VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HUYỀN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HUYỀN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Ngành: CHÍNH SÁCH CÔNG
Mã số: 834 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN BÙI NAM
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ: “Thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc
đối với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam” là
công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi cùng với sự hướng
dẫn của TS. Nguyễn Bùi Nam. Tôi xin cam kết các số liệu, kết quả nghiên
cứu của công trình này là hoàn toàn trung thực, không trùng lặp với các đề
tài khác.
Hà Nội,ngày tháng 8 năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Huyền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG ........................... 10
1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội .................................................................... 10
1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc ............. 13
1.3. Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao
động ở Việt Nam .............................................................................................. 18
1.4. Tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc .......................... 27
1.5. Kinh nghiệm của một số quốc gia về BHXH và an sinh xã hội ................ 31
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ
HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ....................................................................... 37
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội
bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam .................................... 37
2.2. Thực trạng triển khai thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc đối
với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ........................ 39
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc cho
người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam .............................. 54
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI
LAO ĐỘNG TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ......... 61
3.1. Quan điểm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với
người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ......................... 61
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt
buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm ................................................ 65
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm .............................. 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1. BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
2. BHXH Bảo hiểm xã hội
3. BHYT Bảo hiểm y tế
4. TNLĐ - BNN Tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp
5. NLĐ Người lao động
6. CCVC Công chức, viên chức
7. KHXH Khoa học xã hội
8. Viện Hàn lâm Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động .............. 26
Bảng 1.2. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người sử dụng lao động ..... 27
Bảng 2.1. Kết quả khảo sát thực trạng các đối tượng có liên quan thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ........... 40
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát về đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................... 42
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát về công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực
hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam .... 44
Bảng 2.4. Kết quả khảo sát về công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam....... 46
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát về công tác phân công, phối hợp thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam....... 48
Bảng 2.6. Kết quả khảo sát về công tác duy trì thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................... 49
Bảng 2.7. Kết quả khảo sát về công tác điều chỉnh thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................... 51
Bảng 2.8. Kết quả khảo sát về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam....... 52
Bảng 2.9. Kết quả khảo sát về đánh giá tổng kết thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................... 53
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn ba mươi năm tiến hành đổi mới, từ một nước nông nghiệp là
chủ yếu, Việt Nam đang chuyển dần thành một nước công nghiệp theo xu
hướng hiện đại. Cùng với quá trình hội nhập và phát triển của đất nước, lực
lượng lao động ngày càng lớn mạnh và có nhiều đóng góp to lớn trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà. An sinh xã hội được bảo đảm, là
điều kiện tiên quyết thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu, rộng.
Cũng như các quốc gia trên thế giới, tại Việt Nam, bảo hiểm xã hội được
coi là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội có vai trò quan
trọng đối với người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Khi đánh
giá tốc độ phát triển của một quốc gia, một trong các tiêu chí đó chính thống
an sinh xã hội mà trong đó bảo hiểm xã hội giữ vai trò nòng cốt. Nhận thức
được vai trò của bảo hiểm xã hội, Đảng Nhà nước ta đã rất chú trọng việc
thiết lập hành lang pháp lý điều chỉnh về bảo hiểm xã hội. Đặc biệt là bảo
hiểm xã hội bắt buộc trong giai đoạn hiện nay. Nhà nước đã ban hành Bộ luật
Lao động và Luật bảo hiểm xã hội cũng như các văn bản pháp lý hướng dẫn
thi hành Bộ luật Lao động về bảo hiểm xã hội và Luật bảo hiểm xã hội. Vai
trò quan trọng, tính chất trụ cột của chính sách BHXH, BHYT, BHTN trong
hệ thống An sinh xã hội ngày càng được khẳng định, nhất là trong thời kỳ đất
nước đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hội nhập, phát triển. Thực tế này
đòi hỏi quá trình xây dựng chính sách, pháp luật cũng như tổ chức thực hiện
BHXH, BHYT phải đáp ứng các mục tiêu phát triển mới với những yêu cầu
cao hơn theo định hướng của Đảng, Nhà nước, thể hiện rõ qua Nghị quyết 28-
NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 về cải cách chính sách BHXH.
Xác định đúng vị trí và vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội trong
1
công cuộc đổi mới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam luôn chú trọng
đến công tác đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với công chức, viên chức và
người lao động đang làm việc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Hiện nay, Nhà nước ta đã có khung pháp lý cao nhất để điều chỉnh các quan
hệ trong hoạt động bảo hiểm xã hội bắt buộc, tạo cơ sở mới cho việc mở rộng
mạng lưới an sinh xã hội, ngày một đáp ứng nhu cầu của người lao động nói
riêng và của toàn dân nói chung. Tuy nhiên, chính sách về bảo hiểm xã hội
bắt buộc vẫn còn những hạn chế, bất cập. Nghị quyết 28-NQ/TW của Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách
BHXH cũng đã đưa ra nhận định: “Hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH
chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế - xã hội, chưa thích ứng với quá
trình già hóa dân số và sự xuất hiện các quan hệ lao động mới”. Nhiều quy
định chưa được hướng dẫn cụ thể, vẫn còn khoảng cách giữa văn bản pháp
luật và thực tiễn thực hiện. Còn nhiều vướng mắc, khó khăn cho các đơn vị sử
dụng lao động và người lao động trong quá trình tham gia bảo hiểm xã hội. Cũng
như các đơn vị công lập khác, với đặc thù là cơ quan nghiên cứu khoa học nên
việc tham gia chính sách BHXH Viện Hàn lâm đóng vai trò là đơn vị thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc, tuy Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam luôn
thực hiện nghiêm túc các chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội bắt buộc cho
người lao động, nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình
tham gia và giải quyết chế độ BHXH cho người lao động của Viện Hàn lâm.
Đứng trước các vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài luận văn: “Thực hiện
chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam.” nhằm hiểu rõ hơn về việc thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, qua đó
đóng góp một vài ý kiến, giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác thực hiện
2
chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách BHXH luôn là một trong những chính sách quan trọng trong
hệ thống chính sách xã hội nói chung và là chính sách cốt lõi của hệ thống
chính sách an sinh xã hội của bất kỳ quốc gia nào, hệ thống xã hội nào. Để có
được các mô hình BHXH đa dạng và phong phú như ngày nay, các nhà lý
luận, các nhà quản lý trên thế giới đã tốn khá nhiều công sức và thời gian để
nghiên cứu và tổng kết thực tiễn như:
Cohn Gillion, John Turner, Clive Bailey, Denis Latulippe (2000), chế độ
Hưu trí trong chính sách an sinh xã hội - cải cách và phát triển đã đưa ra các
kết quả nghiên cứu giúp các nhà phân tích chính sách và người ra quyết định
tại các quốc gia có thể tham khảo trong việc đưa ra các chính sách về chế độ
hưu trí [42].
International Labour Office, Social Security Department (2009), An
sinh xã hội cho mọi người, bài viết đã đưa ra các khám phá và phân tích các
vấn đề của chính sách dựa trên việc tiếp cận chính sách An sinh xã hội theo
tiêu chuẩn quốc tế của Tổ chức ILO [43].
International Labour Organization (ILO) (2014), Bảo hiểm xã hội - Trụ
cột của chính sách An sinh xã hội đã nêu rõ một số vấn đề thực hiện chính
sách BHXH ở Việt Nam từ giai đoạn 2009-2014 [44].
Tổ chức UNICEF (2012), Bảo hiểm y tế quốc gia ở Châu Á và Châu Phi
đã đưa ra nhận định: “Bảo hiểm y tế là một yếu tố quan trọng của hệ thống
Bảo vệ Sức khỏe Xã hội và có thể đóng vai trò vai trò quan trọng trong việc
đạt được bảo hiểm y tế toàn cầu (UHC) ” [45].
Thomas Gabe, Julie M. Whittaker (2000), Lợi ích khi tham gia Bảo hiểm
thất nghiệp, báo cáo đã nhấn mạnh các lợi ích khi tham gia Bảo hiểm thất nghiệp,
những người lao động thất nghiệp được đảm bảo cuộc sống trước tình hình biến
3
động về kinh tế trong khoảng thời gian tìm kiếm việc làm mới [46].
Trong quá trình hoàn thiện chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, để phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn, đã
có một số công trình nghiên cứu như:
Vương Đình Huệ (2018), Cải cách chính sách BHXH góp phần bảo
đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền
vững đất nước, Báo Hà Nội Mới, ngày 08/5/2018, bài viết đã nêu lên những
thành tựu quan trọng trong thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam. Bài viết
cũng làm rõ các mặt hạn chế, yếu kém trong việc tổ chức, thực hiện chính
sách BHXH; nguyên nhân của các mặt hạn chế, yếu kém đó; đồng thời đưa ra
các quan điểm, mục tiêu, đặt ra những vấn đề lớn cần phải cải cách về chính
sách BHXH, điều chỉnh nhiều nội dung để khắc phục những hạn chế, yếu
kém, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu hướng phát triển và bối cảnh
mới và các giải pháp để đạt được các mục tiêu nêu trên [20].
Nguyễn Văn Thành (2018), Một số vấn đề đặt ra đối với công tác
BHXH hiện nay, Tạp chí Cộng sản tháng 12/2018, bài viết đã đề cập đến tình
hình công tác BHXH qua phân tích một số vấn đề trên tất cả các mặt của công
tác BHXH ở Việt Nam hiện nay [24].
Dương Văn Thắng (2014), Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, cuốn sách đã khái quát lịch sử
hình thành và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ những năm trước
cách mạng tháng 8 cho tới nay. Cuốn sách đã nêu chi tiết các văn bản pháp
luật đầu tiên quy định về Bảo hiểm xã hội cho người lao động, điều này cho
thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến các cán bộ, công chức, viên
chức và người lao động làm trong các đơn vị công lập và dần mở rộng đến
mục tiêu Bảo hiểm xã hội toàn dân. Cuốn sách cũng nêu rõ việc đổi mới và
phát triển Bảo hiểm xã hội Việt Nam căn bản dựa trên nhu cầu của các nhóm
4
đối tượng trong toàn xã hội [25].
Vũ Đức Thuật (2017), Nghiên cứu các giải pháp tiếp tục cải cách, đơn giản
hóa thủ tục hành chính trong hoạt động nghiệp vụ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y
tế, Bảo hiểm thất nghiệp của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội, Đề tài nghiên
cứu khoa học, Bảo hiểm xã hội TP. Hà Nội đã nêu lên được thực trạng cải cách
thủ tục hành chính thuộc 05 lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN; tổ chức bộ phận
“Một cửa”; ứng dụng công nghệ thông tin, giao dịch hồ sơ điện tử [26].
Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Phát triển Hệ thống An sinh
xã hội ở Việt Nam đến năm 2020, cuốn sách đã đưa ra kết quả đạt được, những
tồn tại của chính sách an sinh xã hội hiện hành và các định hướng chính sách
cho giai đoạn từ nay đến năm 2020. [41, Tr.48]
Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật
BHXH về BHXH bắt buộc và Nghị định số 44/2017/NĐ-CP quy định mức
đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ BH TNLĐ-BNN đã đưa ra các hướng
dẫn cụ thể trong thực hiện chế độ chính sách BHXH bắt buộc theo Luật
BHXH số 58/2014/QH13 [11,12].
Tổ chức Ngân hàng Thế giới (2012), Việt Nam: Phát triển một hệ thống
bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án lựa
chọn cho cải cách trong tương lai, Báo cáo nghiên cứu đã nêu lên được sự
cần thiết phải đổi mới để mở rộng độ bao phủ, khuyến khích bình đẳng, tăng
cường tính bền vững về tài chính, và hiện đại hóa công tác quản lý bảo hiểm
xã hội để đảm bảo an sinh thu nhập cho lượng dân số già của Việt Nam trong
những thập kỷ tới đây. Việc cải cách chính sách cần gắn kết với nỗ lực tăng
cường năng lực cung cấp dịch vụ của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và hệ thống
quản lý nhà nước [36].
Tác giả Nguyễn Thị Hương (2019), Quản lý thu BHXH bắt buộc đối với
các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội, Luận
văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, trên cơ sở đánh giá thực
5
trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc đối với các doanh nghiệp trên địa
bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được,
những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế; đề xuất giải pháp
hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc đối với các doanh nghiệp
trên địa bàn huyện Thanh trì trong thời gian tới [21].
Tác giả Lê Thị Kim Dung (2019), Thực hiện chính sách Bảo hiểm ý tế
đối với người cao tuổi qua nghiên cứu trường hợp phường Phú Diễn, quận
Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội
Việt Nam, đề tài tìm hiểu thực trạng và phân tích tình hình thực hiện chính
sách BHYT đối với người cao tuổi tại phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội, qua đó đề xuất giải pháp cho việc thực hiện chính sách
BHYT đối với người cao tuổi ở địa bàn nghiên cứu [16].
Tác giả Nguyễn Thị Phước (2019), Thực hiện chính sách An sinh xã hội
trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ, Học
viện Khoa học xã hội Việt Nam, đề tài làm rõ những vấn đề thực tiễn về
thực hiện chính sách an sinh xã hội ở quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng;
đồng thời vận dụng vào thực tiễn để tìm kiếm các giải pháp nhằm thực hiện
có hiệu quả chính sách an sinh xã hội trên địa bàn quận Thanh Khê trong
thời gian tới [28].
Đào Việt Ánh (2019), Nghiên cứu xây dựng, thành lập và triển khai mô
hình tổ chức hỗ trợ, tư vấn, giải đáp chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp của ngành Bảo hiểm xã hội, Đề án, Vụ Tổ chức –
Cán bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đề án nhằm nâng cao nhận thức của
người dân và người lao động về chính sách pháp luật BHXH, BHYT(nhất là
những vấn đề về quyền lợi) ngày càng cao; đồng thời đánh giá thực trạng
hoạt động chăm sóc khách hàng tham gia BHXH, BHYT, BHTN của Hệ
thống chăm sóc khách hàng hiện nay của ngành BHXH; đề xuất thành lập
Phòng hỗ trợ, tư vấn, giải đáp và quản lý Hệ thống chăm sóc khách hàng; xây
dựng chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức; các quy chế, quy trình hoạt động
của Phòng; xây dựng lộ trình nâng cấp bộ máy hỗ trợ, tư vấn, giải đáp chính
6
sách BHXH, BHYT, BHTN của ngành BHXH giai đoạn 2020 - 2025 [3].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá việc thực hiện
chính sách BHXH bảo hiểm xã hội bắt buộc. Qua đó đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc cho người lao
động tại Viện Hàn lâm trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách
bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người
lao động tại Viện Hàn lâm từ giai đoạn năm 2015 - 2019, những kết quả đã đạt
được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tổn tại, hạn chế đó.
- Đưa ra các giải pháp và đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực thực
hiện chính sách về bảo hiểm xã bắt buộc tại Viện Hàn lâm trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động
tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Nghiên cứu tình hình thực hiện BHXH bắt buộc từ
chính sách BHXH qua thực tiễn tại Viện Hàn lâm.
- Về thời gian: Nghiên cứu giai đoạn từ năm 2015 - 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở của phương pháp luận là phép biện
7
chứng duy vật; các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật của
Nhà nước về BHXH bắt buộc, các văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ban,
Ngành có liên quan và quan điểm của Tổ chức Lao Động Quốc tế (ILO) về
bảo hiểm xã hội bắt buộc qua một số Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia ký kết.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai luận văn, tác giả đã sử dụng đồng bộ một số các phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Phương pháp thu thập thông tin: phân tích và khai thác thông tin từ các
nguồn tư liệu, đặc biệt là các tư liệu về chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc;
các văn bản quy phạm pháp luật; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài
liệu đã được công bố; các tài liệu của cơ quan có liên quan,…
Bên cạnh đó, đề tài sử dụng phương pháp khảo sát, điều tra với mục đích
thu thập thông tin từ các đối tượng có liên quan thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc tại Viện Hàn lâm. Cụ thể, đề tài đã khảo sát bằng bảng hòi 100 trường hợp,
bao gồm: Viện Xã hội học (10 phiếu); Viện NC Ấn Độ & Tây Nam Á (10
phiếu); Ban Tổ chức - Cán bộ (10 phiếu); Ban Kế hoạch - Tài chính (5 phiếu),
Văn phòng Viện Hàn lâm (10 phiếu); Văn phòng Đảng - Đoàn thể (05 phiếu);
Viện Thông tin Khoa học xã hội (5 phiếu); Viện NC Đông Bắc Á (10 phiếu);
Trung tâm Ứng dụng CNTT (5 phiếu); Viện Địa lý nhân văn (10 phiếu); Viện
Tâm lý học (10 phiếu); Viện Dân tộc học (10 phiếu). Số phiếu hợp lệ thu về 90
phiếu, mẫu phiếu khảo sát được trình bày tại Phụ lục của luận văn. Các kết quả
khảo sát được đề tài thu thập, thống kê, đánh giá, phân tích tại chương 2 của luận
văn.
Phương pháp phân tích và tổng hợp: các quan điểm khác nhau về nhận
thức khoa học xung quanh các khái niệm, các quy phạm pháp luật có liên quan
đến chính sách về BHXH bắt buộc.
Phương pháp so sánh: nhằm đối chiếu kinh nghiệm về BHXH của một số
8
nước trên thế giới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đóng góp, hoàn thiện, bổ sung những vấn đề lý luận và thực tiễn
của chính sách BHXH bắt buộc ở Việt Nam nói chung và Viện Hàn lâm nói
riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp những nghiên cứu, tư liệu thực tế tại Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam qua đó phản ánh được thực trạng và đề xuất được
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã
hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm. Luận văn có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn
lâm củng cố lại việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với
người lao động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt
buộc đối với người lao động.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối
với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa
9
học xã hội Việt Nam.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức được sử dụng làm
tiêu đề cho một văn bản pháp luật vào năm 1935 của Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ. Thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật được thông qua tại
New Zealand năm 1938. Năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế giới thứ
hai, thuật ngữ này được dùng trong Hiến chương Đại Tây Dương (the Atlantic
Charter of 1941). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhanh chóng chấp nhận
thuật ngữ “bảo hiểm xã hội”, đây là mốc quan trọng ghi nhận giá trị của thuật
ngữ này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhưng phản ánh được nguyện vọng
sâu sắc nhất của nhân dân lao động trên toàn thế giới [17].
BHXH đã ra đời và phát triển hàng trăm năm nay với nhiều mô hình,
nhiều cách thức thực hiện khác nhau trên thế giới. Để có được các mô hình
BHXH đa dạng và phong phú như ngày nay, các nhà lý luận, các nhà quản lý
đã tốn khá nhiều công sức và thời gian để nghiên cứu và tổng kết thực tiễn.
Không thể không kể đến sự đấu tranh của giai cấp công nhân và người lao
động trên toàn thế giới để có được BHXH như ngày hôm nay.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “bản chất bảo hiểm xã hội là sự
bảo vệ của xã hội đối với các thành viên trong xã hội thông qua một loạt các
biện pháp công cộng để đối phó với các rủi do xã hội, trước hết là khó khăn
về kinh tế - xã hội do bị ngừng hoặc giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm
đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết; cung cấp chăm sóc y tế và trợ
10
cấp cho các gia đình đông con.” [17].
Theo Tập 1, Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Bảo hiểm xã hội là sự thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc
giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp,
tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất. Dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự
đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp
luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng
thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội” [38, tr.12]
Theo Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014 của
Quốc hội: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội” [29, tr.2]
Ở Việt Nam hiện nay có 02 hình thức đóng BHXH là: BHXH bắt buộc
và BHXH tự nguyện.
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập cho người lao động, là sản phẩm
tất yếu khách quan của xã hội phát triển, là hình thức dịch vụ công để quản lý
và đáp ứng nhu cầu chia sẻ các rủi ro trong cộng đồng, là quyền cơ bản của
người lao động.
BHXH vừa để thực hiện các mục đích xã hội, vừa để thực hiện các mục
đích kinh tế trong mỗi cộng đồng, quốc gia. Trong đó mục đích kinh tế và
mục đích xã hội luôn được thực hiện đồng thời, đan xen lẫn nhau, là hai mặt
không thể tách rời của BHXH. Khi đề cập đến các lợi ích kinh tế của BHXH
đối với người lao động và đối với xã hội là đã bao hàm cả mục đích xã hội
của nó. Ngược lại, các mục đích xã hội của BHXH cũng chỉ đạt được khi nó
đồng thời mang lại các lợi ích kinh tế thiết thực cho người tham gia.
11
Về phương diện xã hội: BHXH là sự chia sẻ rủi ro, bảo đảm an toàn xã hội;
Về phương diện kinh tế: BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập giữa
những người tham gia bảo hiểm, thông qua việc hình thành quỹ tiền tệ chung;
Về phương diện chính trị, pháp luật: Khi được nhà nước điều chỉnh bằng
pháp luật, BHXH đã trở thành quyền cơ bản của người lao động, xét trên cả
bình diện quốc gia và quốc tế. Đồng thời đó cũng là trách nhiệm của họ và
người sử dụng lao động phải tham gia BHXH. Vì vậy, BHXH là một chính
sách xã hội quan trọng, là bộ phận cơ bản để đảm bảo an sinh xã hội của các
quốc gia.
1.1.3. Các chế độ của BHXH
Chế độ BHXH là hệ thống các quy định của nhà nước về mức hưởng,
điều kiện hưởng; mức đóng, điều kiện đóng BHXH. Tùy theo từng trường
hợp BHXH mà nhà nước có các quy định khác nhau về các mức, các điều
kiện này. Trong Công ước 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) có quy
định trợ cấp tối thiểu cho 9 nhánh chế độ BHXH là (1) chế độ ốm đau; (2) chế
độ thai sản; (3) chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (4) chế độ bảo
hiểm thất nghiệp; (5) chế độ chăm sóc y tế; (6) chế độ tàn tật (ở Việt Nam còn
gọi là chế độ mất sức lao động, nhưng với nghĩa khác); (7) chế độ tử tuất; (8) chế
độ hưu trí, và (9) chế độ chăm sóc gia đình (cho những người đông con) [26].
Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước trong từng giai đoạn, để có
thể xây dựng, áp dụng các quy định này. Như đã nêu, ở Việt Nam hiện nay,
theo quy định của Luật BHXH, đã thực hiện 6 chế độ trong 9 chế độ BHXH
nêu trên. Trước năm 1995, nước ta cũng đã thực hiện các chế độ, trong đó có
chế độ mất sức lao động, nhưng lại không có chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Căn cứ theo Điều 4, Luật BHXH 2014 quy định các chế độ BHXH tại
Việt Nam hiện nay như sau:
a) Bảo hiểm xã hội bắt buộc có các chế độ sau đây: Ốm đau; Thai sản;
Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Hưu trí; Tử tuất.
12
b) Bảo hiểm xã hội tự nguyện có các chế độ sau đây: Hưu trí; Tử tuất.
c) Bảo hiểm hưu trí bổ sung do Chính phủ quy định [29, tr.7].
Quy định các chế độ BHXH là những nội dung cốt lõi của bất kỳ hệ
thống BHXH nào, trong đó quy định rõ ràng các quan hệ trách nhiệm và
nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH; quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi của
người lao động khi tham gia BHXH. Ví dụ, trong chế độ BHTN, quy định rất
rõ đối tượng nào được tham gia bảo hiểm; quy định mức đóng góp BHTN của
người lao động và người sử dụng lao động; quy định khi nào thì người thất
nghiệp được hưởng trợ cấp BHTN; quy định về mức hưởng trợ cấp và thời
gian hưởng trợ cấp; quy định về các quyền lợi khác có liên quan như học
nghề, hỗ trợ tìm việc làm…
1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.1. Chính sách bảo hiểm xã hội
1.2.1.1. Sơ lược lịch sử chính sách bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH luôn là một trong những chính sách quan trọng trong
hệ thống chính sách xã hội nói chung và là chính sách cốt lõi của hệ thống
chính sách an sinh xã hội của bất kỳ quốc gia nào, hệ thống xã hội nào.
Về mặt chính sách, BHXH chính thức ra đời từ năm 1838 dưới thời Tể
Tướng Bismark. Ban đầu chính sách BHXH chỉ có chế độ trợ cấp TNLĐ -
BNN sau đó bổ sung trợ cấp ốm đau (năm 1865). Tuy nhiên, để có tính pháp
lý cao thì phải đến năm 1883, đạo luật về BHXH mới được ban hành. Đây có
thể coi là văn bản pháp luật đầu tiên về BHXH trên thế giới. Như vậy, kể từ
khi có chính sách BHXH đến khi có được đạo luật cơ bản về BHXH, nước
Đức (nước Phổ cũ) đã phải mất gần nửa thế kỷ (45 năm) với nhiều thay đổi,
sự phát triển kinh tế - xã hội của nước Đức [33].
Sau Đức, nhiều nước châu Âu cũng cho ra đời các Đạo luật BHXH của
mình. Đến đầu thế kỷ XX, BHXH đã mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, đặc
biệt là các nước Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canađa và một số nước khác. Ở Mỹ
13
đạo luật đầu tiên lại không phải là đạo Luật về BHXH mà về an sinh xã hội
(Social Security Act 1935), trong đó BHXH là nòng cốt, ngoài ra còn có các
chế độ phúc lợi khác như trợ cấp dưỡng lão, trợ cấp tàn tật, phúc lợi y tế… dần
dần các chế độ được bổ sung và điều chỉnh để phù hợp với sự phát triển kinh tế
- xã hội của nước Mỹ như trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm việc làm, phúc lợi phụ
nữ và trẻ em [33].
Trong quá trình phát triển, BHXH đã trở thành một vấn đề quốc tế gắn
với vai trò của Liên hợp quốc mà trực tiếp là Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), là một trong những quyền cơ bản nhất của con người được ghi nhận
trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc: “Tất cả mọi người với tư
cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó
được đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế - xã hội và văn hóa, nhu
cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”. Tính đến thời điểm
hiện tại, theo ILO, trên thế giới có khoảng hơn 170 nước thực hiện chính sách
BHXH, trong đó 155 nước (chiếm 95%) nhưng chỉ có 63 nước (chiếm 38,6%)
thực hiện hình thức bảo hiểm hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản [24].
Ở Việt Nam, ngay từ năm 1929, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
Đông Dương (một trong các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam)
đã nêu: “Tổ chức tất cả vô sản giai cấp và công hội, thực hành bảo hiểm cho
thợ thuyền, giúp đỡ thợ thuyền thất nghiệp...”. Điều 7 Nghị quyết về giành
chính quyền toàn quốc và thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh được
thông qua tại kỳ họp Quốc dân Đại hội từ ngày 16 đến 17-8-1945 có viết:
“Ban bố Luật Lao động; ngày làm 08 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo
hiểm” [24].
Trên cơ sở này, ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, ngày
3-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ ban hành Sắc lệnh
số 54-SL về ấn định các điều kiện cho công chức về hưu trí; ngày 14-6-1946
ban hành Sắc lệnh số 105-SL quy định về việc cấp hưu bổng và đóng BHXH
14
đối với công chức. Đây là hai văn bản pháp luật đầu tiên quy định về quyền
lợi, mức hưởng hưu trí của công chức, khẳng định nguyên tắc đóng - hưởng
của BHXH, quy định trách nhiệm bảo hộ của Nhà nước đối với Quỹ BHXH.
Kế thừa các quy định này, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng của đất
nước, tham khảo có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm quốc tế về BHXH,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, văn bản pháp luật về
BHXH, tiêu biểu như Nghị định số 235-HĐBT, ngày 18-9-1985, của Hội
đồng Bộ trưởng Về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và
các lực lượng vũ trang, bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển
sang chế độ trả lương bằng tiền do quỹ hàng hóa bảo đảm; Nghị định số 236-
HĐBT, ngày 18-9-1985, của Hội đồng Bộ trưởng Về bổ sung, sửa đổi một số
chế độ, chính sách về thương binh xã hội; Luật BHXH năm 2006; Nghị quyết
số 21-NQ/TW, ngày 22-11-2012, của Bộ Chính trị Về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 -
2020; Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1215/QĐ-TTg, ngày 23-7-2013;
Luật BHXH năm 2014. Mới đây nhất, cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo về an
sinh xã hội tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ngày 23-5-
2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số
28-NQ/TW Về cải cách chính sách BHXH [24].
Quan điểm chỉ đạo nêu trên thể hiện tầm nhìn chiến lược có tính xuyên
suốt đối với việc phát triển BHXH trong hệ thống chính sách xã hội nhằm bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển bền vững đất nước, thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Đến nay, đã hình thành hệ thống chính sách BHXH tương đối đồng bộ gồm
bảo hiểm hưu trí - tử tuất, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm ốm đau, thai sản và
bảo hiểm tai nạn lao động, cơ bản bao quát các chế độ BHXH theo thông lệ
quốc tế về BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện trong các ngành, thành phần
15
kinh tế với các loại hình lao động khác nhau. Quỹ BHXH trở thành quỹ an
sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những
người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Diện bao phủ
BHXH theo quy định và quy mô tham gia BHXH được mở rộng, số người
tham gia, số người được hưởng BHXH tăng lên [24].
Sơ lược lịch sử phát triển BHXH ở Việt Nam cho thấy, cả về tư duy và
trong tổ chức thực hiện, chính sách BHXH luôn được cải cách, được đổi mới
để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn
phát triển. Nói cách khác, cải cách BHXH là vấn đề có tính khách quan và
điều này không có nghĩa các chính sách BHXH đã qua “có vấn đề”, ngược lại,
các chính sách BHXH qua các thời kỳ đều đã làm tròn “sứ mạng lịch sử” của
mình. Ngay trong Nghị quyết 28-NQ/TƯ nêu trên đã cũng đã khẳng định,
chính sách BHXH đã từng bước khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột
chính của hệ thống ASXH, là sự bảo đảm thay thế, hoặc bù đắp một phần thu
nhập cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro trong cuộc sống.
1.2.1.2. Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội
- Thực hiện chính sách BHXH nhằm ổn định cuộc sống người lao động,
trợ giúp người lao động khi gặp rủi ro: ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp... sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm
có việc làm....
- Thực hiện tốt chính sách BHXH nhất là chế độ hưu trí, góp phần ổn
định cuộc sống của người lao động khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả
năng lao động.
- Thực hiện chính sách BHXH góp phần ổn định và nâng cao chất lượng
lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong các
thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- BHXH, BHYT, BHTN là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần
16
vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các
tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh
xã hội bền vững.
1.2.1.3. Sự cần thiết của chính sách bảo hiểm xã hội
BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Trong
Nghị quyết số 28-NQ/TW đã xác định rõ, BHXH là một trụ cột chính của hệ
thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn
định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.
1.2.1.4. Nguyên tắc hoạt động của chính sách bảo hiểm xã hội
Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
- Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.
- Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương
tháng của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính
trên cơ sở mức thu nhập tháng do người lao động lựa chọn.
- Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa
có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và
chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian đóng
bảo hiểm xã hội đã được tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì không tính
vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung, thống nhất, công khai,
minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các
quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước
quy định và chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.
- Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
17
đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội [29, tr.7]
1.2.2. Chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.2.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và
BHXH hội bắt buộc là một trong những chính sách an sinh hữu ích đối
người sử dụng lao động phải tham gia [29, tr.6].
với người lao động. Con người muốn tồn tại và phát triển cần có hoạt động
lao động do đó xuất hiện mối quan hệ giữa người lao động và đơn vị sử dụng
lao động. Hàng tháng người lao động sẽ trích nộp một khoản từ tiền lương và
đơn vị sử dụng lao động sẽ phải chi trả một khoản tiền ngoài tiền lương để
trích nộp BHXH bắt buộc cho người lao động.
1.2.2.2. Chính bảo hiểm xã hội bắt buộc
Chính sách BHXH bắt buộc nằm trong hệ thống chính sách BHXH ở
Việt Nam, do đó hội tụ đầy đủ các đặc trưng cơ bản của chính sách BHXH:
lịch sử, vai trò, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động,…
Đặc điểm của chính sách BHXH bắt buộc:
- Việc tham gia loại hình bảo hiểm này mang tính chất bắt buộc;
- Pháp luật quy định cụ thể về mức đóng và phương thức đóng BHXH
bắt buộc: theo Điều 85 Luật bảo hiểm xã hội 2014.
- Người tham gia BHXH bắt buộc được hưởng nhiều quyền lợi hơn so
với người tham gia BHXH tự nguyện gồm chế độ sau: ốm đau; thai sản;
lương hưu; tử tuất; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
1.3. Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao
động ở Việt Nam
1.3.1. Hệ thống chính sách, pháp luật về Bảo hiểm xã hội cho người
lao động ở Việt Nam.
Đến nay, nước ta đã hình thành được hệ thống chính sách BHXH khá
đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc tế, gồm cả
18
loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ
lao động lẫn người không có quan hệ lao động; cho cả khu vực kinh tế chính
thức lẫn khu vực phi chính thức.
Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH được thiết kế, điều
chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp. Với vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự
tham gia của người lao động và người sử dụng lao động, quỹ BHXH đã trở thành
quỹ an sinh xã hội lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ
giữa những người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH.
Mô hình tổ chức hệ thống BHXH cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế
với việc tách cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan tổ chức thực hiện chính
sách đã phát huy được vai trò và tính hiệu quả trong từng khâu thiết kế, xây
dựng, hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách, thu, chi và quản lý Quỹ
BHXH. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH được tăng
cường. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BHXH thường xuyên được
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc
chấp hành pháp luật BHXH được chú trọng; công tác đối ngoại và hội nhập
quốc tế về BHXH được đẩy mạnh.
Theo Điều 6 Luật BHXH năm 2014 về chính sách của Nhà nước đối với
BHXH: Khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia
bảo hiểm xã hội; Hỗ trợ người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; Bảo hộ
quỹ bảo hiểm xã hội và có biện pháp bảo toàn, tăng trưởng quỹ; Khuyến
khích người sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm hưu
trí bổ sung; Ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ thông tin trong quản lý bảo
hiểm xã hội [29, tr.7].
1.3.2. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam
Căn cứ theo Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định về đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc như sau:
(1) Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo
19
hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một
công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp
đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo
pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng
đến dưới 03 tháng;
c) Cán bộ, công chức, viên chức;
d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác
trong tổ chức cơ yếu;
đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
e) Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an
nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo
học được hưởng sinh hoạt phí;
g) Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có
hưởng tiền lương;
i) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
(2) Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có
giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt
buộc theo quy định của Chính phủ.
(3) Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm
cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính
20
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ
chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ
kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng
lao động theo hợp đồng lao động.
(4) Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ
đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này.
(5) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm xã hội.
Các đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều này sau đây gọi
chung là người lao động [29, tr.5].
1.3.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam
1.3.3.1 Chế độ ốm đau
Căn cứ theo Điều 25, Luật BHXH 2014 quy định điều kiện hưởng chế độ
ốm đau:
- Người lao động bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động
phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền
theo quy định của Bộ Y tế.
- Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do
say rượu hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục do Chính
phủ quy định thì không được hưởng chế độ ốm đau.
- Phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận
của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.
- Thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau cùng mức hưởng chế độ ốm đau
của người lao động sẽ phụ thuộc vào đối tượng hưởng, làm việc trong môi
trường bình thường hay làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại , nguy
hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm [29, tr.14].
1.3.3.2. Chế độ thai sản
- Người lao động thuộc đối tượng và thuộc một trong các trường hợp
21
theo quy định tại Điều 30 và Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 khi
đang đóng bảo hiểm xã hội vào quỹ ốm đau và thai sản sẽ được nghỉ hưởng
chế độ thai sản.
- Trường hợp đối với lao động nữ đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản sẽ
được nghỉ khám thai, hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu
hoặc phá thai bệnh lý; nghỉ hưởng chế độ khi sinh con; nghỉ hưởng chế độ khi
thực hiện các biện pháp tránh thai.
- Trường hợp lao động nữ mang thai hộ hay người mẹ nhờ mang thai hộ,
người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi cũng sẽ được nghỉ
hưởng chế độ thai sản khi đủ điều kiện hưởng.
- Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06
tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở
tại tháng lao động nữ sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi.
Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha được
trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con
[29, tr.16].
1.3.3.3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động:
*) Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;
- Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc
theo yêu cầu của người sử dụng lao động;
- Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời
gian và tuyến đường hợp lý;
- Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.
Điều kiện hưởng chế độ bệnh nghề nghiệp như sau:
- Bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội ban hành khi làm việc trong môi trường hoặc nghề
22
có yếu tố độc hại;
- Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị bệnh quy định tại
khoản 1 Điều này.
*) Người lao động khi bị tai nạn lao động thuộc đối tượng quy định tại
Điều 42 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và đủ điều kiện được quy định thuộc
Điều 43, Điều 44 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 sẽ được hưởng trợ cấp một
lần hay trợ cấp hàng tháng tùy thuộc vào mức độ suy giảm khả năng lao động,
thời gian tham gia bảo hiểm xã hội.
*) Ngoài 2 trợ cấp trên thì người lao động nếu đủ điều kiện hưởng chế độ
tai nạn lao động, chế độ bệnh nghề nghiệp còn có thể được cấp phương tiện
trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình; hưởng trợ cấp phục vụ hàng tháng; trợ
cấp một lần khi chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; dưỡng sức, phục
hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật [29, tr.19].
1.3.3.4. Chế độ hưu trí
*) Về điều kiện nghỉ hưu của người lao động thì theo quy định sẽ phụ
thuộc vào tuổi, thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu là 20 năm, công
việc, mức suy giảm khả năng lao động,… được quy định tại Điều 54 và Điều
55 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
*) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người
lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật này được tính bằng 45%
mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62
của Luật này và tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:
- Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm,
năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;
- Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.
- Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định tại điểm a và điểm b
khoản này được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.
*) Về thời điểm hưởng lương hưu hoặc là thời điểm ghi trong quyết định
23
nghỉ việc do người sử dụng lao động lập khi người lao động đã đủ điều kiện
hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật; hoặc là tính từ tháng liền kề
khi người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu và có văn bản đề nghị gửi
cho cơ quan bảo hiểm xã hội; hoặc là thời điểm ghi trong văn bản đề nghị của
người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu.
*) Về thời điểm hưởng lương hưu thì là thời điểm ghi trong quyết định
nghỉ việc do người sử dụng lao động lập khi người lao động đã đủ điều kiện
hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật. Đối với người lao động đang
đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại điểm h khoản 1 Điều 2 của Luật
này, thời điểm hưởng lương hưu được tính từ tháng liền kề khi người lao
động đủ điều kiện hưởng lương hưu và có văn bản đề nghị gửi cho cơ quan
bảo hiểm xã hội.
*) Đối với người lao động quy định tại điểm g khoản 1 Điều 2 của Luật
này và người đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội, thời điểm hưởng
lương hưu là thời điểm ghi trong văn bản đề nghị của người lao động đã đủ
điều kiện hưởng lương hưu theo quy định [29, tr.21].
(*) Bảo hiểm xã hội 1 lần
Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này mà có yêu cầu thì
được hưởng bảo hiểm xã hội một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 54
của Luật này mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội hoặc theo quy định tại
khoản 3 Điều 54 của Luật này mà chưa đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội và
không tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện;
- Ra nước ngoài để định cư;
- Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng
như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã
chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế;
- Trường hợp người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1
Điều 2 của Luật này khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc mà không đủ điều kiện
24
để hưởng lương hưu [29, tr.24].
1.3.3.5. Chế độ tử tuất
Chế độ tử tuất hiện nay sẽ gồm có trợ cấp mai táng, trợ cấp tuất hàng
tháng, trợ cấp tuất một lần.
Căn cứ Khoản 1 Điều 67 Luật BHXH 2014 những người đang tham gia
BHXH, hoặc đang bảo lưu thời gian đóng; tòa tuyên án là chết, trường hợp
sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng:
- Đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên nhưng chưa hưởng bảo
hiểm xã hội một lần;
- Đang hưởng lương hưu;
- Chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng với
mức suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Căn cứ Khoản 2 Điều 67 Luật BHXH 2014 quy định thân nhân của
những người quy định tại khoản 1 Điều này được hưởng trợ cấp tuất hàng
tháng nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- Con chưa đủ 18 tuổi; con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng
lao động từ 81% trở lên; con được sinh khi người bố chết mà người mẹ đang
mang thai;
- Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55
tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ
hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo
hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên
đối với nữ;
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ
hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo
25
hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị
suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Mức trợ cấp tuất hàng tháng phụ thuộc vào mức lương cơ sở, mức trợ
cấp tuất một lần phụ thuộc vào thời gian tham gia bảo hiểm xã hội và mức
tiền lương bình quân đóng bảo hiểm xã hội [29, tr.26].
1.3.3.6. Bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chế độ của bảo hiểm xã hội khi
người lao động chấm dứt hợp đồng lao động với đơn vị sử dụng lao động. Để
được hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải đang tham gia đóng góp
vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong khoảng thời gian 24
tháng trước khi bị thất nghiệp.
Và làm hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp thì trong thời gian 3 tháng kể từ
khi thất nghiệp, người lao động phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại
Trung tâm dịch vụ việc làm. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp bằng 60% mức
bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề
trước khi thất nghiệp.
1.3.4. Mức đóng BHXH bắt buộc
Đối tượng
Quỹ BHXH
Quỹ TNLĐ,
Quỹ
Quỹ
Tổng mức
BNN
BHTN
BHYT
đóng
Qũy hưu trí,
Quỹ ốm đau,
tử tuất
thai sản
0
1%
1,5%
10,5%
Người lao động
8%
0
Việt Nam
0
0
1,5%
1,5 %
Người lao động
0
0
nước ngoài
Nguồn: Đề tài tạo khung theo mức đóng quy định của Luật BHXH
26
Bảng 1.1. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động
Bảng 1.2. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người sử dụng lao
Đối tượng
Quỹ BHXH
Quỹ TNLĐ,
Quỹ
Quỹ
Tổng mức
BNN
BHTN
BHYT
đóng
Qũy hưu
Quỹ ốm đau,
trí, tử tuất
thai sản
Người sử dụng lao
14%
3%
0,5%
1%
3%
21,5%
động Việt Nam
Người sử dụng lao
0
3%
0,5%
0
3%
6,5 %
động nước ngoài
Nguồn: Đề tài tạo khung theo mức đóng quy định của Luật BHXH
động
1.4. Tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.4.1. Triển khai thực hiện chính sách
Sau khi Bộ luật Lao động ra đời, Luật BHXH có hiệu lực, việc thực hiện
chính sách BHXH đối với người lao động đã đạt được những kết quả tích cực.
Tính đến nay, chính sách BHXH đã chuyển dần từ tự nguyện sang chính sách
bắt buộc và tiến tới thực hiện BHXH toàn dân, do Nhà nước chịu trách nhiệm
tổ chức với sự tham gia rộng rãi của người dân. Đáng chú ý, chính sách
BHXH có sự chia sẻ giữa Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao
động ở các mức độ khác nhau, tính chất chia sẻ này góp phần quan trọng để
thay đổi tích cực hơn nhận thức của người dân, giảm bớt sự ỷ lại vào Nhà
nước, nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động, tăng
tính bền vững cho chính sách.
Số người tham gia BHXH, theo báo cáo của BHXH Việt Nam tính đến
hết năm 2019, số người tham gia BHXH bắt buộc là 15,185 triệu người;
BHXH tự nguyện là 551 nghìn người; bảo hiểm tai nạn lao động bệnh nghề
nghiệp là 15,068 triệu người; BHTN là 13,343 triệu người; BHYT là 85,390
27
triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 90% dân số [39].
Các chính sách BHXH đã thể hiện tính công bằng thông qua nguyên tắc
đóng - hưởng, công bằng, chia sẻ. Quỹ Bảo hiểm hưu trí - tử tuất với mô hình
tích lũy đang là quỹ dài hạn có tính chất chia sẻ giữa các thế hệ người lao
động, các quỹ bảo hiểm ngắn hạn (ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp). Thống kê cho thấy, ngành BHXH đã hoàn thành việc
cấp mã số BHXH và thẻ BHYT theo mã số BHXH cho gần 90 triệu người
tham gia BHXH, BHYT.
Hiện nay, với hơn 15 triệu người tham gia BHXH, tiến tới thực hiện
BHXH toàn dân theo tinh thần cải cách chính sách BHXH việc đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa BHXH để nâng cao chất lượng phục
vụ người tham gia và hưởng BHXH, BHYT đã trở thành yêu cầu cấp thiết.
BHXH Việt Nam đã tập trung triển khai mạnh mẽ ứng dụng công nghệ
thông tin trong hầu hết các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu: giao dịch điện tử
trong công tác thu BHXH, BHYT, BHTN và cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; giám
định điện tử chi phí khám, chữa bệnh BHYT thông qua Hệ thống thông tin
giám định BHYT; số hóa hồ sơ lưu trữ; các phần mềm phục vụ công tác tài
chính - kế toán, quản lý văn bản… Hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị công nghệ
thông tin được trang bị đầy đủ và vận hành hiệu quả [39].
1.4.2. Đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách BHXH bắt buộc ở
Việt Nam
a) Đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu của chính sách BHXH bắt buộc
Với mục tiêu BHXH toàn dân, vì vậy công tác thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc phải hướng tới mục tiêu phát triển bền vững: bảo đảm quyền
lợi của người dân; nâng cao niềm tin của người dân với chính sách, pháp luật
của Nhà nước; đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính.
b) Đảm bảo tính pháp lý, hợp lý, thống nhất, ổn định và linh hoạt trong
28
tổ chức thực hiện chính sách BHXH bắt buộc.
Chất lượng của việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH bắt buộc được
xem xét qua tính hợp pháp và tính hợp lý, đây là hai tiêu chuẩn đánh giá việc
thực hiện chính sách ở hai góc độ khác nhau, có mối quan hệ mật thiết, thống
nhất và bổ trợ cho nhau. Bên cạnh hoạt động lập pháp bao giờ cũng tồn tại
hoạt động lập quy để bảo đảm tính thống nhất, ổn định, linh hoạt trong quá
trình thực hiện chính sách BHXH bắt buộc.
c) Đảm bảo quyền là lợi ích hợp pháp của các đối tượng thụ hưởng chính
sách BHXH bắt buộc
Chính sách về BHXH ngày càng được ban hành đầy đủ, hoàn thiện hơn.
Chính sách BHXH nói chung và chính sách BHXH bắt buộc nói riêng đã phát
huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động,
người sử dụng lao động.
1.4.3. Các bước thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
1.4.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Để thực hiện chính sách BHXH bắt buộc có hiệu quả cần: xây dựng kế
hoạch thực hiện chính sách một cách chính xác, cụ thể các nội dung, nhiệm
vụ trong kế hoạch tổ chức điều hành; nguồn lực tài chính; trang thiết bị cơ sở
vật chất; thời gian hợp lý; kiểm tra đôn đốc việc thực hiện chính sách. Nguồn
nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng phải hiểu biết sâu sắc nội dung và
tầm quan trọng của chính sách BHXH bắt buộc. Trên cơ sở đó xác định chính
xác mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, các nguồn lực và giải pháp tổ chức thực
hiện chính sách BHXH bắt buộc phù hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế,
chính trị - xã hội của mỗi tổ chức, mỗi địa phương.
1.4.3.2. Phổ biến, tuyên truyền về chính sách BHXH bắt buộc
Phổ biến, tuyên truyền trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc có ý
nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt trong tổ chức thực hiện chính sách, quyết
định đến hiệu quả thực hiện chính sách. Nội dung tuyên truyền phải truyền tải
29
được vị trí, vai trò, ý nghĩa nhân văn của chính sách BHXH trong hệ thống
chính sách an sinh xã hội; làm rõ những vấn đề căn bản, cốt lõi của các điều
luật về BHXH bắt buộc góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội đối với các
chủ trương, chính sách BHXH, chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà
nước. Các hình thức phổ biến, tuyên truyền đa dạng, phong phú với nhiều thể
loại mới, tạo được điểm nhấn và thu hút sự quan tâm của đông đảo các tầng
lớp nhân dân, người lao động.
1.4.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc là khả năng
tổ chức, điều hành thực hiện chính sách một cách chặt chẽ, khoa học và hợp
lý. Phân công trách nhiệm trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc phải rõ
ràng, cụ thể: trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện
chính sách; xác định tổ chức, cá nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cá
nhân, tổ chức tham gia phối hợp trong quá trình thực hiện chính sách, điều đó
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách. Cần đặc biệt chú ý đến
trình độ, năng lực chuyên môn, khả năng, thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân
để tránh chồng chéo, trách nhiệm không rõ ràng.
1.4.3.4. Duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt buộc nhằm đảm bảo cho chính
sách được duy trì, tồn tại và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Công
tác tham mưu đề xuất các giải pháp, biện pháp duy trì bảo đảm cho chính sách
tồn tại và phát huy tác dụng là vô cùng quan trọng trong thực hiện chính sách.
Chính sách BHXH bắt buộc được duy trì, thực hiện tốt góp phần không nhỏ
vào mục tiêu an sinh xã hội của đất nước.
1.4.3.5. Điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Về nguyên tắc, thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách là của cơ
quan, tổ chức ban hành chính sách BHXH. Nhưng trên thực tế việc điều chỉnh
các nội dung, các cơ chế chính sách diễn ra rất năng động và linh hoạt trong
30
thực tế thực hiện chính sách BHXH nói chung và chính sách BHXH bắt buộc
nói riêng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan, thực tế việc thực
hiện chính BHXH bắt buộc sẽ gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế nên cần phải
có những điều chỉnh, bổ sung nội dung thực hiện chính sách phù hợp với yêu
cầu thực tế mỗi địa phương, mỗi tổ chức.
1.4.3.6. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra là một nhiệm vụ, một khâu quan trọng trong
thực hiện chính sách. Các ngành, các tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ có
trách nhiệm phối hợp chặt chẽ trong công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện chính sách BHXH bắt buộc. Kết quả kiểm tra sẽ được tiến hành
phân tích xử lý thông tin, đối chiếu so sánh với các quy định trong chính sách,
các quy định trong kế hoạch, quy chế, nội quy thực hiện chính sách để có cơ
sở phát hiện, phòng ngừa và xử lý vi phạm. Đồng thời đề xuất các biện pháp,
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực
hiện chính sách BHXH bắt buộc phù hợp với tình hình thực tế.
1.4.3.7. Đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Đánh giá, tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH là quá trình xem
xét, kết luận về sự chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện chính sách của chủ thể
thực hiện chính sách. Để công tác đánh giá, tổng kết việc thực hiện chính sách
đạt hiệu quả cao thì ngay từ các cấp cơ sở việc đánh giá, tổng kết phải chỉ ra
được chính xác ưu điểm, nhược điểm, kinh nghiệm thực hiện chính sách, các
tổ chức cá nhân thực hiện tốt hoặc không tốt. Đồng thời, công tác đánh giá,
tổng kết phải dựa trên các tiêu chuẩn, tiêu chí và các nguyên tắc nhất định.
1.5. Kinh nghiệm của một số quốc gia về BHXH và an sinh xã hội
1.5.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Là quốc gia láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, Trung
Quốc có những thành tích vượt bậc trong phát triển kinh tế và cùng với đó là
những thành công đáng chú ý trong phát triển hệ thống an sinh xã hội. Hệ
31
thống an sinh xã hội của Trung Quốc ra đời từ năm 1951 với việc ban hành
Quy định về bảo hiểm lao động. Trong thời kỳ đầu từ 1951-1978, hệ thống
bảo hiểm xã hội được vận hành trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung (chưa có
bảo hiểm thất nghiệp). Ở nông thôn Trung Quốc xây dựng hệ thống y tế cơ sở
chăm sóc cho 90% dân số nông thôn lúc đó. Thời kỳ tiếp theo từ năm 1978-
2002, cùng với quá trình cải cách mở cửa, phát triển kinh tế thị trường, Trung
Quốc xây dựng các chương trình bảo hiểm xã hội dựa trên việc làm và đóng
góp. Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thai sản và tai nạn lao động bắt đầu
được áp dụng lần lượt vào năm 1986, 1995 và 1996. Lần lượt trong năm 1998
và 1999, Trung Quốc áp dụng toàn quốc bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm y tế cơ bản.
Thời kỳ thứ 3 là thời kỳ mở rộng nhanh độ bao phủ từ 2003 đến nay.
Trung Quốc lựa chọn mô hình bảo hiểm đa tầng, bao phủ rộng, chế độ thụ
hưởng vừa phải và bền vững, đặt mục tiêu bao phủ toàn bộ dân số tới năm
2020, trong đó trọng tâm là hệ thống hưu trí, bảo hiểm y tế và hệ thống hỗ trợ
thu nhập tối thiểu. Trải qua quá trình phát triển, mô hình an sinh xã hội của
Trung Quốc hiện nay dựa trên các trụ cột chính là bảo hiểm xã hội (hưu trí, y
tế, thất nghiệp, thai sản và tai nạn lao động), trợ giúp và phúc lợi xã hội.
*)Bảo hiểm hưu trí có 5 loại chương trình khác nhau ở Trung Quốc
(không bao gồm chế độ cho lực lượng vũ trang): Chương trình hưu trí do
ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn bộ dành cho công chức và những người
hưởng lương từ ngân sách; Chương trình lương hưu cơ bản bắt buộc dành cho
các doanh nghiệp cũng như các tổ chức sự nghiệp công mà không được hoặc
chỉ được hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách; Chương trình bảo hiểm hưu
trí tự nguyện ở nông thôn; Chương trình bảo hiểm hưu trí tự nguyện đô thị;
Chương trình đảm bảo thu nhập tối thiểu.
*) Bảo hiểm y tế có 4 chương trình ở Trung Quốc: Chương trình bảo
hiểm y tế cơ bản cho người lao động đô thị; Chương trình bảo hiểm y tế cơ
bản cho người dân đô thị; Chương trình bảo hiểm y tế hợp tác nông thôn mới;
32
Chương trình hỗ trợ y tế do ngân sách đảm bảo.
*) Hạn chế mô hình an sinh xã hội Trung Quốc:
Mô hình an sinh xã hội của Trung Quốc phải đối mặt với những thách
thức lớn về tính bền vững. Trước hết là nguy cơ mất cân bằng quỹ bảo hiểm
xã hội khi số phải tài trợ lũy kế trong 30 năm qua lên tới 6 nghìn tỷ NDT do
già hóa dân số và ngân sách nhà nước sẽ không còn hỗ trợ những người trung
niên và người già nghỉ hưu. Khi đó, thế hệ lao động hiện tại phải đóng góp
lớn hơn để hỗ trợ thế hệ đã nghỉ hưu.
Một vấn đề nữa là sự phân mảnh các chương trình bảo hiểm xã hội ở
nông thôn và thành thị, làm hạn chế sự chia sẻ rủi ro, chi phí quản lý cao và
tác động phân phối lại thấp. Nó cũng gây khó khăn cho việc di chuyển lao
động từ vùng này sang vùng khác với chương trình bảo hiểm khác nhau. Sự
khác biệt địa phương cũng tạo ra sự cạnh tranh giữa các chính quyền địa
phương về mức phúc lợi và tạo ra gánh nặng tài chính lớn cho các địa
phương. Ngoài ra, mô hình an sinh xã hội của Trung Quốc cũng gặp phải các
vấn đề rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch với chương trình bảo hiểm tự
nguyện. Cuối cùng, quản lý và đầu tư tăng giá trị quỹ bảo hiểm xã hội từ đóng
góp như thế nào cho hiệu quả cũng là vấn đề cần chú ý giải quyết [35].
1.5.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái lan có mô hình an sinh xã hội đa trụ cột với sự bao phủ rộng: Trụ
cột số không cung cấp an sinh tối thiểu dưới dạng hỗ trợ xã hội; trụ cột thứ
nhất là bảo hiểm xã hội phi đóng góp do nhà nước quản lý; trụ cột thứ hai là
bảo hiểm xã hội bắt buộc do cá nhân đóng góp; trụ cột thứ ba là bảo hiểm tự
nguyện do cá nhân đóng góp. Trụ cột thứ tư là các chương trình bổ sung cho
người nghèo (Worldbank, 2009).
*) An sinh xã hội dựa trên đóng góp
Bảo hiểm xã hội là hệ thống cung cấp an sinh xã hội dựa trên sự đóng
33
góp. Ở Thái Lan, có hai chương trình BHXH bắt buộc, hệ thống an sinh nghề
nghiệp và BHXH tự nguyện. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm chương trình bảo
hiểm xã hội hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp và tai nạn và quỹ giáo viên.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng với các doanh nghiệp có từ 20
lao động trở lên được đưa ra vào năm 1991 với 4 chế độ: ốm đau, tàn tật, thai
sản và tử tuất. Từ năm 1993, chương trình mở rộng ra các doanh nghiệp có từ
10 lao động trở lên. Từ năm 1998, chương trình bao gồm cả hưu trí cho người
già và trợ cấp trẻ em. Từ năm 2002, chương trình bao phủ các doanh nghiệp có
từ 10 lao động trở lên. Bảo hiểm thất nghiệp được bổ sung áp dụng từ 2004.
Bảo hiểm xã hội được tài trợ nhờ sự đóng góp của người lao động, người
sử dụng lao động và hỗ trợ của chính phủ. Tổng đóng góp bảo hiểm, bao gồm
bảo hiểm ốm đau, thai sản, tàn tật, tử tuất, trẻ em và hưu trí là 3,5% thu nhập.
Sau đó, tỷ lệ này tăng lên 4,5% vào năm 2003. Đóng góp bảo hiểm thất
nghiệp là 0,5% lương của người lao động và 0,25% hỗ trợ từ chính phủ. Tổng
đóng góp vào quĩ là 5% với người lao động và sử dụng lao động và 2,75%
cho chính phủ.
Bên cạnh hệ thống BHXH dựa trên đóng góp bắt buộc là hệ thống an
sinh nghề nghiệp cung cấp cho công chức chính phủ và nhân viên doanh
nghiệp nhà nước. Hệ thống bảo hiểm này bao gồm nhiều chế độ: hưu trí, y tế
và chăm sóc trẻ em. Tất cả các chế độ đều do ngân sách nhà nước tài trợ.
Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, hệ thống an sinh nghề nghiệp này gây
ra gánh nặng ngân sách lớn. Do dân số già hóa, ngân sách chính phủ cho hưu
trí tăng mỗi năm 20%. Vì thế, vào năm 1997, Thái lan cải cách hệ thống hưu
trí, chuyển từ nhà nước tài trợ kiểu lợi ích xác định sang kiểu đóng góp xác
định. Mức lương tính lương hưu được tính trong 60 tháng trước thay vì mức
lương của tháng cuối cùng và tỷ lệ hưởng lương hưu không quá 70% lương
làm việc. Cả chính phủ và người lao động, mỗi bên đóng góp 3% lương vào
34
quỹ bảo hiểm.
Thái lan có 3 loại bảo hiểm xã hội tự nguyện là quỹ dự phòng, quỹ nghỉ
hưu và bảo hiểm tư nhân. Quỹ dự phòng thường áp dụng với các công ty lớn
và vừa. Người lao động sẽ đóng góp từ 3-15% lương vào quỹ và người sử
dụng lao động phải đóng góp tương đương hoặc cao hơn người lao động. Khi
nghỉ hưu, người lao động lĩnh một lần tiền hưu trí. Ngoài ra, ở Thái Lan còn
có quỹ nghỉ hưu tương hỗ. Quỹ này nhằm mục tiêu tiết kiệm tự nguyện cho
người dân khi nghỉ hưu.
*) An sinh xã hội phi đóng góp
An sinh phi đóng góp ở Thái Lan bao gồm chương trình y tế phổ thông
và trợ cấp người già. Chương trình y tế phổ thông cung cấp chăm sóc y tế cho
tất cả công dân Thái Lan không có bảo hiểm y tế. Những người tham gia phải
đăng kí để nhận thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Toàn bộ kinh phí lấy từ ngân
sách nhà nước.
Trợ cấp người già được áp dụng từ 1993 để cung cấp thu nhập cho người
già nghèo hoặc tàn tật. Vào năm 2010, có hơn 5,9 triệu người được nhận trợ
cấp với số tiền 500 baht/tháng.
Tuy nhiên, hệ thống an sinh xã hội của Thái Lan vẫn còn đang trong giai
đoạn hoàn thiện với nhiều vấn đề cần giải quyết như mức độ bao phủ, mức
thụ hưởng và vấn đề quản lý. Chẳng hạn, nhiều lao động khu vực phi chính
thức chưa được bao phủ bảo hiểm xã hội. Chính phủ cũng thiếu kinh phí để
tài trợ bao phủ toàn bộ kinh phí y tế. Một thách thức với Thái lan là tình trạng
35
già hóa dân số rất nhanh [35].
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, đề tài đã làm rõ được những vấn đề lý luận cơ bản về
chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chính sách bảo xã hội bắt buộc nói
riêng tại Việt Nam. Nội dung chương 1 làm rõ các khái niệm, lịch sử, vai trò,
bản chất, nguyên tắc và các chế độ của chính sách BHXH, BHXH bắt buộc.
Bên cạnh đó, đề tài còn đưa ra các bước để tổ chức thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội bắt buộc để làm cơ sở cho việc phân tích trong chương 2. Mặt
khác, đề tài nêu ra một số kinh nghiệm thực hiện chính sách BHXH và An
sinh xã hội của một số nước trên thế giới để làm tham khảo kinh nghiệm trong
36
việc đề xuất giải pháp trong chương 3.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Bảo hiểm
xã hội bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm tình hình của Viện Hàn lâm
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - tên giao dịch quốc tế là
Vietnam Academy of Social Sciences (VASS) - có tiền thân từ Ban nghiên
cứu Lịch sử - Địa lý - Văn học (gọi tắt là Ban nghiên cứu Sử - Địa - Văn),
được thành lập ngày 02 tháng 12 năm 1953, trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam kể từ cơ quan tiền
thân được thành lập năm 1953 đến nay đã có lịch sử hình thành và phát triển
liên tục 67 năm.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ,
thực hiện chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học xã hội; cung
cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của
đất nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
tư vấn về chính sách phát triển trong lĩnh vực khoa học xã hội; đào tạo nhân lực
có trình độ cao về khoa học xã hội theo quy định của pháp luật.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có tên giao dịch quốc tế bằng
tiếng Anh là: Viet Nam Academy of Social Sciences, viết tắt là VASS [13].
Về cơ cấu tổ chức: Căn cứ Nghị định số 99/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng
8 năm 2017 của Chính phủ, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam có 42 đơn vị
37
thuộc và trực thuộc [13, tr.4].
Các đơn vị quy định từ khoản 1 đến khoản 5 Điều 3 là các đơn vị chuyên
môn giúp việc cho Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Văn
phòng được tổ chức 10 phòng [13, tr.4].
Các đơn vị quy định từ khoản 6 đến khoản 38 Điều 3 là các tổ chức khoa
học và công nghệ công lập [13, tr.6].
Các đơn vị quy định từ khoản 39 đến khoản 42 Điều 3 là các đơn vị sự
nghiệp công lập khác [13, tr.6].
Tổng số CCVC&NLĐ tính đến hết năm 2019 là 1865 người, trong đó: biên chế là 1588 người, hợp đồng 68, 161 là 169 người, hợp đồng khác là 108 người.
Nhận thức rõ tầm quan trọng về công tác BHXH, Viện Hàn lâm luôn
thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc công tác
đóng BHXH bắt buộc tại cơ quan. Đồng thời yêu cầu thủ trưởng các đơn vị
thuộc, trực thuộc quán triệt và thực hiện tốt công tác đóng BHXH, thực hiện
tốt các chế độ đảm quyền lợi của người lao động của đơn vị mình.
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Bảo hiểm
xã hội bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
a. Yếu tố khách quan
Luật BHXH, hệ thống các văn bản pháp luật về BHXH đã đi vào
cuộc sống, từng bước mở rộng đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH,
phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động và người sử dụng lao động, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu
ASXH của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách,
chế độ về BHXH cũng bộc lộ không ít các điểm bất hợp lý thể hiện trong bản
thân nội dung quy định của chính sách, chế độ và việc tổ chức thực thi các
quy định này trong các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, hưu trí và tử tuất của bắt buộc.
38
b. Yếu tố chủ quan
Sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Ban Chấp hành Đảng bộ, sự lãnh đạo và
điều hành quyết liệt và hiệu quả của Lãnh đạo Viện Hàn lâm KHXH Việt
Nam trong thực hiện chính sách BHXH.
Viện Hàn lâm luôn đảm bảo nguồn lực tài chính đầy đủ để đóng BHXH
theo quy định của Nhà nước.
Đây là yếu tố thuận lợi trong công tác thực hiện chính sách BHXH của
Viện Hàn lâm.
Nhận thức, hiểu biết của người lao động tại Viện Hàn lâm về chính sách
BHXH bắt buộc:
Với đặc thù là cơ quan nghiên cứu, nên người lao động làm việc tại
Viện Hàn lâm luôn nhận thức rõ tầm quan trọng trong việc tham gia đóng
BHXH bắt buộc. Viện Hàn lâm cũng đã dành sự quan tâm tới chính sách An
sinh xã hội thông qua số đề tài, đề án nghiên cứu của Viện .
Nhưng người lao động cũng chỉ thật sự quan tâm khi có liên quan đến
quyền lợi của mình trong một chế độ nào đó (ốm đau, thai sản, hưu trí,...). Xét
về sự hiểu biết tổng thể chế độ chính sách BHXH bắt buộc thì phần lớn người
lao động chưa dành nhiều sự quan tâm, tìm hiểu sâu chính sách.
Đây cũng là yếu tố này ảnh hưởng đến công tác thực hiện chính sách
BHXH của Viện Hàn lâm.
2.2. Thực trạng triển khai thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội bắt
buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2.2.1. Thực trạng các đối tượng có liên quan thực hiện chính sách
Trong những năm qua, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã
thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc chính sách
BHXH bắt buộc tại cơ quan. Căn cứ Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018
của Ban Chấp hành TW về Cải cách chính sách BHXH và Nghị quyết số
39
125/NQ-CP ngày 08/10/2019 của Chính phủ ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW; Các đơn vị thuộc,
trực thuộc Viện Hàn lâm đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan BHXH trên
địa bàn thành phố và các Bộ, Ban, ngành có liên quan trong thực hiện chính
sách BHXH bắt buộc. Đồng thời tích cực, chủ động trong việc đưa ra các ý kiến
đóng góp cho các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về lao động, việc làm,
BHXH khi có văn bản lấy ý kiến của Chính phủ, Bộ, Ban, ngành theo chức
năng, nhiệm vụ của Viện Hàn lâm.
Có thể nhận thấy, các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm, đặc biệt là
các đơn vị, cá nhân trực tiếp được giao nhiệm vụ đã thực hiện nghiêm túc, đầy
đủ các chế độ BHXH cho người lao động góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách BHXH của Viện Hàn lâm.
Bảng 2.1. Kết quả khảo sát thực trạng các đối tượng có liên quan thực hiện
(ĐVT: %)
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Mức độ đánh giá
STT
Nội dung
1
2
3
4
5
Các đơn vị, cá nhân có liên quan được
phân công nhiệm vụ rõ ràng và có sự
0
0
27.1 55.7 17.1
phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực
hiện chính sách BHXH
Người lao động và đơn vị sử dụng lao
1
động nhận thức, hiểu biết rõ về chính
0
2.8
41.4 41.4 14.2
sách BHXH
Các đơn vị, cá nhân có liên quan luôn
2
tích cực hướng dẫn, giúp đỡ người lao
0
0
28.5 51.4 20.0
động trong việc giải quyết các chế độ
chính sách BHXH
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt
40
3
Kết quả khảo sát tại Bảng 2.1 cho thấy người lao động đánh giá tốt trong
việc phân công phối hợp thực hiện chính sách BHXH của các đối tượng có
liên quan. Trong 03 nội dung đánh giá, mức độ “Tốt”, “Bình thường” đều
chiếm tỷ lệ cao. Một số nội dung như: “Các đơn vị, cá nhân có liên quan được
phân công nhiệm vụ rõ ràng và có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực
hiện chính sách BHXH”, “Các đơn vị, cá nhân có liên quan luôn tích cực
hướng dẫn, giúp đỡ người lao động trong việc giải quyết các chế độ chính
sách BHXH” có tỷ lệ ý kiến đánh giá ở mức “Tốt” trở lên chiếm trên 70%
người trả lời (Bảng 2.1). Ở chiều đánh giá “Bình thường”, “Yếu” và “Kém”
đều đánh giá ở tỷ lệ thấp, riêng nội dung “Người lao động và đơn vị sử dụng
lao động nhận thức, hiểu biết rõ về chính sách BHXH” có tỷ lệ đánh giá là
44,2% người trả lời (Bảng 2.1).
Kết quả này cho thấy các đối tượng có liên quan đã phối hợp thực hiện
tốt chính sách BHXH theo vị trí công tác và nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên
do nhiều CCVC và NLĐ tham gia vào quá trình thực hiện chính sách BHXH
còn mang tính chất kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực
BHXH nên còn gặp nhiều hạn chế, nhất là trước sự điều chỉnh liên tục của
chính sách nên việc nắm bắt nội dung thực hiện chính sách còn gặp nhiều khó
khăn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của chính sách BHXH nên người lao động
và người sử dụng lao động tại Viện Hàn lâm luôn quan tâm, phối hợp thực
hiện tốt chính sách, nhưng do sự phức tạp của chính sách nên trong thời gian
tới Viện Hàn lâm cũng cần tăng cường các giải pháp nhằm giúp người lao
động và người sử dụng lao động có thể dễ dàng tiếp cận hơn, hiểu biết sâu
hơn về chính sách này.
2.2.2. Thực trạng đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách
Công tác đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối
với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam luôn được
41
quan tâm, chỉ đạo: Chính sách BHXH bắt buộc được Viện Hàn lâm thực hiện
ngay từ khi có sự thống nhất trong toàn quốc về BHXH (giai đoạn từ năm
1975 - 1995), cùng với sự sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện của BHXH (giai đoạn
từ năm 1995 đến nay) Viện Hàn lâm luôn đảm bảo việc thực hiện chính sách
BHXH theo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Viện Hàn
lâm luôn bám sát thực tiễn, bám sát chức năng nhiệm vụ để đưa ra hoạt động,
chỉ đạo, thực hiện chính sách thống nhất trong toàn thể các đơn vị thuộc và
trực thuộc. Việc phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị với Ban Tổ chức - cán bộ,
Ban Kế hoạch - Tài chính, Văn phòng Viện Hàn lâm và các tổ chức đoàn thể
đã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thụ hưởng chính sách là
các CCVC và NLĐ, đơn vị sử dụng lao động thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm.
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát về đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách
(ĐVT: %)
BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Mức độ đánh giá
STT
Nội dung
1
2
3
4
5
Về việc nghiêm chỉnh chấp hành các
chủ trương của Đảng, pháp luật của
0
0
10
62,8 27,1
Nhà nước, thực hiện đúng các quy
định về chính sách BHXH.
Thực hiện các mục tiêu chính sách
1
BHXH theo chức năng và nhiệm vụ
0
0
14,2 67,1 18,6
của Viện Hàn lâm
Viện Hàn lâm luôn đảm bảo quyền và
2
lợi ích hợp pháp của người lao động,
của các đơn vị sử dụng lao động thuộc
0
0
11,4 58,6 30,0
và trực thuộc Viện Hàn lâm trong quá
trình thực hiện chính sách BHXH
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt
42
3
Kết quả khảo sát tại Bảng 2.2 cho thấy các nội dung khảo sát về đảm bảo
các yêu cầu thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm đều được
đánh giá ở mức độ “Tốt” và “Rất tốt” đạt tỷ lệ trên 85% người trả lời. Trong
đó nội dung “Về việc nghiêm chỉnh chấp hành các chủ trương của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, thực hiện đúng các quy định về chính sách BHXH” được
đánh giá cao nhất với tỷ lệ 90% người trả lời và nội dung “Viện Hàn lâm luôn
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, của các đơn vị sử
dụng lao động thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm trong quá trình thực hiện
chính sách BHXH” đạt tỷ lệ 88,6% người trả lời đánh giá các nội dung này ở
mức độ “Tốt”, “Rất tốt” (Bảng 2.2). Kết quả này phù hợp với thực tế triển
khai chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm và có thể thấy hầu hết đều
đạt các mục tiêu thực hiện chính sách BHXH bắt buộc theo chức năng, nhiệm
vụ của Viện Hàn lâm. Ngoài ra vẫn có tỷ lệ 14,2% người trả lời đánh giá ở
mức “Bình thường” đối với nội dung “Thực hiện các mục tiêu chính sách
BHXH theo chức năng và nhiệm vụ của Viện Hàn lâm” (Bảng 2.2), nên trong
thời gian tới cần tiếp tục rà soát các mục tiêu chính sách BHXH; các cá nhân,
đơn vị, tổ chức đoàn thể có liên quan cần nghiên cứu sâu hơn các văn bản quy
phạm pháp luật, quy định, quyết định về chính sách BHXH nhằm thực hiện
tốt hơn nữa việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, đơn
vị sử dụng lao động tại Viện Hàn lâm.
2.2.3. Thực trạng các bước thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với
người lao động tại Viện Hàn lâm.
2.2.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc tại Viện Hàn lâm là thực hiện từ các văn bản của Chính phủ, Văn phòng
Chính phủ, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam,
các cơ quan BHXH trên địa bàn thành phố, quận. Trong những năm qua, Viện
Hàn lâm đã bám sát nội dung các văn bản của Chính phủ, các Bộ, Ngành như:
Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Lao động, Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên
43
chức; Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa XI) “Về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020”;
Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa XII) “Về cải cách chính
sách Bảo hiểm xã hội”; Nghị quyết số 125-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa
XII) “Về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội”; Quyết định số
999/QĐ-BHXH ngày 24/10/2015 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Về Ban
hành quy định tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết quả thủ tục hành chính về
BHXH, BHYT, BHTN”; Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của
Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Về Ban hành quy trình thu BHXH, BHYT,
BHTN, BHTNLĐ-BN, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT”; Quyết định số
166/QĐ-BHXH ngày 31/01/2019 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Về Ban
hành quy trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH, chi trả các chế độ BHXH,
BHTN”; Quyết định số 2266/QĐ-VP ngày 08/12/2015 về việc ban hành và
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008
trong đó có Quy trình Công tác đóng BHXH; các Báo cáo tổng kết cuối năm,
các Chương trình, Kế hoạch cả năm của các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện
Hàn lâm.
Bảng 2.3. Kết quả khảo sát về công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực
(ĐVT: %)
hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Mức độ đánh giá
STT
Nội dung
1
2
3
4
5
1
Kế hoạch triển khai được xây dựng
thống nhất với chủ trương, chính
sách của Đảng; Nhà nước; Bộ Lao
0
0
25,7 58,6 15,7
động-Thương binh và Xã hội;
BHXH Việt Nam và cơ quan BHXH
thành phố, quận
44
2
Kế hoạch có sự đóng góp ý kiến của
các đơn vị, cá nhân có liên quan đến
0
1,4
38,6 50,0 10,0
thực hiện chính sách BHXH
3
Kế hoạch rõ ràng, kịp thời, linh hoạt
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
0
4,3
31,4 47,1 17,1
của người lao động, người sử dụng lao
động
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt
Kết quả khảo sát Bảng 2.3 về xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm cho thấy nội dung đánh giá cao
nhất là “Kế hoạch triển khai được xây dựng thống nhất với chủ trương,
chính sách của Đảng; Nhà nước; Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội;
BHXH Việt Nam và cơ quan BHXH thành phố, quận” với tỷ lệ đánh giá
74,3% người trả lời ở mức “Tốt” trở lên. Một số nội dung còn có sự đánh giá
ở mức “Bình thường” và “Yếu” như: “Kế hoạch có sự đóng góp ý kiến của
các đơn vị, cá nhân có liên quan đến thực hiện chính sách BHXH” đạt tỷ lệ
đánh giá 40,0% người trả lời và “Kế hoạch rõ ràng, kịp thời, linh hoạt đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động”
đạt tỷ lệ đánh giá 35,7% người trả lời. Kết quả khảo sát đã phản ánh đúng
thực tế về xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
đối với người lao động tại Viện Hàn lâm. Trong phiếu khảo sát, một cán bộ
đang làm việc tại Viện Hàn lâm đã đưa ra kiến nghị: “Cần giải quyết kịp thời
chế độ BHXH cho người lao động có liên quan”. Điều này cho thấy, mặc dù
thực hiện đúng chủ trương, đường lối nhưng Kế hoạch không rõ ràng, linh
hoạt, kịp thời sẽ gây ra những khó khăn không cần thiết trong thực tế giải
quyết chế độ chính sách BHXH cho người lao động.
45
2.2.3.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách BHXH bắt buộc
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách BHXH đều
được lồng ghép trong các Hội nghị công tác trong năm của Viện Hàn lâm. Tổ
chức tuyên truyền, quán triệt công tác BHXH, sao, gửi các Nghị quyết, các
văn bản hướng dẫn, báo cáo,...bằng các hình thức đến các đơn vị thuộc, trực
thuộc Viện Hàn lâm và đến từng công chức, viên chức, người lao động để
thực hiện. Viện Hàn lâm cũng tổ chức Hội nghị ASXH....
Bảng 2.4. Kết quả khảo sát về công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện
(ĐVT: %)
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
STT
Nội dung
Mức độ đánh giá 4 3 2
5
1
1
4,3
45,7 35,7 14,3
0
Công tác chỉ đạo tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách BHXH của Viện Hàn lâm
2
0
5,7
47,1 35,7 11,4
Phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách BHXH.
3
0
5,7
52,8 28,6 12,8
Về hình thức, phương pháp tổ chức, tuyên truyền chính sách BHXH
4
0
5,7
50,0 31,4 12,8
Hiệu quả thực hiện tổ chức phổ biến, tuyên truyền về chính sách BHXH thông qua các tài liệu, ấn phẩm (văn bản hướng dẫn, sách xuất bản,...)
5
0
7,1
47,1 38,6
7,1
6
0
7,1
42,9 37,1 12,9
Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền qua tập huấn các chuyên đề về chính sách BHXH Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền thông qua việc tư vấn, hướng dẫn giúp đỡ cá nhân người lao động trong việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt
Kết quả khảo sát tại bảng 2.4 cho thấy các nội dung về tuyên truyền, phổ
biến thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện
46
Hàn lâm chưa được đánh giá cao với trên 50,0% người trả lời đánh giá ở mức
“Trung bình” và “Yếu”, trong đó nội dung “Về hình thức, phương pháp tổ
chức, tuyên truyền chính sách BHXH” đạt tỷ lệ 58,5% người trả lời đánh giá
ở mức “Trung bình” và “Yếu”. Đối với tỷ lệ đánh giá ở mức độ “Tốt” và “Rất
tốt” chỉ đạt tỷ lệ cao nhất là 50,0% người trả lời tại 02 nội dung về: “Công tác
chỉ đạo tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách BHXH của Viện Hàn lâm”
và “Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền thông qua việc tư vấn, hướng
dẫn giúp đỡ cá nhân người lao động trong việc giải quyết các chế độ chính
sách BHXH”. Kết quả này cho thấy công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm chưa thực sự đạt hiệu quả cao,
qua đó có thể thấy chưa thực hiện được tốt về mảng công tác này. Nguyên
nhân chủ yếu là do đặc thù chức năng nhiệm vụ của Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam nên công tác BHXH của Viện Hàn lâm đều là tham gia thực
hiện các chính sách BHXH bắt buộc do Chính phủ và các cơ quan có liên
quan ban hành, hướng dẫn. Các văn bản hướng dẫn đều được các cơ quan
BHXH gửi trực tiếp về các đơn vị, nên các đơn vị nhiều khi sẽ có cách hiểu
khác nhau về chính sách. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH còn
mang tính chất kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chính quy về công tác BHXH
nên còn gặp nhiều hạn chế trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách
BHXH bắt buộc tới từng CCVC và NLĐ của đơn vị mình. Chính vì vậy,
trong thời gian tới, Viện Hàn lâm cần tăng cường các giải pháp tuyên truyền,
phổ biến về chính sách BHXH giúp CCVC và NLĐ Viện Hàn lâm tiếp cận
gần hơn, hiểu rõ hơn về chính sách BHXH.
2.2.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Việc triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao
động tại Viện Hàn lâm là nhiệm vụ tương đối phức tạp, một đơn vị không thể
đảm nhiệm được mà đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị có liên quan
thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm:
- Ban Tổ chức - Cán bộ chịu trách nhiệm hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH
47
đối với CCVC và NLĐ trong toàn Viện Hàn lâm theo quy định của pháp luật.
- Ban Kế hoạch - Tài chính chịu trách nhiệm phối hợp với Văn phòng
Viện Hàn lâm xây dựng dự toán hàng năm, đảm bảo hàng tháng chi trả các
khoản đóng BHXH bắt buộc, đề xuất mua thời hạn sử dụng các phần mềm
BHXH phục vụ công tác nộp hồ sơ BHXH điện tử, đề xuất mua sắm cơ sở vật
chất, trang thiết bị kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia thực hiện
chính sách BHXH.
- Công đoàn Viện Hàn lâm chịu trách nhiệm: tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về BHXH cho người lao động; tham gia thanh tra, kiểm
tra việc thi hành pháp luật về BHXH; kiến nghị, tham gia xây dựng, sửa đổi,
bổ sung kế hoạch thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH.
- Các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm phối hợp chặt chẽ với các
đơn vị có liên quan trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc để đảm bảo
quyền và lợi ích của người lao động đang làm việc tại đơn vị mình.
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát về công tác phân công, phối hợp thực hiện
(ĐVT: %)
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
STT
Nội dung
Mức độ đánh giá 4 3 2
5
1
1
1,4
28,6 50,0 20,0
2
2,8
32,9 48,6 15,7
3
0
30
48,6 21,4
Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan tâm, chỉ đạo trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH Các đơn vị có liên quan được phân công nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo, phối hợp chặt chẽ trong thực hiện chính sách BHXH Tổ chức đoàn thể, cán bộ có liên quan tích cực hỗ trợ người lao động giải quyết chế độ chính sách BHXH theo nhiệm vụ được phân công
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt
Kết quả khảo sát về công tác phân công, phối hợp thực hiện thực hiện
48
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam trong Bảng 2.5
cho thấy có 02 nội dung “Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan tâm, chỉ
đạo trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH” và “Tổ
chức đoàn thể, cán bộ có liên quan tích cực hỗ trợ người lao động giải quyết
chế độ chính sách BHXH theo nhiệm vụ được phân công” đạt tỷ lệ cao với
70% người trả lời ở mức đánh giá “Tốt”, “Rất tốt”. Đối với nội dung “Các
đơn vị có liên quan được phân công nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo,
phối hợp chặt chẽ trong thực hiện chính sách BHXH” vẫn còn tỷ lệ mức đánh
giá “Bình thường”, “Yếu” đến 35,7% người trả lời. Kết quả này đã phản ánh
công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện
Hàn lâm được đánh giá tốt, tuy nhiên cần tăng cường hơn sự quan tâm, chỉ
đạo và phối hợp chặt chẽ hơn giữa các đơn vị được giao nhiệm vụ.
2.2.3.4. Duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Trong giai đoạn từ 2015-2019, Viện Hàn lâm đã đạt các kết quả tốt trong
công tác thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động. Hàng
năm, Viện Hàn lâm luôn xây dựng dự toán chi trả các khoản đóng BHXH bắt
buộc, tất cả các CCVC và NLĐ đều được tham gia đóng BHXH đầy đủ, hàng
tháng, các đơn vị đều đảm bảo chi trả đầy đủ các khoản đóng BHXH theo quy
định cho người lao động đang làm việc tại đơn vị mình. Các chế độ chính
sách về BHXH như hưu trí, thai sản, ốm đau,... đều được thực hiện nghiêm
túc, đúng pháp luật cho người lao động.
Bảng 2.6. Kết quả khảo sát về công tác duy trì thực hiện chính sách BHXH
(ĐVT: %)
bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
STT
Nội dung
1
Mức độ đánh giá 4 3 2
5
1
0
0
28,6 50,0 21,4
2
0
0
20,0 52,9 27,1
Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan tâm, chỉ đạo nghiêm túc thực hiện chính sách BHXH theo đúng quy định của pháp luật Chính sách BHXH được duy trì đúng với chủ trương, đường lối của Đảng
49
3
0
0
24,3 50,0 25,7
4
0
1,4
24,3 48,6 25,7
Chính sách BHXH được duy trì bám sát hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền liên quan Chính sách BHXH được duy trì phù hợp với người lao động và đơn vị sử dụng lao động của Viện Hàn lâm
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt
Để đánh giá về công tác duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam được xét tại kết quả khảo sát tại Bảng 2.6.
Nội dung “Chính sách BHXH được duy trì đúng với chủ trương, đường lối
của Đảng” được đánh giá cao với tỷ lệ 80% người trả lời ở mức “Tốt”, “Rất
tốt”, các nội dung khác cũng đều được đánh giá cao như nội dung “Chính
sách BHXH được duy trì bám sát hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền
liên quan” đạt tỷ lệ 75,7% người trả lời. Qua đó đã phản ánh việc thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm luôn được duy trì tốt, thực hiện
đúng đường lối, chủ trương chính sách về BHXH.
2.2.3.5. Điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Việc xem xét, điều chỉnh trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối
với người lao động là cần thiết. Theo từng giai đoạn tình hình cụ thể của đất
nước, các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH luôn được đổi mới, điều
chỉnh, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế. Đối với Viện Hàn lâm, là cơ
quan thực hiện chính sách nên việc điều chỉnh chính sách BHXH chỉ dừng ở
mức đề xuất kiến nghị là chính. Ngoài ra với đặc thù của Viện Hàn lâm, trong
những năm qua Viện Hàn lâm đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học
liên quan đến chính sách An sinh xã hội, chính sách BHXH, chính sách
BHYT… đây đều là các nguồn tài liệu quan trọng trong việc nghiên cứu, sửa
đổi, điều chỉnh, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách
50
BHXH của đất nước.
Bảng 2.7. Kết quả khảo sát về công tác điều chỉnh thực hiện chính sách
(ĐVT: %)
BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
STT
Nội dung
Mức độ đánh giá 4 3 2
5
1
1
1,4
30.0 52,9 15,7
0
Chính sách BHXH luôn được điều chỉnh phù hợp với thực tế và chủ trương của Đảng, Nhà nước
2
0
1,4
35,7 50,0 12,9
3
0
1,4
35,7 50,0 12,9
4
0
0
41,4 42,9 15,7
Kết quả thực hiện chính sách BHXH được cập nhật thường xuyên và làm căn cứ kiến nghị điều chỉnh chính sách Việc điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH được đảm bảo độ ổn định, linh hoạt Việc điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH không làm ảnh hưởng nhiều tới quyền lợi của người lao động và đơn vị sử dụng lao động
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt
Đề tài đã đưa ra 04 tiêu chí để đánh giá về công tác điều chỉnh thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm, kết quả cho thấy ¾ nội dung
được đánh giá với tỷ lệ trên 60% người trả lời ở mức “Tốt”, “Rất tốt”. Trong
đó nội dung “Chính sách BHXH luôn được điều chỉnh phù hợp với thực tế và
chủ trương của Đảng, Nhà nước” được đánh giá cao với nhất với tỷ lệ 68,6%.
Còn nội dung “Việc điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH không làm ảnh
hưởng nhiều tới quyền lợi của người lao động và đơn vị sử dụng lao động”
đạt tỷ lệ thấp nhất ở mức “Tốt”, “Rất tốt” là 58,6%. Tuy nhiên các nội dung
được đánh giá ở mức “Trung bình”, “Yếu” cũng đạt tỷ lệ cao, trong đó nội
dung: “Kết quả thực hiện chính sách BHXH được cập nhật thường xuyên và
làm căn cứ kiến nghị điều chỉnh chính sách” và “Việc điều chỉnh thực hiện
chính sách BHXH được đảm bảo độ ổn định, linh hoạt” đạt tỷ lệ 37,1% người
51
trả lời. Kết quả khảo sát tại Bảng 2.7 đã cho thấy việc thực hiện chính sách
cần được điều chỉnh tốt hơn nữa để đảm bảo sự ổn định, linh hoạt và thường
xuyên cập nhật, thông báo cho người lao động nắm rõ các thông tin cần thiết
trong việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại đơn vị.
2.2.3.6. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Hàng năm, việc đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc đối với người lao động đều được Viện Hàn lâm tiến hành đầy đủ thông
qua một số hình thức như: báo cáo tài chính, kiểm toán, thuế, báo cáo công
đoàn, báo cáo sơ kết, tổng kết của đơn vị.
Bảng 2.8. Kết quả khảo sát về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực
(ĐVT: %)
hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
STT
Nội dung
1
Mức độ đánh giá 4 3 2
5
1
0
2,8
35,7 47,1 14,3
Viện Hàn lâm thường xuyên theo dõi, đôn đốc kiểm tra thực hiện chính sách BHXH
2
0
2,8
38,6 50,0
8,6
3
0
1,4
50,0 40,0
8,6
Nội dung kiểm tra, thanh tra phù hợp với quy định, kế hoạch thực hiện chính sách Phương pháp kiểm tra, thanh tra phù hợp với điều kiện của từng đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm 4 Mức độ kiểm tra, thanh tra thường
0
4,3
48,6 37,1 10,0
xuyên và liên tục
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt
Kết quả khảo sát tại Bảng 2.8 về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động cho thấy 2/4 nội
dung được đánh giá ở mức “Tốt”, “Rất tốt” là trên 55,0%, trong đó nội dung
“Viện Hàn lâm thường xuyên theo dõi, đôn đốc kiểm tra thực hiện chính sách
BHXH” đạt mức đánh giá cao nhất với tỷ lệ 61,4% người trả lời. Ngược lại,
các nội dung đánh giá ở mức “Trung bình”, “Yếu” cũng đạt tỷ lệ cao, trong
52
đó nội dung “Phương pháp kiểm tra, thanh tra phù hợp với điều kiện của từng
đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm” và “Mức độ kiểm tra, thanh tra
thường xuyên và liên tục” đều đạt tỷ lệ trên 50% người trả lời. Điều đó cho
thấy các phương pháp thanh tra, kiểm tra còn mang nhiều tính truyền thống,
chưa thật sự linh hoạt trong tình hình thực tế của các đơn vị. Do hạn chế về
nhân lực và ưu tiên các mảng công tác chuyên môn quan trọng nên ảnh hưởng
đến mức độ thanh tra, kiểm tra thường xuyên và liên tục trong thực hiện chính
sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm.
2.2.3.7. Đánh giá tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với
người lao động tại Viện Hàn lâm được tiến hành tổ chức sơ kết 06 tháng và
tổng kết cuối năm tại từng đơn vị và của cả Viện Hàn lâm để có thể nắm bắt
thông tin kịp thời trong quá trình thực hiện chính sách BHXH, tránh các sự vụ
phát sinh, tồn đọng, kéo dài. Trên thực tế, việc đánh giá hiệu quả thực hiện
chính sách BHXH tại các hội nghị sơ kết và tổng kết đều chưa được quan tâm
sâu sắc, trong các báo cáo cũng chỉ dành một phần rất nhỏ nói về kết quả thực
hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động.
Bảng 2.9. Kết quả khảo sát về đánh giá tổng kết thực hiện chính sách
(ĐVT: %)
BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
STT
Nội dung
Mức độ đánh giá 4 3 2
5
1
1
0
35,7 44,3 20,0
0
2
0
1,4
41,4 47,1 10,0
3
0
2,9
35,7 48,6 12,9
Công tác tổng kết thực hiện chính sách BHXH được thực hiện theo đúng tiến độ và kế hoạch công tác của Viện Hàn lâm Công tác tổng kết, đánh giá đã rút ra được các kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách BHXH Báo cáo tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH được công khai minh bạch, số liệu rõ ràng, cụ thể
Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đố: 1-Kém đến 5- Rất tốt
53
Kết quả khảo sát tại Bảng 2.9 cho thấy các nội dung về đánh giá công tác
tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện
Hàn lâm được đánh giá tốt với tỷ lệ trên 57%. Trong đó nội dung “Công tác
tổng kết thực hiện chính sách BHXH được thực hiện theo đúng tiến độ và kế
hoạch công tác của Viện Hàn lâm” được đánh giá cao nhất ở mức “Tốt”, “Rất
tốt” đạt tỷ lệ 64,3%. Bên cạnh đó, các nội dung “Công tác tổng kết, đánh giá
đã rút ra được các kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong quá trình thực hiện
chính sách BHXH” và “Báo cáo tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH
được công khai minh bạch, số liệu rõ ràng, cụ thể” đều đạt tỷ lệ lần lượt là
42,8%, 38,6% số người trả lời ở mức đánh giá “Trung bình”, “Yếu”. Điều đó
cho thấy việc chỉ ra những mặt hạn chế, nguyên nhân, đồng thời có báo cáo số
liệu rõ ràng, cụ thể còn mang tính chất chủ quan, chưa sâu sát.
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt
buộc cho người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2.3.1. Kết quả thực hiện chính sách BHXHX bắt buộc (giai đoạn
2015-2019)
Ngày 01 tháng 01 năm 2016, Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13
chính thức có hiệu lực thi hành thay thế Luật Bảo hiểm xã hội số
71/2006/QH11, Viện Hàn lâm cũng như các đơn vị sự nghiệp công lập khác đã
có những bước chuyển biến tích cực trong việc thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc đối với người lao động, đảm bảo tốt hơn, chặt chẽ hơn quyền lợi của người
lao động, giúp người lao động làm việc tại Viện Hàn lâm luôn yên tâm công tác,
hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Năm 2018, Đề án cải cách chính sách BHXH đã được thảo luận và thông
qua tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII), Ban Chấp hành Trung ương đã ban
hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH và Nghị quyết
số 125-NQ/TW về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
54
hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW với mục tiêu tiến tới thực hiện BHXH toàn
dân đây là những chủ trương lớn có tính đột phá của Đảng và Nhà nước ta thể
hiện sự quan tâm toàn diện đến yếu tố con người trong công cuộc xây dựng,
phát triển bền vững đất nước. Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, Viện Hàn lâm luôn quan tâm, chú trọng thực hiện tốt chính
sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm:
*) Các kết quả đã đạt được trong giai đoạn từ năm 2015 - 2019
Năm 2015, việc áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008 trong việc xây dựng Quy trình Công tác
đóng BHXH đã tạo tiền đề quan trọng cho quá trình chuẩn hóa công tác đóng
BHXH bắt buộc của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Theo ước tính, từ năm 2016 Viện Hàn lâm đã thực hiện:
- Đóng BHXH cho: 2100 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100%;
- Đóng BHYT cho: 2100 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100%;
- Đóng BHTN cho: 1977 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100% người tham
gia bắt buộc đóng BHTN, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2015.
Theo ước tính, năm 2019 Viện Hàn lâm đã thực hiện:
- Đóng BHXH cho: 1865 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100%;
- Đóng BHYT cho: 1865 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100%;
- Đóng BHTN cho: 1865 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100% .
*) Công tác thực hiện Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong giai đoạn 2015-2019, Viện Hàn lâm đã thực hiện đầy đủ các chế độ
BHXH cho người lao động như: điều chỉnh mức đóng BHXH các biến động về
lương, phụ cấp chức vụ, ... cho CCVC và NLĐ khi có quyết định thay đổi; thực
hiện chế độ hưu trí cho hơn 200 lao động; thực hiện chế độ thai sản, dưỡng sức
cho 150 lao động nghỉ sinh con; chốt sổ cho 2100 lao động theo Công văn số
4027/BHXH-TS ngày 14/10/2016 của BHXH Việt Nam; chốt sổ chuyển công
tác và nghỉ việc cho 283 lao động; hàng năm tiến hành đổi thẻ và gia hạn thời
55
gian thẻ BHYT cho CCVC và NLĐ; làm thẻ BHYT mới cho 134 lao động
tăng mới; làm sổ BHXH mới cho 50 lao động tăng mới chưa được cấp sổ
BHXH. Hàng năm, theo ước tính, bình quân mức đóng BHXH bắt buộc,
BHYT, BHTN của Viện Hàn lâm là:
- Số tiền đóng BHXH bắt buộc: 25.562.273.000đ (trong đó người sử dụng
lao động đóng 17,5%, người lao động đóng 8%)
- Số tiền đóng BHYT: 4.510.989.000đ (trong đó người sử dụng lao động
đóng 3%, người lao động đóng 1.5%)
- Số tiền đóng BHTN: 1.804.884.220đ (trong đó người sử dụng lao động
đóng 1%, người lao động đóng 1%, nhà nước 1%)
Có thể nhận thấy, tình hình thực hiện chính sách BHXH bắt buộc cho
người lao động tại Viện Hàn lâm trong những năm qua đều có sự ổn định,
chặt chẽ, nghiêm túc, đúng pháp luật. Việc thực hiện các chế độ BHXH bắt
buộc cho người lao động luôn được các cơ quan, đơn vị quan tâm thực hiện,
góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động và người
lao động.
*) Công tác thực hiện Bảo hiểm y tế
Cùng với BHXH bắt buộc, BHYT liên quan trực tiếp đến quyền lợi, sức
khỏe, đảm bảo an toàn và chất lượng cuộc sống của người tham gia. Hiểu rõ
được điều đó, ngoài công tác đăng ký làm thẻ BHYT, Viện Hàn lâm cũng
luôn chú trọng đến công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người lao động.
Thực hiện sự chỉ đạo của Lãnh đạo Viện Hàn lâm, Phòng Y tế Văn phòng
Viện Hàn lâm tổ chức khám sức khỏe ban đầu cho tất cả các CBCCVC và
NLĐ của Viện định kỳ 02 lần/1 năm. Từ năm 2015, thực hiện hướng dẫn tại
Công văn số 1772/BHXH-PT ngày 19/8/2015 của Bảo hiểm xã hội thành phố
Hà Nội về việc thực hiện Chăm sóc sức khỏe ban đầu, Viện Hàn lâm đã nộp
hồ sơ đề nghị và được cơ quan BHXH trích chuyển 1% kinh phí chăm sóc sức
khỏe ban đầu tính trên số tiền đóng BHYT hàng tháng cho người lao
56
động. Tuy số tiền được trích chuyển không nhiều, nhưng điều đó đã góp phần
tích cực trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người lao động của
Viện Hàn lâm. Năm 2018, Viện Hàn lâm đã phối hợp với các cơ quan BHXH
tại các quận, thành phố đăng ký mã định danh y tế cho tất cả các CBCCVC và
NLĐ của Viện Hàn lâm để đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin giúp người lao
động thuận lợi trong quá trình khám chữa bệnh khi sử dụng thẻ BHYT.
*) Công tác thực hiện Bảo hiểm thất nghiệp
Chính sách BHTN là chính sách mới và là một trong các chính sách quan
trọng của hệ thống chính sách an sinh xã hội nói chung và chính sách BHXH bắt
buộc nói riêng. Trong giai đoạn 2006 - 2015, thực hiện Luật BHXH số
71/2006/QH11, Viện Hàn lâm đã đóng BHTN cho tất cả người lao động đang
làm việc tại Viện Hàn lâm, ước tính gần 700 người. Trong giai đoạn 2016 đến
nay, thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13, Viện Hàn lâm đã thực
hiện đóng BHTN cho tất cả viên chức và người lao động đang làm việc tại Viện
Hàn lâm, ước tính 1977 người, tăng gần gấp 3 lần so với giai đoạn trước. Có thể
nói, đây là kết quả đáng khích lệ trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại
Viện Hàn lâm nói chung và tại các đơn vị công lập nói riêng, giúp người lao
động yên tâm công tác, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
*) Công tác giao dịch điện tử trong thực hiện đóng BHXH bắt buộc
Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đưa công nghệ thông tin vào công
tác BHXH bắt buộc, thực hiện hướng dẫn của cơ quan BHXH, 100% các đơn vị
thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm đã sử dụng phần mềm kê khai để nộp hồ sơ
cho cơ quan BHXH. Từ năm 2016 đến nay, theo ước tính Viện Hàn lâm có
gần 5000 hồ sơ BHXH được thực hiện qua giao dịch điện tử… Toàn bộ ứng
dụng công nghệ thông tin về BHXH đã được triển khai theo hướng dẫn của
Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Năm 2018, Viện Hàn lâm phối với các cơ quan BHXH đã hoàn thành
việc đưa thông tin của người lao động (như mã số BHXH, số hộ khẩu, số điện
57
thoại, số tài khoản, ….) vào hệ thống dữ liệu quốc gia, góp phần tích cực
trong việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý BHXH liên
thông, đáp ứng từng bước yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử trong thời kỳ
cách mạng công nghiệp 4.0.
2.3.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chính sách
2.3.2.1. Hạn chế
Hệ thống chính sách BHXH chưa thật sự hoàn chỉnh nên trong những
năm qua còn có nhiều sự điều chỉnh về chính sách, do đó người lao động và
người sử dụng lao động tại Viện Hàn lâm còn gặp khó khăn trong việc cập
nhật kịp thời các nội dung điều chỉnh, bổ sung của chính sách;
Một số bộ phận cán bộ trẻ làm công tác BHXH mới được tuyển dụng
chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách;
Các bộ phận cán bộ làm công tác BHXH còn lại đều làm việc kiêm
nhiệm, phần lớn đội ngũ cán bộ của Viện Hàn lâm ngoài phụ trách công tác
BHXH còn kiêm thêm các công tác hành chính khác;
Hầu hết các cán bộ làm công tác BHXH đều không được đào tạo chuyên
sâu về lĩnh vực BHXH, chỉ được tham gia một số lớp tập huấn cơ bản nên ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện chính sách;
Công tác tuyên truyền về chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm còn mang
tính chất truyền thống, chưa đa dạng về nội dung nên ảnh hưởng đến quá trình
phổ biến, tuyên truyền giúp người lao động tìm hiểu sâu hơn về chính sách.
Công tác tổng kết thực hiện chính sách chưa được quan tâm sâu sắc. Các
nội dung báo cáo về BHXH đều chỉ được lồng ghép một phần nhỏ trong các
báo cáo sơ kết, tổng kết của các đơn vị. Nội dung báo các về BHXH chưa thật
chi tiết cụ thể, còn mang tính chất chung chung.
Công tác đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện chính sách
BHXH chưa đạt được nhiều hiệu quả cao, việc thực hiện nộp hồ sơ trên phần
mềm BHXH còn gặp nhiều khó khăn.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Một là, một số chủ trương chính sách còn chưa đồng bộ, còn nhiều bất
58
cập. Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành đã ban hành nhiều chủ trương về chính
sách BHXH, tuy nhiên khi triển khai thực tế tại đơn vị cũng đã phát sinh
nhiều bất cập như: khi thực hiện điều chỉnh hệ số lương, phụ cấp cho người
lao động bị phát sinh lỗi phần mềm hoặc lỗi do cơ quan BHXH nhưng đơn vị
sử dụng lao động vẫn phải chịu tiền lãi phát sinh; khi thực hiện đăng ký nơi
khám chữa bệnh, do bệnh viện đăng ký quá tải nên người lao động bị chuyển
về nơi khám chữa bệnh khác gây khó khăn cho người lao động trong quá trình
khám chữa bệnh; chưa có sự thông báo kịp thời trong việc điều chỉnh các nội
dung quy định, thay đổi, thêm biểu mẫu về hồ sơ BHXH cũng gây khó khăn
cho người sử dụng lao động khi đi nộp hồ sơ cho cơ quan BHXH.
Hai là, trình độ, năng lực của đội ngũ làm công tác BHXH còn nhiều bất
cập: chưa chủ động tham mưu cho các cấp lãnh đạo các giải pháp cụ thể trong
thực hiện chính sách BHXH bắt buộc; chưa hiểu sâu về chính sách BHXH
nên hạn chế trong công tác tuyên truyền về chính sách; do mang tính chất
kiêm nhiệm nên còn lơ là, chưa thật sự quan tâm trong việc giải quyết chế độ
chính sách BHXH cho người lao động.
Ba là, do đặc thù chức năng, nhiệm vụ của Viện Hàn lâm nên công tác
tuyên truyền, phổ biến về chính sách BHXH bắt buộc còn tồn tại hạn chế:
công tác BHXH của Viện Hàn lâm đều là tham gia thực hiện hiện chính sách,
các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn đều được các cơ
quan BHXH gửi trực tiếp về các đơn vị, nên các đơn vị nhiều khi sẽ có cách
hiểu khác nhau về chính sách; phần lớn người lao động mới chỉ hiểu một phần
nhỏ chính sách, chưa thật sự quan tâm, tìm hiểu sâu chính sách BHXH; công
tác tuyên truyền về chính sách BHXH bắt buộc còn mang tính truyền thống,
chưa đa dạng về nội dung nên hạn chế trong việc tuyên truyền, phổ biến nội
dung chính sách tới từng CCVC và NLĐ của đơn vị mình.
Bốn là, cũng do đặc thù chức năng, nhiệm vụ của Viện Hàn lâm nên tuy
các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm nghiêm túc thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc nhưng chưa có sự quan tâm sâu sát tới việc xây dựng Kế
hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc và các nội dung báo
59
cáo về BHXH bắt buộc hàng năm của đơn vị mình.
Năm là, do một phận cán bộ làm công tác BHXH chưa thông thạo về
công nghệ thông tin nên gặp khó khăn trong quá trình sử dụng phần mềm
BHXH, nhất là khi phần mềm được nâng cấp hoặc thêm ứng dụng mới.
Tiểu kết chương 2
Trong Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã xác định rõ, BHXH là một trụ cột
chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo
đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất
nước. Thực hiện tốt chính sách BHXH là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị,
là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền [3, tr.2]. Hiểu rõ được điều
đó, trong nhiều năm qua, việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với
người lao động luôn được Đảng bộ Viện Hàn lâm, các cấp Lãnh đạo Viện
Hàn lâm quan tâm, chỉ đạo cùng với sự đồng lòng của toàn thể CCVC và
NLĐ đang làm việc tại Viện Hàn lâm đã mang lại kết quả tích cực trong thực
hiện chính sách BHXH của Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn
đã tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối
với người lao động tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, đồng thời nêu lên các
kết quả đã đạt được, các hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách BHXH
bắt buộc tại Viện Hàn lâm. Chương 2 của Luận văn đã phản ánh trung thực,
khách quan về các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của các mặt tồn tại, hạn chế
đó để có thể tìm ra các giải pháp, nâng cao hiệu quả trong thực hiện chính
60
sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI
NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
3.1. Quan điểm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối
với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
3.1.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng về thực hiện chính sách BHXH
Đảng ta luôn xác định rõ quan điểm mở rộng và hoàn thiện chế độ, chính
sách BHXH, tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần
thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo về
cải cách chính sách BHXH:
(1) Bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan
trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội,
đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.
(2) Phát triển hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa
tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo truyền
thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ
trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hoà các
nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.
(3) Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội vừa mang tính cấp bách, vừa
mang tính lâu dài; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát
triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát triển các chính sách
xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công
61
dân đều được bảo đảm an sinh xã hội.
(4) Phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bảo
đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn, củng
cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như các chủ thể tham gia bảo
hiểm xã hội.
(5) Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người
dân. [6, tr.2]
Thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng, xác định rõ thực hiện tốt
chính sách BHXH là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, của các cấp
ủy đảng, các tổ chức đoàn thể, của tất cả các đơn vị, của mỗi người lao động,
Viện Hàn lâm quyết tâm hoàn thành mục tiêu nâng cao năng lực, hiệu quả
thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn
lâm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
3.1.2. Quan điểm thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người
lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
3.1.2.1. Quan điểm
Phát huy những kết quả đã đạt được trong thực hiện chính sách BHXH
bắt buộc đối với người lao động giai đoạn 2015-2019, quan điểm thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc trong thời gian tới của Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam như sau:
Thứ nhất, bám sát định hướng của Đảng, Nhà nước và BHXH Việt Nam
về thực hiện chính sách BHXH. Tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu rộng và
thực hiện nghiêm túc có hiệu quả chính sách BHXH bắt buộc, tạo sự chuyển
biến rõ rệt về nhận thức, hành động của CCVC và NLĐ và người sử dụng lao
động tại các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm.
Quan điểm này trước hết đòi hỏi các tổ chức đảng, chính quyền, các tổ
62
chức đoàn thể, các đơn vị và mỗi người lao động thuộc Viện Hàn lâm có nhận
thức đúng đắn, quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước
về chính sách BHXH; đưa các ra các định hướng, mục tiêu cụ thể trong quá
trình triển khai chương trình, kế hoạch công tác hàng năm của Viện Hàn lâm.
Mặt khác, công tác tuyên truyền, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức về chính sách BHXH tới từng CCVC và NLĐ tại Viện Hàn lâm cần
được tích cực triển khai nhằm giúp CCVC và NLD tiếp cận, hiểu sâu hơn về
chính sách BHXH nói chung và BHXH bắt buộc nói riêng.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của tất
cả các tổ chức, các đơn vị, cá nhân có liên quan trong công tác thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác chỉ đạo, điều
hành, luôn đảm bảo tính ổn định trong các giai đoạn phát triển tiếp theo khi
thực hiện chính sách BHXH bắt buộc.
Trên cơ sở xác định các nhiệm vụ trọng tâm, kế hoạch công tác của cả
năm và phát huy các thành tích đã đạt được nhằm tạo cơ sở thuận lợi cho việc
tổ chức triển khai, kiểm tra, đôn đốc và đánh giá kết quả thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc. Công tác chỉ đạo, điều hành tiếp tục được đổi mới theo
hướng sâu sát, cụ thể, phân công, phân nhiệm rõ ràng trong hiện chính sách
BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm.
Thứ ba, căn cứ chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực tế, các đơn vị
thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm có trách nhiệm chủ động tổ chức thực hiện,
đưa ra các kế hoạch, nhiệm vụ cụ thể, các giải pháp đồng bộ có trọng tâm,
trọng điểm và hiệu quả trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc.
Các đơn vị có liên quan trong quản lý thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc như tổ chức đoàn thể, Ban Tổ chức - Cán bộ, Ban Kế hoạch - Tài chính,
Văn phòng Viện Hàn lâm chủ động, phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc
xây dựng kế hoạch cụ thể, các giải pháp đồng bộ, dự toán ngân sách của toàn
63
Viện Hàn lâm.
Các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm cần chủ động, phối hợp chặt chẽ với
các đơn vị có liên quan thuộc Viện Hàn lâm trong xây dựng kế hoạch, xây
dựng dự toán ngân sách hàng năm về công tác thực hiện chính sách BHXH.
Đồng thời xây dựng báo cáo chi tiết cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của
đơn vị mình, đề xuất các kiến nghị, đưa ra các giải pháp hiệu quả về tình hình
triển khai thực hiện chính sách BHXH tại đơn vị. Định kỳ báo cáo kết quả về
Viện Hàn lâm để theo dõi, kiểm tra, giám sát và tổng hợp báo cáo Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội.
Các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm cũng cần chủ động phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan BHXH có liên quan trong tổ chức thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc đối với người lao động như: chủ động nắm bắt kịp thời các nội
dung quy định, hướng dẫn mới của chính sách; giải quyết kịp thời các chế độ
chính sách cho người lao động; đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia BHXH bắt buộc; tăng
cường công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện chính sách
BHXH.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh công tác đưa ứng dụng công nghệ thông tin
vào cải cách hành chính; đẩy mạnh giao dịch điện tử, quản lý hồ sơ BHXH
điện tử thông qua phần mềm nghiệp vụ với các cơ quan BHXH có liên quan.
Thực hiện tốt yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ và thực tế đòi hỏi của
quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH - trụ cột cơ bản của hệ thống an
sinh xã hội. Mục tiêu hiện đại hóa để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện
chính sách BHXH đã trở thành quyết tâm chính trị của toàn Viện Hàn lâm.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Tài chính và các đơn vị có liên quan
trong công tác thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm
Tích cực, chủ động hợp tác với các Bộ, Ban, Ngành có liên quan trong
64
thực hiện chính sách BHXH bắt buộc để luôn đảm bảo thực hiện đúng pháp
luật; đảm bảo đầy đủ nguồn ngân sách Nhà nước; đảm bảo cơ sở vật chất đầy
đủ, hiện đại; nâng cao trình độ các cán bộ làm công tác BHXH và cập nhật
kịp thời, chính xác tài nguyên thông tin về BHXH nhằm phục vụ tốt công tác
thực hiện chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm.
3.1.2.2. Mục tiêu cụ thể
a) Đảm bảo 100% CCVC và NLĐ tại Viện Hàn lâm được tham giam
BHXH, BHYT, BHTN theo quy định của Nhà nước.
b) Đảm bảo quyền lợi chính đáng cho 100% CCVC và NLĐ tại Viện Hàn
lâm được hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN theo quy định của Nhà nước.
c) Đảm bảo cho 100% CCVC và NLĐ tại Viện Hàn lâm có nhận thức đúng
đắn, quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về chính
sách BHXH nói chung và chính sách BHXH bắt buộc nói riêng.
d) Các đơn vị còn tình trạng vướng mắc về tài chính, vướng mắc về chế
độ chính sách BHXH từng bước giải quyết triệt để các vướng mắc, không để
tình trạng dây dưa, kéo dài.
e) Các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm phấn đấu theo lộ trình
cải cách chính sách BHXH để đến năm 2021 đạt tỷ lệ giao dịch điện tử 100%;
thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; giảm số giờ giao dịch giữa đơn
vị sử dụng lao động với cơ quan BHXH đạt mức chuẩn theo quy định.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã
hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm
3.2.1. Hoàn thiện các bất cập, hạn chế trong xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Trong những năm qua, công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm luôn bám sát chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và hướng dẫn của các
65
Bộ, Ban, Ngành có liên quan. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được
vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong việc xây dựng kế hoạch triển khai thực
hiện chính sách BHXH bắt buộc như:
- Kế hoạch triển khai thực hiện BHXH bắt buộc còn mang tính hình
thức, sơ lược, chưa đi vào chi tiết cụ thể. Kế hoạch thực hiện BHXH bắt buộc
đều được lồng ghép trong kế hoạch hàng năm của đơn vị, chỉ chiếm một phần
rất nhỏ trong bản kế hoạch chung.
- Trong quá trình xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc, việc lấy ý kiến đóng góp của các đơn vị, cá nhân có liên
quan đến thực hiện chính sách BHXH bắt buộc chưa đạt được hiệu quả cao.
- Công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc còn mang tính hình thức nên tính linh hoạt, rõ ràng, kịp thời của kế
hoạch cũng không đạt được hiệu quả cao. Một kế hoạch không rõ ràng, linh
hoạt, kịp thời sẽ gây ra những khó khăn không cần thiết trong thực tế giải
quyết chế độ chính sách BHXH bắt buộc cho người lao động.
Một số cán bộ Viện Hàn lâm đã đưa ra kiến nghị:
“Cần cụ thể hóa hơn nữa các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách
BHXH” [ Nữ, 35 tuổi].
“Việc trả lời, hướng dẫn chế độ chính sách BHXH cho người lao động
cần rõ ràng, chi tiết, cụ thể hơn” [ Nam, 50 tuổi].
Để khắc phục các bất cấp, hạn chế trên cần:
Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành trong xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc; xây dựng kế hoạch theo hướng
linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo sự ổn định; tiếp tục đổi mới kế hoạch theo
hướng sâu sát, cụ thể, phân công, phân nhiệm rõ ràng trong hiện chính sách
BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm.
Kịp thời ban hành các kế hoạch để triển khai các Nghị quyết của Chính
phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện chính sách BHXH, lập dự toán
66
ngân sách nhà nước hàng năm trong công tác đóng BHXH bắt buộc.
Xây dựng kế hoạch triển khai các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
trực tiếp tham gia thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm.
Xây dựng kế hoạch tổ chức các hội thảo, các toạ đàm khoa học, xây
dựng các đề án nghiên cứu về chính sách BHXH để tư vấn, phản biện, đề xuất
ý kiến về chính sách trực tiếp tới Lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Xây dựng nội dung kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Ban, Ngành
và các đơn vị có liên quan trong công tác tuyên truyền, phổ biến các chế độ
chính sách BHXH tới mỗi CCVC và NLĐ của Viện Hàn lâm nhằm tăng
cường sự hiểu biết sâu rộng, nâng cao nhận thức, ý thức của mỗi CCVC và
NLĐ trong thực hiện chính sách BHXH.
Chủ động phối hợp với các cơ quan BHXH đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong thực hiện chính
sách BHXH; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành
chính, đẩy mạnh kết nối các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan với cơ sở dữ
liệu quốc gia về bảo hiểm và ngược lại nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật.
3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ
làm công tác thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Hệ thống chính sách BHXH hiện nay vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, các
nội dung của chính sách thường xuyên có sự thay đổi để phù hợp với thực tế,
điều đó gây ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
của Viện Hàn lâm. Những năm gần đây, việc triển khai thực hiện chính sách
BHXH đòi hỏi ngày càng đòi hỏi trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ
cán bộ phụ trách BHXH của các ngành các cấp nói chung và của Viện Hàn
lâm nói riêng phải được hoàn thiện, nâng cao hơn nữa: cập nhật kịp thời các
nội dung thay đổi của chính sách; giải quyết kịp thời các chế độ chính sách
67
cho người lao động; trực tiếp tham mưu, tư vấn các vấn đề liên quan đến
chính sách BHXH cho người lao động và người sử dụng lao động; … đặc biệt
phải có kiến thức về công nghệ thông tin để thao tác thành thạo phần mềm
nghiệp vụ BHXH trong quá trình giao dịch hồ sơ điện tử với các cơ quan
BHXH. Do đó việc nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm
công tác thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm là việc hết
sức cần thiết, phù hợp với thực tế triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc, có thể đưa ra một số giải pháp như sau:
- Phối hợp với Bộ Lao động - Thương bình và Xã hội, BHXH Việt Nam
mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, cập nhật các nội dung thay đổi của chính sách cho đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức trực tiếp tham gia thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại
Viện Hàn lâm.
- Tổ chức các hội thảo, các toạ đàm khoa học, xây dựng các đề án nghiên
cứu về chính sách BHXH để tư vấn, phản biện, đề xuất ý kiến về chính sách
trực tiếp tới Lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
- Phối hợp với BHXH Việt Nam tổ chức tập huấn sử dụng phần mềm
nghiệp vụ BHXH, nâng cao kiến thức về công nghệ thông tin trong lĩnh lực
BHXH cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp tham gia thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm.
3.2.3. Tăng cường phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về
chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động
Như đã phân tích ở trên [Bảng 2.4, chương 2], kết quả khảo sát cho thấy
công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện
Hàn lâm chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Để chính sách BHXH có thể đến
được với từng CCVC và NLĐ thì công tác phổ biến, tuyên truyền được coi là
khâu then chốt, là biện pháp quan trọng nhất cần được đẩy mạnh với nội dung
68
tuyên truyền đa dạng, linh hoạt như:
Các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm cần phối hợp chặt chẽ với
các cấp ủy Đảng tổ chức nghiên cứu, quán triệt nội dung các Nghị quyết của
Đảng về lĩnh vực BHXH, tập trung vào những mục tiêu, định hướng, nội
dung cải cách chính sách BHXH đến từng CCVC và NLĐ thuộc thẩm quyền
quản lý; phối hợp với các tổ chức đoàn thể lựa chọn những nội dung thiết
thực về chính sách BHXH và cải cách chính sách BHXH để tuyên truyền, phổ
biến sâu rộng tới người lao động.
Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công
tác phổ biến tuyên truyền về chính sách BHXH; đổi mới nội dung, hình thức
tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH phù hợp với tình hình
thực tế để mỗi CCVC và NLĐ Viện Hàn lâm đều hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích,
vai trò, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của chính sách BHXH đối với đảm
bảo an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận,
thống nhất trong thực hiện chính sách BHXH.
Có thể kể đến một số hình thức tuyên truyền như:
- Tuyên truyền các nội dung cải cách chính sách BHXH thông qua các
cuộc họp giao ban thường kỳ, các hội nghị sơ kết, tổng kết thường niên tại
mỗi đơn vị.
- Có kế hoạch tuyên truyền trên mạng xã hội, các nền tảng công nghệ
như như lotus, facebook, zalo, youtube, … [8]
- Khuyến khích đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH từng đơn vị là các
tuyên truyền viên, tích cực tham gia tuyên truyền chính sách, pháp luật về
BHXH.
- Phối hợp với các cơ quan BHXH để tuyên truyền trực tiếp tới từng
CCVC và NLĐ như: tờ rơi, tờ gấp, sách cẩm nang, infographic,….với đặc thù
69
từng nội dung cần tuyên truyền.
3.2.4. Phát huy hiệu quả phân công, phối hợp thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc
Theo chức năng, nhiệm vụ các đơn vị có liên quan được phân công
nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể, không chồng chéo, đồng thời có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm với các tổ chức, đơn vị có liên
quan như: các cấp ủy đảng, tổ chức đoàn thể, Ban Tổ chức - cán bộ, Ban Kế
hoạch - Tài chính, Văn phòng Viện Hàn lâm trong thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc đối với CCVC và NLĐ của đơn vị mình.
Các đơn vị được giao nhiệm vụ tích cực tham mưu với Đảng ủy, Lãnh
đạo Viện Hàn lâm để tổ chức triển khai có hiệu quả Luật BHXH, các Nghị
quyết của Bộ Chính trị, các Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của
BHXH Việt Nam về thực hiện chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm.
Chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về BHXH để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác nghiên cứu về chính sách BHXH, nhất
là trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH.
Tăng cường sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn
lâm với các cơ quan BHXH có liên quan nhằm tổ chức tốt việc thực hiện
chính sách, giải quyết kịp thời các chế độ chính sách cho người lao động cũng
như xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện
chính sách BHXH.
3.2.5. Tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc
Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc là công tác hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực
hiện chính sách của mỗi đơn vị. Thực hiện tốt công tác theo dõi, đôn đốc,
kiểm tra sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và các đơn
vị sử dụng lao động, tránh phát sinh những vướng mắc có liên quan đến pháp
70
luật khi thực hiện chính sách BHXH.
Dựa trên kết quả khảo sát [Bảng 2.8, chương 2] có thể thấy phương pháp
tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH bắt buộc còn
mang tính truyền thống, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, do đó:
- Cần tăng cường hơn nữa công tác theo dõi, kiểm tra việc chấp hành
pháp luật về BHXH theo định kỳ hàng tháng, hàng quý dựa trên tình hình
thực tế của mỗi đơn vị.
- Tăng cường theo dõi, kiểm tra, giám sát tình hình tài chính của mỗi đơn
vị theo định kỳ hàng quý, hàng năm tránh tình trạng nợ đọng BHXH kéo dài.
- Phân công nhiệm vụ cho các tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác theo
dõi, kiểm tra, giám sát tại các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm rõ
ràng, cụ thể, không chồng chéo, gắn trách nhiệm với từng cá nhân, tập thể.
3.2.6. Chú trọng đánh giá tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH
bắt buộc
Công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách BHXH là một trong các
khâu then chốt, đảm bảo sự hiệu quả trong quá trình thực hiện chính sách.
Một báo cáo đánh giá công tác thực hiện chính sách BHXH với các kết quả
chi tiết, số liệu rõ ràng, cụ thể được công khai, minh bạch đồng thời chỉ ra
được những mặt hạn chế, nguyên nhân và đưa ra các giải pháp sẽ góp phần
tích cực trong từng giai đoạn thực hiện chính sách, góp phần hoàn thành tốt
hơn nữa trong các giai đoạn thực hiện chính sách tiếp theo.
Tuy công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối
với người lao động tại Viện Hàn lâm vẫn được thực hiện thường xuyên theo
định kỳ 06 tháng và cả năm nhưng nội dung báo cáo còn mang tính chất
chung chung, các nội dung, số liệu báo cáo về tính hình thực hiện chính sách
BHXH chưa thực sự rõ ràng, cụ thể. Do đó:
- Lãnh đạo các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm cần chú trọng
hơn nữa công tác xây dựng báo cáo về tình hình thực hiện chính sách BHXH
71
bắt buộc, yêu cầu các bộ phận, cá nhân trực tiếp làm công tác BHXH đưa ra
các nội dung báo cáo cụ thể việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với
người lao động của đơn vị mình.
- Nội dung báo cáo của các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm cần
đi sâu vào từng chế độ chính sách BHXH bắt buộc cụ thể tùy theo tình hình
thực tế triển khai thực hiện chính sách của mỗi đơn vị; số liệu báo cáo công
khai, minh bạch về tài chính trong thực hiện đóng BHXH.
- Các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm Định kỳ 06 tháng đầu
năm và cuối năm, báo cáo kết quả về Viện Hàn lâm để theo dõi, giám sát và
tổng hợp báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
3.2.7. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường đưa ứng dụng công
nghệ thông tin trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
Từng bước thực hiện yêu cầu xây dựng của Chính phủ điện tử trong thời
kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, toàn bộ ứng dụng công nghệ thông tin ngành
Bảo hiểm xã hội đã được triển khai theo kiến trúc Chính phủ điện tử.
Trước tình hình thực tế đó, Viện Hàn lâm luôn chủ động, phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan BHXH đẩy mạnh giao dịch điện tử, quản lý hồ sơ BHXH
điện tử thông qua phần mềm nghiệp vụ với các cơ quan BHXH có liên quan.
Bên cạnh các kết quả tích cực đã đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế
như: một phận cán bộ làm công tác BHXH chưa thông thạo về công nghệ
thông tin nên gặp khó khăn trong quá trình sử dụng phần mềm BHXH; cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác BHXH còn thiếu hiện đại, đường
truyền mạng Internet còn chậm gây ảnh hưởng đến công tác nộp hồ sơ BHXH
qua phần mềm nghiệp vụ ngành BHXH, như vậy:
- Cần tích cực phối hợp với các cơ quan BHXH, với các nhà thầu xây
dựng phần mềm nghiệp vụ ngành BHXH tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao
trình độ công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH; đồng
72
thời, đưa ra các hướng dẫn cụ thể, tư vấn, giám sát việc nộp hồ sơ qua phần
mềm nghiệp vụ ngành BHXH, tránh xảy ra tình trạng sai sót gây ảnh hưởng
đến quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động.
- Hàng năm lập dự toán ngân sách nhà nước về mua sắm cơ sở vật chất,
trang thiết bị công nghệ hiện đại; củng cố, nâng cấp đường truyền mạng
Internet để phục vụ tốt hơn nữa công tác đưa ứng dụng công nghệ thông tin
vào cải cách chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm.
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm
3.3.1. Đối với Đảng, Nhà nước
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ
chức thực hiện chính sách BHXH theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa;
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc sửa
đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật; đẩy mạnh việc phân cấp cho
các Bộ, Ban, ngành có liên quan trong lĩnh vực BHXH.
3.3.2. Đối với Bộ, Ban, ngành có liên quan
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam:
- Tham mưu trình Chính phủ chỉ đạo xây dựng, sửa đổi hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN; các Nghị định, văn
bản hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT, BHTN, đặc
biệt là các quy định mới có hiệu lực thực hiện từ 1/1/2020.
- Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ công BHXH đối với các cơ
quan bộ, ngành địa phương. Tăng cường mở các hội nghị tập huấn theo
chuyên đề, hội thảo, toạ đàm khoa học về công tác này để đội ngũ lãnh đạo,
công chức, viên chức nhà nước luôn được cập nhật, trao đổi những thông tin
mới trong thực hiện chính sách BHXH.
- Chỉ đạo việc đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH với các
hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan, nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện
73
chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội và nhân
dân trong giám sát, phản biện xã hội về chính sách BHXH, tổ chức tuyên truyền,
vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về BHXH.
3.3.3. Đối với Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Tăng cường sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng để
thực hiện tốt chính sách BHXH bắt buộc, tuân thủ nghiêm các quy định của
pháp luật;
Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc; nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ
có liên quan trong công tác BHXH tại các tổ chức chính trị, tổ chức đoàn thể,
các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm;
Nâng cao nhận thức về chính sách BHXH: Tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH để CCVC và NLĐ Viện Hàn
lâm thấy rõ những lợi ích, ý nghĩa của chính sách BHXH;
Tăng cường công tác phối hợp và tích hợp thông tin dữ liệu giữa cơ quan
quản lý nhà nước về BHXH, tài chính, thuế, lao động để nâng cao hiệu quả
quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và thực hiện tốt chính sách BHXH
bắt buộc tại Viện Hàn lâm; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện
dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên các lĩnh vực BHXH bắt buộc;
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật về BHXH kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm.
Chú trọng hơn nữa công tác đánh giá, tổng kết về tình hình thực hiện
chính sách BHXH bắt buộc nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
74
BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở thực hiện những chủ trương, quan điểm, định hướng của
Đảng, Nhà nước và BHXH Việt Nam về thực hiện chính sách BHXH; cũng
như qua tình hình thực tế triển khai công tác thực hiện BHXH bắt buộc đối
với người lao động tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, trong Chương 3,
Luận văn đã nêu lên các nhóm giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế, tồn tại
để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách như: Hoàn thiện các bất cập, hạn
chế trong xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc;
Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác
thực hiện chính sách BHXH bắt buộc; Tăng cường phổ biến, tuyên truyền,
nâng cao nhận thức về chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động;
Phát huy hiệu quả phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc;
Tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH bắt buộc;
Chú trọng đánh giá tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc; Đẩy mạnh
cải cách hành chính, tăng cường đưa ứng dụng công nghệ thông tin trong thực
75
hiện chính sách BHXH bắt buộc
Trên cơ sở bám sát định hướng của Đảng, Nhà nước và BHXH Việt Nam về
thực hiện chính sách BHXH, trong những năm qua công tác thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Viện Nam đã đạt được những kết
quả quan trọng, góp phần thực hiện tốt mục tiêu an sinh xã hội của Việt Nam. Đề tài
“Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam” đã hệ thống hóa và đưa ra các phân tích dựa trên tình
hình thực tế ở Việt Nam nói chung và tại Viện Hàn lâm nói riêng như:
(1) Hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận, lý thuyết cơ bản về BHXH,
chính sách BHXH; chính sách BHXH bắt buộc ở Việt Nam như khái niệm, bản
chất, nguyên tắc, vai trò, các chế độ BHXH bắt buộc.
(2) Xác định rõ nội dung triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc gồm:
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; công tác phổ biến, tuyên truyền
về chính sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; duy trì thực hiện chính
sách; điều chỉnh thực hiện chính sách; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
chính sách; đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách.
(3) Nghiên cứu kinh nghiệm về thực hiện chính sách BHXH tại một số quốc
gia như: Trung Quốc, Thái Lan.
(4) Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với
người lao động tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam: các yếu tố ảnh hưởng; đánh giá
chung trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm: kết quả đạt
được, hạn chế, nguyên nhân các hạn chế đó;
(5) Lập phiếu khảo sát, lấy ý kiến của các CCVC và NLĐ đang công tác tại
Viện Hàn lâm để đưa ra các đánh giá chính xác nhất về tình hình thực hiện chính
sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm.
Mục đích của luận văn hướng tới nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm. Dựa trên cơ sở các quan
điểm, từng bước hướng tới các mục tiêu đã đề ra trong thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc, đề tài đã đề xuất một số giải pháp đồng thời đưa ra các kiến nghị
76
KẾT LUẬN
đối với Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ban, ngành có liên quan và đối với Viện Hàn
lâm để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối
với người lao động tại Viện Hàn lâm trong giai đoạn tiếp theo.
77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Nguyên Anh (2010), Bảo hiểm xã hội năm 2010: Vấn đề và giải
pháp, Tạp chí Tài chính số 10, tr. 29-31.
2. Đặng Nguyên Anh (2015), An sinh xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi
mới và định hướng đến 2030, Tạp chí Xã hội học số 2, tr. 5-13.
3. Đào Việt Ánh (2019), Nghiên cứu xây dựng, thành lập và triển khai
mô hình tổ chức hỗ trợ, tư vấn, giải đáp chính sách bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của ngành Bảo hiểm xã hội, Đề án, Vụ Tổ
chức – Cán bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
4. Nguyễn Huy Ban (2003), Bảo hiểm xã hội - bộ phận quan trọng trong
chiến lược con người của Đảng, Tạp chí Cộng sản số 17, tr. 38 - 42.
5. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tăng cường công tác
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, ban
hành ngày 25/10/2017, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị
lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về cải cách chính sách
BHXH, ban hành ngày 23/5/2018, Hà Nội.
7. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Báo cáo số 5104/BC-BHXH về kết quả
thực hiện Nghị quyết số 70/NQ - CP của Chính phủ, ban hành ngày
05/12/2018, Hà Nội.
8. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Kế hoạch số 4866/ KH-BHXH về Công tác
thông tin truyền thông năm 2020, ban hành ngày 26/12/2019, Hà Nội.
9. Bảo hiểm xã hội điện tử EBH (2016), Tổng quan về bảo hiểm xã hội
bhxh-tai-viet-nam> 78 và các chế độ BHXH, Cổng giao dịch bảo hiểm xã hội điện tử, 10. Bảo hiểm xã hội tỉnh Lạng Sơn (2018), Chế độ chính sách – BHXH buoc.aspx > bắt buộc theo Luật BHXH mới, trang tin điện tử BHXH tỉnh Lạng Sơn, 11. Chính phủ, Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc, ban hành ngày 11/11/2015, Hà Nội. 12. Chính phủ, Nghị định số 44/2017/NĐ-CP quy định mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ BH TNLĐ-BNN, ban hành ngày 14/4/2017, Hà Nội. 13. Chính phủ, Nghị định số 99/2017/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ban hành ngày 18/8/ 2017, Hà Nội. 14. Chính phủ, Nghị quyết số 125-NQ/TW của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 08/10/2018, Hà Nội. 15. Nguyễn Duy Cường (2019), Chuyên đề Bảo hiểm xã hội, Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. 16. Lê Thị Kim Dung (2019), Thực hiện chính sách Bảo hiểm ý tế đối với người cao tuổi qua nghiên cứu trường hợp phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. 17. Nguyễn Hữu Dũng (2018), Chính sách bảo hiểm xã hội đối với người hiem-xa-hoi-doi-voi-nguoi-lao-dong-thuc-trang-va-dinh-huong-cai-cach-141418.html> lao động: thực trạng và định hướng cải cách, Tạp chí Tài chính điện tử, 18. Nguyễn Văn Định (2012), Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại 79 học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 19. Mai Thị Hương Giang (2019), Bảo hiểm xã hội Việt Nam với việc bảo vệ quyền lợi bảo hiểm cho người lao động, Tạp chí Cộng sản- Số 932, tr. 86-90. 20. Vương Đình Huệ (2018), Cải cách chính sách BHXH góp phần bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước, Thời Báo Tài chính Việt Nam Online, ngày 08/5/2018, tuong-vuong-dinh-hue-ve-cai-cach-chinh-sach-bhxh-57170.aspx> 21. Nguyễn Thị Hương (2019), Quản lý thu BHXH bắt buộc đối với các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. 22. Hồ Sĩ Sà (2000), Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. 23. Phạm Đỗ Nhật Tân (2007), Công bằng xã hội trong chính sách bảo hiểm xã hội, Tạp chí Xã hội học, số 1, tr. 17-24. 24. Nguyễn Văn Thành (2018), Một số vấn đề đặt ra đối với công tác doi-voi-cong-tac-bao-hiem-xa-hoi-hien-nay.aspx > BHXH hiện nay, Tạp chí Cộng sản, ngày 04/12/2018, 25. Dương Văn Thắng (2014), Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 26. Vũ Đức Thuật (2017), Nghiên cứu các giải pháp tiếp tục cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động nghiệp vụ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội , Đề tài nghiên cứu khoa học, Bảo hiểm xã hội TP. Hà Nội. 27. Chu Văn Tùy (2005), Bảo hiểm xã hội Hà Nội - 15 năm nhìn lại, Tạp chí Lao động và xã hội số 256 + 257/2005, tr. 58-59 28. Nguyễn Thị Phước (2019), Thực hiện chính sách An sinh xã hội trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ, Học 80 viện Khoa học xã hội Việt Nam. 29. Quốc Hội, Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13, ban hành ngày 20/11/2014, Hà Nội. 30. Quốc hội, Bộ Luật Lao động số 10/2012/QH13, ban hành ngày 18/6/2012, Hà Nội. 31. Quốc hội, Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12, ban hành ngày 14/11/2008, Hà Nội. 32. Quốc hội, Luật số 46/2014/QH13 về sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế, ban hành ngày 13/6/2014, Hà Nội. 33. Tạp chí BHXH điện tử, Cải cách chính sách BHXH: Lịch sử và cập nhat-tinh-thoi-dai- 20903#:~:text=V%E1%BB%81%20m%E1%BA%B7t%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1 ch%2C%20BHXH,BHXH%20m%E1%BB%9Bi%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c %20ban%20h%C3%A0nh.> nhật tính thời đại, ngày 26/02/2019, 34. Tạp chí Tổ chức Nhà nước điện tử, Năng lực thực hiện chính sách an_de_ly_luan_va_thuc_tienall.html> công - những vấn đề lý luận và thực tiễn, 13/01/2016, 35. Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận TW, Kinh nghiệm quốc tế về phát triển hệ thống an sinh xã hội và những gợi ý với Việt Nam trong giai an-sinh-xa-hoi-va-nhung-goi-y-voi-viet-nam-trong-giai-doan-moi.html> đoạn mới, ngày 25/4/2019, 36. Tổ chức Ngân hàng Thế giới (2012), Việt Nam: Phát triển một hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án 0Vietn00Box377335B00PUBLIC0.pdf> 81 lựa chọn cho cải cách trong tương lai 37. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Công ước số 102 về Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, 1952, thông qua ngày 28/6/1952, Geneva, Thụy Sĩ 38. Từ điển Bách khoa toàn thư (1995), Tập 1, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.12. 39. Thời báo tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Dốc sức hoàn thành hoi-viet-nam-doc-suc-hoan-thanh-cac-chi-tieu-nam-2019-80690.aspx> các chỉ tiêu năm 2019, ngày 11/12/2019, 40. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Báo cáo sơ kết, báo cáo tổng kết (từ năm 2015-2019), Hà Nội. 41. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Phát triển Hệ thống An sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020, Tạp chí điện tử Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, < http://khcn.molisa.gov.vn/books/BooklettiengVIETlayout_16-12.pdf> Tài liệu tiếng anh 42. Cohn Gillion, John Turner, Clive Bailey, Denis Latulippe (2000), Social security pensions. Development and reform, 43. International Labour Office, Social Security Department (2009), Social Security for All, 44. International Labour Organization (ILO) (2014), Social insurance - Enhancing social security right for everyone 45. Orgnized UNICEF (2012), National health insurance in Asia and Africa., research paper. 46. Thomas Gabe, Julie M. Whittaker (2000), Antipoverty Effects of 82 Unemployment Insurance, PHỤ LỤC PHIẾU KHẢO SÁT (Về thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) Để đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác BHXH trong thời gian tới. Rất mong nhận được sự đóng góp của Ông/Bà vào nghiên cứu này thông qua việc đánh giá những nội dung dưới đây. Tác giả luận văn xin đảm bảo những thông tin mà Ông/Bà cung cấp chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu và được hoàn toàn bảo mật, không công bố danh tính cá nhân, không sử dụng cho mục đích khác. Xin trân trọng cảm ơn! (Vui lòng đánh dấu vào ô dưới đây mà Ông/Bà thấy phù hợp nhất) Phần 1: Thông tin chung (Không bắt buộc) Họ và tên: ..................................................................................................................... Đơn vị công tác: ........................................................................................................... Chức vụ: ....................................................................................................................... (Bắt buộc) a) Từ 18 đến 25 tuổi a) Từ 50 đến 60 tuổi b) Từ 25 đến 50 tuổi b) Trên 60 tuổi a) Nam b) Nữ c) Khác 83 a) Trên Đại học b) Cao đẳng e) Sơ cấp c) Đại học d) Trung cấp Phần 2: Nội dung khảo sát hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Các đơn vị, cá nhân có liên quan được phân công nhiệm vụ rõ ràng và có sự phối 5 4 3 2 1 1 hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện chính sách BHXH Người lao động và đơn vị sử dụng lao động 2 5 4 3 2 1 nhận thức, hiểu biết rõ về chính sách BHXH Các đơn vị, cá nhân có liên quan luôn tích cực hướng dẫn, giúp đỡ người lao động 5 4 3 2 1 3 trong việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Về việc nghiêm chỉnh chấp hành các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà 1 5 4 3 2 1 nước, thực hiện đúng các quy định về chính sách BHXH. Thực hiện các mục tiêu chính sách BHXH 5 4 3 2 1 2 theo chức năng và nhiệm vụ của Viện 84 Hàn lâm Viện Hàn lâm luôn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, của các đơn vị sử dụng lao động thuộc và trực 5 4 3 2 1 3 thuộc Viện Hàn lâm trong quá trình thực hiện chính sách BHXH chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Kế hoạch triển khai được xây dựng thống nhất với chủ trương, chính sách của Đảng; 1 Nhà nước; Bộ Lao động-Thương binh và 5 4 3 2 1 Xã hội; BHXH Việt Nam và cơ quan BHXH thành phố, quận Kế hoạch có sự đóng góp ý kiến của các 5 4 3 2 1 2 đơn vị, cá nhân có liên quan đến thực hiện chính sách BHXH của Viện Hàn lâm Kế hoạch rõ ràng, kịp thời, linh hoạt đảm 5 4 3 2 1 3 bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Công tác chỉ đạo tổ chức phổ biến, tuyên 5 4 3 2 1 1 truyền chính sách BHXH của Viện Hàn lâm Phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ 5 4 3 2 1 2 chức phổ biến, tuyên truyền chính sách 85 BHXH. Về hình thức, phương pháp tổ chức, tuyên 3 5 4 3 2 1 truyền chính sách BHXH Hiệu quả thực hiện tổ chức phổ biến, tuyên truyền về chính sách BHXH thông 5 4 3 2 1 4 qua các tài liệu, ấn phẩm (văn bản hướng dẫn, sách xuất bản,...) Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền 5 4 3 2 1 5 qua tập huấn các chuyên đề về chính sách BHXH Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền thông qua việc tư vấn, hướng dẫn giúp đỡ 6 5 4 3 2 1 cá nhân người lao động trong việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan 5 4 3 2 1 1 tâm, chỉ đạo trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH Các đơn vị có liên quan được phân công nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo, phối 5 4 3 2 1 2 hợp chặt chẽ trong thực hiện chính sách BHXH Tổ chức đoàn thể, cán bộ có liên quan tích 5 4 3 2 1 3 cực hỗ trợ người lao động giải quyết chế 86 độ chính sách BHXH theo nhiệm vụ được phân công buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan tâm, chỉ đạo nghiêm túc thực hiện 5 4 3 2 1 1 chính sách BHXH theo đúng quy định của pháp luật Chính sách BHXH được duy trì đúng với 2 5 4 3 2 1 chủ trương, đường lối của Đảng Chính sách BHXH được duy trì bám sát 5 4 3 2 1 3 hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền liên quan Chính sách BHXH được duy trì phù hợp 4 với người lao động và đơn vị sử dụng lao 5 4 3 2 1 động của Viện Hàn lâm bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Chính sách BHXH luôn được điều chỉnh 5 4 3 2 1 1 phù hợp với thực tế và chủ trương của Đảng, Nhà nước Kết quả thực hiện chính sách BHXH được 5 4 3 2 1 2 cập nhật thường xuyên và làm căn cứ kiến 87 nghị điều chỉnh chính sách Việc điều chỉnh thực hiện chính sách 5 4 3 2 1 3 BHXH được đảm bảo độ ổn định, linh hoạt. Việc điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH không làm ảnh hưởng nhiều tới 5 4 3 2 1 4 quyền lợi của người lao động và đơn vị sử dụng lao động chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Viện Hàn lâm thường xuyên theo dõi, đôn 5 4 3 2 1 1 đốc kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH Nội dung kiểm tra, thanh tra phù hợp với 5 4 3 2 1 2 quy định, kế hoạch thực hiện chính sách Phương pháp kiểm tra, thanh tra phù hợp 5 4 3 2 1 2 với điều kiện của từng đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm Mức độ kiểm tra, thanh tra thường xuyên 5 4 3 2 1 3 và liên tục BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? Công tác tổng kết thực hiện chính sách 5 4 3 2 1 1 BHXH được thực hiện theo đúng tiến độ và kế hoạch công tác của Viện Hàn lâm 88 Công tác tổng kết, đánh giá đã rút ra được 5 4 3 2 1 2 các kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách BHXH Báo cáo tổng kết việc thực hiện chính 5 4 3 2 1 3 sách BHXH được công khai minh bạch, số liệu rõ ràng, cụ thể chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam? ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của Ông/Bà! 89Xin Ông/Bà vui lòng cung cấp một số thông tin sau:
1. Độ tuổi:
2. Giới tính:
3. Trình độ chuyên môn được đào tạo:
Mức độ đánh giá
Bình
Rất
STT
Nội dung
Tốt
thường
Yếu
Kém
tốt
(4)
(3)
(2)
(1)
(5)
Câu 1: Đánh giá của Ông/Bà về việc thực trạng các đối tượng có liên quan thực
Câu 2: Đánh giá của Ông/Bà về việc đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách
Mức độ đánh giá
Bình
Rất
STT
Nội dung
Tốt
thường
Yếu
Kém
tốt
(4)
(3)
(2)
(1)
(5)
Câu 3: Đánh giá của Ông/Bà về công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
Câu 4: Đánh giá của Ông/Bà về công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính
Mức độ đánh giá
Bình
Rất
STT
Nội dung
Tốt
thường
Yếu
Kém
tốt
(4)
(3)
(2)
(1)
(5)
Câu 5: Đánh giá của Ông/Bà về công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Câu 6: Đánh giá của Ông/Bà về công tác duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt
Mức độ đánh giá
Bình
Rất
STT
Nội dung
Tốt
thường
Yếu
Kém
tốt
(4)
(3)
(2)
(1)
(5)
Câu 7: Đánh giá của Ông/Bà về công tác điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH
Câu 8: Đánh giá của Ông/Bà về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện
Mức độ đánh giá
Bình
Rất
STT
Nội dung
Tốt
thường
Yếu
Kém
tốt
(4)
(3)
(2)
(1)
(5)
Câu 9: Đánh giá của Ông/Bà về công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách
Câu 10: Kiến nghị của Ông/Bà nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện