BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN XUÂN BÌNH NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ

ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ MĨ THUẬT

Hà Nội, 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN XUÂN BÌNH NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ

ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ MĨ THUẬT

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)

Mã số: 60 21 01 02

Khóa: 18 (2015-2017)

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

PGS. TS. BÙI THỊ THANH MAI

Hà Nội, 2017

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

ĐHMTVN : Đại học Mỹ thuật Việt

Nam

GS : Giáo sƣ

KHXH : Khoa học xã hội

Nxb : Nhà xuất bản

PGS : Phó giáo sƣ

TS : Tiến sĩ

tr : trang

VN : Việt Nam

VHTT : Văn hóa - Thông tin

1

MỤC LỤC

Trang phụ bìa...............................................................................................

Bảng chữ cái viết tắt....................................................................................

Mục lục......................................................................................................1

Mở đầu.......................................................................................................2

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.............9

1.1. Khái niệm “ Nghệ thuật chạm khắc gỗ”.............................................9

1.2. Khái quát về đình Hàng Kênh, Hải Phòng.......................................11

Tiểu kết ...................................................................................................18

Chƣơng 2: NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ

ĐÌNH HÀNG KÊNH, HẢI PHÒNG...............................................................20

2.1. Phân loại đề tài chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, Hải Phòng...........20

2.2. Các dạng bố cục mảng chạm khắc theo cấu kiện kiến trúc..............28

2.3. Thủ pháp tạo hìnhcác mảng chạm khắc gỗ.....................................36

2.4. Kỹ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, Hải Phòng......................42

Tiểu kết ...............…................................................................................49

Chƣơng 3: GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ

ĐÌNH HÀNG KÊNH, HẢI PHÒNG...............................................................51

3.1. Giá trị nghệ thuật tạo hình chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh.............51

3.2. Vai trò của nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh trong mỹ

thuật cổ Việt Nam....................................................................................58

Tiểu kết ........... ..….................................................................................60

KẾT LUẬN.....................................................................................................62

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................64

PHỤ LỤC ẢNH..............................................................................................66

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngôi đình đã gắn bó với đời sống tinh thần của mỗi ngƣời con đất Việt.

Nó hiện diện nhƣ một giá trị văn hoá vô cùng quí báu đƣợc gìn giữ qua bao

thế hệ ngƣời dân. Qua thời gian, nó không chỉ có vị trí đặc biệt trong văn hóa

làng xã mà còn có tác động sâu sắc, toàn diện đến xã hội. Ngôi đình là nơi thờ

thành hoàng, ngƣời có công sáng lập làng xã, hoặc các anh hùng d n tộc…

Ngoài ra đình làng còn là nơi sinh hoạt văn hóa, hội h …là trụ sở hành chính

của chính qu ền làng xã, nơi giải qu ết mọi vấn đề, mọi công việc theo các

qu ƣớc của làng. Và điển hình là mặt bằng kiến trúc và những tác phẩm

chạm khắc. Do vậ , iến tr c đình làng đƣợc ch trọng, phát triển mạnh,

gắn chặt với iến tr c là nghệ thuật chạm hắc đình làng.

Đình làng Việt xuất hiện từ bao giờ vẫn là vấn đề mà nhiều nhà khoa

học, nhà nghiên cứu bàn luận. Cho tới ngà na ngƣời ta mới chỉ tìm thấy

những ngôi đình có niên đại sớm nhất từ thế kỷ XVI, những ngôi đình nà

đƣợc giáo sƣ Hà Văn Tấn thống kê trong cuốn “Đình Việt Nam”. Trong đó

có tám ngôi đình làng tồn tại trên bia, trên tài liệu; ba ngôi đình làng còn

lại di vật; sáu ngôi đình làng còn bảo lƣu đƣợc tƣơng đối đầ đủ về kiến

tr c và điêu hắc trang trí. Trong cuốn sách này cũng giới thiệu một số

ngôi đình thế kỷ XVII nhƣ đình Chu Qu ến, đình Hƣơng Canh, đình Ch m,

đình Tƣờng Phiêu,… còn lại đa số đình làng tồn tại cho đến na là đình

làng thuộc thế kỷ XVIII, XIX, XX.

Đình Hàng Kênh là một trong số các ngôi đình tiêu biểu đƣợc công

nhận là di tích cấp quốc gia vào năm 1962, di tích cấp quốc gia đặc biệt trong

hệ thống đình làng của Việt Nam. Đình Hàng Kênh có tên chữ là đình Nh n

Thọ, nằm ở phố Ngu ễn Công Trứ phƣờng Hàng Kênh, quận Lê Ch n, thành

phố Hải Phòng. Đ là ngôi đình thờ đức vƣơng Ngô Qu ền, đình có giá trị

3

lịch sử, iến tr c và điêu hắc thuộc loại đẹp nhất của thành phố Hải Phòng.

Đình đƣợc x dựng vào hoảng thế ỷ XVII - XVIII.Trải qua bao thời gian,

nhiều biến động lịch sử, sự tàn phá của thiên tai và con ngƣời, tu đã qua

nhiều lần trùng tu tôn tạo, nhƣng xét 1 cách toàn diện thì iến tr c và nghệ

thuật chạm hắc của đình thì vẫn còn ngu ên vẹn vẫn mang những đặc trƣng

của thời Hậu Lê và sau nà là thời Ngu ễn.

Nằm trong hệ thống nghiên cứu chung cho nên nó có những mặt đã

đƣợc giải quyết và làm sáng tỏ về mặt giá trị văn hóa. Tu nhiên ở góc độ

nghệ thuật tạo hình, hình tƣợng trang trí nhƣ thế nào thì chƣa đƣợc làm rõ.

Với những lí do nêu trên, tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật chạm khắc gỗ

đình Hàng Kênh, Hải Phòng” làm luận văn nghiên cứu một cách hệ thống về

các mô típ chạm khắc với những đề tài tứ linh, hoa lá, cỏ cây và ĩ thuật chạm

của nghệ nh n xƣa. Qua đó sẽ giúp cá nhân tôi có thể hiểu đƣợc nội dung

cũng nhƣ hình thức thể hiện trong nghệ thuật chạm khắc đình Hàng Kênh. R t

ra đƣợc giá trị nghệ thuật và bài học qua nghệ thuật chạm khắc đình Hàng

Kênh. Hiểu đƣợc sự sáng tạo trong nghệ thuật chạm khắc đình và góp phần

giữ gìn phần nào giá trị to lớn của nghệ thuật chạm khắc cổ, tích cực giáo dục

thế hệ trẻ, cũng nhƣ ngƣời dân Hải Phòng biết trân trọng giá trị nghệ thuật

truyền thống.

2. Tình hình nghiên cứu

Quá trình nghiên cứu đề tài: “Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng

Kênh” tôi đã tiếp thu và kế thừa một phần kết quả nghiên cứu của các tác giả

đi trƣớc nhƣ:

Trong cuốn “Hải Phòng Di tích - Danh thắng xếp hạng cấp Quốc

gia” Sở VHTT Bảo tàng Hải Phòng, giới thiệu khái quát nội dung lịch sử,

cùng những hình ảnh minh họa đặc tả nghệ thuật kiến tr c, điêu hắc, trang

trí của từng di tích tiêu biểu của Hải phòng đã đƣợc Nhà nƣớc xếp hạng

4

cấp Quốc gia, trong đó giới thiệu một số đề tài, chủ đềtrang trí tiêu biểu

của đình làng Hàng Kênh[21, tr. 14 - 15].

Trong cuốn, “Thành hoàng làng Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Đức

Giang, Trịnh Minh Hiên, Đồng Hồng Hoàn (Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội,

năm 2013)[10], tác giả có nêu tổng quan tƣ liệu về đình làng Hải Phòng, lịch

sử, kiến tr c đình qua hông gian, thời gian, điêu hắc đình làng, thần và tín

ngƣỡng đình, lễ hội đình làng. Sách nêu hái quát các phần, đặc biệt phần

chạm khắc đình tác giả chỉ nói sơ lƣợc, chƣa ph n tích cụ thể về nghệ thuật

chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh.

Trong cuốn,“Đình Việt Nam”tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Cự

(Nxb thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998). Giới thiệu về sáu mƣơi hai ngôi

đình từ Bắc vào Nam. Mỗi ngôi đình đều đƣợc phân tích theo các khía

cạnh, làm toát nên nét văn hóa chung của cộng đồng ngƣời Việt cũng nhƣ

của từng vùng miền ở Việt Nam. Những bức chạm khắc của mỗi ngôi đình

đƣợc ghi lại ở nhiều góc độ khác nhau là những minh chứng đầy tính

thuyết phục. Các tác giả đã ph n tích ĩ về nguồn gốc và giá trị của nghệ

thuật chạm khắc trong kiến trúc, nghệ thuật điêu hắc, cách bố trí không

gian trong đình ở phần đầu tác phẩm. Ngôi đình là nơi chứng tích tâm hồn

và là nhân chứng lịch sử đã gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và tinh

thần của ngƣời dân làng quê.

Trong cuốn “Đình làng vùng ch u thổ Bắc Bộ” trƣờng Đại học mỹ

thuật Việt Nam (Nxb Thế giới), đã giới thiệu khái quát về 38 ngôi đình,có

viết đình Dƣ Hàng là bản sao từ nguyên mẫu đình gốc của làng Hàng

Kênh[20, tr. 479 - 486].

Trong cuốn “Mỹ thuật đình làng đồng bằng Bắc Bộ” tác giả Nguyễn

Văn Cƣơng (nhà xuất bản Văn hóa thông tin, năm 2006).Đã xác định đình

làng là một mô hình, một văn bản nghiên cứu mỹ thuật đình làng từ góc độ

trong mối quan hệ với văn hóa làng, nhằm phát hiện và khẳng định giá trị

5

đặc sắc của mỹ thuật đình làng đồng bằng Bắc Bộ. Cuốn sách tập trung

nghiên cứu hai thành tố cơ bản của mỹ thuật đình làng là iến tr c và điêu

khắc. Tác giả cuốn sách còn nghiên cứu tới các yếu tố văn hóa tác động,

chi phối thẩm mỹ và biểu tƣợng kiến trúc, tìm hiểu kiến trúc của các mô típ

trang trí. Tác phẩm tìm hiểu đặc điểm, tính chất của mỹ thuật đình làng trên

nền cảnh của văn hóa làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ.

Trong cuốn “Việt Nam điêu khắc dân gian” tác giả Trần Văn Cẩn và

Nguyễn Đỗ Cung (Nxb Ngoại văn, Hà Nội, năm 1975). Với nghiên cứu

này, tác giả tập trung miêu tả lại kiến trúc của đình làng thời xƣa và đƣa ra

sự khác biệt giữa điêu hắc của các thế kỷ. Tác phẩm thể hiện đƣợc sự ảnh

hƣởng của ngoại lai biến mất, nghệ thuật phản ánh tất cả vẻ đẹp, chứa đựng

văn hóa Việt. Các nhà điêu hắc dân gian không chạm trổ theo mẫu mà

theo cuộc sống với những cảnh tƣợng diễn đi diễn lại xung quanh họ, ngày

nà qua ngà hác, mùa nà qua mùa hác đã in s u vào t m hảm ngƣời

nghệ nhân những nét không thể xóa đƣợc. Vì thế, cuộc sống đi vào các tác

phẩm nghệ thuật một cách tự nhiên, giải phóng nghệ sĩ hỏi những quan

niệm phong kiến thống trị.

Trong giáo trình “Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam” tác giả Phạm Thị Chỉnh

viết về giá trị nghệ thuật, nguồn gốc lich sử, kiến trúc và chạm khắc đình làng

nhƣng cũng chỉ điểm qua một số công trình tiêu biểu trong nghệ thuật đình

làng Việt Nam thời Lê Trung Hƣng[9, tr. 112] .

Trong giáo trình ”Lƣợc sử Mỹ thuật Việt Nam” tác giả Trịnh Quang Vũ

(nhà xuất bản Văn hóa thông tin, năm 2002) tác giả có viết về “Nghệ thuật

kiến trúc, chạm khắc và trang trí đình làng thế kỷ XII-XIII” vẫn chỉ nói qua

về cái đẹp trong chạm khắc và một số đình tiêu biểu giai đoạn đó[35, tr. 210].

Luận văn thạc sỹ mỹ thuật “Nghệ thuật chạm khắc đình làng Hưng Lộc,

Nam Định” (2016) Lƣơng Văn Phƣờng, trƣờng ĐHMTVN [23]. Trong luận

văn tác giả có nói đến giá trị nghệ thuật tạo hình, chạm khắc trong ngôi đình.

6

Luận văn thạc sỹ mỹ thuật “Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc đình

Thượng Phú- Thanh Hóa”(2016) Nguyễn Hồng Qu n, trƣờng ĐHMTVN [24,

tr. 37 - 48].Tác giả có nghiên cứu về nghệ thuật chạm khắc đình làng Thƣợng

Phú với những đề tài, ngôn ngữ tạo hình và thủ pháp tạo hình, kỹ thuật chạm

khắc đình Thƣợng Phú.

Luận văn thạc sỹ mỹ thuật “Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và văn hóa

đìnhlàng Việt Nam” (2007) Phan Văn Hùng, trƣờng ĐHMTVN [13]. Tác giả

nghiên cứu nghệ thuật kiến tr c và điêu hắc đình làng.Trong luận văn tác giả

chỉ nêu khái quát về một số ngôi đình ở miền trung, chƣa đi vào cụ thể, chƣa

nói đến nội dung các bức chạm khắc trong ngôi đình.

Bài báo số 3 (28) - 2009 - Di sản văn hóa vật thể “Nghệ thuật chạm

khắc trên kiến trúc đình làng thế ký XVII ở châu thổ sông Hồng” [35] tác

giả Nguyễn Thị Tuấn Tú có nghiên cứu về chủ đề chạm khắc, kỹ thuật, thủ

pháp tạo hình và các mô típ chạm khắc tiêu biểu ở thế kỷ XII.

3. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu nội dung chủ đề, hình thức thể hiện về hình, khối, cấu trúc

thể hiện hình tƣợng trong chạm khắc đình Hàng Kênh để làm rõ cách xây

dựng hình tƣợng nhân vật trong nghệ thuật chạm khắc đình làng.

- So sánh cách tạo hình trong nghệ thuật chạm khắc đình Hàng Kênh

với đình Kiền Bái và một số đình hác trong hu vực, nhằm làm sáng tỏ

những giá trị tiêu biểu.

- Cũng cung cấp thêm cho giáo viên và học sinh, sinh viên những nhận

thức đ ng đắn và sâu sắc hơn về văn hóa làng xã, giá trị nghệ thuật tạo hình

của đình Hàng Kênh, để phục vụ thiết thực cho công tác dạy và học mỹ thuật.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Nghiên cứu nghệ thuật các mảng chạm khắc đình Hàng Kênh, Hải

Phòng.

7

- Nghiên cứu vị trí kết cấu và nội dung chủ đề trong các mảng chạm

khắc đình Hàng Kênh.

- Nghiên cứu ngôn ngữ, thủ pháp tạo hình và ĩ thuật thể hiện trong các

mảng chạm khắc đình Hàng Kênh.

- Ngoài ra còn đề cập đến một số di tích khác nhằm so sánh và làm nổi

bật giá trị của đình Hàng Kênh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Tập trung nghiên cứu nghệ thuật chạm hắc gỗ của đình Hàng Kênh,

Hải Phòng thế ỷ XVIII.

- Ngoài ra còn đề cập đến một số ngôi đình tiêu biểu vùng du ên hải

Bắc bộ và của thành phố Hải Phòng thế ỷ XVII, XVIII. Nhằm so sánh và

làm nổi bật giá trị nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn có sự kết hợp các phƣơng pháp

nghiên cứu sau:

- Phương pháp thu thập, đánh giá, phân tích, so sánh và tổng hợp

những nguồn tƣ liệu.

- Phương pháp mỹ thuật học: dùng các lý luận ngôn ngữ trong mỹ thật

học phân tích diễn giải vấn đề mình nghiên cứu.

- Phương pháp diễn dịch: đƣợc áp dụng để trình bày và làm rõ vấn đề

nghiên cứu.

- Phương pháp điền dã tới một số ngôi đình vùng du ên hải bắc bộ và

một số ngôi đình ở thành phố Hải Phòng để làm sáng tỏ vấn đề đang nghiên

cứu, đặc biệt là đình Hàng Kênh.

8

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn hẳng định giá trị nghệ thuật trong chạm hắc gỗ đình làng,

đƣa ra đƣợc cái nhìn tổng thể về các mặt văn hóa - nghệ thuật của đình Hàng

Kênh (chủ ếu giá trị nghệ thuật chạm hắc)

Từ đó hơi dậy lòng tự hào đối với quê hƣơng đất nƣớc và góp thêm

phần cơ sở để xây dựng Thành phố Hải Phòng ngà càng giàu đẹp mà vẫn giữ

vững và phát hu đƣợc những giá trị nghệ thuật, văn hóa tru ền thống của quê

hƣơng.

Góp phần bổ sung về mặt lí luận, làm cơ sở cho những nghiên cứu sau

nà và cũng làm tiền đề sáng tác và giảng dạ mỹ thuật ở địa phƣơng.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn bao gồm phần mở đầu ( 7 trang), nội dung ( 54 trang), kết

luận ( 2 trang). Phần nội dung của đề tài gồm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Những vấn đề chung để nghiên cứu đề tài ( 12 trang)

Chƣơng 2: Nghiên cứu nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh. Hải

Phòng ( 31 trang)

Chƣơng 3: Giá trị và vai trò nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh,

Hải Phòng ( 11 trang)

Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo, phụ lục ảnh minh họa

9

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm “ Nghệ thuật chạm khắc gỗ”

Theo Từ điển Thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, “điêu hắc là loại hình

nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đặc thù nhƣ: hình, khối, không gian, thể hiện

những tác phẩm có không gian ba chiều (tƣợng tròn), hoặc hai chiều nhƣ (phù

điêu, chạm khắc) bằng cách đắp, gọt, đẽo, cƣa, hoan, mài, hàn, gắn… từ

những chất liệu dễ đông cứng nhƣ thạch cao, xi măng, nhựa, đất sét hoặc từ

những khối thuần chất nhƣ gỗ, đá, im loại…Điêu hắc còn là nghệ thuật nặn

tƣợng hoặc tạc tƣợng, đƣợc cảm nhận qua kênhthị giác hay xúc giác”

[12, tr. 11].

Chạm là kỹ thuật đục xuống mặt vật liệu (gỗ, đá,...) làm nổi bật các

hình tƣợng nghệ thuật muốn diễn tả. Các kỹ thuật chủ yếu là chạm nổi, chạm

lộng, chạm kênh bong. Chạm khắc gỗ đã đƣợc phát triển qua nhiều thời đại

đặc biệt là từ đời nhà Lý đến nay còn lƣu tru ền lại nhiều tác phẩm chạm

khắc có giá trị. Nhiều đình chùa, miếu cổ đƣợc chạm trổ rất tinh vi.Những

hoa văn trang trí, những con rồng, phƣợng đƣợc chạm khắc tỉ mỉ, tự nhiên,

sống động. Nhiều pho tƣợng phật bằng gỗ đƣợc bàn tay tài hoa của nghệ nhân

sáng tạo rất độc đáo có giá trị lịch sử và thẩm mỹ cao. Có thể nói những sản

phẩm chạm khắc gỗ ở Việt Nam có nét tƣơng đồng với các sản phẩm chạm

khắc gỗ của Trung Quốc do sự giao lƣu văn hóa giữa hai dân tộc. Từ xƣa đến

nay, chúng ta đã tiếp thu từ Trung Quốc về mẫu mã bằng nhiều cách, sau đó

phát triển thành những sản phẩm có nét độc đáo riêng, sinh động và phong

phú, phù hợp với đặc tính của ngƣời Việt.

Tác giả Thái Bá Vân (1997),Tiếp xúc với nghệ thuật, phần nghiên cứu

“Điêu hắc đình làng”, đã trình bày một cách sâu sắc về nghệ thuật điêu hắc

đình làng. Qua đó, ông nhận định:“Loại hình nghệ thuật nà dƣới góc độ văn

10

hóa là sự nối tiếp nền mỹ thuật truyền thống của dân tộc” và khẳng định,

“nghệ thuật điêu hắc đình làng mang tính tru ền thống, có sự kế thừa và phát

triển trong suốt chiều dài lịch sử”. [36, tr. 303 - 304]

Tác giả Trƣơng Du Bích trong “Điêu hắc đình làng”, thì khẳng định,

“Nghệ thuật điêu hắc đình làng hông chỉ đơn thuần mang tính chất trang trí

mà còn tác động mạnh đến cấu kiện kiến trúc về tính thẩm mỹ, làm cho tổng

thể công trình kiến tr c có đƣợc tiếng nói mới - Tiếng nói t m tƣ, tình cảmcủa

ngƣời d n lao động”. [5, tr. 40 - 45]

Từ những nhận định trên đã gi p ch ng ta hiểu chạm khắc là kỹ thuật

sử dụng trong nghệ thuật điêu hắc. Chạm khắc gỗ là nghệ thuật tạo hình,sử

dụng kỹ thuật tạo nên những hình khối, đƣờng nét nghệ thuật, lên bề mặt chất

liệu rắn bằng cách cƣa, hoan, đục, khắc, để làm nổi bật những hình tƣợng

nghệ thuật mà ngƣời nghệ sĩ muốn diễn tả trên chất liệu gỗ. Các kỹ thuật

chạm chủ yếu (thấp, vừa và cao), chạm lộng, chạm kênh bong và chạm thủng

là những kỹ thuật phổ biến trong làng mỹ thuật. Chạm khắc gỗ là một trong

những thể loại của nghệ thuật điêu hắc.

Nói đến chạm khắc gỗ là nói đến hình, khối và ta có thể sờ vào khối đó

để cảm nhận đƣợc. Hình khối chiếm một vị trí nhất định trong không gian,

nghệ thuật chạm khắc gỗ thƣờng đƣợc thể hiện bằng những chất liệu bền chắc

để có thể tồn tại với không gian, thời gian và chịu đƣợc tác động trực tiếp của

thời tiết khắc nghiệt nhƣ: nắng, mƣa, gió, bão… Các chất liệu gỗ thƣờng đƣợc

sử dụng để chạm khắc nhƣ; gỗ mít, thị, lim, vàng tâm hay gỗ dổi, nhƣng sử

dụng nhiều nhất vẫn là gỗ mít và gỗ lim.Mỗi chất liệu đều có lợi thế và tiếng

nói riêng trong biểu đạt nghệ thuật tạo hình.

Nhìn một cách hái quát, nghệ thuật chạm hắc gỗ ở đình làng phát

triển từ những bƣớc đầu tiên ở thế ỷ XVI, đạt dấu ấn rực rỡ đỉnh cao ở thế ỷ

XVII, chững lại, chín muồi ở thế ỷ XVIII và thoái trào ở thế ỷ XIX. Giá trị

nhiều mặt mà chạm hắc đình làng để lại tập trung ở di sản điêu hắc đình

11

làng thế ỷ XVI - XVII - XVIII. Điêu hắc đình làng của 3 thế ỷ nà đại

diện điển hình nhất cho toàn bộ nghệ thuật chạm hắc ở đồng bằng Bắc Bộ.

1.2. Khái quát về đình Hàng Kênh, Hải Phòng.

Ngƣời Việt từ xa xƣa hi dựng làng, lập ấp đã biết quan t m đến vấn

đề lựa chọn địa thế đất để thuận lợi cho việc làm ăn và sinh hoạt, tận dụng

đƣợc những lợi thế cảnh quan của thiên nhiên. “Thứ nhất dƣơng cơ, thứ nhì

âm phần”. Ngƣời ta tin rằng ở thế đất tốt sẽ ăn nên làm ra, đón điềm lành,

tránh điềm dữ.

Chọn thế đất đóng vai trò đặc biệt quan trọng, họ chọn đất dựng đình

phía sau phải có đất cao làm chỗ dựa (gọi là hậu chẩm). Hai bên cần có thế

đất “ta ngai”, tả có Thanh Long, hữu có Bạch Hổ, phía trƣớc có minh

đƣờng, tức là có nƣớc “tụ thủ ” cũng tức là tụ linh, tụ ph c. Đằng xa phía

trƣớc có án che (gọi là tiền án). Chúng ta hay gặp nhiều đình làng hƣớng

mặt ra sông, nhất là chỗ sông uốn h c. Đó là thế đất “thè lè lưỡi trai

không ai thì nó, khum khum gọng vó chẳng nó thì ai” tức là hu đất bồi.

Tuy nhiên, nhiều làng không có những thế đất thuận lợi theo phong thủy,

ngƣời ta phải tạo ra bằng cách đào hồ, ao hay giếng lớn trƣớc đình làm thế

đất “tụ thủy”. Việc tìm đất đều do thầ địa lý đảm nhận, đặt ngôi đình ở vị

trí đắc địa mới mong đƣợc thần linh ban cho dân làng mạnh khỏe, ăn nên

làm ra. [8, tr.72-76]

Qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay nhiều đình làng chỉ còn

đọng trong kí ức của ngƣời dân Hải Phòng. Với 45 ngôi đình đƣợc xếp

hạng cấp quốc gia, trong đó có những ngôi đình rất nổi tiếng đƣợc mọi

ngƣời biết và nhắc đến nhƣ đình Kiền Bái (huyện Thủ Ngu ên), đình

Hàng Kênh, Dƣ Hàng (quận Lê Ch n), đình Nh n Mục, Quán Khái (huyện

Vĩnh Bảo)... Trong số đình đó, đình Hàng Kênh nổi lên với vẻ đẹp mộc

mạc về nghệ thuật chạm khắc và kết cấu kiến tr c độc đáo.( Ảnh 1.1.1.)

12

Đình Hàng Kênh có tên chữ là đình Nh n Thọ, nằm ở phố Ngu ễn

Công Trứ phƣờng Hàng Kênh, quận Lê Ch n, thành phố Hải Phòng. Đ là

ngôi đình thờ đức vƣơng Ngô Qu ền, có giá trị lịch sử, iến tr c, điêu hắc

vào loại nhất nhì của thành phố Hải Phòng. Đình nằm trong trung t m thành

phố, có huôn viên rộng rãi, thuận lợi về giao thông, đƣợc hởi dựng vào cuối

thế ỷ XVII.Trải qua 300 năm, đình vẫn đƣợc bảo lƣu gần nhƣ ngu ên vẹn

một công trình iến tr c gỗ to lớn, bề thế, đƣợc lát ván sàn. Trong đình hiện

có 368 mảng chạm hắc với đề tài là rồng, phƣợng, l n và rùa, ở mặt bên

trong là 252 mảng, bên ngoài là 116 mảng. Trong đó có 156 mảng chạm hắc

là rồng thời Hậu Lê, có hơn 400 con rồng to, nhỏ, mỗi con mỗi vẻ xoắn xuýt

tạo nên một bầ uốn lƣợn rất sống động. Rồng đƣợc tạc theo từng ổ, có rồng

mẹ và các rồng con. Ngoài đề “Long L Qu Phụng”, hoa cỏ cũng là 1 đề tài

thƣờng xu ên trong tạo hình của ngƣời xƣa, nó làm cho ngôi đình trở nên gần

gũi và phù hợp với t m lý ngƣời Việt. Bên cạnh đó còn có biểu tƣợng gắn với

lực lƣợng tự nhiên với ĩ thuật chạm hắc tinh xảo nhƣ chạm lộng, chạm

thủng, chạm bong ênh. Thể hiện những giá trị nghệ thuật và lịch sử, văn hóa,

xã hội của địa phƣơng.bảo tồn đƣợc hàng trăm mảng chạm hắc gỗ tinh xảo.

Đình Hàng Kênh cũng giống bao ngôi đình hác phản ánh đậm nét tƣ

duy dân dã của ngƣời Việt xƣa. Đình tọa lạc trên một khuôn viên rộng chừng 6000m2 với bố cục kiến trúc truyền thống, gồm các hạng mục chính, tính từ

ngoài vào là hồ bán nguyệt, nghi môn, sân, tả hữu vu và hu đại đình.

Ngoài ra còn có văn từ và một số hạng mục phụ trợ khác...Đình có iến trúc

hình chữ công quay về hƣớng t là hƣớng đắc địa, hƣớng đƣợc coi là khá

phù hợp với quy luật của m dƣơng đối đãi, ngƣời dân quan niệm rằng theo

hƣớng này là thần thƣờng xu ên ban phƣớc và che chở cho họ.

[21, tr. 14]. (Ảnh 1.1.2.)

Tiền tế có bố cục mặt bằng hình chữ nhất (-), nằm song song với hậu

cung đƣợc nối với nhau là tòa ống muống. Ba gian đƣợc thông với nhau tạo

13

nên một tổng thể bố cục kiến trúc hình chữ Công (I). Tòa tiền tế gồm bốn

mái đều đƣợc lợp bằng ngói mũi hài (hai mái chính và hai mái đầu hồi)

đƣợc giao nhau ở âu tàu, tạo thành bốn đầu đao cong v t cảm giác nhẹ

nhàng thanh thoát. Khoảng cách giữa hai mái chính là bờ nóc đƣợc xây

bằng gạch nằm phía trên thƣợng lƣơng và chính giữa có đắp hình tƣợng

“lƣỡng long chầu nguyệt”.Hai đầu thƣợng lƣơng có hai con kìm với dáng

“long hồi”, ở phía trên thƣợng lƣơng; phân cách giữamái chính và mái phụ

là bờ guột, đƣợc gắn chính giữa là hai tƣợng nghê với hƣớng quay khác

nhau, một con qua vào hƣớng mái , một con qua hƣớng xuống.

Theo kết quả khảo sát và đo đạc, tòa tiền tế có chiều dài 28,99m;

chiều rộng 10,25m và chiều cao tính từ chân cột đến thƣợng lƣơng là

8,25m. Gồm 7 gian, với kết cấu đỡ hoành mái của toà tiền tế gồm 8 bộ vì,

gác trên 4 hàng cột (hai hàng cột cái và hai hàng cột quân). Trong lòng toà

tiền tế có hệ thống ván sàn gỗ, trừ khu vực gian giữa (ván sàn lòng thuyền).

Bốn mặt của kiến tr c đƣợc bao che bằng ván gỗ lim. Kết cấu khung toà

tiền tế đƣợc dựng trên 40 cột gỗ lim, kê trên 40 tảng đá xanh ngu ên hối

đƣợc tạc thành hai cấp, trên tròn dƣới vuông. Trong tổng số 40 cột, có 12

cột cái, 20 cột quân, và 8 cột phụ (cột gắn với hệ thống cửa nách và dựng

hai chòi phía tả, hữu toà nhà làm nơi thờ “Tam toà Thánh mẫu” và “Nam

Tào, Bắc Đẩu”). Cột cái có chiều cao 5,66m, đƣờng kính 0,6m; cột quân

cao 3,79m, đƣờng kính 0,5m.(Ảnh 1.2.1.)

Gian giữa toà tiền tế không có hệ thống ván sàn, chỉ có hệ thống lan

can kết nối giữa cột cái với cột quân tại vị trí phía dƣới, là hông gian ngăn

cách hệ thống ván sàn phía trên và lòng thuyền phía dƣới, tạo khoảng cách

và độ sâu cho lòng thuyền. Lòng thuyền, rộng 4,25m lớn hơn các gian bên

một ch t, để phù hợp với yêu cầu tổ chức các nghi lễ. Hai bộ vì gian giữa

gồm vì nóc và vì nách. Vì nóc đƣợc kết cấu theo kiểu “biến thể chồng

rƣờng giá chiêng con nhị”, các con rƣờng chồng lên nhau thông qua đấu

14

vuông thót đá .Rƣờng là các con dầm làm nhiệm vụ đỡ các hoành mái, nó

đƣợc tạo tác kiểu “rƣờng bụng lợn”, điểm giữa con rƣờng võng xuống, trên

cùng là một rƣờng nằm trên đấu dạng khối vuông, làm nhiệm vụ đỡ thƣợng

lƣơng (xà nóc). Hai đầu con rƣờng đều khoét các ổ để đỡ các hoành mái.

Vậ các con rƣờng và hệ thống cột làm nhiệm vụ quan trọng trong vấn đề

chịu lực của trọng lƣợng mái đình.Vì nách có ết cấu kiểu dạng “cốn chồng

rƣờng”, các con rƣờng đƣợc chồng khít lên nhau không thông qua trụ đấu,

độ dài của các con rƣờng đƣợc thu ngắn lại từ dƣới lên trên. Đầu rƣờng

đƣợc khoét ổ, kê dầm đỡ hoành mái.

Toà ống muống có bố cục dọc, nối toà tiền tế với toà hậu cung. Kết

cấu khung chịu lực của ống muốngcó 4 bộ vì (Ảnh 1.2.2.), chia toà này

thành ba gian, không gian bên trong của toà ống muống đƣợc sử dụng làm

nơi đặt đồ thờ tự,nhang án, bát bửu, sập thờ, long đình…Phần lan can của

tòa ống muống đƣợc kết cấu theo dạng ván đố lụa,trên mặt ván chạm nổi

hoa văn chữ triện, lá c cách điệu. Hệ thống bao che của toà ống muống

đƣợc kết cấu dƣới dạng để mộc, hông trang trí hoa văn. Lòng toà ống

muống (không gian giữa hai hàng cột cái) thông với gian lòng thuyền của

toà tiền tế, nên không có hệ thống ván sàn, đƣợc nát bằng gạch Giếng Đá .

Hai bên toà này (không gian giữa hai hàng cột cái và cột quân) có hệ thống

ván sàn và cửa phụ thông với toà hậu cung và toà tiền tế. Tại gian chính

giữa của toà tiền tế, ở vị trí nối với toà ống muống có gắn một bức cửa

võng lớn, đƣợc chạm khắc tinh xảo thế kỉ XIX. Toà ống muống tại đình

Hàng Kênh tuy là một đơn ngu ên iến trúc nhỏ và hẹp, nhƣng lại giữ vị trí

trung t m đƣờng thần đạo. Về ý nghĩa văn hoá iến trúc, toà ống muống

mang tƣ cách là cầu nối quan trọng giữa “đạo và đời”, giữa “ngƣời và thần”

để thoả mãn nhu cầu thông linh, cũng nhƣ mọi khát vọng trần gian và cuộc

sống hàng ngày của ngƣời d n nơi đ . (Ảnh 1.2.3.)

15

Toà hậu cung là phần kiến trúc cuối cùng trên trục thần đạo, nằm

song song với toà tiền tế và vuông góc với toà ống muống. có chiều dài

10,25m, rộng 7,6m, cao 8,25m (tính từ chân cột đến thƣợng lƣơng).

Khoảng rộng giữa các gian có sự khác biệt. Trong đó, gian giữa rộng

4,25m, hai bên rộng 3m. Tổng thể toà hậu cung có 25 cột (4 cột cái, 14 cột

quân và 5 cột phụ). Kết cấu hung đỡ mái của toà hậu cung gồm 4 bộ vì tạo

thành 3 gian. Hai bộ vì gian giữa đƣợc làm theo thể thức giống nhau, với vì

nóc dạng ”biến thể chồng rƣờng giá chiêng con nhị” đƣợc để mộc hoàn

toàn. Con rƣờng trên cùng đƣợc tạo theo thức rƣờng bụng lợn làm nhiệm

vụ đỡ thƣợng lƣơng, các con rƣờng đều đƣợc khoét ổ để đỡ hoành mái. Các

vì nách đƣợc kết cấu theo dạng thức “chồng rƣờng chốn cột”. Hai bộ vì hai

gian bên, với vì nóc đƣợc kết cấu theo dạng “ o suốt quá giang”. Để mở

cho không gian hai bên, bộ vì hông đặt trên đầu cột chính, mà đặt trên đầu

cột trốn và bộ vì nách đƣợc đặt nằm ngang, tạo cho việc đi lại từ hai cửa

phụ vào hậu cung trở nên dễ dàng và thuận lợi. Các vì nách đều đƣợc kết

cấu theo dạng thức “chồng rƣờng cột trốn”. Tổng thể cấu kiện kiến trúc

trong toà hậu cung đều đƣợc để mộc tạo cho không gian thờ thần trở nên

giản dị, mộc mạc hơn.

Phía trƣớc đại đình là s n đình. Nền đình đƣợc lát gạch Bát tràng

truyền thống. Kích thƣớc s n đình gần nhƣ vuông, có chiều cạnh bằng kích

thƣớc chiều dài tòa tiền tế. Xung quanh sân là hệ thống tƣờng xây thấp, kiểu

tƣờng hoa. Tƣờng xây bằng gạch thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Hai bên có hai

dãy tả vu, hữu vu là hai dãy nhà nằm phiá trƣớc hai bên tiền tế, đối xứng

với nhau qua trục thần đạo, đƣợc dựng lại vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ

XX. Tả, hữu vu là hai đơn ngu ên iến tr c đƣợc sử dụng làm phòng tiếp

hách và làm nơi sửa soạn lễ nghi, kiêm chức năng là phòng nghiệp vụ di

tích của Bảo tàng Hải Phòng. Mỗi tòa gồm ba gian, hai chái, đƣợc kết cấu

theo dạng “tƣờng hồi bít đốc - trụ biểu hiên”. Hệ thống khung chịu lực đỡ

16

bộ mái đều liên kết bốn bộ vì kê trên bốn hàng chân cột (hai hàng cột cái,

hai hàng cột quân). Mỗi tòa đều đƣợc dựng trên hệ thống 16 cột (8 cột cái,

8 cột quân), cùng 16 tảng kê chân cột đƣợc dật hai cấp (cấp trên hình tròn,

cấp dƣới hình bát giác). Các bộ vì gian giữa đều có cấu trúc, cách thức,

đƣờng nét, trang trí hoa văn giống nhau.Vì nóc đƣợc tạo kiểu “chồng rƣờng

giá chiêng”; vì nách ết cấu theo dạng “chồng rƣờng cột trốn”, có bẩy hiên

ăn mộng qua cột qu n và đầu bẩ , vƣơn ra đỡ tàu mái. Trụ biểu của tả, hữu

vu có kết cấu tƣơng tự trụ biểu của nghi môn, có đôi ch t hác biệt, nhƣ

phần thân trụ và hung ô đ n lồng đƣợc để mộc [22, tr. 30 - 36].

Nghi Môn (cổng đình) gồm: chính môn, tả môn, hữu môn. “Chính

môn” x iểu “cột đồng trụ”, đắp chỉ hung các c u đối chữ Hán. Đầu cột

trụ đắp theo kiểu đ n lồng, bốn mặt đ n lồng đắp phù điêu hoa văn. Đỉnh cột

trụ có hai con nghê ngồi trong tƣ thế chầu vào trông nhƣ soi rọi con ngƣời đến

với đất thiêng( Ảnh 1.2.4.). Bên phải và bên trái nghi môn cách một đoạn

đƣờng là cổng nhỏ: tả môn, hữu môn, kiểu mái 2 tầng, đao cong, trang trí đầu

đao cuộn tròn hình vân cụm. Qua nghi môn, chúng ta sẽ gặp ngay một hồ

nƣớc bán nguyệt rộng lớn, nƣớc hồ trong xanh, dịu mát. Hồ đình nằm thẳng

theo đƣờng thần đạo. Hồ mang yếu tố m. Đ ng nhƣ theo quan niệm xƣa, âm

- dƣơng luôn c n bằng, hài hoà. Đình đƣợc xây dựng quay về hƣớng Tây. Các

nhà phong thuỷ xƣa đã chọn hƣớng T vì đ là hƣớng lý tƣởng về tâm linh,

các vị thần hiển linh sẽ ban phƣớc cho d n lành. Đó là có hƣớng ánh sáng mặt

trời đầ đủ, luôn giữ đình hô ráo. Có lẽ hƣớng tây cũng là hƣớng “đắc địa”

với thân thế, sự nghiệp anh hùng, vĩ đại của đức Ngô Vƣơng Qu ền. Do vậy

mà hầu nhƣ các nơi thờ Ngô Vƣơng ở Hải Phòng đều quay về hƣớng Tây

(đình HàngKênh, đình Dƣ Hàng). Đình Hàng Kênh hông có kiến trúc quy

mô, mà còn là một bảo tàng nghệ thuật điêu hắc, với nhiều tác phẩm nghệ

thuật điêu khắc gỗ và đồ thờ tự, quý hiếm, có giá trị lịch sử. Hệ thống tƣợng

tròn ở đình Hàng Kênh tiêu biểu gồm có:

17

Tượng Ngô Vương Quyền: Tƣợng khoác áo long cổn, đầu đội mũ

cánh chuồn. Trên long cổn chạm nổi đề tài “hổ phù long v n”; mũ chạm

nổi đề tài “lƣỡng long chầu nguyệt” và điểm xuyết những bông cúc mãn

khai, bằng gỗ sơn son thếp vàng, đặt trong khám thờ Hậu cung.

[22, tr. 78]. (Ảnh 2.1.1.)

Tượng phỗng: Trong hậu cung đình Hàng Kênh hiện còn hai pho

tƣợng phỗng qu , có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ

XVIII. Pho bên trái đƣợc tạc trong tƣ thế hai tay nâng chén; pho bên phải

đƣợc tạc trong tƣ thế hai tay nâng nậm rƣợu. Cả hai pho có dáng bụng phệ,

để trần, khuôn mặt ngộ nghĩnh. Tƣợng có chiều cao 68cm, đƣợc đặt trên bệ

gỗ. [22, tr. 79]. (Ảnh 2.1.2.)

Tượng nghê: Đƣợc tạo tác với thân hình gầy guộc, bụng và ngực lép,

xƣơng cẳng chân nổi rõ. Nghê có dáng ngồi, hai ch n trƣớc đặt lên mu bàn

chân của hai chân sau, mồm ngậm ngọc, mắt hƣớng thẳng phía trƣớc tiềm

ẩn một sức mạnh siêu nhên. Trong trƣờng hợp này, nghê là con vật có chức

năng bảo vệ cửa thánh. [22, tr. 81]. (Ảnh 2.1.3.)

Tượng voi, ngựa:. Có niên đại vào khoảng thế kỷ XIX, đều đƣợc tạc

bằng gỗ, đứng trên bánh xe đẩy. Hai bên trục dọc xe đẩ đƣợc đẽo tạo hình

rồng cách điệu, với bốn đầu rồng ở bốn góc. Tƣợng ngựa sơn màu trắng,

tƣợng voi sơn màu đen. Tỷ lệ hai con vật nà to nhƣ thật và đƣợc đặt chầu

vào gian chính điện. [22, tr. 83]. (Ảnh 2.1.4.)

Tượng hạc: Đình còn lƣu giữ ba đôi hạc (một đôi bằng đồng, hai đôi

bằng gỗ), đặt tại tòa ống muống và hậu cung đều đƣợc bà đăng đối qua

khám thờ Ngô Quyền.

18

Tiểu kết

Nội dung chƣơng 1 xác định khái niệm về nghệ thuật chạm khắc gỗ,

cùng một số nhận định của những học giả nghiên cứu về đình làng, giúp hiểu

rõ về đình làng và nghệ thuật kiến trúc, từ đó chúng ta có những phân tích,

nhận định, đánh giá một cách khoa học. Chƣơng 1 cũng giới thiệu tổng quan

những đặc trƣng cở bản của kết cấu kiến trúc ngôi đình Hàng Kênh, về tình

hình địa lý, niên đại, mặt bằng kết cấu kiến trúc khiêm tốn với một bề dày lịch

sử hơn 300 năm tồn tại, nằm ở địa bàn có mật độ d n cƣ dà đặc. Đình Hàng

Kênh cómột không gian chạm khắc độc đáo. Đó là những tiền đề, ý kiến gợi

mở để tôi nghiên cứu về đề tài, về những thủ pháp thể hiện qua từng bức

chạm khắc trên các vì nóc, đầu dƣ, ván nong...

Đình Hàng Kênh là một công trình kiến tr c văn hoá - tín ngƣỡng

quan trọng của phƣờng Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng có

lịch sử từ thế kỷ XVII - XVIII thờ vị thành hoàng. Dù qua nhiều lần trùng

tu nhƣng ngôi đình còn tƣơng đối nguyên vẹn và có giá trị về nhiều mặt,

nhƣ văn hóa nghệ thuật và tín ngƣỡng tâm linh. Nghệ thuật kiến tr c đƣợc

cấu tạo theo kiểu chồng rƣờng, với các cấu kiện đƣợc liên kết với nhau chặt

chẽ, tất cả tạo thành một thể thống nhất trọn vẹn và vững chắc. Về nghệ

thuật kiến tr c, đình Hàng Kênh mang nhiều nét tƣơng đồng với các công

trình kiến trúc dân gian nổi tiếng của đất nƣớc ra đời vào thế kỷ XVII nhƣ

đình Ngọc Than (Quốc Oai - Hà Nội), đình Diềm (Yên Phong - Bắc

Ninh),… Điều làm các nhà nghiên cứu quan tâm, không chỉ ở quy mô kiến

trúc mà còn ở vẻ đẹp cổ kính của công trình chủ yếu thông qua nghệ thuật

chạm khắc trang trí. Yếu tố nà làm cho ngôi đình trở thành một bức tranh

chạm khắc gỗ hoành tráng, đƣợc tạo tác trên nền của một công trình kiến

trúc cổ kính và tao nhã.

19

Một đặc điểm rất đáng quan tâm trong nghệ thuật kiến trúc của đình

Hàng Kênh là (ván sàn lòng thuyền) và hệ thống “tai cột” ở đầu cột cái.

Những bộ tai cột sớm nhất trong kiến trúc cổ truyền đã gặp ở đình T

Đằng (thế kỷ XVI), rồi lại đình Xu n Dục, Gia Lâm, Hà Nội còn mang

nhiều phong cách thời Mạc (đầu thế kỷ XVII), các bộ tai cột ở đình Hàng

Kênh đƣợc xếp ngang với những bộ tai cột đền Phù Đổng (Hà Nội), đình

Kiền Bái (Hải Phòng),...Ngoài ra nội dung của đề tài cũng đề cập đến vị trí

địa lývà những nét riêng về đình Hàng Kênh, thành phố Hải Phòng.

20

CHƢƠNG 2

NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ

ĐÌNH HÀNG KÊNH, HẢI PHÒNG

2.1. Phân loại đề tài chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, Hải Phòng

Khi nghiên cứu về nghệ thuật đình làng, ch ng ta thấ nổi bật trong

công trình là các mảng chạm hắc với nhiều đề tài hác nhau, đƣợc thể

hiện qua những đƣờng đục, nét chạm trong điêu hắc d n gian rất tinh tế.

Những nét chạm hắc tinh xảo và sắc nét đến từng chi tiết, ngƣời nghệ

nh n đã héo léo thổi hồn vào những h c gỗ, tảng đá… những vật vô tri,

hiến ch ng hông còn đơn thuần là đồ vật, mà đã thành những bức chạm

hắc biết nói, những sứ giả của lịch sử. Nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm

Thƣợng đã có liên tƣởng rất th vị: “Nếu xếp vài nghìn mét phù điêu từ

hàng trăm ngôi đình còn lại liền với nhau ta sẽ có một bức toàn cảnh đồ sộ

về đời sống làng Việt Nam với hàng vạn nh n vật”. [28]. Những mảng hắc

đó là những “tƣ liệu hình ảnh” quý giá phản ánh quá trình giao thoa và tiếp

biến các giá trị trong mọi mặt của đời sống xã hội của ngƣời Việt xƣa.

Đình Hàng Kênh hông chỉ là một iến tr c nghệ thuật to đẹp vào

loại hiếm có ở Hải Phòng, mà tại đ còn bảo lƣu đƣợc ngu ên vẹn hệ

thống tƣợng thờ, cùng các mảng chạm hắc với những đề tài linh th , cỏ

cây, hoa lá,...

Bƣớc vào đình Hàng Kênh, hi ngƣớc mắt lên chiêm ngƣỡng những

mảng chạm hắc, ta thấ hình hối, đƣờng nét đƣợc thể hiện qua đôi bàn

ta héo léo, óc sáng của các nghệ nh n tài hoa.Ta dễ dàng bắt gặp cả một

thế giới sống động của hoa lá cỏ c , của những con vật quen thuộc nhƣ:

voi, ngựa, … hài hòa đan xen trong bóng dáng của những con vật cao quý

rồng phƣợng u ển chu ển mềm mại. Các linh vật u nghi qu ền thế ấ hi

xuất hiện trong điêu hắc đều đƣợc giản dị hóa để trở thành rồng mẹ rồng

21

con quấn quýt, dáng phƣợng m a hát ba lƣợn… và sống hòa hợp với

muôn loài.

Tu các mảng đề tài bị bó hẹp trong những chuẩn mực phong iến

của tứ linh, tứ quý, của bầu rƣợu t i thơ... nhƣng mỗi đề tài trang trí lại

mang một giá trị riêng, hi nó nằm ở một vị trí cụ thể [22]. Các đề tài lại có

sự biến đổi và cách thể hiện theo từng hiệp thợ, tạo thành những nét đặc

trƣng tiêu biểu. Nghệ thuật chạm hắc gỗ đình Hàng Kênh có thể chia

thành các chủ đề: thiên nhiên - vũ trụ; c cỏ; linh th , động vật,..:

Đề tài linh thú, động vật

Khi nghiên cứu về đề tài các mô típ trang trí nghệ thuật ở đình Hàng

Kênh, chúng ta bắt gặp đồ án trang trí về đề tài “tứ linh”. Theo quan niệm

của ngƣời Việt, tứ linh là bốn con vật bao gồm: long, ly, quy, phụng,..:

Long (Rồng)

Ở đình Hàng Kênh, rồng đƣợc trang trí nhiều kiểu loại và thể hiện

chủ yếu bằng chất liệu gỗ ở cấu kiện kiến trúc và các di vật. Rồng là con

vật tổ hợp đặc điểm của nhiều con vật hác nhau nhƣ th n rồng là loài bò

sát gần với rắn và có vẩ nhƣ cá. Đầu rồng đƣợc hợp thành từ nhiều con

vật hác nhau nhƣ miệng lang, sừng hƣơu, tai thỏ, trán lạc đà, mũi sƣ tử,

móng chim ƣng, ch n cá sấu,... Con rồng thể hiện tƣ du lƣỡng hợp của cƣ

dân nông nghiệp: sống ở dƣới nƣớc nhƣ cá, nhƣng ba trên trời nhƣ chim,

khạc ra lửa, sấm chớp làm ra bão.

Là con vật đứng đầu trong tứ linh, rồng là con vật huyền thoại, linh

thiêng đầy uy quyền, thƣờng đại diện cho trời, cho vua. Đối với cƣ d n

nông nghiệp thì rồng tƣợng trƣng cho nguồn nƣớc, cho ƣớc muốn mƣa

thuận gió hòa. [22]

Rồng là đề tài phổ biến và có mật độ há dà đặc trong các hoạt cảnh

trang trí. Rồng là con vật vũ trụ, là một thần linh đƣợc kính trọng trong tâm

22

thức của của ngƣời dân Việt. Ở mỗi mảng chạm khắc, giữa trung tâm bao

giờ cũng là một rồng lớn (rồng mẹ) có thân mập, ngắn lƣợn từ dƣới lên,

đầu ngóc cao, mặt quay ra ngoài. Rồng có đầu to, trán dô, miệng há rộng,

mũi sƣ tử và tóc là các cụm đao lửa hình mũi mác ba về sau tạo cảm giác

động trong hông gian tĩnh. Th n rồng tròn lẳn phủ một lớp vảy rắn nổi,

chân có bốn móng sắc nhọn. Xung quanh rồng mẹ là rất nhiều con vật nhỏ

đang vuốt râu rồng ha đang phun nƣớc, bên cạnh đó cũng có rất nhiều

rồng con trên một đồ án trang trí.

Để trang trí cho đình thêm lộng lẫ , ngƣời nghệ sĩ đã thể hiện chi

chít rồng mẹ, rồng con, rồng ổ có con đuôi cong, đuôi ngoái lại gãi vai nhƣ

những chú trâu nhà. Do khéo léo kết hợp trong chạm nổi, chạm lộng mà

nhiều con rồng nhƣ đang ba trong m ha quấn quýt trong “rồng mây hội

tụ” [22]. Ngoài ra, chúng ta còn gặp tại đ hai con rồng lớn, hai con rồng

nhỏ quấn thân với nhau, chính tâm là con hổ. Hình tƣợng này cho phép

ch ng ta nghĩ rằng đó là sự đối đãi, c n bằng m dƣơng nhằm đề cao trí

tuệ. Rồng dƣới dạng có đao mác nổi khối của nghệ thuật thế kỷ XVII

nhƣng đƣợc bố cục phần thân ẩn vào trong.

Hình ảnh con rồng xuất hiện trong các mảng chạm ở đình Hàng Kênh

thƣơng có những con thú nhỏ xung quanh, hoặc bám vào râu, vào tóc rồng,

hay là hai con rồng cùng đùa nghịch với một con thú. Ngoài ra, rồng

thƣờng ở vị trí chầu mặt nguyệt, chầu hổ phù hay nằm ở đầu ìm, đầu dƣ

nhƣng cũng có hi rồng đƣợc thể hiện trong tƣ thế độc long nhƣ rồng cuốn

thủy. (Ảnh 3.1.1.)

Ly (Nghê, Lân, long mã)

Hình tƣợng kỳ l n cũng đƣợc du nhập vào Việt Nam từ rất sớm.

Ngay từ thời Lý ngƣời ta đã ch ý đến đề tài này.

Nó là linh vật đứng thứ hai trong bộ tứ linh: Long, Ly, Quy, Phụng.

23

Nó biểu hiện cho sức mạnh của bầu trời, cho sự trong sáng, trí tuệ. Hình

ảnh con l n thƣờng đƣợc tạc ở đầu trụ, đầu cổng, trên mái các công trình

kiến tr c (chính là con xô, con náp, đầu ìm, ha đầu guột), nhằm kiểm

soát tâm hồn của kẻ hành hƣơng. [22]

L n là con vật báo hiệu điều tốt lành, là biểu tƣợng cho sự trƣờng

thọ, sang quý, niềm hạnh ph c lớn lao. Kỳ l n hi xuất hiện là báo hiệu sự

ra đời của minh ch a, ha bậc hiền nh n qu n tử. Sử sách Trung Hoa đã

chép rằng ỳ l n xuất hiện dƣới thời vua Nghiêu, Thuấn, hi Khổng Tử ra

đời. Kỳ l n xuất hiện ở sông Hoàng Hà dƣới thời vua Phục H và mang

trên mình cuốn thƣ Hà Đồ. Con đực đƣợc gọi là ỳ, con cái là l n. Giữa

con l n, con nghê ha con xô hông có sự ph n biệt rõ ràng. Trong điêu

hắc trang trí đình làng, con l n hông ở những vị trí trung t m, trang trọng

nhƣ con rồng. Nó có mặt ở trên gác thờ, trên nóc đình, trên nghi môn,... để

tô điểm và canh chừng các thế lực tà ám.(Ảnh 3.1.2.)

Quy (con rùa)

Rùa có chiếc mai dạng mái vòm, là biểu tƣợng của bầu trời, bụng rùa

phẳng đƣợc biểu tƣợng cho mặt đất. Rùa là loài đứng đầu của loài vật có

mai và vỏ. Nó có tuổi thọ tƣởng nhƣ bất diệt nên rùa là con vật thiêng.

“Ở Trung Quốc, rùa cũng là biểu tƣợng của phƣơng Bắc và mùa Đông,

mà ngƣời ta gắn với các tuần trăng. Sự trƣờng thọ nổi tiếng gắn con rùa với

ý tƣởng bất tử, vốn đi đôi với tính phì nhiêu của các nguồn nƣớc hởi

ngu ên, do mặt trăng chi phối, hiến ngƣời ta gắn những nét của rùa, căn

cứ vào chức năng cõng vũ trụ của nó, cho nhiều vị thần sáng thế, anh hùng hai hoá và tổ tiên hu ền thoại”. Con rùa linh thiêng đƣợc mô tả có chiếc

đầu rắn, cổ rồng, vai rộng. Ở đình làng, hình tƣợng rùa có mặt trong các bố

cục trang trí rùa - hạc (hạc đứng trên lƣng rùa) - biểu tƣợng của sự trƣờng

tồn, vĩnh cửu, đồng thời còn thể hiện sự chịu đựng, nhẫn nhịn bền bỉ.

24

Phụng (Phƣợng)

Phƣợng hoàng là con vật linh thiêng đƣợc coi là chúa tể của các loài

chim, lông của nó có năm màu, tiếng hát nhƣ nhạc và có năm biến điệu

diệu kỳ. Phƣợng là con đực, hoàng là con cái, chúng ít khi xuất hiện cả cặp,

chim phƣợng là biểu hiện cho phúc lộc và sự sang quý. Chim hoàng là biểu

tƣợng cho hoàng hậu xuất hiện bên cạnh hoàng thƣợng rồng của vua,

phƣợng hoàng là con vật hiền đức tƣợng trƣng điềm lành. Theo truyền

thuyết, phƣợng hoàng chỉ xuất hiện vào thời thịnh trị, cƣ tr ở phƣơng

Nam, do đó phƣợng là biểu tƣợng của mặt trời, hơi ấm của mùa hạ và sự

thu hoạch mùa màng. Trong mối tƣơng quan với con rồng, phƣợng biểu thị

yếu tố âm về mặt giới tính.

Trong đình Hàng Kênh, phƣợng thƣờng đƣợc thể hiện trong tƣ thế

dang rộng đôi cánh nhƣ đang ba , trình diễn nghệ thuật truyền thống với

những động tác múa uyển chuyển, kiêu sa. Ta có thể hiểu sự xuất hiện của

hình ảnh chim phƣợng ở đ nhƣ một lời cầu mong cho mọi sự tốt lành, đất

nƣớc yên bình, có nhiều bậc hiền tài.(Ảnh 3.1.3.)

Hổ (Hổ phù)

Mô típ này tuy xuất hiện không nhiều ở đình Hàng Kênhnhƣng cũng

góp phần làm phong ph thêm các đề tài trang trí ở đ . Hình tƣợng hổ phù

trong tâm thức dân gian là con quỷ nuốt mặt trăng g ra nhật thực. Hình

tƣợng hổ phù đƣợc chạm nổi trên tai cột và vì nách, hổ phù bao giờ cũng

đƣợc chạm khắc theo chính diện, nó mang đặc trƣng của các con vật với

mắt quỷ tròn lồi, mũi sƣ tử, miệng nhe răng lới, sừng nai, tai thú, má bạnh.

Hình tƣợng hổ phù gắn liền với hiện tƣợng nhật thực, nguyệt thực.

Cƣ d n Ấn Độ và các cƣ d n miền Nam Á cho rằng khi hổ phù nuốt hết mặt

trăng mà đẻ ra ở đằng nách thì năm đó sẽ đói ém, đẻ ra đằng dƣới thì năm

đó mùa màng sẽ bội thu.(Ảnh 3.1.4.)

25

Chim hạc

Hình tƣợng chim hạc với với đôi cánh dang rộng bay trên trời xanh, thể

hiện cảm hứng thi ca và những ƣớc vọng cao quý. Con hạc với đôi cánh dang

rộng và một ch n hơi co lên, lại liên hệ với nghi lễ với ngƣời đã huất. Con

hạc thƣờng xuất hiện trong điêu hắc trang trí đình làng với mô típ hạc - rùa

(tƣợng tròn, đặt hai bên ban thờ Thành Hoàng làng), biểu tƣợng của sự trƣờng

tồn, vĩnh cửu, có ý nghĩa về thời gian và trục vũ trụ.Những chạm khắc chim

hạc thƣờng xuất hiện với môtíp hạc tùng, hoặc hạc - thạch - tùng, cũng có

ý nghĩa và biểu tƣợng của sự trƣờng thọ, bền vững, cao sang và an lạc. Trong

đình Hàng Kênh có hình chim hạc đứng hai ch n trên đao mác, đôi cánh dang

rộng, nhìn cùng hƣớng với rồng đƣợc chạm khắc kênh bong trên vì nách tòa

tiền tế.(Ảnh 3.1.5.)

Đề tài thiên nhiên - vũ trụ

Mặt trời - Mặt trăng

Trong chạm hắc trang trí đình Hàng Kênh, mô típ mặt trời và mặt trăng có

mặt trong đồ án trang trí nhƣ: lưỡng long chầu nguyệt. Môtíp nà thƣờng

đƣợc bố trí ở vị trí trung t m, trang trọng trên môn, bàn thờ, vì cốn, đƣợc

đắp nổi bằng vữa có gắn mảnh sành trên nóc đình hoặc trong các đồ án trang

trí ở cửa võng. Hình tƣợng mặt trời biểu tƣợng cho sự chủ động và sự thống

lĩnh. Mặt trời là thái dƣơng biểu hiện của dƣơng tính mạnh mẽ. Mặt trăng là

hình ảnh mang ngu ên lý đối lập với mặt trời [8]. Xét theo nguyên lý âm

dƣơng, mặt trăng mang tính thuần m, liên quan đến phụ nữ. Mặt trăng mang

lại điềm lành, hạnh ph c.

Mây

M mang đến những dấu hiệu tốt lành, hạnh ph c, đối với cƣ d n

nông nghiệp, m là hiện tƣợng báo hiệu cơn mƣa. Trong chạm hắc đình

Hàng Kênh, môtíp mây thƣờng đƣợc sử dụng trong đồ án trang trí, đƣợc hòa

26

qu ện với hình tƣợng rồng và các môtíp hoa lá trên xà ngƣỡng. Trong những

lễ tế thần, ngƣời xƣa quan niệm có ứng nghiệm là hi có những đám m

trắng hoặc m ngũ sắc hiện ra. Với ý nghĩa trên, hình tƣợng m đƣợc

những ngƣời nghệ nh n d n gian xƣa bố trí trong những đồ án trang trí cùng

với Tứ linh nhƣ long vân khánh hội, long ẩn vân, phượng mây,...

Nƣớc

Hình tƣợng sóng nƣớc thƣờng là những môtíp đƣợc bố trí ở phía dƣới

của bố cục, gồm những đƣờng lƣợn cong đều. Trong chạm hắc đình Hàng

Kênh, mô típ nƣớc thƣờng đƣợc sử dụng trong đồ án trang trí, nhƣ rồng phun

nƣớc,... Nƣớc luôn ở thế động và đƣợc cách điệu thành sóng nƣớc nhƣ vẩ cá.

Đối với cƣ d n nông nghiệp l a nƣớc, nƣớc là nguồn sống của con ngƣời và

vạn vật. Nhƣng nƣớc cũng đứng đầu trong các mối hiểm họa đối với con

ngƣời (thuỷ hỏa đạo tặc).

Tia chớp

Hình tƣợng của tia chớp có ý nghĩa giao hòa để tạo ra mƣa thuận, gió

hòa. Tia chớp còn là biểu tƣợng của thanh gƣơm, tia sáng mặt trời. Trong

chạm hắc gỗ đình Hàng Kênh, tia chớp đƣợc hiện thực hóa dƣới hình

thức đao rồng (còn gọi là đao lửa). Tia chớp - đao rồng làm cho con rồng nhƣ

tăng thêm u lực. Nó còn biểu tƣợng của tinh thần dũng mãnh, thƣợng võ và

biểu tƣợng của qu ền lực. Tia chớp đƣợc thể hiện bằng v n xoá mập ở gốc,

duỗi dần ra ngọn, rồi thẳng ra đến đầu nhƣ mũi đao trong đồ án mặt trời hoặc

rồng. Đ là những môtíp trang trí tu ệt đẹp của chạm hắc trang trí đình

Hàng Kênh.

Đao mác cũng đƣợc coi là một biểu tƣợng của vũ trụ. Các nhà nghiên

cứu mỹ thuật nhìn nhận đao mác nhƣ là một biểu tƣợng của chớp trong ý

thức cầu mƣa của cƣ d n nông nghiệp. Mối quan hệ lửa và nƣớc, dấu hiệu

báo trƣớc cơn mƣa là tia chớp, sét. Hình tƣợng của tia chớp có ý nghĩa giao

27

hòa để tạo ra mƣa thuận, gió hòa [8]. Mây cuộn cũng đƣợc coi là một biểu

tƣợng khác của chớp, cùng với những đao mác, m cuộn đƣợc trang trí rất

nhiều mang tính dà đặc ở đình Hàng Kênh, đặc biệt trên các vì nách, tai

cột, trên ván bƣng, ở xung quanh đình, ở đẩu bẩy hiên và ở các bức cốn

trong đình.(Ảnh 3.1.6.)

Đề tài hoa lá, cây cỏ

Một số hình tƣợng mang tính ƣớc lệ tƣợng trƣng mà ch ng ta bắt gặp

ở đình Hàng Kênh cũng xuất hiện tƣơng đối nhiều và gắn với ý nghĩa nhất

định nhƣ: hoa c c, đƣợc miêu tả dƣới hai dạng c c hƣớng dƣơng và c c

phù dung. Hoa c c đƣợc coi là loài hoa có phẩm chất trong sạch và thanh

cao đƣợc các thi nhân Việt Nam hết lời ca ngợi. Nó đƣợc coi là loài hoa

tƣợng trƣng cho sự thanh cao, tính kiên trinh và sựchịu đựng bền bỉ cái giá

lạnh của mùa thu.Hoa c c, hoa chanh,... thƣờng đƣợc sử dụng trong nhiều

biến thể cách điệu dƣới dạng đƣờng diềm hoặc hoa dây. Hoa cúc với màu

vàng rực rỡ, thuộc hành thổ, biểu tƣợng cho sự giàu sang, ph quý và cũng là

biểu tƣợng là lời chúc cho sự trƣờng thọ, an khang, nhiều may mắn. Hoa cúc

còn biểu tƣợng cho sự an lạc, viên mãn, niềm vui. Hoa c c là đề tài đƣợc sử

dụng nhiều trong chạm khắc đình làng, dƣới nhiều kiểu thức nhƣ: c c hoa,

cúc dây, cúc leo...Chính vì thế mà từ l u loài hoa nà đã trở thành đề tài của

các hoa văn trang trí trong iến tr c. Đó là hình tƣợng Rồng chầu hoa cúc ở

đình Đình Bảng (Bắc Ninh), đình Sơn Đồng (Hoài Đức - Hà Nội), ...Về tâm

linh, c đƣợc xem nhƣ là cái trung gian nối trời với đất. Trong đình làng, mô

típ cây cỏ đƣợc sử dụng rất nhiều trong những chạm khắc trang trí, từ những

ngôi đình cổ nhất thế kỷ XVI cho đến những ngôi đình đầu thế kỷ XX.[8]

Loại cây cỏ cách điệu cũng đƣợc chạm khắc nhiều là hoa sen, hoa

cúc,với các bộ phận đƣợc sử dụng cho trang trí nhƣ: hoa sen, đài sen, th n

sen, lá sen. Cây sen gắn nhiều với Phật giáo, biểu tƣợng cho tâm hồn cao

28

quý, hông vƣớng hệ lụy của thế gian trần tục. Mô típ trang trí Tứ quý nhƣ:

tùng, cúc, trúc, mai, hoặc mai, sen, c c, tr c đƣợc du nhập từ văn hóa

Trung Hoa.(Ảnh 3.1.7.)

2.2. Các dạng bố cục mảng chạm khắc theo cấu kiện kiến trúc.

Trong hội họa, ngôn ngữ cơ bản là bố cục, màu sắc, đƣờng nét, hình

khối, đậm nhạt, kỹ thuật sử dụng chất liệu để thể hiện nội dung ý tƣởng của

ngƣời nghệ sĩ, thì trên những bức chạm khắc gỗ họ cũng sử dụng ngôn ngữ

đặc thù và ý tƣởng sáng tạo của mình trên gỗ. Tuy nhiên khác với những tác

phẩm hội họa, những bức chạm khắc thƣờng hông có tính độc lập mà nó

luôn gắn liền với kết cấu kiến tr c, ch ng cũng hông hoàn toàn đƣợc sáng

tạo theo quan điểm riêng của nghệ nhân, mà nó còn sự ảnh hƣởng, chi phối

theo quan điểm, tín ngƣỡng tôn giáo mang lại thông điệp đối với thần linh

cũng nhƣ với con cháu sau này. Trong một tác phẩm hội họa, trên các bức

chạm khắc gỗ thƣờng quan t m đến bố cục tổng thể của của tác phẩm, do

hông đƣợc tồn tại độc lập mà phải phụ thuộc vào kết cấu, cấu kiện kiến trúc,

nên các bức chạm khắc gỗ thƣờng chịu sự qu định của khung hình, khuôn

khổ các cấu kiện kiến tr c nhƣ hình thang, hình vuông, hình chữ nhật, hình

trụ...vì nóc, vì nách, vì cốn, tai cột, đầu bẩ ha xà ngƣỡng. Do đó muốn tạo

nên một bố cục đẹp cho tác phẩm chạm khắc, thì nghệ nhân phải vận dụng sự

sáng tạo và bàn tay khéo léo, tạo dựng thành một tác phẩm độc lập ở góc độ

nào đó nhƣng vẫn liên kết chúng thành một thể thống nhất trong cái nhìn tổng

thể.

Ta có thể thấy sự tha đổi về mật độ của các mảng chạm khắc đƣợc

ph n bố một cách có chủ định, từ các vì cốn ở hu vực ban thờ chạ s u vào

gian ống muống tạo sự liên ết hài hòa các mảng to nhỏ có nhịp điệu tạo liên

ết chặt chẽ với gian hậu cung và tòa tiền tế. Nội dung và hình thức thể hiện

trên từng bức chạm có tính chất giản dị của nó, những hình hông ra hình,

hông thể xếp loại vào đ u. Vậ mà, những ngƣời thợ chạm xƣa đã tạc,

29

chạm nên những tác phẩm để đời, tạo nên một loại hình chạm hắc riêng

biệt trong nghệ thuật. Kiến tr c đã dành cho nó những diện tích và ánh

sáng ở những vị trí đặc biệt tạo nên sự độc đáo.Các dạng bố cục điển hình

của những bức chạm khắc trên cấu kiện kiến tr c ngôi đình Hàng Kênh là:

Bố cục hình trụ

Tổng thể các đầu bẩ , đầu dƣ đều đƣợc đƣa vào một bố cục hình trụ

biến thể. Trọng t m của đầu bẩ là hình tƣợng rồng thiêng với th n hình ẩn

hiện trong đao mác và đầu rồng ngửa về phía trên ngậm ván tàu, trên 8 đầu

bẩ phía trƣớc còn đƣợc đặt thêm con sơn cách điệu từ hoa lá ha chữ thọ.

Ván dong đƣợc nằm trên đầu bẩ để đỡ mái cũng là những tác phẩm điêu

hắc hông đồng bản với ĩ thuật chạm nổi, mang ấn tƣợng đẹp từ những

đƣờng cong mềm mại, nhịp nhàng, ết hợp với nét thẳng nhƣ đang hòa qu ện

vào không gian.(Ảnh 3.2.1.)

Đầu dƣ là một phần của cấu kiện kiến trúc có tác dụng chịu lực, gánh

câu đầu. Do là phần gỗ thừa nên đƣợc gọi là đầu dƣ, nếu để nguyên phần

gỗ mộc thì khi nhìn sẽ rất thô và cảm giác nặng nề. Vì vậy, các nghệ nhân

đã đƣa hình tƣợng trang trí rồng vào thể hiện kỹ thuật chạm lộng vào phần

gỗ đó, làm cho phần gỗ dƣ trở nên thanh thoát, có hồn. Đầu dƣ ở đình

Hàng Kênh đƣợc thể hiện hai mô típ đầu rồng hác nhau. Đây chính là hai

sản phẩm của hai hiệp thợ thể hiện. Đầu rồng thứ nhất có rất nhiều đao mác

ở đầu, các đao mác ngắn ở gần miệng rồng và dài dần rồi nhọn về phía sau,

thể hiện sự mạnh mẽ. Đầu rồng thứ hai thì có ít đao mác ở đầu, dƣới cằm

có r u dài và đƣợc tết lại chạy xuống bám vào bụng rồng, thân rồng uốn

cong một cách mềm mại.(Ảnh 3.2.2.)

Bố cục hình tam giác, hình thang

Trong Đình Hàng Kênh có vì nóc, vì nách nằm ở gian giữa của tòa

Đại đình, còn lại là kẻ đƣợc chạm khắc các đồ án hoa lá, mây xoắn, tạo cho

30

thân kẻ mềm mại và thanh thoát hơn. Các vì có dạng bố cục hình tam giác,

hình thang đƣợc chạm khắc tỉ mỉ, bằng sự kết hợp giữa kỹ thuật chạm lộng

và chạm ênh bong...Làm cho các hình tƣợng thể hiện trên đó rất sống

động trong không gian kiến trúc.

Vì nóc đƣợc kết cấu theo kiểu “biến thể chồng rƣờng giá chiêng”,

nằm trong bố cục hình tam giác có các con rƣờng đƣợc chồng lên nhau

thông qua đấu vuông thóp đá . Rƣờng có nhiệm vụ đỡ các hoành mái ở

phía trên, nó đƣợc tạo tác kiểu “rƣờng bụng lợn”, hai đầu các con rƣờng

đều đƣợc khoét ổ để đỡ các hoành mái, điểm giữa con rƣờng võng xuống,

trên cùng là một rƣờng nằm trên đấu có dạng hình vuông làm nhiệm vụ đỡ

thƣợng lƣơng. Nhƣ vậ các con rƣờng và hệ thống cột làm nhiệm vụ rất

quan trọng. Nó chịu lực dồn nén của hệ thồng mái phía trên dồn xuống

công trình.(Ảnh 3.2.3.)

Vì nách có kết cấu kiểu dạng “cốn chồng rƣờng”, nằm trong tổng thể

bố cục hình thang, các con rƣờng đƣợc chồng khít lên nhau không thông

qua trụ đấu, đƣợc thu ngắn dần từ dƣới lên trên tùy thuộc vào độ dốc của

mái. Nghệ thuật chạm khắc trong tòa tiền tế chủ yếu tập trung ở các vì nách

của hai bộ vì trung t m, đƣợc thể hiện dà đặc trên các con rƣờng với

những đề tài quen thuộc trong công trình kiến trúc tâm linh.Sự nổi bật ở

đình Hàng Kênh là đề tài rồng chiếm thế chủ đạo, ở vị trí trung tâm trên

các mảng chạm khắc của toàn bộ ngôi đình.

Nhìn từ trên xuống, vì nách bên phải có hai mảng đề tài khác nhau:

Đề tài thứ nhất tƣơng ứng với con rƣờng thứ nhất tính từ trên xuống:

Các nghệ nh n đã sử dụng lối chạm kênh bong, với rồng có đầu giống nhƣ

đ ù “hổ phù”, phần th n đƣợc ẩn đi, chỉ còn các đao mác uốn khúc ở phía

gốc và vút thẳng lên phía trên tựa nhƣ những đao lửa; bờm và tóc rồng bay

ngƣợc lên phía trên và rẽ cả sang hai bên. Hình ảnh hổ phù xuất hiện tại

31

đ nhƣ biểu tƣợng cho ƣớc vọng no đủ “Hòa cốc phong đăng” mà ngƣời

đƣơng thời đã gửi gắm vào mảng chạm.

Đề tài thứ hai tƣơng ứng ba con rƣờng phía dƣới thể hiện rồng ổ, gia

đình nhà rồng (với rồng bố, rồng mẹ, rồng con). Rồng bố, rồng mẹ đƣợc

chạm to hơn rồng con và đang trong thế hƣớng vào rồng con. Xen kẽ rồng

bố, rồng mẹ là những rồng con quấn quýt trong tƣ thế giơ tay ra vuốt râu,

tóc rồng bố, rồng mẹ. Trên má xà nách cũng đƣợc trau chuốt bằng nghệ

thuật chạm khắc. Các nghệ nh n d n gian đã dùng lối chạm bong ênh để

thể hiện đôi giao long (Hai con rồng quấn lấ nhau trong tƣ thế giơ ta ra

vuốt rau nhƣ chọc ghẹo rồng ia và ngƣợc lại). [22]

Vì nách bên trái gian giữa tòa tiền tế cũng đƣợc tạo theo kiểu thức

“Cốn chồng rƣờng”. Tu nhiên, trang trí trên một số con rƣờng có sự khác

biệt so với vì nách bên phải. Trên con rƣờng thứ hai là hình tƣợng đôi

“giao long” quấn lấy nhau trong thế giao hoan nhƣ một biểu hiện cho ƣớc

vọng sinh sôi, nảy nở con cháu đầy nhà của cƣ d n Việt. Con rƣờng thứ ba

trang trí đề tài “mẫu long giáo tử”. Rồng mẹ đƣợc chạm ở chính giữa con

rƣờng, với đao mác, bờm tóc ba ngƣợc về phía sau và sang hai bên, dáng

vẻ giận dữ. Rồng con đƣợc tạo tác với ánh mắt hƣớng lên rồng mẹ nhƣ đã

nhận ra lỗi lầm. Phải chăng ngƣời xƣa muốn thông qua mảng chạm khắc

nà để đề cao vai trò của ngƣời phụ nữ trong việc dạy dỗ con cái. Một đề

tài chạm khắc khác khá tiêu biểu trên vì nà chính là hình tƣợng rồng ổ,

với rồng bố, rồng mẹ và một đàn con qu quần. Con thì cƣỡi lên lƣng

rồng mẹ, con thì vuốt râu rồng bố. Quả thực, đ là hình ảnh của một gia

đình đầm ấm và hạnh ph c. Trên má xà nách đƣợc chạm lộng đề tài rồng

đàn, với các rồng con nối đuôi nhau tạo thành một hàng dài.(Ảnh 3.2.4.)

Có thể nói, với ĩ thuật chạm bong kênh kết hợp chạm lộng điêu

luyện, những ngƣời nghệ nh n d n gian đã tạo lên bức tranh sinh động, đa

32

sắc màu cho bộ vì gian giữa tòa tiền tế, khiến cho ngƣời xem thích thú,

mãn nhãn và đặc biệt đƣợc hòa vào cuộc sống riêng của loài vật thiêng -

“rồng”.

Nghệ thuật điêu hắc không chỉ tập trung ở các bộ vì gian giữa, mà

tại các bộ vì gian bên của tòa tiền tế cũng đƣợc những ngƣời thợ dân gian

chạm khắc các hoạt cảnh hết sức tinh tế và sống động.

Hầu hết các bộ vì nóc ở gian bên của tòa tiền tế đều đƣợc kết cấu

theo kiểu “biển thể chồng rƣờng giá chiêng con nhị”, nối từ đỉnh cột cái

sang cột quân là chiếc kẻ ngồi tha cho vì nách. Cũng nhƣ các con rƣờng,

kẻ làm nhiệm vụ đỡ hoành mái ở phía trên, đồng thời vƣơn dài ra để đỡ mái

hiên.

Trên má kẻ và hệ thống ván nong đƣợc chạm nổi, chạm điểm xuyết

hoa văn v n m cách điệu, sóng nƣớc, lá lật, chạm rồng. Việc trang trí

điểm xuyết ở các gian bên đã góp phần tạo điểm nhấn về nghệ thuật cho

gian giữa. Đó là sự khéo léo, tài tình trong trang trí của những ngƣời thợ

dân gian.

Vì nóc ở hai gian đầu hồi đƣợc kết cấu theo dạng “biến thể chồng

rƣờng giá chiêng con nhị”, vì nách liên kết theo kiểu “chồng rƣờng cột

trốn”. Các con rƣờng chồng khít lên nhau không thông qua trụ đấu để tạo

thành một kết cấu dang “bức cốn”.

Nhìn tổng thể bộ vì nách, họa tiết rồng chiếm thế chủ đạo, nhƣng chỉ

tập trung thể hiện rõ phần đầu, còn th n và đuôi rồng thƣờng ẩn đi trong

thân cột. Đ đƣợc coi là lối trang trí rồng ẩn tiêu biểu, điển hình, tạo ra

nét khác biệt giữa các bộ vì gian đầu hồi với những bộ vì khác của tòa tiền

tế [22]. Hình thức rồng ẩn thân xuất hiện trên kiến tr c đã phần nào cho

thấy, những ngƣời thợ dân gian xây dựng đền hàng Kênh xƣa với cách

nghĩ, cách làm đã vƣợt qua tƣ du nông nghiệp. Vì thế, chúng tôi ngờ rằng,

33

tại kiến tr c nà đã có sự tham gia của lối tƣ du thƣơng mại ở vùng ven

biển Hải Phòng (lối trang trí rồng ẩn còn bắt gặp tại đình Kiền Bái - Thủy

Nguyên - Hải Phòng, một di tích có niên đại cuối thế kỉ XVII).

Bố cục hình chữ nhật

Tổng thể các bức chạm khắc trong đình Hàng Kênh rất nhiều mảng

có bố cục hình chữ nhật, nhƣ các bức cốn, con rƣờng và các họa tiết hoa,

lá. Một điểm rất đáng quan t m có dạng bố cục hình chữ nhật trong nghệ

thuật chạm khắc của đình Hàng Kênh là hệ thống “tai cột” (cánh gà) ở đầu

cột cái. Dựa vào dấu vết hiện còn, chúng ta tạm có thể khẳng định, trong

kiến trúc cổ truyền Việt, những bộ tai cột xuất hiện sớm nhất ở đình T

Đằng - Hà Nội (Thế kỉ XVI), tới đình Xu n Dục - Gia Lâm - Hà Nội (mang

phong cách nghệ thuật thế kỉ XVII)...Hiện có thể xếp các bộ tai cột đình

Hàng Kênh vào cùng niên đại với các bộ tai cột ở đền Phù Đổng (Hà Nội),

đình Kiền Bái (Hải Phòng), có niên đại cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ

XVIII)[8].

Trên tai cột, mặt trƣớc đƣợc trang trí dƣới hình thức chạm lộng,

chạm bong kênh, với đề tài rồng ổ, rồng đàn, giao long, rồng đầu hổ phù,

rồng chầu nghê, thú nhỏ...; mặt sau chạm nổi chim phƣợng xòe cánh.

Phía dƣới tai cột là hệ thống đấu củng. Có thể nói, đấu củng và tai

cột trên hệ thống cột cái tòa tiền tế đƣợc thêm vào nhƣ bộ phận để trang trí

và làm tăng thêm tính thẩm mỹ cho kiến trúc. (Ảnh 3.2.5.)

Tại phần lòng thuyền gian chính giữa của tiền tế, ngƣời thợ xƣa đã

dựng hệ thống lan can. Đ là ết cấu nối giữa cột cái với cột quân tại vị trí

phía dƣới, là hông gian ngăn cách hệ thống ván sàn phía trên và lòng

thuyền phía dƣới, tạo khoảng cách và độ sâu cho lòng thuyền.

Hai hàng lan can tả, hữu của gian giữa có các mảng đề tài trang trí

hác nhau và đƣợc chia thành nhiều đai, nhiều ô, với nhiều mảng chạm sắc

34

nét ở cả hai mặt. , mặt dƣới của hàng lan can, tính từ bên trên xuống dƣới

có 6 mảng chạm khắc hác nhau. Đều có chung dạng bố cục hình chữ nhật

nằm ngang:

Mảng thứ nhất: Nằm phía dƣới hệ thống song, ĩ thuật chạm bong

kênh với những đƣờng nét chạm trổ tinh tế, uyển chuyển đã tạo nên cảnh

tƣợng gia đình rồng hết sức sống động, trong đó, hai rồng lớn cùng chầu

vào một rồng con ở giữa. Hình ảnh này gợi cho ngƣời xem liên tƣởng về

một gia đình với bố, mẹ và con cái quây quần, vui đùa bên nhau.

Mảng thứ hai: Đƣợc chạm thủng với đề tài “mẫu long giáo tử”. Từ vị

trí trung tâm mảng chạm, đầu rồng mẹ tỏa ra các đao mác ba sang hai bên,

nơi đàn rồng con đang nối đuôi nhau. Bức chạm thể hiện đề tài mang tính

nh n văn và ƣớc lệ, nhƣ gợi nên cuộc sồng hòa thuận, đoàn ết trên dƣới

của ngƣời Việt trong lịch sử.

Mảng thứ ba: Chạm nổi đề tài rồng đàn - đàn rồng từ hai bên cùng

chầu vào bông c c mãn hai. Bông c c đƣợc chạm trong thời điểm nở rộ,

viên mãn, tràn đầ . Cánh c c đƣợc tỉa tót cách điệu thành đao lửa (uốn

lƣợn ở phía thân rồi vút thẳng lên ở phía đầu) tỏa sang hai bên, nơi có đàn

rồng đang chầu vào.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng: Hình tƣợng hoa cúc là biểu tƣợng

của mặt trời, đao lửa tƣợng trƣng cho tia sáng, tia chớp. Đó chính là biểu

tƣợng thể hiện ƣớc vọng cầu mƣa, cầu mùa của cƣ d n nông nghiệp trồng

l a nƣớc - yếu tố “nƣớc” đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho sự sinh sôi,

nẩy nở và phát triển của cây lúa và vạn vật trên thế gian.

Mảng thứ tƣ: Sử dụng lối chạm bong kênh, với đề tài “rồng đàn.

Rồng đƣợc chạm với thân hình thon nhỏ hơn, nét chạm sắc nét hơn. Trong

bố cục này, rồng đƣợc thể hiện trong tƣ thế không chầu vào bông cúc mãn

hai, mà tha vào đó là hai đàn rồng từ hai bên mảng chạm nhƣ ba ra đối

35

đầu nhau. Một đàn đƣợc chạm ở phía trên, một đàn phía dƣới. Bố cục này

nhƣ cho phép ngƣời xem liên tƣởng đến trò chơi d n gian “rồng rắn lên

mâ ” há phổ biến trong các làng quê Việt thuở xƣa.

Mảng thứ năm: Đƣợc chạm trên xà ngang, xà nối cột cái với cột quân

trên hệ thống ván sàn. Dƣới thủ pháp chạm nổi, đề tài hoa phù dung và các

đƣờng gờ chỉ nổi đƣợc thể hiện hết sức tinh tế.

Mảng thứ sáu: Chạm hoa lá, v n m cách điệu, lá lật, lá biến thể

thành đao lửa ba ngƣợc lên phía trên, dải hoa dây hợp lại từ hai bên tạo

hình đầu hổ phù. Đề tài nà cũng nhƣ gửi gắm ƣớc vọng cầu mùa, cầu no

đủ, “hòa cốc phong đăng” của cƣ d n nông nghiệp. (Ảnh 3.2.6.)

Mặt sau lan can có hai mảng đề tài: Mảng thứ nhất nằm trong khung

hình chữ nhật, đƣợc chia thành 5 ô nhỏ, trang trí chạm lộng, với đề tài long

mã, lá c c cách điệu thành hình đức Phật ngồi tọa trên tòa sen, đôi long mã

cùng chầu vào nhau; mảng thứ hai chạm bong kênh, với đề tài lá lật, sóng

nƣớc, v n m và hoa c c cách điệu. (Ảnh 3.2.7.)

Hoạt cảnh nhà rồng không chỉ đƣợc chạm nổi tại hai hàng lan can

của gian lòng thuyền, mà còn đƣợc thể hiện tại hai trụ của hàng lan can với

ĩ thuật chạm lộng hết sức tinh tế. Đƣờng nét chạm trổ, đục đẽo tỉ mỉ đã tạo

dáng cho hai trụ lan can nhƣ hai ta ngai/ iệu của vua, chúa. Trên hai trụ,

các con rồng nhƣ đang lao xuống với tốc độ nhanh, khiến râu, tóc bay

ngƣợc về phía trên nhƣ các đao lửa đang hừng hực chá . Phía dƣới cùng

của trụ có hai con rồng đang trong tƣ thế ngoảnh đầu lên theo dáng hồi

long.

Mặt sau hai trụ chạm nổi hình đôi long mã trong tƣ thế ngồi xổm trên

bệ hình hổ phù, miệng phun ra dải lửa, với bờm, tóc, lông ở thân và khỉu

chân dạng đao lửa bốc lên. (Ảnh 3.2.8.)

Một điểm khác cần ch ý là, cũng nhƣ một số ngôi đình hác ở vùng

36

ven biển nhƣ đình Kiền Bái (Thủy Nguyên - Hải Phòng), đình Trà Cổ

(Quảng Ninh), mặt ngoài của đình Hàng Kênh cũng đƣợc chạm trổ rất ĩ

lƣỡng tại vị trí những ván bƣng bao che xà ngƣỡng. Ch ng ta đã bắt gặp

hiện tƣợng này tại chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) và văn Miếu (Hà Nội). ..

2.3. Thủ pháp tạo hình các mảng chạm khắc gỗ

Chạm hắc gỗ đình làng thực sự là cuốn biên niên sử về làng xã

đồng bằng Bắc Bộ mấ trăm năm qua. Các hoạt cảnh của những phù điêu

đình làng đã làm hiển hiện trƣớc mắt ch ng ta cuộc sống của những ngƣời

nông d n Bắc Bộ. Đề tài phản ánh hiện thực há phong ph đa dạng, sống

động trong những ngôi đình làng còn tồn tại đến ngà na . Trong các mảng

chạm hắc của đình Hàng Kênh cũng hông phải là trƣờng hợp ngoại lệ.

Các đề hoa, lávà bộ tứ linh: long, l , qu , phƣợng với kỹ thuật nuột nà,

khéo léo,… Tất cả đều đƣợc ngƣời nghệ sỹ nông d n đƣa vào các bức chạm

hắc một cách hồn nhiên, mà hông tu n theo một qu định nào về nghệ

thuật, quan điểm, thẩm mỹ. Bằng những nhát đục bạt hoẻ hoắn, thô phác,

với cảm hứng sáng tạo dạt dào.

Tồn tại song song với những đồ án chạm khắc mà chúng ta nhìn thấy,

sờ thấ , đó là những giá trị vô giá của các công trình chạm khắc cổ Việt Nam

nói chung và ở các chạm khắc của đình Hàng Kênh nói riêng. Đó là những giá

trị quý báu về lịch sử, về văn hóa và đặc biệt là những giá trị về thẩm mỹ của

nghệ thuật chạm khắc gỗ cổ truyền. Các đồ án chạm khắc đƣợc kết hợp nhiều

thủ pháp tạo hình, nhƣ thổi hồn vào các bức chạm khắc và đã làm tăng thêm

những giá trị quý báu đó trong từng nét chạm, từng thớ gỗ, còn lại cho tới

ngà na ở Hải Phòng, mang đậm ếu tố d n gian thông qua các thủ pháp

tạo hình nhƣ:

37

Tính cường điệu và biểu tượng

Trong chạm hắc gỗ, thủ pháp cƣờng điệu là tăng ích thƣớc đƣờng

nét, hình hối, để nhấn mạnh ý đồ, g sự ch ý về mặt thị giác. Do đó mà

hình tƣợng đƣợc nổi bật và g đƣợc ấn tƣợng. Những ngƣời nghệ sỹ nông

d n đã sử dụng nhiều thủ pháp nà trong các bức chạm hắc trên đồ án

trang trí của đình làng.

Bức chạm hắc trên tai cột đều là những hình tƣợng rồngở trong

nhiều tƣ thế hác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngƣợc ra sau, mào lửa mất hẳn,

tha vào đó là một chiếc mũi to. Mép trên của miệng rồng vẫn éo dài nhƣng

đƣợc vuốt gần nhƣ thẳng ra, bao quanh có một hàng vải răng cƣa ết lại nhƣ

hình chiếc lá. Điểm nhấn của các bức chạm là huôn mặt biểu cảm của

nh n vật. Tác giả d n gian muốn diễn tả ở đ là nội dung hoạt động của

nh n vật trên đồ án trang trí, hình tƣợng rồng trong đình Hàng Kênh, chỉ

tập trung vào huôn mặt. Còn các động tác, dáng điệu của các bộ phận trên

đó thì đƣợc đơn giản và thậm chí còn bỏ qua.

Khi dùng thủ pháp cƣờng điệu để làm nổi bật ý đồ, ngƣời nghệ sỹ nông

d n nhiều hi đã giảm thiểu, lƣợc bỏ chi tiết đến mức tối đa, hoặc ngƣợc lại

dùng thủ pháp tăng cƣờng tối đa chi tiết trên nền cảnh, để đối tƣợng thƣờng

đƣợc để hối thô mộc đƣợc tôn lên.

Trong biểu tƣợng có cƣờng điệu, biểu tƣợng đƣợc cƣờng điệu hóa cao

thì giá trị biểu tƣợng đƣợc thể hiện và nhìn ở nhiều góc độ hác nhau. Nhƣ ở

biểu tƣợng hình rồng, phƣợng, hổ phù ch ng ta thấ huôn mặt và hình dáng

của th n và ch n ta đƣợc cƣờng điệu hóa đến mức tối giản, chỉ còn lại là

những hình hối cơ bản, hông thể hiện chi tiết và theo ngu ên tắc cơ bản.

Nhƣng vẫn biểu hiện đƣợc trạng thái và tình cảm của đối tƣợng. Hiệu quả của

thủ pháp nà là sự héo léo của ngƣời nghệ nh n đã đặc tả đƣợc các động tác

điển hình hợp lý đầ sáng tạo mà hông cần đến sự chuẩn mực của tạo hình.

38

Nghệ nh n xƣa hi chạm hắc trang trí trên các cấu iện ngôi đình

họ tìm một giá trị gần gũi với ngƣời d n, chứ hông tìm một giá trị hàn l m

bác học. Cho nên, ch ng sẵn sàng từ bỏ bề ngoài, mà nhận lấ những vô lý

trƣớc tự nhiên, những liên lạc về hối và đƣờng nét hông thể có trong

hông gian thực, thế mà ở đ , lại hết sức hợp lý và thuận mắt. Quan niệm

của họ là: “sống còn hơn giống”. Nền cảnh của các bức chạm để phẳng,

hoặc chỉ sử dụng đƣờng nét rất hạn chế. Khi dùng thủ pháp cƣờng điệu để

làm nổi bật ý đồ, ngƣời nghệ sỹ nông d n nhiều hi đã giảm thiểu, lƣợc bỏ

chi tiết đến mức tối đa, hoặc ngƣợc lại dùng thủ pháp tăng cƣờng tối đa chi

tiết trên nền cảnh, để đối tƣợng thƣờng đƣợc để hối thô mộc đƣợc tôn lên,

gây sự ch ý về mặt thị giác.(Ảnh 3.2.9.)

Kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại, tả thực và trang trí

Yếu tố huyền thoại và hiện thực đƣợc các nghệ nhân sử dụng một cách

rất héo léo và tài tình. Hình tƣợng con vật với long, l , qu , phƣợng nhƣ

đang qu quần trong một không gian. Tất cả khung cảnh trên tai cột đƣợc

chạm khắc khi nhìn vào chúng ta thấy rất hiện thực nhƣng cũng rất huyền bí,

rất trang trí nhƣng cũng rất tả thực. Cái hiện thực hay trang trí chỉ thể hiện

một phần nào đó của hình thức thể hiện, cái sâu sắc ở chỗ nội dung của các

hình tƣợng, các biểu tƣợng. Nhƣng dù nội dung hay hình thức, để nhận thức

một cách hái quát thì đều đƣợc xuất phát từ khát vọng của đời sống con

ngƣời.

Đình Hàng Kênh có một bức chạm đầu rồng, dƣới nga miệng rồng có

một con chó qua đầu lại nhìn vào mặt rồng. Dƣờng nhƣ ngƣời nghệ sỹ nông

d n trong hi sáng tạo đồng thời sống trong cõi thực và cõi mơ.

Hu ền thoại và hiện thực đƣợc đan xen với nhau, giữa cái dung dị của

đời sống thƣờng nhật cũng đƣợc các nghệ nh n đƣa vào đứng cùng, thậm chí

còn có những mối giao lƣu về tình cảm với những hình tƣợng cao siêu, tƣởng

39

chừng nhƣ hông bao giờ gặp nhau. Nhƣng ở chạm hắc gỗ đình làng lại là

nơi gặp gỡ của cõi thực và cõi mơ, đời sống t m linh và đời sống trần tục

đƣợc xuất hiện trên một nền gỗ, trên một hông gian. (Ảnh 3.2.10.)

Tính đồng hiện diễn ý

Trong chạm khắc gỗ đình làng nói chung, ở đình Hàng Kênh nói riêng

thủ pháp nà đƣợc coi là phổ biến, vì có hai yếu tố để ngƣời nghệ nhân thể

hiện: Thứ nhất là tính đồng hiện sẽ làm phong ph đề tài chạm khắc; thứ hai

là xét về mặt nghệ thuật, tính đồng hiện biểu hiện đƣợc nhiều lớp tạo hình

trong một không gian hạn chế, cái tài tình ở chỗ đòi hỏi ngƣời nghệ nhân phải

thể hiện đƣợc phong cách nghệ thuật để xây dựng các hình tƣợng trở thành

điển hình, trong không gian điển hình mới nói lên và biểu hiện đƣợc giá trị

nghệ thuật một cách sâu sắc.

Từ xa xƣa, thủ pháp tạo hình nà đã có mặt ở nhiều nền mỹ thuật thế

giới. Mảng trang trí trên vì nách, tai cột đình Hàng Kênh đƣợc nghệ nh n

chạm hắc nhiều con rồng đang uốn lƣợn, ở giữa đồ án là mảng chữ hoặc

hổ phù. Phía dƣới hình tƣợng chim hạc, con chuột, hổ,... Có lẽ, ngƣời nghệ

sỹ nông d n đã sử dụng thủ pháp nà một cách thoải mái nhất. Tất cả các

bức chạm đã diễn tả đồng thời nhiều hoạt động, dƣờng nhƣ hông cùng

một thời gian, hông gian. Thủ pháp đồng hiện thể hiện một đặc điểm há

nổi bật của văn hóa làng.

Đồng hiện là thủ pháp tạo hình có nhiều trong nghệ thuật tru ền

thống nhƣ trong chạm hắc đình làng, tranh d n gian,... Thủ pháp nà cho

phép ngƣời nghệ sỹ trên một mặt phẳng cùng một l c có thể tái hiện nhiều

hoạt cảnh của đời sống với hông gian, thời gian hác nhau. Phản ánh hiện

thực theo qu luật riêng của nó, nhiều hoạt cảnh trong phù điêu trang trí

đình làng đã dùng thủ pháp nà .

40

Tính đồng hiện đƣợc biểu hiện ở chỗ hình tƣợng t m linh hông chỉ

biểu hiện bản th n mình mà qua đó còn còn thể hiện hát vọng, những mong

ƣớc của con ngƣời, cũng nhƣ các hình tƣợng hiện thực hông chỉ thể hiện sức

mạnh vốn có của mình mà còn nói lên ý trí hông huất phục trƣớc bất ì

điều iện hắc nghiệt nào của đấng siêu nhiên. Bên cạnh đó, thủ pháp nà

đƣợc sử dụng ở nhiều hoạt cảnh ở đình Thổ Tang (Vĩnh Ph c) diễn tả cùng

một l c nhiều hoạt động rất hác nhau nhƣ cảnh cƣỡi ngựa, cùng hàng có

quan ngồi uống rƣợu, có ngƣời hầu, cùng l c bên cạnh có ngƣời đang cà

ruộng,... Trang trí trên cốn đình Hƣơng Canh (Vĩnh Ph c) có cảnh đi săn,

quan cƣỡi ngựa, cảnh đấu vật, ngƣời hái củi, ngƣời ngồi thiền,... Chạm hắc

đình Hạ Hiệp (Hà Nội) diễn tả cảnh một ngƣời đang đ t quan tài vào miệng

rồng (theo tích mả táng hàm rồng), cạnh đó có hai ngƣời đang đánh vật, bên

trên có ngƣời đang ngồi bó gối, trung t m bức chạm là một đầu rồng lớn và

hai con rồng nhỏ. . (Ảnh 3.2.9., 3.2.10.)

Tính khái quát ước lệ

Trong nghệ thuật điêu hắc trang trí đình Hàng Kênh thể hiện tính

hái quát cao, ƣớc lệ trong thủ pháp x dựng tác phẩm. Thủ pháp nà

nhằm nhấn mạnh trọng t m, biết chọn những vấn đề quan trọng nhất để

diễn tả, phản ánh, hƣớng ngƣời xem vào nội dung và ý đồ của ngƣời thể

hiện, giản lƣợc về hình thức.

Tính hái quát và ƣớc lệ đƣợc thể hiện qua kỹ thuật chạm khắc, phong

cách tạo hình, không gian của phù điêu và đặc biệt là sự kết hợp các yếu tố

của hình tƣợng tâm linh và nhân vật của trần tục. Hiệu quả của thủ pháp này

là tạo đƣợc sự thỏa mãn về những mơ ƣớc, những khát vọng thƣờng nhật

chƣa giải tỏa đƣợc đối với ngƣời thƣởng thức, đặc biệt là có ý nghĩa s u sắc

về mặt giá trị tạo hình cũng nhƣ giá trị văn hóa và t m linh.

41

Các mảng chạm hắc đình làng đã bỏ qua định luật xa gần, những

nguyên tắc về giải phẫu, bố cục, tính hợp lý của hiện thực, để tạo ra một sự

hợp lý của nghệ thuật do ngƣời nghệ sỹ d n gian sáng tạo ra. Để đạt đƣợc

mục đích nà ngƣời nghệ nh n d n gian đã sử dụng nhiều thủ pháp ết hợp

với nhau trong tạo hình. Cho nên, trên các mảng chạm hắc của đình Hàng

Kênh, các hình tƣợng trong đồ án trang trí đều đƣợc các nghệ nh n hái

quát điển hình hông đi s u vào chi tiết. Điều nà mang lại giá trị nghệ

thuật cho công trình mang phong cách d n gian, gần gũi với ngƣời d n lao

động. Nó hác xa với các công trình mang phong cách cung đình phục vụ

cho tầng lớp vua ch a, quan lại.

Tƣ du tạo hình trong chạm khắc đình làng thể hiện đậm nét tính biểu

trƣng và thủ pháp ƣớc lệ trong nghệ thuật tạo hình dân gian Việt Nam, thể

hiện năng lực tạo hình mang tính đặc trƣng, tạo nên một bản sắc văn hóa riêng

biệt. Đ chính là một trong những giá trị nghệ thuật điển hình có tính định

hƣớng đối với sự phát triển nghệ thuật trong hiện tại và tƣơng lai.

Thủ pháp hái quát, ƣớc lệ luôn mang đến cho không gian của các bức

chạm khắc nhiều điểm nhìn và nhiều sự liên tƣởng đối với ngƣời xem, ngƣời

thƣởng thức.

Ngƣời nghệ nh n xƣa quan niệm cái đẹp, cái hợp lý là phải “thuận

mắt”. Gợi tả cho ngƣời xem hình tƣợng nh n vật, mà ngƣời xem ở đ chủ

ếu là nông d n, gi p cho họ dễ hiểu và dễ liên tƣởng, đó là điều quan

trọng hơn cả. Rõ ràng không gian và cảnh vật ở đ hông rạch ròi, chân

thực mà nửa thực nửa hƣ, nửa trần tục, nửa t m linh. Đ cũng là một thủ

pháp không chỉ thể hiện ở chạm khắc gỗ đình làng mà nó còn đƣợc thể hiện ở

tranh dân gian một cách rất héo léo, và đ cũng là đặc trƣng của nghệ thuật

truyền thống dân tộc Việt Nam.

42

2.4. Kỹ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, Hải Phòng

Trên các mảng chạm hắc đình Hàng Kênh, ngƣời nghệ nh n còn cho

ch ng ta thấ sự tƣơng phản rõ ràng giữa tính chất mềm mại của các hình

tƣợng hoa lá, dải m ,… và sự h c triết của các nét chắc hỏe ở hình tƣợng

rồng, nghê,... Trong các mảng chạm hắc trang trí tạo ra các hoảng rỗng, đặc

cũng rất có giá trị để tạo nên sự nghỉ mắt cho tác phẩm. Có lẽ trong số các

công trình cổ ở Hải Phòng nói chung, đình Hàng Kênh là một trong những

ngôi đình độc đáo. Không gian chạm hắc của những bức ván bƣng, đầu dƣ,

tai cột,… của đình đã cho thấ một giá trị tạo hình đậm nét.

Chạm khắc đình làng Việt Nam nói chung, đình Hàng Kênh nói riêng

là một công trình nghệ thuật với thành tựu đáng tự hào về kiến trúc của ông

cha ta. Ngôi đình là sản phẩm thuần khiết gắn với văn hoá làng xã, hội tụ biểu

tƣợng cao độ về đời sống vật chất và tinh thần của làng. Giá trị bất hủ của nó

nằm ở thành tựu kiến trúc và chạm khắc, ở đó đã ế thừa và phát triển cao,

độc đáo nghệ thuật chạm khắc truyền thống, đặc biệt là các kỹ thuật điêu

luyện từ bàn tay khéo léo của nghệ nh n xƣa tạo nên.

Ngôi đình nà , tuỳ theo từng mức độ chạm khắc có khác nhau kỹ thuật

khi chạm nổi, lúc chạm thủng, chạm kênh bong, hay chạm lộng,... nhƣng tất

cả đều thể hiện tài nghệ của các nghệ nh n xƣa vừa giỏi kiến trúc vừa tài hoa

chạm khắc. Hình thức biểu hiện chắc khỏe và mộc mạc gần gũi chính là lý do

để ngôi đình gắn bó với tâm hồn con ngƣời. Các phù điêu đƣợc chạm khắc

trang trí đình làng là biểu tƣợng độc nhất vô nhị về truyền thống nghệ thuật

của ông cha ta.

Kỹ thuật chạm nổi trong chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh

Là ỹ thuật chạm hắc trên mặt gỗ phẳng, hắc vào mặt phẳng. Các

bức chạm vuông vức trên các ván bƣng, hoành phi, c u đối,… thƣờng

dùng lối chạm nà . Hình tƣợng từ những con vật hết sức th n quen, đến

43

hình tƣợng linh th đƣợc các nghệ nh n thể hiện một cách sinh động,

mang đậm phong vị dân gian. Những họa tiết hoa lá, cỏ c đƣợc chạm

rất mềm mại, sinh động. Ở đ ta thấ dƣờng nhƣ có sự hông c n xứng

giữa các mảng điêu hắc, bởi hình tƣợng rồng thiêng đƣợc thể hiện rất

nhiều so với hình tƣợng linh th hác.Con rồng gần nhƣ luôn đƣợc đặc tả

với một cái đầu lớn, mắt thƣờng nhìn chính diện. Rồng có trán rộng, mắt

to, tròn, lồi ra, miệng rộng nhƣ đang cƣời. Con thì nhe răng, con thì ngậm

ngọc. Thân rồng mập, ngắn đƣợc phủ bởi lớp vẩ nhƣ vẩy cá chép. Các

đao mác cũng mập mạp, dứt hoát, ba ngƣợc về phía sau một cách mạnh

mẽ và đẩy sức sống.

Chạm khắc trên tai cột

Tai cột là những khối gỗ chồng xếp vào nhau, bên ngoài trang trí kín

những phù điêu. Hai bên cột cái là hai tai cột đƣợc kết cấu ăn mộng chắc

chắn vào nhau. Ở phần tai cột phía hƣờng vào trong sànđình đƣợc chạm

khắc đồ án rồng là chủ yếu, các con rồng nối đuôi nhau Trƣớc mặt rồng có

nhiều con thú bốn ch n đang leo tr o lẫn trong râu và tóc của rồng. Rồng

vẫn đƣợc chạm nổi khối sắc nét, to lớn, uy nghi trên tai cột. Con thì miệng

ngậm một viên ngọc, con thì không có ngọc, xung quanh là các con thú to

nhỏ trong nhiều tƣ thế khác nhau, con thì nằm, con thì chạy nhảy nô nghịch

với các đao mác, con thì chổng mông ra ngoài, nhìn rất sinh động.

(Ảnh 3.2.9.)

Tất cả những hình tƣợng đƣợc các nghệ nhân thể hiện trên tai cột,

chính là ƣớc vọng về một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc của ngƣời

nông d n xƣa trong tín ngƣỡng tâm linh.

Ở các tai cột trên hai cột cái phía sau gian giữa tòa Đại đình, các

nghệ nhân chạm khắc hình tƣợng chim phƣợng. Phƣợng thƣờng đƣợc thể

hiện trong tƣ thế dang rộng đôi cánh nhƣ đang ba , trình diễn nghệ thuật

44

tru ền thống với những động tác m a u ển chu ển, iêu sa. Đó là hình

tƣợng biểu hiện cho ph c lộc và sự giàu sang ph quý. Bên cạnh đó còn có

một số mảng chạm khắc độc đáo nhƣ mảng chạm trên hai cánh gà ở cột cái

bên trái của gian giữa. Trên cánh gà bên phải có hai con rồng đang chầu

một con thú nhỏ, con th nà đầu thì cúi còn mắt đang nhìn xuống dƣới.

Kĩ thuật chạm thủngtrong chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh

Là kỹ thuật chạm khắc gần giống nhƣ chạm nổi, có điểm khác ở chỗ

mô típ trang trí đƣợc khắc sâu vào mặt phẳng của ván gỗ, mặt ván thƣờng

không dày, các họa tiếtnằm trên mặt phẳng và nền bị đục thủng, chỉ còn lại

các hình trang trí. Kỹ thuật này thƣờng cho phép diễn tả hoa lá, m nƣớc,

chim thú, rồng phƣợng,… rất tinh tế, mềm mại, thanh thoát, với hiệu quả

trang trí cao nhƣ trên bức Y môn, lại có giá trị sử dụng khi làm cánh cửa, ô

thông gió, tƣờng ngăn nhỏ ha bình phong,… Ở đ , các họa tiết hoa lá

đƣợc sử dụng chạm thủng là phổ biến. Đặc biệt là hệ thống cửa võng ở tòa

tiền đƣờng, trên đó chạm trổ nhiều họa tiết hoa văn sinh động, nhƣ: lƣỡng

long chầu nguyệt, long phụng, hoa lá cách điệu. Tất cả đều đƣợc chạm

khắc một cách khéo léo, tinh tế, mềm mại và sống động.

Chạm khắc trên y môn

Với nửa trên môn đƣợc chạm khắc đề tài “lƣỡng long chầu nhật”.

Rồng đƣợc thể hện với vẻ mặt dữ tợn, bờm tóc lƣợn sóng ba ngƣợc về

phía sau, thân mảnh và có vẩ , đuôi xoắn hình đốm lửa, có các vân mây ám

trên th n đƣợc hòa quyện một cách tự nhiên (rồng ẩn trong m ). Đ là

những nét đặc trƣng của rồng thời Nguyễn (thế kỷ XX). Phần diềm y môn

trang trí các hoa văn: hoa c c, hoa d , hạc ngậm cuống hoa sen,...

Phía trƣớc y môn tạo tay ngai kiểu dóng trúc. Dóng trúc cha thành

nhiều đốt. Trên mỗi đốt là các đề tài trang trí khác nhau, nhƣ c c mãn hai,

hoa văn, hoa văn chữ triện. Đầu dóng trúc chạm thủng đề tài “phƣợng hàm

45

thƣ”. Với đƣờng nét chạm trổ khéo léo, tỉ mỉ, uyển chuyển, hoa văn phong

phú, nhiều kiểu dáng, ngƣời nghệ nh n đã tạo ra một bức y môn thật lộng

lẫ , linh thiêng nơi cửa Thánh. [22, tr. 79 - 80] (Ảnh 1.2.3.)

Kĩ thuật chạm kênh bongtrong chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh

Là ĩ thuật chạm khắc để tạo ra các hình trang trí nhiều lớp từ thân

gỗ chịu lực. Các hình tƣợng nhƣ: long, phụng, mây, hoa lá gắn với các khối

lớn hoặc ở các vì, xà, kèo lớn thƣờng đƣợc tách ra có khi theo nhiều lớp

chồng lên nhau. Kỹ thuật này tạo ra cảm giác các họa tiết có chiều sâu

đƣợc mọc ra từ thân gỗ, kết hợp với hiệu quả ánh sáng gây cảm giác trang

trí uốn lƣợn rất mềm mại, hơn hẳn cách chạm nông hay chạm thủng. Nhiều

hi ngƣời ta kết hợp với kiểu chạm bong kênh bằng việc gắn thêm phía

ngoài những chi tiết khắc rời, tạo hiệu quả tầng tầng lớp lớp của mảng

trang trí.

Chạm khắc trên cốn

Trong đình Hàng Kênh có hai cặp vì nách, hành lang nằm ở gian

giữa của tòa Đại đình, còn lại là kẻ đƣợc chạm khắc các đồ án hoa lá, mây

xoắn, tạo cho thân kẻ mềm mại và thanh thoát hơn. Các vì nách đều đƣợc

chạm khắc tỉ mỉ bằng sự kết hợp giữa kỹ thuật chạm lộng và chạm kênh

bong khiến cho các hình tƣợng trên đó rất sống động, duyên dáng.

Những mảng chạm khắc ở đình Hàng Kênh có đề tài thể hiện phong

ph sinh động, gồm những con vật linh nhƣ: Long, L , Qu , Phƣợng...

Trong đó, con rồng vẫn là đề tài đƣợc trang trí nhiều nhất.

Ngoài những đề tài trong chạm khắc mang tính truyền thống nhƣ đã

nêu trên, ta còn bắt gặp những hình ảnh nhƣ: hổ, voi, ngựa, chuột, ,... Bên

cạnh đó, còn có các đồ án trang trí mang tính ƣớc lệ hác nhƣ đề tài mây

cuộn, đao mác, hoa c c, mặt trời, tia chớp,. Hình ảnh hoa c c đƣợc đặc tả

dƣới hai dạng là c c hƣớng dƣơng và c c phù dung. Những hình tƣợng trên

46

đƣợc các nghệ nhân thể hiện trong các đồ án trang trí đều biểu hiện tín

ngƣỡng cầu nƣớc của cƣ d n nông nghiệp. (Ảnh 3.2.10.)

Kĩ thuật chạm lộng trong chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh

Chạm lộng là sự kế thừa và phát triển, là đỉnh cao của nghệ thuật

chạm khắc đình làng. Qua những thành tựu sáng tạo của những nghệ nhân

giỏi, chạm lộng đã có một bƣớc tiến tạo nên sự độc đáo. Những biến hóa

giàu tính tạo hình trong ngôn ngữ điêu hắc đã làm cho chạm lộng tăng

hiệu quả cảm thụ, đa chiều, tạo tƣơng phản hình - khối, không gian sáng -

tối, vừa tạo cho bố cục có tính thẩm mỹ, vững chắc về kết cấu, vừa tạo cảm

giác nhẹ nhàng, mềm mại, uyển chuyển.

Chạm lộng là hình thức nghệ thuật mang tính kế thừa nghệ thuật điêu

khắc truyền thống. Sự phát triển ngày càng nhiều đình làng với quy mô

ngày càng lớn đã đánh thức tiềm năng sáng tạo của những nghệ nhân dân

gian trong việc tạo nên những tác phẩm thể hiện hiệu quả thẩm mỹ mới,

cảm thụ cao hơn trong hông gian iến trúc trang trí. Bởi vậy, chạm lộng

chính là sự sáng tạo trong quá trình lao động nghệ thuật cùng với sự đòi hỏi

ngày càng cao của xã hội đƣơng thời.

Chạm lộng nở rộ và phát triển hi đề tài đƣợc khai mở rộng rãi, giàu

chất nh n văn, mang tính cộng đồng và dân chủ, không chịu gò bó của quy

phạm lễ nghi. Các phù điêu chạm khắc đƣợc đẩy lên cao dành cho không

gian sinh hoạt, ánh sáng tự nhiên hắt từ nhiều phía. Từ những mảng chạm

nông chuyển dần sang chạm kênh bong với kỹ thuật chạm sâu vào bên

trong khối gỗ, tạo thành nhiều lớp hông gian mà dƣờng nhƣ hông còn

khái niệm về nền. Đó là bƣớc tiến ngoạn mục của chạm khắc truyền thống

với những ƣu thế: tạo chiều sâu không gian, hiệu quả tƣơng phản sáng tối,

có thể đục một, hai tầng tạo nên sự uyển chuyển, sinh động, cảm giác nhẹ

nhàng, thanh thoát mà không ảnh hƣởng đến kết cấu công trình,…

47

Chạm lộng có mặt và phát triển cùng với những biến đổi của đời

sống xã hội, tính dân tộc thể hiện đậm đà, rõ nét ở dòng nghệ thuật dân

gian. Ở đình Hàng Kênh, nghệ thuật chạm khắc đã vƣợt ra khỏi những

quan niệm về khối nổi trên phù điêu. Kỹ thuật chạm lộng khoét sâu trong

lòng thân gỗ, tạo nên tầng tầng, lớp lớp làm cho mảng chạm không còn

cảm giác về nền mà uyển chuyển trong mối quan hệ không gian trong cấu

kiện kiến trúc.

Thủ pháp không gian, thời gian đồng hiện trong chạm lộng nhằm thể

hiện nhiều đề tài, chủ đề về linh th , thiên nhiên, vũ trụ đến những con vật

quen thuộc là đặc trƣng của điêu hắc đình Hàng Kênh. Cái đẹp của tự

nhiên, sự mộc mạc mang tính cởi mở, chứa đựng vẻ đẹp của tâm hồn khiến

cho sự “phi lý” về tỉ lệ thông thƣờng lại trở nên “thuận lý” nhờ tính phóng

khoáng, mạnh mẽ mang lại cảm thụ mới mẻ, chiêm nghiệm sâu lắng.Gắn

chặt với kết cấu kiến trúc, chạm lộng chú trọng phƣơng pháp thể hiện khái

quát chủ yếu diễn tả nội dung, tạo điểm nhấn phóng dụ, bố cục luôn luôn

chú ý sự liên hoàn giữa các đối tƣợng, về các bộ phận, các mảng đặc, thủng

đƣợc cân nhắc tạo sự hài hòa, mềm mại nhƣng vẫn đảm bảo sự vững chắc

của bề mặt tác phẩm và kết cấu kiến trúc.

Đ là cách chạm khắc đòi hỏi kỹ thuật cao, sự công phu, tỉ mỉ của

ngƣời thợ. Đ cũng là ỹ thuật chạm khắc đầy tính biểu cảm, có hiệu quả

không gian và hiệu quả khối cao nhất. Các khối chạm lộng ở đ thƣờng là

những con th , đầu rồng,… Ch ng gần nhƣ những pho tƣợng tròn, lồi hẳn

ra, chồng chéo nhiều lớp cực kỳ phức tạp, làm mất cảm giác vốn có về nền

của bức chạm. Cả thân cây gỗ đƣợc đục rỗng, tạo ra những khoảng trống

luồn lách trong khối hình. Các bức chạm lộng thƣờng là những phần hấp

dẫn nhất của điêu hắc trang trí đình làng.

Đình Hàng Kênh, chạm lộng đƣợc sử dụng chủ ếu trong điêu hắc

48

trang trí đầu dƣ, vì nách. Trong đó, họa tiết trang trí chủ đạo là các đầu

rồng, th n rồng luồn lách, tầng tầng, lớp lớp, tu nhiên lại hông bị cứng

nhắc mà u ển chu ển, sinh động, cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát. Bên

cạnh đó, hình tƣợng về những con vật hết sức th n quen, gần gũi cũng

đƣợc các nghệ nh n thể hiện ngoài việc tu n thủ theo những ếu tố cơ bản

trên thì các nghệ nh n cũng đã vận dụng ĩ thuật héo léo với đề tài linh

th đƣợc thể hiện trên hành langgian lòng thu ềntại hai trụ của hàng lan

can với ĩ thuật chạm lộng hết sức tinh tế. Đƣờng nét chạm trổ, đục đẽo tỉ

mỉ đã tạo dáng cho hai trụ lan can nhƣ hai tay ngai của vua, chúa. Trên hai

trụ, các con rồng nhƣ đang lao xuống với tốc độ nhanh, r u, tóc ba ngƣợc

về phía trên nhƣ các đao lửa đang hừng hực chá . Phía dƣới cùng của trụ

có hai con rồng đang trong tƣ thế ngoảnh đầu lên theo dáng long hồi...Chỉ

một góc riêng đó cũng đủ để cho ta thấy sự tinh tế về ĩ thuật chạm lộng

trong đình Hàng Kênh có sự khác biệt với nghệ thuật chạm lộng ở các ngôi

đình hác mà vẫn mang đậm phong vị d n gian và giàu tính tru ềnthống.

Đầu dƣ

Là một phần của cấu kiện kiến trúc có tác dụng chịu lực, gánh câu

đầu. Do là phần gỗ thừa nên đƣợc gọi là đầu dƣ, nếu để nguyên phần gỗ

mộc thì nhìn sẽ rất thô và cảm giác nặng nề. Chình vì thế các nghệ nh n đã

đƣa đồ án trang trí rồng và thể hiện kỹ thuật chạm lộng vào phần gỗ đó,

làm cho phần gỗ dƣ trở nên thanh thoát, có hồn. Đầu dƣ ở đình Hàng Kênh

đƣợc thể hiện hai mô típ đầu rồng hác nhau. Đ chính là hai sản phẩm

của hai nhóm nghệ nhân thể hiện. Đầu rồng thứ nhất có rất nhiều đao mác

ở đầu, các đao mác ngắn ở gần miệng rồng và dài dần rồi nhọn về phía sau,

thể hiện sự mạnh mẽ. Đầu rồng thứ hai thì có ít đao mác ở đầu, dƣới cằm

có r u dài và đƣợc tết lại chạy xuống bám vào bụng rồng, thân rồng uốn

cong một cách mềm mại.(Ảnh 3.2.11.)

49

Tiểu kết

Nội dung chƣơng 2 nghiên cứu về mối quan hệ giữa chạm khắc, kiến

trúc với trọng tâm của đề tài là giá trị nghệ thuật chạm khắc đình Hàng Kênh

nhằm làm sáng tỏ đặc điểm về hình thức các kiểu bố cục, cách tạo khối, tạo

hình đối tƣợng, phong cách thể hiện qua các chủ đề và ĩ thuật chạm khắc của

đình Hàng Kênh.

Đình Hàng Kênh là một ngôi đình mang đậm tinh thần của làng xã cuối

thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII.Đi trong đình ngƣời xem nhƣ lạc vào thế giới

của rồng, của chạm khắc. Những mảng chạm khắc rồng, mây, hoa lá cách

điệu nổi lên trên các tấm ván nong, tai cột, các bộ vì nách, các đầu dƣ, ván

bƣng, dƣới chân các chấn song,… hiện lên vô cùng sống động có chiều dài

lịch sử 300 năm qua nhƣ thách thức cùng thời gian. Lối chạm khắc chính

đƣợc các nghệ nhân dùng chủ yếu là lối chạm lộng và chạm kênh bong bên

cạnh một số mảng chạm nổi. Nhƣng đặc sắc nhất vẫn là lối chạm bong ở

các vì nách, chạm lộng ở chấn song với kỹ thuật điêu lu ện. Những con

rồng nhƣ đang luồn lách từ trong thân gỗ chui ra, kết hợp với sáng tối nên

tạo ra các mảng chạm rất sống động. Hiếm có nơi nào các nghệ nhân lại

dùng lối kênh bong và chạm lộng đặc sắc tinh tế nhƣ nơi đ .

Về kỹ thuật chạm ở đ , ta thấy một thể khối hoàn chỉnh, biểu tƣợng

chắc khỏe, đƣờng nét tinh xảo. Các nghệ nh n đã tạo nên những mảng

chạm có chiều sâu, cho ta cảm giác nhìn đƣợc cả ba chiều. Có mảng chạm

s u đến năm lớp: lớp ngoài là mặt mũi, môi, răng; lớp hai là râu tóc; lớp ba

là tứ chi; lớp bốn là thân; lớp năm là nền.

Việc tạo điểm nhấn cho các bức chạm ở ngôi đình chủ ếu là nhờ vào

việc sử dụng các ỹ thuật chạm hắc mộc mạc, giản dị, hả năng điêu lu ện

đạt đến độ tinh tế trong nghệ thuật chạm ênh bong và nét hóm hỉnh th m

th nhƣng hông ém phần thoáng đãng trong nghệ thuật chạm lộng, thu hút

50

sự ch ý của con mắt tạo hình. Nếu ở vị trí quan trọng trong đình, những bức

chạm nà đƣợc chạm hắc cầu ì, tỉ mỉ, nhiều lớp cùng với ánh sáng làm cho

hông gian trong đình trở nên sự lộng lẫ thì ở mặt ngoài của công trình, các

mảng chạm hắc đƣợc thể hiện đơn giản hơn và lợi dụng ánh sáng ngoài trời

để tạo hình cho tác phẩm thêm sống động. Tính chất biểu tƣợng cũng rõ rệt

hơn, tạo cho nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh có một nét rất riêng.

51

CHƢƠNG 3

GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ

ĐÌNH HÀNG KÊNH, HẢI PHÒNG

3.1. Giá trị nghệ thuật tạo hình chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh,

Hải Phòng

Về mặt tạo hình, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, đình làng là

gƣơng mặt của nền iến tr c Việt cổ. Nó hông chỉ là công trình oai nghiêm

và đồ sộ nhất trong hung cảnh làng quê Việt Nam ngh o nàn thời qu n chủ

mà còn là nơi bảo tồn há trọn vẹn những đặc điểm của nền iến tr c d n tộc

bởi ít phải chịu ảnh hƣởng của iến tr c ngoại sinh. Đặc biệt, qua một thời

gian dài nghiên cứu, chắt lọc, ngƣời ta còn phát hiện từ đình làng một ho

tàng những tác phẩm điêu hắc gỗ d n gian Việt Nam [8] mà sự héo léo, tài

tình của những ngƣời thợ trong việc biểu đạt hông gian trong các bức chạm

và bố cục các mảng chạm có nhịp điệu hài hòa với ết cấu iến tr c qua các

bức vì, tai cột, đầu bẩ , xà ngƣỡng,... Các nghệ nh n đã đƣa hông gian của

vũ trụ, hông gian của linh th , cỏ c hoa lá và hông gian của muông th

hiển hiện, hòa đồng tạo một hông gian mộc mạc, giản dị gần gũi.

Đến thăm đình Hàng Kênh để tỏ lòng thành ính trƣớc công lao của

các tiền nhân,ch ng ta còn đƣợc chiêm ngƣỡng những tác phẩm chạm khắc

tuyệt đẹp trên các đầu dƣ, vì nách, cánh gà, ván bƣng,… Nhìn chung, nghệ

thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, Hải Phòng hông vƣợt ngoài phạm

vi nghệ thuật điêu hắc vùng đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XVII, XVIII.

Nhƣng sang thế kỷ XVIII, những cảnh sinh hoạt dân gian ít dần và thay

vào đó là đề tài hoa, lá và bộ tứ linh: long, l , qu , phƣợng với kỹ thuật

nuột nà, khéo léo. Tuy nhiên sự khác nhau không chỉ thể hiện qua mỗi giai

đoạn lịch sử mà còn thể hiện trong cùng một thời điểm thậm chí trong

cùng một ngôi đình. Điều này có thể do việc hoàn tất một công trình không

52

phải chỉ một hiệp thợ mà nhiều hiệp thợ. Tính hông đồng nhất tạo nên sự

sinh động, nét riêng biệt cho mỗi công trình kiến trúc.

Nghệ thuật điêu hắc, trang trí trong kiến trúc đình Hàng Kênh điều

khiến ngƣời d n nơi đ tự hào nhất là các mảng chạm khắc. Đình Hàng

Kênh đƣợc chạm khắc trang trí rất cầu kỳ bên trong và bên ngoài. Đó chính

là điểm đặc sắc của ngôi đình. Những mảng chạm khắc trang trí ở đ vừa

nói lên t m tƣ, tình cảm, ƣớc vọng của ngƣời nông d n đồng thời cũng thể

hiện bàn tay tài ba của các nghệ nh n xƣa. Những ngƣời thợ nói về mặt kỹ

thuật thực sự là những nghệ nhân, về mặt nghệ thuật thực sự là những nghệ

sĩ tạo hình.

Nhìn từ mặt trƣớc và xung quanh tòa Đại đình là các hàng cửa sổ có

con song vuông.Phía trên hàng cửa con song vuông ở mặt trƣớc tòa Đại

đình có riềm hoa văn, đƣợc các nghệ nh n xƣa chạm nổi, riềm chia thành

nhiều nhóm nhỏ với những hình tƣợng rồng thiêng cùng hoa lá cách điệu

nhƣ hoa chanh, hoa c c. Trên các đầu bẩ đều đƣợc chạm hình tƣợng hoa

lá xen lẫn các dải m đƣợc uốn cong rất mềm mại. Còn trên ván dong là

hình tƣợng mây hình mây dài, xoắn ốc uyển chuyển, quấn quít.

Bên dƣới hàng cửa con song ô vuông là hệ thống ván bƣng chạ dọc

phía trƣớc và bao xung quanh đình đều đƣợc chạm hắc dà đặc những đồ

án trang trí nhƣ linh th , động vật, hoa hƣớng dƣơng, lá c c, m , đao

mác, tia chớp,…

Các đồ án hoa, lá m , đao mác chiếm chủ ếu trong các mảng trang

trí trong hệ thống ván bƣng bên ngoài ngôi đình. Chính vì thế ngƣời nghệ

nhân đẵ sắp xếp bố cục một cách tài tình, tạo ra sự tha đổi hông lặp lại

các mảng chạm hắc. Trong các mảng chạm luôn có điểm nhấn, luôn có sự

biến đổi của hình mảng, chỗ dà đặc, có chỗ thoáng để tạo điểm nghỉ.

Đƣờng nét trong chạm hắc cũng đƣợc các nghệ nh n luôn tạo sự tha đổi

53

về chiều hƣớng.Nếu nhƣ trong mảng chạm có nhiều đao mác ba lên, ba

ngang, bay xiên thì lại có những dải m ha mảng lá chạ ngang ha uốn

cong làm tha đổi hoàn toàn về đƣờng hƣớng trong bố cục phù điêu. Đó là

những ếu tố g ấn tƣợng hiến cho ngƣời xem luôn có sự tò mò khi

chiêm bái, hông có sự nhàm chán.

Chạm nổi ỹ thuật chính đƣợc các nghệ nh n thể hiện trên hệ thống

ván bƣng, ở từng mảng chạm bên ngoài đƣợc chia thành ba tầng, tầng

chạm hắc ở giữa cao hơn tầng trên và tầng dƣới. Tầng nà chủ ếu là

đƣợc chạm đồ án hoa lá đăng đối nhau, hầu nhƣ hông chạm các hình

tƣợng linh th ha động vật. Hai tầng còn lại là mảng đƣợc các nghệ nh n

thể hiện nhiều đồ án trang trí phong ph , sinh động, tô điểm thêm vẻ đẹp

cho ngôi Đình làng.

Bên trong đình Hàng Kênh, tòa Đại đình là nơi đƣợc các nghệ nhân

xƣa tập trung thể hiện các đồ án trang trí. Với trí tƣởng tƣợng phong

phúbằng bàn tay tài hoa, bằng kỹ thuật chạm điêu lu ện các mảng chạm

khắc đã hỏa lấp trên các cốn, đầu dƣ, tai cột,với đồ án trang trí có những

nội dung đề tài phong ph , đa dạng. Đó là các tác phẩm đạt giá trị cao

trong nghệ thuật điêu hắc thế kỷ XVII -XVIII. [22]

Đình Hàng Kênh là một kiến trúc tiêu biểu ở thời hậu Lê còn giữ đƣợc

nhiều mảng chạm có giá trị nghệ thuật nổi tiếng của thành phố Hải Phòng nói

riêng, của đất nƣớc ta nói chung. Di tích là sản phẩm văn hóa của thế kỷ XVII

- XVIII thế kỷ phát triển rực rỡ của nghệ thuật dân gian. Những bức chạm ở

đình Hàng Kênh thể hiện tính dân tộc sâu sắc, vớiđề tài phong phú, từ linh thú

cho đến các con vật gần gũi đƣợc thể hiện tinh xảo thể hiện ở tính khái quát

cao bằng những thủ pháp tạo hình nhƣ: thủ pháp đồng hiện, để mở rộng

không gian, thời gian; thủ pháp nhiều điểm nhìn để tạo ra caí nhìn lập thể điển

hình đặc sắc; thủ pháp cƣờng điệu, tạo ấn tƣợng bằng cách nhân cách hóa

54

nhân vật; thủ pháp biểu tƣợng hóa để thể hiện nh n sinh quan, vũ trụ quan.

Ngƣời nghệ nh n xƣa quan niệm cái đẹp, cái hợp lý tựu trung là phải “thuận

mắt”gợi quan trọng hơn tả, nhấn mạnh trọng tâm, tức là biết chọn những vấn

đề quan trọng để diễn tả. Từ đó, hƣớng ngƣời xem vào nội dung, giản lƣợc về

hình thức, bỏ qua định luật xa gần, những nguyên tắc về giải phẫu, bố cục,

tính hợp lý của hiện thực, để tạo ra sự hợp lý của nghệ thuật,phù hợp với từng

cấu kiện kiến trúc và vị trí của các môtíp chạm khắc, làm cho những bức

chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh có giá trị trong nền mỹ thuật cổ Việt Nam nói

chung và thành phố Hải Phòng nói riêng.

* Nét đặc trưng trong chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh với một số ngôi

đình tiêu biểu trong hệ thống đình làng ở Hải Phòng

Phong trào làm đình phát triển mạnh mẽ dƣới thời phong kiến. Thế kỷ

XVII-XVIIIđƣợc coi là thế kỷ của đình làng, rất nhiều đình đƣợc xây dựng.

Nghệ thuật điêu hắc và kiến tr c đình đạt đỉnh cao, để lại những giá trị lớn

lao về văn hóa, nghệ thuật, mà nổi bật là tinh thần nh n văn hƣớng về con

ngƣời, với những nhu cầu nhân bản. Đề tài chạm khắc vô cùng phong phú, số

lƣợng và quy mô của chạm khắc há đồ sộ. Đặc biệt hai kỹ thuật chạm khắc

đòi hỏi kỹ thuật và sự công phu là chạm lộng và ênh bong đƣợc sử dụng

nhiều.

Hải Phòng là địa phƣơng hiện còn giữ đƣợc hệ thống đình có lối kiến

tr c, điêu hắc đặc trƣng từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, trong đó có một số

đình tiêu biểu nhƣ: Đình Kiền Bái (thế kỷ XVII), đình Hàng Kênh (thế kỷ

XVIII), đình Niệm Nghĩa (thế kỷ XIX), đình Quán Khái (thế kỷ XX).

Đình Kiền Bái là công trình iến tr c điêu hắc tiêu biểu, của nghệ

thuật iến tr c thời Lê thế ỷ XVII. Điểm nổi bật của đề tài trang trí trên công

trình iến tr c nghệ thuật nà là bên cạnh hình ảnh rồng, phƣợng, hoa lá cách

điệu, tia lửa, lƣỡi mác,... còn rất nhiều cảnh sinh hoạt d n gian tự nhiên, sinh

55

động. Đó là hình ảnh rồng ngoạm đuôi nhau, trƣớc mặt rồng có nhiều con th

bốn ch n leo tr o trong đám v rồng; có hình ảnh rồng đan xen với th bốn

ch n nhƣ: thằn lằn, voi, ngựa, lợn ăn lá rá ,… ; có mảng là cảnh sinh hoạt

hình ngƣời cƣỡi voi, cƣỡi ngựa,... (Ảnh 4.1.)

Thế kỷ XVIII, phong trào làm đình đã chững lại, không còn sôi nổi,

mạnh mẽ nhƣ thế kỷ trƣớc. Nghệ thuật điêu hắc đã đạt đỉnh cao và có xu

hƣớng thoái trào ở thế kỷ này.

Đình Hàng Kênh (Nhân Thọ Đình)là một công trình mang những nét

đặc trƣng tiêu biểu nhất trong các ngôi đình thế ỷ XVIII. Đặc biệt ngôi đình

đƣợc mọi ngƣời ngƣỡng mộ và êu quý bởi nghệ thuật điêu hắc trên cấu

iện iến tr c gỗ. Nghệ thuật chạm hắc ở đình Hàng Kênh đã đạt đến độ

trau chuốt, tinh xảo và đồng nhất, hác hoàn toàn với phong cách chạm

hắc của đình Kiền Bái. Các mảng chạm hắc chủ ếu tập trung ở Đại

đình, ngoài các th n cột và hệ thống hoành, còn lại tất cả các thành phần

iến tr c của đình đều đƣợc chạm hắc trang trí với nhiều đề tài phong ph

nhƣ hoa lá, chim muông, m , tia chớp. Mỗi mảng chạm một ích cỡ,

phong thái, dáng vẻ hác nhau, nhƣng nổi bật nhất vẫn là những mảng

chạm hắc gỗ với đề tài rồng.

Có thể nói đình Hàng Kênh là đình của rồng, trong đình có hơn một

trăm mảng điêu hắc mà hình tƣợng chủ yếu vẫn là hình tƣợng rồng.Rồng

luôn chiếm một vị trí trung t m. Nét độc đáo là hơn bốn trăm con rồng

trong các mảng chạm khắc gỗ mỗi con một vẻ, một tƣ thế và đƣợc tạc theo

từng ổ, rồng mẹ rồng con quấn quýt bên nhau giữa các đề tài cây cỏ, hoa lá,

tia chớp,.Nhờ có sự ế thừa hai phong cách nghệ thuật thời Lê và thời

Ngu ễn cộng với đôi bàn ta héo léo, sự sáng tạo của những nghệ nh n xƣa

nên ngà na ch ng ta mới đƣợc chiêm ngƣỡng những bức chạm tạo hình

nhiều tầng nhiều lớp tinh xảo, công phu nhƣ vậ .

56

Sang thế kỷ XIX, đình dựng mới rất ít, nhiều ngôi đình cũ đƣợc trùng

tu, xây thêm hậu cung, tả vu, hữu vu, tiền tế, bình phong, cột biểu. Điêu hắc

thời kỳ này chủ yếu là đề tài Tứ linh, Tứ quý và các hoa văn, muông th . Chất

trang trí trở nên cầu kỳ, nghiêm ngặt, lộng lẫ hơn, phần nào phù hợp với tính

chất tín ngƣỡng tăng dần trong ngôi đình làng. Những đồ án trang trí đƣợc ƣa

chuộng là hoa, lá, mây với linh thú, mai hóa rồng, hoa cúc hóa lân, tre hóa

rồng,...

Đình Niệm Nghĩa mang phong cách nghệ thuật iến tr c đình làng Việt

Nam thế ỷ XIX. Các mảng chạm hắc ở đ trừ các cột cái, cột qu n lực

lƣỡng, các xà thƣợng, xà hạ bào soi hình vỏ măng. Còn lại các bộ phận hác

của đình đƣợc chạm hắc, trang trí bằng các họa tiết hoa lá cách điệu, rồng

ba , phƣợng m a tinh xảo, chắt lọc từ các đề tài “tứ linh”, “tứ quý”. Nội

dung và hình thức biểu hiện của một số ngôi đình trong thời gian nà ở Hải

Phòng chủ ếu là sao chép lại đình làng thế ỷ XVIII. Những mảng chạm với

hình tƣợng nhỏ hơn, dà đặc hơn, tạo nên nét đặc trƣng của ngôi đình thế ỷ

XIX. Qua đó, thể hiện bàn ta héo léo của các nghệ nh n xƣa, làm nên niềm

tự hào của ngƣời d n làng Vĩnh Niệm.

Đình Quán Khái tiêu biểu cho iến tr c đình làng Hải Phòng đầu thế ỷ

XXNgôi đìnhlà một trong những công trình có nhiều tác phẩm quý đƣợc giữ

gìn từ ngà hởi dựng đến na . Bên trong đình là các mảng chạm hắc chủ

ếu là hoa lá đƣợc nghệ nh n diễn tả trên các cấu iện iến tr c. Các cảnh

lộng lẫ vàng son của các bức hoành phi, c u đối, cửa võng, hám thờ đƣợc

chạm hắc công phu và to lớn hác thƣờng. Đình Quán Khái là tòa nhà sáu

mái cao rộng, lợp ngói mũi hài với mƣời mái đao cong v t. Trên nóc đình, bờ

dải đắp con ìm, con sô ở đầu guột,… Vì o đình Quán Khái làm theo iểu

“chồng rường giá chiêng”, một phong cách đậm nét cổ tru ền. Có một hác

biệt so với các ngôi đình hác là các bộ phận iến tr c dù ở tiền đƣờng cao

57

thoáng, ha ở tận cùng hậu cung tối sẫm đều đƣợc chạm hắc tỷ mỷ nhƣ

nhau. Một điều rất đặc biệt mà ch ng ta rất ít thấ ở đình làng, trên mảng

chạm ở đầu dƣ, thông thƣờng các nghệ nh n chạm đầu rồng, nhƣng ở ngôi

đình nà lại đƣợc chạm bởi c cỏ, hoa lá.

Hình tƣợng con rồng đƣợc thể hiện nhiều nhất trong các bộ phận kiến

trúc và các di vật trong công trình. Rồng đƣợc trang trí “chầu mặt trời” bờ nóc

mái, đầu dƣ trong bộ khung chịu lực. Rồng trang trí trên các mảng chạm đơn

lẻ trong các tƣ thế: độc long, long cuốn thuỷ, hoa lá,... với hình thức thể hiện

cách điệu đầy sáng tạo, ở trình độ cao. Lân trang trí ở đình Quán Khái đƣợc

gọi là “Kim Nghê” góp mặt cùng các linh vật khác trong bộ tứ linh phối hợp

đắp vẽ trên bờ nóc mái kiến trúc, thành một cặp tả hữu. Rùa trang trí tại đình

Quán Khái đƣợc các nghệ nhân thể hiện khá linh hoạt, hi thì đƣợc đặc tả

giống nhƣ thật trong tƣ thế im lặng, khoan thai, l c đƣợc hoá thành hình

vuông, hình lục giác, lƣng đựng hòm sách, hoặc một cuốn thƣ c b t,...

Mảng đề tài cỏ c , hoa cảnh thiên nhiên cũng đƣợc thể hiện trong

trang trí iến tr c của đình. Các loài hoa quí cách điệu, hoá th n nghệ thuật

thành rồng, phƣợng. Bộ tranh tứ bình thể hiện 4 mùa xu n, hạ, thu, đông; Bộ

tứ quí tùng, c c, tr c, mai. Các đồ án trang trí hoa tru ện, hồi văn, chữ thọ,

trám lồng, xoắn ốc cũng đƣợc sử dụng hài hoà trong hàng chục iểu biến thể

khác nhau.

Ngoài giá trị về iến tr c và nghệ thuật, đình Quán Khái lƣu giữ há

nhiều đồ thủ công mỹ nghệ, sản phẩm tru ền thống của quê hƣơng Vĩnh Bảo,

tƣợng quan văn, quan võ, tƣợng ông Đô, tƣợng chim hạc, hƣơng án, sập thờ,

cỗ ngai, c u đối, cửa võng, đại tự,… vừa mang tính cung đình vừa phảng phất

màu sắc d n gian. Qua các tác phẩm điêu hắc tại ngôi đình, ch ng ta thấ

một cung điện thu nhỏ trong một công trình iến tr c ấn tƣợng và rất độc đáo

của thành phố Hải Phòng.

58

Trên đ là hệ thống một số ngôi đình ở Hải Phòng qua diễn trình thời

gian, hội tụ đầ đủ những yếu tố của xã hội nông thôn Việt Nam hi xƣa. Từ

t m linh, tín ngƣỡng đến phong tục, tập quán; từ lao động sản xuất đến quan

hệ cộng đồng nh n d n đƣợc thể hiện và gìn giữ trong nội dung và hình thức

kiến tr c, điêu hắc của ngôi đình

3.2. Vai trò của nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh trong

mỹ thuật cổ Việt Nam

Trong nền mỹ thuật cổ Việt Nam, đình Hàng Kênh tu chƣa thực sự

đƣợc nhiều ngƣời biết đến, các nhà nghiên cứu cũng chƣa tìm hiểu sâu về lịch

sử, văn hóa, cũng nhƣ giá trị nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc tại

ngôi đình.

Tuy nhiên tại địa phƣơng, đình có một vai trò rất quan trọng trong đời

sông tâm linh của cƣ d n Hải Phòng. Đình có niên đại khoảng 300 năm tồn tại

với thời gian và lƣu giữ đƣợc những giá trị về mặt kết cấu kiến trúc “ván sàn

lòng thuyền”, cảnh quan chuẩn mực của ngôi đình đi liền với kho tàng phù

điêu chạm khắc. Ngôi đình đƣợc giới chuyên môn mỹ thuật và giới sử học

tỉnh Hải Phòng đánh giá là một di tích có kết cấu kiến trúc tiêu biểu của kiến

tr c đình làng Việt Nam nói chung,của thành phố Hải Phòng nói riêng.Đình

có những môtíp chạm khắc độc đáo so với các ngôi đình đƣợc xây dựng trên

đất Hải Phòng.

Chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh hông những là nguồn tƣ liệu để

nghiên cứu lịch sử mỹ thuật mà còn là nguồn tƣ liệu tìm hiểu về cuộc sống

đời thƣờng, văn hóa tín ngƣỡng và tâm hồn của ngƣời nông dân Việt Nam.

Nói đến nghệ thuật chạm khắc gỗ đình làng cũng là nói đến nghệ thuật trang

trí trên cấu kiện kiến trúc đình, chạm khắc ở đ là chạm khắc trang trí kiến

trúc. Hiệp thợ làm đình hông chỉ có bàn tay khéo léo, óc sáng tạo, kỹ thuật

thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết vận dụng tính tạo hình theo quan

điểm tín ngƣỡng, tô điểm cho ngôi đình thêm đẹp. Do đó chạm khắc gắn liền

59

với kiến trúc. Hầu nhƣ trên các thành phần của cấu kiện kiến tr c đình làng

đều đƣợc các nghệ nhân thổi hồn qua bàn ta điêu lu ện của mình, chạm khắc

thành những môtíp có giá trị về tính tạo hình, thu hút sự chú ý của những

ngƣời đến thăm đình, và hứng thú nghiên cứu cho giới chuyên môn mỹ thật.

Những hiện vật trong đình đƣợc lƣu giữ đến ngày nay có vai trò và giá

trị thẩm mỹ rất cao. Nó là một trong những dấu ấn của mỹ thuật cổ bị mai một

theo thời gian cùng hàng trăm ngôi đình trên cả nƣớc đang dần dần xuống cấp

một cách nghiêm trọng, mà chƣa có cách bảo tồn trùng tu triệt để trong tình

trạng thời tiết ngày càng khắc nghiệt. Những phát hiện mới mang tính độc đáo

trong nền mỹ thuật cổ không phải là quá hiếm, tuy nhiên công trình có tính

niên đại sâu, tính thẩm mỹ độc đáo, giữ đƣợc tính nguyên bản của các bức

chạm khắc từ xa xƣa thì thực sự có giá trị. Đó giống nhƣ một loại ngôn ngữ

tƣợng hình góp phần phong phú cho nền mỹ thuật cổ Việt Nam.

Đình Hàng Kênh đã trở thành biểu tƣợng của ý thức dân tộc, gạch nối

giữa lịch sử và cộng đồng. Đình Hàng Kênh là biểu trƣng cho tinh thần

làng xã của ngƣời dân Việt Nam nói chung và ngƣời dân Hải phòng nói

riêng. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đình Hàng Kênh vẫn lƣu giữ đƣợc

các giá trị về văn hóa, về điêu hắc kiến trúc, nghệ thuật trang trí đặc sắc.

Đình làng Hàng Kênh đã thực sự góp phần tô đẹp thêm truyền thống văn

hóa nghệ thuật Hải Phòng cũng nhƣ nền nghệ thuật kiến tr c đình làng

vùng duyên hải Bắc Bộ nói chung.

Không những vậ , đình làng Hàng Kênh còn có những đóng góp

nhất định trong việc cố kết cộng đồng tạo nên khối đại đoàn ết trong cộng

đồng làng xã và lƣu giữ những nét đẹp về truyền thống của địa phƣơng và

dân tộc. Đó là tín ngƣỡng thờ Thành Hoàng của làng - vị thần bảo mệnh,

bảo trợ của làng xã, vẫn giữ đƣợc nhiều lễ nghi truyền thống của địa

phƣơng nhƣ: lễ tế thần, tắm tƣợng, lễ rƣớc thần,… bảo tồn và phát triển các

hoạt động văn hóa d n gian, nhƣ: hát ch o, hát đ m,… các hoạt động thể

60

thao thi tài, nhƣ: hội cƣớp cây bông. Với mỗi cá nhân, ngôi đình làng cũng

là nơi giao tiếp, gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm làm ăn với nhau.

Tiểu kết

Nội dung của chƣơng 3, tìm hiểu những giá trị nghệ thuật chạm

khắc,chủ đề và thủ pháp thể hiện trên những bức chạm khắc tiêu biểu trong và

ngoài ngôi đình Hàng Kênh. Đề tài, kỹ thuật nêu những nét đặc trƣng tiêu

biểu,và nét tƣơng đồng với nghệ thuật chạm khắc của các ngôi đình cùng niên

đại ở vùng duyên hải Bắc bộ;những giá trị thẩm mỹ qua đề tài và cách biểu

cảm trên những bức chạm khắc giữa đình Hàng Kênh với mỹ thuật cổ Việt

Nam.

Chạm hắc đình làng đã trải qua mấ thế ỷ nhƣng giá trị và nét đẹp

của nghệ thuật nà vẫn còn mãi cho đến thời na . Nó mang vẻ đẹp riêng

của một d n tộc mà văn hóa làng là tiêu biểu. Khi xem chạm hắc đình

làng, ch ng ta thích th ở tính chất giản dị, hiêm tốn của nó. Kiến tr c đã

dành cho nó những diện tích và ánh sáng hắc nghiệt ở những vị trí đặc

biệt… Những hình hông ra hình, hông đ ng iểu cách nào, hông thể

xếp loại vào đ u, vậ mà những ngƣời thợ chạm xƣa đã tạc, chạm nên

những tác phẩm để đời, tạo nên một loại hình chạm hắc riêng biệt trong

nghệ thuậtgửi gắm nội dung tƣ tƣởng sâu sắc mà hóm hỉnh.

Ở đình Hàng Kênh, các chạm khắc hầu hết tập trung trên vì kèo và

chạ theo các ván bƣng ha bức cốn dƣới hình thức tha đổi tuỳ theo từng

vị trí kiến trúc. Chạm khắc đình làng là tiếng nói của nghệ thuật trang trí ở

làng, nó đƣợc nảy sinh từ việc làm đẹp thêm những kết cấu dƣ thừa không

làm mất đi tính năng cơ bản của kết cấu kiến trúc.

Về mặt kỹ thuật và nghệ thuật, ngƣời thợ chạm khắc ở làng xã, từ

thuở nhỏ đã quen đục chạm gỗ.Ngoài công việc của một nghệ nhân chạm

khắc, họ vẫn là một nông dân, vẫn tham gia mọi việc đồng ruộng. Nhát đục

61

chạm dứt khoát, chắc ta , nhƣng nguồn cảm hứng lại rất chân thật, không

phải là chân thật một cách sơ sài hông đạt tới nghệ thuật, mà là sự chân

chất của một nghệ sĩ, vui tƣơi và sinh động, kết quả một quá trình kết hợp

giữa những tình cảm sâu sắc với những hình thức biểu hiện thông qua chất

liệu. Nghệ nhân chạm khắc gỗ nhƣ là một nhà thơ ở làng xã khi cảm hứng

lên, diễn tả bằng ngôn ngữ hàng ngày những điều rất bình thƣờng, nhƣng

rất la động lòng ngƣời khi xem các sản phẩm của họ.

Những tác phẩm chạm khắc phản ánh tất cả vẻ đẹp, chứa đựng cái

hồn của quê hƣơng. Những nhà điêu hắc ấy không chạm khắc theo mẫu

mà theo cuộc sống. Những cảnh tƣợng diễn đi, diễn lại xung quanh đề tài

linh th , động vật, hoa lá cỏ c , thiên nhiên, vũ trụ..., in vào tâm khảm

nghệ sĩ những nét không thể xoá, vì thế cảm xúc và tính tạo hình, đi thẳng

một cách tự nhiên vào trong tác phẩm nghệ thuật chạm khắc.

Kết th c chƣơng 3 là tổng hợp những cái hay, thấ đƣợc trong quá trình

nghiên cứu đề tài,với những mảng chạm khắc trang trí đã trở thành nguồn tƣ

liệu hết sức phong ph , để chúng ta hiểu hơn về cuộc sống, tinh thần, khát

vọng của ông cha. Chúng chính là sợi dây gắn kết thế hệ hôm nay với mạch

nguồn dân tộc.

62

KẾT LUẬN

Mỗi ngôi đình là một tác phẩm nghệ thuật trong không gian làng xã,

với sự cổ ính, tĩnh mịch, mộc mạc, đơn sơ, với những yếu tố tạo hình trong

không gian kiến trúc độc đáo, với những hoa văn trang trí cầu kì mang tính

cách điệu cao nhƣ hoa lá, m , long, li, qu , phƣợng...Bằng những thủ pháp

kết hợp với huyền thoại và hiện thực vào trong một bố cục cụ thể, tạo nên nét

đặc trƣng của ngôi đình qua từng niên đại.

Đình Hàng Kênh là nơi sinh hoạt việc làng, là nơi diễn ra lễ hội,

đƣợc tổ chức hàng năm, có ba lễ hội lớn: lễ rƣớc sắc (23 tháng 12 âm lịch), lễ

kỵ (giỗ Ngô Quyền – 16 tháng 2 âm lịch) và lễ ì phƣớc (chọn 1 trong 5 ngày

từ 10 đến 15 tháng 2 âm lịch).hội còn tổ chức đánh vật, cờ ngƣời, thi nấu

cơm, bắt vịt, hát đ m,…Đâylà ngôi đình làng có khối lƣợng trang trí đồ sộ,

đề tài phong phú, kỹ thuật tình xảo và điêu luyện.

Không những vậ , đình Hàng Kênh còn là một công trình kiến trúc

tiêu biểu ở thời Lê và là công trình điêu hắc cổ kính, nổi tiếng của thành

phố Hải Phòng, của đất nƣớc. Ngôi đình là sản phẩm của thế kỷ XVIII.

Trong các mảng chạm khắc ở đình Hàng Kênh đã tạo nên một không gian

văn hoá nghệ thuật độc đáo. Có thể coi đ là nguồn tƣ liệu để góp phần

vào việc nghiên cứu các ngôi đình ở nhiều địa phƣơng hác. Về nghệ thuật

điêu hắc, đình Hàng Kênh đƣợc coi là một bức tranh điêu hắc hoành

tráng, với những mảng trang trí dà đặc ở các đầu dƣ, đầu bẩy, cánh gà,

cốn, ván bƣng,... với nhiều hình tƣợng chạm khắc mang vẻ đẹp đôn hậu,

chân chất nhƣ hoa lá, m rồng, trong mô típ chạm khắc. Những hình

tƣợng chạm khắc ở đ là nhịp cầu chuyển hóa phong cách cung đình sang

phong cách dân gian bình dị. Bằng thủ pháp xuyên vật thể, với sự tổng hợp

nhiều góc nhìn, các nghệ nh n đã tạo ra một không gian lập thể trong nghệ

thuật tạo hình. Các phần không chịu lực đƣợc chạm khắc theo chủ đề, hình

63

thể họa tiết chồng chéo. Do đó, những bức chạm ở đình Hàng Kênh thể

hiện tính dân tộc sâu sắc, với đề tài phong phú.

Trải qua 300 năm, rêu phong ngà càng làm cho ngôi đình trở nên cổ

kính. Không chỉ có kiến tr c độc đáo, đình Hàng Kênh còn là ho tàng

chứa đựng những tác phẩm điêu hắc dân gian giàu giá trị nghệ thuật. Sự

khéo léo, tài tình của các nghệ nh n xƣa đƣợc thể hiện trên đƣờng nét vẽ,

chạm khắc xung quanh, các đề tài về long, l , qu , phƣợng, hoa lá cách

điệu rất tự nhiên. Các nét chạm khắc mềm mại, hài hòa bổ sung cho nhau,

tạo nên bức tranh sống động, hoàn chỉnh. Chúng ta thấy rằng nghệ thuật

chạm khắc đình làng, hông những cần sự phân tích khoa học, chính xác,

mà còn cần hơn thế là yếu tố bản năng và năng hiếu của ngƣời nghệ sỹ.

Chúng ta hiểu rằng nghệ thuật để tạo ra đƣợc cái thần, cái tình, hó hơn là

để đạt đƣợc cái thực, cái đ ng. Trong điêu hắc đình Hàng Kênh, phải thừa

nhận kỹ thuật chạm khắc khá hoàn hảo. Song ở đ ta hông hề thấy sự

phô diễn kỹ thuật. Cái tinh khéo ở đ hòa hợp trong cái thô mộc. Cái

du ên, cái đẹp lại chính ở trong cái tƣởng nhƣ vụng về bản năng. Do đó,

nếu chỉ thấy sự khoe khoang kỹ thuật, chắc hẳn cái thần của nhân vật cũng

nhƣ cái phần hồn của ngƣời nghệ sỹđã hông bộc lộ ra đƣợc. Mỗi ngƣời

họa sỹ có cách tiếp cận và cảm nhận vốn cổ một góc độ khác nhau, bởi đ

là kho tàng ngôn ngữ tạo hình.

Đình Hàng Kênh là ngôi đình có hối lƣợng trang trí đồ sộ, đề tài phong

phú, kỹ thuật chạm khắc tinh xảo, điêu luyện. Đ là một ngôi đình mang

đậm phong cách dân gian, thể hiện không chỉ trên kết cấu kiến trúc, màcả ở

những đề tàiđiêu khắc trang trí hết sức dân dã, gân gũi, gắn bó với cuộc sống

của ngƣời dân thôn quê. Đìnhđang đƣợc các cơ quan chức năng và ngƣời dân

địa phƣơng của thành phố Hải Phòng, trông coi, gìn giữ, phát huy những nét

đẹp văn hóa, thẩm mỹ mang tính truyền thống cho thế hệ hôm nay và mai sau.

64

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hoá d n

tộc, Hà Nội.

2. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người

Việt, Nxb Văn hoá d n tộc, T/c Văn hoá nghệ thuật, Hà nội.

3. Trần Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb Văn hoá

thông tin, Hà Nội.

4. Trần Lâm Biền (2005), Đình làng Việt - Một di sản văn hoá kiến trúc vài

suy nghĩ lại, Một con đƣờng tiếp cận dì sản văn hoá, Nxb Thế Giới, Hà

Nội.

5. Trƣơng Du Bích (1985), Điêu khắc đình làng, Tạp chí văn hoá d n gian.

6. Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung (1975), Việt Nam điêu khắc dân gian

Nxb Ngoại văn - Hà Nội

7. Nguyễn Đỗ Cung (1975), Việt Nam điêu hắc dân gian, Nxb Ngoại văn, Hà

Nội.

8. Nguyễn Văn Cƣơng (2006), Mỹ thuật đình làng vùng đồng bằng Bắc Bộ,

Nxb Văn hóa - Thông tin

9. Phạm Thị Chỉnh (2004), Lịch sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb Đại học Sƣ phạm

10. Nguyễn Đức Giang, Trịnh Minh Hiên, Đồng Hồng Hoàn (2013), Thành

hoàng làng Hải Phòng, Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội

11. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Hiên (2005),Điêu khắc, Nxb Đại học Sƣ phạm

13. Phan Văn Hùng (2007), Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và văn hóa đình

làng Việt nam, luận văn thạc sỹ trƣờng ĐHMT Việt Nam

14. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Đình làng Việt, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam,

số 1.

65

15. Nguyên Hồng Kiên (1996), Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt, Tạp chí Kiến trúc,

số 3.

16. Nguyễn Hồng Kiên (1999), Mặt bằng những kiến trúc tôn giáo cổ truyền

của người Việt, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 11.

17. Nguyễn Hồng Kiên, Bộ vì nóc của kết cấu nhà khung gỗ cổ truyền Việt

Nam, Tài liệu tại Viện Bảo tồn di tích.

18. Lê Thế Loan, Những di sản văn hóa tiêu biểu của Hải Phòng

19. Lê Thế Loan (2003), Những di sản văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng, tập 2

Nxb Hải Phòng.

20. Trƣờng ĐHMT Việt Nam Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb Thế giới

21. Sở VHTT Bảo tàng Hải Phòng (2005)Hải Phòng Di tích - Danh thắng

xếp hạng cấp Quốc gia.

22. Bảo tàng Hải Phòng (2015) Đình Hàng Kênh, Nxb Hải Phòng

23. Lƣơng Văn Phƣờng (2016), Nghệ thuật chạm khắc đình làng Hưng Lộc,

Nam Định, luận văn thạc sỹ trƣờng ĐHMT Việt Nam

24. Nguyễn Hồng Quân (2016), Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc đình Thượng

Phú, Thanh Hóa, luận văn thạc sỹ trƣờng ĐHMT Việt Nam

25. Nguyễn Quân - Phan Cẩm Thƣợng (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb

Mỹ thuật Hà Nội.

26. Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Kự (1998), Đình Việt Nam,Nxb TP Hổ Chí

Minh.

27. Lê Thi Nhâm Tuyết (1984), Nghiên cứu về hộì làng cổ truyền của người

Việt, Tạp chí văn hóa d n gian số 1.

28. Phan Cẩm Thƣợng (1997) Điêu khắc cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật

29. Phan Cẩm Thƣợng (2012), Văn minh vật chất của người Việt, Nxb Tri

thức

30. Trần Mạnh Thƣờng (1998), Đình chùa, lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam, Nxb

VHTT, Hà Nội.

66

31. Ngô Đức Thịnh (2001), "Đạo mẫu", Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡngở

Việt Nam,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Ngô Đức Thịnh (2001), Những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời sống

xã hội hiện nay, Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam,Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

33. Chu Quang Trứ (2002), Vănhoá Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Nxb Mỹ

thuật. Hà Nộì.

34. Chu Quang Trứ (2003), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, Nxb

Mỹ thuật, Hà Nội.

35. Nguyễn Thị Tuấn Tú (28) - 2009 - Di sản văn hóa vật thể Nghệ thuật

chạm khắc trên kiến trúc đình làng thế ký XVII ở châu thổ sông Hồng

bài báo số 3

36. Trịnh Quang Vũ (2002), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb Văn hóa-Thông

tin

37. Thái Bá Vân (1997), Tiếp xúc với nghệ thuật, Nxb. Viện mỹ thuật Việt

Nam

38. Thái Bá Vân (1998), Tiếp xúc với nghệ thuật, Nxb. Viện mỹ thuật Việt

Nam

39. Trần Quốc Vƣợng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, Nxb Văn hoá

nghệ thuật, Hà Nội.

67

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM

NGUYỄN XUÂN BÌNH NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC GỖ

ĐÌNH HÀNG KÊNH - HẢI PHÒNG

PHỤ LỤC ẢNH

Chuyên ngành: Mỹ thuật tạo hình (Hội họa)

Mã số: 60 21 01 02

Khóa: 18 (2015-2017)

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

PGS. TS. BÙI THỊ THANH MAI

Hà Nội, 2017

68

MỤC LỤC

PHỤ LỤC ẢNH

Phụ lục 1: Một số ảnh về mặt bằng, kết cấu kiến trúc đình Hàng Kênh......

1.1. Một số ảnh về mặt bằng các hạng mục đình Hàng Kênh...............68

1.2. Một số ảnh về kết cấu kiến tr c đình Hàng Kênh..........................69

Phụ lục 2: Một số ảnh về tượng thờ đình Hàng Kênh...................................

2.1. Một số ảnh về tƣợng thờ trong đình Hàng Kênh, Hải Phòng.........72

Phụ lục 3: Một số ảnh về đề tài, kỹ thuật, thủ pháp và cấu kiện kiến trúc

đình Hàng Kênh hải Phòng..............................................................................

3.1. Một số ảnh về đề tài, kỹ thuật chạm khắc đình Hàng Kênh...........74

3.2. Một số ảnh về thủ pháp và cấu kiện kiến tr c đình Hàng Kênh.....78

Phụ lục 4: Một số ảnh về đình Kiền Bái, Hải Phòng

4.1. Một số ảnh về đình Kiền Bái, Thủy Nguyên, Hải Phòng...............91

69

PHỤ LỤC 1

Một số ảnh về mặt bằng, kết cấu kiến trúc đình Hàng Kênh

1.1. Một số ảnh về mặt bằng các hạng mục đình Hàng Kênh

(Nguồn ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)

Hình 1.1.1. Đình Hàng Kênh, Hải Phòng

70

(Nguồn ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 1.1.2. Hồ bán nguyệt phía trƣớc đình Hàng Kênh, Hải Phòng

71

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

1.2. Một số ảnh về kết cấu kiến trúc đình Hàng Kênh

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 1.2.1. Hệ thống cột gỗ lim đình Hàng Kênh, Hải Phòng

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 1.2.2. Vì nóc tòa ống muống đình Hàng Kênh

72

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 1.2.3. Cửa võng đình Hàng Kênh, Hải Phòng thế kỷ XIX

73

(Nguồn ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)

Hình 1.2.4. Nghi môn đình Hàng Kênh, Hải Phòng thế kỷ XIX

74

PHỤ LỤC 2

Một số ảnh về tượng thờ đình Hàng Kênh

2.1. Một số ảnh về tượng thờ trong đình Hàng Kênh

(Nguồn ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)

Hình 2.1.1. Tƣợng Ngô Vƣơng Qu ền

75

(Nguồn ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)

Hình 2.1.2. Tƣợng Phỗng đình Hàng Kênh, Hải Phòng

(Nguồn ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)

Hình 2.1.3. Tƣợng Nghê đình Hàng Kênh, Hải Phòng

76

(Nguồn ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)

Hình 2.1.4. Tƣợng voi, ngựa đình Hàng Kênh, Hải Phòng

77

PHỤ LỤC 3

Một số ảnh về đề tài, kỹ thuật, thủ pháp và cấu kiện kiến trúc đình Hàng Kênh, Hải Phòng

3.1. Một số ảnh về đề tài, kỹ thuật chạm khắc đình Hàng Kênh

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.1.1 Chạm khắc hình tƣợng Rồng đình Hàng Kênh

Hình 3.1.2. Chạm khắc hình tƣợng Long mã đình Hàng Kênh (Nguồn ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)

78

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.1.3 Chạm khắc hình tƣợng chim Phụng đình Hàng Kênh

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.1.4. Chạm khắc hình tƣợng Hổ phù đình Hàng Kênh

79

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.1.5. Chạm khắc hình tƣợng chim Hạc đình Hàng Kênh

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.1.6. Chạm khắc hình tƣợng thiên nhiên, vũ trụ đình Hàng Kênh

80

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.1.7. Chạm khắc hoa lá, cây cỏ trên cấu kiện xà ngƣỡng đình Hàng Kênh, Hải Phòng

81

3.2. Một số ảnh về thủ pháp và cấu kiện kiến trúc đình Hàng Kênh

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.1. Chạm khắc trên đầu bẩy đình Hàng Kênh

Hình 3.2.2. Chạm khắc đầu dƣ đình Hàng Kênh (Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

82

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.3. Cấu kiện vì nóc đình Hàng Kênh

83

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.4. Cấu kiện vì nách đình Hàng Kênh

84

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.5 Cấu kiện tai cột đình Hàng Kênh

85

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.6. Cấu kiện chạm khắc trên hành lang gian chính điện đình Hàng Kênh

86

Hình 3.2.7. Chạm khắc trên hành lang gian chính điện đình Hàng Kênh (Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

87

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.8. Cấu kiện trụ lan can gian chính điện đình Hàng Kênh

88

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.9. Chạm khắc trên tai cột đình Hàng Kênh

89

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.9. Chạm khắc trên tai cột đình Hàng Kênh

90

Hình 3.2.10. Chạm khắc trên vì nách đình Hàng Kênh (Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

91

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.10. Chạm khắc trên vì nách đình Hàng Kênh

92

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.10. Chạm khắc trên vì nách đình Hàng Kênh

93

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 3.2.11. Chạm khắc trên đầu dƣ đình Hàng Kênh

94

PHỤ LỤC 4

Một số ảnh về đình Kiền Bái, Hải Phòng

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

Hình 4.1.1. Chạm khắc trên cấu kiện gỗ đình Kiền Bái, Hải Phòng

4.1. Một số ảnh về đình Kiền Bái, Thủy Nguyên, Hải Phòng

4.1.2. Chạm khắc trên vì nách đình Kiền Bái (Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

95

4.1.3. Chạm khắc trên đầu dƣ và tai cột đình Kiền Bái

(Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

96

4.1.4. Kết cấu vì nách và tai cột đình Kiền Bái (Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

4.1.5. Chạm khắc trên vì nách đình Kiền Bái (Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)

97

4.1.6. Chạm khắc trên cấu kiện xà ngƣỡng đình Kiền Bái, Hải phòng (Ảnh: Nguyễn Xuân Bình, 2017)