cẩn trọng trong việc lựa chọn hình
ảnh nhân vật để sắp xếp bố cục tranh. Khác với tác phẩm Xô Viết Nghệ Tĩnh
(H3.1) khi các nhân vật được lựa chọn để bố cục trong tranh là mọi lứa tuổi.
Từ người già tới trẻ, nam, nữ để thể hiện tinh thần không chịu khuất phục, sự
đồng lòng của toàn thể quần chúng nhân dân. Ở tác phẩm kéo pháo ở Điện
Biên Phủ (H3.2), với khí thế quyết tâm đánh đuổi giặc, trong bối cảnh kéo
pháo cần sức trẻ của thanh niên, các nhân vật tác giả lựa chọn đều ở độ tuổi
18 đôi mươi, độ tuổi với sức mạnh và lòng nhiệt huyết nhất. Bằng bút pháp
mạnh mẽ, chắc, khỏe trong hình thể, màu sắc rực nóng nhưng vẫn tạo cảm
giác hài hòa trong tranh đã thể hiện được khí thế, dáng vóc và sức trẻ thời đại.
Điều đáng ghi nhận ở tác phẩm là khả năng xử lý kỹ thuật sơn mài của tác
giả. Tác phẩm được sáng tác năm 1957, thuộc giai đoạn sơn mài phát triển
mạnh mẽ về kỹ thuật, phương pháp thể hiện và sự phong phú của bảng màu.
Đây cũng là một trong những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, góp phần
đưa chất liệu sơn mài lên một vị thế mới trong dòng chảy của lịch sử mỹ
34
thuật. Tác phẩm như một bài học còn nguyên giá trị cho mọi thế hệ nghiên
cứu chất liệu sơn mài. Ngày nay, khi chiêm ngưỡng tác phẩm, người xem
không khỏi khâm phục kỹ thuật thể hiện sơn mài của tác giả. Tác phẩm cho ta
thấy sự khốc liệt của chiến tranh bằng màu sắc cháy bỏng. Người xem dường
như cảm nhận được nhiệt huyết của tuổi trẻ trong tiếng hò kéo pháo, sự quyết
tâm đồng lòng của những người ra trận. Với lối bố cục chéo, hướng lên cho
thấy sự quyết tâm hướng về phía trước của thanh niên. Một số tiên phong dọn
đường cho đoàn người kéo pháo. Ở góc trái của tranh nếu ta chú ý có thể hiểu
được sức nặng của quả pháo bằng sự xuất hiện của một góc bánh xe. Đó là
hình ảnh khá tinh tế mà tác giả đã đặt vào bố cục rất thành công. Không gian
trong tranh được tạo bởi những lớp màu ẩn hiện. Đây là một trong những tác
phẩm đẹp của mỹ thuật Việt Nam hiện đại về đề tài lực lượng vũ trang với
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Có thể nói tác phẩm Kéo pháo ở Điện Biên Phủ (H3.2), là một thành
công lớn trong cuộc đời sự nghiệp của Dương Hướng Minh. Sự thành công
của Dương Hướng Minh với tác phẩm Kéo pháo ở Điện Biên Phủ (H3.2), đã
mở ra một thời kỳ sáng tác kéo dài và liên tục của ông về đề tài chiến tranh
cách mạng, từ chống Pháp, chống Mỹ đến chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Tác phẩm góp phần trong sự phát triển của hội họa sơn mài Việt Nam
đưa chất liệu này đạt tới những phẩm chất tạo hình độc đáo. Với sự thành
công của một số tác phẩm sơn mài giai đoạn này, các họa sĩ đã đưa chất liệu
này ra khỏi lĩnh vực thiên về trang trí, giàu chất tạo hình, phong phú của tính
hiện thực. Tác phẩm Kéo pháo ở Điện Biên Phủ (H3.2), đã hướng tới hình
họa xác thực, mạnh mẽ, chặt chẽ và đầy trọng lượng được thể hiện bằng vô
vàn chi tiết.
Từ một người lính chiến đấu trên chiến trường miền Nam thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, Dương Hướng Minh đã trở thành một trong số ít các
35
họa sĩ mở đầu cho mảng tranh đề tài "Điện Biên Phủ" nói riêng, về chiến
tranh cách mạng nói chung. Ở mảng đề tài này, ông đã có những đóng góp
quan trọng cho nền mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20. Tuy là tác phẩm mang tính
lịch sử nhưng nó chứa đựng trong đó những kiến thức lịch sử, tinh thần lịch
sử mà sau này mỗi khi nhìn ngắm tác phẩm hẳn mỗi chúng ta đều thấu hiểu sự
kiện lịch sử trọng đại này.
Cùng với các loại hình nghệ thuật, lịch sử mỹ thuật Việt Nam cũng đã
để lại không ít tác phẩm hội họa đẹp, giàu cảm xúc về Điện Biên Phủ và hình
tượng người chiến sĩ kéo pháo Điện Biên. Tác phẩm Tổ 3 người (H3.5) của
Vũ Duy Nghĩa, “Kếp nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” (H3.2) của Nguyễn Sáng
đều là những kiệt tác phản ánh sự kiện lịch sử Điện Biên Phủ trọng đại. Cả
hai tác phẩm đều thể hiện sự tàn khốc của chiến tranh đối với con người, cuộc
sống, sự hi sinh cao cả của quân và dân, ý chí quyết tâm và sức chịu đựng
kiên cường, không giới hạn của con người. Điều đó cho ta thấy được phía sau
những chiến thắng vẻ vang là sự hi sinh của những con người Việt Nam yêu
nước. Một số họa sĩ đã lựa chọn những khoảnh khắc điển hình, hào hùng để
ghi lại. Cũng có không ít họa sĩ lại lựa chọn những mảng chìm của chiến dịch,
sự hi sinh để xây dựng nội dung, chủ đề tác phẩm. Khi nhắc đến “mảng chìm”
của chiến thắng ta không thể không nhắc đến một tác phẩm tiêu biểu thể hiện
mạnh mẽ sự hi sinh cao cả, cùng lòng quyết tâm của những chiến sĩ cụ Hồ.
Tác phẩm Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (H3.2), dài 112,3 cm; rộng 180cm.
Một tác phẩm đặc sắc, và thành công trong cuộc đời sự nghiệp của họa sĩ
Nguyễn Sáng, một họa sĩ cả cuộc đời sống để hi sinh cho nghệ thuật. Tác giả
đã dựng lại thành công thời khắc hào hùng của những người chiến sĩ Điện
Biên ngay tại chiến trường với bố cục được chia thành ba nhóm nhân vật
chính, phụ. Nhóm nhân vật trung tâm ta thấy gồm ba chiến sĩ trong đó có một
chiến sĩ trên đầu còn quấn băng với khẩu súng nắm chắc trong tay các khối
36
tay chân và mặt chắc khỏe, thể hiện ý chí kiên cường tự lực mạnh mẽ của các
chiến sĩ. Nhóm ba người được liên kết chặt chẽ với hai chiến sĩ khác phía bên
phải bức tranh bằng một cái bắt tay chắc chắn đầy quyết tâm. Toàn bộ khung
cảnh buổi kết nạp Đảng được diễn ra chóng vánh trong không gian chiến hào
và hình ảnh chiến hào với màu cam đỏ đã tạo được sự liên kết chặt chẽ của ba
nhóm người. Góc trái ta thấy tác giả bố cục một chiến sĩ đang dìu đồng đội bị
thương tạo thành một khối liên kết chặt chẽ chắc khỏe, cho thấy ranh giới của
sự sống và cái chết thật mong manh. Nhưng phía hậu cảnh lại là một chiến sĩ
khác hối hả ra trận như thể sự mất mát đó chính là động lực và nhấn mạnh
thêm bối cảnh khẩn trương của cuộc chiến. Với lối bố cục dàn đều, tác giả
chủ yếu sử dụng các mảng tạo khối mạnh mẽ, đường nét được tác giả sử dụng
ẩn hiện nhường chỗ cho các mảng màu nâu đỏ. Tác phẩm có thể xem là bản
hùng ca của dân tộc giai đoạn kháng chiến chống Pháp, là hình ảnh tượng
trưng cho tinh thần cách mạng cao cả và lẫm liệt. Nét đặc biệt của tác phẩm là
hình tượng các chiến sĩ Điện Biên đã được Nguyễn Sáng khắc họa bằng lối
hình họa giản lược, chắc khỏe với những mảng miếng rõ ràng rứt khoát. Màu
sắc trong tranh đơn giản, chủ yếu ta thấy là các màu sắc trong hệ màu sơn ta
truyền thống như sắc đỏ của son trai, son tươi... ánh màu sáng của bạc ẩn hiện
sau lớp màu. Ta cũng nhận thấy trong tác phẩm tác giả sử dụng khá nhiều
màu xanh. Một màu đặc biệt và mới trong tranh sơn mài, vào giai đoạn đó sự
xuất hiên của một số màu mới như lam, lục đã trở thành một dấu ấn đặc biệt
thành công trong tác phẩm, nó trở thành dấu mốc quan trọng vào lịch sử nghệ
thuật tranh sơn mài Việt Nam. Nhìn tác phẩm của ông ta thấy ở đó lối thể hiện
giản lược với những mảng màu bẹt, gợi cho người xem về lối vẽ trang trí
truyền thống của rất nhiều họa sĩ vẽ tranh sơn mài thời đó. Tác phẩm được rất
nhiều các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đánh giá cao với đầy đủ
các giá trị như: Giá trị mang yếu tố lịch sử: ghi lại chân thực hình ảnh một
37
cuộc kết nạp đảng ở Điện Biên Phủ, phản ánh tinh thần hào hùng, quyết liệt
trong cuộc chiến lịch sử của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm
góp một phần quan trọng vào việc nghiên cứu các giá trị lịch sử căn bản để
dẫn đến thắng lợi lừng lẫy của chiến dịch Điện Biên Phủ.
Về giá trị thẩm mỹ: tác phẩm ghi một dấu ấn quan trong thể hiện phong
cách tiêu biểu của một họa sĩ bậc thầy của mỹ thuật Việt Nam. Tác phẩm là
sự kế thừa giữa lối tạo hình của nghệ thuật phương Tây với thủ pháp hiện
thực chắc khỏe, nhưng lại mang đậm tinh thần, màu sắc Việt. Đó là minh
chứng căn bản cho khả năng biểu cảm đa dạng của nghệ thuật sơn mài Việt
Nam ngoài lối biểu hiện hình kiểu trang trí trong mỹ thuật truyền thống.
Giá trị văn hóa: tác phẩm đã tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã
hội như: cổ động tinh thần quân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
thời điểm bức tranh ra đời; ảnh hưởng đến các thế hệ họa sĩ sau thời Nguyễn
Sáng với tinh thần là bản hùng ca về chủ nghĩa yêu nước và tinh thần cách
mạng của nhân dân Việt Nam.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh với tên nguyên thủy là chiến dịch giải
phóng Sài Gòn Gia Đinh, chiến dịch là cuộc tổng tấn công và nổi dậy vào
mùa xuân năm 1975, đây cũng là chiến dịch cuối cùng của quân giải phóng
miền Nam Việt Nam. Để ghi lại thời khắc chiến thắng đó họa sĩ Quách Văn
Phong đã sáng tác, tác phẩm Sài Gòn giải phóng (H3.7) bức sơn mài được
sáng tác từ năm 1975 đến năm 1982 với kích thước 120 x 240 cm. Tác phẩm
Sài Gòn giải phóng (H3.7) là một điểm nhấn trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam
khiến người ta nhớ đến vào dịp 30 tháng 4 năm 1975, kỷ niệm ngày chiến
thắng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Thời kỳ này các sáng tác của họa sĩ chủ yếu là ký họa, tranh cổ động
phục vụ chiến đấu. Ông đi khắp các chiến trường, bên cạnh ba lô, cây súng
còn bút, giấy màu, có điều kiện là ông vẽ trực tiếp về chiến sĩ, đồng bào trong
38
sản xuất, chiến đấu, vẽ những tấm gương điển hình tiên tiến. Họa sĩ đã vẽ
hàng nghìn bức ký họa, ông tổ chức nhiều triển lãm lưu động, bày tranh tại
trận cho bà con, chiến sĩ xem, các tác phẩm của ông có tác động rất lớn động
viên tinh thần chiến đấu.
Ông đã được tham gia, chứng kiến trận 30 tháng 4 lịch sử, giây phút Sài
Gòn giải phóng. Để sáng tác thành công tác phẩm Nắng Tháng Năm (H1.15) (bột
màu), vẽ ngay đêm 30 tháng 4 năm 1975 hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam, Sài Gòn giải phóng (sơn mài), (H3.7) trưng bày tại Bảo tàng lực
lượng vũ trang miền Đông – Quân khu 7. Bằng ngôn ngữ hội họa, Quách Phong
đã tiến tới một bố cục công phu hơn để vẽ bức sơn mài Sài Gòn giải phóng (H3.7)
mà bảy năm sau ông mới hoàn thành.
Bố cục trong tác phẩm với trung tâm là cảnh gặp gỡ giữa người dân và
từng đoàn chiến sĩ giải phóng trên những chiếc xe tăng. Phía bên trái ta thấy
từng lớp người mừng vui với gam màu đỏ truyền thống chìm vào không gian
phía xa đang giơ tay chào đón các chiến sĩ, những người giải phóng, ta thấy
rất rõ phía bên trái tác phẩm, trong đoàn người vui mừng vẫy tay chào đón là
hình ảnh cô thiếu nữ đi xe đạp, tay giơ cao vẫy chào và cậu thiếu niên cầm
chùm bóng, với việc sử dụng linh hoạt giữa nét đen của sơn và nét màu vàng
tạo lên sự mềm mại uyển chuyển nhịp nhàng của các nhân vật.
Bên phải bức tranh một nhóm người tạo thành một mảng lớn. Với
đường nét mềm mại, nhịp nhàng, buông bỏ, tác giả thể hiện hình ảnh hai cô
gái mặc áo dài hoa màu trắng, bồng bềnh đang quay mặt vào nhau. Màu sắc
nhẹ nhàng, bay bổng. Xen giữa hai nhân vật, gương mặt chiến sĩ giải phóng
được thể hiện bằng mảng màu nâu đỏ, ẩn hiện phía xa. Hai em bé tay cầm
vòng nhảy múa vui mừng chào đón chiến thắng. Gam màu màu nâu đỏ đóng
vai trò chủ đạo, xen kẽ với màu xanh dương tạo sự hài hòa, cân bằng, giàu
nhịp điệu trong bố cục tranh.
39
Trong tác phẩm đường nét được tác giả sử dụng linh hoạt. Những nét
thanh, nét đậm đan xen phong phú. Đặc biệt những nét với nhiều màu sắc
khác nhau: màu trắng, màu vàng, nâu, đen tạo sự phong phú và hiệu quả ánh
sáng trong tranh. Phía sau các chiến sĩ ngồi trên xe tăng giơ tay chào đón nhân
dân được thể hiện trong một khối chắc, khỏe với những đường nét mạnh mẽ
với mảng màu trắng của vỏ trứng. Góc phải bức tranh, trên ô tô tải, bộ đội cúi
người giơ tay vẫy những người dân chào đón đoàn quân chiến thắng. Cờ đỏ
tung bay trên tháp pháo gợi cảm giác rợp trời. Phía trên là hình ảnh Bác Hồ
như ẩn, hiện. Cách sắp xếp các mảng, màu trong bố cục tạo độ trầm sâu của
tác phẩm.
Với bút pháp và sự sắp xếp các nhóm người trong bố cục, họa sĩ đã thể
hiện thành công nhiều góc nhìn, tạo sự mở cho bố cục. Điều đó đã đem đến
cho tác phẩm tính hiện thực và khái quát cao. Có thể nói tác phẩm đã tái hiện
sinh động cuộc chiến đấu của quân, dân miền Nam trong công cuộc đấu tranh
giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Tác phẩm được dựng lên từ các ký họa mà
họa sĩ đã ghi chép trực tiếp trên chiến trường. Hình ảnh người dân đan xen
với các chiến sĩ tạo sự quấn quýt, ấm áp của nghĩa tình quân dân. Tác phẩm
đã được Nhà xuất bản Văn hóa in 50.000 bức để tuyên truyền trong dịp kỷ
niệm 10 năm giải phóng thành phố 30/4/1975-30/4/1985. Tác phẩm sơn mài
Sài Gòn giải phóng (H3.7) là một điểm nhấn, là sự đóng góp của hội họa đối
với lịch sử.
2.3. Sự phản ánh trong tranh sơn mài vẽ về các nhân vật mang tính
lịch sử
Nói đến sự thành công của tranh mang tính lịch sử, ta không thể không
nhắc đến những tác phẩm vẽ về các nhân vật mang tính lịch sử.
Cùng về đề tài mang tính lịch sử, ở sự kiện lớn của đất nước Dương
Hướng Minh có tác phẩm kéo pháo vào Điện Biên Phủ rất nổi tiếng thì cũng
40
trong trong mảng đề tài này ông thể hiện một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng
lớn đến tinh thần quyết tâm chống giặc của quân và dân ta. Ông đã thể hiện
tác phẩm Chèn pháo ở Điện Biên Phủ (1960), (H4.2), cùng thời gian đó cũng
thể hiện nhân vật anh hùng lịch sử có họa sỹ Lê Vinh thể hiên thành công tác
phẩm Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng (H1.6), họa sỹ Phạm Thanh Tâm
cũng có một số bức ký họa về những tấm gương anh dũng trong chiến dịch
Điện Biên Phủ... Qua lời kể của anh em, họa sỹ Dương Hướng Minh đã ghi
chép cách xử lý thông minh của anh hùng Tô Vĩnh Diện khi lấy vai hất bánh
xe cho pháo lao về phía núi khỏi rớt xuống vực... Cùng một chủ đề, nhưng hai
họa sỹ với hai cách thể hiện và lựa chọn chất liệu khác nhau cũng đã đem đến
những hiệu quả đặc biệt, cùng thể hiện nhân vật anh hùng mang tính lịch sử
nhưng trong tác phẩm Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng (H1.6), của họa sĩ
Lê Vinh được vẽ với chất liệu lụa (1957), lại mang tới cho người xem một
hiệu ứng hoàn toàn khác. Đó là sự quyết liệt trong tâm trí người lính, diễn tả
trên chất liệu lụa đã đưa người thưởng thức tới một không gian như là mơ bởi
sự mờ ảo, mềm mại, nhưng óng ả mà chất liệu lụa đem lại. Tác giả như muốn
giảm bớt sự đau thương của chiến tranh xuống, đưa người xem đến một thế
giới của những “giấc mơ” dành chiến thắng. Nhưng đối với tác phẩm Chèn
pháo ở Điện Biên Phủ (H4.2), của Dương Hướng Minh người anh hùng Tô
Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo đã hướng người xem nhìn nhận nội dung
tác phẩm dưới góc nhìn thời đại, hình khối, mảng miếng, được tác giả nhìn
nhận một cách rắn chắc, nhất quán trong tổng thể. Cách thức vẽ nhân vật anh
hùng ở gần chính giữa, theo hướng hơi nghiêng lên, những người đồng đội
như thu nhỏ phía sau. Hình thể nằm nghiêng của người anh hùng như có trọng
lượng, cơ thể võng xuống ở quãng giữa lồng ngực và khung chậu dáng điệu
như gồng lên chống đỡ một sức nặng ngàn cân. Nhờ ngôn ngữ biểu đạt của
hội họa, họa sỹ đã diễn tả được hình khối chắc khỏe của cơ thể người anh
41
hùng. Chính sự đề cao tính chính sử của đề tài này đã trở thành đặc trưng của
thể loại tranh vẽ mang tính lịch sử, sự kết hợp giữa màu sắc và không gian
trong tranh là xuất phát điểm cho mối quan tâm của những người thưởng thức
nghệ thuật. Chính màu sắc và ánh sáng vàng son của chất liệu sơn mài đã làm
tăng chiều sâu và sức nặng cho tác phẩm.
Cũng trong mảng đề tài này một nhân vật được quần chúng nhân dân
yêu quý và ca ngợi đã xuất hiện trong rất nhiều các loại hình nghệ thuật.
Trong nghệ thuật tạo, các nghệ sĩ đã dành nhiều tình cảm, sự yêu quý, trân
trọng để thể hiện trên nhiều chất liệu. Nhân vật có sức ảnh hưởng, lan tỏa vô
cùng lớn lao đó là Chủ tich Hồ Chí Minh. Xuyên suốt trong nghệ thuật tạo
hình Việt Nam đã có không ít những tác phẩm thể hiện Bác Hồ. Trong nhiều
tác phẩm vẽ về Bác phải kể đến những tác phẩm như: Bác Hồ làm việc tại
Bắc Bộ Phủ (H1.8), (tranh màu dầu và tranh khắc gỗ, cùng tên) của Tô Ngọc
Vân, sáng tác năm 1946, do Hội văn hóa Kháng chiến ấn hành tại Việt Bắc
đầu năm 1947, tượng Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ (chân dung thạch
cao 1946) của Nguyễn Thị Kim; Cụ Hồ tranh mực nho của Nguyễn Đỗ Cung
vẽ năm 1946, tại Hà Nội, đầu 1947, tác phẩm được phát hành rộng rãi trong
kháng chiến tại Việt Bắc. Tới giai đoạn đầu kháng chiến toàn quốc, cảm động
nhất có lẽ vẫn là số lớn chân dung Bác của các họa sĩ Nam Bộ.
Trong chiều dài lịch sử mỹ thuật Việt Nam, tranh vẽ Bác trên chất liệu
sơn mài không ít. Vẽ Bác trong giai đoạn 1945 – 1985 trên chất liệu sơn mài
lại không có nhiều tác phẩm. Ta chỉ có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu
như: Bác Hồ ở chiến Khu Việt Bắc (H4.1), hay còn gọi là tác phẩm Hồ Chủ
Tịch qua suối, kích thước 99,8 x 180 cm của họa sĩ Dương Bích Liên (tác
phẩm đoạt giải nhất Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 1980 và hiện được bày ở
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) cùng với tác phẩm kéo pháo ở Điện Biên Phủ
(H3.2) thì đây là một sáng tác nữa đã góp phần không nhỏ trong sự thành
42
công của họa sĩ trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại. Tác phẩm đã
thể hiện thành công hình tượng Bác Hồ cả về nội dung lẫn hình thức biểu
đạt. Từ tác phẩm này, tác giả đã được trao giải thưởng cao nhất trong triển
lãm mỹ thuật.
Với lối bố cục đơn giản, ít màu, giàu nhịp điệu. Gam màu chủ yếu là
xanh của núi, nâu vàng của đất và người. Tác giả không đi sâu diễn tả không
gian và chất của cảnh vật, chỉ với những mảng màu đơn giản, nhưng lại đẹp
lung linh trong sự phong phú của các lớp màu và ánh bạc, tác giả đã thể hiện
thành công nội dung tác phẩm. Hình ảnh con ngựa hiền hòa và nhỏ bé của
đồng bào dân tộc thiểu số tặng cho Bác đã trở thành phương tiện duy nhất để
bác đi công tác. Trong khung cảnh chiến khu Việt Bắc cùng gam màu nâu
vàng của đất, Bác như hòa cùng thiên nhiên, sự hùng vĩ của núi rừng. Điểm
nhấn trong tác phẩm là Bác Hồ và con ngựa núi đó cũng là nội dung chủ yếu
tác giả muốn thể hiện. Hình ảnh Bác tương phản với mảng màu tối phía sau,
tạo điểm nhấn trung tâm cho tác phẩm.
Trong tác phẩm không nhìn thấy sự xuất hiện của nhiều đường nét.
Dương Bích Liên vẫn dễ dàng dựng lên một không gian núi rừng, bầu trời
mặt đất bao la. Bác Hồ và con ngựa núi hòa nhập vào một khối nhỏ chắc, thân
thiện và đắc địa. Tác giả khéo léo để hình ảnh bác rất sát với hình ảnh của chú
ngựa để thể hiện cử chỉ âu yếm cho người xem một cảm nhận sâu sắc về tấm
lòng nhân hậu của vị cha già dân tộc. Người xem dường như cảm nhận được
tiếng thì thầm của Bác với “người bạn” đường cùng Bác đồng hành, vượt qua
khó khăn trong những chặng công tác dài của một thời chiến khu gian khổ.
Các họa sĩ Việt Nam không ít người vẽ về những chuyến đi công tác
của Bác Hồ ở Việt Bắc với con ngựa núi như: Nguyễn Thụ, Phạm Học Hải,
Đỗ Mạnh Cương... nhưng con ngựa núi của Dương Bích Liên mới thực sự là
tuyệt phẩm. Tranh là sự kết hợp tài tình giữa người và ngựa, một triết lý
43
kháng chiến giản dị, gian khổ và lãng mạn. Để có được hiệu quả nghệ thuật
cao, giàu triết lý nhân văn như tác phẩm Bác Hồ Ở Chiến Khu Việt Bắc
(H4.1), Dương Bích Liên đã có những năm tháng được ở với Bác. Đó là vào
mùa xuân năm 1952, họa sỹ được cử lên Việt Bắc, đại bản doanh của cách
mạng để vẽ Bác Hồ. Những ngày tháng được sống bên cạnh Bác ở chiến khu
Việt Bắc là thời gian có biết bao điều đáng ghi nhớ trong cuộc đời làm nghệ
thuật của Dương Bích Liên. Ông đã ghi chép những ký họa về cảnh sinh hoạt
thường ngày của Bác, hầu hết những tài liệu này rất quan trọng và được ông
giữ rất cẩn thận. Con ngựa núi Bác thường cưỡi đi công tác cũng được ông vẽ
rất nhập tâm, vì vậy khi đưa vào tranh nó đã trở thành duy hữu ngựa của
Dương Bích Liên, mà những họa sỹ khác khó có thể khai thác được.
Trong tác phẩm Bác Hồ Ở Chiến Khu Việt Bắc (H4.1), ta thấy tổ quốc
vĩ đại, trùng điệp, bao la, được họa sỹ diễn tả bằng một bút pháp dạt dào, rộng
mở, trước dòng nước mênh mang cuộn chảy, vị Chủ tịch nước vĩ đại cùng con
ngựa núi đang chuẩn bị qua suối, ngựa đóng yên, người áo nâu túi vải, bình
tĩnh chuẩn bị vượt qua dòng lũ cuộn chảy với dáng vẻ người và ngựa thật ung
dung. Dương Bích Liên khéo đặt các chiến sỹ bảo vệ Bác ra ngoài tác phẩm
để sự bình an như một điều tất yếu. Cách xếp đặt khôn ngoan và đầy ắp tính
nhân văn của Dương Bích Liên tạo cho ông một khoảng cách triết học với
những người cùng thời.
Vẽ Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại nhất của dân tộc mà Dương Bích Liên từng
được sống những ngày ở chiến khu Việt Bắc. Vẽ về Người là nguyện vọng
ông ấp ủ gần 40 năm mới trở thành hiện thực. Tác phẩm Bác Hồ Ở Chiến Khu
Việt Bắc (H4.1), là một sự dâng hiến thành kính của ông, của các nghệ sỹ tạo
hình Việt Nam với Bác Hồ hết đỗi kính yêu.
Tác phẩm không chỉ mang tính hiện thực cao, mà còn hàm chứa đầy
chất lãng mạn, chất trữ tình, chất thơ bay bổng, trùng hợp với một phần quan
trọng phẩm cách Bác Hồ. Người không chỉ là vị chủ tịch nước, một chiến sỹ,
44
ở Bác còn cả những thiên tư nghệ sỹ. Tác phẩm mang giá trị nghệ thuật cao,
đó cũng chính là thông điệp của ông về sáng tạo nghệ thuật cho các thế hệ họa
sỹ sau này: Một cách nhìn lịch sử nhân văn và triết học. Những sáng tạo nghệ
thuật của ông còn mãi, cá tính Dương Bích Liên còn mãi, con ngựa núi cùng
Bác Hồ đi công tác còn mãi. Trong giới mỹ thuật và trong lòng người yêu
nghệ thuật Việt Nam. Năm 2000 nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy
tặng giải thưởng mỹ thuật Hồ Chí Minh cao quý nhất cho Dương Bích Liên,
trong đó Bác Hồ Ở Chiến Khu Việt Bắc (H4.1), là một trong những sáng tác
đỉnh cao của ông, con ngựa núi cùng Bác Hồ chuẩn bị qua suối mãi mãi đi
vào lịch sử mỹ thuật dân tộc.
Tiểu kết
Tranh mang tính lịch sử đã phát triển qua nhiều thời kỳ với những ý
nghĩa tạo hình phong phú và nội dung sâu sắc. Tuy nhiên vào giai đoạn 1945
– 1985 tranh mang tính lịch sử thường phản ánh những sự kiện cách mạng và
nhân vật lịch sử. Vì vậy mà khi xem tranh vẽ thuộc giai đoạn này người xem
bị cuốn hút vào cái rạo rực, khí thế hào hùng về những sự kiện của nhân dân
đấu tranh cho quyền tự do của mình.
Giai đoạn 1945 – 1985 là giai đoạn chất liệu sơn mài hình thành và
phát triển mạnh mẽ, ở giai đoạn này đã xuất hiện nhiều tác phẩm thuộc đề tài
mang tính lịch sử và có giá trị nghệ thuật cao. Sự phong phú trong nội dung
thể hiện cùng các phương pháp và kỹ thuật thể hiện, các tác phẩm tiêu biểu
như Xô Viết Nghệ Tĩnh, Kéo pháo vào Điện Biên Phủ, Chèn pháo, Sài Gòn
Giải phóng, Bác Hồ Ở Chiến Khu Việt Bắc... đã mang tới cho người xem cái
nhìn hoàn toàn mới mẻ, cách lựa chọn nội dung thể hiện của từng tác giả,
cách thức thể kiện cùng kỹ thuật sử dụng chất liệu sơn mài, đặc biệt sự xuất
hiện của các tác phẩm đó đã giúp ngươi xem thấy được sự phong phú trong
thể hiện đề tài, và sự kết hợp nhuần nhuyễn của ngôn ngữ hội họa là đường
nét, màu sắc, bố cục, hình khối được kết hợp uyển chuyển và linh hoạt, kết
45
hợp với chất màu lung linh huyền ảo của sơn mài, đã giúp cho các tác phẩm
đạt được giá trị nghệ thuật cao.
Với những tác phẩm mang tính lịch sử đó không chỉ làm tăng giá trị
trong tạo hình nghệ thuật mà với nội dung còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng
bởi tính chân thực của cuộc sống, nó gắn bó mật thiết thể hiện thành công
không khí đang sục sôi trong sự kiện của dân tộc, hay toát lên được vẻ đẹp
thần thái của nhân vật mang tính lịch sử.
Trong bức thư Bác Hồ gửi cho anh em họa sĩ vào năm 1951 có viết:
“văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em cũng là chiến sĩ trên
mặt trận ấy” để đáp lại lời của Bác biết bao thế hệ họa sĩ lên đường, tham gia
cách mạng, tham gia kháng chiến và sáng tác. Không ít các họa sĩ đã lựa chọn
cho mình mảng đề tài phản ánh sự kiện mang tính lịch sử mà sau này với
mảng đề tài đó đã đánh thức được quá khứ vẻ vang của dân tộc, cùng với đó
là việc dựng thành công hình ảnh các anh hùng dân tộc. Các họa sĩ đã mang
hình ảnh các anh hùng dân tộc đến gần hơn với thế hệ trẻ sau này. Những tác
phẩm với đề tài mang tính lịch sử trong thời kháng chiến rất đa dạng, mang
màu sắc thời đại và phong cách của họa sĩ đó là những tác phẩm có giá trị cao
về mặt tư tưởng cũng như giá trị về nghệ thuật.
Với chất liệu sơn mài giai đoạn 1945 – 1985 là giai đoạn hình thành và
phát triển đặc biệt những năm từ 1954 đến 1965 là giai đoạn mà chất liệu này
phát triển rực rỡ với những kỹ thuật thể hiện và sự xuất hiện thêm nhiều màu
sắc trong bảng màu. Cùng với sự xuất hiện nhiều màu hơn là sự kết hợp giữa
tạo hình phương tây với lối bố cục và cách thể hiện của hội họa mang đậm
bản sắc Việt.
Thông qua việc nghiên cứu tìm hiểu và đánh giá một số tác phẩm nghệ
thuật tiêu biểu về đề tài mang tính lịch sử trong chất liệu sơn mài như: tác
phẩm Xô Viết Nghệ Tĩnh (H3.1), Kéo pháo ở Điện Biên Phủ (H3.2), Kết nạp
46
Đảng ở Điện Biên Phủ” (H3.4), Chèn pháo ở Điện Biên Phủ (H4.2), Quảng
trường Ba Đình 2/9/194 (H3.9), Sài Gòn giải phóng (H3.7), để thấy được giá
trị nghệ thuật trong tranh sơn mài phản ánh về đề tài mang tính lịch sử. Với
chất liệu sơn mài, đề tài mang tính lịch sử đã được các họa sỹ đã thể hiện độc
đáo trong bố cục, trầm ấm trong màu sắc, khoáng đạt trong phong cách tạo
hình. Nội dung của các tác phẩm đã truyền được nhiều giá trị lịch sử mang
tính nhân văn sâu sắc. Tác phẩm sơn mài vẽ về đề tài mang tính lịch sử
không những là những giá trị to lớn trong dòng chảy của mỹ thuật hiện đại
mà còn là giá trị tinh tần to lớn của lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước
oai hùng của dân tộc Việt Nam.
47
CHƯƠNG 3
THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA MẢNG ĐỀ TÀI MANG TÍNH
LỊCH SỬ TRONG TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1945 – 1985
3.1. Thành công của đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài
Việt Nam.
Thành công của tranh vẽ về đề tài mang tính lịch sử trong chất liệu sơn
mài, trước hết phải nói đến giá trị nội dung và hình thức thể hiện.
Góp phần tạo nên sự thành công của mảng đề tài mang tính lịch sử trong
tranh sơn mài, trước hết ta cần nhắc tới vẻ đẹp tạo hình của chất liệu. Những
khám phá mới về chất liệu sơn mài của các họa sĩ trường Mỹ thuật Đông
Dương đã thay đổi cách nhìn trong Mỹ thuật Việt Nam những năm 1930 của
thế kỷ XX. Họa sĩ và giới yêu nghệ thuật đều bất ngờ trước vẻ đẹp lung linh
huyền ảo của chất liệu sơn mài, một chất liệu dùng trong lĩnh vực thủ công,
mỹ nghệ. Nhận định về sơn mài, cuốn hội họa sơn mài Việt Nam có viết: “Về
chất sơn, có thể nói: trong kỹ thuật hội họa sơn dầu, không có một màu nào
tương tự được như sơn cánh dán và sơn then; các màu trong (laques) của sơn
dầu dù sao cũng phải được cầm trên nền chất chở alumine (một khoáng chất
vô dịnh hình, không màu có ký hiệu hóa học Al2O3)”. [9, tr.15]
Tranh sơn mài Việt nam giai đoạn 1945 – 1985 đã có nhiều biến chuyển
trong hoàn thiện chất liệu và kỹ thuật thể hiện (đó là sự hoàn thiện về bảng
màu). Chất liệu được sử dụng trong tranh ngày càng phong phú hơn về chất
cảm. Với bảng màu nhiều sắc độ, đặc biệt là sự xuất hiện của màu xanh cùng
với kỹ thuật thể hiện kết hợp một số chất liệu trên bề mặt tranh được các họa sĩ
khai thác, thử nghiệm. Với kỹ thuật giát vàng, bạc tinh tế như dầm, dán, rắc,
cách gắn vỏ trứng, rắc chai đã tạo nên giá trị thẩm mỹ hoàn toàn mới, độc đáo
cho chất liệu.
48
Họa sĩ Tô Ngọc Vân đã từng nhận định: “Thể chất sơn cánh dán, sơn
then, vàng bạc ở sơn mài linh biến, linh động hơn ở sơn dầu”. [9, tr.15]
Sơn mài là chất liệu không chỉ giới nghệ thuật trong nước yêu thích mà
còn chiếm lĩnh được cảm tình của những người yêu hội họa Á Đông. Nhà thơ
Antokolski từng nhận xét: “Tôi chỉ chọn ngành sơn mài trong số vô vàn
những phong cách của nền nghệ thuật Việt Nam. Nó là môn phong phú và
độc đáo nhất, với chất lượng không thể chối cãi, những bức tranh sơn mài Việt
Nam là cánh cửa mở rộng để tìm kiếm cuộc sống của mỗi dân tộc yêu lao động
và tài năng, xa về địa lý, nhưng rất gần chúng ta về tinh thần. [9, tr.30]
Sơn mài giàu yếu tố dân tộc, vì vậy khi vận dụng nó để thể hiện mảng
đề tài mang tính lịch sử, chuyên trở mỹ cảm, tâm hồn người Việt sẽ trở thành
sự cộng hưởng, âm vang để tranh dễ dàng đi vào lòng người, ngợi ca những
trang sử hào hùng của thời đại. Tác phẩm phản ánh những sự kiện, nhân vật
lịch sử đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của nghệ thuật tạo hình
Việt Nam hiện đại, khẳng định vị trí của tranh mang tính lịch sử trong dòng
chảy của các thể loại tranh khác.
Tranh vẽ về đề tài mang tính lịch sử đã góp phần không nhỏ trong việc
giáo dục, tuyên truyền truyền thống yêu nước của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam”. Câu nói đó của Người đã nêu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của lịch sử
trong lòng người dân Việt Nam. Vì vậy, ngoài việc tìm hiểu lịch sử qua các
kênh thông tin khác như: sách báo, điện ảnh, văn học…Nghệ thuật tạo hình là
một phương tiện phản ánh sinh động những vấn đề xã hội trong đó có những
biến cố của lịch sử nhân loại. Vì vậy các họa sĩ vẽ tranh lịch sử, tranh mang
tính lịch sử đã nghiên cứu, thể hiện thành công nhiều tác phẩm thuộc mảng đề
tài này. Trong những năm tháng nở rộ của chất liệu sơn mài khi các họa sĩ từ
chiến khu Việt Bắc về Hà Nội mang theo bao hoài vọng làm tranh lớn, ghi lại
cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp. Cũng từ đó
49
những tác phẩm thuộc mảng đề tài mang tính lịch sử ra đời với nhiều tác
phẩm mang giá trị nghệ thuật cao như: Xô Viết Nghệ Tĩnh (H3.1), Kéo
pháo (H3.2), Nông dân đấu tranh chống thuế (H3.3), Kết nạp Đảng ở Điện
Biên Phủ (H3.4), Tổ Ba Người (Điện Biên Phủ) (H3.5), Nam kỳ năm 1940
(H3.6), Sài Gòn giải phóng (H3.7), Cầu Hàm Rồng (H3.8), Quảng trường Ba
Đình 2/9/1945 (H3.9), Bác Hồ Ở Chiến Khu Việt Bắc (H4.1), Chèn pháo ở
Điện Biên Phủ (H4.2)...
Ký ức về thủ đô ngàn năm tuổi cũng được hiển hiện qua nhiều tác phẩm
hội họa, nhiều mốc chiến công của lịch sử Hà Nội đã được các thế hệ họa sĩ
sau này thể hiện trên tác phẩm của mình. Sau này những tác phẩm đó như bản
hùng ca, bài học gián tiếp cung cấp thông tin về lịch sử đến mọi thế hệ không
chỉ để cho mọi người dân Việt Nam nhận biết rõ cội nguồn của mình, mà còn
để bồi bổ, giáo dục tinh thần yêu nước, ý chí tự tôn, tự hào dân tộc.
Đây là đề tài được nhiều họa sĩ đánh giá là một đề tài lớn và quan trọng
trong mọi thời đại, các họa sĩ, nhà phê bình mỹ thuật cho rằng, với những
người sáng tác mỹ thuật khi lựa chọn mảng đề tài này đã thực hiện sứ mệnh
làm cho những khoảnh khắc, giai đoạn lịch sử luôn sống mãi qua ngôn ngữ
tạo hình. Cùng với nó yếu tố sử trong tranh mang đến nhiều lý thú cho người
thưởng ngoạn nó, bởi những chi tiết trên tranh có tác dụng gợi nhớ về quá khứ
và ký ức.
Với những tác phẩm thuộc mảng đề tài này đã được các họa sĩ những
người đi trước sử dụng ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình thể hiện thành công,
lưu giữ được những hình ảnh lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của
dân tộc thông qua những đường nét, bố cục và mảng màu phong phú cùng
những phong cách thể hiện riêng của mỗi người, các họa sĩ đã sáng tác những
tác phẩm tiêu biểu về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong hai thời kỳ,
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, phản ánh được hiện thực về một giai
50
đoạn, hồi ức về chiến tranh, vẽ lại cảnh hành quân, chiến trường, trận địa...với
nội dung sâu sắc về biểu hiện chân lý và nhân cách lịch sử.
Tranh sơn mài mang tính lịch sử được sáng tác vào giai đoạn 1945 –
1985 không chỉ thành công về chất liệu, đề tài mà còn thành công về hình
thức thể hiện. Đó là sự kế thừa, phát huy cách tạo hình của phương Tây. Các
họa sĩ đã sáng tạo ra những phương pháp thể hiện giúp nghệ thuật tạo hình có
nhiều phương thể hiện độc đáo hơn. Sự kết hợp bố cục với luật xa gần, giải
phẫu đã tạo ra những đường nét tinh tế trong nhịp điệu của tác phẩm.
Chính hiệu ứng màu đặc biệt mà chất liệu sơn mài được các họa sĩ thể
hiện trên nền vóc đã trở thành những yếu tố hợp thành quan trọng, đặc biệt.
Các kỹ thuật giát vàng, bac, trai, ốc... những vật liệu tự nhiên đã phá bỏ ranh
giới ngăn cách sự thể hiện bằng hình thức hội họa với cái thực tế. Người ta
thấy trong nền mĩ thuật nước nhà những tác phẩm được tạo thành từ nhiều vật
liệu từ sang trọng đắt tiền như vàng, bạc, đá... đến những vật liệu dễ kiếm,
đơn giản gần gũi như vỏ ốc, vỏ trai. Với lòng yêu nghệ thuật, biết kế thừa và
phát triển những thành quả của những người đi trước, các họa sĩ đương thời
đã khám phá ra rằng người họa sĩ có thể khôi phục lại các yếu tố của hình thể
là đường, hình dáng, màu và kết cấu, từ bất cứ thứ gì, hay gần như vậy trên
chất liệu này.
Một lần nữa không thể phủ nhận sự tham gia tích cực, đôi khi bằng cả
cuộc sống của nhiều họa sĩ để sáng tạo ra những tác phẩm, phản ánh sự kiện,
con người trong cuộc sống chiến đấu, bảo vệ tổ quốc. Để từ những tác phẩm
đó, những thế hệ sau này ta có một cái nhìn nhận đúng đắn về lịch sử, văn
hóa, con người. Hơn nữa với sự tiếp thu học tập các phương pháp tạo hình
hiên đại ở trường Mỹ thuật Đông Dương, các họa sĩ vẽ tranh mang tính lịch
sử vẫn giữ được truyền thống dân tộc để truyền cảm được tới đông đảo quần
chúng nhân dân đê đem lại cái đẹp, cái thiện cho mọi người, là một điều
không phải đơn giản.
51
Từ năm 1945 đến 1985 là giai đoạn kết tinh của những năm tháng kháng
chiến, một giai đoạn học tập, nghiên cứu và sống sát với thực tế chiến đấu,
với đời sống nhân dân. Với kỹ thuật vẽ khá nhuần nhị cùng tình cảm chân
thành vì cuộc sống hiện thực, các họa sĩ thời kỳ này đã sáng tác được nhiều
tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn
mài giai đoạn này là là sự kết hợp giữa sáng tạo với khai thác tinh hoa truyền
thống cổ của dân tộc. Hơn thế cũng trong thời gian này nghệ thuật được liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, bồi dưỡng tinh thần và phát triển những nhu cầu
thẩm mỹ của họ, cũng như phát triển chủ nghĩa nhân đạo cao quý, lòng trung
thành với dân tộc, dùng nghệ thuật phản ánh cuộc sống.
Với những thành công trong hoạt động mĩ thuật đã đã cho “ra đời” rất
nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Những thành công đã góp phần không
nhỏ vào sự nghiệp cách mạng ngay từ những ngày đầu Cách mạng tháng
Tám, trong Hội Văn hóa cứu quốc, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ với biết bao hoạt động tích cực về mỹ thuật của Ban Mỹ thuật thuộc hội
văn nghệ Việt Nam.
3.2. Hạn chế của đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài Việt Nam.
Bên cạnh sự phát triển và những thành tựu có được của các sáng tác mỹ
thuật về đề tài mang tính lịch sử, công chúng yêu nghệ thuật thường bày tỏ
mối lo lắng về sự tồn tại và phát triển của các tác phẩm thuộc mảng đề tài này
trong giai đoạn hiện nay. Các sáng tác về đề tài lịch sử ngày càng ít trong mỹ
thuật hiện đại.
Các họa sỹ, nhà điêu khắc vẫn còn trăn trở với món nợ chưa trả được đối
với dân tộc. Lich sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của quá trình dựng nước
và giữ nước. Trên con đường đấu tranh đó, đã xuất hiện nhiều dấu mốc lịch sử
chói ngời, nhiều tấm gương yêu nước, trung hậu và quả cảm. Trong khi đó, dù
có nhiều trăn trở, tâm huyết, các nghệ sỹ trong lĩnh vực tạo hình vẫn chưa có
52
nhiều sáng tác ngang tầm chiều dài lịch sử. Đặc biệt tranh lịch sử hay tranh vẽ
về những đề tài mang yêu tố lịch sử chưa có nhiều tác phẩm đồ sộ, chủ yếu là
hội họa giá vẽ. Nhiều cách lý giải về hạn chế này. Có ý kiến cho rằng đây là
một mảng đề tài khó. Để có thể sáng tác được một tác phẩm có chất lượng về
nội dung cũng như hình thức thể hiện, đòi hỏi người nghệ sĩ phải có những
kiến thức chuyên sâu về lịch sử. Khi sáng tác những tác phẩm thuộc thể loại
này không chỉ vững về kiến thức chuyên môn, địa lý, xã hội mà nó còn đòi
hỏi ở người nghệ sĩ phải có được cái nhìn thời đại, nắm bắt và xác định những
“mắt thần của sự kiện”. Từ đó thể hiện một cách tốt nhất nội dung, chủ đề, tư
tưởng tác phẩm. Vì vậy không ít nghệ sĩ gặp khó khăn khi sáng tác mảng đề
tài này trong việc tìm tư liệu và bố cục đảm bảo tính chính xác về sự kiện,
nhân vật lịch sử.
Giai đoạn 1945 – 1985 , chất liệu sơn mài đã mở rộng bảng màu, nắm
bắt được các kỹ thuật, phương pháp tạo hình. Với đề tài mang tính lịch sử,
tính thời sự, thời đại đòi hỏi sự ghi chép nhanh chóng, chính xác. Khi thể hiện
trên chất liệu sơn mài gặp phải nhiều hạn chế. Kỹ thuật thể hiện của chất liệu
sơn mài phải trải qua rất nhiều công đoạn như phác thảo, đi nét, vẽ các lớp
màu kết hợp các kỹ thuật giát vàng, bạc, trứng, ốc, trai. Cuối cùng là mài,
đánh bóng thì việc yêu cầu vẽ nhanh đối với chất liệu sơn mài là khó có thể
đáp ứng được. Không vì các kỹ thuật thể hiện công phu đó mà các tác phẩm
thuộc mảng đề tài trên chất liệu sơn mài mất đi tính thời sự vốn có của nó.
Có lẽ do việc trải qua rất nhiều công đoạn, đòi hỏi người nghệ sĩ cần có
những kiến thức chuyên sâu cả về kỹ thuật, hình thức và nội dung thể hiện
mà mảng đề tài mang tính lịch sử trên chất liệu sơn mài ít được các họa sĩ
lựa chọn thể hiện.
Hơn thế đề tài mang tính lịch sử là một mảng đề tài chưa có được một
cái nhìn đúng đắn và chưa có được đào tạo, nghiên cứu một cách chuyên sâu.
53
Vì vậy tranh vẽ đề tài mang tính lịch sử không phải là thể loại chủ đạo của hội
hoạ Việt Nam hiện đại. Cùng với đó hầu hết các họa sĩ Việt Nam được học
trong các trường mỹ thuật đều được đào tạo cơ bản tiếp cận với nhiều mảng
đề tài và nhiều chất liệu. Vì những lý do đó nên đã tạo ra một xu hướng
chung, các họa sĩ thích tiếp cận các đề tài, thể loại tranh chân dung, phong
cảnh, tĩnh vật nhiều hơn là tranh mang tính lịch sử. Sự mất cân bằng, đặc biệt
cách nhìn nhận của lớp họa sĩ trẻ đang có xu hướng sáng tác những tác phẩm
nghệ thuật đương đại, với nhiều loại hình nghệ thuật mới như video art, body
art hay nghệ thuật sắp đặt (installation), trình diễn... đã khiến cho mảng đề tài
này trong nền mỹ thuật Việt Nam càng thiếu vắng.
Những khó khăn trong điều kiện chưa có cơ sở đào tạo riêng biệt cho thể
loại tranh này, đặc biệt khi hoa sĩ sáng tác mảng đề tài này không phải họa sĩ
nào cũng có thể hội đủ tư liệu lịch sử về vốn sống, vốn hiểu biết về lịch sử vì
vậy việc thu thập các tư liệu trong lịch sử trở lên khó khăn, nên các sáng tác
cũng từ đó ít được quan tâm sáng tác.
Điều này lý giải vì sao trong sáng tác hội họa đề tài này hầu hết khi thể
hiện các nhân vật trong sự kiện lớn, không gian lớn những nhân vật mang tính
lịch sử được thể hiện chưa có được diện mạo rõ nét trong nền văn hóa, lịch sử
nước ta. Các nhân vật trong tranh mang tính lịch sử thời kỳ phong kiến chưa
đậm nét, chưa kể đến các họa gia muốn vẽ tranh lịch sử hay tranh mang tính
lịch sử muốn thể hiện các nhân vật sát nhất có thể đã đi tìm các nhà lịch sử để
hỏi về chân dung, trang phục, quần áo…những gì mang “tính ảnh” của thời
đó nhưng đều gặp cái lắc đầu vì các sử gia thời đó không hề lưu lại, không có
tư liệu gì.
Ngoài ra khi sáng tác mảng đề tài này việc thu thập các tài liệu về y
phục, chân dung của con người trong các giai đoạn lịch sử, giúp họa sĩ hình
54
dung được dễ dàng hơn trong sáng tạo nghệ thuật thì ở ta, việc này còn rất
nhiều hạn chế.
Hầu hết các họa sĩ sáng tác mảng đề tài này thành công chủ yếu là các
họa sĩ đương thời được sống, và chiến đấu trong hoàn cảnh lịch sử diễn ra,
nên họ hiểu được tính chất, không khí hơn bao giờ hết, nhưng với giới trẻ,
việc phải thu thập tư liệu cho sáng tác tranh, tượng về đề tài này có lẽ chủ yếu
lấy thông tin từ sách sử, và những tư liệu còn lại có lẽ không có nhiều nên rất
nhiều người ngại sáng tác mảng đề tài này.
Hơn thế trong sáng tạo nghệ thuật về đề tài mang tính lịch sử đòi hỏi cao
về tư duy lịch sử và trải nghiệm lịch sử bằng vốn sống, vốn hiểu biết, vốn
nghệ thuật của mỗi họa sĩ. Lịch sử cận đại, hiện đại cho dù có sống cùng với
thời đại của nhân vật, sự kiện lịch sử cũng chẳng đơn giản chút nào.
Chính điều đó mà trong nhiều tác phẩm mang tính lịch sử ta nhận thấy
các nhân vật trong những sự kiện lịch sử cứ “na ná” nhau tình trạng, gương
mặt của hầu hết các nhân vật có nét giông nhau, trang phục cũng tương tự ít
thay đổi.
Cũng vì những hạn chế đó mà những giai đoạn lịch sử hào hùng của dân
tộc không được tái hiện đầy đủ, tương xứng với một quốc gia giàu truyền
thống, kiên cường trong đấu tranh chống ngoại xâm như Việt Nam. Và có lẽ
trong nền mỹ thuật Việt Nam còn thiếu một đội ngũ chuyên nghiệp để nghiên
cứu, sáng tác tranh mang tính lịch sử, có lẽ chúng ta cần có một cách nhìn
nhận mới về mảng đề tài này. Vẽ một bức tranh đã khó, vẽ một tác phẩm
mang tầm tư tưởng, nội dung sâu sắc liên quan đến lịch sử lại càng khó hơn.
Nếu chỉ đơn thuần là minh họa lịch sử thì sẽ giảm đi giá trị của hội họa, song
nếu hư cấu mà làm sai lệch tinh thần lịch sử lại có tội với lịch sử.
Sau cùng để tranh mang tính lịch sử được công chúng chú ý và coi trong
hơn nữa thì có lẽ chúng ta cần chú trọng hơn đến việc đào tạo để có một đội
55
ngũ chuyên sáng tác đề tài nay, và tích cực đưa các tác phẩm thuộc mảng đề
tài này đến với công chúng bằng các phương thức như triển lãm, in sách…để
các tác phẩm đến được với công chúng yêu nghệ thuật và muốn tìm hiểu lịch
sử Việt Nam qua nghệ thuật đó. Đó là cách để tạo nên sức sống của mỹ thuật
và cũng là cách để nghệ thuật phát huy giá trị của nó, khơi dậy những rung
động thẩm mỹ và đưa các bài học lịch sử đi vào tâm hồn người Việt, góp phần
giúp “dân ta biết sử ta”.
Tóm lại 40 năm từ năm 1945 đến 1985 là một đơn vị thời gian không lớn
mà cũng không nhỏ, chính trong 40 năm đầy biến cố đó của lịch sử dân tộc,
chúng ta đã kế thừa và học tập được những gì của cha ông và của bạn bè quốc
tế để nền nghệ thuật nước nhà có được thay đổi và những thành công đáng kể
trong nội dung và hình thức. Trong 40 năm đó đã đủ để có được sự ảnh hưởng
đến thẩm mĩ của số đông quần chúng, 40 năm đủ để ta có thể nhìn lại, để tự
hào và tiếp tục phát triển nó.
Tiểu kết
Khi vẽ tranh mang tính lịch sử người họa sĩ bắt đầu từ việc xác định tính
lịch sử của vấn đề, sự ảnh hưởng của nó trong tương lai, lựa chọn bối cảnh,
con người để có thể diễn tả chân thực nhất các sự kiện. Tác giả nghiên cứu
nội dung xác định ý tưởng thể hiện... Trong lịch sử cũng có cái đẹp, cái đẹp
của lịch sử được hình thành rất sớm, từ thời sơ khai con người đã biết ghi lại
những sự kiện trọng đại của một bộ tộc.
Trên những sự kiện trọng đại đó để có được tác phẩm giá trị và có ý
nghĩa, ta cần lựa chọn được những khoảnh khắc điển hình để ghi lại, và
khoảnh khắc đó thường là thời điểm cao trào của sự kiện. Để có thể thể hiện
thành công mảng đề tài này trên chất liệu sơn mài, các họa sĩ là những người
nghiên cứu, hiểu rõ đặc tính của chất liệu sơn mài và là người thành thạo
trong kỹ thuật thể hiện chất liệu.
56
Việc có ý tưởng, có nội dung sự kiện và sự am hiểu về kỹ thuật là chưa
đủ, để có một tác phẩm tốt, người nghệ sĩ là những người hiểu rõ nhất ngôn
ngữ thể hiện của hội họa sự biến đổi trong đường nét của mỗi người, ý đồ
sắp xếp trong bố cục và việc lựa chọn cho mình một phong cách thể hiện
riêng, có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố, mỗi một họa sĩ thành công đã
có cho mình cách thể hiện ngôn ngữ hội họa riêng, điều đó đã làm lên phong
cách của mỗi người.
Đối với đề tài mang tính lịch sử giai đoạn 1945 – 1985 đã ghi được dấu
ấn về một nền mĩ thuật đang trên đà phát triển của hội họa Việt Nam, đem đến
cho công chúng yêu nghệ thuật một cái nhìn mới về một mảng đề tài ý nghĩa,
cùng với đó là góc nhìn mới mẻ về một chất liệu truyền thống của dân tộc.
Sơn mài thoát ra khỏi cái bóng của mỹ nghệ để đến với mỹ thuật tạo hình, và
đã có được nhiều thành công trong cách thể hiện. Từ đây mỹ thuật Việt Nam
có thêm một chất liệu tạo hình mới, tiếng nói mới hòa chung với tiếng nói của
chất liệu sơn dầu, lụa... Và cũng từ đây giới mĩ thuật đã có cho mình một
niềm tự hào về nét độc đáo mà chất liệu này mang lại. Sự độc đáo đó đã được
chứng minh trong việc phân tích các hiệu quả đạt được trong các tác phẩm
nghệ thuật thuộc mảng đề tài này được các họa sĩ thể hiện trên chất liệu sơn
mài đã được nghiên cứu trong đề tài.
Như vậy với mảng đề tài mang tính lịch sử không chỉ đem đến cho nền
hội họa cách nhìn nhận cái hay, cái ý nghĩa thiết thực được phản ánh trong
các tác phẩm, mà còn qua ý nghĩa của nội dung, phương pháp thể hiện và giá
trị nghệ thuật của các tác phẩm mang lại nữa. Vấn đề thứ hai đó là những hạn
chế về của mảng đề tài này còn nhiều bất cập trong điều kiện sáng tác, những
khó khăn về nắm bắt thể hiện chất liệu, hay phương tiện thể hiện nó.
Cuối cùng là một số điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài mang tính lịch
sử trong tranh sơn mài giai đoạn 1945 – 1985, đã đóng góp ý tưởng trong
cách thức thể hiện nội dung, phương thức kỹ thuật thể hiên giúp hoàn thiện
57
việc thiên kế thừa và phát triển, tìm hướng đi phù hợp cho vấn đề mà đề tài
đặt ra, đồng thời tổng hợp những cái hay, thấy được trong quá trình nghiên
cứu đề tài, qua đó đúc rút kinh nghiệm cho sáng tác của bản thân.
58
KẾT LUẬN
Đề tài mang tính lịch sử là một mảng đề tài lớn và có giá trị lớn trong
việc cung cấp thông tin lịch sử, nó phản ánh chân thực các sự kiện và nhân
vật mang tính lịch sử. Đặc biệt với mảng đề tài này yêu cầu người họa sĩ cần
hiểu và nắm bắt được sự chính xác tương đối đối tượng thể hiện. Cùng với đó
là sự hiểu biết về chất liệu sơn mài cùng các kỹ thuật thể hiện chất liệu này.
Đây là một chất liệu đặc biệt có tính truyền thống. Để chủ động nắm được và
thể hiện chất liệu này là một điều không mấy dễ dàng đối với các họa sĩ, bởi
với công đoạn mài, tác phẩm nhiều khi mang đến những hiệu ứng đặc biệt mà
người họa sĩ không ngờ đến, chính sự không ổn định trong kỹ thuật mài cũng
trở thành một điều khó khăn trong nắm bắt và thể hiện chất liệu của người họa
sĩ. Nhưng không vì thế mà các họa sĩ hiện đại từ bỏ chất liệu này, rất nhiều
các họa sĩ coi sự khó khăn và thách thức đó trở thành một khích lệ để tiếp tục
nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo và phát triển.
Tuy nhiên để khai thác có hiệu quả vấn đề được quan tâm, mỗi chúng
ta những người yêu thích lịch sử, yêu thích tranh lịch sử và tranh mang tính
lịch sử cần cố gắng hơn nữa trong việc trau dồi kiến thức về lịch sử, sự hiểu
biết về ngôn ngữ hội họa và kỹ năng sử dụng chất liệu, đặc biệt chúng ta cần
xây dựng cho mình tinh thần trách nhiệm với những thành quả đã đạt được.
Chỉ khi chúng ta đặt ra những yêu cầu đó mới có được thái độ làm việc
nghiêm túc, có tinh thần trách nhiệm với lịch sử của dân tộc.
Đề tài mang tính lịch sử trong tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945
– 1985 cho thấy rõ mối tương quan con người với con người và hoàn cảnh xã
hội, mối tương quan giữa người nghệ sĩ với quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Liệu trong tương lại, những thế hệ tiếp lối, tìm hiểu nghiên cứu mảng đề tài
này có đem tới nguồn xúc động tốt lành, và ý nghĩa lịch sử nữa hay không.
Lời giải đáp có lẽ nằm ở nhận thức của mỗi người yêu, sáng tác nghệ thuật, và
quan tâm đến những vấn đề liên quan đến lịch sử. Cho nên hôm nay cũng như
59
trong quá khứ, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lịch sử cần có cho mình
một chỗ đứng quan trọng trong nghệ thuật tạo hình theo nhịp tiến bộ của xã
hôi. Nghiên cứu mảng đề tài này người nghiên cứu, sáng tác cần biết đặt mình
dưới tư tưởng bao trùm của dân tộc. Trong quá khứ, các tác phẩm mang giá trị
nghệ thuật cao đã cho chúng ta thấy được những hình ảnh sinh động, những
rấy chân thực những khoảnh khắc quan trọng, đẹp của lịch sử.
Các bậc thầy sáng tác nghệ thuật, đã tâm huyết diễn tả hoàn cảnh xã
hội, sự kiện và con người tiêu biểu của xã hội trong quá khứ, đã đem đến cho
người xem những cảm xúc mãnh liệt về một thời hào hùng, đã khiến cho
những vấn đề của lịch sử không bị rơi vào quên lãng. Đó là điều quan trọng,
là giá trị được lưu truyền mà chúng ta tôn vinh – bằng cách giữ gìn và cả bằng
sự vượt lên.
Sự thật là những sự kiện và nhân vật có sức ảnh hưởng đến thời đại đều
hấp dẫn bất cứ họa sĩ lớn nào. Với sự đa dạng trong phong cách tạo hình và
trong mầu sắc, điều đó vẫn cứ để lại dấu ấn rõ rệt trong hơi thở sáng tạo.
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
2. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên) (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại,
Viện Mỹ thuật – Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
3. Phạm Thị Chỉnh (2007), Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Đại học Sư
phạm.
4. Phạm Thị Chỉnh (2007), Giáo trình Mỹ Thuật Học, Nxb Đại Học Sư Phạm.
5. Dương Văn Chung (2012), Tính sự kiện và tính thẩm mỹ trong tranh lịch
sử, Luận văn Thạc sĩ mỹ thuật, Trường Đại Học Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
6. Trần Khánh Chương (2012), Mỹ thuật Hà Nội Thế kỷ XX, Nxb Mỹ thuật.
7. Trần Nguyên Đán, Đặng Thế Minh, Nguyễn Xuân Tiệp (Hội đồng biên
tập), Tác phẩm mỹ thuật, Nxb Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam.
8. Trương Hạnh (1996), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ Thuật, Hà
Nội.
9. Trương Hạnh (2006), Hội họa sơn mài Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
10. Trần Lưu Hậu (chủ biên) (1994), 50 năm tranh tượng lực lượng vũ trang
và chiến tranh cách mạng, Nxb Mỹ thuật và Nxb Quân đội nhân dân.
11. Nguyễn Phi Hoanh, (1970), Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội.
12. Trương Bé, Tính dân tộc và hiện đại trong Nghệ thuật tạo hình, Tạp chí
mỹ thuật, 279, (1), (2011),
13. Hội Mỹ thuật Việt Nam (2012), Kỷ yếu hội thảo Sáng tác Mỹ thuật về đề
tài Lịch sử Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
14. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển mỹ thuật, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà
Nội.
61
15. Hoàng Công Luận, Nguyễn Quân (biên tập 1994), Các bậc thầy hội họa
Việt Nam Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nxb
mỹ thuật.
16. Bùi Thị Thanh Mai, Đề tài lịch sử và sự phản ánh lịch sử trong hội họa
Việt Nam, tạp chí VHNT, 346 (1), (4/2013).
17. Hoàng Hoa Mai (2013), Nghệ thuât tạo hình với đề tài lịch sử, tạp chí mỹ
thuật, 6(1) (2013).
18. Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ 1975 – 2005 (1980), Nxb Mỹ thuật.
19. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ
thông, Nxb Giáo dục.
20. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam (1975), Nxb Văn Hóa.
21. Ngôn ngữ học Việt nam (2006), Từ Điển Tiếng Việt, Nxb từ điển Bách
khoa.
22. Nguyễn Quang Phòng (chủ biên 1993), Các họa sĩ trường Cao đẳng
Đông Dương, Nxb Nghệ thuật Hà Nội.
23. Quang Phòng (chủ biên) (1998), Mỹ thuật thủ đô Hà Nội thế kỷ 20, Nxb
Mỹ thuật.
24. Nguyễn Quân (2010), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, Nxb Mỹ
thuật.
25. Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật thế kỷ XX, Nxb Mỹ thuật.
26. Hương Sen “Kéo pháo ở Điện Biên Phủ trong tranh Dương Hướng
Minh” Tạp chí Văn hóa Giáo dục, 7 (01), (8/05/2014).
27. Hoàng Hữu Tâm (2009), Tranh sơn mài Việt Nam, Nxb Mỹ thuật.
28. Nguyễn Thu Thủy – Vi kiến Thành (chủ biên 2003), Tuyển tập mỹ thuật
Việt Nam thế kỷ XX. Nxb Bộ Văn hóa thông tin.
29. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật,
Hà Nội.
62
30. Dương Viên, Trần Lưu Hậu, Vũ Giáng Hương, Hoàng Công luận, Trần
Khánh Chương (Hội đồng biên tập) (1994), Tranh sơn mài Việt Nam (Les
laques du VietNam), Nxb Mỹ thuật.
31. Trần Bảo Yên (2011), Mỹ thuật kháng chiến, Nxb Văn hóa.
32. 10 tác giả , Tác giả tác phẩm mỹ thuật thời kỳ chiến tranh cách mạng,
Nxb Bảo tàng TP. Hồ Chí Minh.
63
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ GIANG
ĐỀ TÀI MANG TÍNH LỊCH SỬ
TRONG TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1985
PHỤ LỤC ẢNH
Chuyên ngành: Mĩ thuật tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60210102
Khóa : 18 (2015 - 2017)
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
PGS.TS: BÙI THỊ THANH MAI
Hà Nội, 2017
64
MỤC LỤC
PHỤ LỤC ẢNH
Trang
Phụ lục 1: Một số tác phẩm liên quan đến đề tài mang tính lịch sử trong tranh
sơn mài Việt Nam giai đoạn 1945 – 1985 ............................................................... 65
Phụ lục 2: Một số tác phẩm sơn mài tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1985 .............. 73
Phụ lục 3: Một số tác phẩm phản ánh sự kiện cách mạng, kháng chiến ............. 81
Phụ lục 4 Một số tác phẩm phản ánh nhân vật mang tính lịch sử ....................... 86
65
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ TÁC PHẨM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI MANG TÍNH LỊCH
H1.1. Velazquez, TP. Trao chìa khóa thành Breda, (1963),
Chất liệu sơn dầu, 307x367 cm (Nguồn ảnh: Báo điện tử)
H1. 2. Théodore Géricault (1791-1824), TP. Chiếc bè của chiến thuyền Méduse
Chất liệu sơn dầu trên vải, 491 × 716 cm (Nguồn ảnh: Báo điện tử)
SỬ TRONG TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 - 1985
H1.3. Jacques-Louis David _ Lễ đăng quang của Napoleon I,
Chất liệu sơn dầu, 621 x 979 cm (Nguồn ảnh: Báo điện tử)
H1.5. Huỳnh Phương Đông _ Anh hùng Nguyễn Văn Quang
trận sông cầu, chất liệu sơn dầu, 100 x 80 cm (Nguồn ảnh: [32, tr.45])
66
H1.6. Lê Vinh _ Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng (1957), chất liệu lụa,
(Nguồn ảnh: [18, tr.30])
H1.7. Văn Thơ_ Những năm tháng Bác ở Chiến khu iệt Bắc, chất liệu sơn dầu
(Nguồn ảnh: Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh)
67
H1.8. Tô Ngọc Vân _ Bác Hồ làm việc tại Bắc Bộ Phủ (1946),
chất liệu sơn dầu, (Nguồn ảnh: Hội Mỹ thuật Việt Nam)
H1.9. Văn Thơ_ Bác Hồ trong đám tang Lê-nin, chất liệu sơn dầu
(Nguồn ảnh: Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh)
68
H1.10. Phạm Viết Song _ Hoàng Lệ Kha ra pháp trường (1960),
chất liệu sơn dầu, 50 x 70 cm (Nguồn ảnh: Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh)
H1.11. Lê Vinh _ La Văn Cầu (1958), chất liệu sơn dầu, 60 x 80cm
(Nguồn ảnh: Bảo tàng lịch sử quốc gia)
69
H1.12. Nguyễn Trọng Kiệm _ Rời lều cỏ Bác tiếp tục hành quân (1985),
chất liệu sơn dầu, 130x160cm (Nguồn ảnh: Cục Mỹ thuật nhiếp ảnh và triển lãm)
H1.13. Nguyễn Hiêm _ Trận Tầm Vu (1948), chất liệu
chất liệu sơn dầu, 62 x 82cm, (Nguồn ảnh: Bảo tàng lịch sử quốc gia)
70
H1.14. Kim Bạch _ Đấu tranh chống bắt lính tại Thị Xã Vĩnh Long,
chất liệu sơn dầu 298 x 78cm (Nguồn ảnh: 32, tr.31)
H1.15. Quách Phong _ Nắng Tháng Năm, chất liệu bột màu
(Nguồn ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)
71
72
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ TÁC PHẨM SƠN MÀI TIÊU BIỂU GIAI ĐOẠN 1945 - 1985
H2.1. Nguyễn Gia Trí, TP. Thiếu nữ bên đầm sen, chất liệu sơn mài, (1,2 x 2,4m),
(Nguồn ảnh: Tạp chí văn học nghệ thuật – văn hóa)
H2.2. Trần Văn Cẩn _ Mùa đông đan áo (1957 – 1960),
chất liệu sơn mài, 100 x 75 cm, (Nguồn ảnh: Bảo tàng mỹ thuật)
H2.3. Trần Văn Cẩn _ Tát nước đồng chiêm, (1958),
chất liệu sơn mài, 60,5 x 92 cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H2.4. Phan Kế An _ Nhớ một chiều Tây Bắc, (1955),
chất liệu sơn mài, 70x112 cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
73
H2.5. Nguyễn Đức Nùng _ Bình minh trên nông trang, (1958),
chất liệu sơn mài, 63 x 91cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H2.6. Nguyễn Sáng _ Lớp học đêm, (1960), chất liệu sơn mài, 80 x 120cm
(Nguồn ảnh Ảnh: Nguyễn Thị Giang)
74
H2.7. Nguyễn Tư Nghiêm _ Con nghé quả thực, chất liệu sơn mài, 45,5 x 63 cm
(Nguồn ảnh: Bảo tàng mỹ thuật)
H2.8. Hoàng Tích Trù (1912 – 2003) _ Tổ đổi công cấy lúa, (1958),
chất liệu sơn mài, 76 x 100 cm (Nguồn ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)
75
H2.9. Tô Ngọc Vân _ Bộ đội dừng chân trên đèo, chất liệu sơn mài, 35 x 50 cm
(Nguồn ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)
H2.10. Nguyễn Sỹ Ngọc _ Tình quân dân (Cái bát), 1949, chất liệu sơn mài, 78,8 x 60 cm
(Nguồn ảnh: Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam)
76
H2.11. Lê Quốc Lộc _ Qua bản cũ (1958), chất liệu sơn mài
(Nguồn ảnh: Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam)
H2.12. Lê Quốc Lộc _ Giữ lấy hòa bình của Lê Quốc Lộc, (1960),
chất liệu sơn mài, 70 x 120 cm, (Nguồn ảnh: Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam)
77
H2.13. Nguyễn Khang _ Hòa bình hữu nghị (1958), chất liệu sơn mài, 90 x 90cm
(Nguồn ảnh: Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam)
H2.14. Mai Văn Nam _ Đi chợ Bắc Hà (1957), chất liệu sơn mài, 59.4 x 95,5 cm
(Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
78
H2.15. Nguyễn Văn Tỵ _ Nhà tranh gốc mít (1958),
chất liệu sơn mài 66,7 x 100,3 cm, (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H2.16. Nguyễn Hiêm _ Qua cầu khỉ (1958), chất liệu sơn mài, 100x 150cm
(Nguồn ảnh: Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam)
79
80
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ TÁC PHẨM PHẢN ÁNH SỰ KIỆN CÁCH MẠNG,
KHÁNG CHIẾN
H3.1. Tập thể họa sỹ: Nguyễn Đức Nùng, Nguyễn Sĩ Ngọc,
Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Văn Tỵ
Xô Viết Nghệ Tĩnh (1957), chất liệu sơn mài, 160x320cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H3.2. Dương Hướng Minh _ Kéo pháo ở Điện Biên Phủ, (1957),
chất liệu sơn mài 99,7 x 199,5cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H3.3. Nguyễn Tư Nghiêm _ Nông dân đấu tranh chống thuế, 1960,
chất liệu sơn mài 100 x 160 cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H3.4. Nguyễn Sáng _ Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (1956),
chất liệu sơn mài, 112 x 180 cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
81
H3.5. Vũ Duy Nghĩa _ Tổ Ba Người (Điện Biên Phủ),
chất liệu sơn mài 120 x 120 cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H3.6. Huỳnh Văn Gấm _ Nam kỳ năm 1940, sơn mài, (1960),
chất liệu sơn mài, 69,7x 140 cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
82
H3.7. Quách Văn Phong _ Sài Gòn giải phóng (1975 – 1982),
chất liệu sơn mài, 120 x 240cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H3.8. Trần Huy Oánh _ Cầu Hàm Rồng (1976), chất liệu sơn mài, 99 x 152,8 cm
(Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
83
H3.9. Văn Thơ _ Quảng trường Ba Đình 2/9/1945, (1976), chất liệu sơn mài
(Nguồn ảnh: Báo Trường đại học Huế)
84
85
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ TÁC PHẨM PHẢN ÁNH NHÂN VẬT MANG TÍNH LỊCH SỬ
H4.1. Dương Bích Liên _ Bác Hồ Ở Chiến Khu Việt Bắc (1960),
chất liệu sơn mài, 99,8 x 180 cm (Nguồn ảnh: Nguyễn Thị Giang)
H4.2. Dương Hướng Minh _ Chèn pháo ở Điện Biên Phủ (1960),
chất liệu sơn mài, (Nguồn ảnh: Báo Trường đại học Huế)