Luận văn

Nghiên cứu cuộc phát hành trái phiếu ra quốc tế của Vinashin

_*

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG I: TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ VỚI RỦI RO QUỐC GIA ...................... 3

1.1 Trái phiếu quốc tế ................................................................................................ 3

1.1.2 Khái niệm .................................................................................................. .... 3

1.1.2 Phân loại ........................................................................................................ 3

1.2.3 Ưu, nhược điểm của trái phiếu quốc tế ........................................................... 4

1.2 Thị trường trái phiếu quốc tế - một hướng đi mới .......................................... 6

1.2.1 Lịch sử thị trường trái phiếu quốc tế .............................................................. 6

1.2.2 Những công cụ chủ yếu trên thị trường trái phiếu quốc tế .............................. 7

1.2.3 Lựa chọn đồng tiền phát hành ........................................................................ 9

1.2.4 Cách thức phát hành trái phiếu quốc tế ra thị trường .....................................10

1.3 Rủi ro quốc gia .............................................................................................11

1.3.1 Khái niệm .....................................................................................................11

1.3.2 Các thành phần của rủi ro quốc gia ..............................................................11

1.3.2.1 Theo Standard and Poor’s(S&P).......................................................11

1.3.2.2 Theo International Country Rish Guide(ICRG) ................................12

1.3.3 Các mô hình đánh giá rủi ro quốc gia ...........................................................13

1.3.3.1 Theo Standard and Poor’s(S&P) .......................................................13

1.3.3.2 Theo International Country Rish Guide(ICRG) ...............................14

1.3.4 Mối liên hệ giữa rủi ro quốc gia và phát hành trái phiếu quốc tế ..................15

1.4 Kinh nghiệm của Trung Quốc .....................................................................16

CHƯƠNG II: VIỆT NAM PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ -

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM

2.1 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam và rủi ro quốc gia thời gian qua .................19

2.1.1 Xuất nhập khẩu .............................................................................................19

2.1.2 Thu hút vốn đầu tư ........................................................................................21

2.1.3 Những hạn chế trong nền kinh tế ....................................................................21

2.1.3.1 Chính sách tài khóa .........................................................................21

2.1.3.2 Chính sách tiền tệ ............................................................................23

2.1.4 Đánh giá của Standard & Poor’s .....................................................................24

2.2 Nhu cầu vốn đầu tư & thực lực của nguồn tài chính chủ yếu của

Việt Nam hiện nay ..........................................................................................25

2.2.1 Các nguồn tài chính tại Việt Nam hiện nay .....................................................25

2.2.1.1 Nguồn lực tài chính trong nước ........................................................25

2.2.1.2 Nguồn lực tài chính bên ngoài ..........................................................26

2.2.2 Nhu cầu phát hành trái phiếu quốc tế ..............................................................29

2.2.2.1 Hạn chế của nguồn vốn trong nước ..................................................29

2.2.2.2 Hạn chế của nguồn vốn nước ngoài ..................................................30

2.3 Thực trạng hoạt động vốn thông qua phát hành trái phiếu quốc tế của

Việt Nam trong thời gian qua ........................................................................32

2.3.1 Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên 2005 ..............................32

2.3.2 Thấy gì qua đợt phát hành trái phiếu quốc tế năm 2005? ................................34

2.3.3 Việt Nam quản lý và sử dụng nguồn vốn trái phiếu quốc tế như thế nào?.......34

2.3.4 Tại sao Tồng công ty Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam Vinashin lại

được ưu tiên vay vốn trái phiếu quốc tế? ........................................................34

2.3.5 Giới thiệu khái quát vế Tồng công ty Công Nghiệp Tàu Thủy

ViệtNam(Vinashin)......................................................................................... 35

2.3.6 Vinashin đã sử dụng vốn vay như thế nào? ................................................... 36

2.4 Lịch sử nợ quốc gia và khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam.........40

2.4.5 Nợ nước ngoài ...............................................................................................40

2.4.6 Nợ trong nước ...............................................................................................43

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO VẦN ĐỀ

3.1 Xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm riêng của Việt Nam

theo tiêu chuẩn quốc tế .........................................................................................44

3.2 Lựa chọn những tổ chức tư vấn, hỗ trợ phát hành trái phiếu chuyên nghiệp ........45

3.3 Lựa chọn thị trường phát hành phù hợp ..............................................................45

3.4 Lựa chọn đồng tiền hiệu quả ...............................................................................47

3.5 Lựa chọn kỳ hạn khối lượng trái phiếu phát hành ...............................................47

3.6 Sử dụng vốn vay hiệu quả ...................................................................................48

3.7 Tạo sức mạnh cho thương hiệu Việt Nam ...........................................................49

KẾT LUẬN .............................................................................................................50

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC CÁC BẢNG CHỈ SỐ, BIỂU ĐỒ

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Thị trường cổ phiếu quốc tế thời gian qua đang chao đảo trước sự sụt giảm liên tục

của hàng loạt các chỉ số lớn và việc giảm điểm liên tục trong các phiên giao dịch tại

các trung tâm giao dịch lớn như New York, Tokyo, Hồng Kông

Các thông tin (Phụ lục chỉ số Dự báo chỉ số NASDAQ , Dự đoán chỉ số Nikkei

225 của Nhật Bản) giúp chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng các chuyên gia tài

chính tỏ ra không mấy lạc quan về một tương lai tốt đẹp của các thị trường chứng

khoán lớn trên thế giới. Rõ ràng sự trì trệ kinh tế của các quốc gia lớn, đặc biệt là

Mỹ đã kéo theo sự suy giảm trong các chỉ số. Mặc dù Cục Dự Trữ liên bang Mỹ

(FED) đã mạnh tay cắt giảm lãi suất từ tháng 5 năm 2008 xuống còn 2% nhằm

mục đích vực dậy nền kinh tế Mỹ nhưng xem ra công cụ này chưa tỏ rõ sức mạnh

mà Mỹ mong muốn. Đồng đôla Mỹ không còn giữ vị trí thống trị như những năm

vừa qua khiến việc nắm giữ các cổ phiếu của các công ty Mỹ cũng giảm sức hút đi

một phần.

Bên cạnh đó, cơn bão khủng hoảng tài chính do các biến động trong thị trường tài

chính thứ cấp bắt đầu từ Mỹ đã lan ra một số nền kinh tế khác kéo theo chỉ số niềm

tin vào thị trường chứng khoán thế giới nói chung sụt giảm nghiêm trọng. Thị

trường chứng khoán xuống dốc là một khó khăn cực kỳ to lớn đối với những công

ty, những tổ chức tài chính muốn thông qua thị trường này để huy động vốn cho các

dự án đầu tư của mình. Phát hành cổ phiếu lúc này trở nên một quyết định nhiều rủi

ro khiến các công ty đau đầu.

Riêng tại Việt Nam, tỷ lệ lạm phát gia tăng quá mức cùng với sự khủng hoảng về

tiền mặt tại các ngân hàng làm cho việc vay vốn đầu tư kinh doanh của khu vực các

doanh nghiệp cũng gặp rất nhiều khó khăn.

Chính lúc này thì thị trường trái phiếu tỏ ra là một lựa chọn thích hợp, đặc biệt là

thị trường trái phiếu quốc tế do những ưu điểm của thị trường này đem lại cho nhà

đầu tư và những tồ chức muốn huy động vốn.

Tuy Chính phủ Việt Nam đã phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên năm 2005

nhưng nhìn chung thì loại hình huy động vốn này vẫn còn khá mới mẻ đối với nhiều

người. Thông qua đề tài này, tác giả mong muốn giúp mọi người có được những

khái niệm cơ bản và có cái nhìn cận cảnh hơn về việc phát hành trái phiếu quốc tế

trong bối cảnh Việt Nam. Đây thực sự là một kênh huy động vốn hiệu quả mà

Chính phủ và các doanh nghiệp nên tìm hiểu và tận dụng để phục vụ cho nhu cầu

phát triển.

2. Đối tượng nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu các loại hình trái phiếu trên thị trường tài chính thế giới( các

khái niệm, cách thức phát hành…), ưu điểm , nhược điểm của phát hành trái phiếu

quốc tế, thực tế phát hành trái phiếu quốc tế ở Việt Nam: Nghiên cứu cuộc phát

hành trái phiếu ra quốc tế của Vinashin, các giải pháp đẩy mạnh việc phát hành

trái phiếu quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai…

3. Phạm vi nghiên cứu:

Vì những hạn chế nhất định về mặt thời gian, những khó khăn trong quá trình tìm

kiếm tài liệu nên đề tài không đi vào phân tích tình hình trái phiếu quốc tế trên thế

giới mà chủ yếu xoáy vào việc nghiên cứu những khái niệm cơ bản cần phải nắm

vững về trái phiếu quốc tế, các vấn đề của Việt Nam khi thực hiện, đặc biệt xem

xét kỹ cuộc phát hành trái phiếu quốc tế của Vinashin, từ đó tìm hiểu các ưu điểm,

các hạn chế nhằm làm rõ mục tiêu của đề tài.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Tìm hiểu thông qua các giáo trình chuẩn của các bộ môn kinh tế liên quan đến trái

phiếu, thông tin từ các tạp chí kinh tế, từ các trang web chính thức có uy tín về tài

chính, trang web chính thức của công ty nghiên cứu, các báo cáo, phân tích của các

tổ chức như World Bank, IMF…Phân tích các biểu đồ, biểu mẩu, các công thức

tính toán tài chính có liên quan…

5. Kết cấu đề tài:

Đề tài gồm ba phần:

Chương 1: Trái phiếu quốc tế với rủi ro quốc gia.

Chương 2:Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế- Những vấn đề cần quan tâm.

Chương 3: Giải pháp cho vấn đề.

CHƯƠNG I: TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ

VỚI RỦI RO QUỐC GIA

1.1 TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ

1.1.1 Khái niệm

Để dễ hiểu trái phiếu quốc tế là gì thì trước hết chúng ta cần tìm hiểu xem trái phiếu là

gì: “Trái phiếu (bond) là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của một tổ chức phát

hành đối với người sở hữu (trái chủ) trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm theo tiền lãi

trong một thời hạn nhất định.”

Trái phiếu quốc tế (international bond) cũng là trái phiếu nhưng có đặc điểm là được

bán ra bởi chính phủ, các tổ chức kinh tế của một nước hay các tổ chức tài chính quốc

tế trên thị trường vốn quốc tế (không phải trên thị trường nội địa của tổ chức phát

hành).

1.1.2 Phân loại trái phiếu quốc tế

Thị trường trái phiếu quốc tế bao gồm hai bộ phận: trái phiếu nước ngoài (foreign

bonds) và trái phiếu châu Âu (Eurobonds).

Trái phiếu nước ngoài: là trái phiếu do một tổ chức nước ngoài phát hành trên thị

trường vốn của một quốc gia và mệnh giá trái phiếu được ghi bằng đơn vị tiền tệ của

quốc gia mà trái phiếu được phát hành. Ví dụ: Công ty Việt Nam phát hành trái phiếu

tại Mỹ thì trái phiếu sẽ có mệnh giá bằng USD hay ngược lại một công ty Mỹ phát

hành trái phiếu tại Việt Nam thì trái phiếu đó phải có mệnh giá ghi bằng VND. Trái

phiếu nước ngoài thường được điều chỉnh cho phù hợp với thị trường vốn nội địa mà

chúng được phát hành, được đặt tên gọi thông dụng theo thị trường mà chúng được

cung cấp.

Bởi vì những nhà đầu tư mua trái phiếu nước ngoài thường là những cư dân của những

quốc gia tại đó trái phiếu được phát hành, họ thấy trái phiếu nước ngoài hấp dẫn vì họ

có thể đưa chúng vào danh mục đầu tư của mình mà không cần phải thêm vào chi phí

hoán đổi chúng thành đồng nội tệ.

Trái phiếu nước ngoài còn bao gồm trái phiếu bulldog, trái phiếu matilda và trái phiếu

samurai.

Trái phiếu châu Âu: là trái phiếu được bán ở những nước khác với nước có đồng tiền

định danh trái phiếu đó.

Thông thường trái phiếu châu Âu được phát hành bởi những nghiệp đoàn quốc tế và

được xếp loại phụ thuộc vào đồng tiền ghi trên mệnh giá. Một trái phiếu châu-Âu-đôla

có nghĩa là nó có mệnh giá ghi bằng đôla Mỹ và được phát hành tại Nhật bởi một công

ty Úc có thể là một ví dụ điển hình cho trái phiếu châu Âu. Công ty Úc trong ví dụ này

có thể phát hành trái phiếu châu-Âu-đôla tại bất kỳ quốc gia nào ngoại trừ nước Mỹ.

Trái phiếu châu Âu là một công cụ tài chính hấp dẫn đối với các nhà phát hành bởi vì

chúng đem lại cho các nhà phát hành sự linh hoạt trong việc lựa chọn quốc gia phát

hành trái phiếu tùy thuộc vào sự ép buộc điều tiết của quốc gia đó. Họ thường định

danh trái phiếu châu Âu của mình theo đồng tiền mà họ yêu thích. Trái phiếu châu Âu

hấp dẫn các nhà đầu tư vì chúng có giá trị danh nghĩa nhỏ và có thanh khoản cao.

1.2.3 Ưu và nhược điểm của trái phiếu quốc tế

Ưu điểm: Lợi thế lớn nhất mà ta có thể nhận thấy được từ trái phiếu quốc tế là tổ chức

phát hành trái phiếu có toàn quyền trong việc sử dụng vốn vay và không chịu sự ràng

buộc nào từ phía các nhà đầu tư. Đây là một ưu điểm vượt trội hơn so với việc phát

hành cổ phiếu. Nếu như các cổ đông có quyền tham gia vào các quyết định định đầu tư

cũng như cách thức sử dụng vốn, và đôi khi vì mâu thuẫn trong lợi ích nhận được từ

các quyết định đầu tư mà các cổ đông sẽ ngăn cản, thậm chí bác bỏ các dự án đầu tư

mặc dù chúng sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty; thì ngược lại, các trái chủ hoàn toàn

đứng ngoài các quyết định này.

Bên cạnh đó, khối lượng vốn huy động và thời hạn của trái phiếu đều do tổ chức phát

hành quyết định. Điều này tỏ ra có hiệu quả tốt, nhất là trong các trường hợp phát hành

trái phiếu trung và dài hạn.

So với việc đi vay ngân hàng thì phát hành trái phiếu có chi phí thấp hơn nếu xét về lâu

dài, khi đã có được sự tin tưởng của thị trường thì càng về sau lãi suất huy động có thể

giảm. Một ưu điểm nữa so với việc vay vốn ngân hàng là phát hành trái phiếu không

đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm hay thế chấp. Điều đó giúp các công ty chủ động hơn

trong việc sử dụng tài sản của mình trong kinh doanh.

Phát hành trái phiếu quốc tế không chỉ là một phương thức huy động vốn đơn thuần mà

nó còn là một cách khẳng định uy tín của tổ chức phát hành trên thị trường vốn quốc tế.

Quan trọng hơn nữa, nếu như các khoản nợ và lãi vay được thanh toán đúng hạn, cũng

như vốn vay được sử dụng hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao cho công ty thì sẽ làm gia

tăng uy tín và kéo theo việc nâng bậc hệ số tín nhiệm, một chỉ số rất quan trọng mà các

nhà đầu tư thường tham khảo khi muốn đầu tư vào một công ty. Một khi công ty được

đánh giá cao thì lãi suất vay cho những lần phát hành sau sẽ giảm hơn lần trước.

Về phía các nhà đầu tư, khi mua các trái phiếu quốc tế họ cũng thường tham khảo thêm

chỉ số tín nhiệm của tổ chức phát hành do các tổ chức có uy tín lâu năm xếp hạng. Để

có thể đưa ra các chỉ số này thì các tổ chức xếp hạng đã phải căn cứ vào rất nhiều yếu

tố quan trọng như tình hình tài chính, doanh số, các dự án… của công ty. Điều đó có

nghĩa là các tổ chức xếp hạng đã đảm bảo một phần cho sự an toàn khi đầu tư vào trái

phiếu của các tổ chức đó.

Riêng tại Mỹ, chính phủ Mỹ đánh thuế thu nhập lãi suất đối với nhà đầu tư nước ngoài

khi mua trái phiếu nội địa của Mỹ. Do vậy, các nhà đầu tư nước ngoài thích nắm giữ

trái phiếu châu Âu hơn vì nó không thuộc đối tượng bị đánh thuế.

Nhược điểm: Phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế hoàn toàn không phải là

chuyện đơn giản chút nào. Các tổ chức phát hành phải tuân thủ chặt chẽ các thông lệ

quốc tế về trình tự, thủ tục phát hành và cách thức thanh toán trái phiếu. Những thủ tục

này tương đối phức tạp, đòi hỏi phải được chuẩn bị chu đáo về cơ sở pháp lý, kinh tế,

các kỹ thuật nghiệp vụ phức tạp như lựa chọn thị trường, loại tiền tệ, hình thức phát

hành, lựa chọn người bảo lãnh, đại lý thanh toán, tư vấn pháp lý. Tất cả các nghiệp vụ

này đều yêu cầu phải được tiến hành thận trọng bởi những chuyên gia có kinh nghiệm.

Chi phí cho đợt phát hành trái phiếu đầu tiên là khá cao do phải thanh toán các chi phí

phí đại lý, phí dịch vụ pháp lý, phí cho lễ ký kết, phí giao dịch, in ấn tài liệu, chi phí

quảng cáo…

Việc thanh toán nợ gốc và lãi vay bắt buộc phải đúng hẹn vì nó ảnh hưởng trực tiếp

đến uy tín của công ty. Nếu đợt phát hành trước trái phiếu bị thanh toán chậm hoặc

thiếu hụt thì sẽ gây ra tâm lý nghi ngại cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư thêm

lần nữa vào trái phiếu của công ty đó. Do vậy, nếu muốn huy động được số vốn mong

muốn buộc công ty phải trả một lãi suất cao hơn hoặc phải đưa ra nhiều điều kiện ưu

đãi hơn.

Đối với những trái phiếu càng dài hạn thì rủi ro tiềm ẩn càng cao. Khi đầu tư vào các

trái phiếu này các nhà đầu tư đứng trước nguy cơ đối mặt với các rủi ro về khủng

hoảng kinh tế, thay đổi lãi suất, tỷ giá hay khả năng thanh toán của tổ chức phát hành.

Điều đó buộc các tổ chức phát hành phải có những cam kết vay chặt chẽ với những

điều khoản khắt khe hơn để tạo lòng tin nơi các nhà đầu tư.

1.2 THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ - MỘT HƯỚNG ĐI MỚI

1.2.1 Lịch sử thị trường trái phiếu quốc tế

Từ những năm 1820, các nhà phát hành trái phiếu người nước ngoài, thường là các

chính phủ hay các công ty đường sắt, đã bắt đầu xuất hiện tại thị trường tài chính châu

Âu. Từ nửa sau thế kỷ 19 đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất thì Paris và London

đã trở thành hai trung tâm tài chính với các thị trường trái phiếu lớn bắt đầu xuất hiện.

Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, New York trở thành một thị trường trái phiếu

quốc tế hùng mạnh và vị trị này cũng phù hợp với nền tài chính của nước Mỹ lúc bấy

giờ. Theo một ước tính, có khoảng 14 tỷ trái phiếu nước ngoài bằng đôla đã được phát

hành vào thị trường từ năm 1946 đến 1963.

Trong suốt những năm 1980, thị trường trái phiếu nước ngoài bằng yên Nhật và frăng

Thụy Sỹ cũng mở rộng nhanh chóng.

Riêng thị trường trái phiếu châu Âu, vào những năm 1900 đã ghi nhận có đến ¾ thị

trường là trái phiếu quốc tế. Mặc dù đến nay vẫn còn một số quan điểm bất đồng nhưng

hầu hết mọi người đều công nhận là nguồn gốc của thị trường trái phiếu châu Âu là từ

những năm 1960.

1.2.2 Những công cụ chủ yếu của thị trường trái phiếu quốc tế

Phát hành trái phiếu có lãi suất cố định đường thẳng (Straight fixed-rate bond): là

trái phiếu có ngày đáo hạn cố định mà vốn gốc của trái phiếu được cam kết sẽ được chi

trả. Trong suốt vòng đời của trái phiếu, việc thanh toán lãi suất cố định sẽ là số phần

trăm của mệnh giá được ghi trên trái phiếu và được thanh toán cho trái chủ. Đây chính

là loại trái phiếu chủ yếu. Trái phiếu châu Âu có lãi suất cố định chủ yếu là trái phiếu

vô danh và trả lãi hàng năm.

Phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating-rate notes – FRNs): là loại trái

phiếu trung hạn chủ yếu với lãi suất phụ thuộc vào một vài lãi suất tham chiếu nhất

định. Lãi suất thông thường được sử dụng là lãi suất LIBOR 3 hoặc 6 tháng của đôla

Mỹ. Việc thanh toán lãi suất của FRNs thường là hàng quý hoặc nửa năm một lần, và

căn cứ theo lãi suất tham chiếu.

Phát hành trái phiếu khả hoán ( Convertible bond): cho phép nhà đầu tư hoán đổi trái

phiếu lấy một con số xác định trước vốn cổ phần của người phát hành. Giá sàn của trái

phiếu khả hoán chính là giá trị của trái phiếu có lãi suất cố định. Trái phiếu khả hoán

thường được bán tại mức chênh lệch giá giữa phần lớn hơn của nợ có lãi suất cố định

và giá trị chuyển đổi của chúng. Thêm vào đó, các nhà đầu tư thường sẵn sàng chấp

nhận một lãi suất thấp hơn lãi suất cố định bởi vì họ nhận thấy có những đặc tính hấp

dẫn. Trái phiếu có bảo đảm về vốn có thể được xem như trái phiếu có lãi suất cố định

kẻm theo một quyền chọn mua (hoặc một sự bảo đảm). Sự bảo đảm cho phép các trái

chủ đổi trái phiếu khả hoán lấy một số lượng cụ thể vốn cổ phần tại giá chưa xác định

trước thời hạn hoán đổi.

Trái phiếu lãi suất bằng không ( Zero coupond bonds) được bán ở một mức giá thấp

hơn mệnh giá và không được thanh toán bất kỳ một lãi suất nào trong suốt dòng đời

của nó. Đến ngày đáo hạn nhà đầu tư sẽ nhận được toàn bộ mệnh giá của trái phiếu.

Một dạng khác của trái phiếu lãi suất bằng không là trái phiếu tách rời. Trái phiếu tách

rời là một trái phiếu có lãi suất bằng không, là kết quả của việc tách rời lãi suất và vốn

gốc của một trái phiếu lãi suất thông thường. Kết quả là hàng lọat trái phiếu lãi suất

bằng không được đại diện bởi việc thanh toán riêng lẽ tiền lãi và vốn gốc.

Trái phiếu gồm hai loại tiền tệ là trái phiếu lãi suất cố định thẳng hàng được phát

hành bằng một đồng tiền và trả lãi cũng bằng loại tiền tệ ấy. Đến ngày đáo hạn, vốn

gốc sẽ được hoàn trả bằng loại tiền thứ hai. Lãi suất của loại trái phiếu này thường cao

hơn lãi suất của trái phiếu lãi suất cố định. Việc thanh toán số lượng đôla vốn gốc vào

ngày đáo hạn được tiến hành như quy định ban đầu, thông thường, số lượng đó cho

phép một số khả năng nâng giá trị chúng thông qua các tỷ giá của một đồng tiền mạnh

hơn. Theo viễn cảnh mà các nhà đầu tư mong muốn, một trái phiếu gồm hai loại tiền tệ

bao gồm một hợp đồng kỳ hạn dài hạn.

Trái phiếu kếp hợp các loại tiền tệ: là loại trái phiếu định danh bằng một rổ tiền tệ,

như là SDRs hay ECUs, thay vì chỉ duy nhất một loại tiền tệ. Chúng thường xuyên

được gọi là trái phiếu hỗn hợp tiền tệ. Chúng chính là những loại trái phiếu lãi suất cố

định điển hình. Sự kết hợp nhiều loại tiền tệ chính là một danh mục các loại tiền tệ: khi

mà một số đồng tiền bị mất giá trong khi một số khác lại tăng giá, do đó lợi ích thu

được thấp hơn giá trị biến đổi xét về tổng thể.

Tình huống giả định: Nếu bạn là một ngân hàng đầu tư và bạn đang tư vấn cho một

ngân hàng châu Âu về một dự định phát hành trái phiếu quốc tế mới mà họ đang cân

nhắc. Phần tiền thu được sẽ được dùng tài trợ cho các khoản nợ cho các khoản nợ

bằng đôla châu Âu của các ngân hàng khách hàng. Vậy bạn sẽ đề nghị ngân hàng đó

sử dụng công cụ trái phiếu nào cho việc phát hành?

Giải pháp: Vì ngân hàng châu Âu mong muốn sử dụng phần tiền thu được từ trái phiếu

để điểu tiết các khoản nợ bằng đôla châu Âu, là những khoản nợ với lãi suất thả nổi,

ngân hàng đầu tư nên đề nghị ngân hàng đó phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi

(FRNs), là loại trái phiếu có lãi suất thay đổi. Bởi vì sẽ có mối quan hệ tương tác giữa

lãi suất ngân hàng trả cho các ngân quỹ và lãi suất mà nó nhận được từ các khoản cho

vay của mình. Ví dụ, nếu một ngân hàng thường xuyên cho vay các khoản căn cứ theo

lãi suất LIBOR 3 tháng, nó có thể muốn phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi, và

thường là dựa vào LIBOR 3 tháng.

1.2.3 Lựa chọn đồng tiền phát hành

Một điều dễ nhận thấy rằng các đợt phát hành trái phiếu bằng đồng tiền mạnh luôn

chiếm một con số áp đảo hơn so với những đợt phát hành bằng những đồng tiền yếu.

Việc pha trộn các loại tiền tệ thường hiểu là do ảnh hưởng của các mức lãi suất khác

nhau, với những đợt phát hành bằng đồng tiền đem lại lợi ích cao hơn luôn nhiều hơn

và còn do ảnh hưởng của số lượng trái phiếu phát hành.

Hai nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn đồng tiền cho đợt phát hành trái phiếu là

phương thức quản lý rủi ro có liên quan và chi phí đi vay.

Liên quan đến việc quản lý rủi ro, người đi vay muốn đồng tiền mà họ dùng để thanh

toán lãi vay và nợ gốc phải tuơng đương với đồng tiền của dòng tiền vào ròng mà họ

mong muốn nhận được trong suốt dòng đời của trái phiếu, trong khi nhà đầu tư muốn

có được một khoản lợi nhuận trên số tài sản ở hiện tại phải tương đương với chi phí bỏ

ra trong tương lai.

Riêng trái phiếu gồm hai loại tiền tệ là loại trái phiếu có lãi suất cố định được phát

hành bằng một đồng tiền và trả lãi cũng bằng đồng tiền đó. Đến ngày đáo hạn, vốn gốc

sẽ được hoàn trả bằng lọai tiền thứ hai. Lãi suất của loại trái phiếu này thường cao hơn

lãi suất của trái phiếu lãi suất cố định. Việc thanh toán số lượng đôla vốn gốc vào ngày

đáo hạn được tiến hành như quy định ban đầu, thông thường, số lượng đó cho phép

một số khả năng nâng giá trị chúng thông qua các tỷ giá của một đồng tiền mạnh hơn.

Theo viễn cảnh mà các nhà đầu tư mong muốn, một trái phiếu gồm hai loại tiền tệ bao

gồm một hợp đồng kỳ hạn dài hạn. Nếu đồng tiền thứ hai tăng giá trong suốt dòng đời

của trái phiếu, thì sự thanh toán vốn gốc sẽ là tiêu tốn nhiều hơn việc thanh toán vốn

gốc bằng đồng tiền phát hành (đồng tiền thứ nhất). Tuy nhiên, nếu đồng tiền thanh toán

giảm giá, nhà đầu tư sẽ phải gánh chịu một khoản lỗ do thay đổi tỷ giá. Trái phiếu gồm

hai loại tiền tệ có sức hấp dẫn đối với các Công ty đa quốc gia (MNC) đang tìm kiếm

nguồn tài chính để hình thành hoặc mở rộng hoạt động tại quốc gia có đơn vị tiền tệ là

đồng tiền thanh toán trên trái phiếu (đồng tiền thứ hai). Trong suốt những năm đầu tiên,

việc thanh toán lãi suất sẽ được tiến hành bởi công ty mẹ ở quốc gia phát hành trái

phiếu (đồng tiền thứ nhất). Đến ngày đáo hạn, các MNC đã tính toán trước số vốn gốc

sẽ được hoàn trả từ nguồn lợi nhuận kiếm được từ các công ty con. MNC có thể phải

chịu đựng một khoản lỗ do tỷ giá gây ra nếu các công ty con không thể thanh toán nợ

gốc và đồng tiền thanh toán tăng giá so với đồng tiền phát hành. Do vậy, cả nhà phát

hành và nhà đầu tư phải chịu rủi ro về tổn thất do thay đổi tỷ giá hối đoái gây ra từ trái

phiếu bao gồm hai loại tiền tệ.

1.2.4 Cách thức phát hành trái phiếu quốc tế ra thị trường

Một tổ chức dự định tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu châu Âu vào thị trường

vốn sẽ liên hệ với các ngân hàng đầu tư và sẽ yêu cầu họ làm nhà quản lý chính của

một nghiệp đoàn bảo lãnh sẽ phát hành trái phiếu vào thị trường. Nhà quản lý chính

thường sẽ mời thêm các ngân hàng khác kết hợp tạo thành một nhóm quản lý để giúp

thương thảo với tổ chức muốn phát hành trái phiếu, xác định các điều kiện thị trường

quản lý việc phát hành. Hầu hết các nhà bao tiêu, cùng với các ngân hàng khác, sẽ là

một phần của một nhóm chuyên bán trái phiếu vào thị trường đầu tư công chúng. Rất

nhiều thành viên của nhóm bao tiêu sẽ nhận được một phần chia của phí bao tiêu

(thường là từ 2% đến 2.5% của lượng phát hành), dựa trên số lượng và loại trái phiếu.

Nhà quản lý chính sẽ nhận được đầy đủ phí bao tiêu, và ngân hàng hoạt động chỉ như

là thành viên của một nhóm bán trái phiếu thì nhận được phần nhỏ hơn.

1.3 RỦI RO QUỐC GIA

1.3.1 Khái niệm rủi ro quốc gia

Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội sẽ

ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc gia cũng bao gồm

là khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ nước ngoài của chính

phủ, việckiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay mất giá, phá giá tiền tệ.

1.3.2 Các thành phần của rủi ro quốc gia

1.3.2.1 Theo STANDARD & POOR’S (S & P)

Hiện nay trên thế giới có nhiều tổ chức có uy tín trong việc xếp hạng tín nhiệm nhằm

đánh giá rủi ro quốc gia khi quốc gia đó phát hành trái phiếu quốc tế. Trong đó phải kể

đến Standard & Poop’s (S&P), Flitch, Moody, International Country Risk Guide

(ICRG)…. Ờ đây chúng ta đề cập đến hai phương thức đánh giá rủi ro khá quen thuộc

là S&P và ICRG.

Khi xếp hạng tín nhiệm nhằm đánh giá rủi ro của một quốc gia, S&P tập trung phân

tích vào mức độ rủi ro về chính trị và kinh tế.

Đối với rủi ro về chính trị, S&P tập trung vào các thành phần chủ yếu như tính ổn định

hệ thống chính trị (hình thức của chính phủ, sự kế thừa trong lãnh đạo cũng như khả

năng thích nghi của tổ chức này); các vấn đề về lao động, mức sống và phân phối thu

nhập được xếp vào môi trường xã hội và cuối cùng là mối quan hệ với các quốc gia

khác.

S&P đã xếp rủi ro kinh tế và rủi ro về tài chính vào cùng một nhóm rủi ro chung gọi là

rủi ro về kinh tế. Trong rủi ro kinh tế, S&P đánh giá trạng thái nợ nước ngoài (bao gồm

quy mô, cơ cấu, nghĩa vụ trả nợ hàng năm và dự trữ quốc tế), cán cân thanh toán quốc

tế, tăng trưởng kinh tế, quản lý và triển vọng tăng trưởng kinh tế.

1.3.2.2 Theo INTERNATIONAL COUNTRY RISK GUIDE (ICRG)

Theo ICRG thì rủi ro quốc gia đuợc phân loại gồm 22 biến số và chia thành 3 loại:

 Rủi ro chính trị: đây là loại rủi ro được đánh giá dựa trên 100 điểm được chia

thành 12 loại xếp từ A đến L bao gồm cả chính trị và xã hội.

 Rủi ro kinh tế: là rủi ro được đánh giá dựa trên 50 điểm bao gồm GDP trên đầu

người, tỷ lệ tăng trưởng GDP thực, tỷ lệ lạm phát hàng năm, phần trăm cán cân

ngân sách trên GDP, phần trăm tài khoản vãng lai trên GDP.

 Rủi ro tài chính: là rủi ro được đánh giá dựa trên 50 điểm. Mục đích của việc

phân loại rủi ro này là để đánh giá khả năng thanh toán của một quốc gia. Thực

chất đây là hệ thống đo lường khả năng tài chính của một nước, về nghĩa vụ của

nước đó đối với thương mại, mua bán nợ, nợ nước ngoài.

Bảng 1: Các thành phần trong Rủi Ro Chính Trị

Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)

Sự ổn định của chính quyền 12 A

Điều kiện kinh tế xã hội 12 B

Tiểu sử đầu tư 12 C

Xung đột bên trong 12 D

Xung đột bên ngoài 12 E

Sự tham nhũng 6 F

Sự tinh nhuệ của quân đội 6 G

Tình trạng tôn giáo 6 H

Luật pháp 6 I

Sự căng thẳng dân tộc 6 J

Tính dân chủ 6 K

Nạn quan liêu 4 L

Tổng cộng 100

(Nguồn: ICRD Methodology)

Bảng 2: Các thành phần trong Rủi Ro Kinh Tế

Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)

1 GDP bình quân đầu người 5

2 Tỷ lệ tăng trưởng thực 10

3 Tỷ lệ lạm phát hàng năm 10

4 Cân bằng ngân sách 10

5 Cán cân vãng lai % của GDP 15

Tổng cộng 50

(Nguồn: ICRD Methodology)

Bảng 3: Các thành phần trong Rủi Ro Tài Chính

Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)

1 Nợ nước ngoài % của GDP 10

2 Dịch vụ nợ % trên xuất khẩu 10

3 Tài khoản vãng lai % trên xuất khẩu 15

4 Dự trữ chính thức tính theo tháng nhập khẩu 5

5 Sự ổ định của tỷ giá hối đoái 10

50 Tổng cộng

(Nguồn: ICRD Methodology)

1.3.3 Các mô hình đánh giá rủi ro quốc gia

1.3.3.1 Theo STANDARD & POOR’S

Bảng 4: Thứ hạng trái phiếu quốc tế

HẠNG NỘI DUNG

- Là thứ hạng được đánh giá cao nhất.

- Khả năng trả nợ gốc và lãi là mạnh nhất AAA

- Chỉ xếp sau AAA AA - Khả năng trả nợ gốc và lãi rất cao

- Là thứ hạng được đánh giá là có khả năng thanh toán gốc

và lãi vay mặc dù nó cũng có phần chịu ảnh hưởng bởi A

những thay đổi bất lợi trong những điều kiện kinh tế,

- Là thứ hạng được đánh giá là có khả năng thanh toán gốc

và lãi vay.

- Nhưng ở một khía cạnh nào đó, khi môi trường hoặc kinh BBB

tế thay đổi theo chiều hướng xấu thì khả năng trả nợ của

nó trở nên yếu đi so với các thứ hạng trên.

- Là các thứ hạng được đánh giá có tính chất đầu cơ.

- BB là thứ hạng đầu cơ thấp nhất

- CC là thứ hạng đầu cơ thấp nhất BB, B - Tuy những khoản nợ này có những nét đặc trưng phù hợp CCC, C vế chất lượng và khả năng được bảo vệ nhưng các thứ

hạng này có mức độ không chắc chắn và rủi ro cao khi

hoàn cảnh thay đổi trở nên bất lợi.

- Là thứ hạng bị đánh giá là không trả lãi đuợc C

- Là thứ hạng chỉ mức độ vỡ nợ. D

Dấu (+) hoặc (-): dấu cộng hoặc trừ dành cho các thứ hạng từ AA đến BB để chỉ vi

thế trong tứng thứ hạng.

(Nguồn: Security Analysis and Portfolio Management, trang 327)

1.3.2.2 Theo INTERNATIONAL COUNTRY RISK GIUDE (ICRG)

Phương pháp để tính toán cho việc phân loại và sắp xếp các rủi ro về chính trị, kinh tế

và tài chính đến nay vẫn không thay đổi. Rủi ro về chính trị quyết định 50% của việc

phân loại này trong khi rủi ro về kinh tế, tài chính mỗi loại chỉ quyết định 25%

Công thức được dùng để tính tổng thể cho việc kết hợp của ba rủi ro này:

CR (country X) = 0.5 (PR+FR+ER)

: CR (Composite Risk) Tổng hạng mức rủi ro tổng hợp

: PR (Political Risk) Tổng hạng mức rủi ro chính trị

: FR (Financial Risk) Tổng hạng mức rủi ro tài chính

: ER (Economic Risk) Tổng hạng mức rủi ro kinh tế

Với tổng số điểm đạt được nếu là 100 điểm thì rủi ro được đánh giá là đang ở mức thấp

nhất, ngược lại rủi ro bị đánh giá là cao nhất khi số điểm bằng 0.

Rủi ro cao nhất 00.0 đến 49.5 điểm

Rủi ro cao 50.0 đến 59.5 điểm

Rủi ro vừa phải 60. đến 69.5 điểm

Rủi ro thấp 70.0 đến 79.5 điểm

Rủi ro rất thấp 80.0 đến 100 điểm

(Nguồn: ICRD Methodology)

1.3.4 Mối liên hệ giữa phát hành trái phiếu quốc tế với rủi ro quốc gia

Khi nói đến vay nợ dù ở một mức độ thấp nhất là giữa hai cá thể thì người cho vay

luôn cân nhắc giữa hai lựa chọn là cho vay hay không cho vay thông qua uy tín, khả

năng trả nợ của người đi vay kể cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, lãi suất đi vay

và đặc biệt là sự đánh đổi giữa rủi ro và lãi suất. Một khi muốn phát hành trái phiếu

quốc tế thành công thì việc đầu tiên phải kể đến là hệ số tín nhiệm vì hệ số tín nhiệm

tạo nên sự hấp dẫn của trái phiếu. Nếu hệ số ấy càng cao thì càng tạo được sự tin tưởng

của nhà đầu tư, cũng như dựa trên sự đánh giá này mà các nhà đầu tư mới hình thành

nên giá thị trường, lãi suất thực của trái phiếu, hệ số tín nhiệm càng cao thì lãi suất

càng thấp và ngược lại. Ngoài ra, hệ số tín nhiệm còn được dùng để đánh giá về khả

năng thanh toán nợ (cả gốc và lãi) hiện thời của người phát hành. Các nhà đầu tư dựa

vào hệ số tín nhiệm mà biết được mức độ rủi ro của các khoản cho vay của mình. Tuy

nhiên, muốn hình thành nên các hệ số tín nhiệm cần phải dưa trên các yếu tố của môi

trường chính trị, kinh tế, tài chính của một quốc gia. Các yếu tố này kết hợp lại đã trở

nên các thành phần của rủi ro quốc gia. Các thành phần trong rủi ro quốc gia có sự liên

kết với nhau và không thể tách rời, vì khi đi vay nợ sẽ đẩy tổng nợ của nước đó tăng

lên và làm nảy sinh các vấn đề khác như cơ cấu và quy mô nợ sẽ thay đổi, việc kiểm

soát nợ, việc sử dụng các nguồn vốn từ các khoản vay này như thế nào để đạt được

mục tiêu đề ra trước khi đi vay, khả năng thanh toán nợ. Nếu nguốn vay nợ này được

sử dụng có hiệu quả thì dù vay nợ nhiều để phát triển thì đó vẫn là những khoản nợ tốt.

Chúng không làm gia tăng rủi ro quốc gia mà trái lại còn làm cho nền kinh tế nước đó

tăng thêm sức mạnh. Nhưng ở chiều ngược lại, những sai lầm trong việc vay nợ tràn

lan, việc phân bổ không đúng các khoản vay trong đầu tư phát triển, sẽ đưa đến sự lỗi

hẹn trong thanh toán và có thể là mất khả năng trả nợ khi đến hạn. Lúc đó tình trạng vỡ

nợ sẽ xảy ra làm gia tăng rủi ro tài chính. Nếu rủi ro này là nghiêm trọng sẽ có thể làm

ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc gia đó (rủi ro kinh tế). Khi nền kinh tế bị khủng

hoảng thường đưa đến sự bất ổn về chính trị và việc gia tăng tổng thể của rủi ro quốc

gia là không tránh khỏi. Hơn nữa, việc khủng hoảng nợ hay tình hình bất ổn của một

nước sẽ ảnh hưởng đến tình trạng phát triển kinh tế của các nước liên quan và ảnh

hưởng này sẽ lây lan sang nền kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới. Như

vậy, trái phiếu quốc tế, hệ số tín nhiệm và rủi ro quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với

nhau. Chúng ta cần phải cân nhắc trong việc sử dụng nợ khi phát hành trái phiếu ra thị

trường vốn quốc tế để không phải trả giá bằng việc làm gia tăng rủi ro quốc gia.

1.4 KINH NGHIỆM PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ CỦA TRUNG

QUỐC

Trong thời kỳ đầu thực hiện cải cách mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc đã thực hiện

chính sách vay nợ nước ngoài để nhập khẩu thiết bị tiên tiến, cải tạo cơ sở hạ tầng của

mình. Sau thập niên 80, Trung Quốc bắt đầu vay của các tổ chức quốc tế như Ngân

hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Ngân hàng Phát triển

Châu Phi, các khoản vay này được đầu tư vào các công trình quan trọng trong các

ngành công nghiệp năng lượng và nguyên liệu đầu vào hoặc đầu tư vào các đề án phát

triển nông nghiệp, khoa học, giao thông vận tải và giáo dục.

Tháng 10 năm 1987, Trung Quốc đã phát hành lần đầu tiên trái phiếu quốc tế với tổng

trị giá 0.3 tỷ mark Đức. Đây là một thành công lớn của họ khi giới tài chính quốc tế

đánh giá Trung Quốc là một thị trường có sức hấp dẫn cao.

Tuy nhiên, trong 10 năm đầu cải cách, Trung Quốc đã vấp phải những sai lầm trong

việc sử dụng các khoản vay nước ngoài như: Nhà nước Trung Quốc gặp khó khăn

trong việc kiểm soát quy mô nợ nước ngoài do có quá nhiều đầu mối vay nợ, vấn đề trả

nợ gặp khó khăn khi không có sự liên kết có hiệu quả giữa các cơ quan đi vay, rủi ro tỷ

giá trở nên nghiêm trọng được thể hiện qua việc điều chỉnh tỷ giá liên tục giữa đồng

nhân dân tệ và USD gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc vay và trả nợ vay của Trung

Quốc, việc sử dụng các khoản vay kém hiệu quả cộng với việc vay nợ tràn lan đã đẩy

các khoản lãi vay phải thanh toán hàng năm lên quá cao đưa đến tình trạng phải vay nợ

mới để trả nợ cũ. Đứng trước tình hình đó, vào đầu những năm 90, Trung Quốc đã có

những điều chỉnh trong chính sách vay nợ theo hướng vừa phát triển đất nước vừa

không quá phụ thuộc vào nước ngoài. Các điều chỉnh đó như sau:

- Nếu trước kia họ đặt trọng tâm vấn đề vay trực tiếp từ các tổ chức như Ngân

hàng thế giới hay các quốc gia khác thì nay Trung Quốc chuyển hướng vay nợ

sang hình thức phát hành trái phiếu quốc tế với thời hạn của các khoản vay

thường là trung và dài hạn.

- Trung Quốc chú trọng tới hình thức vay theo dự án, không vay để bù đắp nợ cũ,

các khoản vay chủ yếu tập trung vào những ngành cơ sở hạ tầng như năng

lượng, giao thông hoặc đầu tư vào các dự án then chốt của ngành công nghiệp,

nông nghiệp, xây dựng, các dự án phát triển khoa học kỹ thuật.

- Chú trọng đến quy mô các khoản vay, tỷ lệ hoàn trả nợ từ 15-20%/năm, các

khoản nợ vay được quy về cho đối tượng tự thanh toán, nhà nước không can

thiệp vào.

- Nếu nguồn vốn vay trong giai đoạn trước được đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng

ở các thành phố mới thành lập hoặc các đặc khu kinh tế thì nay được tập trung

đầu tư vào miền Tây hoặc miền Trung.

Nhờ những điều chỉnh kịp thời đó mà Trung Quốc đã tránh được rủi ro nợ khi xảy ra

cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, các chỉ tiêu về nợ nước ngoài của họ luôn

thấp hơn mức độ an toàn cho phép theo thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, đã có những lỗ hổng trong sự quản lý nợ nước ngoài của Trung Quốc vào

cuối thập niên 90 do sự vỡ nợ của các doanh nghiệp, các công ty tài chính khi họ vay

vượt ngoài tầm kiểm soát đã làm cho Trung Quốc ngày càng có sự thận trọng hơn

trong khi đi vay nợ nước ngoài. Nói chung, với chính sách vay nợ hợp lý cùng với

những điều chỉnh kịp thời khi xảy ra các biến cố trong vay nợ kết hợp với sự thận trọng

trong việc mở cửa tài khoản vốn đã giúp Trung Quốc thành công khi đạt được những

thành tự phát triển kinh tế trong hoàn cảnh thiếu hụt nguồn vốn trong nước, dự trữ có

hạn và đặc biệ là tránh được khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực vào những

năm cuối thập niên 90.

CHƯƠNG II:

VIỆT NAM PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ NHỮNG

VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM

2.1 THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM & RỦI RO QUỐC GIA THỜI

GIAN QUA

Trong khoảng 2 năm rưỡi tính từ đầu năm 2005 đến tháng 6 năm 2007, GPD của Việt

Nam đã tăng khoảng 22%. Đây quả là một tốc độ tăng trưởng rất tốt đối với một nền

kinh tế còn đang phát triển như Việt Nam. GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu

đồng tương ứng 720 USD, tăng 80 USD so với năm 2005. Trong đó, nhiều nhất là khu

vực công nghiệp – xây dựng chiếm 50,99% GDP, khu vực dịch vụ chiếm 40,86% và

khu vực nông lâm nghiệp chỉ chiếm 8,15% do phải đối phó với nhiều dịch bệnh như

lợn tai xanh, lở mồm long móng ở trâu bò, dịch cúm ở gia cầm, các loại bệnh ở cây

trồng. Bên cạnh đó, chỉ mới hơn 4 tháng đầu năm 2008 mà Việt Nam và các vùng biển

ngoài khơi đã liên tiếp hứng chịu nhiều cơn bão lớn làm tiêu hao rất nhiều tài sản và

con người.

2.2.1 Xuất nhập khẩu

Xuất nhập khẩu luôn là một nguồn phần quan trọng trong nền kinh tế và trong giai

đoạn 1996-2005 kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam luôn tăng đều đặn. Ta có thể

thấy rõ hơn điều đó qua bảng sau:

Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa 1995-2005

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

% tăng BQ 1 năm (96- 05)

5,45

7,25

9,19

9,36

16,71

20,15 26,49

32,45

11,54

14,48

15,03

20,1

133,0

126,8

101,8

123,3

125,5

103,8

111,2

120,6 131,5

122,5

8,16

11,14

11,60

11,52

19,75

25,26 31,97

36,76

11,62

15,64

16,22

19,9

Kim ngạch xuất khẩu HH (tỷ USD) % tăng so với năm trước Kim ngạch nhập khẩu HH (tỷ USD)

Bảng 6:Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 1995-2005

199 199 199 199 199 200 200 200 200 200 200

5 6 7 8 9 0 1 2 3 4 5

Hàng công nghiệp nặng

và khoáng sản (%) 25,3 28,7 28,0 27,9 31,0 37,2 34,9 31,8 32,2 36,4 33,8

Hàng công nghiệp nhẹ

và TTCN (%) 28,5 28,9 36,7 36,6 36,3 33.8 35,7 40,6 42,7 41,0 40,3

Riêng năm 2006 là một năm có nhiều tích cực đáng ghi nhận về tăng trưởng xuất khẩu

về mặt chất lương và khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu góp phầnt húc

đẩy kinh tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2006 ước đạt 9,6 tỷ USD tăng gần 7,16

triệu USD, tăng 22,1% so với năm 2005 trong đó nhóm sản phẩm dệt may vẫn tuếp tục

đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu, đạt trên 5,8 tỷ USD chiếm 14,6% tổng kim ngạch

xuất khẩu. Kim ngạch của mặt hàng giày dép đạt 3,56 tỷ USD trong hoàn cảnh mặt

hàng này bị áp thuế chống bán phá giá vào thị trường châu Âu.

Trong khi đó tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 44,4 tỷ USD, tăng 20,1% so với

năm trước. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu;

riêng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng 24,4% so với năm 2005 mặc dù chỉ

chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 2,8%), trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập siêu năm

2006 ước đạt 4,4 tỷ USD bằng 10,4% kim ngạch xuất khẩu.

2.1.2 Thu hút vốn đầu tư

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006 tăng 19,8% so với năm trước, trong đó phải kế

đén tình hình thu hút vốn ODA và FDI. Trong năm 2006, với nguốn ODA, các nhà tài

trợ cam kết hỗ trợ 4,45 tỷ USD, tăng hơn 700 triệu USD so với năm 2005. Nguốn FDI

tăng chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.

Cuối năm 2007, kết thúc Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG), tổng số

tiền mà các nhà tài trợ cam kết viện trợ cho Việt Nam trong năm 2008 lên tới 5,426 tỉ

USD, cao hơn gần 20% so với mức 4,45 tỉ USD của năm 2007. Trong các tổ chức tài

trợ nhiều nhất cho Việt Nam, dẫn đầu là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) với 1,35

tỉ USD, Ngân hàng thế giới (WB) 1,11 tỉ USD; các nước tài trợ nhiều nhất là: Nhật Bản

với 1,111 tỉ USD, Hàn Quốc 286,2 triệu USD, Pháp 228 triệu USD, Mỹ 114,6 triệu

USD, Anh 101,4 triệu USD...

2.1.3 Những hạn chế trong nền kinh tế

Một vấn đề đáng lo ngại và đang khiến các nhà quản lý đau đầu hiện nay chính là tình

hình lạm phát tăng cao và chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt khiến tốc độ phát triển kinh tế

bị kìm hãm và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của nhân dân(phụ lục Chỉ số giá tiêu

dùng của Việt Nam từ 2005 đến 2008). Tuy nhiên, với những chính sách kịp thời

chúng ta có thể hạn chế được tình trạng lạm phát.

Những yếu kém chủ yếu trong nền kinh tế hiện nay bắt nguồn từ những sai lầm trong

quản lý về:

2.1.3.1 Chính sách tài khóa

Chi tiêu ngân sách chưa thực sự tiết kiệm, bội chi còn cao, hiệu quả đầu tư từ khu vực

nhà nước còn thấp. Bội chi ngân sách trong nhiều năm liền liên tục giữ ở mức 5% GDP

trong khi quy mô nền kinh tế ngày càng lớn. Tỷ lệ chi đầu tư từ khu vực nhà nước

(ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước) lớn, nhưng hiệu quả

thấp. Tình trạng đầu tư dàn trải, để nhiều công trình dở dang, chậm đưa vào khai thác,

sử dụng, còn nhiều thất thoát, kém hiệu quả khá phổ biến đã kéo dài nhiều năm ở cả

trung ương và địa phương chậm được khắc phục. Hệ số ICOR của nền kinh tế có xu

hướng ngày càng cao.

Chủ trương thí điểm thành lập tập đoàn đa ngành chưa được nhận thức thống nhất để

thực hiện tốt. Bên cạnh những kết quả đạt được về nhiều mặt, một số tập đoàn đã đầu

tư rộng sang nhiều ngành, nghề, lĩnh vực không thuộc chuyên ngành, thế mạnh của

mình, nhất là vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khoán... Những

hoạt động đầu tư này đã gây khó khăn cho quản lý nhà nước đối với hoạt động của các

tập đoàn, khó khăn cho ngân hàng nhà nước trong quản lý lưu thông tiền tệ, nếu không

được khắc phục sẽ làm tăng tính đầu cơ trên thị trường chứng khoán, thị trường bất

động sản, góp phần tăng thêm tình hình lạm phát nền kinh tế.

Vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu còn hạn chế,

chưa có biện pháp điều chỉnh hợp lý.

Quản lý thị trường, giá cả, việc dự báo, điều hòa cung cầu, giá cả một số mặt hàng thiết

yếu phục vụ sản xuất và đời sống trên thị trường chưa kịp thời, chưa đồng bộ, kém hiệu

quả, dẫn tới tình trạng đầu cơ tăng giá.

Những hạn chế, yếu kém trong cơ cấu, chất lượng, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu

Việt Nam (chủ yếu xuất nguyên liệu, nông sản chưa qua chế biến sâu; sản phẩm công

nghiệp phần lớn là gia công, lắp ráp trên cơ sở nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị nhập

khẩu, giá trị gia tăng thấp) chậm được khắc phục, bộc lộ sự yếu kém rõ hơn khi nền

kinh tế thế giới có biến động, đồng USD mất giá, lãi suất cho vay trong nước cao...

Trong điều kiện phải thực hiện giảm thuế, mở cửa thị trường theo cam kết với WTO,

nhưng cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu chậm được thay đổi, chưa có chính sách hướng

dẫn tiêu dùng hợp lý, chưa tận dụng đầy đủ các hàng rào kỹ thuật và các công cụ thị

trường cần thiết để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng cần phải hạn chế, đã làm tăng

thêm nhập siêu.

Hoạt động của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản còn nhiều hạn chế,

vướng mắc.

Thị trường chứng khoán phát triển thiếu bền vững; số lượng doanh nghiệp niêm yết

chưa nhiều, quy mô doanh nghiệp nhỏ, nhưng mức vốn hóa quá lớn, không phản ánh

đúng giá trị thật của doanh nghiệp, đem lại những khoản lợi rất lớn cho công ty phát

hành và nhà đầu tư chứng khoán lớn, đồng thời gây thiệt hại cho nhà đầu tư chứng

khoán nhỏ, không chuyên nghiệp (chiếm số đông). Các biện pháp can thiệp để khắc

phục đà tụt điểm sau thời kỳ tăng trưởng quá nóng của thị trường chứng khoán chậm

phát huy tác dụng và chưa đem lại kết quả vững chắc. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp của

nước ngoài (FII) đổ vào rất lớn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ.

Việc vay vốn của các tổ chức tín dụng và sự tham gia vào đầu tư bất động sản của

nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp lớn với nguồn vốn khá lớn

chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc chống đầu cơ, đồng thời tháo gỡ vướng mắc cho sự

phát triển lành mạnh thị trường bất động sản còn chưa có hiệu quả nên giá cả bất động

sản, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã ở mức quá cao,

vượt xa hơn nhiều giá trị thực, gây cản trở phát triển thị trường bất động sản lành

mạnh, phát triển công nghiệp và góp phần đẩy chỉ số giá tăng cao.

2.1.3.2 Chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ nới lỏng liên tục trong nhiều năm, nhất là trong năm 2007, làm tổng

phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế tăng mạnh. Năng lực

kiểm tra, giám sát của ngân hàng nhà nước chậm được tăng cường, không theo kịp tình

hình khi các tổ chức tín dụng chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và

hội nhập quốc tế, không kiểm soát có hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương

mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần trong việc cho vay kinh doanh chứng

khoán và kinh doanh bất động sản.

Thị trường tiền tệ có nhiều diễn biến bất thường nhưng việc phát hiện và cảnh báo còn

chưa kịp thời. Hệ thống thông tin, số liệu phục vụ việc hoạch định chính sách còn yếu

và chưa đủ độ chuẩn xác.

Chính sách tỷ giá thấp để khuyến khích xuất khẩu trong nhiều năm không kịp điều

chỉnh phù hợp khi nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy giảm, đồng USD giảm giá mạnh. Việc

đồng VND được giữ giá trị cao so với đồng USD cùng với lãi suất trong nước cao... đã

khuyến khích dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào khá lớn nhưng chưa có biện

pháp hấp thụ có hiệu quả.

Khi có tình hình xảy ra, việc ngân hàng nhà nước thực hiện đồng thời các giải pháp

mạnh vào cùng một thời điểm: Tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh tỷ lệ nợ cho vay đầu tư

kinh doanh chứng khoán và bất động sản, tăng lãi suất chỉ đạo, phát hành tín phiếu bắt

buộc đối với các ngân hàng thương mại, hạn chế mua, bán USD của tổ chức và cá nhân

có nhu cầu... nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác,... tuy có góp phần ngăn

chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho

ngân hàng thương mại, tạo ra việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn

cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội. Nhờ thực hiện một

số biện pháp điều chỉnh, những ảnh hưởng tiêu cực này đã được khắc phục một phần.

2.1.4 Đánh giá của Standard & Poor’s

S&P là một trong 3 công ty đánh giá hệ số tín nhiệm có uy tín trên thế giới và Việt

Nam đã tiến hành mời công ty đánh giá hệ số tín nhiệm quốc gia và là quốc gai thứ 6

trong số các nước Đông Nam Á có hệ số này.

Năm 2002 S&P đánh giá cao triển vọng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt Nam

nhờ vào Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã có hiệu lực, nền kinh tế đa dạng, tài nguyên

thiên nhiên dồi dào, tỷ lệ tích lũy cao; quá trình cải cách của Việt Nam có chuyển biếm

tích cực như cải cách cơ cấu và xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đang chủ động tham gia

hội nhập cũng như từng bước tự do hóa thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ.

Tuy nhiên tại thời điểm đó mức thu nhập bình quân theo đầu người là 440 USD là thấp.

Năm 2005: là năm đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường

quốc tế, S&P đã nâng mức tín nhiệm của Việt Nam từ BB- lên BB do Việt Nam đã tỏ

ra kiên định hơn với những chính sách đã đề ra, tỏ rõ quyết tâm hình thành một thị

trường trái phiếu năng động, ngoài ra vần đề giàu tài nguyên cũng làm tăng mức tín

nhiệm. Tuy nhiên các chuyên gia của S&P cũng đề cập đến những hạn chế còn tồn tại

làm ảnh hưởng đến mức tín nhiệm như: chính sách tiền tệ không linh hoạt, ngân hàng

nhà nước thiếu sự cởi mở và chỉ thực hiện nửa vời để quản lý sự tăng trưởng tín dụng

thái quá, các rào cản liên quan đến mức độ cạnh tranh của nền kinh tế như hệ thống tài

chính công còn yếu, nhiều quy định pháp luật còn thiếu minh bạch…

Năm 2006: S&P đã nâng hệ thống tín nhiệm của Việt Nam lên một bậc: hệ số tín

nhiệm của các nhà phát hành bằng ngoại tệ từ mức BB- (triển vọng tích cực) lên mức

BB (triển vọng ổn định), hệ số tín nhiệm của nhà phát hành bằng nội tệ từ mức BB lên

mức BB+, hệ số tín nhiệm cho các khoản vay ngoại tệ không đảm bảo đến hạn vào

năm 2016 từmức BB- lên mức BB, hệ số tín nhiệm cho các khoản vay bằng không đảm

bảo bằng nội tệ từ mức BB lên mức BB+. Lý do cho việc nâng mức này là vì tiềm năng

kinh tế mạnh và dự báo tăng trưởng ở mức bình quân lớn hơn 7,5%/năm, năng suất lao

động thuận lợi, hệ số tiết kiệm bằng nội tệ cao làm nguốn cugn cấp vốn cho các dự đầu

tư bớt lệ thuộc vào nguồn tài trợ từ nước ngoài, sự đẩy nhanh các nguồn các chương

trình cải cách kinh tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập với nền kinh tế nước ngoài. Tuy

nhiên S&P đánh giá chúng ta vẫn còn một số yếu kém như: cần cho phép khu vực kinh

tế tư nhân có vai trò lớn hơn trong nền kinh tế, cần cắt giảm thâm hụt ngân sách, sự

tích lũy nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cần phải được duy trì ở mức thấp hơn nhiều

so với tốc độ tăng trưởng danh nghĩa của GDP.

2.2 NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ VÀ THỰC LỰC CỦA NGUỒN TÀI CHÍNH

CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1 Các nguồn tài chính tại Việt Nam hiện nay

2.2.1.1 Nguồn lực tài chính trong nước

Vốn nhà nước: bao gồm ngân sách, vốn tín dụng (không bao gồm vốn ODA), vốn

doanh nghiệp nhà nước và vốn huy động khác. Trong cơ cấu toàn xã hội, vốn đầu tư

của khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần từ 56,3% trong năm 2002, sang 54,0%

trong năm 2003, 53,6% trong năm 2004, 52,2% năm 2005 và chỉ cỏn 50,1% trong năm

2006 nhưng đến nay đây vẫn là nguồn lự chủ yếu của xã hội.

Vốn ngoài nhà nước: Chủ yếu là nguồn tích lũy vốn từ các doanh nghiệp tư nhân và

của dân cư. Nguồn vốn đầu tư của khu vực này ngày càng phát triển với mức đóng góp

là 33,6%, chiếm trên 1/3 trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2006. Đây là

nguồn vốn ngày càng thể hiện vai trò to lớn của mình và trong tương lai có thể thay thế

dần vị trí của đầu tư nhà nước trong các ngành Việt Nam có lợi thế so sánh. Các doanh

nghiệp tư nhân trong nước ngoài khả năng thỏa mãn nhu cầu dịch vụ, hàng hóa trong

nước và bắt đầu xuất hiện các doanh nghiệp tìm hướng mở rộng đầu tư ra khu vực quốc

tế nhằm tận dụng các ưu thế của quy chế WTO. Việc ăn nên làm ra của các doanh

nghiệp làm cho đời sống người dân được nâng lên, bắt đầu tích lũy cho mình và bản

thân các doanh nghiệp cũng bắt đầu có vốn tích lũy để mở rộng đầu tư kinh doanh.

Giai đọan 2001-2005 nguồn tiết kiệm trong nước đã liên tục đạt mức cao chiếm từ

khoảng 28%-30% của GDP. Việc tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước cũng là động lực về

tài chính để mở rộng tái đầu tư sản xuất kinh daonh và là bước đệm cho việc phát triển

kinh tế.

2.2.1.2 Nguồn lực tài chính bên ngoài

Các hình thành nên vốn cho việc phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua được chủ

yếu hình thành nên từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), các khoản vay

từ các tổ chức tài chính và ngân hàng quốc tế (IMF, ADB, WB) đặc biệt là nguồn vốn

Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và phải kể đến khoản nợ vay lần đầu tiên trên thị

trường tài chính quốc tế qua hình thức phát hành trái phiếu quốc tế.

Hỗ trợ chính thức (ODA):

Bảng 7: Cơ cấu sử dụng vốn ODA thời kỳ 2001 - 2005

Hiệp định ODA ký kết Giải ngân ODA Ngành, lĩnh vực Tổng Tỷ lệ % Tổng Tỷ lệ %

1. Nông nghiệp và phát triển

nông thôn kết hợp xóa đói 1.818 16% 1.641 21%

giảm nghèo

2. Năng lượng và công nghiệp 1.802 16% 1.375 17%

3. Giao thông vận tải, bưu

chính viễn thông, cấp, thóat 3.801 34% 3.801 32% nước và phát triển đô thị.

Trong đó: 2.753 25% 2.753 25% - GTVT, BCVT

- Cấp, thóat nước và phát triển 1.048 9% 1.048 7% đô thị

4. Y tế, giáo dục đào tạo, môi

trường, khoa học kỹ thuật, các 3.785 34% 2.332 30% ngành khác. Trong đó:

- Y tế, giáo dục 1.171 11% 554 7% - Môi trường, khoa học kỹ 351 3% 361 5% thuật 2.263 20% 1.417 18% - Các ngành khác

Tổng số 11.206 100% 7.907 100%

“Nguồn: Bộ Kế họach và Đầu tư”

Thời kỳ 2001-2005, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn vốn ODA

khá lớn với tổng giá trị đạt trên 14,8 tỷ USD. Các chương trình dự án ODA đã được ký

kết có giá trị hơn 11,2 tỷ USD, trong đó 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Việc vay này

gắn liền với trách nhiệm và uy tín quốc gia trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quôc tế.

Vốn ODA giải ngân trong thời kỳ này đạt hơn 7,9 tỷ USD, bằng 88% chỉ tiêu mà Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra.

Trong giai đoạn 2006-2010, chủ yếu sẽ giải ngân phần vốn ODA cam kết trong thời kỳ

2001-2005. Và theo tính toán, nếu không có gì thay đổi thì giai đoạn 2005-2010, nguồn

vốn ODA sẽ được giải ngân khoảng 11 tỷ USD. Năm 2006 được đánh giá là có tỷ lệ

giải ngân cao nhất từ trước đến nay và đạt khoảng 1,8 tỷ USD. Hội nghị CG 2007 kết

thúc với mức cam kết viện trợ kỷ lục giành cho Việt Nam, đạt 5,426 tỷ USD, tăng hơn

20% so với năm 2006. Trong đó, cam kết viện trợ song phương đạt hơn 2,6 tỷ USD,

cam kết đa phương đạt hơn 2,55 tỷ USD và cam kết của các tổ chức phi chính phủ

quốc tế là 250 triệu USD. Ngân hàng phát triển châu Á ADB, Nhật Bản và Ngân hàng

thế giới là những nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam với hơn 1 tỷ USD tài trợ. Việt Nam

đang ngày càng tiếp cận lớn hơn vào thị trường vốn thế giới. Việt Nam sẽ cần ít hơn

những khoản viện trợ có điều kiện chặt. Hiện nay, 25% nguồn vốn ODA của WB vào

Việt Nam không kèm theo điều kiện. Nguồn vốn này được sử dụng cho chương trình

135. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA sẽ ngày càng thu hẹp dần cho đến năm 2010 khi mức

thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đạt mức trung bình.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):

Bảng 8 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam giai đọan 2001 – 2005 Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2001 2003 2004 2005

Thu hút vốn 3.224 2.757 3.064 4.019 5.835 Triệu

USD

Số dự án cấp mới 550 802 752 679 850 Dự án

Vốn đăng ký mới Triệu USD 2.592 1.621 1.914 2084 3.900

Số dự án tăng vốn Dự án 366 393 458 458 241

Vốn đăng ký tăng Triệu USD 1.136 1.150 1.935 1.935 632

thêm

Thực hiện vốn

Vốn FDI thực hiện Triệu USD 2.450 2.591 2.650 2.825 3.300

Doanh thu Triệu USD 9.800 12.000 13.000 18.600 21.000

Tạo việc làm 1.000người 450 590 665 739 800

Nộp ngân sách Triệu USD 373 459 470 800 1.290

Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đọan 2006-2010, tổng số vốn đầu tư toàn

xã hội khoảng 160 tỷ USD trong đó nguồn vốn FDI được dự báo khỏang 24 tỷ USD,

chiếm khoảng 17,1% trong tổng số vốn. Trong năm 2006, FDI được cấp phép và tăng

vốn đạt trên 10 tỷ USD, vốn thực hiện ước tính đạt 65 nghìn tỷ đồng chiếm 6,3% tổng

vốn đầu tư toàn xã hội.

Tại phiên họp Chính phủ cuối năm 2007, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chính thức báo

cáo với Chính phủ về vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam năm 2007 đạt 20,3 tỷ

USD. Đây là mức thu hút FDI cao nhất trong quá trình hơn 20 năm Việt Nam đổi mới,

thực hiện hiện đại hoá đất nước. Năm 2007, quá trình thu hút vốn FDI vào nước ta có

những điểm nổi bật hơn so với các năm trước:

- Thứ nhất là FDI năm 2007 có những đột phá về số lượng các dự án đầu tư vào

Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 20,3 tỷ. Đây là một con số lớn gây ấn

tượng đối với các bộ, ngành, địa phương. Riêng năm 2007, Việt Nam thu hút

được 20,3 tỷ USD chiếm gần 25% tổng số 80 tỷ USD vốn FDI đăng ký đầu tư

vào Việt Nam trong suốt 19 năm qua. Điều đó chứng tỏ làn sóng đầu tư của các

doanh nghiệp nứơc ngoài vào Việt Nam là có thực và triển vọng năm 2008 khả

năng tiếp nhận các dự án nứơc ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ tăng mạnh hơn

nữa.

- Thứ hai là các dự án nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có chuyển biến cả về chất

lượng theo đúng định hướng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước. Danh mục các dự án lớn đang tìm hiểu và xúc tiên đầu tư vào Việt

Nam ngày càng nhiều với số vốn không ngừng tăng. Chất lượng các dự án mới

đầu tư được nâng cao, điều này được thể hiện qua cơ cấu ngành nghề: 62% số

dự án và 56,4% số vốn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp; 33% số dự án và

42,2% số vốn vào lĩnh vực dịch vụ. Riêng đối với lĩnh vực công nghệ cao, năm

2006, nhiều dự án đã được triển khai với quy mô lớn như dự án nhà máy lắp ráp

và kiểm tra các bản mạch in của Công ty TNHH Jabil Circuit ( Mỹ) tại thành

phố Hồ Chí Minh với tổng vốn 100 triệu USD; Hai nhà máy công nghệ cao của

Tập đoàn Foxconn( Đài Loan) ở Bắc Ninh có tổng vốn 80 triệu USD và trong

tương lai tập đoàn này có ý định sẽ trở thành một trong những nhà đầu tư nước

ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng mức đầu tư lên tới 5 tỷ đồng…

- Thứ ba là phong trào hoạt động đẩy mạnh đầu tư nước ngoài diễn ra sôi động

trên hầu khắp các địa phương trên cả nước. Kể từ khi Luật đầu tư mới có hiệu

lực từ 1/7/2006, phân cấp toàn diện về các địa phương để các địa phương có

trách nhiệm và chủ động hơn. Các địa phương phải tự vận động, có sự thi đua

giữa địa phương này với địa phương kia để thu hút đầu tư nước ngoài.

Ba đặc điểm nổi bật trong việc thu hút FDI vào Việt Nam năm 2007 với khối lượng

vốn lớn như vậy và với hàm lượng công nghệ cao sẽ là động lực để đẩy nhanh sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mặt khác nó còn chứng cho sức hấp

dẫn và khả năng của môi trường đầu tư Việt Nam. Nó còn là lượng vốn lớn để gối đầu

cho hiện nay và những năm sắp tới cho đầu tư phát triển kinh tế.

2.2.2 Nhu cầu phát hành trái phiếu quốc tế

2.2.2.1 Hạn chế của nguồn vốn trong nước

Trong giai đoạn 2001-2006, ngân sách nhà nước luôn bị bội chi, mặc dù khỏan bội chi

này luôn nằm dưới mức 5% mà Quốc Hội đã cho phép nhưng vấn đế ở đây là phải tìm

cho ra nguồn thu để bù đắp cho các khỏan thiếu hụt này cũng như thực hiện các kế

hoạch phát triển kinh tế xã hội đã đề ra. Thông thường, để bù đắp các khoản bội chi,

các quốc gia thường in thêm tiền họăc đi vay trong nước hoặc nước ngoài. Điều này đã

tạo nên gánh nặng về nợ nần quốc gia.

Hiện nay, theo cách tính của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Chính phủ VN đang chi tiêu

vượt quá mức tiền thu vào tới 6,6% GDP, không phải ở mức 5% như Quốc hội cho

phép... Trong hội thảo về bội chi ngân sách do Ủy ban tài chính ngân sách quốc hội tổ

chức ngày 5-5, các chuyên gia kinh tế cho rằng việc chính phủ chi tiêu quá mức là một

yếu tố gây lạm phát và cần được cắt giảm. Tốc độ tăng bội chi ngân sách trong 8 năm

trở lại đây giữ ở mức cao 17-18%/năm. Năm 2001, chi ngân sách 26,5% GDP, đến nay

xấp xỉ 40%, tăng rất cao.

2.2.2.2 Hạn chế của nguồn vốn nước ngoài

Hạn chế trong sử dụng ODA: Một khi các nước đứng ra viện trợ, họ đều phải tính

toán đến những lợi ích mà họ sẽ nhận được từ quốc gia nhận sự hỗ trợ này như:

- Đối với các dự án ODA phải đạt được sự thỏa thuận, đồng ý của nước viện trợ,

thông qua hình thức đấu thầu họăc hỗ trợ về chuyên gia, nước viện trợ sẽ gian

tiếp tham gia điều hành.

- Với mục đích tăng thêm lợi ích kinh tế của mình, các nước viện trợ sẽ yêu cầu

các nước nhận viện trợ từ từ dỡ bỏ các hàng rào thuế quan bảo hộ ngành công

nghiệp còn non trẻ trong nước và thuế xuất nhập khẩu hàng hóa của nước tài trợ

như Việt Nam mở cửa đối với mặt hàng ôtô của Nhật Bản và Mỹ vào năm 2006,

thực hiện cam kết thuế đối với khu vực ASEAN. Ngoài ra các nước nghèo còn

phải nhận một khoản ODA dưới hình thức là hàng hóa dịch vụ do các nước viện

trợ sản xuất.

- Các khoản chi cho các chuyên gia, cố vấn do các nước viện trợ cử đến trong các

dự án ODA thường cao hơn so với việc tự đi thuê các chuyên gia ỏ ngoài khác.

- Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA khi hoàn lại

tăng thêm.

- Điều đáng lo ngại nhất là phía tiếp nhận nguồn vốn ODA chưa hiểu rõ được bản

chất của nguồn vốn này. Một số nơi coi ODA như “bầu sữa” miễn phí được cho

không hoặc nếu phải trả lại thì Chính phủ phải là người chịu trách nhiệm. Do

vậy, việc tham ô, lãng phí trong khi sử dụng nguồn vốn ODA là không thể

tránh khỏi. Hàng lọat vụ bê bối liên quan tới việc bê bối như PMU đã khiến cho

các nước viện trở không khỏi băn khoăn khi đặt vấn đề cho những dự án ODA

tiếp theo.

- Việc giải ngân chậm trễ luôn được đề cập đến trogn thời gian gần đây mà

nguyên nhân cụ thể là do sự phức tạp của quy trình và thủ tục giữa Việt Nam và

các nhà tài trợ; việc chậm trễ trong công tác giải phóng mặt bằng, công tác đấu

thầu, năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các ban quản lý còn

nhiều hạn chế.

Với các lý do nêu trên thì chúng ta thấy rằng ODA không phải là “thiên đường” cho

các quốc gia hay công ty, nhất là nếu sử dụng không hiệu quả còn đưa đến tình trạng

nợ nần. Tuy ODA là một nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng nhưng nó không thể thay

thế hoàn toàn nguồn lực bên trong của mộ quốc gia, chưa kể đến việc nó sẽ bị thu hẹp

dần cho đến năm 2010.

Hạn chế trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI: Mặc dù Việt Nam đã tích cực cải

thiện môi trường đầu tư như sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài nhưng dòng vốn FDI vẫn

chủ yếu đến từ các nước châu Á và FDI đầu tư vào các vùng không đồng đều mà chỉ

chũ yếu tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm như TP.HCM, Hà Nội, Bình Dương,

Đồng Nai do các địa phương này có nhiều lợi thế về vị trí địa lý, dân cư, cơ sở hạ tầng,

thị trường tiêu thụ và lao động. Các nguồn vốn đầu tư chủ yếu vào khu vực công

nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ đứng thứ hai trong việc thu hút vốn còn nông-

lâm-thủy hải sản lại thu hút ít nhất.

Môi trường đâu tư tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như: thủ tục hành chính rườm

rà, nạn quan liêu tham nhũng lan rộng và các vụ “chạy chức” mới được phát hiện gần

đây cũng làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư. Các văn bản

pháp luật, chính sách còn nhiều hạn chế, chồng chéo lẫn nhau, chưa có sự đồng bộ giữa

thuế và kế toán. Khi thu hút đầu tư nước ngoài chúng ta ít nhận thấy những mặt trái của

vấn đề là các luồng vốn này sẽ kéo theo các khoản vay không nhỏ, tài nguyên thiên

nhiên bị khai thác cạn kiệt, môi trường ô nhiễm nghiêm trọng và chúng ta trở thành

“bãi rác công nghiệp” cho các máy móc công nghệ lỗi thời từ các nước khác đem vào.

2.3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VỐN THÔNG QUA PHÁT HÀNH TRÁI

PHIẾU QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

Rõ ràng việc huy động vốn bằng con đường phát hành trái phiếu quốc tế tỏ ra có những

ưu điểm và cho các doanh nghiệp một hướng đi khác để thỏa mãn nhu cầu về vốn cho

tăng trưởng trong lúc thị trường tài chính trong nước đang khó khăn và các nguồn tài

trợ từ ngân hàng hay thị trường chứng khoán đều đang bị siết chặt. Tuy nhiên, chúng ta

cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng không phải bất kỳ doanh nghiệp nào muốn phát

hành trái phiếu quốc tế cũng được. Việc bước ra sân chơi toàn cầu không dành cho

những ai thiếu kinh nghiệm hoặc yếu kém trong khâu phát hành cũng như năng lực trả

nợ thấp.

Rào cản lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam chính là uy tín trên trường quốc

tế, hình ảnh, thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ sức thuyết phục các

nhà đầu tư chấp nhận mua trái phiếu của họ. Phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam

ra thị trường vốn quốc tế sẽ được thực hiện theo hình thức Chính phủ phát hành về cho

vay lại, Chính phủ bảo lãnh cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra thị

trường vốn quốc tế và doanh nghiệp tự trực tiếp phát hành không phải bảo lãnh của

Chính phủ.

Do vậy trước mắt lựa chọn duy nhất chính là con đường phát hành trái phiếu quốc tế

của chính phủ Việt Nam rồi cho các doanh nghiệp vay lại hoặc chính phủ bảo lãnh cho

các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, vì chỉ có chính phủ đứng ra bảo lãnh thì mới có

thể tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong giai đoạn đầu để có thể từ đó về sau tạo đà

cho các doanh nghiệp tự mình phát hành. Một số dự án sẽ được vay lại vốn trái phiếu

Chính phủ như dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, dự án mua tàu vận tải của Tổng

Công ty Hàng hải VN và dự án Thủy điện Xêcamản 3 của Tổng Công ty Sông Đà.

2.3.1 Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên 2005

Sau khi Trung Quốc lần đầu tiên phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn thế

giới, Chính phủ Việt Nam đã có chỉ thị cho Bộ Tài chính học tập kinh nghiệm của

Trung Quốc để xây dựng đề án phát hành trái phiếu quốc tế. Việt Nam đã mời cả ba

công ty xếp hạng tín nhiệm uy tín trên thế giới là Standard & Poor’s, Moody’s và Fitch

để đánh giá hệ số tín nhiệm quốc gia.

Tháng 8 năm 2005, Bộ Tài Chính đã trình lên Chính phủ Đề án phát hành trái phiếu

chính phủ ra thị trường vốn quốc tế. Đến ngày 27/10/2005, sau hơn 10 năm nghiên cứu

và chuẩn bị, Việt Nam đã lần đầu tiên chính thức phát hành ra thị trường vốn quốc tế

trái phiếu quốc tế kỳ hạn 10 năm tại New York. Theo dự định ban đầu, Việt Nam sẽ

phát hành ở mức 500 triệu USD với lãi suất 7,5%/năm nhưng do nhà đầu tư đăng ký

kên đến 4,5 tỷ USD, Việt Nam đã quyết định phát hành 750 triệu USD, giá bán

98,223% so với mệnh giá và lãi suất thực là 7,125% và được niêm yết tại thị trường

Singapore. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì số lượng các nhà đầu tư tham

gia mua trái phiếu quốc tế của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục (225 nhà đầu tư so với 150

nhà đầu tư trong đợt phát hành trái phiếu chính phủ Indonesia vào tháng 10/2005). Các

nhà đầu tư mua trái phiếu đều là những nhà đầu tư có uy tín. Trong số các trái phiếu

phát hành, các quỹ đầu tư tài chính nắm 51%, ngân hàng nắm 25%, các công ty bảo

hiểm nắm 175 và các tổ chức khác nắm 7% còn lại. Đặc biệt là số trái phiếu này các

châu lục bao gồm châu Á nắm giữ 38%, châu Âu nắm giữ 32% và châu Mỹ nắm 30%

còn lại.

2.3.2 Thấy gì qua đợt phát hành trái phiếu quốc tế năm 2005?

Thành công trong lần phát hành trái phiếu lần đầu tiên quả là một tín hiệu vui cho Việt

Nam. Tuy nhiên, vẫn còn không ít câu hỏi được đặt ra lúc này:

 Lãi suất thực mà chính phủ Việt Nam phải chi trả cho các nhà đầu tư là 7,125%

trong khi lãi suất thực của trái phiếu kho bạc Mỹ chỉ có 4,561%. Điều đó đặt ra

một câu hỏi là phải chăng chúng ta phải trả giá cao hơn vì niềm tin của các nhà

đầu tư đặt vào Việt Nam thấp hơn?

 Số lượng các nhà đầu tư đăng ký mua lên đến 4,5 tỷ USD, gấp 6 lần so với giá

trị mà chúng ta phát hành nhưng giá bán vẫn thấp hơn mệnh giá, chỉ bằng

98,223% mệnh giá phát hành.

Vẫn xoay quanh vần đề niềm tin, trong số các nhà đầu tư thì các công ty bảo hiểm chỉ

nắm 17% trong khi họ chính là những người chuyên kinh doanh rủi ro bên cạnh ngân

hàng nắm 25% và các quỹ tài chính nắm 51%.

2.3.3 Việt Nam quản lý và sử dụng nguồn vốn trái phiếu quốc tế như thế nào?

Để quản lý hiệu quả nguồn vốn trái phiếu quốc tế, Chinh phủ đã đưa ra một danh mục

các văn bản pháp lý qui định quản lý vay, trả nợ, giám sát nợ nước ngoài gồm các nghị

định, quyết định hướng dẫn như sau:

- Nghị định 90/1998/NĐ-CP: Quản lý vay và trả nợ nước ngoài.

- Nghị định 72/1999/NĐ-CP: Quy định về thành lập, sử dụng và quản lý Quỹ tích

lũy trả nợ nước ngoài.

- Quyết định 135/2005/QĐ-TTg/08.06.2005: Phê duyệt định hướng quản lý nợ

nước ngoài đến 2010.

- Nghị định 134/2005/NĐ-CP/01.11.2005: Ban hành quy chế quản lý vay và trả

nợ nước ngoài.

- Quyết định 231/2006/QĐ-TTg: Quy chế xây dựng và quản lý hệ thống chỉ tiêu

đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài của quốc gia.

- Quyết định 36/2006/QĐ-BTC/07.07.2006: Ban hành quy chế quản lý và giám

sát việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu quốc tế của Chính phủ năm 2005.

2.3.4 Tại sao Tồng công ty Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam Vinashin lại được

ưu tiên vay vốn trái phiếu quốc tế?

Theo như quyết định số 36/2006/QĐ-BTC/07.07.2006 thì nguồn vốn trái phiếu được

ưu tiên cho các dự án đầu tư, các phương án sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục

tiêu hiện đại hóa và nâng cao năng lực ngành đóng tàu biển Việt Nam. Vinashin phải

sử dụng nguồn vốn này hiệu quả và không dùng nó để giải quyết các hậu quả, thiệt hại

do chính Vinashin gây ra.

Ngày 03/11/2005, theo đề án phát hành trái phiếu đã được chính phủ thông qua, Bộ tái

chính và Tồng công ty Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam (Vinashin) đã ký kết một hợp

đồng, theo đó Vinashin sẽ được phép vay lại toàn bộ 750 triệu USD có được từ đợt

phát hành trái phiếu quốc tế. Lãi suất cho vay lại là 6,875%/năm và tiền lãi sẽ được

thanh toán 6 tháng một lần vào các ngày 15 tháng 01 và 15 tháng 07 hằng năm. Thời

hạn cho vay lại bằng thời hạn trái phiếu phát hành, nghĩa là sẽ đáo hạn vào năm 2016.

Sau đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV) và Vinashin cũng đã ký

thỏa thuận khung về hợp tác quản lý nguồn vốn này. Bên cạnh đó thì Bộ Tài Chính

phải có trách nhiệm giám sát, kiểm tra thường xuyên việc sử dụng nguồn vốn này.

2.3.5 Giới thiệu khái quát về Tổng công ty Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam

(Vinashin)

Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt nam là một trong 17 Tổng công ty lớn nhất

của nhà nước được thành lập theo Quyết định số No 69/TTg do Thủ tướng Chính phủ

và ban hành ngày 31 - 01 - 1996 trên cơ sở tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ

Việt nam - Một ngành đã có truyền thống rất lâu đời ở Việt nam.

 Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt nam hiện có 40 đơn vị thành viên,

gồm 29 đơn vị hạch toán độc lập, 7 đơn vị hoạch toán phụ thuộc, 4 đơn vị liên

doanh, gần 13.000 cán bộ công nhân viên, trong đó có liên doanh HYUNDAI-

VINASHIN là lớn nhất với vốn đầu tư gần 160 triệu USD; có năng lực vào

việc sửa chữa cho các loại tàu đến 400.000 DWT.

 Các đơn vị thành viên VINASHIN nằm trên khắp đất nước, trải dài từ Bắc vào

Nam.

 Để xúc tiến mở rộng thị trường VINASHIN hiện có cơ quan đại diện ở các

nước Đức, Hà lan, Ban lan, Úc, I rắc và Mỹ.

 VINASHIN đã từng đóng cần cẩu nổi 600T, sà lan tự nâng hạ 2000T, tàu hút bùn 1500m3/h xuất khẩu cho I rắc, các tàu vận tải quân sự cho Bộ Quốc

Phòng, tàu khách tốc độ cao 200 chỗ, tàu nghiên cứu biển, tàu dầu 3500T, tàu

chở khí hoá lỏng 2500T, tàu hàng khô 6500DWT, ụ nổi 8500T và các tàu tuần

tra cho Hải quan ...

 Trên cơ sở nhu cầu của thị trường và phù hợp với kế hoạch phát triển đã được

các cấp có thẩm quyền phê duyệt, VINASHIN đang tích cực đầu tư nâng cấp

các nhà máy hiện có để khởi công trong 2002 đóng các tàu lớn hơn như tàu

hàng 12000DWT, tàu chở dầu sản phẩm 13,500DWT, tàu chở dầu thô 100.000T, tàu Container 1016TEU và tàu hút bùn 1500m3/h.

2.3.6 Vinashin đã sử dụng vốn vay như thế nào?

Số tiền 750 triệu USD được Vinashin phân bổ cho 180 dự án thuộc đề án phát triển

giai đoạn 2006-2010 và để án này đã được Chính phũ phê duyệt. 50% số tiền của dự

án là để nâng cấp, mở rộng, đầu tư mới các nhà máy đóng và sửa chữa tàu, 30% dành

cho các dự án nội địa hóa sản phẩm công nghiệp tàu thủy, 20% còn lại cho các dự án

phát triển đội tàu, gồm tàu chở container, tàu hàng rời, tàu hàng tổng hợp, tàu chở dầu

thô…

Theo Vinashin đến 30/04/2007, số tiền đã giải ngân cho các dự án là 462 triệu USD,

trong đó số tiền đã thu hối từ các nguồn vốn khấu hao cơ bản của các dự án đã đi vào

hoạt động là trên 650 tỷ đồng. Với số tiền này, Vinashin đầu tư vào các dự án đang

cần vốn. Riêng số tiền chờ giải ngân cho các dự án khác được giao cho Công ty Tài

chính Vinashin quản lý, chủ yếu sử dụng để cho các đơn vị thành viên vay vốn lưu

động phục vụ sản xuất, số còn lại gửi tại các ngân hàng.

Các dự án đầu tư của Vinashin:

1.GIAI ĐOẠN I ( đến 2002 ): Củng cố và nâng cấp các cơ sở đóng mới và sửa chữa

tàu biển hiện có: để sửa chữa, đóng mới tàu biển có trọng tải lớn đến 12000 DWT.

Liên doanh sửa tàu đến 400000DWT

2. GIAI ĐOẠN II ( từ 2002 đến 2005 ): hoàn thiện và mở rộng cạnh tranh

Hoàn thiện công nghệ đóng mới tàu biển có trọng tải lớn đến 50000DWT và đóng tàu

đến 100000 DWT, sửa chữa tàu và hệ thống giàn khoan biển có trọng tải đến

400000DWT (Nhà máy liên doanh Huyndai-Vinashin)

Xây dựng mới các nhà máy đóng tàu

 Phía Bắc xây dựng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu đóng và sửa chữa

tàu đến 50000DWT.

 Bắc miền Trung xây dựng Nhà máy đóng tàu đến 10000DWT (Nghi Sơn

Thanh Hoá).

 Nam miền Trung xây dựng nhà máy liên hiệp CNTT Dung Quất, đóng và sửa

chữa tàu đến 100000DWT, chế tạo thép đóng tàu (Quảng Ngãi)…

 Phía Nam xây dựng nhà máy đóng tàu Long Sơn, Nhơn Trạch Đồng Nai đóng

tàu và sửa chữa tàu đến 50000DWT.

Các nhà máy vệ tinh

Xây dựng nhà máy vật liệu hàn Nam Triệu.

Chế tạo thép đóng tàu, lắp ráp động cơ thuỷ có công suất đến 6000 HP , sản xuất

các loại phụ kiện, thiết bị tàu thuỷ; Cụ thể như sau:

 Xây dựng Nhà máy cán nóng thép tấm đóng tàu Cái Lân (Quảng Ninh): Cán

nóng thép tấm có chiều dày 5 đến 50mm cùng với Nhà máy phát điện

60MW.

 Khu công nghiệp An Hồng, An Hải, Hải Phòng với các nhà máy:

+ Nhà máy lắp ráp động cơ diezel 2 kỳ công suất từ 4000 đến 6000HP;

+ Nhà máy lắp ráp động cơ diezel 4 kỳ công suất từ 300 đến 3000HP;

+ Nhà máy xích neo tàu thuỷ, thiết bị điện, trang trí nội thất, chế tạo

container.v.v

Nâng cấp và xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học, tư vấn thiết kế và đào

tạo

 Nâng cấp viện KHCNTT thành phòng thí nghiêm Quốc gia (Hà Nội): Đầu tư

chiều sâu bể thử mô hình và đầu tư trung tâm thiết kế công nghiệp và tạo

mẫu;

 Xây dựng trung tâm điều hành sản xuất thương mại kỹ thuật cao CNTT (Hà

Nội);

 Xây dựng trường đào tạo kỹ thuật CNTT ở TP HCM, Hải Phòng và Quảng

Ninh.

 Đầu tư xây dựng, kinh doanh các khu du lịch, nhà nghỉ ;

 Xây dựng nhà nghỉ tại khu du lịch Cát Bà - Hải Phòng;

 Xây dựng nhà nghỉ tại khu du lịch hồ Sông Giá;

 Xây dựng nhà nghỉ tại khu du lịch đảo Tuần Châu;

 Xây dựng khu điều dưỡng Xuân Thành;

 Xây dựng nhà nghỉ chuyên gia và du lịch Bà Ná - Đà Nẵng.

3. GIAI ĐOẠN III ( từ nǎm 2006 - 2010 ): Hoàn thành việc xây dựng các nhà máy

mới, hiện đại hoá và hội nhập. Đầu tư hoàn chỉnh công nghệ, thiêt bị đóng và sửa

chữa tàu lên mức hiện đại trong khu vực, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong ngành lên

60 đến 70 %.

Hợp tác liên doanh với nước ngoài

 Mục tiêu đến 2010: Đóng mới tàu đến 100000DWT, sửa chữa tàu đến

400000DWT, chế tạo và lắp ráp được các thiết bị vật tư cho ngành Công

nghệ thông tin.

 Tổng công ty cần tìm đối tác nước ngoài là những tập đoàn, công ty của các

nước có kỹ thuật đóng tàu cao để thiết lập các dự án liên doanh xây dựng các

nhà máy đóng tàu với công nghệ tiên tiến.

Trong năm, giá trị tổng sản lượng của Vinashin đạt trên 17.500 tỷ đồng, tăng hơn

59% so với năm 2005. Riêng doanh thu đạt gần 11.500 tỷ đồng, vượt 2,88% so với

kế hoạch năm và tăng 44,10% so với năm 2005. Ngoài ra Vinashin còn ký được

nhiều hợp đồng xuất khẩu với tổng giá trị đạt gần 5 tỷ USD cho các chủ tàu từ các

nước Ba Lan, Israel, Nhật Bản, Đức… là những nước có nền công nghiệp đóng tàu

mạnh trên thế giới.

Với tham vọng trở thành tập đoàn đóng táu lớn ngang tầm khu vực và thế giới,

Vinashin quyết tâm mở rộng phát triển đầu tư. Điều đó là tốt nhưng cũng cần xem

lại khả năng quản lý, vốn, công nghệ kỹ thuật, kinh nghiệm, uy tín. Thực tế thì

Vinashin chỉ có một lợi thế duy nhất là về giá nhân công rẻ đối với những ngành sản

xuất thâm dụng lao động, thế nhưng với tình hình lạm phát căng thẳng như hiện nay

và giá cả nhân công tăng từng ngày thì lợi thế trên cũng đang mất đi. Nếu tính theo

các dự án đặt ra thì hiện tại nhu cầu về vốn của Vinashin là rất lớn và công ty hiện

đang thiếu rất nhiều vốn. Do vậy, Vinashin quyết định tăng vốn bằng cách phát hành

trái phiếu trong nước và vay thêm vốn từ nước ngoài. Ngày 07/05/2007, Tập đoàn

công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) đã chính thức công bố phát hành trái

phiếu doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam với tổng giá trị đạt mức kỷ lục 3.000 tỷ đồng

Việt Nam cho kỳ hạn 10 năm, lãi suất 9%/năm. Các nhà đầu tư mua trái phiếu lần

này đa số vẫn là các nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các ngân hàng, các công ty

bảo hiểm… Thêm vào đó, gần đây Vinashin lại được ngân hàng Thụy Sỹ cho vay

600 triệu USD. Nhưng dù là phát hành trái phiếu ở trong hay ngoài nước thì chúng

ta vẫn cần phải lưu ý là tất cả chúng đều là những khoản nợ phải trả.

Mặc dù theo thông tin mà Vinashin cung cấp thì họ đã ký được những hợp đồng trị

giá lên đến cả tỷ USD, nhưng đó chỉ là xét về mặt doanh thu, còn lợi nhuận đạt được

sau những hợp đồng đó thì không thể biết được. Ngay cả khi truy cập vào website

chính thức của Vinashin thì vẫn không thể tìm thấy những thông tin về tình hình tài

chính của công ty lúc này. “Trong thực tế thì điều mâu thuẫn là: bất chấp các thông

tin liên tục về việc Vinashin nhận được hợp đồng hợp đồng nọ, tỷ suất lợi nhuận

trước thuế chỉ là 0,42% và số tiền còn thiếu ngân sách nhà nước gần 70 tỷ đồng”

(Bài “Doanh nghiệp nhà nước: Không thể giữ bí mật tài chính mãi được” của GS-

TS Trần Ngọc Thơ đăng trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 15/10/2006).

Thực tế vẫn còn rất nhiều vấn đề tồn đọng:

- Nếu nhìn một cách tổng quát thì các dự án đầu tư của Vinashin đều rất lớn,

nhiều hạng mục và dàn trải khắp từ Bắc chí Nam đòi hỏi một lượng vốn cực

lớn. Liệu 750 triệu USD có đủ thỏa mãn? Chưa kể đến việc đầu tư dàn trải

như vậy sẽ dẫn đến lỏng lẻo trong công tác quản lý, làm giảm sút hiệu quả

kinh doanh (đọc bài “Xuôi Bắc Nam cùng tàu Hoa Sen trên báo Tuổi Trẻ ra

ngày 05/05/2008).

- Theo Vinashin thì đến năm 2010 Việt Nam sẽ trở thành quốc gia đóng tàu

mạnh trong khu vực và thế giới với tỷ lệ nộti địa hóa lên đến 60%. Trong khi

đó châu Á hiện nay đang hội tụ ba “đại gia” trong ngành đóng tàu là Hàn

Quốc (chiếm 34% thị phần của thế giới), Trung Quốc (chiếm 22% thị phần

thế giới) và Nhật Bản (chiếm 21% thị phần). Hàn Quốc hiện nay đang được

xem là cường quốc đứng đầu về công nghiệp đóng tàu. Họ đã có thâm niên

40 năm trong hoạt động này và hiện nay công nghiệp đóng tàu là một ngành

kinh tế quan trọng đem về nguồn thu không nhỏ cho nước này. Chỉ riêng tập

đoàn Hyundai cứ sau 3 đến 4 ngày sản xuất lại cho hạ thủy một con tàu. Tất

nhiên cả ba cường quốc trên không hề muốn dừng sự phát triển của họ tại đây

cũng như tất cả đều đặt mục tiêu mở rộng thị phần của mình. Với một môi

trường cạnh tranh khốc liệt như vậy, thì liệu Vinashin có đủ sức chen chân?

- Và liệu có phải do uy tín hay thương hiệu của Vinashin quá lớn mà những

đợt phát hành trái phiếu của họ đều thành công hay thực tế là nhờ họ có được

sự quan tâm, bảo trợ từ phía Nhà Nước? Liệu các nhà đều tư có mua trái

phiếu của họ không nếu chỉ có một mình Vinashin đứng ra phát hành hoặc

không phải Vinashin mà là một công ty khác. Đã đến lúc Vinashin đứng trên

“đôi chân” của mình.

- Một vấn đề muôn thuở là công tác quản lý và vấn đề nhân sự. Nếu việc quản

lý nhân sự không tốt, đặc biệt là các nhân vật cấp cao, chủ chốt trong bộ máy

quản lý thì thật khó lòng đưa công ty đi lên (đọc bài “Bắt tạm giam Phó giám

đốc Công ty Cổ phần Xây Dựng Vinashin” trên báo Tuổi Trẻ ngày

10/05/2008), chưa kể đến những sai phạm mà họ gây ra sẽ làm ảnh hưởng

đến tình hình kinh doanh và uy tín của công ty.

2.4 LỊCH SỬ NỢ QUỐC GIA VÀ KHẢ NĂNG CHỊU ĐỰNG NỢ NƯỚC

NGOÀI CỦA VIỆT NAM

2.4.1 Nợ nước ngoài

Trước năm 1990: Các khoản vay nợ này vay từ các nước xã hội chủ nghĩa. Việc

vay và trả nợ đều do nhà nước quản lý và được tiến hành ở dạng đổi hàng với giá cả

cố định theo thỏa thuận của các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế năm

1957. Tất cả các khoản vay đều là nợ của Chính phủ được cung cấp trên cơ sở các

hiệp định và hiệp ước hữu nghị.

Đây là các khoản vay ưu đãi, có lãi suất thấp hoặc không có lãi suất và kỳ hạn

thường tương đối dài 20-30 năm. Ngoài ra, viện trợ không hoàn lại chiếm phần lớn

trong số vay đó. Các khoản vay đều được ghi là thu ngân sách Nhà nước và là

nguồn vốn cơ bản dành cho đầu tư phát triển kinh tế và công cuộc bảo vệ an ninh

quốc gia. Ngoài ra chúng còn được sử dụng với mục đích vay tiêu dùng.

Việc quản lý và sử dụng nợ vay nước ngoài được tuân theo các quy định về phân bổ

ngân sách nhà nước cho các mục tiêu cụ thể. Một số cơ sở hạ tầng quan trọng được

xây dựng để phục vụ cho sự phát triển, cải cách kinh tế sau này.

Sau năm 1990: Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thồng các nước xã hội chủ nghĩa Đông

Âu đã làm cho Việt Nam mất đi nguồn cung cấp vốn từ các quốc gia này và việc trả

nợ cũng đã được đề cập đến trong giai đoạn này. Việc ký kết thành công Hiệp định

xử lý nợ giữa Việt Nam và Nga trong khuôn khổ Câu lạc bộ Paris vàn năm 2000 đã

tạo chuyển biến tích cực trong hiện trạng vay nợ nước ngoài của Việt Nam.

Sau cấm vận đối với Việt Nam được dỡ bỏ, một số nước phát triển đã khôi phục lại

quan hệ và bắt đầu cung cấp hỗ trợ tài chính cho Việt Nam. Tháng 10/1993, cộng

đồng tái chính quốc tế đã khôi phục quan hệ Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đối

với Việt Nam. Ngoài các khoản vay của Chính phủ, khu vực doanh nghiệp cũng

được hưởng lợi trong việc vay nước ngoài để phát triển.Cuối năm 2003, các thể chế

tài chính quốc tế và chính phủ nước ngoài đã cam kết khoảng 25 tỷ USD cho Việt

Nam. Trong đó, Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là 7 tỷ USD. Ngân hàng Phát

triển châu Á, Nhật Bản và nhóm Ngân hàng thế giới chiếm 70% tổng ODA. Vốn

ODA là vốn ưu đãi có điều kiện, như lãi suất thấp khoảng 0-2%/năm và nhiều dự án

được tài trợ miễn lãi. Kỳ hạn thường từ 30-40 năm, trong đó 8-10 năm là ân hạn,

không phải trả gốc và lãi. Tuy nhiên Việt Nam cũng phải đáp ứng các điều kiện cụ

thể do chủ nợ đặt ra, do hai bên thỏa thuận và các điều kiện này phần lớn phụ thuộc

vào chính sách ODA và quy định của từng nước hay tổ chức quốc tế tài trợ.

Hỗ trợ phát triển chính thức là nguồn vay nước ngoài chủ yếu của Chính phủ. Chính

phủ hiện đang đánh giá các nguồn tài trợ nước ngoài khác như phát hành trái phiếu

quốc tế. Đồng thới một số chủ nợ cũng đặt ra vấn đề tăng thu từ vay của họ đối với

các cấp chính quyền, qua đó cho phép Việt Nam được tiếp cận nguồn vốn thông

thường không ưu đãi.

Tại khối các doanh nghiệp: Từ năm 1998, theo quy định của Luật đầu tư nước

ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như các công ty liên doanh,

doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể

tiếp cận vốn vay nước ngoài để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Cuối năm 2003, dư

nợ nước ngoài của các doanh nghiệp là 3,2 tỷ USD, trong đó các khoản vay trung và

dài hạn chiếm 3 tỷ USD, còn lại là vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp đầu tư nước

ngoài chiếm 71% tổng nợ trung và dài hạn, phần còn lại là các doanh nghiệp trong

nước chiếm giữ. Hầu hết nợ trung và dài hạn của doanh nghiệp nhà nước đều được

Chính phủ bảo lãnh.

Vay của các Chính phủ: Các khoản vay của các chính phủ thông qua các Hiệp

định vay được ghi chép tại Phòng Song Phương và Đa Phương của Vụ tài chính đối

ngoại, bao gồm các khoản vay được Ngân hàng Nhà nước đàm phán với các thể chế

đa phương. Hai phòng này cũng ghi chép các giao dịch vay lại với Quỹ Hỗ trợ phát

triển.

Bảng 9: Nợ nước ngoài của Việt Nam

Giai đoạn từ năm 2002-2005

Đơn vị tính: triệu USD

2002 2003 2004 2005

Tổng nợ nước ngoài 12.345 13.535 15.390 16.924

Theo %GDP 35.2 34.2 33.9 32.0

Nợ công được bảo lãnh 9.887 11.001 12.397 13.809

26.1 28.2 27.8 27.3 Tính theo %GDP

3.114 2.458 2.534 2.993 Khu vực tư nhân

5.9 7.0 6.4 6.6 Tính theo %GDP

(Nguồn: Ngân hàng thế giới)

Tỷ lệ nợ nước ngoài của Việt Nam có xu hướng giảm dần từ năm 2002-2005. Cuối

năm 2006, mức nợ này dừng ở mức 31% GDP với chỉ số thanh toán nợ là 5,5%. Đây là

tín hiệu đáng mừng cho thấy nợ Việt Nam vẫn còn năm trong tầm kiểm soát (tức là có

nguy cơ thấp) và càng đảm bảo hơn khi quỹ dự trữ quốc gia đạt ở mức 12 tuần nhập

khẩu.

Năm 2007 là năm lần đầu tiên Việt Nam thực hiện cam kết với Tổ chức Thương mại

Thế giới (WTO) và cũng là năm Việt Nam có mối quan hê thương mại bình thường

hóa với Hoa Kỳ thông qua Quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn.

Khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam

Bảng 10: Khả năng chịu đựng nợ nước ngòai của Việt Nam

(Tính theo % của GDP, trừ khi có những biểu thị khác)

Thực tế Dự đóan

200 200 200 200 200 200 201 201 201 202

4 5 6 7 8 9 0 1 6 6

33,9 32, 32, 32, 31, 31, 30, 30, 30, 26, Nợ nước

6 1 9 8 6 8 5 5 2 ngòai(1)

Thay đổi trong 0,2 0,1 -0,5 -0,3 -0,1 -0,2 -0,3 - - -

1,4 0,6 0,3 nợ nước ngòai

NPV của nợ … 27, 27, 26, 25, 25, 25, 21, 20, 15,

nước ngòai (2) 4 4 7 9 5 1 0 5 8

NPV của chính … 21, 22, 22, 21, 21, 21, 21, 20, 15,

phủ 7 4 2 8 5 1 0 5 5

Tốc độ tăng 7,8 8,4 7,8 7,6 7,5 7,5 7,6 7,5 7,0, 7,0

GDP thực

GDP (tỷ USD) 45,4 52, 60, 67, 76, 85, 96, 105 162 389

8 4 8 2 6 1 ,2 ,2 ,1

“ Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế”

(1): Bao gồm cả thành phần nợ công và tư đối với nước ngòai

(2): Giả sử rằng NPV của thành phần nợ tư bằng với giá trị bên ngòai của nó

2.4.2 Nợ trong nước

Nợ trong nước bao gồm nợ từ trái phiếu, tín phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư được phát

hành theo yêu cầu ngân sách hàng năm hoặc phát hành cho các dự án phát triển ưu tiên

do Chính phủ quy định.

Ngoài ra còn có nợ địa phương, các khoản nợ này được Vụ ngân sách Nhà nước phân

bổ và cho phép các chính quyền cấp tỉnh, thành phố được phép vay đến 30% ngân sách

đầu tư cơ bản. Chủ yếu hiện nay của việc vay mượn này nhằm huy động vốn cho các

dự án cơ sở hạ tầng.

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ

3.1 XÂY DỰNG HỆ THỐNG XẾP HẠNG TÍN NHIỆM RIÊNG CỦA VIỆT

NAM THEO CHUẨN QUỐC TẾ

Thị trường trái phiếu quốc tế không chỉ dành riêng cho Chính phủ các quốc gia mà đối

với các doanh nghiệp đủ tiềm lực thì đây cũng là một nguồn huy động vốn rất tốt. Tuy

hiện nay Việt Nam chỉ mới phát hành được trái phiếu quốc tế của Chính phủ nhưng về

lâu về dài thì mục tiêu của chúng ta là giúp các doanh nghiệp tự mình phát hành trái

phiếu ra thị trường vốn quốc tế. Tuy nhiên, cái khó mà các doanh nghiệp gặp phải là

quốc tế biết quá ít về các doanh nghiệp Việt Nam và công tác thống kê của Việt Nam

hiện nay còn nhiều hạn chế dẫn đến những thông tin sai lệch. Khi các nhà đầu tư cân

nhắc có nên đầu tư vào một công ty nào đó thì họ thường tham khảo thêm các thông tin

của các công ty xếp hạng tín nhiệm có uy tín trên thế giới. Nhiệm vụ của các công ty

này là thu thập, phân tích và làm rõ các chỉ số cũng như tình hình kinh doanh của các

công ty để từ đó làm căn cứ xếp hạng tín nhiệm công ty theo các tiêu chí của mình.

Nếu một công ty có được một mức xếp hạng tín nhiệm cao thì họ sẽ gặp rất nhiều

thuận lợi khi phát hành trái phiếu như: nhận được sự quan tâm tin tưởng của các nhà

đầu tư cho nên mức lãi suất mà họ phải trả cho việc huy động vốn cũng sẽ thấp hơn.

Ngược lại, với một mức xếp hạng thấp hoặc bị các tổ chức xếp hạng đánh giá là “

không có khả năng trả nợ” thì con đường phát hành trái phiếu đã trở nên chông gai hơn

rất nhiều.

Tuy nhiên, chi phí cho việc mời một công ty về đánh giá xếp hạng tín nhiệm không hề

rẻ chút nào và việc các công ty xếp hạng đều là công ty nước ngoài sẽ khiến họ mất

nhiều thời gian để tìm hiểu và nắm rõ các quy luật trong nền kinh tế Việt Nam. Theo

tình hình hiện tại do hệ thống pháp lý của Việt Nam đang trong giai đoạn hoàn thiện,

các công bố thông báo chưa được công khai hoàn toàn, số liệu chưa đồng bộ nên việc

xếp hạng sẽ gặp khó khăn có thể dẫn đến mức xếp hạng tín nhiệm thấp gây bất lợi cho

trái phiếu quốc tế về giá và lãi suất khi phát hành. Nên chăng tự thân các doanh nghiệp

Việt Nam sẽ cùng nhau thành lập một Trung tâm xếp hạng tín nhiệm riêng dành cho

các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Trung tâm này sẽ là một

đơn vị ngoài quốc doanh, chuyên thu thập các dữ liệu, thông tin về thị trường cũng như

các doanh nghiệp. Ưu điểm của trung tâm này là đây là một đơn vị độc lập, không chịu

sự chi phối của Nhà nước hay tư nhân và hoạt động dựa trên nguyên tắc công khai,

minh bạch và nắm rõ thị trường Việt Nam. Họ là nơi thống kê, phân tích và tổng hợp

các số liệu đó và sẽ bán lại cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, dựa vào các tiêu chí mà

các công ty xếp hạng tín nhiệm trên thế giới thường áp dụng, các công ty này cũng sẽ

xây dựng một danh mục xếp hạng tín nhiệm các công ty. Danh mục này sẽ rất cần thiết

cho bản thân các công ty để họ có thể điều chỉnh, khắc phục những khó khăn, sai sót để

được nâng mức xếp hạng. Đối với các nhà đầu tư, danh mục này sẽ là một nguồn thông

tin hữu ích cho họ trước khi bỏ tiền đầu tư.

3.2 LỰA CHỌN NHỮNG TỔ CHỨC TƯ VẤN, HỖ TRỢ PHÁT HÀNH TRÁI

PHIẾU CHUYÊN NGHIỆP

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều các tổ chức, ngân hàng nhận bảo lãnh phát hành trái

phiếu. Việc lựa chọn tổ chức nào là phù hợp, chuyên nghiệp và có chi phí hợp lý là rất

quan trọng. Điều đó giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí rất

nhiều.Do đó, để có thể phát hành trái phiếu ra nước ngòai thành công chúng ta cần chú

trọng đến vai trò của các tổ chức tư vấn này trong việc đưa ra những nhận định, những

lời khuyên bổ ích.Trên cơ sở đó chúng ta tiến hành lựa chọn những tổ chức bảo lãnh

phát hành phù hợp nhất với điều kiện của các doanh nghiệp Việt Nam.

3.3 LỰA CHỌN THỊ TRƯỜNG PHÁT HÀNH PHÙ HỢP

Hiện nay chúng ta có nhiều lựa chọn cho thị trường phát hành như thị trường châu Á,

châu Âu và châu Mỹ. Mỗi thị trường lại có những đặc điểm riêng của mình với những

ưu, khuyết khác nhau.Tuy nhiên thị trường trái phiếu châu Âu hiện nay đang chiếm ưu

thế à dành được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư lẫn các tổ chức phát hành do có

đặc ưu việt của nó.Trái phiếu châu Âu chiếm hơn 80% của thị trường chứng khoán

quốc tế. Hai lý do chính cho việc này xuất phát từ thực trạng là đồng đôla Mỹ là đồng

tiền được tìm kiếm nhiều nhất trong tài chính trái phiếu quốc tế.

- Thứ nhất, trái phiếu châu Âu có thể được mang ra thị trường nhanh hơn hơn trái

phiếu nước Mỹ bởi vì chúng không phải được cung cấp cho các nhà đầu tư Mỹ

và do đó không phái tuân thủ các điểu kiện đăng ký khắt khe của Ủy ban chứng

khoán và thị trường chứng khoán Mỹ.

- Thứ hai, trái phiếu châu Âu là những trái phiếu vô danh điển hỉnh cung cấp sự

vô danh cho các trái chủ và do vậy cho phép họ tránh bị đánh thuế lên lãi suất

nhận được. Nhờ có đặc tính này mà các nhà đầu tư thường sẵn lòng chấp nhận

một suất lợi tức của trái phiếu châu Âu thấp hơn khi so sánh với trái phiếu nước

Mỹ ở những điều khoản có thể so sánh được, ở những điểm quyền sở hữu được

ghi nhận. Đối với tổ chức phát hành trái phiếu thì suất lợi tức thấp hơn nghĩa là

chi phí cho khoản nợ cũng thấp hơn.

Riêng đối với các doanh nghiệp Việt Nam lần đầu tiên phát hành trái phiếu quốc tế thì

nên phát hành tại thị trường châu Á. Thị trường này tuy còn non trẻ nhưng có tốc độ

phát triển rất nhanh và có ưu thế là không yêu cầu có phải xếp hạng mức tín nhiệm.

Đây chính là ưu điểm vì đã giúp các doanh nghiệp giảm thiểu thuê công ty định mức

xếp hạng tín nhiệm cho mình. Các nhà đầu tư châu Á cũng tỏ ra quan tâm nhiều hơn

đến trái phiếu quốc tế của Việt Nam, bằng chứng là trong đợt phát hành trái phiếu quốc

tế của chính phủ Việt Nam năm 2005 các nhà đầu tư châu Á nắm giữ 38% tổng số

lượng phát hành.

Trong giai đoạn hiện nay và tương lai gần, chính phủ không nên tiếp tục bảo lãnh cho

các doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế nữa vì các lý do sau:

- Cần phải xem lại hiệu quả của đợt phát hành đẩu tiên vay 750 triêu USD cho

Vinashin và xây dựng lòng tin đối với các nhà đầu tư. Tránh trường hợp phát

hành liên tục mà không có kế hoạch trả nợ hiệu quã sẽ làm giảm giá trái phiếu

mà mức lãi suất phải chi trả lại cao hơn.

- Việc phát hành trái phiếu quốc tế có sự bảo lãnh sẽ tạo tiền lệ không tốt cho các

doanh nghiệp lẫn các nhà đầu tư, dễ dẫn đến nhận các doanh nghiệp Việt Nam

yếu kém, không có khả năng trả nợ nên không thể tự mình phát hành trái phiếu.

Về phía các nhà đầu tư, sẽ rất dễ tạo tâm lý e dè, nghi ngại khi mua những đợt

trái phiếu không có bảo lãnh vì sợ rủi ro. Còn về phía các doanh nghiệp lại dễ

nảy sinh tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự bảo lãnh của chính phủ từ đó dẫn đến

việc sử dụng vốn vay không hiệu quả.

3.4 LỰA CHỌN ĐỒNG TIỀN PHÁT HÀNH HIỆU QUẢ

Đôla Mỹ tỏ ra là một lựa chọn hợp lý vì từ trước đến nay người Việt Nam có thói quen

sử dụng đồng đôla Mỹ nhiều trong giao dịch mua bán cả trong và ngoài nước. Trên thế

giới thì do sự ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ nên đồng đôla Mỹ cũng rất thông dụng

trên thị trường mua bán trái phiếu. Tuy nhiên, đó là chuyện quá khứ, hiện tại nền kinh

tế Mỹ đang sụt giảm và đồng đôla Mỹ đang bị mất giá bất chấp những nỗ lực của chính

phủ Mỹ. Trước tình cảnh đó, nhiều quốc gia đã chuyển sang sử dụng một ngoại tệ khác

thay thế để dùng trong trao đổi buôn bán như Euro, bảng Anh… Bên cạnh đó, việc lựa

chọn phát hành trái phiếu quốc tế bằng một ngoại tệ khách đôla Mỹ cũng giúp chúng ta

đa dạng hóa danh mục ngoại tệ mà mình đang nắm giữ nhằn phân tán rủi ro trong

trường hợp đôla Mỹ mất giá khi vay hoặc tăng giá quá cao khi chúng ta phải trả nợ.

3.5 LỰA CHỌN KỲ HẠN, KHỐI LƯỢNG TRÁI PHIẾU PHÁT HÀNH

Việc phát hành lần đầu tiên mang động thái thăm dò nhiều hơn từ cả hai phía nhà đầu

tư và người phát hành. Nếu khối lượng lớn thì giá sẽ giảm và lãi suất cao lại phải gánh

chịu một khoản nợ cao. Nhưng nếu phát hành quá ít thì không thể thỏa mãn nhu cầu

huy động vốn của tổ chức phát hành mặc dù có thể đạt được giá cao và lãi suất thấp do

tạo nên tâm lý khan hàng. Căn cứ vào nhu cầu vốn và tình hình thị trường mà các nhà

phát hành sẽ quyết định lựa chọn phù hợp, cần phải cân nhắc kỹ vì thành công hay thất

bại của đợt phát hành trườc sẽ ảnh hường rất nhiều đến thành công của đợt phát hành

sau.

Kỳ hạn của trái phiếu thì nên dài hơn vòng đời của dự án mà số tiền có được từ trái

phiếu đầu tư vào để chúng ta có thời gian thu hồi vốn và lên kế hoạch thanh toán trái

phiếu hiệu quả nhất. Theo kinh nghiệm của các nhà phát hành thì thường trái phiếu

quốc tế là trái phiếu trung và dài hạn vì chúng giúp các nhà vay vồn giảm thiểu được

rủi ro. Tuy nhiên, nếu là lần đẩu tiên phát hành trái phiếu quốc tế thì các doanh nghiệp

nên lựa chọn kỳ hạn trung hoặc không quá dài vì bước đầu các nhà đầu tư còn e dè

trước môt loại trái phiếu mới. Sau đó, khi đã gây dựng được uy tín trên thị trường thì

doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu dài hạn.

3.6 SỬ DỤNG VỐN VAY HIỆU QUẢ

Đây là bài toán mà các doanh nghiệp phải đặt ra đầu tiên khi có ý định phát hành trái

phiếu quốc tế. Phát hành trái phiếu quốc tế không chỉ đơn thuần là đi vay mà còn là

việc quảng bà hình ảnh doanh nghiệp, đất nước ra thế giới. Nếu phát hành thành công

và thanh toán trái phiếu đúng hạn thì sẽ là một tiền đề rất tốt cho các hoạt mua bán ký

kết hay mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp ra thị trường thế giới. Ngược lại, không

chỉ uy tín, thương hiệu của công ty giảm sút mà còn làm ành hưởng đến hình ảnh

chung của các doanh nghiệp Việt Nam, tạo ấn tượng xấu cho các nhà đầu tư.

Xây dưng một chiến lược kinh doanh hợp lý, dài hơi và chặt chẽ cùng với sự tư vấn

của các chuyên gia trong lĩnh vực phát hành trái phiếu quốc tế để tránh những sai sót

không đáng có. Đặc biệt, hiểu biết về luật pháp quốc tế thường là điểm yếu của các

doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, trước khi phát hành trái phiếu quốc tế, các doanh

nghiệp nhất thiết phải có được đội ngũ tư vấn pháp lý chuyên nghiệp.

Do đó, cần phải cân nhắc khi lựa chọn các khoản vay và sử dụng sao cho hiệu quả

nhằm tránh tình trạng thất thoát vốn vay và nhất là cần nên tránh tình trạng vay nợ mới

để thanh toán nợ cũ. Muốn được như vậy thì phải có sự độc lập trong trong việc thẩm

định các dự án vay và khả năng trả nợ của các đối tượng sử dụng nguồn vốn vay đó.

Nên phân bổ nguồn vốn vay hiệu quả, sử dụng nguồn vốn vay này để phát triển các thế

mạnh hiện có của đất nước, tránh đầu tư dàn trải, nên tập trung đầu tư vào các ngành có

lợi thế về xuất khẩu có hiệu quả, trong đó đẩy mạnh sử dụng lao động để tạo công ăn

việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.

3.7 TẠO SỨC MẠNH CHO THƯƠNG HIỆU VIỆT NAM

Như đã đề cập đến ở trên, uy tín, hình ảnh là một phần rất quan trọng trong việc phát

hành trái phiếu, nhất là khi đây là một lĩnn vực còn khá mới mẽ đối với chúng ta và

hình ảnh Việt Nam cũng còn xa lạ đối với các nhà đầu tư.

Xây dựng sức mạnh cho thương hiệu Việt Nam không chỉ là việc tuân thủ các nguyên

tắc, luật lệ quốc tế, thanh toán trái phiếu đúng hạn mà còn là cách ứng xử lịch thiệp, cư

xử có văn hóa và chuyên nghiệp với các đối tác, xây dựng hình ảnh một đất nước Việt

Nam thanh bình, ổn định về chính trị, tăng trưởng nhanh và ổn định về kinh tế cùng với

môi trường sống và làm việc thân thiện, hiếu khách.

Bên cạnh đó, việc chính phủ cần củng cố hệ thống pháp lý rõ ràng, tạo một môi trường

đầu tư minh bạch và hệ thống thông tin rộng khắp cũng như dẹp bỏ được nạn tham ô,

hối lộ cũng góp một phần vô cùng quan trọng vào việc xây dựng hình ảnh một

nướcViệt Nam hiệu quả trong kinh doanh và lành mạnh, ổn định trong xã hội.

KẾT LUẬN

Nền kinh tế Việt Nam ngày càng tăng trưởng và phát triển không ngừng. Với xu thế

hội nhập, nền kinh tế nước ta ngày càng bay cao, bay xa hòa mình vào những sân chơi

lớn. Qúa trình tham gia vào các sân chơi quốc tế lớn đưa đến cho chúng ta những thuận

lợi, những tích cực đáng kể cho nền kinh tế.Bên cạnh đó,quá trình hội nhập sâu rộng ấy

cũng mang đến cho chúng ta những khó khăn và thử thách cần phải vượt qua. Đường

bay đã sẵn sàng, điều cần phải làm bây giờ là cần chuẩn bị nhiên liệu thật tốt cho

chuyến bay được thành công và an toàn.

Thị trường tài chính quốc tế với những chuẩn mực hết sức khắt khe, nhưng nếu các

doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị đầy đủ các hành trang cần thiết, có những kế hoạch,

chiến lược phát hành trái phiếu quốc tế thật chu đáo và được đầu tư đúng mức thì vẫn

có khả năng thành công cao. Phát hành thành công trái phiếu quốc tế sẽ đem lại rất

nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc huy động nguồn vốn có nhiều tính ưu việt

này. Đồng thời mang lại những lợi ích to lớn hơn đó là khẳng định uy tín và năng lực

mạnh mẽ về tài chính được đánh giá bởi những tổ chức tài chính có chất lượng trên thế

giới.

Với những vấn đề đã đề cập và phân tích trong đề tài nghiên cứu, nhóm tác giả hy

vọng sẽ giúp cho các doanh nghiệp nhận biết được trái phiếu quốc tế là một kênh huy

động vốn trong tương lai, đâu là những hạn chế, những rào cản đối với thị trường này

và đâu là những bước đi lớn mà doanh nghiệp cần tiến hành để đạt được thành công

trong các đợt phát hành trái phiếu quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo Tuổi Trẻ www.tuoitre.com.vn

2. Bộ Công Thương: www.moi.gov.vn

3. Bộ Tài Chính: www.mof.gov.vn

4. Báo điện tử - Tỉnh Lào Cai: www.laocaigov.vn

5. Báo điện tử - Tỉnh Khánh Hòa: www.baokhanhhoa.com.vn

6. www.vietnamnet.com.vn

7. Đại Sứ Quán Việt Nam tại Hoa Kỳ: www.viet.vietnamembassy.us

8. “Quản trị tài chính quốc tế trong thị trường toàn cầu” – Dương Hữu Hạnh, NXB

Lao Động, Hà Nội

9. Website chính thức của Vinashin: www.vinashin.com.vn

10. Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn

11. “Giá trình đại cương thị trường tài chính” – Lê Thị Hoa, Kiều Đức Thiện, Lê

Hoàng Nga, NXB Thống Kê, Hà Nội

12. www.hochiminhcity.gov.vn

13. Quyết định số 36/2006/QĐ-BTC ngày 07/07/2006

14. www.vnn.vn

15. www.forecasts.org/nikkei225.htm

16. “Forecast trend” – Gary D.Halbert

17. “The development of International Bond Market” – Richard Benzie

18. UBS International Bond Fund - Product Disclosure Statement for IDPS

Investors

Phụ đề các bảng chỉ số, biểu đồ

Dự báo chỉ số NASDAQ

Chỉ số giá đóng cửa vào cuối tháng.

Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9

2008 2008 2008 2008 2008 2008

Giá dự đoán 2,130 2,060 1,970 1,940 1,970 1,990

(Nguồn http://www.forecasts.org)

Biểu đồ chỉ số NASDAQ thực tế từ tháng 03/2007 đến tháng 03/2008. Từ tháng

04/2008 trở về sau là con số dự đoán

Dự đoán chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản

Giá trị trung bình tháng

Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9

2008 2008 2008 2008 2008 2008

Giá trị dự đoán 13,150 13,360 12,940 12,420 12,590 12,310

(Nguồn http://www.forecasts.org)

Biểu đồ chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản thực tế từ tháng 03/2007 đến tháng 03/2008.

Từ tháng 04/2008 trở về sau là con số dự đoán

Bảng 1: Các thành phần trong Rủi Ro Chính Trị

Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)

12 Sự ổn định của chính quyền A

12 Điều kiện kinh tế xã hội B

12 Tiểu sử đầu tư C

12 Xung đột bên trong D

12 Xung đột bên ngoài E

6 Sự tham nhũng F

6 Sự tinh nhuệ của quân đội G

6 Tình trạng tôn giáo H

6 Luật pháp I

6 Sự căng thẳng dân tộc J

6 Tính dân chủ K

4 Nạn quan liêu L

100 Tổng cộng

(Nguồn: ICRD Methodology)

Bảng 2: Các thành phần trong Rủi Ro Kinh Tế

Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)

5 1 GDP bình quân đầu người

10 2 Tỷ lệ tăng trưởng thực

10 3 Tỷ lệ lạm phát hàng năm

10 4 Cân bằng ngân sách

15 5 Cán cân vãng lai % của GDP

50 Tổng cộng

(Nguồn: ICRD Methodology)

Bảng 3: Các thành phần trong Rủi Ro Tài Chính

Thứ tự Nội dung Điểm (tối đa)

1 Nợ nước ngoài % của GDP 10

Dịch vụ nợ % trên xuất khẩu 10 2

Tài khoản vãng lai % trên xuất khẩu 15 3

Dự trữ chính thức tính theo tháng nhập khẩu 5 4

Sự ổ định của tỷ giá hối đoái 10 5

50 Tổng cộng

(Nguồn: ICRD Methodology)

Bảng 4: Thứ hạng trái phiếu quốc tế

HẠNG NỘI DUNG

- Là thứ hạng được đánh giá cao nhất.

- Khả năng trả nợ gốc và lãi là mạnh nhất AAA

- Chỉ xếp sau AAA AA - Khả năng trả nợ gốc và lãi rất cao

- Là thứ hạng được đánh giá là có khả năng thanh toán gốc và lãi

vay mặc dù nó cũng có phần chịu ảnh hưởng bởi những thay đổi A

bất lợi trong những điều kiện kinh tế,

- Là thứ hạng được đánh giá là có khả năng thanh toán gốc và lãi BBB vay.

- Nhưng ở một khía cạnh nào đó, khi môi trường hoặc kinh tế thay

đổi theo chiều hướng xấu thì khả năng trả nợ của nó trở nên yếu

đi so với các thứ hạng trên.

- Là các thứ hạng được đánh giá có tính chất đầu cơ.

- BB là thứ hạng đầu cơ thấp nhất

- CC là thứ hạng đầu cơ thấp nhất BB, B - Tuy những khoản nợ này có những nét đặc trưng phù hợp vế CCC, C chất lượng và khả năng được bảo vệ nhưng các thứ hạng này có

mức độ không chắc chắn và rủi ro cao khi hoàn cảnh thay đổi trở

nên bất lợi.

- Là thứ hạng bị đánh giá là không trả lãi đuợc C

- Là thứ hạng chỉ mức độ vỡ nợ. D

Dấu (+) hoặc (-): dấu cộng hoặc trừ dành cho các thứ hạng từ AA đến BB để chỉ vi

thế trong tứng thứ hạng.

(Nguồn: Security Analysis and Portfolio Management, trang 327)

Bảng 5: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 2005 đến 2008

Chỉ số giá

Tháng

quý I/2008

3/08

( nguồn: Tổng cục Thống kê)

3/2008

so với

So

2005

2006

2007

So

cùng kỳ

Tháng

12/2007

năm 2007

12/05

Chỉ số giá tiêu dùng

1,084 1,066

1,1263

1,0919 1,1637

1,311

Lương thực

1,141

1,1540 1,1791

1,2152

1,553

1,078

Thực phẩm

1,055

1,2116 1,1308

1,2840

1,445

1,120

Đồ uống và thuốc lá

1,052

1,0678 1,0773

1,0696

1,210

1,049

1,05

May mặc, giày dép, mũ nón

1,058

1,0670 1,0842

1,0757

1,224

0

1,09

Nhà ở và VLXD

1,059

1,1712 1,2061

1,1794

1,496

8

1,04

Thiết bị và đồ dùng gđình

1,062

1,0515 1,0663

1,0578

1,191

8

1,04

Dược phẩm, y tế

1,043

1,0705 1,0806

1,0773

1,207

9

1,09

Phương tiện đi lại, bưu điện

1,040

1,0727 1,1434

1,1004

1,276

1

1,05

Giáo dục

1,036

1,0197 1,0212

1,0199

1,079

0

1,02

Văn hóa, thể, giải trí

1,035

1,0169 1,0438

1,0261

1,099

7

1,06

Hàng hóa và dịch vụ khác

1,065

1,0902 1,1283

1,1193

1,310

0

1,11

3

Chỉ số giá vàng

1,272

1,2735 1,1846

1,4042

1,919

Chỉ số giá đô la Mỹ

1,009

1,010

0,9997 0,9812

0,9942

0,991

Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa 1995-2005

( nguồn: Tổng cục Thống kê)

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

% tăng BQ 1 năm (96- 05)

5,45

7,25

9,19

9,36

16,71

20,15 26,49

32,45

11,54

14,48

15,03

20,1

133,0

126,8

101,8

123,3

125,5

103,8

111,2

120,6 131,5

122,5

8,16

11,14

11,60

11,52

19,75

25,26 31,97

36,76

Kim ngạch xuất khẩu HH (tỷ USD) % tăng so với năm trước Kim ngạch nhập khẩu HH (tỷ USD)

11,62

15,64

16,22

19,9

Bảng 7:Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 1995-2005

( nguồn: Tổng cục Thống kê)

199 199 199 199 199 200 200 200 200 200 200

5 6 7 8 9 0 1 2 3 4 5

Hàng công nghiệp nặng

và khoáng sản (%) 25,3 28,7 28,0 27,9 31,0 37,2 34,9 31,8 32,2 36,4 33,8

Hàng công nghiệp nhẹ

và TTCN (%) 28,5 28,9 36,7 36,6 36,3 33.8 35,7 40,6 42,7 41,0 40,3

Bảng 8: Cơ cấu sử dụng vốn ODA thời kỳ 2001 – 2005

Hiệp định ODA ký kết Giải ngân ODA Ngành, lĩnh vực Tổng Tỷ lệ % Tổng Tỷ lệ %

1. Nông nghiệp và phát triển

nông thôn kết hợp xóa đói 1.818 16% 1.641 21%

giảm nghèo

2. Năng lượng và công nghiệp 1.802 16% 1.375 17%

3. Giao thông vận tải, bưu

chính viễn thông, cấp, thóat 3.801 34% 3.801 32%

nước và phát triển đô thị.

Trong đó: 2.753 25% 2.753 25%

- GTVT, BCVT

- Cấp, thóat nước và phát triển 1.048 9% 1.048 7%

đô thị

4. Y tế, giáo dục đào tạo, môi

trường, khoa học kỹ thuật, các 3.785 34% 2.332 30% ngành khác. Trong đó:

- Y tế, giáo dục 1.171 11% 554 7% - Môi trường, khoa học kỹ 351 3% 361 5% thuật 2.263 20% 1.417 18% - Các ngành khác

Tổng số 11.206 100% 7.907 100%

“Nguồn: Bộ Kế họach và Đầu tư”

Bảng 9 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam giai đọan 2001 – 2005 Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2002 2003 2001 2005

Thu hút vốn 3.224 2.757 3.064 4.019 5.835 Triệu

USD

Số dự án cấp mới 550 802 752 679 850 Dự án

Vốn đăng ký mới Triệu USD 2.592 1.621 1.914 2084 3.900

Số dự án tăng vốn Dự án 366 393 458 458 241

Vốn đăng ký tăng Triệu USD 1.136 1.150 1.935 1.935 632

thêm

Thực hiện vốn

Vốn FDI thực hiện Triệu USD 2.450 2.591 2.650 2.825 3.300

Doanh thu Triệu USD 9.800 12.000 13.000 18.600 21.000

Tạo việc làm 1.000người 450 590 665 739 800

Nộp ngân sách Triệu USD 373 459 470 800 1.290

“Nguồn: Bộ Kế họach và Đầu tư”

Bảng 10: Nợ nước ngoài của Việt Nam

Giai đoạn từ năm 2002-2005

Đơn vị tính: triệu USD

2002 2003 2004 2005

Tổng nợ nước ngoài 12.345 13.535 15.390 16.924

Theo %GDP 35.2 34.2 33.9 32.0

Nợ công được bảo lãnh 9.887 11.001 12.397 13.809

Tính theo %GDP 28.2 27.8 27.3 26.1

Khu vực tư nhân 2.458 2.534 2.993 3.114

Tính theo %GDP 7.0 6.4 6.6 5.9

(Nguồn: Ngân hàng thế giới)

Bảng 11: Khả năng chịu đựng nợ nước ngòai của Việt Nam

(Tính theo % của GDP, trừ khi có những biểu thị khác)

Thực tế Dự đóan

200 200 200 200 200 200 201 201 201 202

4 5 6 7 8 9 0 1 6 6

33,9 32, 32, 32, 31, 31, 30, 30, 30, 26, Nợ nước

6 1 9 8 6 8 5 5 2 ngòai(1)

Thay đổi trong 0,2 0,1 -0,5 -0,3 -0,1 -0,2 -0,3 - - -

1,4 0,6 0,3 nợ nước ngòai

NPV của nợ … 27, 27, 26, 25, 25, 25, 21, 20, 15,

nước ngòai (2) 4 4 7 9 5 1 0 5 8

NPV của chính … 21, 22, 22, 21, 21, 21, 21, 20, 15,

phủ 7 4 2 8 5 1 0 5 5

Tốc độ tăng 7,8 8,4 7,8 7,6 7,5 7,5 7,6 7,5 7,0, 7,0

GDP thực

GDP (tỷ USD) 45,4 52, 60, 67, 76, 85, 96, 105 162 389

8 4 8 2 6 1 ,2 ,2 ,1

“ Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế”

(1): Bao gồm cả thành phần nợ công và tư đối với nước ngòai

(2): Giả sử rằng NPV của thành phần nợ tư bằng với giá trị bên ngòai của nó