VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI

BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI

BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Ngành: CHÍNH SÁCH CÔNG

Mã số: 834 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN BÙI NAM

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn Thạc sĩ: “Thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc

đối với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam” là

công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi cùng với sự hướng

dẫn của TS. Nguyễn Bùi Nam. Tôi xin cam kết các số liệu, kết quả nghiên

cứu của công trình này là hoàn toàn trung thực, không trùng lặp với các đề

tài khác.

Hà Nội,ngày tháng 8 năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO

HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG ........................... 10

1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội .................................................................... 10

1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc ............. 13

1.3. Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao

động ở Việt Nam .............................................................................................. 18

1.4. Tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc .......................... 27

1.5. Kinh nghiệm của một số quốc gia về BHXH và an sinh xã hội ................ 31

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ

HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ....................................................................... 37

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội

bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam .................................... 37

2.2. Thực trạng triển khai thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ........................ 39

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc cho

người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam .............................. 54

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC

HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI

LAO ĐỘNG TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ......... 61

3.1. Quan điểm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với

người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ......................... 61

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt

buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm ................................................ 65

3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm .............................. 73

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 78

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa

1. BHTN Bảo hiểm thất nghiệp

2. BHXH Bảo hiểm xã hội

3. BHYT Bảo hiểm y tế

4. TNLĐ - BNN Tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp

5. NLĐ Người lao động

6. CCVC Công chức, viên chức

7. KHXH Khoa học xã hội

8. Viện Hàn lâm Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động .............. 26

Bảng 1.2. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người sử dụng lao động ..... 27

Bảng 2.1. Kết quả khảo sát thực trạng các đối tượng có liên quan thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ........... 40

Bảng 2.2. Kết quả khảo sát về đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................... 42

Bảng 2.3. Kết quả khảo sát về công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực

hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam .... 44

Bảng 2.4. Kết quả khảo sát về công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam....... 46

Bảng 2.5. Kết quả khảo sát về công tác phân công, phối hợp thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam....... 48

Bảng 2.6. Kết quả khảo sát về công tác duy trì thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................... 49

Bảng 2.7. Kết quả khảo sát về công tác điều chỉnh thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................... 51

Bảng 2.8. Kết quả khảo sát về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam....... 52

Bảng 2.9. Kết quả khảo sát về đánh giá tổng kết thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam ......................... 53

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau hơn ba mươi năm tiến hành đổi mới, từ một nước nông nghiệp là

chủ yếu, Việt Nam đang chuyển dần thành một nước công nghiệp theo xu

hướng hiện đại. Cùng với quá trình hội nhập và phát triển của đất nước, lực

lượng lao động ngày càng lớn mạnh và có nhiều đóng góp to lớn trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà. An sinh xã hội được bảo đảm, là

điều kiện tiên quyết thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu, rộng.

Cũng như các quốc gia trên thế giới, tại Việt Nam, bảo hiểm xã hội được

coi là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội có vai trò quan

trọng đối với người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Khi đánh

giá tốc độ phát triển của một quốc gia, một trong các tiêu chí đó chính thống

an sinh xã hội mà trong đó bảo hiểm xã hội giữ vai trò nòng cốt. Nhận thức

được vai trò của bảo hiểm xã hội, Đảng Nhà nước ta đã rất chú trọng việc

thiết lập hành lang pháp lý điều chỉnh về bảo hiểm xã hội. Đặc biệt là bảo

hiểm xã hội bắt buộc trong giai đoạn hiện nay. Nhà nước đã ban hành Bộ luật

Lao động và Luật bảo hiểm xã hội cũng như các văn bản pháp lý hướng dẫn

thi hành Bộ luật Lao động về bảo hiểm xã hội và Luật bảo hiểm xã hội. Vai

trò quan trọng, tính chất trụ cột của chính sách BHXH, BHYT, BHTN trong

hệ thống An sinh xã hội ngày càng được khẳng định, nhất là trong thời kỳ đất

nước đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hội nhập, phát triển. Thực tế này

đòi hỏi quá trình xây dựng chính sách, pháp luật cũng như tổ chức thực hiện

BHXH, BHYT phải đáp ứng các mục tiêu phát triển mới với những yêu cầu

cao hơn theo định hướng của Đảng, Nhà nước, thể hiện rõ qua Nghị quyết 28-

NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 về cải cách chính sách BHXH.

Xác định đúng vị trí và vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội trong

1

công cuộc đổi mới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam luôn chú trọng

đến công tác đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với công chức, viên chức và

người lao động đang làm việc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Hiện nay, Nhà nước ta đã có khung pháp lý cao nhất để điều chỉnh các quan

hệ trong hoạt động bảo hiểm xã hội bắt buộc, tạo cơ sở mới cho việc mở rộng

mạng lưới an sinh xã hội, ngày một đáp ứng nhu cầu của người lao động nói

riêng và của toàn dân nói chung. Tuy nhiên, chính sách về bảo hiểm xã hội

bắt buộc vẫn còn những hạn chế, bất cập. Nghị quyết 28-NQ/TW của Hội

nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách

BHXH cũng đã đưa ra nhận định: “Hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH

chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế - xã hội, chưa thích ứng với quá

trình già hóa dân số và sự xuất hiện các quan hệ lao động mới”. Nhiều quy

định chưa được hướng dẫn cụ thể, vẫn còn khoảng cách giữa văn bản pháp

luật và thực tiễn thực hiện. Còn nhiều vướng mắc, khó khăn cho các đơn vị sử

dụng lao động và người lao động trong quá trình tham gia bảo hiểm xã hội. Cũng

như các đơn vị công lập khác, với đặc thù là cơ quan nghiên cứu khoa học nên

việc tham gia chính sách BHXH Viện Hàn lâm đóng vai trò là đơn vị thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc, tuy Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam luôn

thực hiện nghiêm túc các chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội bắt buộc cho

người lao động, nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình

tham gia và giải quyết chế độ BHXH cho người lao động của Viện Hàn lâm.

Đứng trước các vấn đề trên, tôi đã chọn đề tài luận văn: “Thực hiện

chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn

lâm Khoa học xã hội Việt Nam.” nhằm hiểu rõ hơn về việc thực hiện chính

sách bảo hiểm xã hội tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, qua đó

đóng góp một vài ý kiến, giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác thực hiện

2

chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Chính sách BHXH luôn là một trong những chính sách quan trọng trong

hệ thống chính sách xã hội nói chung và là chính sách cốt lõi của hệ thống

chính sách an sinh xã hội của bất kỳ quốc gia nào, hệ thống xã hội nào. Để có

được các mô hình BHXH đa dạng và phong phú như ngày nay, các nhà lý

luận, các nhà quản lý trên thế giới đã tốn khá nhiều công sức và thời gian để

nghiên cứu và tổng kết thực tiễn như:

Cohn Gillion, John Turner, Clive Bailey, Denis Latulippe (2000), chế độ

Hưu trí trong chính sách an sinh xã hội - cải cách và phát triển đã đưa ra các

kết quả nghiên cứu giúp các nhà phân tích chính sách và người ra quyết định

tại các quốc gia có thể tham khảo trong việc đưa ra các chính sách về chế độ

hưu trí [42].

International Labour Office, Social Security Department (2009), An

sinh xã hội cho mọi người, bài viết đã đưa ra các khám phá và phân tích các

vấn đề của chính sách dựa trên việc tiếp cận chính sách An sinh xã hội theo

tiêu chuẩn quốc tế của Tổ chức ILO [43].

International Labour Organization (ILO) (2014), Bảo hiểm xã hội - Trụ

cột của chính sách An sinh xã hội đã nêu rõ một số vấn đề thực hiện chính

sách BHXH ở Việt Nam từ giai đoạn 2009-2014 [44].

Tổ chức UNICEF (2012), Bảo hiểm y tế quốc gia ở Châu Á và Châu Phi

đã đưa ra nhận định: “Bảo hiểm y tế là một yếu tố quan trọng của hệ thống

Bảo vệ Sức khỏe Xã hội và có thể đóng vai trò vai trò quan trọng trong việc

đạt được bảo hiểm y tế toàn cầu (UHC) ” [45].

Thomas Gabe, Julie M. Whittaker (2000), Lợi ích khi tham gia Bảo hiểm

thất nghiệp, báo cáo đã nhấn mạnh các lợi ích khi tham gia Bảo hiểm thất nghiệp,

những người lao động thất nghiệp được đảm bảo cuộc sống trước tình hình biến

3

động về kinh tế trong khoảng thời gian tìm kiếm việc làm mới [46].

Trong quá trình hoàn thiện chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, để phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn, đã

có một số công trình nghiên cứu như:

Vương Đình Huệ (2018), Cải cách chính sách BHXH góp phần bảo

đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền

vững đất nước, Báo Hà Nội Mới, ngày 08/5/2018, bài viết đã nêu lên những

thành tựu quan trọng trong thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam. Bài viết

cũng làm rõ các mặt hạn chế, yếu kém trong việc tổ chức, thực hiện chính

sách BHXH; nguyên nhân của các mặt hạn chế, yếu kém đó; đồng thời đưa ra

các quan điểm, mục tiêu, đặt ra những vấn đề lớn cần phải cải cách về chính

sách BHXH, điều chỉnh nhiều nội dung để khắc phục những hạn chế, yếu

kém, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu hướng phát triển và bối cảnh

mới và các giải pháp để đạt được các mục tiêu nêu trên [20].

Nguyễn Văn Thành (2018), Một số vấn đề đặt ra đối với công tác

BHXH hiện nay, Tạp chí Cộng sản tháng 12/2018, bài viết đã đề cập đến tình

hình công tác BHXH qua phân tích một số vấn đề trên tất cả các mặt của công

tác BHXH ở Việt Nam hiện nay [24].

Dương Văn Thắng (2014), Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở

Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, cuốn sách đã khái quát lịch sử

hình thành và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ những năm trước

cách mạng tháng 8 cho tới nay. Cuốn sách đã nêu chi tiết các văn bản pháp

luật đầu tiên quy định về Bảo hiểm xã hội cho người lao động, điều này cho

thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến các cán bộ, công chức, viên

chức và người lao động làm trong các đơn vị công lập và dần mở rộng đến

mục tiêu Bảo hiểm xã hội toàn dân. Cuốn sách cũng nêu rõ việc đổi mới và

phát triển Bảo hiểm xã hội Việt Nam căn bản dựa trên nhu cầu của các nhóm

4

đối tượng trong toàn xã hội [25].

Vũ Đức Thuật (2017), Nghiên cứu các giải pháp tiếp tục cải cách, đơn giản

hóa thủ tục hành chính trong hoạt động nghiệp vụ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y

tế, Bảo hiểm thất nghiệp của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội, Đề tài nghiên

cứu khoa học, Bảo hiểm xã hội TP. Hà Nội đã nêu lên được thực trạng cải cách

thủ tục hành chính thuộc 05 lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN; tổ chức bộ phận

“Một cửa”; ứng dụng công nghệ thông tin, giao dịch hồ sơ điện tử [26].

Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Phát triển Hệ thống An sinh

xã hội ở Việt Nam đến năm 2020, cuốn sách đã đưa ra kết quả đạt được, những

tồn tại của chính sách an sinh xã hội hiện hành và các định hướng chính sách

cho giai đoạn từ nay đến năm 2020. [41, Tr.48]

Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật

BHXH về BHXH bắt buộc và Nghị định số 44/2017/NĐ-CP quy định mức

đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ BH TNLĐ-BNN đã đưa ra các hướng

dẫn cụ thể trong thực hiện chế độ chính sách BHXH bắt buộc theo Luật

BHXH số 58/2014/QH13 [11,12].

Tổ chức Ngân hàng Thế giới (2012), Việt Nam: Phát triển một hệ thống

bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án lựa

chọn cho cải cách trong tương lai, Báo cáo nghiên cứu đã nêu lên được sự

cần thiết phải đổi mới để mở rộng độ bao phủ, khuyến khích bình đẳng, tăng

cường tính bền vững về tài chính, và hiện đại hóa công tác quản lý bảo hiểm

xã hội để đảm bảo an sinh thu nhập cho lượng dân số già của Việt Nam trong

những thập kỷ tới đây. Việc cải cách chính sách cần gắn kết với nỗ lực tăng

cường năng lực cung cấp dịch vụ của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và hệ thống

quản lý nhà nước [36].

Tác giả Nguyễn Thị Hương (2019), Quản lý thu BHXH bắt buộc đối với

các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội, Luận

văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, trên cơ sở đánh giá thực

5

trạng công tác quản lý thu BHXH bắt buộc đối với các doanh nghiệp trên địa

bàn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, chỉ ra những kết quả đạt được,

những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế; đề xuất giải pháp

hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH bắt buộc đối với các doanh nghiệp

trên địa bàn huyện Thanh trì trong thời gian tới [21].

Tác giả Lê Thị Kim Dung (2019), Thực hiện chính sách Bảo hiểm ý tế

đối với người cao tuổi qua nghiên cứu trường hợp phường Phú Diễn, quận

Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội

Việt Nam, đề tài tìm hiểu thực trạng và phân tích tình hình thực hiện chính

sách BHYT đối với người cao tuổi tại phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm,

thành phố Hà Nội, qua đó đề xuất giải pháp cho việc thực hiện chính sách

BHYT đối với người cao tuổi ở địa bàn nghiên cứu [16].

Tác giả Nguyễn Thị Phước (2019), Thực hiện chính sách An sinh xã hội

trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ, Học

viện Khoa học xã hội Việt Nam, đề tài làm rõ những vấn đề thực tiễn về

thực hiện chính sách an sinh xã hội ở quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng;

đồng thời vận dụng vào thực tiễn để tìm kiếm các giải pháp nhằm thực hiện

có hiệu quả chính sách an sinh xã hội trên địa bàn quận Thanh Khê trong

thời gian tới [28].

Đào Việt Ánh (2019), Nghiên cứu xây dựng, thành lập và triển khai mô

hình tổ chức hỗ trợ, tư vấn, giải đáp chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y

tế, bảo hiểm thất nghiệp của ngành Bảo hiểm xã hội, Đề án, Vụ Tổ chức –

Cán bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đề án nhằm nâng cao nhận thức của

người dân và người lao động về chính sách pháp luật BHXH, BHYT(nhất là

những vấn đề về quyền lợi) ngày càng cao; đồng thời đánh giá thực trạng

hoạt động chăm sóc khách hàng tham gia BHXH, BHYT, BHTN của Hệ

thống chăm sóc khách hàng hiện nay của ngành BHXH; đề xuất thành lập

Phòng hỗ trợ, tư vấn, giải đáp và quản lý Hệ thống chăm sóc khách hàng; xây

dựng chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức; các quy chế, quy trình hoạt động

của Phòng; xây dựng lộ trình nâng cấp bộ máy hỗ trợ, tư vấn, giải đáp chính

6

sách BHXH, BHYT, BHTN của ngành BHXH giai đoạn 2020 - 2025 [3].

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá việc thực hiện

chính sách BHXH bảo hiểm xã hội bắt buộc. Qua đó đề xuất một số giải pháp

nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc cho người lao

động tại Viện Hàn lâm trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể

sau đây:

- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách

bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm

- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người

lao động tại Viện Hàn lâm từ giai đoạn năm 2015 - 2019, những kết quả đã đạt

được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tổn tại, hạn chế đó.

- Đưa ra các giải pháp và đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực thực

hiện chính sách về bảo hiểm xã bắt buộc tại Viện Hàn lâm trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động

tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Về không gian: Nghiên cứu tình hình thực hiện BHXH bắt buộc từ

chính sách BHXH qua thực tiễn tại Viện Hàn lâm.

- Về thời gian: Nghiên cứu giai đoạn từ năm 2015 - 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở của phương pháp luận là phép biện

7

chứng duy vật; các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật của

Nhà nước về BHXH bắt buộc, các văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ban,

Ngành có liên quan và quan điểm của Tổ chức Lao Động Quốc tế (ILO) về

bảo hiểm xã hội bắt buộc qua một số Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham

gia ký kết.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để triển khai luận văn, tác giả đã sử dụng đồng bộ một số các phương

pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:

Phương pháp thu thập thông tin: phân tích và khai thác thông tin từ các

nguồn tư liệu, đặc biệt là các tư liệu về chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc;

các văn bản quy phạm pháp luật; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài

liệu đã được công bố; các tài liệu của cơ quan có liên quan,…

Bên cạnh đó, đề tài sử dụng phương pháp khảo sát, điều tra với mục đích

thu thập thông tin từ các đối tượng có liên quan thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc tại Viện Hàn lâm. Cụ thể, đề tài đã khảo sát bằng bảng hòi 100 trường hợp,

bao gồm: Viện Xã hội học (10 phiếu); Viện NC Ấn Độ & Tây Nam Á (10

phiếu); Ban Tổ chức - Cán bộ (10 phiếu); Ban Kế hoạch - Tài chính (5 phiếu),

Văn phòng Viện Hàn lâm (10 phiếu); Văn phòng Đảng - Đoàn thể (05 phiếu);

Viện Thông tin Khoa học xã hội (5 phiếu); Viện NC Đông Bắc Á (10 phiếu);

Trung tâm Ứng dụng CNTT (5 phiếu); Viện Địa lý nhân văn (10 phiếu); Viện

Tâm lý học (10 phiếu); Viện Dân tộc học (10 phiếu). Số phiếu hợp lệ thu về 90

phiếu, mẫu phiếu khảo sát được trình bày tại Phụ lục của luận văn. Các kết quả

khảo sát được đề tài thu thập, thống kê, đánh giá, phân tích tại chương 2 của luận

văn.

Phương pháp phân tích và tổng hợp: các quan điểm khác nhau về nhận

thức khoa học xung quanh các khái niệm, các quy phạm pháp luật có liên quan

đến chính sách về BHXH bắt buộc.

Phương pháp so sánh: nhằm đối chiếu kinh nghiệm về BHXH của một số

8

nước trên thế giới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn đóng góp, hoàn thiện, bổ sung những vấn đề lý luận và thực tiễn

của chính sách BHXH bắt buộc ở Việt Nam nói chung và Viện Hàn lâm nói

riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn cung cấp những nghiên cứu, tư liệu thực tế tại Viện Hàn lâm

Khoa học xã hội Việt Nam qua đó phản ánh được thực trạng và đề xuất được

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã

hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm. Luận văn có thể được

sử dụng làm tài liệu tham khảo, giúp các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn

lâm củng cố lại việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với

người lao động.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn bao gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt

buộc đối với người lao động.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa

9

học xã hội Việt Nam.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG

1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội

Thuật ngữ “Bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức được sử dụng làm

tiêu đề cho một văn bản pháp luật vào năm 1935 của Hợp chủng quốc Hoa

Kỳ. Thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật được thông qua tại

New Zealand năm 1938. Năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế giới thứ

hai, thuật ngữ này được dùng trong Hiến chương Đại Tây Dương (the Atlantic

Charter of 1941). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhanh chóng chấp nhận

thuật ngữ “bảo hiểm xã hội”, đây là mốc quan trọng ghi nhận giá trị của thuật

ngữ này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhưng phản ánh được nguyện vọng

sâu sắc nhất của nhân dân lao động trên toàn thế giới [17].

BHXH đã ra đời và phát triển hàng trăm năm nay với nhiều mô hình,

nhiều cách thức thực hiện khác nhau trên thế giới. Để có được các mô hình

BHXH đa dạng và phong phú như ngày nay, các nhà lý luận, các nhà quản lý

đã tốn khá nhiều công sức và thời gian để nghiên cứu và tổng kết thực tiễn.

Không thể không kể đến sự đấu tranh của giai cấp công nhân và người lao

động trên toàn thế giới để có được BHXH như ngày hôm nay.

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “bản chất bảo hiểm xã hội là sự

bảo vệ của xã hội đối với các thành viên trong xã hội thông qua một loạt các

biện pháp công cộng để đối phó với các rủi do xã hội, trước hết là khó khăn

về kinh tế - xã hội do bị ngừng hoặc giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm

đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết; cung cấp chăm sóc y tế và trợ

10

cấp cho các gia đình đông con.” [17].

Theo Tập 1, Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Bảo hiểm xã hội là sự thay

thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc

giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp,

tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất. Dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự

đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp

luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng

thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội” [38, tr.12]

Theo Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014 của

Quốc hội: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu

nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai

sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ

sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội” [29, tr.2]

Ở Việt Nam hiện nay có 02 hình thức đóng BHXH là: BHXH bắt buộc

và BHXH tự nguyện.

1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội

BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập cho người lao động, là sản phẩm

tất yếu khách quan của xã hội phát triển, là hình thức dịch vụ công để quản lý

và đáp ứng nhu cầu chia sẻ các rủi ro trong cộng đồng, là quyền cơ bản của

người lao động.

BHXH vừa để thực hiện các mục đích xã hội, vừa để thực hiện các mục

đích kinh tế trong mỗi cộng đồng, quốc gia. Trong đó mục đích kinh tế và

mục đích xã hội luôn được thực hiện đồng thời, đan xen lẫn nhau, là hai mặt

không thể tách rời của BHXH. Khi đề cập đến các lợi ích kinh tế của BHXH

đối với người lao động và đối với xã hội là đã bao hàm cả mục đích xã hội

của nó. Ngược lại, các mục đích xã hội của BHXH cũng chỉ đạt được khi nó

đồng thời mang lại các lợi ích kinh tế thiết thực cho người tham gia.

11

Về phương diện xã hội: BHXH là sự chia sẻ rủi ro, bảo đảm an toàn xã hội;

Về phương diện kinh tế: BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập giữa

những người tham gia bảo hiểm, thông qua việc hình thành quỹ tiền tệ chung;

Về phương diện chính trị, pháp luật: Khi được nhà nước điều chỉnh bằng

pháp luật, BHXH đã trở thành quyền cơ bản của người lao động, xét trên cả

bình diện quốc gia và quốc tế. Đồng thời đó cũng là trách nhiệm của họ và

người sử dụng lao động phải tham gia BHXH. Vì vậy, BHXH là một chính

sách xã hội quan trọng, là bộ phận cơ bản để đảm bảo an sinh xã hội của các

quốc gia.

1.1.3. Các chế độ của BHXH

Chế độ BHXH là hệ thống các quy định của nhà nước về mức hưởng,

điều kiện hưởng; mức đóng, điều kiện đóng BHXH. Tùy theo từng trường

hợp BHXH mà nhà nước có các quy định khác nhau về các mức, các điều

kiện này. Trong Công ước 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) có quy

định trợ cấp tối thiểu cho 9 nhánh chế độ BHXH là (1) chế độ ốm đau; (2) chế

độ thai sản; (3) chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (4) chế độ bảo

hiểm thất nghiệp; (5) chế độ chăm sóc y tế; (6) chế độ tàn tật (ở Việt Nam còn

gọi là chế độ mất sức lao động, nhưng với nghĩa khác); (7) chế độ tử tuất; (8) chế

độ hưu trí, và (9) chế độ chăm sóc gia đình (cho những người đông con) [26].

Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước trong từng giai đoạn, để có

thể xây dựng, áp dụng các quy định này. Như đã nêu, ở Việt Nam hiện nay,

theo quy định của Luật BHXH, đã thực hiện 6 chế độ trong 9 chế độ BHXH

nêu trên. Trước năm 1995, nước ta cũng đã thực hiện các chế độ, trong đó có

chế độ mất sức lao động, nhưng lại không có chế độ bảo hiểm thất nghiệp

Căn cứ theo Điều 4, Luật BHXH 2014 quy định các chế độ BHXH tại

Việt Nam hiện nay như sau:

a) Bảo hiểm xã hội bắt buộc có các chế độ sau đây: Ốm đau; Thai sản;

Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Hưu trí; Tử tuất.

12

b) Bảo hiểm xã hội tự nguyện có các chế độ sau đây: Hưu trí; Tử tuất.

c) Bảo hiểm hưu trí bổ sung do Chính phủ quy định [29, tr.7].

Quy định các chế độ BHXH là những nội dung cốt lõi của bất kỳ hệ

thống BHXH nào, trong đó quy định rõ ràng các quan hệ trách nhiệm và

nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH; quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi của

người lao động khi tham gia BHXH. Ví dụ, trong chế độ BHTN, quy định rất

rõ đối tượng nào được tham gia bảo hiểm; quy định mức đóng góp BHTN của

người lao động và người sử dụng lao động; quy định khi nào thì người thất

nghiệp được hưởng trợ cấp BHTN; quy định về mức hưởng trợ cấp và thời

gian hưởng trợ cấp; quy định về các quyền lợi khác có liên quan như học

nghề, hỗ trợ tìm việc làm…

1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.2.1. Chính sách bảo hiểm xã hội

1.2.1.1. Sơ lược lịch sử chính sách bảo hiểm xã hội

Chính sách BHXH luôn là một trong những chính sách quan trọng trong

hệ thống chính sách xã hội nói chung và là chính sách cốt lõi của hệ thống

chính sách an sinh xã hội của bất kỳ quốc gia nào, hệ thống xã hội nào.

Về mặt chính sách, BHXH chính thức ra đời từ năm 1838 dưới thời Tể

Tướng Bismark. Ban đầu chính sách BHXH chỉ có chế độ trợ cấp TNLĐ -

BNN sau đó bổ sung trợ cấp ốm đau (năm 1865). Tuy nhiên, để có tính pháp

lý cao thì phải đến năm 1883, đạo luật về BHXH mới được ban hành. Đây có

thể coi là văn bản pháp luật đầu tiên về BHXH trên thế giới. Như vậy, kể từ

khi có chính sách BHXH đến khi có được đạo luật cơ bản về BHXH, nước

Đức (nước Phổ cũ) đã phải mất gần nửa thế kỷ (45 năm) với nhiều thay đổi,

sự phát triển kinh tế - xã hội của nước Đức [33].

Sau Đức, nhiều nước châu Âu cũng cho ra đời các Đạo luật BHXH của

mình. Đến đầu thế kỷ XX, BHXH đã mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, đặc

biệt là các nước Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canađa và một số nước khác. Ở Mỹ

13

đạo luật đầu tiên lại không phải là đạo Luật về BHXH mà về an sinh xã hội

(Social Security Act 1935), trong đó BHXH là nòng cốt, ngoài ra còn có các

chế độ phúc lợi khác như trợ cấp dưỡng lão, trợ cấp tàn tật, phúc lợi y tế… dần

dần các chế độ được bổ sung và điều chỉnh để phù hợp với sự phát triển kinh tế

- xã hội của nước Mỹ như trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm việc làm, phúc lợi phụ

nữ và trẻ em [33].

Trong quá trình phát triển, BHXH đã trở thành một vấn đề quốc tế gắn

với vai trò của Liên hợp quốc mà trực tiếp là Tổ chức Lao động quốc tế

(ILO), là một trong những quyền cơ bản nhất của con người được ghi nhận

trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc: “Tất cả mọi người với tư

cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó

được đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế - xã hội và văn hóa, nhu

cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”. Tính đến thời điểm

hiện tại, theo ILO, trên thế giới có khoảng hơn 170 nước thực hiện chính sách

BHXH, trong đó 155 nước (chiếm 95%) nhưng chỉ có 63 nước (chiếm 38,6%)

thực hiện hình thức bảo hiểm hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản [24].

Ở Việt Nam, ngay từ năm 1929, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản

Đông Dương (một trong các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam)

đã nêu: “Tổ chức tất cả vô sản giai cấp và công hội, thực hành bảo hiểm cho

thợ thuyền, giúp đỡ thợ thuyền thất nghiệp...”. Điều 7 Nghị quyết về giành

chính quyền toàn quốc và thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh được

thông qua tại kỳ họp Quốc dân Đại hội từ ngày 16 đến 17-8-1945 có viết:

“Ban bố Luật Lao động; ngày làm 08 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo

hiểm” [24].

Trên cơ sở này, ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, ngày

3-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ ban hành Sắc lệnh

số 54-SL về ấn định các điều kiện cho công chức về hưu trí; ngày 14-6-1946

ban hành Sắc lệnh số 105-SL quy định về việc cấp hưu bổng và đóng BHXH

14

đối với công chức. Đây là hai văn bản pháp luật đầu tiên quy định về quyền

lợi, mức hưởng hưu trí của công chức, khẳng định nguyên tắc đóng - hưởng

của BHXH, quy định trách nhiệm bảo hộ của Nhà nước đối với Quỹ BHXH.

Kế thừa các quy định này, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng của đất

nước, tham khảo có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm quốc tế về BHXH,

Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, văn bản pháp luật về

BHXH, tiêu biểu như Nghị định số 235-HĐBT, ngày 18-9-1985, của Hội

đồng Bộ trưởng Về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và

các lực lượng vũ trang, bãi bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ, chuyển

sang chế độ trả lương bằng tiền do quỹ hàng hóa bảo đảm; Nghị định số 236-

HĐBT, ngày 18-9-1985, của Hội đồng Bộ trưởng Về bổ sung, sửa đổi một số

chế độ, chính sách về thương binh xã hội; Luật BHXH năm 2006; Nghị quyết

số 21-NQ/TW, ngày 22-11-2012, của Bộ Chính trị Về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 -

2020; Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020 được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1215/QĐ-TTg, ngày 23-7-2013;

Luật BHXH năm 2014. Mới đây nhất, cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo về an

sinh xã hội tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ngày 23-5-

2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số

28-NQ/TW Về cải cách chính sách BHXH [24].

Quan điểm chỉ đạo nêu trên thể hiện tầm nhìn chiến lược có tính xuyên

suốt đối với việc phát triển BHXH trong hệ thống chính sách xã hội nhằm bảo

đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát

triển bền vững đất nước, thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

Đến nay, đã hình thành hệ thống chính sách BHXH tương đối đồng bộ gồm

bảo hiểm hưu trí - tử tuất, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm ốm đau, thai sản và

bảo hiểm tai nạn lao động, cơ bản bao quát các chế độ BHXH theo thông lệ

quốc tế về BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện trong các ngành, thành phần

15

kinh tế với các loại hình lao động khác nhau. Quỹ BHXH trở thành quỹ an

sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những

người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Diện bao phủ

BHXH theo quy định và quy mô tham gia BHXH được mở rộng, số người

tham gia, số người được hưởng BHXH tăng lên [24].

Sơ lược lịch sử phát triển BHXH ở Việt Nam cho thấy, cả về tư duy và

trong tổ chức thực hiện, chính sách BHXH luôn được cải cách, được đổi mới

để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn

phát triển. Nói cách khác, cải cách BHXH là vấn đề có tính khách quan và

điều này không có nghĩa các chính sách BHXH đã qua “có vấn đề”, ngược lại,

các chính sách BHXH qua các thời kỳ đều đã làm tròn “sứ mạng lịch sử” của

mình. Ngay trong Nghị quyết 28-NQ/TƯ nêu trên đã cũng đã khẳng định,

chính sách BHXH đã từng bước khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột

chính của hệ thống ASXH, là sự bảo đảm thay thế, hoặc bù đắp một phần thu

nhập cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro trong cuộc sống.

1.2.1.2. Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội

- Thực hiện chính sách BHXH nhằm ổn định cuộc sống người lao động,

trợ giúp người lao động khi gặp rủi ro: ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề

nghiệp, thất nghiệp... sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm

có việc làm....

- Thực hiện tốt chính sách BHXH nhất là chế độ hưu trí, góp phần ổn

định cuộc sống của người lao động khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả

năng lao động.

- Thực hiện chính sách BHXH góp phần ổn định và nâng cao chất lượng

lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong các

thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển.

- BHXH, BHYT, BHTN là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần

16

vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các

tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh

xã hội bền vững.

1.2.1.3. Sự cần thiết của chính sách bảo hiểm xã hội

BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Trong

Nghị quyết số 28-NQ/TW đã xác định rõ, BHXH là một trụ cột chính của hệ

thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn

định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.

1.2.1.4. Nguyên tắc hoạt động của chính sách bảo hiểm xã hội

Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:

- Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian

đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.

- Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương

tháng của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính

trên cơ sở mức thu nhập tháng do người lao động lựa chọn.

- Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa

có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và

chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian đóng

bảo hiểm xã hội đã được tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì không tính

vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.

- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung, thống nhất, công khai,

minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các

quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước

quy định và chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.

- Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo

17

đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội [29, tr.7]

1.2.2. Chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.2.2.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc

BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động và

BHXH hội bắt buộc là một trong những chính sách an sinh hữu ích đối

người sử dụng lao động phải tham gia [29, tr.6].

với người lao động. Con người muốn tồn tại và phát triển cần có hoạt động

lao động do đó xuất hiện mối quan hệ giữa người lao động và đơn vị sử dụng

lao động. Hàng tháng người lao động sẽ trích nộp một khoản từ tiền lương và

đơn vị sử dụng lao động sẽ phải chi trả một khoản tiền ngoài tiền lương để

trích nộp BHXH bắt buộc cho người lao động.

1.2.2.2. Chính bảo hiểm xã hội bắt buộc

Chính sách BHXH bắt buộc nằm trong hệ thống chính sách BHXH ở

Việt Nam, do đó hội tụ đầy đủ các đặc trưng cơ bản của chính sách BHXH:

lịch sử, vai trò, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động,…

Đặc điểm của chính sách BHXH bắt buộc:

- Việc tham gia loại hình bảo hiểm này mang tính chất bắt buộc;

- Pháp luật quy định cụ thể về mức đóng và phương thức đóng BHXH

bắt buộc: theo Điều 85 Luật bảo hiểm xã hội 2014.

- Người tham gia BHXH bắt buộc được hưởng nhiều quyền lợi hơn so

với người tham gia BHXH tự nguyện gồm chế độ sau: ốm đau; thai sản;

lương hưu; tử tuất; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

1.3. Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao

động ở Việt Nam

1.3.1. Hệ thống chính sách, pháp luật về Bảo hiểm xã hội cho người

lao động ở Việt Nam.

Đến nay, nước ta đã hình thành được hệ thống chính sách BHXH khá

đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc tế, gồm cả

18

loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ

lao động lẫn người không có quan hệ lao động; cho cả khu vực kinh tế chính

thức lẫn khu vực phi chính thức.

Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH được thiết kế, điều

chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp. Với vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự

tham gia của người lao động và người sử dụng lao động, quỹ BHXH đã trở thành

quỹ an sinh xã hội lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ

giữa những người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH.

Mô hình tổ chức hệ thống BHXH cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế

với việc tách cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan tổ chức thực hiện chính

sách đã phát huy được vai trò và tính hiệu quả trong từng khâu thiết kế, xây

dựng, hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách, thu, chi và quản lý Quỹ

BHXH. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH được tăng

cường. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BHXH thường xuyên được

sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc

chấp hành pháp luật BHXH được chú trọng; công tác đối ngoại và hội nhập

quốc tế về BHXH được đẩy mạnh.

Theo Điều 6 Luật BHXH năm 2014 về chính sách của Nhà nước đối với

BHXH: Khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia

bảo hiểm xã hội; Hỗ trợ người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; Bảo hộ

quỹ bảo hiểm xã hội và có biện pháp bảo toàn, tăng trưởng quỹ; Khuyến

khích người sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm hưu

trí bổ sung; Ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ thông tin trong quản lý bảo

hiểm xã hội [29, tr.7].

1.3.2. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam

Căn cứ theo Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định về đối

tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc như sau:

(1) Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo

19

hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:

a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp

đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một

công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp

đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo

pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;

b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng

đến dưới 03 tháng;

c) Cán bộ, công chức, viên chức;

d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác

trong tổ chức cơ yếu;

đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ

quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;

người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;

e) Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an

nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo

học được hưởng sinh hoạt phí;

g) Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật

người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có

hưởng tiền lương;

i) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.

(2) Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có

giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do

cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt

buộc theo quy định của Chính phủ.

(3) Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm

cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính

20

trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức

xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ

chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ

kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng

lao động theo hợp đồng lao động.

(4) Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ

đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này.

(5) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm xã hội.

Các đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều này sau đây gọi

chung là người lao động [29, tr.5].

1.3.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam

1.3.3.1 Chế độ ốm đau

Căn cứ theo Điều 25, Luật BHXH 2014 quy định điều kiện hưởng chế độ

ốm đau:

- Người lao động bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động

phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền

theo quy định của Bộ Y tế.

- Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do

say rượu hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục do Chính

phủ quy định thì không được hưởng chế độ ốm đau.

- Phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận

của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.

- Thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau cùng mức hưởng chế độ ốm đau

của người lao động sẽ phụ thuộc vào đối tượng hưởng, làm việc trong môi

trường bình thường hay làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại , nguy

hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm [29, tr.14].

1.3.3.2. Chế độ thai sản

- Người lao động thuộc đối tượng và thuộc một trong các trường hợp

21

theo quy định tại Điều 30 và Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 khi

đang đóng bảo hiểm xã hội vào quỹ ốm đau và thai sản sẽ được nghỉ hưởng

chế độ thai sản.

- Trường hợp đối với lao động nữ đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản sẽ

được nghỉ khám thai, hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu

hoặc phá thai bệnh lý; nghỉ hưởng chế độ khi sinh con; nghỉ hưởng chế độ khi

thực hiện các biện pháp tránh thai.

- Trường hợp lao động nữ mang thai hộ hay người mẹ nhờ mang thai hộ,

người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi cũng sẽ được nghỉ

hưởng chế độ thai sản khi đủ điều kiện hưởng.

- Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06

tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở

tại tháng lao động nữ sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi.

Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha được

trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con

[29, tr.16].

1.3.3.3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động:

*) Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;

- Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc

theo yêu cầu của người sử dụng lao động;

- Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời

gian và tuyến đường hợp lý;

- Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.

Điều kiện hưởng chế độ bệnh nghề nghiệp như sau:

- Bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao động

- Thương binh và Xã hội ban hành khi làm việc trong môi trường hoặc nghề

22

có yếu tố độc hại;

- Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị bệnh quy định tại

khoản 1 Điều này.

*) Người lao động khi bị tai nạn lao động thuộc đối tượng quy định tại

Điều 42 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và đủ điều kiện được quy định thuộc

Điều 43, Điều 44 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 sẽ được hưởng trợ cấp một

lần hay trợ cấp hàng tháng tùy thuộc vào mức độ suy giảm khả năng lao động,

thời gian tham gia bảo hiểm xã hội.

*) Ngoài 2 trợ cấp trên thì người lao động nếu đủ điều kiện hưởng chế độ

tai nạn lao động, chế độ bệnh nghề nghiệp còn có thể được cấp phương tiện

trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình; hưởng trợ cấp phục vụ hàng tháng; trợ

cấp một lần khi chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; dưỡng sức, phục

hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật [29, tr.19].

1.3.3.4. Chế độ hưu trí

*) Về điều kiện nghỉ hưu của người lao động thì theo quy định sẽ phụ

thuộc vào tuổi, thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu là 20 năm, công

việc, mức suy giảm khả năng lao động,… được quy định tại Điều 54 và Điều

55 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

*) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người

lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật này được tính bằng 45%

mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62

của Luật này và tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:

- Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm,

năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;

- Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.

- Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định tại điểm a và điểm b

khoản này được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.

*) Về thời điểm hưởng lương hưu hoặc là thời điểm ghi trong quyết định

23

nghỉ việc do người sử dụng lao động lập khi người lao động đã đủ điều kiện

hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật; hoặc là tính từ tháng liền kề

khi người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu và có văn bản đề nghị gửi

cho cơ quan bảo hiểm xã hội; hoặc là thời điểm ghi trong văn bản đề nghị của

người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu.

*) Về thời điểm hưởng lương hưu thì là thời điểm ghi trong quyết định

nghỉ việc do người sử dụng lao động lập khi người lao động đã đủ điều kiện

hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật. Đối với người lao động đang

đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại điểm h khoản 1 Điều 2 của Luật

này, thời điểm hưởng lương hưu được tính từ tháng liền kề khi người lao

động đủ điều kiện hưởng lương hưu và có văn bản đề nghị gửi cho cơ quan

bảo hiểm xã hội.

*) Đối với người lao động quy định tại điểm g khoản 1 Điều 2 của Luật

này và người đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội, thời điểm hưởng

lương hưu là thời điểm ghi trong văn bản đề nghị của người lao động đã đủ

điều kiện hưởng lương hưu theo quy định [29, tr.21].

(*) Bảo hiểm xã hội 1 lần

Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này mà có yêu cầu thì

được hưởng bảo hiểm xã hội một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 54

của Luật này mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội hoặc theo quy định tại

khoản 3 Điều 54 của Luật này mà chưa đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội và

không tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện;

- Ra nước ngoài để định cư;

- Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng

như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã

chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế;

- Trường hợp người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1

Điều 2 của Luật này khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc mà không đủ điều kiện

24

để hưởng lương hưu [29, tr.24].

1.3.3.5. Chế độ tử tuất

Chế độ tử tuất hiện nay sẽ gồm có trợ cấp mai táng, trợ cấp tuất hàng

tháng, trợ cấp tuất một lần.

Căn cứ Khoản 1 Điều 67 Luật BHXH 2014 những người đang tham gia

BHXH, hoặc đang bảo lưu thời gian đóng; tòa tuyên án là chết, trường hợp

sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng:

- Đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên nhưng chưa hưởng bảo

hiểm xã hội một lần;

- Đang hưởng lương hưu;

- Chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;

- Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng với

mức suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Căn cứ Khoản 2 Điều 67 Luật BHXH 2014 quy định thân nhân của

những người quy định tại khoản 1 Điều này được hưởng trợ cấp tuất hàng

tháng nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

- Con chưa đủ 18 tuổi; con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng

lao động từ 81% trở lên; con được sinh khi người bố chết mà người mẹ đang

mang thai;

- Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55

tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;

- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ

hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo

hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn

nhân và gia đình nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên

đối với nữ;

- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ

hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo

25

hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn

nhân và gia đình nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị

suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Mức trợ cấp tuất hàng tháng phụ thuộc vào mức lương cơ sở, mức trợ

cấp tuất một lần phụ thuộc vào thời gian tham gia bảo hiểm xã hội và mức

tiền lương bình quân đóng bảo hiểm xã hội [29, tr.26].

1.3.3.6. Bảo hiểm thất nghiệp

Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chế độ của bảo hiểm xã hội khi

người lao động chấm dứt hợp đồng lao động với đơn vị sử dụng lao động. Để

được hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải đang tham gia đóng góp

vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong khoảng thời gian 24

tháng trước khi bị thất nghiệp.

Và làm hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp thì trong thời gian 3 tháng kể từ

khi thất nghiệp, người lao động phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại

Trung tâm dịch vụ việc làm. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp bằng 60% mức

bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề

trước khi thất nghiệp.

1.3.4. Mức đóng BHXH bắt buộc

Đối tượng

Quỹ BHXH

Quỹ TNLĐ,

Quỹ

Quỹ

Tổng mức

BNN

BHTN

BHYT

đóng

Qũy hưu trí,

Quỹ ốm đau,

tử tuất

thai sản

0

1%

1,5%

10,5%

Người lao động

8%

0

Việt Nam

0

0

1,5%

1,5 %

Người lao động

0

0

nước ngoài

Nguồn: Đề tài tạo khung theo mức đóng quy định của Luật BHXH

26

Bảng 1.1. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động

Bảng 1.2. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người sử dụng lao

Đối tượng

Quỹ BHXH

Quỹ TNLĐ,

Quỹ

Quỹ

Tổng mức

BNN

BHTN

BHYT

đóng

Qũy hưu

Quỹ ốm đau,

trí, tử tuất

thai sản

Người sử dụng lao

14%

3%

0,5%

1%

3%

21,5%

động Việt Nam

Người sử dụng lao

0

3%

0,5%

0

3%

6,5 %

động nước ngoài

Nguồn: Đề tài tạo khung theo mức đóng quy định của Luật BHXH

động

1.4. Tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.4.1. Triển khai thực hiện chính sách

Sau khi Bộ luật Lao động ra đời, Luật BHXH có hiệu lực, việc thực hiện

chính sách BHXH đối với người lao động đã đạt được những kết quả tích cực.

Tính đến nay, chính sách BHXH đã chuyển dần từ tự nguyện sang chính sách

bắt buộc và tiến tới thực hiện BHXH toàn dân, do Nhà nước chịu trách nhiệm

tổ chức với sự tham gia rộng rãi của người dân. Đáng chú ý, chính sách

BHXH có sự chia sẻ giữa Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao

động ở các mức độ khác nhau, tính chất chia sẻ này góp phần quan trọng để

thay đổi tích cực hơn nhận thức của người dân, giảm bớt sự ỷ lại vào Nhà

nước, nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động, tăng

tính bền vững cho chính sách.

Số người tham gia BHXH, theo báo cáo của BHXH Việt Nam tính đến

hết năm 2019, số người tham gia BHXH bắt buộc là 15,185 triệu người;

BHXH tự nguyện là 551 nghìn người; bảo hiểm tai nạn lao động bệnh nghề

nghiệp là 15,068 triệu người; BHTN là 13,343 triệu người; BHYT là 85,390

27

triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 90% dân số [39].

Các chính sách BHXH đã thể hiện tính công bằng thông qua nguyên tắc

đóng - hưởng, công bằng, chia sẻ. Quỹ Bảo hiểm hưu trí - tử tuất với mô hình

tích lũy đang là quỹ dài hạn có tính chất chia sẻ giữa các thế hệ người lao

động, các quỹ bảo hiểm ngắn hạn (ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề

nghiệp, thất nghiệp). Thống kê cho thấy, ngành BHXH đã hoàn thành việc

cấp mã số BHXH và thẻ BHYT theo mã số BHXH cho gần 90 triệu người

tham gia BHXH, BHYT.

Hiện nay, với hơn 15 triệu người tham gia BHXH, tiến tới thực hiện

BHXH toàn dân theo tinh thần cải cách chính sách BHXH việc đẩy mạnh ứng

dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa BHXH để nâng cao chất lượng phục

vụ người tham gia và hưởng BHXH, BHYT đã trở thành yêu cầu cấp thiết.

BHXH Việt Nam đã tập trung triển khai mạnh mẽ ứng dụng công nghệ

thông tin trong hầu hết các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu: giao dịch điện tử

trong công tác thu BHXH, BHYT, BHTN và cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; giám

định điện tử chi phí khám, chữa bệnh BHYT thông qua Hệ thống thông tin

giám định BHYT; số hóa hồ sơ lưu trữ; các phần mềm phục vụ công tác tài

chính - kế toán, quản lý văn bản… Hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị công nghệ

thông tin được trang bị đầy đủ và vận hành hiệu quả [39].

1.4.2. Đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách BHXH bắt buộc ở

Việt Nam

a) Đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu của chính sách BHXH bắt buộc

Với mục tiêu BHXH toàn dân, vì vậy công tác thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc phải hướng tới mục tiêu phát triển bền vững: bảo đảm quyền

lợi của người dân; nâng cao niềm tin của người dân với chính sách, pháp luật

của Nhà nước; đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính.

b) Đảm bảo tính pháp lý, hợp lý, thống nhất, ổn định và linh hoạt trong

28

tổ chức thực hiện chính sách BHXH bắt buộc.

Chất lượng của việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH bắt buộc được

xem xét qua tính hợp pháp và tính hợp lý, đây là hai tiêu chuẩn đánh giá việc

thực hiện chính sách ở hai góc độ khác nhau, có mối quan hệ mật thiết, thống

nhất và bổ trợ cho nhau. Bên cạnh hoạt động lập pháp bao giờ cũng tồn tại

hoạt động lập quy để bảo đảm tính thống nhất, ổn định, linh hoạt trong quá

trình thực hiện chính sách BHXH bắt buộc.

c) Đảm bảo quyền là lợi ích hợp pháp của các đối tượng thụ hưởng chính

sách BHXH bắt buộc

Chính sách về BHXH ngày càng được ban hành đầy đủ, hoàn thiện hơn.

Chính sách BHXH nói chung và chính sách BHXH bắt buộc nói riêng đã phát

huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động,

người sử dụng lao động.

1.4.3. Các bước thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

1.4.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Để thực hiện chính sách BHXH bắt buộc có hiệu quả cần: xây dựng kế

hoạch thực hiện chính sách một cách chính xác, cụ thể các nội dung, nhiệm

vụ trong kế hoạch tổ chức điều hành; nguồn lực tài chính; trang thiết bị cơ sở

vật chất; thời gian hợp lý; kiểm tra đôn đốc việc thực hiện chính sách. Nguồn

nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng phải hiểu biết sâu sắc nội dung và

tầm quan trọng của chính sách BHXH bắt buộc. Trên cơ sở đó xác định chính

xác mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, các nguồn lực và giải pháp tổ chức thực

hiện chính sách BHXH bắt buộc phù hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế,

chính trị - xã hội của mỗi tổ chức, mỗi địa phương.

1.4.3.2. Phổ biến, tuyên truyền về chính sách BHXH bắt buộc

Phổ biến, tuyên truyền trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc có ý

nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt trong tổ chức thực hiện chính sách, quyết

định đến hiệu quả thực hiện chính sách. Nội dung tuyên truyền phải truyền tải

29

được vị trí, vai trò, ý nghĩa nhân văn của chính sách BHXH trong hệ thống

chính sách an sinh xã hội; làm rõ những vấn đề căn bản, cốt lõi của các điều

luật về BHXH bắt buộc góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội đối với các

chủ trương, chính sách BHXH, chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà

nước. Các hình thức phổ biến, tuyên truyền đa dạng, phong phú với nhiều thể

loại mới, tạo được điểm nhấn và thu hút sự quan tâm của đông đảo các tầng

lớp nhân dân, người lao động.

1.4.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc là khả năng

tổ chức, điều hành thực hiện chính sách một cách chặt chẽ, khoa học và hợp

lý. Phân công trách nhiệm trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc phải rõ

ràng, cụ thể: trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện

chính sách; xác định tổ chức, cá nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cá

nhân, tổ chức tham gia phối hợp trong quá trình thực hiện chính sách, điều đó

sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách. Cần đặc biệt chú ý đến

trình độ, năng lực chuyên môn, khả năng, thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân

để tránh chồng chéo, trách nhiệm không rõ ràng.

1.4.3.4. Duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt buộc nhằm đảm bảo cho chính

sách được duy trì, tồn tại và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Công

tác tham mưu đề xuất các giải pháp, biện pháp duy trì bảo đảm cho chính sách

tồn tại và phát huy tác dụng là vô cùng quan trọng trong thực hiện chính sách.

Chính sách BHXH bắt buộc được duy trì, thực hiện tốt góp phần không nhỏ

vào mục tiêu an sinh xã hội của đất nước.

1.4.3.5. Điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Về nguyên tắc, thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách là của cơ

quan, tổ chức ban hành chính sách BHXH. Nhưng trên thực tế việc điều chỉnh

các nội dung, các cơ chế chính sách diễn ra rất năng động và linh hoạt trong

30

thực tế thực hiện chính sách BHXH nói chung và chính sách BHXH bắt buộc

nói riêng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan, thực tế việc thực

hiện chính BHXH bắt buộc sẽ gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế nên cần phải

có những điều chỉnh, bổ sung nội dung thực hiện chính sách phù hợp với yêu

cầu thực tế mỗi địa phương, mỗi tổ chức.

1.4.3.6. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra là một nhiệm vụ, một khâu quan trọng trong

thực hiện chính sách. Các ngành, các tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ có

trách nhiệm phối hợp chặt chẽ trong công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc

thực hiện chính sách BHXH bắt buộc. Kết quả kiểm tra sẽ được tiến hành

phân tích xử lý thông tin, đối chiếu so sánh với các quy định trong chính sách,

các quy định trong kế hoạch, quy chế, nội quy thực hiện chính sách để có cơ

sở phát hiện, phòng ngừa và xử lý vi phạm. Đồng thời đề xuất các biện pháp,

giải pháp nâng cao hiệu quả công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực

hiện chính sách BHXH bắt buộc phù hợp với tình hình thực tế.

1.4.3.7. Đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Đánh giá, tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH là quá trình xem

xét, kết luận về sự chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện chính sách của chủ thể

thực hiện chính sách. Để công tác đánh giá, tổng kết việc thực hiện chính sách

đạt hiệu quả cao thì ngay từ các cấp cơ sở việc đánh giá, tổng kết phải chỉ ra

được chính xác ưu điểm, nhược điểm, kinh nghiệm thực hiện chính sách, các

tổ chức cá nhân thực hiện tốt hoặc không tốt. Đồng thời, công tác đánh giá,

tổng kết phải dựa trên các tiêu chuẩn, tiêu chí và các nguyên tắc nhất định.

1.5. Kinh nghiệm của một số quốc gia về BHXH và an sinh xã hội

1.5.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Là quốc gia láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, Trung

Quốc có những thành tích vượt bậc trong phát triển kinh tế và cùng với đó là

những thành công đáng chú ý trong phát triển hệ thống an sinh xã hội. Hệ

31

thống an sinh xã hội của Trung Quốc ra đời từ năm 1951 với việc ban hành

Quy định về bảo hiểm lao động. Trong thời kỳ đầu từ 1951-1978, hệ thống

bảo hiểm xã hội được vận hành trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung (chưa có

bảo hiểm thất nghiệp). Ở nông thôn Trung Quốc xây dựng hệ thống y tế cơ sở

chăm sóc cho 90% dân số nông thôn lúc đó. Thời kỳ tiếp theo từ năm 1978-

2002, cùng với quá trình cải cách mở cửa, phát triển kinh tế thị trường, Trung

Quốc xây dựng các chương trình bảo hiểm xã hội dựa trên việc làm và đóng

góp. Các chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thai sản và tai nạn lao động bắt đầu

được áp dụng lần lượt vào năm 1986, 1995 và 1996. Lần lượt trong năm 1998

và 1999, Trung Quốc áp dụng toàn quốc bảo hiểm hưu trí và bảo hiểm y tế cơ bản.

Thời kỳ thứ 3 là thời kỳ mở rộng nhanh độ bao phủ từ 2003 đến nay.

Trung Quốc lựa chọn mô hình bảo hiểm đa tầng, bao phủ rộng, chế độ thụ

hưởng vừa phải và bền vững, đặt mục tiêu bao phủ toàn bộ dân số tới năm

2020, trong đó trọng tâm là hệ thống hưu trí, bảo hiểm y tế và hệ thống hỗ trợ

thu nhập tối thiểu. Trải qua quá trình phát triển, mô hình an sinh xã hội của

Trung Quốc hiện nay dựa trên các trụ cột chính là bảo hiểm xã hội (hưu trí, y

tế, thất nghiệp, thai sản và tai nạn lao động), trợ giúp và phúc lợi xã hội.

*)Bảo hiểm hưu trí có 5 loại chương trình khác nhau ở Trung Quốc

(không bao gồm chế độ cho lực lượng vũ trang): Chương trình hưu trí do

ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn bộ dành cho công chức và những người

hưởng lương từ ngân sách; Chương trình lương hưu cơ bản bắt buộc dành cho

các doanh nghiệp cũng như các tổ chức sự nghiệp công mà không được hoặc

chỉ được hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách; Chương trình bảo hiểm hưu

trí tự nguyện ở nông thôn; Chương trình bảo hiểm hưu trí tự nguyện đô thị;

Chương trình đảm bảo thu nhập tối thiểu.

*) Bảo hiểm y tế có 4 chương trình ở Trung Quốc: Chương trình bảo

hiểm y tế cơ bản cho người lao động đô thị; Chương trình bảo hiểm y tế cơ

bản cho người dân đô thị; Chương trình bảo hiểm y tế hợp tác nông thôn mới;

32

Chương trình hỗ trợ y tế do ngân sách đảm bảo.

*) Hạn chế mô hình an sinh xã hội Trung Quốc:

Mô hình an sinh xã hội của Trung Quốc phải đối mặt với những thách

thức lớn về tính bền vững. Trước hết là nguy cơ mất cân bằng quỹ bảo hiểm

xã hội khi số phải tài trợ lũy kế trong 30 năm qua lên tới 6 nghìn tỷ NDT do

già hóa dân số và ngân sách nhà nước sẽ không còn hỗ trợ những người trung

niên và người già nghỉ hưu. Khi đó, thế hệ lao động hiện tại phải đóng góp

lớn hơn để hỗ trợ thế hệ đã nghỉ hưu.

Một vấn đề nữa là sự phân mảnh các chương trình bảo hiểm xã hội ở

nông thôn và thành thị, làm hạn chế sự chia sẻ rủi ro, chi phí quản lý cao và

tác động phân phối lại thấp. Nó cũng gây khó khăn cho việc di chuyển lao

động từ vùng này sang vùng khác với chương trình bảo hiểm khác nhau. Sự

khác biệt địa phương cũng tạo ra sự cạnh tranh giữa các chính quyền địa

phương về mức phúc lợi và tạo ra gánh nặng tài chính lớn cho các địa

phương. Ngoài ra, mô hình an sinh xã hội của Trung Quốc cũng gặp phải các

vấn đề rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch với chương trình bảo hiểm tự

nguyện. Cuối cùng, quản lý và đầu tư tăng giá trị quỹ bảo hiểm xã hội từ đóng

góp như thế nào cho hiệu quả cũng là vấn đề cần chú ý giải quyết [35].

1.5.2. Kinh nghiệm của Thái Lan

Thái lan có mô hình an sinh xã hội đa trụ cột với sự bao phủ rộng: Trụ

cột số không cung cấp an sinh tối thiểu dưới dạng hỗ trợ xã hội; trụ cột thứ

nhất là bảo hiểm xã hội phi đóng góp do nhà nước quản lý; trụ cột thứ hai là

bảo hiểm xã hội bắt buộc do cá nhân đóng góp; trụ cột thứ ba là bảo hiểm tự

nguyện do cá nhân đóng góp. Trụ cột thứ tư là các chương trình bổ sung cho

người nghèo (Worldbank, 2009).

*) An sinh xã hội dựa trên đóng góp

Bảo hiểm xã hội là hệ thống cung cấp an sinh xã hội dựa trên sự đóng

33

góp. Ở Thái Lan, có hai chương trình BHXH bắt buộc, hệ thống an sinh nghề

nghiệp và BHXH tự nguyện. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm chương trình bảo

hiểm xã hội hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp và tai nạn và quỹ giáo viên.

Bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng với các doanh nghiệp có từ 20

lao động trở lên được đưa ra vào năm 1991 với 4 chế độ: ốm đau, tàn tật, thai

sản và tử tuất. Từ năm 1993, chương trình mở rộng ra các doanh nghiệp có từ

10 lao động trở lên. Từ năm 1998, chương trình bao gồm cả hưu trí cho người

già và trợ cấp trẻ em. Từ năm 2002, chương trình bao phủ các doanh nghiệp có

từ 10 lao động trở lên. Bảo hiểm thất nghiệp được bổ sung áp dụng từ 2004.

Bảo hiểm xã hội được tài trợ nhờ sự đóng góp của người lao động, người

sử dụng lao động và hỗ trợ của chính phủ. Tổng đóng góp bảo hiểm, bao gồm

bảo hiểm ốm đau, thai sản, tàn tật, tử tuất, trẻ em và hưu trí là 3,5% thu nhập.

Sau đó, tỷ lệ này tăng lên 4,5% vào năm 2003. Đóng góp bảo hiểm thất

nghiệp là 0,5% lương của người lao động và 0,25% hỗ trợ từ chính phủ. Tổng

đóng góp vào quĩ là 5% với người lao động và sử dụng lao động và 2,75%

cho chính phủ.

Bên cạnh hệ thống BHXH dựa trên đóng góp bắt buộc là hệ thống an

sinh nghề nghiệp cung cấp cho công chức chính phủ và nhân viên doanh

nghiệp nhà nước. Hệ thống bảo hiểm này bao gồm nhiều chế độ: hưu trí, y tế

và chăm sóc trẻ em. Tất cả các chế độ đều do ngân sách nhà nước tài trợ.

Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, hệ thống an sinh nghề nghiệp này gây

ra gánh nặng ngân sách lớn. Do dân số già hóa, ngân sách chính phủ cho hưu

trí tăng mỗi năm 20%. Vì thế, vào năm 1997, Thái lan cải cách hệ thống hưu

trí, chuyển từ nhà nước tài trợ kiểu lợi ích xác định sang kiểu đóng góp xác

định. Mức lương tính lương hưu được tính trong 60 tháng trước thay vì mức

lương của tháng cuối cùng và tỷ lệ hưởng lương hưu không quá 70% lương

làm việc. Cả chính phủ và người lao động, mỗi bên đóng góp 3% lương vào

34

quỹ bảo hiểm.

Thái lan có 3 loại bảo hiểm xã hội tự nguyện là quỹ dự phòng, quỹ nghỉ

hưu và bảo hiểm tư nhân. Quỹ dự phòng thường áp dụng với các công ty lớn

và vừa. Người lao động sẽ đóng góp từ 3-15% lương vào quỹ và người sử

dụng lao động phải đóng góp tương đương hoặc cao hơn người lao động. Khi

nghỉ hưu, người lao động lĩnh một lần tiền hưu trí. Ngoài ra, ở Thái Lan còn

có quỹ nghỉ hưu tương hỗ. Quỹ này nhằm mục tiêu tiết kiệm tự nguyện cho

người dân khi nghỉ hưu.

*) An sinh xã hội phi đóng góp

An sinh phi đóng góp ở Thái Lan bao gồm chương trình y tế phổ thông

và trợ cấp người già. Chương trình y tế phổ thông cung cấp chăm sóc y tế cho

tất cả công dân Thái Lan không có bảo hiểm y tế. Những người tham gia phải

đăng kí để nhận thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Toàn bộ kinh phí lấy từ ngân

sách nhà nước.

Trợ cấp người già được áp dụng từ 1993 để cung cấp thu nhập cho người

già nghèo hoặc tàn tật. Vào năm 2010, có hơn 5,9 triệu người được nhận trợ

cấp với số tiền 500 baht/tháng.

Tuy nhiên, hệ thống an sinh xã hội của Thái Lan vẫn còn đang trong giai

đoạn hoàn thiện với nhiều vấn đề cần giải quyết như mức độ bao phủ, mức

thụ hưởng và vấn đề quản lý. Chẳng hạn, nhiều lao động khu vực phi chính

thức chưa được bao phủ bảo hiểm xã hội. Chính phủ cũng thiếu kinh phí để

tài trợ bao phủ toàn bộ kinh phí y tế. Một thách thức với Thái lan là tình trạng

35

già hóa dân số rất nhanh [35].

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, đề tài đã làm rõ được những vấn đề lý luận cơ bản về

chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chính sách bảo xã hội bắt buộc nói

riêng tại Việt Nam. Nội dung chương 1 làm rõ các khái niệm, lịch sử, vai trò,

bản chất, nguyên tắc và các chế độ của chính sách BHXH, BHXH bắt buộc.

Bên cạnh đó, đề tài còn đưa ra các bước để tổ chức thực hiện chính sách bảo

hiểm xã hội bắt buộc để làm cơ sở cho việc phân tích trong chương 2. Mặt

khác, đề tài nêu ra một số kinh nghiệm thực hiện chính sách BHXH và An

sinh xã hội của một số nước trên thế giới để làm tham khảo kinh nghiệm trong

36

việc đề xuất giải pháp trong chương 3.

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI

BẮT BUỘC ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Bảo hiểm

xã hội bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

2.1.1. Đặc điểm tình hình của Viện Hàn lâm

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - tên giao dịch quốc tế là

Vietnam Academy of Social Sciences (VASS) - có tiền thân từ Ban nghiên

cứu Lịch sử - Địa lý - Văn học (gọi tắt là Ban nghiên cứu Sử - Địa - Văn),

được thành lập ngày 02 tháng 12 năm 1953, trong thời kỳ kháng chiến chống

thực dân Pháp. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam kể từ cơ quan tiền

thân được thành lập năm 1953 đến nay đã có lịch sử hình thành và phát triển

liên tục 67 năm.

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ,

thực hiện chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về khoa học xã hội; cung

cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối,

chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của

đất nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa;

tư vấn về chính sách phát triển trong lĩnh vực khoa học xã hội; đào tạo nhân lực

có trình độ cao về khoa học xã hội theo quy định của pháp luật.

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam có tên giao dịch quốc tế bằng

tiếng Anh là: Viet Nam Academy of Social Sciences, viết tắt là VASS [13].

Về cơ cấu tổ chức: Căn cứ Nghị định số 99/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng

8 năm 2017 của Chính phủ, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam có 42 đơn vị

37

thuộc và trực thuộc [13, tr.4].

Các đơn vị quy định từ khoản 1 đến khoản 5 Điều 3 là các đơn vị chuyên

môn giúp việc cho Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Văn

phòng được tổ chức 10 phòng [13, tr.4].

Các đơn vị quy định từ khoản 6 đến khoản 38 Điều 3 là các tổ chức khoa

học và công nghệ công lập [13, tr.6].

Các đơn vị quy định từ khoản 39 đến khoản 42 Điều 3 là các đơn vị sự

nghiệp công lập khác [13, tr.6].

Tổng số CCVC&NLĐ tính đến hết năm 2019 là 1865 người, trong đó: biên chế là 1588 người, hợp đồng 68, 161 là 169 người, hợp đồng khác là 108 người.

Nhận thức rõ tầm quan trọng về công tác BHXH, Viện Hàn lâm luôn

thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc công tác

đóng BHXH bắt buộc tại cơ quan. Đồng thời yêu cầu thủ trưởng các đơn vị

thuộc, trực thuộc quán triệt và thực hiện tốt công tác đóng BHXH, thực hiện

tốt các chế độ đảm quyền lợi của người lao động của đơn vị mình.

2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách Bảo hiểm

xã hội bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

a. Yếu tố khách quan

Luật BHXH, hệ thống các văn bản pháp luật về BHXH đã đi vào

cuộc sống, từng bước mở rộng đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH,

phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao

động và người sử dụng lao động, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu

ASXH của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách,

chế độ về BHXH cũng bộc lộ không ít các điểm bất hợp lý thể hiện trong bản

thân nội dung quy định của chính sách, chế độ và việc tổ chức thực thi các

quy định này trong các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp, hưu trí và tử tuất của bắt buộc.

38

b. Yếu tố chủ quan

Sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Ban Chấp hành Đảng bộ, sự lãnh đạo và

điều hành quyết liệt và hiệu quả của Lãnh đạo Viện Hàn lâm KHXH Việt

Nam trong thực hiện chính sách BHXH.

Viện Hàn lâm luôn đảm bảo nguồn lực tài chính đầy đủ để đóng BHXH

theo quy định của Nhà nước.

Đây là yếu tố thuận lợi trong công tác thực hiện chính sách BHXH của

Viện Hàn lâm.

Nhận thức, hiểu biết của người lao động tại Viện Hàn lâm về chính sách

BHXH bắt buộc:

Với đặc thù là cơ quan nghiên cứu, nên người lao động làm việc tại

Viện Hàn lâm luôn nhận thức rõ tầm quan trọng trong việc tham gia đóng

BHXH bắt buộc. Viện Hàn lâm cũng đã dành sự quan tâm tới chính sách An

sinh xã hội thông qua số đề tài, đề án nghiên cứu của Viện .

Nhưng người lao động cũng chỉ thật sự quan tâm khi có liên quan đến

quyền lợi của mình trong một chế độ nào đó (ốm đau, thai sản, hưu trí,...). Xét

về sự hiểu biết tổng thể chế độ chính sách BHXH bắt buộc thì phần lớn người

lao động chưa dành nhiều sự quan tâm, tìm hiểu sâu chính sách.

Đây cũng là yếu tố này ảnh hưởng đến công tác thực hiện chính sách

BHXH của Viện Hàn lâm.

2.2. Thực trạng triển khai thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội bắt

buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

2.2.1. Thực trạng các đối tượng có liên quan thực hiện chính sách

Trong những năm qua, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã

thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc chính sách

BHXH bắt buộc tại cơ quan. Căn cứ Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018

của Ban Chấp hành TW về Cải cách chính sách BHXH và Nghị quyết số

39

125/NQ-CP ngày 08/10/2019 của Chính phủ ban hành Chương trình hành

động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW; Các đơn vị thuộc,

trực thuộc Viện Hàn lâm đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan BHXH trên

địa bàn thành phố và các Bộ, Ban, ngành có liên quan trong thực hiện chính

sách BHXH bắt buộc. Đồng thời tích cực, chủ động trong việc đưa ra các ý kiến

đóng góp cho các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về lao động, việc làm,

BHXH khi có văn bản lấy ý kiến của Chính phủ, Bộ, Ban, ngành theo chức

năng, nhiệm vụ của Viện Hàn lâm.

Có thể nhận thấy, các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm, đặc biệt là

các đơn vị, cá nhân trực tiếp được giao nhiệm vụ đã thực hiện nghiêm túc, đầy

đủ các chế độ BHXH cho người lao động góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách BHXH của Viện Hàn lâm.

Bảng 2.1. Kết quả khảo sát thực trạng các đối tượng có liên quan thực hiện

(ĐVT: %)

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

Mức độ đánh giá

STT

Nội dung

1

2

3

4

5

Các đơn vị, cá nhân có liên quan được

phân công nhiệm vụ rõ ràng và có sự

0

0

27.1 55.7 17.1

phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực

hiện chính sách BHXH

Người lao động và đơn vị sử dụng lao

1

động nhận thức, hiểu biết rõ về chính

0

2.8

41.4 41.4 14.2

sách BHXH

Các đơn vị, cá nhân có liên quan luôn

2

tích cực hướng dẫn, giúp đỡ người lao

0

0

28.5 51.4 20.0

động trong việc giải quyết các chế độ

chính sách BHXH

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt

40

3

Kết quả khảo sát tại Bảng 2.1 cho thấy người lao động đánh giá tốt trong

việc phân công phối hợp thực hiện chính sách BHXH của các đối tượng có

liên quan. Trong 03 nội dung đánh giá, mức độ “Tốt”, “Bình thường” đều

chiếm tỷ lệ cao. Một số nội dung như: “Các đơn vị, cá nhân có liên quan được

phân công nhiệm vụ rõ ràng và có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực

hiện chính sách BHXH”, “Các đơn vị, cá nhân có liên quan luôn tích cực

hướng dẫn, giúp đỡ người lao động trong việc giải quyết các chế độ chính

sách BHXH” có tỷ lệ ý kiến đánh giá ở mức “Tốt” trở lên chiếm trên 70%

người trả lời (Bảng 2.1). Ở chiều đánh giá “Bình thường”, “Yếu” và “Kém”

đều đánh giá ở tỷ lệ thấp, riêng nội dung “Người lao động và đơn vị sử dụng

lao động nhận thức, hiểu biết rõ về chính sách BHXH” có tỷ lệ đánh giá là

44,2% người trả lời (Bảng 2.1).

Kết quả này cho thấy các đối tượng có liên quan đã phối hợp thực hiện

tốt chính sách BHXH theo vị trí công tác và nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên

do nhiều CCVC và NLĐ tham gia vào quá trình thực hiện chính sách BHXH

còn mang tính chất kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực

BHXH nên còn gặp nhiều hạn chế, nhất là trước sự điều chỉnh liên tục của

chính sách nên việc nắm bắt nội dung thực hiện chính sách còn gặp nhiều khó

khăn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của chính sách BHXH nên người lao động

và người sử dụng lao động tại Viện Hàn lâm luôn quan tâm, phối hợp thực

hiện tốt chính sách, nhưng do sự phức tạp của chính sách nên trong thời gian

tới Viện Hàn lâm cũng cần tăng cường các giải pháp nhằm giúp người lao

động và người sử dụng lao động có thể dễ dàng tiếp cận hơn, hiểu biết sâu

hơn về chính sách này.

2.2.2. Thực trạng đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách

Công tác đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam luôn được

41

quan tâm, chỉ đạo: Chính sách BHXH bắt buộc được Viện Hàn lâm thực hiện

ngay từ khi có sự thống nhất trong toàn quốc về BHXH (giai đoạn từ năm

1975 - 1995), cùng với sự sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện của BHXH (giai đoạn

từ năm 1995 đến nay) Viện Hàn lâm luôn đảm bảo việc thực hiện chính sách

BHXH theo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Viện Hàn

lâm luôn bám sát thực tiễn, bám sát chức năng nhiệm vụ để đưa ra hoạt động,

chỉ đạo, thực hiện chính sách thống nhất trong toàn thể các đơn vị thuộc và

trực thuộc. Việc phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị với Ban Tổ chức - cán bộ,

Ban Kế hoạch - Tài chính, Văn phòng Viện Hàn lâm và các tổ chức đoàn thể

đã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thụ hưởng chính sách là

các CCVC và NLĐ, đơn vị sử dụng lao động thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm.

Bảng 2.2. Kết quả khảo sát về đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách

(ĐVT: %)

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

Mức độ đánh giá

STT

Nội dung

1

2

3

4

5

Về việc nghiêm chỉnh chấp hành các

chủ trương của Đảng, pháp luật của

0

0

10

62,8 27,1

Nhà nước, thực hiện đúng các quy

định về chính sách BHXH.

Thực hiện các mục tiêu chính sách

1

BHXH theo chức năng và nhiệm vụ

0

0

14,2 67,1 18,6

của Viện Hàn lâm

Viện Hàn lâm luôn đảm bảo quyền và

2

lợi ích hợp pháp của người lao động,

của các đơn vị sử dụng lao động thuộc

0

0

11,4 58,6 30,0

và trực thuộc Viện Hàn lâm trong quá

trình thực hiện chính sách BHXH

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt

42

3

Kết quả khảo sát tại Bảng 2.2 cho thấy các nội dung khảo sát về đảm bảo

các yêu cầu thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm đều được

đánh giá ở mức độ “Tốt” và “Rất tốt” đạt tỷ lệ trên 85% người trả lời. Trong

đó nội dung “Về việc nghiêm chỉnh chấp hành các chủ trương của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, thực hiện đúng các quy định về chính sách BHXH” được

đánh giá cao nhất với tỷ lệ 90% người trả lời và nội dung “Viện Hàn lâm luôn

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, của các đơn vị sử

dụng lao động thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm trong quá trình thực hiện

chính sách BHXH” đạt tỷ lệ 88,6% người trả lời đánh giá các nội dung này ở

mức độ “Tốt”, “Rất tốt” (Bảng 2.2). Kết quả này phù hợp với thực tế triển

khai chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm và có thể thấy hầu hết đều

đạt các mục tiêu thực hiện chính sách BHXH bắt buộc theo chức năng, nhiệm

vụ của Viện Hàn lâm. Ngoài ra vẫn có tỷ lệ 14,2% người trả lời đánh giá ở

mức “Bình thường” đối với nội dung “Thực hiện các mục tiêu chính sách

BHXH theo chức năng và nhiệm vụ của Viện Hàn lâm” (Bảng 2.2), nên trong

thời gian tới cần tiếp tục rà soát các mục tiêu chính sách BHXH; các cá nhân,

đơn vị, tổ chức đoàn thể có liên quan cần nghiên cứu sâu hơn các văn bản quy

phạm pháp luật, quy định, quyết định về chính sách BHXH nhằm thực hiện

tốt hơn nữa việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, đơn

vị sử dụng lao động tại Viện Hàn lâm.

2.2.3. Thực trạng các bước thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với

người lao động tại Viện Hàn lâm.

2.2.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc tại Viện Hàn lâm là thực hiện từ các văn bản của Chính phủ, Văn phòng

Chính phủ, Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam,

các cơ quan BHXH trên địa bàn thành phố, quận. Trong những năm qua, Viện

Hàn lâm đã bám sát nội dung các văn bản của Chính phủ, các Bộ, Ngành như:

Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Lao động, Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên

43

chức; Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa XI) “Về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020”;

Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa XII) “Về cải cách chính

sách Bảo hiểm xã hội”; Nghị quyết số 125-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khóa

XII) “Về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị

quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành

Trung ương khóa XII về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội”; Quyết định số

999/QĐ-BHXH ngày 24/10/2015 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Về Ban

hành quy định tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết quả thủ tục hành chính về

BHXH, BHYT, BHTN”; Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của

Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Về Ban hành quy trình thu BHXH, BHYT,

BHTN, BHTNLĐ-BN, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT”; Quyết định số

166/QĐ-BHXH ngày 31/01/2019 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam “Về Ban

hành quy trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH, chi trả các chế độ BHXH,

BHTN”; Quyết định số 2266/QĐ-VP ngày 08/12/2015 về việc ban hành và

áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008

trong đó có Quy trình Công tác đóng BHXH; các Báo cáo tổng kết cuối năm,

các Chương trình, Kế hoạch cả năm của các đơn vị thuộc, trực thuộc Viện

Hàn lâm.

Bảng 2.3. Kết quả khảo sát về công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực

(ĐVT: %)

hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

Mức độ đánh giá

STT

Nội dung

1

2

3

4

5

1

Kế hoạch triển khai được xây dựng

thống nhất với chủ trương, chính

sách của Đảng; Nhà nước; Bộ Lao

0

0

25,7 58,6 15,7

động-Thương binh và Xã hội;

BHXH Việt Nam và cơ quan BHXH

thành phố, quận

44

2

Kế hoạch có sự đóng góp ý kiến của

các đơn vị, cá nhân có liên quan đến

0

1,4

38,6 50,0 10,0

thực hiện chính sách BHXH

3

Kế hoạch rõ ràng, kịp thời, linh hoạt

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

0

4,3

31,4 47,1 17,1

của người lao động, người sử dụng lao

động

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt

Kết quả khảo sát Bảng 2.3 về xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm cho thấy nội dung đánh giá cao

nhất là “Kế hoạch triển khai được xây dựng thống nhất với chủ trương,

chính sách của Đảng; Nhà nước; Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội;

BHXH Việt Nam và cơ quan BHXH thành phố, quận” với tỷ lệ đánh giá

74,3% người trả lời ở mức “Tốt” trở lên. Một số nội dung còn có sự đánh giá

ở mức “Bình thường” và “Yếu” như: “Kế hoạch có sự đóng góp ý kiến của

các đơn vị, cá nhân có liên quan đến thực hiện chính sách BHXH” đạt tỷ lệ

đánh giá 40,0% người trả lời và “Kế hoạch rõ ràng, kịp thời, linh hoạt đảm

bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động”

đạt tỷ lệ đánh giá 35,7% người trả lời. Kết quả khảo sát đã phản ánh đúng

thực tế về xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

đối với người lao động tại Viện Hàn lâm. Trong phiếu khảo sát, một cán bộ

đang làm việc tại Viện Hàn lâm đã đưa ra kiến nghị: “Cần giải quyết kịp thời

chế độ BHXH cho người lao động có liên quan”. Điều này cho thấy, mặc dù

thực hiện đúng chủ trương, đường lối nhưng Kế hoạch không rõ ràng, linh

hoạt, kịp thời sẽ gây ra những khó khăn không cần thiết trong thực tế giải

quyết chế độ chính sách BHXH cho người lao động.

45

2.2.3.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách BHXH bắt buộc

Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách BHXH đều

được lồng ghép trong các Hội nghị công tác trong năm của Viện Hàn lâm. Tổ

chức tuyên truyền, quán triệt công tác BHXH, sao, gửi các Nghị quyết, các

văn bản hướng dẫn, báo cáo,...bằng các hình thức đến các đơn vị thuộc, trực

thuộc Viện Hàn lâm và đến từng công chức, viên chức, người lao động để

thực hiện. Viện Hàn lâm cũng tổ chức Hội nghị ASXH....

Bảng 2.4. Kết quả khảo sát về công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện

(ĐVT: %)

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

STT

Nội dung

Mức độ đánh giá 4 3 2

5

1

1

4,3

45,7 35,7 14,3

0

Công tác chỉ đạo tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách BHXH của Viện Hàn lâm

2

0

5,7

47,1 35,7 11,4

Phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách BHXH.

3

0

5,7

52,8 28,6 12,8

Về hình thức, phương pháp tổ chức, tuyên truyền chính sách BHXH

4

0

5,7

50,0 31,4 12,8

Hiệu quả thực hiện tổ chức phổ biến, tuyên truyền về chính sách BHXH thông qua các tài liệu, ấn phẩm (văn bản hướng dẫn, sách xuất bản,...)

5

0

7,1

47,1 38,6

7,1

6

0

7,1

42,9 37,1 12,9

Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền qua tập huấn các chuyên đề về chính sách BHXH Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền thông qua việc tư vấn, hướng dẫn giúp đỡ cá nhân người lao động trong việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt

Kết quả khảo sát tại bảng 2.4 cho thấy các nội dung về tuyên truyền, phổ

biến thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện

46

Hàn lâm chưa được đánh giá cao với trên 50,0% người trả lời đánh giá ở mức

“Trung bình” và “Yếu”, trong đó nội dung “Về hình thức, phương pháp tổ

chức, tuyên truyền chính sách BHXH” đạt tỷ lệ 58,5% người trả lời đánh giá

ở mức “Trung bình” và “Yếu”. Đối với tỷ lệ đánh giá ở mức độ “Tốt” và “Rất

tốt” chỉ đạt tỷ lệ cao nhất là 50,0% người trả lời tại 02 nội dung về: “Công tác

chỉ đạo tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách BHXH của Viện Hàn lâm”

và “Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền thông qua việc tư vấn, hướng

dẫn giúp đỡ cá nhân người lao động trong việc giải quyết các chế độ chính

sách BHXH”. Kết quả này cho thấy công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm chưa thực sự đạt hiệu quả cao,

qua đó có thể thấy chưa thực hiện được tốt về mảng công tác này. Nguyên

nhân chủ yếu là do đặc thù chức năng nhiệm vụ của Viện Hàn lâm Khoa học

xã hội Việt Nam nên công tác BHXH của Viện Hàn lâm đều là tham gia thực

hiện các chính sách BHXH bắt buộc do Chính phủ và các cơ quan có liên

quan ban hành, hướng dẫn. Các văn bản hướng dẫn đều được các cơ quan

BHXH gửi trực tiếp về các đơn vị, nên các đơn vị nhiều khi sẽ có cách hiểu

khác nhau về chính sách. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH còn

mang tính chất kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chính quy về công tác BHXH

nên còn gặp nhiều hạn chế trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách

BHXH bắt buộc tới từng CCVC và NLĐ của đơn vị mình. Chính vì vậy,

trong thời gian tới, Viện Hàn lâm cần tăng cường các giải pháp tuyên truyền,

phổ biến về chính sách BHXH giúp CCVC và NLĐ Viện Hàn lâm tiếp cận

gần hơn, hiểu rõ hơn về chính sách BHXH.

2.2.3.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Việc triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao

động tại Viện Hàn lâm là nhiệm vụ tương đối phức tạp, một đơn vị không thể

đảm nhiệm được mà đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị có liên quan

thuộc, trực thuộc Viện Hàn lâm:

- Ban Tổ chức - Cán bộ chịu trách nhiệm hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH

47

đối với CCVC và NLĐ trong toàn Viện Hàn lâm theo quy định của pháp luật.

- Ban Kế hoạch - Tài chính chịu trách nhiệm phối hợp với Văn phòng

Viện Hàn lâm xây dựng dự toán hàng năm, đảm bảo hàng tháng chi trả các

khoản đóng BHXH bắt buộc, đề xuất mua thời hạn sử dụng các phần mềm

BHXH phục vụ công tác nộp hồ sơ BHXH điện tử, đề xuất mua sắm cơ sở vật

chất, trang thiết bị kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia thực hiện

chính sách BHXH.

- Công đoàn Viện Hàn lâm chịu trách nhiệm: tuyên truyền, phổ biến

chính sách, pháp luật về BHXH cho người lao động; tham gia thanh tra, kiểm

tra việc thi hành pháp luật về BHXH; kiến nghị, tham gia xây dựng, sửa đổi,

bổ sung kế hoạch thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH.

- Các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm phối hợp chặt chẽ với các

đơn vị có liên quan trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc để đảm bảo

quyền và lợi ích của người lao động đang làm việc tại đơn vị mình.

Bảng 2.5. Kết quả khảo sát về công tác phân công, phối hợp thực hiện

(ĐVT: %)

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

STT

Nội dung

Mức độ đánh giá 4 3 2

5

1

1

1,4

28,6 50,0 20,0

2

2,8

32,9 48,6 15,7

3

0

30

48,6 21,4

Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan tâm, chỉ đạo trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH Các đơn vị có liên quan được phân công nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo, phối hợp chặt chẽ trong thực hiện chính sách BHXH Tổ chức đoàn thể, cán bộ có liên quan tích cực hỗ trợ người lao động giải quyết chế độ chính sách BHXH theo nhiệm vụ được phân công

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt

Kết quả khảo sát về công tác phân công, phối hợp thực hiện thực hiện

48

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam trong Bảng 2.5

cho thấy có 02 nội dung “Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan tâm, chỉ

đạo trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH” và “Tổ

chức đoàn thể, cán bộ có liên quan tích cực hỗ trợ người lao động giải quyết

chế độ chính sách BHXH theo nhiệm vụ được phân công” đạt tỷ lệ cao với

70% người trả lời ở mức đánh giá “Tốt”, “Rất tốt”. Đối với nội dung “Các

đơn vị có liên quan được phân công nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo,

phối hợp chặt chẽ trong thực hiện chính sách BHXH” vẫn còn tỷ lệ mức đánh

giá “Bình thường”, “Yếu” đến 35,7% người trả lời. Kết quả này đã phản ánh

công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện

Hàn lâm được đánh giá tốt, tuy nhiên cần tăng cường hơn sự quan tâm, chỉ

đạo và phối hợp chặt chẽ hơn giữa các đơn vị được giao nhiệm vụ.

2.2.3.4. Duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Trong giai đoạn từ 2015-2019, Viện Hàn lâm đã đạt các kết quả tốt trong

công tác thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động. Hàng

năm, Viện Hàn lâm luôn xây dựng dự toán chi trả các khoản đóng BHXH bắt

buộc, tất cả các CCVC và NLĐ đều được tham gia đóng BHXH đầy đủ, hàng

tháng, các đơn vị đều đảm bảo chi trả đầy đủ các khoản đóng BHXH theo quy

định cho người lao động đang làm việc tại đơn vị mình. Các chế độ chính

sách về BHXH như hưu trí, thai sản, ốm đau,... đều được thực hiện nghiêm

túc, đúng pháp luật cho người lao động.

Bảng 2.6. Kết quả khảo sát về công tác duy trì thực hiện chính sách BHXH

(ĐVT: %)

bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

STT

Nội dung

1

Mức độ đánh giá 4 3 2

5

1

0

0

28,6 50,0 21,4

2

0

0

20,0 52,9 27,1

Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan tâm, chỉ đạo nghiêm túc thực hiện chính sách BHXH theo đúng quy định của pháp luật Chính sách BHXH được duy trì đúng với chủ trương, đường lối của Đảng

49

3

0

0

24,3 50,0 25,7

4

0

1,4

24,3 48,6 25,7

Chính sách BHXH được duy trì bám sát hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền liên quan Chính sách BHXH được duy trì phù hợp với người lao động và đơn vị sử dụng lao động của Viện Hàn lâm

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt

Để đánh giá về công tác duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại

Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam được xét tại kết quả khảo sát tại Bảng 2.6.

Nội dung “Chính sách BHXH được duy trì đúng với chủ trương, đường lối

của Đảng” được đánh giá cao với tỷ lệ 80% người trả lời ở mức “Tốt”, “Rất

tốt”, các nội dung khác cũng đều được đánh giá cao như nội dung “Chính

sách BHXH được duy trì bám sát hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền

liên quan” đạt tỷ lệ 75,7% người trả lời. Qua đó đã phản ánh việc thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm luôn được duy trì tốt, thực hiện

đúng đường lối, chủ trương chính sách về BHXH.

2.2.3.5. Điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Việc xem xét, điều chỉnh trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối

với người lao động là cần thiết. Theo từng giai đoạn tình hình cụ thể của đất

nước, các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH luôn được đổi mới, điều

chỉnh, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế. Đối với Viện Hàn lâm, là cơ

quan thực hiện chính sách nên việc điều chỉnh chính sách BHXH chỉ dừng ở

mức đề xuất kiến nghị là chính. Ngoài ra với đặc thù của Viện Hàn lâm, trong

những năm qua Viện Hàn lâm đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học

liên quan đến chính sách An sinh xã hội, chính sách BHXH, chính sách

BHYT… đây đều là các nguồn tài liệu quan trọng trong việc nghiên cứu, sửa

đổi, điều chỉnh, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách

50

BHXH của đất nước.

Bảng 2.7. Kết quả khảo sát về công tác điều chỉnh thực hiện chính sách

(ĐVT: %)

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

STT

Nội dung

Mức độ đánh giá 4 3 2

5

1

1

1,4

30.0 52,9 15,7

0

Chính sách BHXH luôn được điều chỉnh phù hợp với thực tế và chủ trương của Đảng, Nhà nước

2

0

1,4

35,7 50,0 12,9

3

0

1,4

35,7 50,0 12,9

4

0

0

41,4 42,9 15,7

Kết quả thực hiện chính sách BHXH được cập nhật thường xuyên và làm căn cứ kiến nghị điều chỉnh chính sách Việc điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH được đảm bảo độ ổn định, linh hoạt Việc điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH không làm ảnh hưởng nhiều tới quyền lợi của người lao động và đơn vị sử dụng lao động

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt

Đề tài đã đưa ra 04 tiêu chí để đánh giá về công tác điều chỉnh thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm, kết quả cho thấy ¾ nội dung

được đánh giá với tỷ lệ trên 60% người trả lời ở mức “Tốt”, “Rất tốt”. Trong

đó nội dung “Chính sách BHXH luôn được điều chỉnh phù hợp với thực tế và

chủ trương của Đảng, Nhà nước” được đánh giá cao với nhất với tỷ lệ 68,6%.

Còn nội dung “Việc điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH không làm ảnh

hưởng nhiều tới quyền lợi của người lao động và đơn vị sử dụng lao động”

đạt tỷ lệ thấp nhất ở mức “Tốt”, “Rất tốt” là 58,6%. Tuy nhiên các nội dung

được đánh giá ở mức “Trung bình”, “Yếu” cũng đạt tỷ lệ cao, trong đó nội

dung: “Kết quả thực hiện chính sách BHXH được cập nhật thường xuyên và

làm căn cứ kiến nghị điều chỉnh chính sách” và “Việc điều chỉnh thực hiện

chính sách BHXH được đảm bảo độ ổn định, linh hoạt” đạt tỷ lệ 37,1% người

51

trả lời. Kết quả khảo sát tại Bảng 2.7 đã cho thấy việc thực hiện chính sách

cần được điều chỉnh tốt hơn nữa để đảm bảo sự ổn định, linh hoạt và thường

xuyên cập nhật, thông báo cho người lao động nắm rõ các thông tin cần thiết

trong việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại đơn vị.

2.2.3.6. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Hàng năm, việc đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc đối với người lao động đều được Viện Hàn lâm tiến hành đầy đủ thông

qua một số hình thức như: báo cáo tài chính, kiểm toán, thuế, báo cáo công

đoàn, báo cáo sơ kết, tổng kết của đơn vị.

Bảng 2.8. Kết quả khảo sát về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực

(ĐVT: %)

hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

STT

Nội dung

1

Mức độ đánh giá 4 3 2

5

1

0

2,8

35,7 47,1 14,3

Viện Hàn lâm thường xuyên theo dõi, đôn đốc kiểm tra thực hiện chính sách BHXH

2

0

2,8

38,6 50,0

8,6

3

0

1,4

50,0 40,0

8,6

Nội dung kiểm tra, thanh tra phù hợp với quy định, kế hoạch thực hiện chính sách Phương pháp kiểm tra, thanh tra phù hợp với điều kiện của từng đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm 4 Mức độ kiểm tra, thanh tra thường

0

4,3

48,6 37,1 10,0

xuyên và liên tục

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đó: 1-Kém đến 5- Rất tốt

Kết quả khảo sát tại Bảng 2.8 về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra

thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động cho thấy 2/4 nội

dung được đánh giá ở mức “Tốt”, “Rất tốt” là trên 55,0%, trong đó nội dung

“Viện Hàn lâm thường xuyên theo dõi, đôn đốc kiểm tra thực hiện chính sách

BHXH” đạt mức đánh giá cao nhất với tỷ lệ 61,4% người trả lời. Ngược lại,

các nội dung đánh giá ở mức “Trung bình”, “Yếu” cũng đạt tỷ lệ cao, trong

52

đó nội dung “Phương pháp kiểm tra, thanh tra phù hợp với điều kiện của từng

đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm” và “Mức độ kiểm tra, thanh tra

thường xuyên và liên tục” đều đạt tỷ lệ trên 50% người trả lời. Điều đó cho

thấy các phương pháp thanh tra, kiểm tra còn mang nhiều tính truyền thống,

chưa thật sự linh hoạt trong tình hình thực tế của các đơn vị. Do hạn chế về

nhân lực và ưu tiên các mảng công tác chuyên môn quan trọng nên ảnh hưởng

đến mức độ thanh tra, kiểm tra thường xuyên và liên tục trong thực hiện chính

sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm.

2.2.3.7. Đánh giá tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với

người lao động tại Viện Hàn lâm được tiến hành tổ chức sơ kết 06 tháng và

tổng kết cuối năm tại từng đơn vị và của cả Viện Hàn lâm để có thể nắm bắt

thông tin kịp thời trong quá trình thực hiện chính sách BHXH, tránh các sự vụ

phát sinh, tồn đọng, kéo dài. Trên thực tế, việc đánh giá hiệu quả thực hiện

chính sách BHXH tại các hội nghị sơ kết và tổng kết đều chưa được quan tâm

sâu sắc, trong các báo cáo cũng chỉ dành một phần rất nhỏ nói về kết quả thực

hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động.

Bảng 2.9. Kết quả khảo sát về đánh giá tổng kết thực hiện chính sách

(ĐVT: %)

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

STT

Nội dung

Mức độ đánh giá 4 3 2

5

1

1

0

35,7 44,3 20,0

0

2

0

1,4

41,4 47,1 10,0

3

0

2,9

35,7 48,6 12,9

Công tác tổng kết thực hiện chính sách BHXH được thực hiện theo đúng tiến độ và kế hoạch công tác của Viện Hàn lâm Công tác tổng kết, đánh giá đã rút ra được các kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách BHXH Báo cáo tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH được công khai minh bạch, số liệu rõ ràng, cụ thể

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của tác giả, trong đố: 1-Kém đến 5- Rất tốt

53

Kết quả khảo sát tại Bảng 2.9 cho thấy các nội dung về đánh giá công tác

tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện

Hàn lâm được đánh giá tốt với tỷ lệ trên 57%. Trong đó nội dung “Công tác

tổng kết thực hiện chính sách BHXH được thực hiện theo đúng tiến độ và kế

hoạch công tác của Viện Hàn lâm” được đánh giá cao nhất ở mức “Tốt”, “Rất

tốt” đạt tỷ lệ 64,3%. Bên cạnh đó, các nội dung “Công tác tổng kết, đánh giá

đã rút ra được các kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong quá trình thực hiện

chính sách BHXH” và “Báo cáo tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH

được công khai minh bạch, số liệu rõ ràng, cụ thể” đều đạt tỷ lệ lần lượt là

42,8%, 38,6% số người trả lời ở mức đánh giá “Trung bình”, “Yếu”. Điều đó

cho thấy việc chỉ ra những mặt hạn chế, nguyên nhân, đồng thời có báo cáo số

liệu rõ ràng, cụ thể còn mang tính chất chủ quan, chưa sâu sát.

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt

buộc cho người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

2.3.1. Kết quả thực hiện chính sách BHXHX bắt buộc (giai đoạn

2015-2019)

Ngày 01 tháng 01 năm 2016, Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13

chính thức có hiệu lực thi hành thay thế Luật Bảo hiểm xã hội số

71/2006/QH11, Viện Hàn lâm cũng như các đơn vị sự nghiệp công lập khác đã

có những bước chuyển biến tích cực trong việc thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc đối với người lao động, đảm bảo tốt hơn, chặt chẽ hơn quyền lợi của người

lao động, giúp người lao động làm việc tại Viện Hàn lâm luôn yên tâm công tác,

hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

Năm 2018, Đề án cải cách chính sách BHXH đã được thảo luận và thông

qua tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII), Ban Chấp hành Trung ương đã ban

hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH và Nghị quyết

số 125-NQ/TW về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực

54

hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW với mục tiêu tiến tới thực hiện BHXH toàn

dân đây là những chủ trương lớn có tính đột phá của Đảng và Nhà nước ta thể

hiện sự quan tâm toàn diện đến yếu tố con người trong công cuộc xây dựng,

phát triển bền vững đất nước. Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Đảng, pháp luật

của Nhà nước, Viện Hàn lâm luôn quan tâm, chú trọng thực hiện tốt chính

sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm:

*) Các kết quả đã đạt được trong giai đoạn từ năm 2015 - 2019

Năm 2015, việc áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng theo

tiêu chuẩn TCVN ISO 9001: 2008 trong việc xây dựng Quy trình Công tác

đóng BHXH đã tạo tiền đề quan trọng cho quá trình chuẩn hóa công tác đóng

BHXH bắt buộc của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

Theo ước tính, từ năm 2016 Viện Hàn lâm đã thực hiện:

- Đóng BHXH cho: 2100 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100%;

- Đóng BHYT cho: 2100 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100%;

- Đóng BHTN cho: 1977 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100% người tham

gia bắt buộc đóng BHTN, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2015.

Theo ước tính, năm 2019 Viện Hàn lâm đã thực hiện:

- Đóng BHXH cho: 1865 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100%;

- Đóng BHYT cho: 1865 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100%;

- Đóng BHTN cho: 1865 người lao động. Đạt tỷ lệ: 100% .

*) Công tác thực hiện Bảo hiểm xã hội bắt buộc

Trong giai đoạn 2015-2019, Viện Hàn lâm đã thực hiện đầy đủ các chế độ

BHXH cho người lao động như: điều chỉnh mức đóng BHXH các biến động về

lương, phụ cấp chức vụ, ... cho CCVC và NLĐ khi có quyết định thay đổi; thực

hiện chế độ hưu trí cho hơn 200 lao động; thực hiện chế độ thai sản, dưỡng sức

cho 150 lao động nghỉ sinh con; chốt sổ cho 2100 lao động theo Công văn số

4027/BHXH-TS ngày 14/10/2016 của BHXH Việt Nam; chốt sổ chuyển công

tác và nghỉ việc cho 283 lao động; hàng năm tiến hành đổi thẻ và gia hạn thời

55

gian thẻ BHYT cho CCVC và NLĐ; làm thẻ BHYT mới cho 134 lao động

tăng mới; làm sổ BHXH mới cho 50 lao động tăng mới chưa được cấp sổ

BHXH. Hàng năm, theo ước tính, bình quân mức đóng BHXH bắt buộc,

BHYT, BHTN của Viện Hàn lâm là:

- Số tiền đóng BHXH bắt buộc: 25.562.273.000đ (trong đó người sử dụng

lao động đóng 17,5%, người lao động đóng 8%)

- Số tiền đóng BHYT: 4.510.989.000đ (trong đó người sử dụng lao động

đóng 3%, người lao động đóng 1.5%)

- Số tiền đóng BHTN: 1.804.884.220đ (trong đó người sử dụng lao động

đóng 1%, người lao động đóng 1%, nhà nước 1%)

Có thể nhận thấy, tình hình thực hiện chính sách BHXH bắt buộc cho

người lao động tại Viện Hàn lâm trong những năm qua đều có sự ổn định,

chặt chẽ, nghiêm túc, đúng pháp luật. Việc thực hiện các chế độ BHXH bắt

buộc cho người lao động luôn được các cơ quan, đơn vị quan tâm thực hiện,

góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng lao động và người

lao động.

*) Công tác thực hiện Bảo hiểm y tế

Cùng với BHXH bắt buộc, BHYT liên quan trực tiếp đến quyền lợi, sức

khỏe, đảm bảo an toàn và chất lượng cuộc sống của người tham gia. Hiểu rõ

được điều đó, ngoài công tác đăng ký làm thẻ BHYT, Viện Hàn lâm cũng

luôn chú trọng đến công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người lao động.

Thực hiện sự chỉ đạo của Lãnh đạo Viện Hàn lâm, Phòng Y tế Văn phòng

Viện Hàn lâm tổ chức khám sức khỏe ban đầu cho tất cả các CBCCVC và

NLĐ của Viện định kỳ 02 lần/1 năm. Từ năm 2015, thực hiện hướng dẫn tại

Công văn số 1772/BHXH-PT ngày 19/8/2015 của Bảo hiểm xã hội thành phố

Hà Nội về việc thực hiện Chăm sóc sức khỏe ban đầu, Viện Hàn lâm đã nộp

hồ sơ đề nghị và được cơ quan BHXH trích chuyển 1% kinh phí chăm sóc sức

khỏe ban đầu tính trên số tiền đóng BHYT hàng tháng cho người lao

56

động. Tuy số tiền được trích chuyển không nhiều, nhưng điều đó đã góp phần

tích cực trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người lao động của

Viện Hàn lâm. Năm 2018, Viện Hàn lâm đã phối hợp với các cơ quan BHXH

tại các quận, thành phố đăng ký mã định danh y tế cho tất cả các CBCCVC và

NLĐ của Viện Hàn lâm để đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin giúp người lao

động thuận lợi trong quá trình khám chữa bệnh khi sử dụng thẻ BHYT.

*) Công tác thực hiện Bảo hiểm thất nghiệp

Chính sách BHTN là chính sách mới và là một trong các chính sách quan

trọng của hệ thống chính sách an sinh xã hội nói chung và chính sách BHXH bắt

buộc nói riêng. Trong giai đoạn 2006 - 2015, thực hiện Luật BHXH số

71/2006/QH11, Viện Hàn lâm đã đóng BHTN cho tất cả người lao động đang

làm việc tại Viện Hàn lâm, ước tính gần 700 người. Trong giai đoạn 2016 đến

nay, thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13, Viện Hàn lâm đã thực

hiện đóng BHTN cho tất cả viên chức và người lao động đang làm việc tại Viện

Hàn lâm, ước tính 1977 người, tăng gần gấp 3 lần so với giai đoạn trước. Có thể

nói, đây là kết quả đáng khích lệ trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại

Viện Hàn lâm nói chung và tại các đơn vị công lập nói riêng, giúp người lao

động yên tâm công tác, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

*) Công tác giao dịch điện tử trong thực hiện đóng BHXH bắt buộc

Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đưa công nghệ thông tin vào công

tác BHXH bắt buộc, thực hiện hướng dẫn của cơ quan BHXH, 100% các đơn vị

thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm đã sử dụng phần mềm kê khai để nộp hồ sơ

cho cơ quan BHXH. Từ năm 2016 đến nay, theo ước tính Viện Hàn lâm có

gần 5000 hồ sơ BHXH được thực hiện qua giao dịch điện tử… Toàn bộ ứng

dụng công nghệ thông tin về BHXH đã được triển khai theo hướng dẫn của

Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Năm 2018, Viện Hàn lâm phối với các cơ quan BHXH đã hoàn thành

việc đưa thông tin của người lao động (như mã số BHXH, số hộ khẩu, số điện

57

thoại, số tài khoản, ….) vào hệ thống dữ liệu quốc gia, góp phần tích cực

trong việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý BHXH liên

thông, đáp ứng từng bước yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử trong thời kỳ

cách mạng công nghiệp 4.0.

2.3.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chính sách

2.3.2.1. Hạn chế

Hệ thống chính sách BHXH chưa thật sự hoàn chỉnh nên trong những

năm qua còn có nhiều sự điều chỉnh về chính sách, do đó người lao động và

người sử dụng lao động tại Viện Hàn lâm còn gặp khó khăn trong việc cập

nhật kịp thời các nội dung điều chỉnh, bổ sung của chính sách;

Một số bộ phận cán bộ trẻ làm công tác BHXH mới được tuyển dụng

chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách;

Các bộ phận cán bộ làm công tác BHXH còn lại đều làm việc kiêm

nhiệm, phần lớn đội ngũ cán bộ của Viện Hàn lâm ngoài phụ trách công tác

BHXH còn kiêm thêm các công tác hành chính khác;

Hầu hết các cán bộ làm công tác BHXH đều không được đào tạo chuyên

sâu về lĩnh vực BHXH, chỉ được tham gia một số lớp tập huấn cơ bản nên ảnh

hưởng đến quá trình thực hiện chính sách;

Công tác tuyên truyền về chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm còn mang

tính chất truyền thống, chưa đa dạng về nội dung nên ảnh hưởng đến quá trình

phổ biến, tuyên truyền giúp người lao động tìm hiểu sâu hơn về chính sách.

Công tác tổng kết thực hiện chính sách chưa được quan tâm sâu sắc. Các

nội dung báo cáo về BHXH đều chỉ được lồng ghép một phần nhỏ trong các

báo cáo sơ kết, tổng kết của các đơn vị. Nội dung báo các về BHXH chưa thật

chi tiết cụ thể, còn mang tính chất chung chung.

Công tác đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào thực hiện chính sách

BHXH chưa đạt được nhiều hiệu quả cao, việc thực hiện nộp hồ sơ trên phần

mềm BHXH còn gặp nhiều khó khăn.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Một là, một số chủ trương chính sách còn chưa đồng bộ, còn nhiều bất

58

cập. Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành đã ban hành nhiều chủ trương về chính

sách BHXH, tuy nhiên khi triển khai thực tế tại đơn vị cũng đã phát sinh

nhiều bất cập như: khi thực hiện điều chỉnh hệ số lương, phụ cấp cho người

lao động bị phát sinh lỗi phần mềm hoặc lỗi do cơ quan BHXH nhưng đơn vị

sử dụng lao động vẫn phải chịu tiền lãi phát sinh; khi thực hiện đăng ký nơi

khám chữa bệnh, do bệnh viện đăng ký quá tải nên người lao động bị chuyển

về nơi khám chữa bệnh khác gây khó khăn cho người lao động trong quá trình

khám chữa bệnh; chưa có sự thông báo kịp thời trong việc điều chỉnh các nội

dung quy định, thay đổi, thêm biểu mẫu về hồ sơ BHXH cũng gây khó khăn

cho người sử dụng lao động khi đi nộp hồ sơ cho cơ quan BHXH.

Hai là, trình độ, năng lực của đội ngũ làm công tác BHXH còn nhiều bất

cập: chưa chủ động tham mưu cho các cấp lãnh đạo các giải pháp cụ thể trong

thực hiện chính sách BHXH bắt buộc; chưa hiểu sâu về chính sách BHXH

nên hạn chế trong công tác tuyên truyền về chính sách; do mang tính chất

kiêm nhiệm nên còn lơ là, chưa thật sự quan tâm trong việc giải quyết chế độ

chính sách BHXH cho người lao động.

Ba là, do đặc thù chức năng, nhiệm vụ của Viện Hàn lâm nên công tác

tuyên truyền, phổ biến về chính sách BHXH bắt buộc còn tồn tại hạn chế:

công tác BHXH của Viện Hàn lâm đều là tham gia thực hiện hiện chính sách,

các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn đều được các cơ

quan BHXH gửi trực tiếp về các đơn vị, nên các đơn vị nhiều khi sẽ có cách

hiểu khác nhau về chính sách; phần lớn người lao động mới chỉ hiểu một phần

nhỏ chính sách, chưa thật sự quan tâm, tìm hiểu sâu chính sách BHXH; công

tác tuyên truyền về chính sách BHXH bắt buộc còn mang tính truyền thống,

chưa đa dạng về nội dung nên hạn chế trong việc tuyên truyền, phổ biến nội

dung chính sách tới từng CCVC và NLĐ của đơn vị mình.

Bốn là, cũng do đặc thù chức năng, nhiệm vụ của Viện Hàn lâm nên tuy

các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm nghiêm túc thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc nhưng chưa có sự quan tâm sâu sát tới việc xây dựng Kế

hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc và các nội dung báo

59

cáo về BHXH bắt buộc hàng năm của đơn vị mình.

Năm là, do một phận cán bộ làm công tác BHXH chưa thông thạo về

công nghệ thông tin nên gặp khó khăn trong quá trình sử dụng phần mềm

BHXH, nhất là khi phần mềm được nâng cấp hoặc thêm ứng dụng mới.

Tiểu kết chương 2

Trong Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7

Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã xác định rõ, BHXH là một trụ cột

chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo

đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất

nước. Thực hiện tốt chính sách BHXH là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị,

là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền [3, tr.2]. Hiểu rõ được điều

đó, trong nhiều năm qua, việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với

người lao động luôn được Đảng bộ Viện Hàn lâm, các cấp Lãnh đạo Viện

Hàn lâm quan tâm, chỉ đạo cùng với sự đồng lòng của toàn thể CCVC và

NLĐ đang làm việc tại Viện Hàn lâm đã mang lại kết quả tích cực trong thực

hiện chính sách BHXH của Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn

đã tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, đồng thời nêu lên các

kết quả đã đạt được, các hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách BHXH

bắt buộc tại Viện Hàn lâm. Chương 2 của Luận văn đã phản ánh trung thực,

khách quan về các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của các mặt tồn tại, hạn chế

đó để có thể tìm ra các giải pháp, nâng cao hiệu quả trong thực hiện chính

60

sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm.

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ĐỐI VỚI

NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

3.1. Quan điểm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

3.1.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng về thực hiện chính sách BHXH

Đảng ta luôn xác định rõ quan điểm mở rộng và hoàn thiện chế độ, chính

sách BHXH, tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần

thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo về

cải cách chính sách BHXH:

(1) Bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan

trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội,

đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.

(2) Phát triển hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa

tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo truyền

thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ

trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hoà các

nguyên tắc đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.

(3) Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội vừa mang tính cấp bách, vừa

mang tính lâu dài; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát

triển và phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát triển các chính sách

xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công

61

dân đều được bảo đảm an sinh xã hội.

(4) Phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bảo

đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn, củng

cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như các chủ thể tham gia bảo

hiểm xã hội.

(5) Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ của cả hệ

thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người

dân. [6, tr.2]

Thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng, xác định rõ thực hiện tốt

chính sách BHXH là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, của các cấp

ủy đảng, các tổ chức đoàn thể, của tất cả các đơn vị, của mỗi người lao động,

Viện Hàn lâm quyết tâm hoàn thành mục tiêu nâng cao năng lực, hiệu quả

thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn

lâm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

3.1.2. Quan điểm thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với người

lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

3.1.2.1. Quan điểm

Phát huy những kết quả đã đạt được trong thực hiện chính sách BHXH

bắt buộc đối với người lao động giai đoạn 2015-2019, quan điểm thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc trong thời gian tới của Viện Hàn lâm Khoa học xã

hội Việt Nam như sau:

Thứ nhất, bám sát định hướng của Đảng, Nhà nước và BHXH Việt Nam

về thực hiện chính sách BHXH. Tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu rộng và

thực hiện nghiêm túc có hiệu quả chính sách BHXH bắt buộc, tạo sự chuyển

biến rõ rệt về nhận thức, hành động của CCVC và NLĐ và người sử dụng lao

động tại các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm.

Quan điểm này trước hết đòi hỏi các tổ chức đảng, chính quyền, các tổ

62

chức đoàn thể, các đơn vị và mỗi người lao động thuộc Viện Hàn lâm có nhận

thức đúng đắn, quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước

về chính sách BHXH; đưa các ra các định hướng, mục tiêu cụ thể trong quá

trình triển khai chương trình, kế hoạch công tác hàng năm của Viện Hàn lâm.

Mặt khác, công tác tuyên truyền, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng

kiến thức về chính sách BHXH tới từng CCVC và NLĐ tại Viện Hàn lâm cần

được tích cực triển khai nhằm giúp CCVC và NLD tiếp cận, hiểu sâu hơn về

chính sách BHXH nói chung và BHXH bắt buộc nói riêng.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của tất

cả các tổ chức, các đơn vị, cá nhân có liên quan trong công tác thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc.

Thứ hai, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác chỉ đạo, điều

hành, luôn đảm bảo tính ổn định trong các giai đoạn phát triển tiếp theo khi

thực hiện chính sách BHXH bắt buộc.

Trên cơ sở xác định các nhiệm vụ trọng tâm, kế hoạch công tác của cả

năm và phát huy các thành tích đã đạt được nhằm tạo cơ sở thuận lợi cho việc

tổ chức triển khai, kiểm tra, đôn đốc và đánh giá kết quả thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc. Công tác chỉ đạo, điều hành tiếp tục được đổi mới theo

hướng sâu sát, cụ thể, phân công, phân nhiệm rõ ràng trong hiện chính sách

BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm.

Thứ ba, căn cứ chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực tế, các đơn vị

thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm có trách nhiệm chủ động tổ chức thực hiện,

đưa ra các kế hoạch, nhiệm vụ cụ thể, các giải pháp đồng bộ có trọng tâm,

trọng điểm và hiệu quả trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc.

Các đơn vị có liên quan trong quản lý thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc như tổ chức đoàn thể, Ban Tổ chức - Cán bộ, Ban Kế hoạch - Tài chính,

Văn phòng Viện Hàn lâm chủ động, phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc

xây dựng kế hoạch cụ thể, các giải pháp đồng bộ, dự toán ngân sách của toàn

63

Viện Hàn lâm.

Các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm cần chủ động, phối hợp chặt chẽ với

các đơn vị có liên quan thuộc Viện Hàn lâm trong xây dựng kế hoạch, xây

dựng dự toán ngân sách hàng năm về công tác thực hiện chính sách BHXH.

Đồng thời xây dựng báo cáo chi tiết cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của

đơn vị mình, đề xuất các kiến nghị, đưa ra các giải pháp hiệu quả về tình hình

triển khai thực hiện chính sách BHXH tại đơn vị. Định kỳ báo cáo kết quả về

Viện Hàn lâm để theo dõi, kiểm tra, giám sát và tổng hợp báo cáo Bộ Lao

động - Thương binh và xã hội.

Các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm cũng cần chủ động phối hợp chặt

chẽ với các cơ quan BHXH có liên quan trong tổ chức thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc đối với người lao động như: chủ động nắm bắt kịp thời các nội

dung quy định, hướng dẫn mới của chính sách; giải quyết kịp thời các chế độ

chính sách cho người lao động; đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp cho

người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia BHXH bắt buộc; tăng

cường công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện chính sách

BHXH.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh công tác đưa ứng dụng công nghệ thông tin

vào cải cách hành chính; đẩy mạnh giao dịch điện tử, quản lý hồ sơ BHXH

điện tử thông qua phần mềm nghiệp vụ với các cơ quan BHXH có liên quan.

Thực hiện tốt yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ và thực tế đòi hỏi của

quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH - trụ cột cơ bản của hệ thống an

sinh xã hội. Mục tiêu hiện đại hóa để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện

chính sách BHXH đã trở thành quyết tâm chính trị của toàn Viện Hàn lâm.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Tài chính và các đơn vị có liên quan

trong công tác thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm

Tích cực, chủ động hợp tác với các Bộ, Ban, Ngành có liên quan trong

64

thực hiện chính sách BHXH bắt buộc để luôn đảm bảo thực hiện đúng pháp

luật; đảm bảo đầy đủ nguồn ngân sách Nhà nước; đảm bảo cơ sở vật chất đầy

đủ, hiện đại; nâng cao trình độ các cán bộ làm công tác BHXH và cập nhật

kịp thời, chính xác tài nguyên thông tin về BHXH nhằm phục vụ tốt công tác

thực hiện chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm.

3.1.2.2. Mục tiêu cụ thể

a) Đảm bảo 100% CCVC và NLĐ tại Viện Hàn lâm được tham giam

BHXH, BHYT, BHTN theo quy định của Nhà nước.

b) Đảm bảo quyền lợi chính đáng cho 100% CCVC và NLĐ tại Viện Hàn

lâm được hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN theo quy định của Nhà nước.

c) Đảm bảo cho 100% CCVC và NLĐ tại Viện Hàn lâm có nhận thức đúng

đắn, quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về chính

sách BHXH nói chung và chính sách BHXH bắt buộc nói riêng.

d) Các đơn vị còn tình trạng vướng mắc về tài chính, vướng mắc về chế

độ chính sách BHXH từng bước giải quyết triệt để các vướng mắc, không để

tình trạng dây dưa, kéo dài.

e) Các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm phấn đấu theo lộ trình

cải cách chính sách BHXH để đến năm 2021 đạt tỷ lệ giao dịch điện tử 100%;

thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; giảm số giờ giao dịch giữa đơn

vị sử dụng lao động với cơ quan BHXH đạt mức chuẩn theo quy định.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã

hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm

3.2.1. Hoàn thiện các bất cập, hạn chế trong xây dựng kế hoạch triển

khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Trong những năm qua, công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện

BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm luôn bám sát chủ

trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và hướng dẫn của các

65

Bộ, Ban, Ngành có liên quan. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được

vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong việc xây dựng kế hoạch triển khai thực

hiện chính sách BHXH bắt buộc như:

- Kế hoạch triển khai thực hiện BHXH bắt buộc còn mang tính hình

thức, sơ lược, chưa đi vào chi tiết cụ thể. Kế hoạch thực hiện BHXH bắt buộc

đều được lồng ghép trong kế hoạch hàng năm của đơn vị, chỉ chiếm một phần

rất nhỏ trong bản kế hoạch chung.

- Trong quá trình xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc, việc lấy ý kiến đóng góp của các đơn vị, cá nhân có liên

quan đến thực hiện chính sách BHXH bắt buộc chưa đạt được hiệu quả cao.

- Công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc còn mang tính hình thức nên tính linh hoạt, rõ ràng, kịp thời của kế

hoạch cũng không đạt được hiệu quả cao. Một kế hoạch không rõ ràng, linh

hoạt, kịp thời sẽ gây ra những khó khăn không cần thiết trong thực tế giải

quyết chế độ chính sách BHXH bắt buộc cho người lao động.

Một số cán bộ Viện Hàn lâm đã đưa ra kiến nghị:

“Cần cụ thể hóa hơn nữa các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách

BHXH” [ Nữ, 35 tuổi].

“Việc trả lời, hướng dẫn chế độ chính sách BHXH cho người lao động

cần rõ ràng, chi tiết, cụ thể hơn” [ Nam, 50 tuổi].

Để khắc phục các bất cấp, hạn chế trên cần:

Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành trong xây dựng kế hoạch triển

khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc; xây dựng kế hoạch theo hướng

linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo sự ổn định; tiếp tục đổi mới kế hoạch theo

hướng sâu sát, cụ thể, phân công, phân nhiệm rõ ràng trong hiện chính sách

BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm.

Kịp thời ban hành các kế hoạch để triển khai các Nghị quyết của Chính

phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện chính sách BHXH, lập dự toán

66

ngân sách nhà nước hàng năm trong công tác đóng BHXH bắt buộc.

Xây dựng kế hoạch triển khai các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, nâng

cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

trực tiếp tham gia thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm.

Xây dựng kế hoạch tổ chức các hội thảo, các toạ đàm khoa học, xây

dựng các đề án nghiên cứu về chính sách BHXH để tư vấn, phản biện, đề xuất

ý kiến về chính sách trực tiếp tới Lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Xây dựng nội dung kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Ban, Ngành

và các đơn vị có liên quan trong công tác tuyên truyền, phổ biến các chế độ

chính sách BHXH tới mỗi CCVC và NLĐ của Viện Hàn lâm nhằm tăng

cường sự hiểu biết sâu rộng, nâng cao nhận thức, ý thức của mỗi CCVC và

NLĐ trong thực hiện chính sách BHXH.

Chủ động phối hợp với các cơ quan BHXH đẩy mạnh cải cách thủ tục

hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong thực hiện chính

sách BHXH; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành

chính, đẩy mạnh kết nối các hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan với cơ sở dữ

liệu quốc gia về bảo hiểm và ngược lại nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật.

3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ

làm công tác thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Hệ thống chính sách BHXH hiện nay vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, các

nội dung của chính sách thường xuyên có sự thay đổi để phù hợp với thực tế,

điều đó gây ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

của Viện Hàn lâm. Những năm gần đây, việc triển khai thực hiện chính sách

BHXH đòi hỏi ngày càng đòi hỏi trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ

cán bộ phụ trách BHXH của các ngành các cấp nói chung và của Viện Hàn

lâm nói riêng phải được hoàn thiện, nâng cao hơn nữa: cập nhật kịp thời các

nội dung thay đổi của chính sách; giải quyết kịp thời các chế độ chính sách

67

cho người lao động; trực tiếp tham mưu, tư vấn các vấn đề liên quan đến

chính sách BHXH cho người lao động và người sử dụng lao động; … đặc biệt

phải có kiến thức về công nghệ thông tin để thao tác thành thạo phần mềm

nghiệp vụ BHXH trong quá trình giao dịch hồ sơ điện tử với các cơ quan

BHXH. Do đó việc nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm

công tác thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm là việc hết

sức cần thiết, phù hợp với thực tế triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc, có thể đưa ra một số giải pháp như sau:

- Phối hợp với Bộ Lao động - Thương bình và Xã hội, BHXH Việt Nam

mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, cập nhật các nội dung thay đổi của chính sách cho đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức trực tiếp tham gia thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại

Viện Hàn lâm.

- Tổ chức các hội thảo, các toạ đàm khoa học, xây dựng các đề án nghiên

cứu về chính sách BHXH để tư vấn, phản biện, đề xuất ý kiến về chính sách

trực tiếp tới Lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

- Phối hợp với BHXH Việt Nam tổ chức tập huấn sử dụng phần mềm

nghiệp vụ BHXH, nâng cao kiến thức về công nghệ thông tin trong lĩnh lực

BHXH cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp tham gia thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm.

3.2.3. Tăng cường phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về

chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động

Như đã phân tích ở trên [Bảng 2.4, chương 2], kết quả khảo sát cho thấy

công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện

Hàn lâm chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Để chính sách BHXH có thể đến

được với từng CCVC và NLĐ thì công tác phổ biến, tuyên truyền được coi là

khâu then chốt, là biện pháp quan trọng nhất cần được đẩy mạnh với nội dung

68

tuyên truyền đa dạng, linh hoạt như:

Các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm cần phối hợp chặt chẽ với

các cấp ủy Đảng tổ chức nghiên cứu, quán triệt nội dung các Nghị quyết của

Đảng về lĩnh vực BHXH, tập trung vào những mục tiêu, định hướng, nội

dung cải cách chính sách BHXH đến từng CCVC và NLĐ thuộc thẩm quyền

quản lý; phối hợp với các tổ chức đoàn thể lựa chọn những nội dung thiết

thực về chính sách BHXH và cải cách chính sách BHXH để tuyên truyền, phổ

biến sâu rộng tới người lao động.

Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công

tác phổ biến tuyên truyền về chính sách BHXH; đổi mới nội dung, hình thức

tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH phù hợp với tình hình

thực tế để mỗi CCVC và NLĐ Viện Hàn lâm đều hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích,

vai trò, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của chính sách BHXH đối với đảm

bảo an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận,

thống nhất trong thực hiện chính sách BHXH.

Có thể kể đến một số hình thức tuyên truyền như:

- Tuyên truyền các nội dung cải cách chính sách BHXH thông qua các

cuộc họp giao ban thường kỳ, các hội nghị sơ kết, tổng kết thường niên tại

mỗi đơn vị.

- Có kế hoạch tuyên truyền trên mạng xã hội, các nền tảng công nghệ

như như lotus, facebook, zalo, youtube, … [8]

- Khuyến khích đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH từng đơn vị là các

tuyên truyền viên, tích cực tham gia tuyên truyền chính sách, pháp luật về

BHXH.

- Phối hợp với các cơ quan BHXH để tuyên truyền trực tiếp tới từng

CCVC và NLĐ như: tờ rơi, tờ gấp, sách cẩm nang, infographic,….với đặc thù

69

từng nội dung cần tuyên truyền.

3.2.4. Phát huy hiệu quả phân công, phối hợp thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc

Theo chức năng, nhiệm vụ các đơn vị có liên quan được phân công

nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể, không chồng chéo, đồng thời có sự phối hợp chặt

chẽ giữa các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm với các tổ chức, đơn vị có liên

quan như: các cấp ủy đảng, tổ chức đoàn thể, Ban Tổ chức - cán bộ, Ban Kế

hoạch - Tài chính, Văn phòng Viện Hàn lâm trong thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc đối với CCVC và NLĐ của đơn vị mình.

Các đơn vị được giao nhiệm vụ tích cực tham mưu với Đảng ủy, Lãnh

đạo Viện Hàn lâm để tổ chức triển khai có hiệu quả Luật BHXH, các Nghị

quyết của Bộ Chính trị, các Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của

BHXH Việt Nam về thực hiện chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm.

Chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về BHXH để

nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác nghiên cứu về chính sách BHXH, nhất

là trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH.

Tăng cường sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn

lâm với các cơ quan BHXH có liên quan nhằm tổ chức tốt việc thực hiện

chính sách, giải quyết kịp thời các chế độ chính sách cho người lao động cũng

như xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện

chính sách BHXH.

3.2.5. Tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc

Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc là công tác hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực

hiện chính sách của mỗi đơn vị. Thực hiện tốt công tác theo dõi, đôn đốc,

kiểm tra sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và các đơn

vị sử dụng lao động, tránh phát sinh những vướng mắc có liên quan đến pháp

70

luật khi thực hiện chính sách BHXH.

Dựa trên kết quả khảo sát [Bảng 2.8, chương 2] có thể thấy phương pháp

tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH bắt buộc còn

mang tính truyền thống, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, do đó:

- Cần tăng cường hơn nữa công tác theo dõi, kiểm tra việc chấp hành

pháp luật về BHXH theo định kỳ hàng tháng, hàng quý dựa trên tình hình

thực tế của mỗi đơn vị.

- Tăng cường theo dõi, kiểm tra, giám sát tình hình tài chính của mỗi đơn

vị theo định kỳ hàng quý, hàng năm tránh tình trạng nợ đọng BHXH kéo dài.

- Phân công nhiệm vụ cho các tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác theo

dõi, kiểm tra, giám sát tại các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm rõ

ràng, cụ thể, không chồng chéo, gắn trách nhiệm với từng cá nhân, tập thể.

3.2.6. Chú trọng đánh giá tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH

bắt buộc

Công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách BHXH là một trong các

khâu then chốt, đảm bảo sự hiệu quả trong quá trình thực hiện chính sách.

Một báo cáo đánh giá công tác thực hiện chính sách BHXH với các kết quả

chi tiết, số liệu rõ ràng, cụ thể được công khai, minh bạch đồng thời chỉ ra

được những mặt hạn chế, nguyên nhân và đưa ra các giải pháp sẽ góp phần

tích cực trong từng giai đoạn thực hiện chính sách, góp phần hoàn thành tốt

hơn nữa trong các giai đoạn thực hiện chính sách tiếp theo.

Tuy công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm vẫn được thực hiện thường xuyên theo

định kỳ 06 tháng và cả năm nhưng nội dung báo cáo còn mang tính chất

chung chung, các nội dung, số liệu báo cáo về tính hình thực hiện chính sách

BHXH chưa thực sự rõ ràng, cụ thể. Do đó:

- Lãnh đạo các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm cần chú trọng

hơn nữa công tác xây dựng báo cáo về tình hình thực hiện chính sách BHXH

71

bắt buộc, yêu cầu các bộ phận, cá nhân trực tiếp làm công tác BHXH đưa ra

các nội dung báo cáo cụ thể việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với

người lao động của đơn vị mình.

- Nội dung báo cáo của các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm cần

đi sâu vào từng chế độ chính sách BHXH bắt buộc cụ thể tùy theo tình hình

thực tế triển khai thực hiện chính sách của mỗi đơn vị; số liệu báo cáo công

khai, minh bạch về tài chính trong thực hiện đóng BHXH.

- Các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm Định kỳ 06 tháng đầu

năm và cuối năm, báo cáo kết quả về Viện Hàn lâm để theo dõi, giám sát và

tổng hợp báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

3.2.7. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường đưa ứng dụng công

nghệ thông tin trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc

Từng bước thực hiện yêu cầu xây dựng của Chính phủ điện tử trong thời

kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, toàn bộ ứng dụng công nghệ thông tin ngành

Bảo hiểm xã hội đã được triển khai theo kiến trúc Chính phủ điện tử.

Trước tình hình thực tế đó, Viện Hàn lâm luôn chủ động, phối hợp chặt

chẽ với các cơ quan BHXH đẩy mạnh giao dịch điện tử, quản lý hồ sơ BHXH

điện tử thông qua phần mềm nghiệp vụ với các cơ quan BHXH có liên quan.

Bên cạnh các kết quả tích cực đã đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế

như: một phận cán bộ làm công tác BHXH chưa thông thạo về công nghệ

thông tin nên gặp khó khăn trong quá trình sử dụng phần mềm BHXH; cơ sở

vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác BHXH còn thiếu hiện đại, đường

truyền mạng Internet còn chậm gây ảnh hưởng đến công tác nộp hồ sơ BHXH

qua phần mềm nghiệp vụ ngành BHXH, như vậy:

- Cần tích cực phối hợp với các cơ quan BHXH, với các nhà thầu xây

dựng phần mềm nghiệp vụ ngành BHXH tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao

trình độ công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH; đồng

72

thời, đưa ra các hướng dẫn cụ thể, tư vấn, giám sát việc nộp hồ sơ qua phần

mềm nghiệp vụ ngành BHXH, tránh xảy ra tình trạng sai sót gây ảnh hưởng

đến quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động.

- Hàng năm lập dự toán ngân sách nhà nước về mua sắm cơ sở vật chất,

trang thiết bị công nghệ hiện đại; củng cố, nâng cấp đường truyền mạng

Internet để phục vụ tốt hơn nữa công tác đưa ứng dụng công nghệ thông tin

vào cải cách chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm.

3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm

3.3.1. Đối với Đảng, Nhà nước

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ

chức thực hiện chính sách BHXH theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa;

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc sửa

đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật; đẩy mạnh việc phân cấp cho

các Bộ, Ban, ngành có liên quan trong lĩnh vực BHXH.

3.3.2. Đối với Bộ, Ban, ngành có liên quan

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam:

- Tham mưu trình Chính phủ chỉ đạo xây dựng, sửa đổi hoàn thiện hệ

thống chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN; các Nghị định, văn

bản hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT, BHTN, đặc

biệt là các quy định mới có hiệu lực thực hiện từ 1/1/2020.

- Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ công BHXH đối với các cơ

quan bộ, ngành địa phương. Tăng cường mở các hội nghị tập huấn theo

chuyên đề, hội thảo, toạ đàm khoa học về công tác này để đội ngũ lãnh đạo,

công chức, viên chức nhà nước luôn được cập nhật, trao đổi những thông tin

mới trong thực hiện chính sách BHXH.

- Chỉ đạo việc đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH với các

hệ thống cơ sở dữ liệu có liên quan, nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện

73

chính sách và công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội và nhân

dân trong giám sát, phản biện xã hội về chính sách BHXH, tổ chức tuyên truyền,

vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về BHXH.

3.3.3. Đối với Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

Tăng cường sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng để

thực hiện tốt chính sách BHXH bắt buộc, tuân thủ nghiêm các quy định của

pháp luật;

Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc; nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ

có liên quan trong công tác BHXH tại các tổ chức chính trị, tổ chức đoàn thể,

các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm;

Nâng cao nhận thức về chính sách BHXH: Tăng cường công tác tuyên

truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH để CCVC và NLĐ Viện Hàn

lâm thấy rõ những lợi ích, ý nghĩa của chính sách BHXH;

Tăng cường công tác phối hợp và tích hợp thông tin dữ liệu giữa cơ quan

quản lý nhà nước về BHXH, tài chính, thuế, lao động để nâng cao hiệu quả

quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và thực hiện tốt chính sách BHXH

bắt buộc tại Viện Hàn lâm; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện

dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên các lĩnh vực BHXH bắt buộc;

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp

luật về BHXH kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm.

Chú trọng hơn nữa công tác đánh giá, tổng kết về tình hình thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

74

BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở thực hiện những chủ trương, quan điểm, định hướng của

Đảng, Nhà nước và BHXH Việt Nam về thực hiện chính sách BHXH; cũng

như qua tình hình thực tế triển khai công tác thực hiện BHXH bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, trong Chương 3,

Luận văn đã nêu lên các nhóm giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế, tồn tại

để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách như: Hoàn thiện các bất cập, hạn

chế trong xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc;

Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác

thực hiện chính sách BHXH bắt buộc; Tăng cường phổ biến, tuyên truyền,

nâng cao nhận thức về chính sách BHXH bắt buộc đối với người lao động;

Phát huy hiệu quả phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc;

Tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH bắt buộc;

Chú trọng đánh giá tổng kết việc thực hiện chính sách BHXH bắt buộc; Đẩy mạnh

cải cách hành chính, tăng cường đưa ứng dụng công nghệ thông tin trong thực

75

hiện chính sách BHXH bắt buộc

Trên cơ sở bám sát định hướng của Đảng, Nhà nước và BHXH Việt Nam về

thực hiện chính sách BHXH, trong những năm qua công tác thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Viện Nam đã đạt được những kết

quả quan trọng, góp phần thực hiện tốt mục tiêu an sinh xã hội của Việt Nam. Đề tài

“Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn

lâm Khoa học xã hội Việt Nam” đã hệ thống hóa và đưa ra các phân tích dựa trên tình

hình thực tế ở Việt Nam nói chung và tại Viện Hàn lâm nói riêng như:

(1) Hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận, lý thuyết cơ bản về BHXH,

chính sách BHXH; chính sách BHXH bắt buộc ở Việt Nam như khái niệm, bản

chất, nguyên tắc, vai trò, các chế độ BHXH bắt buộc.

(2) Xác định rõ nội dung triển khai thực hiện chính sách BHXH bắt buộc gồm:

xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; công tác phổ biến, tuyên truyền

về chính sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; duy trì thực hiện chính

sách; điều chỉnh thực hiện chính sách; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện

chính sách; đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách.

(3) Nghiên cứu kinh nghiệm về thực hiện chính sách BHXH tại một số quốc

gia như: Trung Quốc, Thái Lan.

(4) Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với

người lao động tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam: các yếu tố ảnh hưởng; đánh giá

chung trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm: kết quả đạt

được, hạn chế, nguyên nhân các hạn chế đó;

(5) Lập phiếu khảo sát, lấy ý kiến của các CCVC và NLĐ đang công tác tại

Viện Hàn lâm để đưa ra các đánh giá chính xác nhất về tình hình thực hiện chính

sách BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm.

Mục đích của luận văn hướng tới nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc đối với người lao động tại Viện Hàn lâm. Dựa trên cơ sở các quan

điểm, từng bước hướng tới các mục tiêu đã đề ra trong thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc, đề tài đã đề xuất một số giải pháp đồng thời đưa ra các kiến nghị

76

KẾT LUẬN

đối với Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ban, ngành có liên quan và đối với Viện Hàn

lâm để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm trong giai đoạn tiếp theo.

77

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Nguyên Anh (2010), Bảo hiểm xã hội năm 2010: Vấn đề và giải

pháp, Tạp chí Tài chính số 10, tr. 29-31.

2. Đặng Nguyên Anh (2015), An sinh xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi

mới và định hướng đến 2030, Tạp chí Xã hội học số 2, tr. 5-13.

3. Đào Việt Ánh (2019), Nghiên cứu xây dựng, thành lập và triển khai

mô hình tổ chức hỗ trợ, tư vấn, giải đáp chính sách bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của ngành Bảo hiểm xã hội, Đề án, Vụ Tổ

chức – Cán bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

4. Nguyễn Huy Ban (2003), Bảo hiểm xã hội - bộ phận quan trọng trong

chiến lược con người của Đảng, Tạp chí Cộng sản số 17, tr. 38 - 42.

5. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị

lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tăng cường công tác

bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, ban

hành ngày 25/10/2017, Hà Nội.

6. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị

lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về cải cách chính sách

BHXH, ban hành ngày 23/5/2018, Hà Nội.

7. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Báo cáo số 5104/BC-BHXH về kết quả

thực hiện Nghị quyết số 70/NQ - CP của Chính phủ, ban hành ngày

05/12/2018, Hà Nội.

8. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Kế hoạch số 4866/ KH-BHXH về Công tác

thông tin truyền thông năm 2020, ban hành ngày 26/12/2019, Hà Nội.

9. Bảo hiểm xã hội điện tử EBH (2016), Tổng quan về bảo hiểm xã hội

bhxh-tai-viet-nam>

78

và các chế độ BHXH, Cổng giao dịch bảo hiểm xã hội điện tử,

10. Bảo hiểm xã hội tỉnh Lạng Sơn (2018), Chế độ chính sách – BHXH

buoc.aspx >

bắt buộc theo Luật BHXH mới, trang tin điện tử BHXH tỉnh Lạng Sơn,

11. Chính phủ, Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số

điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc, ban hành ngày 11/11/2015, Hà Nội.

12. Chính phủ, Nghị định số 44/2017/NĐ-CP quy định mức đóng bảo hiểm

xã hội bắt buộc vào Quỹ BH TNLĐ-BNN, ban hành ngày 14/4/2017, Hà Nội.

13. Chính phủ, Nghị định số 99/2017/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Hàn lâm

Khoa học xã hội Việt Nam, ban hành ngày 18/8/ 2017, Hà Nội.

14. Chính phủ, Nghị quyết số 125-NQ/TW của Chính phủ về Chương trình

hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5

năm 2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về

cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 08/10/2018, Hà Nội.

15. Nguyễn Duy Cường (2019), Chuyên đề Bảo hiểm xã hội, Vụ Bảo

hiểm xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

16. Lê Thị Kim Dung (2019), Thực hiện chính sách Bảo hiểm ý tế đối

với người cao tuổi qua nghiên cứu trường hợp phường Phú Diễn, quận Bắc

Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội

Việt Nam.

17. Nguyễn Hữu Dũng (2018), Chính sách bảo hiểm xã hội đối với người

hiem-xa-hoi-doi-voi-nguoi-lao-dong-thuc-trang-va-dinh-huong-cai-cach-141418.html>

lao động: thực trạng và định hướng cải cách, Tạp chí Tài chính điện tử,

18. Nguyễn Văn Định (2012), Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại

79

học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

19. Mai Thị Hương Giang (2019), Bảo hiểm xã hội Việt Nam với việc bảo

vệ quyền lợi bảo hiểm cho người lao động, Tạp chí Cộng sản- Số 932, tr. 86-90.

20. Vương Đình Huệ (2018), Cải cách chính sách BHXH góp phần bảo

đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền

vững đất nước, Thời Báo Tài chính Việt Nam Online, ngày 08/5/2018,

tuong-vuong-dinh-hue-ve-cai-cach-chinh-sach-bhxh-57170.aspx>

21. Nguyễn Thị Hương (2019), Quản lý thu BHXH bắt buộc đối với các

doanh nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội, Luận văn

Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.

22. Hồ Sĩ Sà (2000), Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

23. Phạm Đỗ Nhật Tân (2007), Công bằng xã hội trong chính sách bảo

hiểm xã hội, Tạp chí Xã hội học, số 1, tr. 17-24.

24. Nguyễn Văn Thành (2018), Một số vấn đề đặt ra đối với công tác

doi-voi-cong-tac-bao-hiem-xa-hoi-hien-nay.aspx >

BHXH hiện nay, Tạp chí Cộng sản, ngày 04/12/2018,

25. Dương Văn Thắng (2014), Đổi mới và phát triển Bảo hiểm xã hội ở Việt

Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

26. Vũ Đức Thuật (2017), Nghiên cứu các giải pháp tiếp tục cải cách, đơn

giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động nghiệp vụ Bảo hiểm xã hội, Bảo

hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội , Đề tài

nghiên cứu khoa học, Bảo hiểm xã hội TP. Hà Nội.

27. Chu Văn Tùy (2005), Bảo hiểm xã hội Hà Nội - 15 năm nhìn lại, Tạp

chí Lao động và xã hội số 256 + 257/2005, tr. 58-59

28. Nguyễn Thị Phước (2019), Thực hiện chính sách An sinh xã hội

trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ, Học

80

viện Khoa học xã hội Việt Nam.

29. Quốc Hội, Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13, ban hành ngày

20/11/2014, Hà Nội.

30. Quốc hội, Bộ Luật Lao động số 10/2012/QH13, ban hành ngày

18/6/2012, Hà Nội.

31. Quốc hội, Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12, ban hành ngày

14/11/2008, Hà Nội.

32. Quốc hội, Luật số 46/2014/QH13 về sửa đổi bổ sung một số điều của

Luật Bảo hiểm Y tế, ban hành ngày 13/6/2014, Hà Nội.

33. Tạp chí BHXH điện tử, Cải cách chính sách BHXH: Lịch sử và cập

nhat-tinh-thoi-dai-

20903#:~:text=V%E1%BB%81%20m%E1%BA%B7t%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1

ch%2C%20BHXH,BHXH%20m%E1%BB%9Bi%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c

%20ban%20h%C3%A0nh.>

nhật tính thời đại, ngày 26/02/2019,

34. Tạp chí Tổ chức Nhà nước điện tử, Năng lực thực hiện chính sách

an_de_ly_luan_va_thuc_tienall.html>

công - những vấn đề lý luận và thực tiễn, 13/01/2016,

35. Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận TW, Kinh nghiệm quốc tế

về phát triển hệ thống an sinh xã hội và những gợi ý với Việt Nam trong giai

an-sinh-xa-hoi-va-nhung-goi-y-voi-viet-nam-trong-giai-doan-moi.html>

đoạn mới, ngày 25/4/2019,

36. Tổ chức Ngân hàng Thế giới (2012), Việt Nam: Phát triển một hệ

thống bảo hiểm xã hội hiện đại - Những thách thức hiện tại và các phương án

0Vietn00Box377335B00PUBLIC0.pdf>

81

lựa chọn cho cải cách trong tương lai

37. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Công ước số 102 về Quy phạm tối

thiểu về an toàn xã hội, 1952, thông qua ngày 28/6/1952, Geneva, Thụy Sĩ

38. Từ điển Bách khoa toàn thư (1995), Tập 1, Nhà xuất bản Từ điển

Bách khoa, Hà Nội, tr.12.

39. Thời báo tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Dốc sức hoàn thành

hoi-viet-nam-doc-suc-hoan-thanh-cac-chi-tieu-nam-2019-80690.aspx>

các chỉ tiêu năm 2019, ngày 11/12/2019,

40. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Báo cáo sơ kết, báo cáo

tổng kết (từ năm 2015-2019), Hà Nội.

41. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2013), Phát triển Hệ thống An

sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020, Tạp chí điện tử Bộ Lao động-Thương

binh và Xã hội, < http://khcn.molisa.gov.vn/books/BooklettiengVIETlayout_16-12.pdf>

Tài liệu tiếng anh

42. Cohn Gillion, John Turner, Clive Bailey, Denis Latulippe (2000),

Social security pensions. Development and reform,

43. International Labour Office, Social Security Department (2009),

Social Security for All,

44. International Labour Organization (ILO) (2014), Social insurance -

Enhancing social security right for everyone

45. Orgnized UNICEF (2012), National health insurance in Asia and

Africa., research paper.

46. Thomas Gabe, Julie M. Whittaker (2000), Antipoverty Effects of

82

Unemployment Insurance,

PHỤ LỤC

PHIẾU KHẢO SÁT

(Về thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động

tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)

Để đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối

với người lao động tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, từ đó đề

xuất các giải pháp hoàn thiện công tác BHXH trong thời gian tới. Rất mong

nhận được sự đóng góp của Ông/Bà vào nghiên cứu này thông qua việc đánh

giá những nội dung dưới đây.

Tác giả luận văn xin đảm bảo những thông tin mà Ông/Bà cung cấp chỉ

sử dụng vào mục đích nghiên cứu và được hoàn toàn bảo mật, không công

bố danh tính cá nhân, không sử dụng cho mục đích khác.

Xin trân trọng cảm ơn!

(Vui lòng đánh dấu  vào ô dưới đây mà Ông/Bà thấy phù hợp nhất)

Phần 1: Thông tin chung

Xin Ông/Bà vui lòng cung cấp một số thông tin sau:

(Không bắt buộc)

Họ và tên: .....................................................................................................................

Đơn vị công tác: ...........................................................................................................

Chức vụ: .......................................................................................................................

(Bắt buộc)

1. Độ tuổi:

a) Từ 18 đến 25 tuổi  a) Từ 50 đến 60 tuổi 

b) Từ 25 đến 50 tuổi  b) Trên 60 tuổi 

2. Giới tính:

a) Nam 

b) Nữ  c) Khác 

83

3. Trình độ chuyên môn được đào tạo:

a) Trên Đại học 

b) Cao đẳng  e) Sơ cấp 

c) Đại học  d) Trung cấp

Phần 2: Nội dung khảo sát

Mức độ đánh giá

Bình

Rất

STT

Nội dung

Tốt

thường

Yếu

Kém

tốt

(4)

(3)

(2)

(1)

(5)

Câu 1: Đánh giá của Ông/Bà về việc thực trạng các đối tượng có liên quan thực

hiện chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Các đơn vị, cá nhân có liên quan được

phân công nhiệm vụ rõ ràng và có sự phối

5 4

3

2 1

1

hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện

chính sách BHXH

Người lao động và đơn vị sử dụng lao động

2

5 4

3

2 1

nhận thức, hiểu biết rõ về chính sách BHXH

Các đơn vị, cá nhân có liên quan luôn tích

cực hướng dẫn, giúp đỡ người lao động

5 4

3

2 1

3

trong việc giải quyết các chế độ chính

sách BHXH

Câu 2: Đánh giá của Ông/Bà về việc đảm bảo các yêu cầu thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Về việc nghiêm chỉnh chấp hành các chủ

trương của Đảng, pháp luật của Nhà

1

5 4

3

2 1

nước, thực hiện đúng các quy định về

chính sách BHXH.

Thực hiện các mục tiêu chính sách BHXH

5 4

3

2 1

2

theo chức năng và nhiệm vụ của Viện

84

Hàn lâm

Viện Hàn lâm luôn đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp của người lao động, của các

đơn vị sử dụng lao động thuộc và trực

5 4

3

2 1

3

thuộc Viện Hàn lâm trong quá trình thực

hiện chính sách BHXH

Mức độ đánh giá

Bình

Rất

STT

Nội dung

Tốt

thường

Yếu

Kém

tốt

(4)

(3)

(2)

(1)

(5)

Câu 3: Đánh giá của Ông/Bà về công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Kế hoạch triển khai được xây dựng thống

nhất với chủ trương, chính sách của Đảng;

1

Nhà nước; Bộ Lao động-Thương binh và

5 4

3

2 1

Xã hội; BHXH Việt Nam và cơ quan

BHXH thành phố, quận

Kế hoạch có sự đóng góp ý kiến của các

5 4

3

2 1

2

đơn vị, cá nhân có liên quan đến thực hiện

chính sách BHXH của Viện Hàn lâm

Kế hoạch rõ ràng, kịp thời, linh hoạt đảm

5 4

3

2 1

3

bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người

lao động và người sử dụng lao động

Câu 4: Đánh giá của Ông/Bà về công tác phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính

sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Công tác chỉ đạo tổ chức phổ biến, tuyên

5 4

3

2 1

1

truyền chính sách BHXH của Viện Hàn lâm

Phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ

5 4

3

2 1

2

chức phổ biến, tuyên truyền chính sách

85

BHXH.

Về hình thức, phương pháp tổ chức, tuyên

3

5 4

3

2 1

truyền chính sách BHXH

Hiệu quả thực hiện tổ chức phổ biến,

tuyên truyền về chính sách BHXH thông

5 4

3

2 1

4

qua các tài liệu, ấn phẩm (văn bản hướng

dẫn, sách xuất bản,...)

Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền

5 4

3

2 1

5

qua tập huấn các chuyên đề về chính sách

BHXH

Hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền

thông qua việc tư vấn, hướng dẫn giúp đỡ

6

5 4

3

2 1

cá nhân người lao động trong việc giải

quyết các chế độ chính sách BHXH

Mức độ đánh giá

Bình

Rất

STT

Nội dung

Tốt

thường

Yếu

Kém

tốt

(4)

(3)

(2)

(1)

(5)

Câu 5: Đánh giá của Ông/Bà về công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên quan

5 4

3

2 1

1

tâm, chỉ đạo trong công tác phân công, phối

hợp thực hiện chính sách BHXH

Các đơn vị có liên quan được phân công

nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo, phối

5 4

3

2 1

2

hợp chặt chẽ trong thực hiện chính sách

BHXH

Tổ chức đoàn thể, cán bộ có liên quan tích

5 4

3

2 1

3

cực hỗ trợ người lao động giải quyết chế

86

độ chính sách BHXH theo nhiệm vụ được

phân công

Câu 6: Đánh giá của Ông/Bà về công tác duy trì thực hiện chính sách BHXH bắt

buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Lãnh đạo Viện Hàn lâm thường xuyên

quan tâm, chỉ đạo nghiêm túc thực hiện

5 4

3

2 1

1

chính sách BHXH theo đúng quy định của

pháp luật

Chính sách BHXH được duy trì đúng với

2

5 4

3

2 1

chủ trương, đường lối của Đảng

Chính sách BHXH được duy trì bám sát

5 4

3

2 1

3

hướng dẫn của các cơ quan có thẩm

quyền liên quan

Chính sách BHXH được duy trì phù hợp

4

với người lao động và đơn vị sử dụng lao

5 4

3

2 1

động của Viện Hàn lâm

Mức độ đánh giá

Bình

Rất

STT

Nội dung

Tốt

thường

Yếu

Kém

tốt

(4)

(3)

(2)

(1)

(5)

Câu 7: Đánh giá của Ông/Bà về công tác điều chỉnh thực hiện chính sách BHXH

bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Chính sách BHXH luôn được điều chỉnh

5 4

3

2 1

1

phù hợp với thực tế và chủ trương của

Đảng, Nhà nước

Kết quả thực hiện chính sách BHXH được

5 4

3

2 1

2

cập nhật thường xuyên và làm căn cứ kiến

87

nghị điều chỉnh chính sách

Việc điều chỉnh thực hiện chính sách

5 4

3

2 1

3

BHXH được đảm bảo độ ổn định, linh

hoạt.

Việc điều chỉnh thực hiện chính sách

BHXH không làm ảnh hưởng nhiều tới

5 4

3

2 1

4

quyền lợi của người lao động và đơn vị sử

dụng lao động

Câu 8: Đánh giá của Ông/Bà về công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện

chính sách BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Viện Hàn lâm thường xuyên theo dõi, đôn

5 4

3

2 1

1

đốc kiểm tra việc thực hiện chính sách

BHXH

Nội dung kiểm tra, thanh tra phù hợp với

5 4

3

2 1

2

quy định, kế hoạch thực hiện chính sách

Phương pháp kiểm tra, thanh tra phù hợp

5 4

3

2 1

2

với điều kiện của từng đơn vị thuộc và

trực thuộc Viện Hàn lâm

Mức độ kiểm tra, thanh tra thường xuyên

5 4

3

2 1

3

và liên tục

Mức độ đánh giá

Bình

Rất

STT

Nội dung

Tốt

thường

Yếu

Kém

tốt

(4)

(3)

(2)

(1)

(5)

Câu 9: Đánh giá của Ông/Bà về công tác đánh giá tổng kết thực hiện chính sách

BHXH bắt buộc tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

Công tác tổng kết thực hiện chính sách

5 4

3

2 1

1

BHXH được thực hiện theo đúng tiến độ

và kế hoạch công tác của Viện Hàn lâm

88

Công tác tổng kết, đánh giá đã rút ra được

5 4

3

2 1

2

các kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong

quá trình thực hiện chính sách BHXH

Báo cáo tổng kết việc thực hiện chính

5 4

3

2 1

3

sách BHXH được công khai minh bạch,

số liệu rõ ràng, cụ thể

Câu 10: Kiến nghị của Ông/Bà nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách BHXH tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam?

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của Ông/Bà!

89