VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ NGỌC HẠNH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THUỘC CÁC CƠ QUAN
CHUYÊN MÔN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ NGỌC HẠNH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THUỘC CÁC CƠ QUAN
CHUYÊN MÔN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN PHƯƠNG AN
HÀ NỘI, 2021
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) là lực lượng quan trọng, trực tiếp vận
hành, triển khai và thực thi các chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, chất lượng
của đội ngũ CBCC là yếu tố quyết định hiệu quả công tác quản lý Nhà nước. Hồ Chí
Minh cho rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng… Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”[35, tr.269], “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”[35,tr.240], “huấn luyện đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng”[35,tr.269]. Qua
đó chúng ta có thể thấy được quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đội ngũ
CBCC rất rõ ràng. Người coi đội ngũ CBCC là cái gốc, phải luôn chú trọng công tác đào
tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) đội ngũ CBCC.
Thấm nhuần tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta
luôn chú trọng công tác ĐTBD đội ngũ CBCC và coi đây là nhiệm vụ quan trọng
được thực hiện thường xuyên. Điều này được thể hiện cụ thể qua rất nhiều văn bản
của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác ĐTBD đội ngũ CBCC. Điển hình
như Nghị định số 101/2017/NĐ-CP quy định đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức; Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 phê duyệt Đề án đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025 của Chính phủ…
Với sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, thời gian qua các cơ quan
ban ngành từ Trung ương đến địa phương đã chú trọng nâng cao trình độ chuyên
môn và chính trị cho đội ngũ CBCC thông qua nhiều hình thức ĐTBD phù hợp,
hiệu quả, gắn ĐTBD với quy hoạch và theo nhu cầu thực tế của tổ chức. Trải qua
các lớp ĐTBD ngắn hạn và dài hạn, đội ngũ CBCC được tăng cường về kiến thức,
vững vàng về chuyên môn, phù hợp với yêu cầu, vị trí việc làm, có phẩm chất đạo
đức tốt, có bản lĩnh chính trị, tận tụy phục vụ nhân dân, có nhân cách và lối sống
trong sáng, mẫu mực, hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ được giao.
Tại An Giang, công tác ĐTBD đối với đội ngũ CBCC luôn được các cấp ủy
1
Đảng và các cơ quan ban ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện. Cụ thể là tỉnh đã quan
tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch ĐTBD, các quy định về thực hiện
chế độ hỗ trợ đối với CBCC, viên chức được cử đi ĐTBD. Theo đó, chính sách
ĐTBD CBCC của tỉnh cũng đã có những bước chuyển biến tích cực như tình hình
chung của cả nước, điển hình như CBCC viên chức được cử đi ĐTBD dưỡng ý thức
được trách nhiệm, luôn phấn đấu hoàn thành tốt những nội dung được cử đi ĐTBD,
sau khi được ĐTBD đã có nhận thức chính trị vững vàng hơn, hiệu quả công tác
được nâng lên, đáp ứng tốt hơn đối với công việc được giao.
Bên cạnh những thành công thì chính sách ĐTBD đối với CBCC thuộc các
cơ quan chuyên môn (CQCM) của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh An Giang vẫn
chưa thể đáp ứng kịp thời yêu cầu đổi mới nền hành chính; CBCC các CQCM của
UBND tỉnh chưa được quan tâm đúng mức trong công tác quy hoạch ĐTBD; việc
xét, cử đối tượng tham gia ĐTBD tại một số cơ quan, đơn vị chưa đảm bảo điều
kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật; chưa gắn kết, đồng bộ giữa đào tạo với
quy hoạch sử dụng, chưa căn cứ theo nhu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ, cá
biệt có trường hợp chỉ nhằm đáp ứng nguyện vọng, nâng cao trình độ, chức danh
của cá nhân nhưng chuyên ngành đào tạo không thực sự phù hợp với yêu cầu đối
với vị trí công tác đang hoặc dự kiến phân công; chưa cân đối hợp lý số lượng đi
ĐTBD/biên chế đang thực hiện, không đảm bảo phân kỳ thực hiện gây ảnh hưởng
đến tiến độ, chất lượng công tác của cơ quan, đơn vị; một số lớp ĐTBD chưa đi vào
chiều sâu và chưa phù hợp với thực tiễn công tác. Dẫn đến việc sử dụng kinh phí
ĐTBD CBCC chưa hợp lý và chưa có hiệu quả, hay nói cách khác là chưa phát huy
đúng ý nghĩa của việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC của tỉnh.
Sở Nội vụ tỉnh An Giang là CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang được
UBND tỉnh giao tham mưu quản lý nhà nước về công tác ĐTBD của tỉnh. Là công
chức đang công tác tại Sở Nội vụ tỉnh An Giang, được tham gia khóa đào tạo cao
học ngành Chính sách công của Học viện Khoa học Xã hội nên tôi quyết định chọn
đề tài “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức
thuộc các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh An Giang” làm luận văn Thạc sĩ
với hy vọng thông qua quá trình thực hiện luận văn tôi sẽ có cơ hội nghiên cứu,
2
phân tích, tìm hiểu sâu những kết quả đạt được cũng như hạn chế của quá trình thực
hiện chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh An
Giang để từ đó có những ý kiến đề xuất phù hợp với tình hình thực tiễn của Tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với quan điểm xuyên suốt của Đảng coi CBCC là gốc của mọi sự thành bại
trong quá trình thực hiện chính sách, nên từ trước tới nay Chính sách ĐTBD CBCC
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và chú trọng. Đồng thời đây cũng là một
trong những chính sách được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và tìm hiểu. Trong
luận văn này chúng tôi sẽ điểm qua một số công trình nghiên cứu điển hình có liên
quan trực tiếp đến công tác ĐTBD đội ngũ CBCC và tạm chia làm 2 nhóm:
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến ĐTBD CBCC trên
phạm vi cả nước.
Năm 2005, trong cuốn Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài
năng, tác giả Trần Văn Tùng đã trình bày những kinh nghiệm của Mỹ và một số nước
châu Âu, châu Á trong việc phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng khoa học - công
nghệ, sản xuất kinh doanh, quản lý. Từ đó, tác giả so sánh với thực trạng của Việt
Nam và việc cần đổi mới các chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân
lực tài năng hiện có trên nhiều lĩnh vực.[48]
Năm 2007, trong cuốn sách Về chế độ công vụ Việt Nam" tác giả Nguyễn
Trọng Điều đã tập trung phân tích các các cơ sở khoa học để hoàn thiện chế độ công
vụ ở Việt Nam hiện nay; những nguyên tắc cần phải đảm bảo trong quá trình hoàn
thiện chế độ công vụ và lộ trình thích hợp cho việc hoàn thiện chế độ công vụ Việt
Nam.[22]
Năm 2008, trong cuốn Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử
dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam do Phạm Hồng Tung làm chủ biên đã nêu lên
những vấn đề mang tính thực tiễn về việc phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài
trong lịch sử Việt Nam, cuốn sách đã đánh giá một cách tương đối toàn diện và súc
tích những mặt tốt, mặt hạn chế của thực tiễn đào tạo, sử dụng nhân tài của ông cha
ta trong các thời kỳ lịch sử.[47]
Năm 2014, với bài viết Cải cách quy trình ĐTBD CBCC nhằm nâng cao
3
năng lực thực thi công vụ, tác giả Ngô Thành Can đã đưa ra quy trình ĐTBD CBCC
gồm 4 bước bước cơ bản đó là: xác định nhu cầu, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch
và đánh giá ĐTBD; phát triển đội ngũ giảng viên có kiến thức và năng lực phù hợp
với nội dung ĐTBD với 4 vấn đề quan trọng liên quan đến nhau: Cơ quan quản lý
đào tạo, cơ sở đào tạo, người học và người dạy.[7]
Năm 2015, trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ Cơ sở khoa học xây
dựng chương trình bồi dưỡng công chức theo tiêu chuẩn chuyên ngành Nội vụ, do
Đàm Bích Hiên làm chủ nhiệm đã trình bày rõ cơ sở khoa học của việc xây dựng
chương trình bồi dưỡng công chức đảm bảo tiêu chuẩn chuyên ngành Nội vụ và
đề xuất các phương hướng, giải pháp xây dựng chương trình bồi dưỡng đảm bảo
tiêu chuẩn chuyên ngành Nội vụ đối với công chức ngành Nội vụ nhằm xây dựng
chương trình bồi dưỡng công chức theo tiêu chuẩn chuyên ngành Nội vụ đạt chất
lượng và hiệu quả cao.[29]
Năm 2015, trong bài viết ĐTBD CBCC trong quá trình cải cách hành chính,
tác giả Nguyễn Thị La đã chỉ ra một số hạn chế của công tác ĐTBD CBCC như
một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa coi trọng đúng mức công tác ĐTBD;
CBCC chủ yếu vừa học vừa làm nên công việc chi phối quá trình học tập, thời gian
dành trọn vẹn cho việc học tập không nhiều; quá trình đào tạo chưa đi liền với bố trí
và sử dụng sau khi được cử đi ĐTBD, hay công tác này còn mang nặng tính hình
thức, chưa có hiệu quả rõ rệt… Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp như: tiếp tục
hoàn thiện công tác quy hoạch cán bộ, lãnh đạo quản lý; xây dựng đội ngũ giảng
dạy, báo cáo viên chất lượng cao; đổi mới nội dung, chương trình ĐTBD; ĐTBD
phải gắn với việc bố trí và sử dụng… nhằm nâng cao hiệu quả công tác ĐTBD
CBCC trong quá trình cải cách hành chính trong thời gian tới cho phù hợp và đạt
hiệu quả.[33]
Mới đây nhất là năm 2020, trong cuốn sách Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
năng lực thực thi công vụ cho cán bộ, công chức, viên chức, tác giả Ngô Thành Can
đã nêu lên một số vấn đề lý thuyết có liên quan đến công tác ĐTBD và trình bày về
hiệu quả, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
công chức, viên chức tại Việt Nam. Đặc biệt là trong cuốn sách tác giả đã giành trọn
4
chương 3 để nói về quá trình ĐTBD với 4 bước cơ bản đó là xác định nhu cầu
ĐTBD, lập kế hoạch ĐTBD, tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả ĐTBD. [6]
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách ĐTBD CBCC ở các
địa phương
Năm 2017, trong luận văn thạc sĩ Đào tạo, bồi dưỡng công chức các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, tác giả Nguyễn Thị
Ngọc đã đi sâu phân tích thực trạng công tác ĐTBD đội ngũ CBCC thuộc các cơ
quan chuyên môn tại huyện Phú Giáo qua ba nội dung lớn đó là: các chính sách
thu hút, hỗ trợ ĐTBD và phát triển nguồn nhân lực. Dựa trên cơ sở kết quả đánh giá
thực trạng, tác giả đã đưa ra 7 giải pháp nhằm góp phần đảm bảo hiệu quả trong
công tác ĐTBD đội ngũ CBCC các cơ quan chuyên môn tại huyện Phú Giáo trong
thời gian tới.[38]
Năm 2018, kết quả nghiên cứu từ luận văn thạc sĩ Thực thi chính sách bồi
dưỡng cán bộ, công chức ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội của tác giả Phùng Thị
Ngọc Anh đã khẳng định việc thực thi chính sách bồi dưỡng cán, bộ, công chức đã
được quận Tây Hồ quan tâm, do đó nhiều cán bộ, công chức ở quận đã có trình độ
chuyên môn, lý luận chính trị và kiến thức phù hợp với lĩnh vực công tác. Song bên
cạnh những thành công thì việc thực thi chính sách bồi dưỡng cán bộ, công chức ở
quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, luận văn đã
đưa ra 6 giải pháp và 6 kiến nghị nhằm góp phần nâng cao kết quả thực thi chính
sách bồi dưỡng cán bộ, công chức ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. [1]
Năm 2018, luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thanh Trung về Thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC từ thực tiễn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, đã trình bày
khái quát về một số khái niệm và quan điểm của Đảng liên quan đến công tác
ĐTBD CBCC. Dựa trên những vấn đề mang tính lý luận, tác giả đi vào đánh giá
thực trạng việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC ở quận Bình Thạnh. Trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách ĐTBD CBCC trên địa bàn quận Bình Thạnh. [50]
Năm 2018, trong luận văn Thạc sỹ Quản lý Nhà nước về ĐTBD CBCC hành
chính cấp xã từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng tác giả Võ Thị Doãn đã nêu lên vai
5
và những yếu tố tác động đến quản lý Nhà nước về ĐTBD CBCC. Đồng thời tác giả
cũng đi sâu phân tích, đánh giá kết quả công tác quản lý nhà nước về ĐTBD CBCC
hành chính cấp xã trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Căn cứ trên kết quả đánh giá
thực trạng, tác giả đã đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý Nhà
nước về ĐTBD CBCC hành chính cấp xã trên địa bàn thành phố Đã Nẵng.[16]
Nhìn chung, các tài liệu và công trình nghiên cứu nêu trên đã có nhiều đóng
góp to lớn về mặt khoa học, các tác giả đã làm tập trung làm sáng tỏ những cơ sở lý
luận chung liên quan đến công tác ĐTBD,… và qua đó khẳng định vị trí, vai trò quan
trọng của công tác ĐTBD đối với đội ngũ CBCC trong quá trình quản lý Nhà nước
tại các địa phương cũng như trên cả nước.
Tại tỉnh An Giang, mặc dù các cấp ủy Đảng và chính quyền luôn quan tâm
đến công tác ĐTBD CBCC song cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một nghiên
cứu nào đi sâu đánh giá một cách hệ thống và toàn diện quá trình thực thi chính sách
ĐTBD CBCC trên địa bàn tỉnh. Do vậy việc tham khảo các tài liệu và các công trình
nghiên cứu liên quan đến công tác ĐTBD CBCC trước đây sẽ là tiền để giúp tác giả
đi sâu tìm hiểu và đánh giá một cách khách quan, khoa học việc thực hiện chính sách
ĐTBD đội ngũ CBCC các CQCM của UBND tỉnh An Giang để trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả chính sách ĐTBD đối với CBCC
thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về thực hiện chính sách ĐTBD
đối với CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang thời gian qua, phân tích
chỉ rõ những yếu tố tác động đến thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính
sách, luận văn hướng đến tìm ra một số giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận cơ bản, khái quát kinh nghiệm thực tiễn về thực hiện chính
sách ĐTBD đối với CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
6
- Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCC
thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang giai đoạn từ 2015 đến 2019.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kết quả thực hiện chính sách
ĐTBD đối với CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện chính sách ĐTBD đối với
CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang. Cụ thể là CBCC thuộc các
CQCM của UBND tỉnh An Giang được Tỉnh ủy, UBND tỉnh hoặc Sở Nội vụ tỉnh
An Giang cử đi ĐTBD theo quy định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu thực hiện chính sách
ĐTBD đối với CBCC trên phương diện: quản lý công tác ĐTBD CBCC.
Về không gian: luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC trong phạm vi các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
Về thời gian: Đánh giá thực trạng trong giai đoạn 2015-2019 và đề xuất mục
tiêu, giải pháp đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về CBCC.
Nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về
CBCC và chính sách ĐTBD đối với CBCC.
Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến chính sách công như khái niệm,
quy trình thực thi chính sách công…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu.
- Phương pháp tổng quan, phân tích tài liệu
Tài liệu được thu thập bao gồm:
+ Các báo cáo, số liệu thống kê về hiện trạng ĐTBD CBCC của tỉnh An
Giang. Các dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các sở, ban ngành có liên quan của tỉnh
7
An Giang, trong đó chủ yếu là từ Sở Nội vụ tỉnh An Giang. Các dữ liệu này là cơ sở
để nhận diện thực trạng thực hiện chính sách chế độ ĐTBD của tỉnh trong thời gian
qua, qua đó, đánh giá những mặt tồn tại, hạn chế trong các chính sách chế độ ĐTBD
hướng đến các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
+ Các văn bản, tài liệu thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà
nước, của tỉnh An Giang trong việc thực hiện chính sách về chế độ ĐTBD nhằm
xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
+ Các công trình nghiên cứu trước có liên quan về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu nghiên cứu
Trước khi tiến hành phân tích dữ liệu, các dữ liệu được sắp xếp bằng cách
đánh máy lại các ghi chép tại thực địa, tiếp theo là đọc lại toàn bộ dữ liệu để có cảm
nhận chung về thông tin và suy nghĩ khái quát về nó, cảm nhận về độ sâu, độ tin cậy
và việc sử dụng thông tin. Sau đó, tác giả tiến hành mã hóa dữ liệu.
- Phương pháp logic và phương pháp lịch sử: Phân tích đánh giá theo điều
kiện lịch sử cụ thể và phản ánh đúng bản chất, quy luật của đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần khái quát lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm bước đầu xây
dựng khung lý thuyết làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài thực hiện chính
sách ĐTBD đối với CBCC ở tỉnh An Giang.
- Luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho cơ quan chức năng
trong hoạch định và thực thi chính sách ĐTBD đối với CBCC ở tỉnh An Giang.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần tổng kết, đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách ĐTBD
đối với CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
- Với những luận cứ khoa học được khái quát và cung cấp, luận văn góp
phần thúc đẩy thực tiễn nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ĐTBD đối với
CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động
chuyên môn liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
8
7. Kết cấu luận văn
Luận văn có: phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và nội
9
dung chính gồm 03 chương, 11 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm chính sách công
Theo từ điển tiếng Anh (Oxford English Dictionary) “chính sách” là “một
đường lối hành động được thông qua và theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai
trị, chính khách...”. Hugh Heclo (năm 1972) định nghĩa chính sách có thể được xem
như là một đường lối hành động hoặc không hành động thay vì những quyết định
hoặc các hành động cụ thể. Tác giả David Easton (năm 1953) thì quan niệm “chính
sách bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà trong đó phân phối
thực hiện các giá trị”. Smith cho rằng “không hành động” cũng như “hành động” và
nhắc nhở chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào các quyết định tạo
ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định chống lại sự thay đổi
và khó quan sát vì chúng không được tuyên bố trong quá trình hoạch định chính
sách” [28, tr45].
Tại việt Nam, Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong
các văn bản pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về
chính sách. Theo nghĩa rộng, chính sách là “những hành động ứng xử của chủ thể
với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu
nhất định” [30, tr.14] hay là “các chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay
nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của
mình”[34, tr.37]. Theo nghĩa hẹp hơn, đó có thể là “những chuẩn tắc cụ thể để thực
hiện đường lối, nhiệm vụ” [63, tr.475],…
Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau, thế nhưng các tác giả đều cho rằng
chính sách chính là sự tổng hòa các phương thức hành động để giải quyết vấn đề
được các nhà quản lý hay nhà lãnh đạo đề ra.
Có hai dạng chính sách, là chính sách công và chính sách tư. Theo tác giả Lê
Chi Mai, chính sách chỉ có hiệu lực thi hành trong phạm vi một tổ chức, một doanh
10
nghiệp, hiệp hội hay đoàn thể và chỉ được áp dụng nhằm giải quyết một vấn đề cụ
thể của từng tổ chức riêng biệt thì được gọi là chính sách tư. Tuy nhiên, thuật ngữ
chính sách tư ít được sử dụng. Ngược lại, khái niệm chính sách công được dùng khá
phổ biến, với nghĩa là những chính sách do cơ quan hay các cấp chính quyền trong
bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng [34,
tr.37-38]. Chính sách công có một số đặc điểm cơ bản như sau: 1) Chính sách công
do nhà nước đề ra; 2) Chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau;
3) Các quyết định này bao gồm cả những hoạt động thực thi trên thực tiễn; 4) Chính
sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã
hội; 5) Chính sách công hướng vào những mục tiêu xác định.
Rất nhiều nhà nghiên cứu ở nước ngoài đã đưa ra các định nghĩa khác nhau
về chính sách công, chúng tôi xin điểm qua một số định nghĩa tiêu biểu sau:
Theo tác giả Thomas R.Dye, “chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn
làm hay không làm” [61, tr.1].
William N.Dunn định nghĩa: “Chính sách công là một kết hợp phức tạp
những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động,
do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra” [60, tr.51]. B.Guy
Peter cho rằng: “chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh
hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân” [62, tr.6].
Ở Việt Nam, một số tác giả cũng đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về
chính sách công, điển hình như:
Tác giả Bùi Phương Đình định nghĩa: “chính sách công là một tập hợp các
quyết định có liên quan đến nhau của các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ
máy nhà nước về việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu
đó trên cơ sở có những tính toán và chủ đích rõ ràng nhằm giải quyết một vấn đề
hay đáp ứng một nhu cầu thiết yếu của thực tiễn xã hội” [23, tr.4].
Theo quan niệm của tác giả Nguyễn Hữu Hải thì : “Chính sách công là
những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống
cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội
phát triển” [26, tr.14].
11
Trên cơ sở tổng hợp các định nghĩa của các nhà nghiên cứu, tác giả Lê Chi
Mai đưa ra định nghĩa: “Chính sách công là một chuỗi các quyết định hoạt động của
nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế xã hội theo
mục tiêu xác định” [34, tr.48].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu chính sách công là những chính sách do Nhà
nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm cán bộ, công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh
Khái niệm công chức đã xuất hiện sớm và tương đối phổ biến ở nhiều quốc
gia, cụ thể là:
Đối với các nước ASEAN như Singapo, Malaixia có chung quan niệm: công
chức là người nhân danh quyền lực nhà nước, giải quyết công việc công, là mắt xích
của bộ máy nhà nước được gắn với dân, là người thực thi và đưa luật pháp, chính
sách, chương trình, kế hoạch, dự án quốc gia vào cuộc sống.
Đối với các nước như Anh và Hoa Kỳ, khái niệm công chức có phạm vi hẹp
hơn, họ là những người làm việc trong ngành hành pháp, không có trong ngành lập
pháp và tư pháp; ngoài ra, chỉ có những người làm việc cho các cơ quan Trung
ương mới được gọi là công chức, còn những người làm việc cho cơ quan Nhà nước
địa phương đều không được coi là công chức. Cụ thể, Quy chế công chức Anh
(tháng 6 năm 2006) và Luật về cải cách công chức Hoa Kỳ (1978) quy định: công
chức là những người làm việc trong bộ máy của chính phủ Trung ương, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào vị trí công tác trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, cởi mở.
Ở nước ta, khái niệm công chức cũng xuất hiện từ năm 1950. Theo Điều 1,
Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa
thì công chức là: “những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để
giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài
nước đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính
phủ quy định” [14]. Theo quy định này thì công chức là những người được tuyển
dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ.
Đến năm 1998, Pháp lệnh CBCC được ban hành, cùng lúc đó là Nghị định số
12
95/CP của Chính phủ về “Tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức” cũng được
ban hành; tiếp theo là việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh CBCC. Một số nghị định,
thông tư mới được ban hành cũng đã xác định công chức gồm: Những người được
tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại
theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính sự
nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước…Những người được
tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ
quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Những quy định trên
khẳng định quan điểm và nhận thức mới về đội ngũ CBCC xong vẫn chưa có sự rõ
ràng giữa cán bộ với công chức.
Điều 4, Luật CBCC năm 2008 ghi rõ:
"1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. [41].
Nghị định số 06/2010/NĐ-CP, ngày 25/01/2010 của Chính phủ ghi rõ:
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [9].
Điều 4, Nghị định 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ về Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm
2014 của Chính phủ quy định tổ chức các CQCM thuộc UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, quy định:
Người đứng đầu sở thuộc UBND cấp tỉnh, là ủy viên UBND cấp tỉnh do Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh bầu, là người đứng đầu sở do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ
nhiệm, chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch UBND cấp tỉnh và trước pháp luật
về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sở và thực hiện nhiệm vụ, quyền
13
hạn của ủy viên UBND cấp tỉnh theo Quy chế làm việc và phân công của UBND
cấp tỉnh.
Như vậy trong Điều 4, Nghị định 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của
Chính phủ đã quy định rất rõ về khái niệm công chức nhưng lại chưa có khái niệm
chính thức về CBCC tại các CQCM
Trong luận văn này, CBCC tại các CQCM cấp tỉnh được hiểu là công dân
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh hoặc được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ làm việc tại các
CQCM cấp tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.3. Khái niệm chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
Về khái niệm đào tạo
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Đào tạo là quá trình tác động đến
con người, nhằm làm cho con người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống theo những tiêu chuẩn nhất định, để
chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống, có khả năng nhận sự phân công
lao động xã hội nhất định”. [ 63,tr.755].
Còn theo Đại từ điển tiếng Việt thì “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên
người có hiểu biết, có nghề nghiệp”. [64,tr.593]
Tác giả Tô Tử Hạ thì cho rằng “Đào tạo là quá trình tác động đến con người
nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,… một cách
hệ thống, chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng khi nhận
một sự phân công lao động nhất định, góp phần vào sự phát triển xã hội, duy trì và
phát triển nền văn minh nhân loại”.[24]
Trong văn bản của Nhà nước, mà cụ thể là tại Khoản 1, Điều 5, Nghị định số
18/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 05/3/2010 đã định nghĩa: “Đào tạo là
quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định
của từng cấp học, bậc học” [10].
Như vậy, có thể hiểu đào tạo là việc trang bị các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
năng nhằm phát triển các cá nhân để đóng góp cho sự phát triển xã hội.
Trong phạm vi luận văn này, đào tạo công chức được hiểu là hoạt động có
14
mục đích, có tổ chức được thực hiện theo những quy trình nhất định để truyền đạt
đến công chức hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ đạo đức phù hợp nhằm thực thi
công vụ. Đây là hoạt động có tính đặc thù bởi đối tượng của hoạt động đào tạo là
những người hoạt động trong bộ máy nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước thực
hiện nhiệm vụ QLNN, quản lý xã hội, phục vụ nhân dân.
Về khái niệm bồi dưỡng
Trong Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý làm chủ biên đã giải thích:
“Bồi dưỡng là làm cho khỏe thêm, mạnh thêm”. [64,tr.191]
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 05/3/2010 quy
định ĐT, BD cũng đã đưa ra định nghĩa về bồi dưỡng như sau: “Bồi dưỡng là hoạt
động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.[10]
Như vậy, chúng ta có thể hiểu bồi dưỡng là hoạt động tổ chức những khoá
học ngắn hạn để cập nhật, bổ sung kiến thức, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc
củng cố các kĩ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề.
Cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm đào tạo và bồi dưỡng: Đào tạo dùng
để chỉ một quá trình lâu dài trong một khoảng thời gian nhằm trang bị cho người
học một hệ thống kiến thức, kĩ năng về một lĩnh vực nhất định; Bồi dưỡng thường
để chỉ các khoá học ngắn hạn nhằm bổ sung và cập nhật cho người học một mảng
kiến thức hoặc một hay nhiều kĩ năng của một lĩnh vực nhất định.
ĐTBD CBCC khác với ĐTBD trong hệ thống giáo dục quốc dân ở chỗ là
công tác ĐTBD trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm mục đích đào tạo ra nguồn
nhân lực chung cho đất nước, trong đó bao gồm cả CBCC làm trong các cơ quan Nhà
nước đến cán bộ, nhân viên làm cho các công ty, doanh nghiệp …còn công tác ĐTBD
CBCC chỉ giành cho những CBCC đang làm việc trong các cơ quan Nhà nước
Tóm lại, với các cách hiểu về chính sách công, về CBCC và ĐTBD ở trên, có
thể quan niệm: Chính sách ĐTBD công chức là hành động ứng xử của Nhà nước,
với các giải pháp, công cụ cụ thể về ĐTBD công chức nhằm mục tiêu xây dựng đội
ngũ công chức có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao, được đảm bảo thực hiện bởi hệ thống các văn bản
pháp luật.
15
Thực hiện chính sách ĐTBD CBCC là quá trình đưa chính sách ĐTBD
CBCC vào thực tiễn thông qua việc ban hành các văn bản, kế hoạch, chương trình
thực hiện chính sách ĐTBD; là hoạt động có tổ chức nhằm huy động mọi nguồn lực
(con người, tài chính, cơ sở vật chất) và tổ chức thực hiện chúng để hiện thực hóa
mục tiêu chính sách ĐTBD công chức theo nguyên tắc tối ưu cả về con người, vốn
và kết quả.
Nói một cách khác, thực hiện chính sách ĐTBD CBCC là toàn bộ quá trình
huy động, bố trí sắp xếp các nguồn lực để đưa chính sách ĐTBD CBCC theo một
trình tự thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm đạt được mục tiêu của chính sách
ĐTBD CBCC.
1.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Theo tác giả Lê Chi Mai, “thực thi chính sách công là giai đoạn biến các ý đồ
chính sách thành những kết quả thực tế thông qua hoạt động có tổ chức của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước nhằm đạt tới những mục tiêu đã đề ra”. [34, tr.112].
Để việc tổ chức, triển khai chính sách có hiệu quả, cán bộ, công chức cần phải tuân
thủ quy trình thực thi chính sách với 5 bước cơ bản: 1) Xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách, 2) Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách, 3) Phân
công, phối hợp thực hiện chính sách, 4) Đôn đốc thực hiện chính sách, 5) Đánh giá,
tổng kết rút kinh nghiệm. Cụ thể:
Bước 1, là: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách ĐTBD đối với
CBCC cần được xây dựng trước khi chính sách được đưa vào cuộc sống. Các cơ
quan triển khai thực thi chính sách, Sở Nội vụ của các tỉnh, thành chính là cơ quan
chủ trì phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện, hướng dẫn thực hiện để
trình lên UBND tỉnh, thành phố phê duyệt. Trong bản kế hoạch cần đảm bảo 5 nội
dung sau:
- Kế hoạch về tổ chức, điều hành:
Nội dung kế hoạch gồm những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì như
16
Sở Nội vụ và các cơ quan phối hợp triển khai thực hiện chính sách như: Sở Tài
chính, Trường Chính trị,..số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi;
những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lý và các cá nhân thực thi; cơ
chế tác động giữa các bộ phận thực thi chính sách.
- Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực:
Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về các cơ sở kiến trúc,
trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách; các nguồn lực tài
chính, các vật tư văn phòng phẩm… Trong các nguồn lực này thì nguồn lực tài
chính là đòi hỏi không thể thiếu. Nguồn lực tài chính cho việc thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC được đảm bảo từ ngân sách nhà nước và …
- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện:
Cũng giống như những chính sách khác, việc thực thi các chính sách ĐTBD
CBCC đều có thời gian cụ thể. Khi xây dựng các kế hoạch thực thi chính sách
ĐTBD cho CBCC thì đơn vị xây dựng đều ghi rõ mốc thời gian thực hiện chính
sách cụ thể. Thậm chí trong nhiều chính sách lại có nhiều giai đoạn với những mốc
thời gian khác nhau. Các mốc thời gian thực hiện chính sách đều được xây dựng căn
cứ trên văn bản của trung ương và địa phương.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách:
Kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách ĐTBD cho CBCC là việc dự kiến về
thời gian, nhân sự, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát quá trình thực thi
chính sách.
- Dự kiến những nội quy, quy chế:
Nội quy, quy chế trong thực hiện chính sách ĐTBD CBCC bao gồm nội quy,
quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các cá
nhân và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện
pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách...
Trong các kế hoạch thực thi chính sách ĐTBD của tỉnh ban hành sẽ đưa ra
các nội quy và quy chế chung song trong quá trình triển khai thực hiện thì các đơn
vị sẽ căn cứ trên những nội quy và quy chế chung để xây dựng những nội quy và
quy chế riêng của đơn vị và trình lên cấp có thẩm quyền phê duyệt.
17
- Bước 2, là: Phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Sau khi bản kế hoạch triển khai thực hiện được thông qua, UBND tỉnh sẽ chỉ
đạo cho đơn vị chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành phổ biến, tuyên
truyền chính sách. Làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến chính sách sẽ giúp nhiều
người dân và CBCC tiếp cận và hiểu đúng về chính sách. Việc phổ biến, tuyên
truyền chính sách được thực hiện bằng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, trao
đổi với các đối tượng tiếp nhận; hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng.
- Bước 3, là: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
Mỗi một chính sách ban hành đều được triển khai trên quy mô lớn từ trung
ương đến các địa phương. Do đó, quá trình triển khai thực thi chính sách ít nhất
cũng phải nằm trong phạm vi một tỉnh, một huyện. Đồng thời để triển khai thực
hiện chính sách thì không phải chỉ có một cá nhân hay một đơn vị đơn lẻ mà cần
phải có sự vào cuộc của nhiều cơ quan đơn vị khác nhau. Do vậy trong quá trình
thực thi chính sách nhất định phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan và chính quyền địa phương các cấp.
- Bước 4, là: Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC là hoạt động
của cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ giúp
cho nhà quản lý nắm được tình hình thực thi chính sách, từ đó đánh giá khách quan
những điểm mạnh, điểm yếu của công tác tổ chức thực thi chính sách, tử đo nêu cao ý
thức trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách.
- Bước 5, là: Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đánh giá tổng kết là bước cuối cùng trong quá trình thực thi chính sách. Đây
cũng là bước quan trọng giúp cho các cá nhân, tổ chức có điều kiện đánh giá và
nhìn lại quá trình thực thi chính sách.
18
Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi
chính sách ĐTBD CBCC là các cơ quan nhà nước. Đồng thời còn phải xem xét,
đánh giá việc thực thi chính sách ĐTBD CBCC của chính đối tượng hưởng lợi ích
trực tiếp và gián tiếp từ chính sách.
Thước đo để đánh giá là những kết quả đạt được, là tinh thần hưởng ứng và ý
thức chấp hành những quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Nhìn chung mỗi bước trong quá trình thực thi chính sách đều giữ một vai trò
quan trọng nhất định. Do đó trong quá trình thực thi chính sách các cá nhân và cơ
quan triển khai cần phải lưu ý và thực hiện nghiêm túc để quá trình thực thi chính
sách đạt hiệu quả cao.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
Quá trình tổ chức thực thi chính sách ĐTBD CBCC diễn ra trong nhiều năm
liền và có liên quan đến nhiều đơn vị và cá nhân. Do đó, kết quả tổ chức thực thi
chính sách ĐTBD CBCC cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, có thể chia thành 2
nhóm yếu tố đó là yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.
- Yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan là những yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh An Giang từ bên
ngoài. Có thể kể ra những yếu tố khách quan sau:
Thứ nhất: tính chất của vấn đề chính sách.
Tính chất của vấn đề chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức thực
hiện chính sách nhanh hoặc chậm, thuận lợi hoặc khó khăn. Nếu vấn đề chính sách
là đơn giản, liên quan đến ít đối tượng chính sách thì công tác tổ chức thực hiện sẽ
thuận lợi hơn so với các vấn đề phức tạp, liên quan đến lợi ích của nhiều đối tượng
trong xã hội. Hiện nay, hệ thống chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan
chuyên môn của UBND tỉnh An Giang cũng tương đối phức tạp vì nó liên quan đến
nhiều đơn vị, nhiều CBCC. Đặc biệt là đối với những đơn vị có nhiều CBCC có nhu
cầu được ĐTBD thì việc cân đối ngân sách hàng năm của tỉnh để chi cho nhiều đối
tượng thụ hưởng chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan chuyên môn của
19
UBND tỉnh An Giang là một vấn đề rất nan giải mà các nhà quản lý luôn quan tâm.
Thứ hai: môi trường thực hiện chính sách
Môi trường thực hiện chính sách tốt sẽ thúc đẩy các hoạt động tổ chức thực
hiện chính sách. Ngược lại, nó sẽ kìm hãm, ngăn trở các hoạt động tổ chức thực
hiện chính sách, ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách. Mô hình của các cơ quan
chuyên môn của tỉnh An Giang phù hợp với mô hình của cả nước và phù hợp với
tình hình chung của tỉnh An Giang.
Thứ ba: mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách
Thể hiện sự thống nhất hay không về lợi ích của các đối tượng trong quá
trình thực hiện mục tiêu chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan chuyên môn
của UBND tỉnh An Giang. Bên cạnh đó, sự không đồng nhất về những tiện ích giữa
các cơ quan chỉ đạo điều hành thực thi chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan
chuyên môn của UBND tỉnh An Giang cũng sẽ ảnh hưởng đến kết quả thực thi
chính sách.
Thứ tư: tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách
Tiềm lực của các nhóm lợi ích có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực thi
chính sách. Các cơ quan trong toàn tỉnh An Giang đều có đội ngũ cán bộ có năng
lực và trình độ nên việc xây dựng và triển khai các kế hoạch thực hiện chính sách
được đảm bảo.
- Yếu tố chủ quan
Yếu tố chủ quan là những yếu tố do cán bộ - công chức các cơ quan công
quyền chủ động chi phối đến quá trình thực hiện chính sách. Dưới đây là một số yếu
tố chủ quan có ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chính sách ĐTBD CBCC thuộc các
cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh An Giang.
Thứ nhất là thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực
hiện chính sách, được xem là nguyên tắc hành động của các nhà quản lý. Mỗi bước
trong quy trình đều có vị trí, ý nghĩa to lớn đối với quá trình thực hiện chính sách do
đó nhất định không được bỏ qua hay xem nhẹ bất cứ bước nào trong quá trình thực
hiện chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh An
Giang.
20
Thứ hai là năng lực thi hành chính sách của cán bộ - công chức trong bộ
máy quản lý nhà nước. Đây là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định đến kết quả tổ
chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan chuyên môn của UBND
tỉnh An Giang. CBCC có năng lực yếu thì sẽ xây dựng những kế hoạch dự kiến
không sát với thực tế, gây lãng phí nguồn lực huy động, giảm hiệu lực, hiệu quả của
chính sách. Nếu cán bộ, công chức có năng lực thực hiện chính sách tốt thì sẽ chủ
động điều phối được các yếu tố chủ quan tác động theo định hướng và khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố khách quan để công tác tổ chức, thực hiện
chính sách mang lại kết quả thực sự.
Thứ ba là điều kiện vật chất trong quá trình thực hiện chính sách.
Nếu điều kiện vật chất đáp ứng yêu cầu thì tính khả thi của công tác tổ chức
thực hiện chính sách luôn được tăng cường. Ngược lại, nếu điều kiện vật chất thiếu
thì việc tổ chức thực thi chính sách sẽ gặp nhiều khó khăn, ảnh hướng đến kết quả
thực thi chính sách.
Thứ tư là sự đồng tình ủng hộ của CBCC
Sự đồng tình ủng hộ của CBCC tại các CQCM là yếu tố có vai trò quan
trọng, quyết định sự thành bại của chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan
chuyên môn của UBND tỉnh An Giang. CBCC là người trực tiếp tham gia hiện thực
hóa mục tiêu chính sách và trực tiếp thụ hưởng những lợi ích mang lại từ chính
sách. Nếu một chính sách đáp ứng được nhu cầu thực tế của đội ngũ CBCC thuộc
các CQCM về mục tiêu và biện pháp thừa hành thì nó sẽ nhanh chóng đi vào lòng
CBCC, được CBCC ủng hộ thực hiện.
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
1.4.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được
thể hiện xuyên suốt trong quá trình hoạt động của người từ lý luận cho đến thực
tiễn. Cụ thể là trong các tác phẩm lớn như Đường Kách mệnh (1927), Tìm người tài
đức (1946), Sửa đổi lối làm việc (1947), Đào tạo cách mạng (1958)…đều thể hiện
rất rõ quan điểm của người về công tác ĐTBD CBCC. Theo Người,“Cán bộ là cái
21
gốc của mọi công việc” [3 5 , tr.269], “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời cán bộ
là người đem tình hình của dân chúng báo cáo lại cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,
để đặt chính sách cho đúng” [35, tr.269], nếu không có cán bộ tốt thì mọi việc sẽ
không thể thành công “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” [35, tr.240]. Do CBCC chữ vai trò, vị trí quan trọng nên việc “huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng. Đó là việc mà Đảng phải bỏ nhiều công sức, phải
được tiến hành chu đáo, công phu, Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn
vun trồng những cái cây quý báu” [36, tr.269]. Đồng thời Người cũng xác định mục
đích, nhiệm vụ của công tác huấn luyện đó là“Huấn luyện nghề nghiệp, huấn
luyện chính trị, huấn luyện văn hóa, huấn luyện lý luận. “Đảng ta tổ chức trường
học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết
sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta
có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại
của mình” [36, tr.492]. “Lý luận phải đi đôi với thực tiễn” tức là “Lý luận phải liên
hệ với thực tế” [37, tr.292]. Điều này cho thấy Hồ Chí Minh không chỉ chú trọng
đến công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ về mặt chính trị mà theo người công tác ĐTBD
phải tiến hành toàn diện trên nhiều mặt từ học thức, đạo đức cách mạng, tác phong
và năng lực chuyên môn sao cho đáp ứng được nhu cầu thực tế, thực tiễn. Phải
tuyển chọn đúng người, đúng việc, kịp thời phát hiện nhân tài để đưa ĐTBD cán
bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý để bảo đảm “gốc rễ” thật vững chắc; phải
hướng cho cán bộ vào một nội dung chính trị đúng đắn và nội dung chuyên môn sâu
sắc.
Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh công tác ĐTBD cũng cần phải chú ý tới vấn đề
đạo đức, tư cách CBCC. Người nói: “cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” [35, tr.252-253]. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, cán
bộ phải làm cho dân tin tưởng, nể phục và yêu quý, nếu không làm được thì
người cán bộ không có phẩm chất lãnh đạo; ĐTBD, huấn luyện cán bộ được xem là
công việc quan trọng cần thực hiện thường xuyên đảm bảo mục tiêu ĐTBD cán bộ
22
theo từng giai đoạn cách mạng và tình hình cụ thể với việc đầu tư kinh phí ĐTBD
cán bộ tương xứng.
Tóm lại, tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác ĐTBD CBCC được thể hiện
rất rõ ràng từ lý luận cho đến thực tiễn. Đó chính là kim chỉ nam cho Đảng và Nhà
nước ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách về ĐTBD CBCC đáp ứng công
cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
1.4.2. Quan điểm của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi một quốc gia, dân tộc. Chính vì thế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
đào tạo đội ngũ CBCC có đủ đức, đủ tài được xác định là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển đất nước và được thể hiện xuyên suốt trong
nhiều văn bản.
Bộ Chính trị khóa III, ban hành Nghị quyết số 225-NQ/TW ngày
20/02/1973 về công tác cán bộ, nhận định: Từ trước đến nay, Đảng ta vẫn coi công
tác cán bộ là một trong những vấn đề có tầm quan trọng quyết định đối với toàn bộ
sự nghiệp cách mạng. Đảng đã từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ gắn liền với
phong trào quần chúng và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Nghị quyết
cũng nêu rõ: đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng cán bộ; mở rộng sinh hoạt dân chủ để
tìm ra cán bộ tốt; nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường đào tạo cán bộ, nhất
là các trường đảng; chú trọng phát hiện các tài năng và sử dụng tốt những tài năng
đó.[25]
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng nêu lên vấn đề liên
quan đến công tác ĐTBD đội ngũ CB đó là:Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình
độ, kỹ năng hành vi ứng xử nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị, vừa có
đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ được coi là nhiệm vụ của các cấp, các
ngành, của chính quyền nhằm đáp ứng ngày càng cao đối với việc xây dựng
Nhà nước ta trong thời ký đổi mới.[17]
Đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán
bộ đã đưa ra phương hướng cụ thể đối với công tác ĐTBD cán bộ là: chú trọng
ĐTBD lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực
23
tiễn cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị, xem trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc, cán bộ phải luôn học
tập nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX về nâng cao chất lượng công
tác ĐTBD CBCC đã nêu: “ĐTBD CBCC, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản
lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà
nước”.[18]
Văn kiện Đại hội XI của Đảng lại tiếp tục đề cập đến vấn đề sử ĐTBD đội
ngũ CB trong đó tập trung nhấn mạnh việc tuyển chọn, trọng dụng những người
CB có đủ đức, đủ tài: Trọng dụng người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng công
tác ĐTBD cán bộ, công chức. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ, công chức trên cơ
sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được quy định, lấy hiệu quả công tác và sự tín
nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu…Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ
công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới nhận thức, cách làm, khắc phục những yếu kém
trong c á c khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm túc các cơ
chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, ĐTBD cán bộ, công chức; trọng dụng những
người có đức, có tài…Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát
hiện, tuyển chọn, ĐTBD cán bộ, công chức; trọng dụng những người có đức, có
tài. Nâng cao chất lượng công tác ĐTBD cán bộ, công chức; khắc phục tình
trạng chạy theo bằng cấp. Thực hiện tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ,
quan tâm cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực. Lấy hiệu
quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu để làm
căn cứ đánh giá và sử dụng cán bộ.[20]
Đến Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng tiếp tục đề cập
đến việc phát triển nguồn nhân lực tuy nhiên nhấn mạnh đến việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao. Cụ thể là: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý
và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn
diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng,
24
đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh
khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh
thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở định hướng của các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết Trung
ương, các cơ quan nhà nước đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật về
ĐTBD CBCC, thể hiện rõ nhất trong một số quy định của Luật cán bộ, công chức
như sau: Cán bộ, công chức được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học,
tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở,
phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp
luật…”.[41] Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức vụ,
chức danh cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ. Chế độ đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ do cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định.[41] Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản
lý công chức có trách nhiệm xây dựng và công khai quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
công chức; cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng công chức có trách nhiệm tạo điều kiện
để công chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của công chức; Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng công chức do ngân sách nhà
nước cấp và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật.[41]
Tóm lại, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề cán bộ, trong đó có ĐTBD CBCC. Công tác ĐTBD CBCC luôn được xem là
nhiệm vụ quan trọng và được thể hiện xuyên suốt trong hệ thống các văn bản của
Đảng và Nhà nước trong tất cả các thời kỳ bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Tùy từng thời kỳ mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra cho công tác ĐTBD và sử dụng
đội ngũ CBCC cho phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng nhu cầu của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.5. Kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng công chức ở một số nước trên thế
giới và bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
1.5.1. Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức ở một số nước trên thế giới
25
Công tác ĐTBD CBCC cũng được nhiều nước trên thế giới quan tâm, tuy nhiên
dưới đây chúng tôi chỉ xin điểm qua 2 nước tiêu biểu đó là Singapore và Pháp.
- Tại Singapore:
Cũng giống như Việt Nam, công tác tác ĐTBD công chức được chính phủ
Singapore đặc biệt quan tâm. Chính phủ luôn dành một nguồn ngân sách nhất định
cho công tác ĐTBD. Công tác ĐTBD cán bộ được thể hiện rõ qua các kế hoạch đào
tạo ngắn hạn, dài hạn, đào tạo kế nhiệm, đào tạo chính quy, bài bản, từ xa. Nội dung
ĐTBD gắn với nhu cầu, năng lực chuyên môn và sở trường của mỗi người nhằm
đáp ứng nhu cầu của công việc. Một năm cán bộ tham gia ĐTBD phải đảm bảo ít
nhất là 100 giờ. Trong đó tập trung 60% nội dung đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn và 40% nội dung còn lại đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến phát triển. Nội dung
các khóa đào tạo khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của các đối tượng với
những công việc khác nhau. Điển hình như đối với công chức mới được tuyển dụng
thì sẽ tham gia vào các khóa học làm quen, thích ứng với công việc; còn đối với
những công chức đã làm việc lâu năm thì tham gia vào các khóa học nâng cao, đào
tạo bổ sung, giúp công chức đạt hiệu quả cao nhất trong công việc; đối với những
công chức xuất sắc thì sẽ tham gia những khóa học mở rộng tạo điều kiện cho công
chức vượt ra khỏi công việc của mình, có thể làm những công việc liên quan khi cần
thiết.
Hằng năm, Singapore dành 4% ngân sách cho ĐTBD. Trước khi đi học bằng
kinh phí của Chính phủ, Công chức phải ký cam kết sẽ phục vụ tại cơ quan từ 3 đến
5 năm và phải có đủ 2 người bảo lãnh về tài chính. Nếu không thực hiện đúng cam
kết thì người tham gia ĐTBD phải hoàn trả lại tiền cho Chính Phủ.[41]
- Tại Pháp:
Việc ĐTBD công chức có một số điểm khá khá đặc biệt như: việc xây dựng
kế hoạch ĐTBD sẽ dựa vào nhu cầu của cá nhân và của cơ quan, người lãnh đạo
trực tiếp sẽ có cuộc gặp gỡ, thảo luận với công chức mình quản lý để trao đổi. Sau
đó bộ phận nhân sự sẽ tổng hợp và xây dựng kế hoạch ĐTBD cho cơ quan dựa trên
nguồn kinh phí của chính cơ quan.
Nơi ĐTBD công chức của Pháp tập trung chủ yếu tại Trường Hành chính
26
Quốc gia (ENA). Đây là ngôi trường đào tạo cán bộ lãnh đạo cao cấp của Pháp. Đối
tượng đào tạo của trường là công chức lãnh đạo từ trung ương đến địa phương và
học viên quốc tế. Công tác đào tạo của trường mang tính liên ngành, liên bộ. Nội
dung đào tạo của trường rất ít về lý thuyết mà tập trung chủ yếu vào việc thực hành,
phát triển năng lực lãnh đạo dựa trên các tình huống thực tế. Giáo viên giảng dạy
chính là những công chức của các Bộ để nhằm đưa ra những tình huống thực tế cho
học viên xử lý. Học viên tham gia tối thiểu 50% thời gian khoá học, học thực tế tại
các cơ quan hành chính.
Theo cách này, đã mang lại hiệu quả thiết thực, cụ thể, đáp ứng nhu cầu của
cơ quan, của người học, tránh được lối ĐTBD công chức theo kiểu lý thuyết, sách
vở, kinh nghiệm chủ nghĩa, xa rời thực tiễn. Phương pháp học tập nêu trên buộc
người học và người dạy phải chủ động, không phụ thuộc sách vở mà phải độc lập
suy nghĩ, sáng tạo để tiếp thu kiến thức, nâng cao trình độ và khả năng vận dụng
kiến thức để giải quyết các tình huống cụ thể trong thực tiễn cuộc sống .
1.5.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Nội dung một số chính sách ĐTBD công chức ở một số quốc gia trên tuy có
những điểm gần giống với chính sách ĐTBD CBCC của Việt Nam nhưng cũng có
nhiều điểm mới mà Việt Nam cần nghiên cứu để vận dụng sao cho phù hợp với tình
hình thực tế, cụ thể như:
Thứ nhất: Các chính sách ĐTBD CBCC cần được phối hợp nhiều mục tiêu
khác nhau để đảm bảo tính toàn diện của chính sách cũng như một chính sách có thể
giải quyết được nhiều vấn đề có liên quan.
Thứ hai: Để đảm bảo tính tích cực, sự tham gia của đối tượng chính sách và
đạt được mục tiêu của chính sách, cần chú ý đến các điều kiện đi kèm trong chính
sách, đặc biệt là với các ưu đãi, học bổng. Đó là những điều kiện, cam kết nhất định
của đối tượng chính sách sau khi có được ưu đãi. Những điều kiện này phải đảm
bảo hai yêu cầu: phù hợp với thực tiễn nền giáo dục và những điều kiện này phải có
thể được giám sát quá trình thực hiện. Hoạt động quản lý nhà nước của Việt Nam
cần học tập kinh nghiệm này để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực CBCC đã
được hưởng ưu tiên, tránh lãng phí, thất thoát nguồn lực.
Thứ ba, đổi mới chương trình, nội dung, cách thức đào tạo, bồi dưỡng CBCC
27
theo hướng bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị và thực tiễn phát triển kinh tế, xã
hội của địa phương đáp ứng yêu cầu chức năng, nhiệm vụ CBCC cũng như yêu cầu
bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng nhằm nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn
của từng CBCC. Khuyến khích CBCC xin học bổng đi tham gia các khóa ĐTBD ở
nước ngoài.
Thứ tư, đổi mới công tác quản lý đào tạo CBCC, xây dựng đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý ĐTBD ở các cấp đạt chuẩn.
Thứ năm, tăng cường đầu tư kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị
hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo CBCC.
Tiểu kết chương 1
Từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định xây dựng và thực hiện
các chính sách ĐTBD đối với CBCC là một trong những mục tiêu và nhiệm vụ
quan trọng, góp phần xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất đạo đức tốt, có bản
lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy thực thi công vụ và
đáp ứng yêu cầu của nền công vụ. Đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến chính sách
ĐTBD CBCC. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề thực thi chính sách ĐTBD
CBCC nói chung và chính sách ĐTBD CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An
Giang nói riêng vẫn còn là một vấn đề mới cần thiết và có giá trị thực tiễn cao.
Việc đánh giá kết quả thực hiện chính sách ĐTBD sẽ thiếu cơ sở nếu như
không có nền tảng lý luận. Do đó luận văn đã hệ thống hóa lại các khái niệm công
cụ có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: chính sách, chính sách công, ĐTBD,
công chức, chính sách ĐTBD CBCC. Đặc biệt luận văn đã hệ thống lại các bước tổ
chức thực thi chính sách công và các yếu tố tác động đến kết quả thực thi chính
sách. Đây được coi là nền tảng lý luận vững chắc và là cơ sở để tác giả luận văn dựa
vào đó để đánh giá thực trạng thực thi chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc
28
UBND tỉnh An Giang ở các chương sau.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THUỘC CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Khái lược về khu vực công của tỉnh An Giang
An Giang là tỉnh miền Tây Nam bộ, thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long, có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh, diện tích tự nhiên 353.676 ha,
trong đó có 279.996 ha đất sản xuất nông nghiệp; là tỉnh vừa có đồng bằng, vừa có
núi và có đường biên giới dài gần 100 km, giáp với 02 tỉnh Takeo và Kandal
(Vương quốc Campuchia); có 02 cửa khẩu quốc tế là Xuân Tô (huyện Tịnh Biên),
Vĩnh Xương (thị xã Tân Châu) và 02 cửa khẩu Quốc gia là Khánh Bình và Vĩnh
Hội Đông (huyện An Phú); Tỉnh có 11 đơn vị hành chính, gồm có 02 thành phố trực
thuộc, 01 thị xã và 08 huyện với 156 đơn vị hành chính cấp xã gồm 116 xã, 21
phường và 19 thị trấn. Trong đó có có 18 xã biên giới, 38 xã có đông đồng bào dân
tộc.Tổ chức bộ máy của cơ quan, đơn vị, địa phương được tổ chức tại tỉnh, gồm:
Cấp ủy, Hội đồng nhân dân, UBND, UBMTTQ cấp tỉnh, huyện, xã, các đoàn thể
chính trị - xã hội cấp tỉnh, cấp huyện; theo đó có các cơ quan chuyên trách tham
mưu, giúp việc của Tỉnh ủy, huyện ủy, UBMTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội
cấp tỉnh, văn phòng và các ban thuộc HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, các đơn vị sự
nghiệp công lập thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện và các CQCM thuộc UBND cấp
tỉnh, cấp huyện.[15]
* CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang:
Các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang được tổ chức theo Nghị định số
24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các CQCM thuộc
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. CQCM thuộc UBND cấp tỉnh gọi là
CQCM cấp tỉnh gồm có sở và cơ quan ngang sở (gọi chung là sở). Toàn tỉnh An
Giang có 19 Sở, trong đó có 17 sở được tổ chức theo quy định thống nhất trong cả
nước và 02 Sở đặc thù, cụ thể: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở
29
Tài chính, Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giao
thông vận tải, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền
thông, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở
Khoa học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Thanh tra tỉnh, Văn
phòng UBND và 02 Sở đặc thù của tỉnh là Sở Ngoại vụ và Ban Dân tộc.
- Về cơ cấu tổ chức của Sở:
Được tổ chức theo Điều 5, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4
năm 2014 của Chính phủ, gồm: Văn phòng, Thanh tra, Phòng chuyên môn, nghiệp
vụ, Chi cục, Đơn vị sự nghiệp công lập.
- Chức năng, nhiệm vụ của các CQCM tỉnh An Giang
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các CQCM tỉnh An
Giang thể hiện rõ trong các văn bản quy định, cụ thể như sau:
Về chức năng
Các CQCM cấp tỉnh thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản
lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương theo quy định của pháp luật và theo
phân công hoặc ủy quyền của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của CQCM
CQCM có nhiệm vụ tham mưu cho UBND tỉnh về lĩnh vực được phân công;
chịu trách nhiệm trước nhà nước, pháp luật về các lĩnh vực quản lý thông qua các
văn bản nhà nước.
Về Nhân lực trong các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang
Năm 2019, các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang được giao 1.296 biên
chế công chức và 155 hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP, chiếm
48.3% số biên chế công chức và 61% số hợp đồng lao động theo Nghị định số
68/2000/NĐ-CP trong các cơ quan hành chính nhà nước trên toàn tỉnh.
2.1.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
* Theo báo cáo thống kê từ năm 2015 đến năm 2019, số lượng CBCC tại
30
các CQCM tỉnh An Giang như sau:
Bảng 2.1: Số cán bộ, công chức tại các CQCM tỉnh An giang
Số có mặt đến 31/12 hàng năm
Năm
Số CBCC của tỉnh
2.676 2.721 2.705 2.543 2.254
Số CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh 1.404 1.397 1.356 1.337 1.107
2015 2016 2017 2018 2019
Đơn vị tính: Người
Nguồn: Sở Nội vụ tỉnh An Giang
Năm năm qua đội ngũ CBCC có mặt tại các cơ quan hành chính của tỉnh cơ
bản giảm về số lượng, giảm bình quân 106 người/năm. Trong đó số CBCC có mặt
tại các CQCM thuộc UBND tỉnh giảm bình quân 74 người/năm, chiếm 70,2% số
CBCC giảm của tỉnh do thực hiện tinh giản biên chế theo Đề án chung của Trung
ương. Quy mô nhân lực chưa tương xứng với thực tiễn, vừa thừa lại vừa thiếu, số
lượng CBCC phân bổ chưa đồng đều giữa các đơn vị, có đơn vị do nhiệm vụ công
việc tương đối nhiều nhưng số lượng CBCC được phân công còn hạn chế, chưa đáp
ứng với nhu cầu thực tế, ngược lại, có những đơn vị chức năng, nhiệm vụ ít nhưng
lại phân công CBCC nhiều dẫn đến một bộ phận CBCC ngồi chơi, không tránh khỏi
việc CBCC “sáng cắp ô đi chiều cắp ô về”. Điều này gây khó khăn cho công tác tác
quản lý và thực thi công vụ tại một số CQCM.
* Cơ cấu theo trình độ chuyên môn:
Bảng 2.2: Cơ cấu theo trình độ chuyên môn
STT Trình độ đào tạo
Năm 2015 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Năm 2016 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Năm 2017 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Năm 2018 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Năm 2019 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ trung bình
12
1
1 12 10.04 116
14 128
0.86 8.30
14 134
Trình độ chuyên môn 1 2 3 4 5
14 141 1.074 76.5 1.35 7.48
1.05 1.03 10.02 206 9.44 1.021 73.09 1.015 74.85 1.040 77.79 828 3.39 22 2.88 107
1.57 7.66
3.66 4.41
2 28
49 59
46 39
1.08 18.61 11.28 74.80 75.41 2.03 0.18 4.99 2.53
Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng 19 105 Trung cấp Còn lại Tổng số
6
51 3.63 1.404 100
119 8.52 1.397 100
41 3.07 1.337 100
31 2.8 1.107 100
5.29 100
114 8.41 1.356 100 Nguồn: Sở Nội vụ tỉnh An Giang
31
Đơn vị tính: Người
Số CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang bình quân 5 năm 2015-
2019, có trình độ chuyên môn theo cơ cấu sau:
- Trình độ tiến sỹ, Bác sĩ chuyên khoa II: 1%
- Trình độ Thạc sỹ: 11.28%
- Trình độ đại học: 75.41%
- Trình độ cao đẳng: 2.03%
- Trình độ trung cấp: 4.99%
- Trình độ còn lại: 5.29%
Đội ngũ CBCC tại các CQCM mới được tuyển dụng đảm bảo được mặt bằng
chung, chiếm hơn 75% tổng số CBCC các CQCM; số CBCC đạt trình độ sau đại
học đạt bình quân khoảng 12%, đặc biệt năm 2019 tăng lên đến 19%. Công tác
ĐTBD đã góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ CBCC
tại các CQCM, đáp ứng cơ bản yêu cầu nhiệm vụ được giao. Nhìn chung với trình
độ chuyên môn của đội ngũ CBCC tại các CQCM tỉnh An Giang như trên, người có
trình độ tiến sĩ, thạc sĩ còn thấp chưa đáp ứng với tình hình hiện nay của tỉnh.
* Cơ cấu theo trình độ Lý luận chính trị và Quản lý nhà nước
Bảng 2.3. Cơ cấu theo trình độ Lý luận chính trị và Quản lý nhà nước
STT Trình độ đào tạo
Năm 2015 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Năm 2016 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Năm 2017 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Năm 2018 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Năm 2019 Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ trung bình (%)
57
4.06
59
4.22
62
4.57
51
3.81
31
2.80
3.89
147
10.47 139
9.95
147
10.84 183
13.69 172
15.54 12.1
2
390
27.78 416
29.78 438
32.30 137
10.25 280
25.29 25.08
3
618 192
44.02 727 13.68 56
52.04 603 106 4.01
44.47 639 327 7.82
47.79 512 24.46 112
46.25 46.91 10.12 12.02
4 5
1.404 100
1.397 100
1.356 100
1.337 100
1.107 100
100
Lý luận chính trị Cử 1 nhân Cao cấp Trung cấp Sơ cấp Chưa qua đào tạo Tổng số Quản lý nhà nước
32
Đơn vị tính: Người
1
11
1.78
14
1
19
1.4
21
1.57
24
2.17
1.38
2
233
16.6
262
18.75 264
19.47 269
20.12 244
22.04 19.40
3
613
43.66 689
49.32 702
51.77 718
53.70 634
57.27 51.14
38.96 432
30.92 371
27.36 329
24.61 205
18.52 28.07
4
1.404 100
1.397 100
1.356 100
1.337 100
1.107 100
100
Chuyên viên cao cấp Chuyên viên chính Chuyên viên Còn lại 547 Tổng số
Nguồn: Sở Nội vụ tỉnh An Giang
Nhìn vào bảng 2.3 thống kê trình độ LLCT qua các năm ta thấy trình độ
LLCT có tăng qua từng năm nhưng chậm; LLCT trình độ cử nhân đạt tỷ lệ trung
bình 3.89%, cao cấp đạt tỷ lệ trung bình 12.1%, trung cấp đạt tỷ lệ trung bình
25.08%, sơ cấp đạt tỷ lệ trung bình 46.91%, chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ trung bình
12.02%. Có thể thấy CB, CC có LLCT sơ cấp và chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ gần
60% tổng số CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh, trong khi đó, công tác quy
hoạch, quản lý công tác cán bộ yêu cầu ngày càng cao về trình độ LLCT; trình độ
LLCT của đội ngũ CBCC tại các CQCM cấp tỉnh còn hạn chế, chưa qua đào tạo
chiếm tỷ lệ khá lớn, vì vậy đã ảnh hưởng đến công tác và bản lĩnh chính trị trong
điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay.
Về trình độ Quản lý nhà nước, số liệu thống kê trên bảng đã cho thấy tỉ lệ bồi
dưỡng QLNN ngạch chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính từ năm 2015 đến năm
2019 tuy có tăng nhưng không nhiều, trung bình cả giai đoạn chỉ tương đương
1,38% và 19,40%. Do vậy, cần chú trọng bồi dưỡng đối với đối tượng trên trong
thời gian tới. Số lượng CBCC đạt trình độ QLNN ngạch chuyên viên tỉ lệ trung bình
giai đoạn 51,14%, CBCC chưa có trình độ QLNN còn tương đối nhiều đạt tỉ lệ
trung bình 28,07% dù đã có chương trình ĐTBD chương trình QLNN qua các năm.
33
Bảng 2.4. Cơ cấu theo trình độ Tin học, Ngoại ngữ
ST T
Trình độ đào tạo
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Số lượn g
Số lượn g
Số lượn g
Số lượn g
Tin học
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Tỉ lệ trun Tỉ lệ Số g (%) lượn bình g (%)
92
6.55 91
6.51 103
7.60 109
8.15 87
7.86 7.33
1
871
983
2
1.00 1
71.3 0
1.12 8
80.7 4
1.21 2
89.3 8
65.1 5
88.8 0
79.0 7
3
311
178
41
3.02 357
37
3.34 13.5
22.1 5
12.7 4
9
26.7 0
100
100
100
100
100
100
Cử nhân Có chứng chỉ (A/B/ C) Chưa có chứng chỉ Tổng số
1.39 7
1.35 6
1.33 7
1.10 7
Ngoại ngữ 1
1.78 26
1.86 21
1.55 21
1.57 22
1.99 1.75
1.40 4 25
2
894
894
795
995
70.8 7
1.03 7
74.2 3
71.8 2
71.1 5
66.8 7
71.9 8
3
384
334
422
422
290
31.5 6
26.4 7
27.3 5
23.9 1
26.2 0
27.1 0
100
100
100
100
100
100
Cử nhân Có chứng chỉ (A/B/ C) Chưa có chứng chỉ Tổng số
1.40 4
1.39 7
1.33 7
1.10 7
1.33 7 Nguồn: Sở Nội vụ tỉnh An Giang
Đơn vị tính: Người
Về ngoại ngữ, tin học: Số CBCC tại các CQCM có trình độ cử nhân về ngoại
ngữ, tin học còn rất ít, chiếm chưa đạt 10% số CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh.
Trong khi đó tỷ lệ CBCC được ĐTBD về tin học, ngoại ngữ theo chương trình cơ
sở (chứng chỉ A, B, C) chiếm khoảng 80% số CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh.
Mặc dù tỷ lệ CBCC có chứng chỉ ngoại ngữ A, B cao nhưng rất ít người có
34
đủ khả năng giao tiếp, học tập, nghiên cứu, phục vụ công tác. Đây cũng chính là
một trong những rào cản gây khó khăn trong việc thực hiện đề án đào tạo CBCC
sau đại học trong nước và ngoài nước của tỉnh An Giang.
Bảng 2.5. Cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc
ST T
Cơ cấu
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Tỉ lệ (%)
Năm 2015 Tỉ lệ Số (%) lượn g 952
Số lượn g 914
Số lượn g 901
Số lượn g 684
Giới tính Na 1 m Nữ
2
452
449
442
436
423
Tổng số
67.8 1 32.1 9 100
Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Tỉ lệ trun Số g lượn bình g 66.4 948 5 33.5 5 100
67.3 9 32.6 1 100
67.8 6 32.1 4 100
61.7 9 38.3 1 100
67.4 0 32.6 0 100
Độ tuổi 1
1.40 4 212
1.39 7 195
1.35 6 204
1.33 7 186
1.10 7 128
2
941
954
944
834
15.1 0 67.0 2
1.09 6
13.9 6 78.4 5
15.0 4 70.3 5
13.9 1 70.6 1
11.5 6 75.3 4
13.9 1 72.3 5
3
251
106
7.59 198
207
145
Dướ i 30 Từ 30- 50 Trê n 50
17.8 8 100
Tổng số
100
14.6 0 100
15.4 8 100
13.1 0 100
13.7 3 100
1.40 4 69
1.39 7 97
1.35 6 104
1.33 7 107
1.10 7 356
Dân tộc thiểu số Đảng viên 928
943
965
795
938 Nguồn: Sở Nội vụ tỉnh An Giang
Đơn vị tính: Người
Số liệu tại bảng 2.5 cho thấy, trong giai đoạn 2015-2019 tỷ lệ CBCC dưới 30
tuổi không nhiều, dao động từ 13% đến 15%. Đa số đội ngũ CBCC có tuổi đời từ 30
đến 50 tuổi, chiếm 72,35% trong tổng số CBCC tại các CQCM của tỉnh. Đội ngũ
CBCC có tuổi đời từ 30 đến 50 tuổi cao cũng là một trong những lợi thế của tỉnh
bới vì về cơ bản đây là lực lượng đã trải qua thời gian tích lũy được nhiều kinh
nghiệm trong thực tiễn, đảm nhiệm vai trò được phân công trong các cơ quan hành
chính của tỉnh. Mặc dù thời gian qua tỉnh cũng chú trọng công tác tuyển dung
CBCC trẻ trong đó đặc biệt chú ý tới đối tượng là nữ, người dân tộc thiểu số, tuy
nhiên tỷ lệ này vẫn còn thấp so với tỷ lệ bình quân chung của cả nước. Tỷ lệ CBCC
35
là nữ từ năm 2015 đến 2019 không tăng nhiều, chỉ dao động trên 30% trong tổng số
CBCC. Do đó thời gian tới tỉnh cũng cần chú trọng hơn nữa công tác xây dựng đội
ngũ CBCC, đảm bảo sự cân bằng giữa các đối tượng nhằm nâng cao chất lượng
thực thi công vụ.
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức thuộc các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang – Kết
quả và những vấn đề đặt ra
2.2.1. Thực trạng quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức thuộc các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
* Việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
Về nguyên tắc, đối với bất kỳ chính sách nào liên quan tới nguồn nhân lực
thì Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cũng căn cứ vào chính sách của Trung ương để
chỉ đạo cho Sở Nội Vụ tỉnh An Giang phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện sao cho phù hợp với tình hình đặc điểm
riêng của tỉnh. Trong thực tế, ngay sau khi có các chính sách từ Trung ương, Tỉnh
An Giang đã triển khai thực hiện với việc ban hành nhiều văn bản nhằm thể chế hóa
quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
của tỉnh, cụ thể như sau:
- Căn cứ Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án ĐTBD CBCC, viên chức giai đoạn 2016-
2025; Đề án 01-ĐA/TU ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Tỉnh ủy về tạo nguồn và quy
hoạch dài hạn cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; Nghị quyết số 09-
NQ/TU ngày 27 tháng 6 năm 2012 của Tỉnh ủy về phát triển nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao tỉnh An Giang giai đoạn 2012-2020 và tầm nhìn đến năm 2030;
Chương trình hành động số 09-CTr/TU ngày 05 tháng 12 năm 2016 của Tỉnh ủy
thực hiện Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh về phát triển nguồn nhân lực phục vụ
phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh giai đoạn 2016-2020 và định hướng
đến năm 2025. UBND tỉnh An Giang ban hành Kế hoạch số 718/KH-UBND ngày
30 tháng 12 năm 2016 về ĐTBD CBCC, viên chức tỉnh An Giang giai đoạn 2016-
2020, triển khai các nhiệm vụ và giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
36
ĐTBD, góp phần xây dựng đội ngũ CBCC, viên chức chuyên nghiệp có đủ phẩm
chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; Tập trung xây dựng nguồn nhân lực phục vụ
phát triển nông nghiệp và du lịch trở thành những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
An Giang; phấn đấu đến năm 2020, nguồn nhân lực công của tỉnh An Giang được
đảm bảo về số lượng và chất lượng; nâng cao trình độ, năng lực cạnh tranh của nhân
lực trong hội nhập, phát triển bền vững, ổn định xã hội.
- Bên cạnh đó, hàng năm UBND tỉnh An Giang ban hành Kế hoạch ĐTBD
CBCC, viên chức của từng năm, thực hiện trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp
thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của CBCC, hoạt động nghề nghiệp của
viên chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý góp phần xây dựng đội ngũ CBCC,
viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng
lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
xây dựng đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao
để tham mưu triển khai thực hiện các Chương trình, Đề án, Dự án trọng điểm của
tỉnh, với các Quyết định phê duyệt Kế hoạch ĐTBD: Quyết định số 2280/QĐ-
UBND ngày 27 tháng 12 năm 2014 của UBND tỉnh An Giang về việc phê duyệt Kế
hoạch ĐTBD CBCC, viên chức trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2015; Quyết định
số 2854/QĐ-UBND ngày 21 tháng 12 năm 2015 của UBND tỉnh An Giang về việc
phê duyệt Kế hoạch ĐTBD CBCC, viên chức trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2016;
Quyết định số 3635/QĐ-UBND ngày 23 tháng 12 năm 2016 của UBND tỉnh về việc
phê duyệt Kế hoạch ĐTBD CBCC, viên chức trên địa bàn tỉnh An Giang năm 2017;
Quyết định số 3947/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2017 của UBND tỉnh An
Giang về việc phê duyệt Kế hoạch ĐTBD CBCC, viên chức trên địa bàn tỉnh An
Giang năm 2018; Quyết định số 3290/QĐ-UBND ngày 24 tháng 12 năm 2018 của
UBND tỉnh An Giang về việc ban hành Kế hoạch ĐTBD CBCC, viên chức trên địa
bàn tỉnh An Giang năm 2019;
- UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND ngày 12 tháng
01 năm 2015 Quy định chế độ trợ cấp ĐTBD CBCC, viên chức tỉnh An Giang (cụ
thể hóa Nghị quyết số 02/2014/NQ-HĐND và thay thế Quyết định số 12/2012/QĐ-
37
UBND) và Quyết định số 90/2017/QĐ-UBND ngày 18 tháng 12 năm 2017 của
UBND tỉnh An Giang sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định chế độ trợ cấp
ĐTBD CBCC, viên chức tỉnh An Giang được ban hành kèm theo Quyết định số
01/2015/QĐ-UBND (cụ thể hóa Nghị quyết số 20/2017/NQ-HĐND). Đã quy định
cụ thể các mức trợ cấp đồi với CBCC được cử đi ĐTBD như sau: Trợ cấp học phí;
Trợ cấp tài liệu tùy theo loại hình đào tạo nhưng không quá 6.000.000
đồng/người/khóa học và thanh toán theo phiếu thu của cơ sở ĐTBD hoặc cơ quan
được giao nhiệm vụ ĐTBD; Trợ cấp đi nghiên cứu thực tế theo kế hoạch tổ chức
lớp học đối với CBCC, viên chức học các lớp đào tạo lý luận chính trị, trợ cấp phần
chênh lệch giữa chi phí thực tế và kinh phí cơ sở đào tạo cấp theo quy định nhưng
tối đa không quá 2.000.000 đồng/người/khóa học; Trợ cấp tiền ăn theo số ngày tập
trung học tập nhưng không quá 100.000 đồng/người/ngày; Trợ cấp tiền thuê chỗ ở
tùy theo địa điểm tập trung học nhưng không quá 150.000 đồng/người/ngày; Trợ
cấp tiền tàu xe đi lại, từ 05 km đến dưới 15 km: thanh toán theo mức khoán là
20.000 đồng/người/ngày, từ 15 km trở lên thanh theo chế độ công tác phí hiện hành;
Trợ cấp nữ CBCC, viên chức được cử đi học với định mức 20.000
đồng/người/ngày; Trường hợp được cấp có thẩm quyền cử dự tuyển để đào tạo sau
đại học bằng ngân sách nhà nước và trúng tuyển ngay lần đầu dự tuyển thì được trợ
cấp kinh phí dự tuyển, bao gồm: lệ phí đăng ký dự thi, lệ phí thi, tiền ăn trong các
ngày thi, tiền thuê chỗ nghỉ trong các ngày thi, 01 lượt tiền tàu xe đi-về; Trợ cấp sau
khi nhận bằng đối với Thạc sĩ, chuyên khoa cấp I: 20.000.000 đồng/người, Chuyên
khoa cấp II: 30.000.000 đồng/người, Tiến sĩ: 45.000.000 đồng/người, các trường
hợp tốt nghiệp sau đại học ở nước ngoài được hỗ trợ thêm đối với Thạc sĩ:
2.500.000 đồng/người, Tiến sĩ : 5.000.000 đồng/người”.
Ngoài các văn bản liên quan trực tiếp đến công tác ĐTBD CBCC, viên chức
của tỉnh nói chung, CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh nói riêng, trong các nghị
quyết của Tỉnh ủy, kế hoạch, báo cáo của UBND tỉnh cũng thể hiện rõ sự quán triệt,
quan tâm sâu sắc đối với chính sách ĐTBD CBCC. Cụ thể:
- Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020 nêu rõ:
“Tập trung xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhất là các trường đại học, cao
38
đẳng, trung cấp để phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy nhanh tiến độ
xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, ưu tiên vùng dân tộc, vùng khó khăn. Kiện
toàn và tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Tiếp tục đổi mới công tác quản lý, đẩy
mạnh giao quyền tự chủ về tổ chức, tài chính, chuyên môn cho các trường học; thực
hiện mạnh mẽ chủ trương xã hội hóa giáo dục. Ngành GD&ĐT tăng cường quản lý
nhà nước, thanh tra, kiểm tra, kiểm định, đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp phân
luồng đào tạo nghề sau trung học, đào tạo sau đại học. Trường Đại học An Giang
tăng cường liên kết với các viện, trường, trung tâm để ĐTBD nguồn nhân lực chất
lượng cao cho nông nghiệp và du lịch phục vụ yêu cầu phát triển của tỉnh.”
- Để tổ chức thực hiện thắng lợi Chương trình hành động số 09-CTr/TU ngày
05 tháng 12 năm 2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nguồn nhân
lực phục vụ phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh giai đoạn 2016-2020 và
định hướng đến năm 2025 nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong điều kiện hội nhập quốc tế. UBND tỉnh
đã ban hành: Quyết định số 2879/QĐ-UBND ngày 29 tháng 9 năm 2017 về việc ban
hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 09-CTr/TU ngày 05 tháng 12
năm 2016 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2020;
Quyết định số 777/QĐ-UBND ngày 09 tháng 4 năm 2018 về việc ban hành Kế
hoạch ĐTBD phát triển nguồn nhân lực năm 2018; Quyết định số 495/QĐ-UBND
ngày 15 tháng 3 năm 2019 về việc ban hành Kế hoạch ĐTBD phát triển nguồn nhân
lực năm 2019.
Có thể nói, trong những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh An Giang nói chung,
Sở Nội vụ An Giang nói riêng đã quán triệt tốt các chính sách, chỉ thị, nghị quyết
của Trung ương về công tác ĐTBD CBCC nói chung, trong đó có công chức các
CQCM thuộc UBND tỉnh. Trên cơ sở tiếp thu, nghiên cứu các chính sách của Trung
ương, tỉnh An Giang đã chủ động triển khai xây dựng các kế hoạch nhằm ĐTBD
CBCC tại các CQCM của tỉnh phù hợp với từng thời điểm, nguồn lực cũng như đặc
điểm, tình hình của địa phương. Nội dung của các kế hoạch đều tập trung nêu rõ
những vấn đề sau: Thứ nhất là căn cứ để xây dựng kế hoạch; thứ hai là mục đích,
39
yêu cầu của kế hoạch; thứ ba là mục tiêu của kế hoạch; thứ tư là nội dung thực hiện
kế hoạch/những nhiệm vụ giải pháp chủ yếu; thứ năm là thời gian thực hiện; thứ sáu
là tổ chức thực hiện trong đó xác định rõ các đơn vị chủ trì, các đơn vị phối hợp
thực hiện.
Qua đó, có thể thấy việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
liên quan đến việc ĐTBD CBCC tại các CQCM được tỉnh An Giang thực hiện khá
chặt chẽ, đáp ứng được yêu cầu của việc xây dựng kế hoạch.
* Phổ biến, tuyên truyền chính sách
Sau khi Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang phê duyệt và ban hành các kế hoạch
liên quan đến việc thực thi chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM của tỉnh theo
từng năm và từng giai đoạn thì Sở Nội Vụ tỉnh An Giang có trách nhiệm gửi trực
tiếp văn bản tới các đơn vị có liên quan. Ngoài ra để các thông tin về việc triển khai
chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM của tỉnh được công khai, minh bạch và
giúp cho nhiều người tiếp cận, nắm rõ thì UBND tỉnh đã chỉ đạo công khai hóa các
văn bản trên cổng thông tin điện tử của UNND tỉnh An Giang:
http://www.angiang.gov.vn; hay Đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Sở Nội vụ
tỉnh An Giang: http://sonoivu.angiang.gov.vn; Thông báo qua hệ thống đài phát
thanh, truyền hình…hoặc là tuyên truyền phổ biến lồng ghép thông qua các cuộc
họp, hội thảo, các chính sách có liên quan đến nâng cao chất lượng CBCC như:
chính sách về ĐTBD, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm CBCC,…hay là phổ biến, quán
triệt nâng cao nhận thức về vai trò, nhiệm vụ của hoạt động ĐTBD, tại các cơ quan,
đơn vị.
Nhìn chung, công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách ĐTBD CBCC tại các
CQCM của UBND tỉnh An Giang đã được triển khai dưới nhiều hình thức phong
phú và đa dạng. Điều này giúp cho nhiều CBCC hiểu và nắm được chính sách,
cũng đồng nghĩa với việc các đối tượng thụ hưởng sẽ tiếp cận được các chính sách
một cách dễ dàng, giúp cho việc thực thi chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM
của tỉnh đạt hiệu quả cao.
* Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
40
Bất cứ một chính sách muốn triển khai đạt hiệu quả thì cũng phải có sự tham
gia phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan, đơn vị có liên quan trong toàn bộ quy
trình thực hiện chính sách. Ngay trong các bản kế hoạch thực hiện chính sách cũng
đã phải thể hiện rõ phần tổ chức thực hiện, trong đó nêu cụ thể đơn vị nào chủ trì,
đơn vị nào sẽ phối hợp và từng đơn vị sẽ phụ trách những lĩnh vực công việc nào
một cách tương đối chi tiết.
Việc tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD công chức các CQCM thuộc
UBND tỉnh An Giang được phân công cụ thể, chi tiết cho các ban ngành, cơ quan,
tổ chức, đơn vị thuộc tỉnh An Giang, cụ thể là:
- Sở Nội vụ có các nhiệm vụ:
+ Xây dựng, trình UBND tỉnh: Phê duyệt, quy hoạch, kế hoạch, giải pháp
ĐTBD nâng cao trình độ đối với CBCC, viên chức trong tỉnh; Phê duyệt kế hoạch
ĐTBD CBCC, viên chức hàng năm, giai đoạn theo quy định của tỉnh và kinh phí
đảm bảo thực hiện; điều chỉnh, bổ sung Kế hoạch nếu có phát sinh; Quyết định chế
độ chính sách đối với CBCC, viên chức và các vấn đề khác liên quan đến công tác
tổ chức học tập ĐTBD CBCC, viên chức. Chỉ đạo việc biên soạn, tổ chức thẩm
định, trình UBND tỉnh ban hành các chương trình khung, chương trình và tài liệu
ĐTBD thống nhất trong toàn tỉnh theo quy định hiện hành.
+ Tổ chức, hướng dẫn thực hiện quy hoạch, kế hoạch ĐTBD CBCC, viên
chức sau khi được ban hành.
+ Tổng hợp, trình UBND tỉnh chọn, cử công chức đi ĐTBD theo phân cấp
quản lý cán bộ của tỉnh.
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị và các cơ sở đào tạo tổ chức mở
các lớp ĐTBD theo Kế hoạch.
+ Chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan tổng hợp báo cáo UBND tỉnh
công tác ĐTBD CBCC, viên chức của tỉnh.
+ Chủ trì phối hợp với các sở ban, ngành, đơn vị liên quan tổ chức tổng kết,
hội nghị công tác ĐTBD CBCC, viên chức các Sở, ban, ngành của tỉnh.
+ Rà soát lại những bất cập, khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện các
quy định về trợ cấp ĐTBD để kịp thời tham mưu điều chỉnh và bổ sung chính sách
41
ĐTBD của tỉnh. Phối hợp với các sở, ban, ngành, đơn vị mở lớp để giải quyết hoặc
đề xuất giải quyết các vấn đề phát sinh theo thẩm quyền.
+ Kiểm tra, giám sát các hoạt động ĐTBD CBCC, viên chức của các sở, ban,
ngành thuộc tỉnh.
- Sở Tài chính có nhiệm vụ:
+ Chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ và các đơn vị có liên quan thẩm định Kế
hoạch kinh phí, tham mưu UBND tỉnh cân đối, bố trí nguồn lực về tài chính để đảm
bảo thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đề ra về ĐTBD CBCC các CQCM thuộc
UBND tỉnh An Giang.
+ Hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra quyết toán nguồn kinh phí ĐTBD CBCC
theo quy định.
- Các đơn vị được giao tổ chức ĐTBD:
Phối hợp chặt chẽ với Sở Nội Vụ và Sở Tài chính để xây dựng kế hoạch,
chương trình ĐTBD và lập dự toán kinh phí theo quy định và trình UBND tỉnh An
Giang xem xét, quyết định (qua Sở Nội vụ và Sở Tài chính thẩm định); Không
ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy, gắn lý thuyết với thực tiễn công tác của
CBCC nhằm nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC; Sắp xếp, bố trí cán bộ giảng dạy
và cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác ĐTBD CBCC; Sau các khóa
ĐTBD cần tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm đối với công tác ĐTBD để nâng cao
chất lượng, đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong quá trính công tác của CBCC.
- Các CQCM thuộc UBND tỉnh:
+ Tuyên truyền, phổ biến chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM của tỉnh
An Giang cho CBCC trong đơn vị nắm rõ.
+ Hàng năm, xác định nhu cầu và đăng ký nhu cầu ĐTBD công chức của sở,
ban, ngành, đơn vị báo cáo UBND tỉnh để tổng hợp vào kế hoạch chung của tỉnh.
+ Chọn, cử công chức đúng đối tượng tham gia các khóa ĐTBD theo phân
cấp quản lý cán bộ của tỉnh. Sắp xếp, tạo điều kiện cho CBCC có trình độ chuyên
môn không phù hợp với vị trí việc làm được tự túc tham gia các khóa đào tạo
chuyên môn cho phù hợp với vị trí việc làm theo quy định.
+ Theo dõi, tạo điều kiện cho công chức đảm bảo thực hiện thời gian ĐTBD
42
bắt buộc tối thiểu hàng năm.
+ Đánh giá kết quả ĐTBD công chức thông qua năng lực thực thi công vụ
của công chức sau khi tham gia học tập.
+ Định kỳ hàng năm tổng hợp báo cáo UBND tỉnh tình hình thực hiện kế
hoạch và chế độ ĐTBD bắt buộc tối thiểu hàng năm của công chức và đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ của công chức.
+ Quản lý, sử dụng và báo cáo quyết toán kinh phí ĐTBD công chức được
UBND tỉnh giao theo đúng chế độ hiện hành.
- Công chức được cử đi ĐTBD:
Chấp hành nghiêm chỉnh quy chế ĐTBD và chịu sự quản lý của cơ sở, đơn
vị ĐTBD công chức.
- Trong quá trình thực hiện, nếu có phát sinh vướng mắc, yêu cầu các cơ
quan, đơn vị được giao nhiệm vụ báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh (thông qua Sở Nội
vụ) xem xét, giải quyết.
Có thể nói, việc phân công chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện, giám sát
việc thực hiện các chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM của Tỉnh An Giang
được thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện, thể hiện được vai trò, trách nhiệm của
các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan, các cơ sở đào tạo... Từ đó, chính sách đã
thực sự đi vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo tại tỉnh.
* Đôn đốc thực hiện chính sách
Trong quá trình thực hiện chính sách, không phải cơ quan, đơn vị và cá nhân
nào cũng làm tốt, làm đúng. Chính vì vậy, cần phải theo dõi, kiểm tra và đôn đốc
quá trình thực hiện chính sách nhằm thúc đẩy các cơ quan, đơn vị hoàn thành nhiệm
vụ theo đúng kế họach đã đề ra, đồng thời tăng cường ý thức trách nhiệm của các cá
nhân tham gia thực hiện chính sách, giúp cho quá trình thực thi chính sách đạt hiệu
quả.
Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã tiến hành theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM của Tỉnh An Giang dưới nhiều
hình thức như yêu cầu các cơ quan, đơn vị gửi báo cáo tiến độ thực hiện chính sách
theo quý, kiểm tra đột xuất, thành lập đoàn thanh tra kiểm tra các cơ quan, đơn vị về
43
tiến độ thực hiện, đối tượng thụ hưởng, các thủ tục thanh chi quyết toán cho đối
tượng thụ hưởng…
- Sở Nội vụ thực hiện rà soát, đối chiếu các điều kiện, tiêu chuẩn của CBCC
đặc biệt đối với CBCC là đối tượng dự nguồn, trong quy hoạch, có triển vọng phát
triển để cử đi đào tạo nâng cao năng lực, phát huy sở trường; thường xuyên rà soát,
liên hệ, đôn đốc các cơ quan, đơn vị, cơ sở đào tạo về tiến độ thực hiện, có hình
thức, phương pháp kiểm tra, giám sát các hoạt động bồi dưỡng CBCC phù hợp.
- Trường Chính trị Tôn Đức Thắng tỉnh An Giang có kế hoạch và thực hiện
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên tham gia ĐTBD.
- Sở Tài chính kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí ĐTBD thường xuyên
hàng năm ở các cơ quan, đơn vị được quận giao nhiệm vụ ĐTBD công chức.
Tóm lại, công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc quá trình thực thi chính sách
ĐTBD CBCC tại các CQCM của Tỉnh An Giang đã được UBND tỉnh triển khai
thực hiện tương đối tốt. Tính đến cuối năm 2019, tỉnh chưa phát hiện đơn vị nào
vi phạm các quy định về việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM
của Tỉnh An Giang, song quá trình thực thi cũng bộc lộ một số hạn chế cần phải
được điều chỉnh.
* Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm
Sở Nội vụ tham mưu cho UBND tỉnh tổ chức hội nghị sơ kết và hội nghị
tổng kết công tác ĐTBD CBCC. Tại mỗi hội nghị về công tác ĐTBD CBCC của
tỉnh đã đánh giá kết quả ĐTBD công chức; các đơn vị tham gia họp thẳng thắn trao
đổi các vấn đề còn tồn tại, những khó khăn gặp phải trong quá trình thực hiện chính
sách để UBND có hướng điều chỉnh cho phù hợp; rút kinh nghiệm trong việc tổ
chức thực hiện chính sách ĐTBD công chức trên tất cả các bước thực hiện: từ xây
dựng kế hoạch; tuyên truyền phổ biến,... đến hình thức và phương pháp tổ chức
thực hiện ĐTBD CBCC. Tập trung chủ yếu vào các nội dung phân công phối hợp tổ
chức thực hiện và tổng kết, đánh giá để đề ra các giải pháp, biện pháp khắc phục
những tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
trên địa bàn tỉnh.
2.2.2. Kết quả quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
44
công chức thuộc các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang
* Những kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
Trong những năm qua, tỉnh An Giang luôn xác định việc ĐTBD và phát triển
nguồn nhân lực trong đó có đội ngũ CBCC thuộc các CQCM của tỉnh là một trong
những yếu tố quyết định thành công của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế -
văn hóa - xã hội của tỉnh. Tỉnh luôn xem đây là một trong những khâu đột phá nhằm
tạo ra đội ngũ CBCC có chất lượng ngày càng cao, có đủ khả năng đáp ứng trọng
trách mà Đảng, chính quyền và nhân dân giao phó. Do đó, chính sách ĐTBD CBCC
thuộc các CQCM của tỉnh luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Ủy ban
nhân dân tỉnh từ khâu lập kế hoạch đến khâu đánh giá, rút kinh nghiệm… UBND
tỉnh đều triển khai thực hiện một cách nghiêm túc và chặt chẽ.
Công tác ĐTBD CBCC thuộc các CQCM được UBND tỉnh giao cho cơ
quan đầu mối là Sở Nội vụ quản lý. Nên, việc cử cán bộ, công chức đi ĐTBD dần đi
vào nề nếp, gắn với quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức. Đặc biệt, Tỉnh đã
chỉ đạo tập trung đào tạo trình độ sau đại học cho CBCC tại các CQCM, đào tạo gắn
với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với quy hoạch phát triển ngành, lĩnh
vực thuộc các chương trình trọng điểm, trọng tâm của tỉnh.
Tính đến cuối năm 2019, Tổng số cán bộ, công chức, viên chức được đào
tạo, bồi dưỡng ở trong nước là 18.020 lượt người. Cụ thể gồm:
- Về lý luận chính trị có 1.119 người, chiếm tỷ lệ 6,2%. Trong đó trình độ
Cao cấp là 76 người; trình độ Trung cấp là 345 người; trình độ Sơ cấp là 397 người;
Bồi dưỡng là 301 người.
- Về quản lý nhà nước có 1.697 người, chiếm tỷ lệ 9,42%. Trong đó: Chuyên
viên cao cấp là 42 người; Chuyên viên chính và tương đương là 620 người; Chuyên
viên và tương đương là 1.035 người.
- Về chức danh nghề nghiệp có 8.469 người (chủ yếu là ngành giáo dục và
đào tạo), chiếm tỷ lệ 47%. Trong đó, Hạng II là 7.119 người; Hạng III là 1.349
người; Hạng IV chỉ có 01 người.
- Về chuyên môn có 425 người, chiếm tỷ lệ 2,36%. Trong đó trình độ Sau đại
học có 185 người, gồm: Thạc sĩ/Chuyên khoa I là 181 người (180 thạc sĩ, 01
45
chuyên khoa I); Tiến sĩ/Chuyên khoa II có 04 người (03 tiến sĩ, 01 chuyên khoa II).
Trình độ Đại học có 176 người. Trình độ Cao đẳng có 34 người. Trình độ Trung
cấp có 30 người.
- Bồi dưỡng kiến thức kỹ năng (lãnh đạo, quản lý, chuyên ngành, kiến thức
kỹ năng chuyên ngành, vị trí việc làm) cho 4.461 người, chiếm tỷ lệ 24,76%.
- Bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng-An ninh, ngoại ngữ, tin học, tiếng dân tộc
cho 1.849 người, chiếm tỷ lệ 10,26%.
- Về kinh phí chi cho công tác ĐTBD CBCC được thực hiện Quy định chế
độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh An Giang của Ủy
ban nhân dân tỉnh An Giang tại Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND ngày 12 tháng
01 năm 2015 và được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 90/2017/QĐ-UBND ngày
18 tháng 12 năm 2017. Năm 2019, tỉnh An Giang đã thực hiện chế độ trợ cấp đối
với cán bộ, công chức, viên chức được cấp có thẩm quyền cử đi học sau đại học đã
tốt nghiệp và được cơ sở đào tạo cấp bằng cho 193 trường hợp (12 tiến sỹ, 149 thạc
sỹ, 06 chuyên khoa II, 26 chuyên khoa I), với tổng kinh phí 4.180 triệu đồng, chia ra
gồm: Trợ cấp đối với các trường hợp đi học từ nguồn kinh phí ngân sách nhà nước
đã tốt nghiệp cho 41 trường hợp, cụ thể gồm: 04 tiến sỹ, 29 thạc sỹ, 02 chuyên khoa
II, 06 chuyên khoa I và Trợ cấp đối với các trường hợp đi học từ nguồn kinh phí
không thuộc ngân sách nhà nước đã tốt nghiệp cho 152 trường hợp tốt nghiệp, cụ
thể gồm: 08 tiến sỹ, 120 thạc sỹ, 04 chuyên khoa II, 20 chuyên khoa I.
- Tổng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng trong nước là 19.278 triệu đồng, trong đó:
Ngân sách trung ương là 812 triệu đồng chủ yếu là kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ, công chức xã thực hiện Quyết định số 1600/QĐ-TTg do Sở Nội vụ trực tiếp
quản lý; Ngân sách địa phương là: 18.466 triệu đồng, trong đó: Kinh phí đào tạo,
bồi dưỡng do Sở Nội vụ trực tiếp quản lý và chi cho đối tượng là 12.935 triệu đồng;
Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho công chức, viên chức ngành Giáo
dục và Đào tạo do Sở Giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý và chi cho đối tượng là
2.800 triệu đồng; Kinh phí sự nghiệp đào tạo được ngân sách cấp trực tiếp cho cơ
quan, đơn vị trực tiếp quản lý chi là 2.731 triệu đồng.
- Về ĐTBD ở nước ngoài. Đến cuối năm 2019, tổng số cán bộ, công chức,
46
viên chức được đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài là 78 lượt với các nội dung bồi
dưỡng, gồm: quản lý, điều hành chương trình kinh tế-xã hội; quản lý nhà nước,
chuyên ngành, lĩnh vực; phương pháp giảng dạy; nội dung khác. Tổng kinh phí đào
tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài là 17.395 triệu đồng, chủ yếu là kinh phí đào tạo, bồi
dưỡng thường xuyên cho công chức, viên chức ngành Giáo dục và Đào tạo do Sở
Giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý và chi cho đối tượng.
Với sự nỗ lực, nhiệt tình và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi, trau dồi
kiến thức, các CBCC đã được quan tâm, tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, góp phần đáp ứng được yêu cầu thực tiễn công tác và hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Việc tham gia vào các
khóa ĐTBD ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ trình độ chuyên môn đến trình độ
chính trị, tin học, ngoại ngữ đã làm cho chất lượng đội ngũ CBCC các CQCM của
tỉnh từng bước được nâng cao, góp phần vào việc nâng cao chất lượng thực thi công
cụ, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
* Nguyên nhân của kết quả đạt được
- Công tác ĐTBD CBCC tại các CQCM của Tỉnh An Giang luôn nhận được
sự chỉ đạo sâu sát của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, lãnh đạo của các cơ quan, đơn vị trên
địa bàn tỉnh cũng như sự quan tâm phối hợp, hỗ trợ và hướng dẫn của Bộ Nội vụ,
các cơ quan đơn vị liên quan.
- Đội ngũ CBCC tại các CQCM của tỉnh luôn có tinh thần cầu tiến, nỗ lực
học hỏi, trao dồi kiến thức để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ thực thi công vụ tại
cơ quan.
- Chế độ chính sách thực hiện ĐTBD đối với CBCC từng bước được cải
thiện, đã tạo điều kiện thuận lợi, kích thích CBCC học tập, nâng cao trình độ, nhận
thức phục vụ yêu cầu công tác.
- Công tác ĐTBD được Tỉnh ủy, UBND tỉnh giao cho các cơ quan đầu mối
là Ban Tổ chức Tỉnh ủy (đối với ĐTBD lý luận chính trị và ĐTBD CBCC, viên
chức khối đảng, đoàn thể) và Sở Nội vụ (đối với ĐTBD chuyên môn, nghiệp vụ đối
với CBCC khối chính quyền) tập trung quản lý. Đồng thời Ủy ban nhân dân tỉnh An
47
Giang cũng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan tích cực phối hợp nhịp nhàng với
Sở Nội Vụ trong suốt quá trình triển khai chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM
của Tỉnh An Giang nhằm giúp cho công tác ĐTBD CBCC đúng đối tượng, đúng
với quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ nhằm đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ của từng cơ
quan, đơn vị.
* Những tồn tại hạn chế trong việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
tại các CQCM thuộc tỉnh An Giang
Mặc dù công tác ĐTBD CBCC tại các CQCM của Tỉnh An Giang đã đạt
được một số kết quả nhất định góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nâng cao hiệu quả thực thi công vụ cho các CQCM của tỉnh song bên cạnh đó thì
công tác ĐTBD CBCC đối với các CQCM của tỉnh An Giang vẫn còn một số hạn
chế, bất cập cần phải được điều chỉnh và khắc phục đó là:
- Trong công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC
+ Công tác tham mưu xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC của tỉnh chưa được chặt chẽ, một số nội dung đào tạo chưa sát với
thực thế, chưa được nghiên cứu kỹ đã được đưa vào áp dụng dẫn đến quá trình triển
khai chậm, khó thực hiện, kết quả không được cao; phân bổ thời gian tổ chức các
lớp ĐTBD vào những giai đoạn cuối năm do công việc của CBCC tăng lên vì vậy
việc đảm bảo CBCC tham gia học đầy đủ là một việc khó khăn.
+ Tại một số cơ quan, đơn vị đội ngũ CBCC vẫn còn yếu về khả năng tổ
chức triển khai thực hiện chính sách, công tác xây dựng lập kế hoạch ĐTBD chưa
được quan tâm đúng mức, dẫn đến CBCC tham gia các lớp ĐTBD còn mang tính tự
phát, chưa phù hợp với kế hoạch và chủ trương của đơn vị. Tại một số cơ quan, đơn
vị công tác quy hoạch chưa được thực hiện chặt chẽ nên có tình trạng chuyên ngành
ĐTBD chưa gắn liền với vị trí việc làm dẫn tới không đáp ứng được một số yêu cầu
về trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ. Nguồn ngân sách của tỉnh giành cho công tác
ĐTBD còn hạn chế nên số lượng CBCC được cử đi ĐTBD chưa thật sự nhiều.
- Về công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách
Công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung và yêu cầu của chính sách
48
ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh đôi khi chưa đầy đủ, rõ ràng và kịp
thời tới những đối tượng liên quan dẫn đến hiểu sai. Các văn bản hướng dẫn nhiều
khi không thật sự rõ ràng, thống nhất.
- Trong công tác phân công, phối hợp thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
+ Cơ chế phối hợp giữa các đơn vị cử công chức tham gia ĐTBD và các đơn
vị thực hiện nhiệm vụ ĐTBD chưa chặt chẽ, đặc biệt trong việc chia sẻ, trao đổi,
công khai thông tin, nhu cầu thực tế của mỗi cơ quan, đơn vị.
+ Vẫn còn một số cơ sở ĐTBD chưa xây dựng một cách khoa học các
chương trình ĐTBD, nội dung chương trình ĐTBD chưa sát so với tình hình thực
tế, chưa chú trọng quan tâm những kỹ năng đáp ứng chuyên môn nghiệp vụ theo vị
trí việc làm, còn xảy ra hiện tượng trùng lặp các giữa chuyên đề, các khóa học khiến
cho đối tượng tham gia ĐTBD không tiếp thu được kiến thức mới, thậm chí gây
nhàm chán khi tham gia chương trình ĐTBD. Ngoài những giảng viên được mời từ
các trường thì đại đa số giảng viên, báo cáo viên của tỉnh là những người có kiến
thức thực tiễn phong phú, chuyên sâu, song kỹ năng giảng dạy, thuyết trình và khả
năng sư phạm vẫn bộc lộ những tồn tại, hạn chế.
+ Các CQCM thuộc UBND tỉnh:
Một số cơ quan chưa chú trọng công tác ĐTBD đội ngũ CBCC nên gây khó
khăn cho CBCC trong quá trình tham gia ĐTBD. Trong thời gian tham gia ĐTBD,
một số CBCC vẫn phải đảm bảo đầy đủ các công việc phụ trách tại cơ quan làm ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả của quá trình ĐTBD do không có đủ thời gian.
Phân công bố trí CBCC sau đào tạo thường không có gì khác trước khi được
cử đào tạo cho nên thiếu cơ sở thực tiễn để đánh giá hiệu quả sau đào tạo. Mặt khác,
công tác đánh giá CBCC hằng năm còn mang tính hình thức, do đó khó đánh giá
được thực chất mức độ cải thiện về mặt kiến thức, kỹ năng phục vụ công tác của
CBCC sau khi hoàn thành các khóa ĐTBD.
+ CBCC được cử ĐTBD: Một bộ phận không nhỏ CBCC ngại đi ĐTBD,
chưa chủ động nâng cao trình độ, thậm chí đùn đẩy hoặc được cử đi ĐTBD thì việc
cập nhật kiến thức còn mang tính hình thức, học cho có, qua loa đại khái, tham gia
học tập chỉ chú trọng bằng cấp để đủ điều kiện nâng lương, chuyển ngạch. Do đó,
49
chất lượng ĐTBD chưa đảm bảo.
- Về công tác đôn đốc thực hiện chính sách
Mặc dù công tác kiểm tra, giám sát được tỉnh chú trọng song tại một số đơn
vị công tác này chưa đi vào chiều sâu và chưa được thực hiện thường xuyên, việc
kiểm tra, giám sát chủ yếu thực hiện theo định kỳ khá dài (nửa năm, 1 năm) mà
chưa tiến hành thường xuyên liên tục
- Về công tác đánh gía, tổng kết rút kinh nghiệm
Công tác tổng kết rút kinh nghiệm về quản lý công tác ĐTBD của tỉnh chủ
yếu vẫn căn cứ vào báo cáo năm, chưa có báo cáo tháng, quý... việc tổ chức hội
nghị, họp mặt các ngành liên quan để trao đổi, đánh giá, còn hạn chế chưa được
thực hiện thường xuyên nên chưa đánh giá bao quát cũng như chiều sâu của thực
hiện chính sách. Đặc biệt, Tỉnh chưa tổ chức các buổi hội thảo dành cho các CBCC
đã tham gia ĐTBD để lắng nghe ý kiến, đánh giá của chính những người đã được
thụ hưởng chính sách. Đây là một vấn đề đáng quan tâm điều chỉnh vì chính họ là
những người đánh giá việc thực hiện chính sách một cách khách quan nhất.
- Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế
+ Nhận thức về ĐTBD của các cấp lãnh đạo chưa đầy đủ, chưa coi đây là
giải pháp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC. Chính vì vậy
mà công tác tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND
tỉnh An Giang trong thời gian qua vẫn mang tính chất tháo gỡ những tồn tại bất cập,
chứ chưa có tầm nhìn chiến lược lâu dài.
+ Tư duy về ĐTBD công chức các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang trong
những năm qua chưa phản ánh đầy đủ bản chất của hoạt động ĐTBD CBCC. Bản
chất của quá trình này phải là quá trình phát triển năng lực cho CBCC. Vì vậy, việc
bồi dưỡng phải xác định những khiếm khuyết trong năng lực của CBCC để “lấp
đầy”, đồng thời tìm ra những năng lực cần có của CBCC để xây dựng nội dung,
chương trình cho các khóa ĐTBD, chuẩn bị năng lực cho công chức trước những
biến động của môi trường quản lý. Chính vì tư duy ĐTBD chưa gắn với phát triển
năng lực của CBCC nên việc thiết kế nội dung chương trình, phương pháp ĐTBD
chưa sát với yêu cầu, chưa hướng đến việc nâng cao năng lực của công chức đáp
50
ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra của tỉnh An Giang; nội dung ĐTBD hiện nay chủ yếu
theo chuyên đề mà chưa chú trọng đến những kiến thức và kỹ năng để CBCC có thể
thực hiện tốt hơn công việc được giao.
+ Công tác đánh giá hiệu quả ĐTBD chưa được các cơ quan quản lý, sử
dụng công chức và cơ sở đào tạo quan tâm đúng mức. Các CQCM chưa tổ chức
đánh giá hiệu quả công tác ĐTBD đối với CBCC thông qua việc so sánh chất lượng,
hiệu quả công việc giữa trước và sau khi CBCC tham gia các khóa ĐTBD.
+ Thanh tra, kiểm tra, đánh giá công tác ĐTBD đối với CBCC các CQCM
thuộc UBND tỉnh An Giang còn hạn chế, chưa được quan tâm thực hiện đúng mức.
Từ đó, công tác ĐTBD thiếu tính khoa học, hệ thống, hiệu qủa thấp.
2.2.2. Những vấn đề đặt ra
Kết quả nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CBCC các
CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang giai đoạn 2015-2019, cho thấy công tác tổ chức
thực hiện chính sách cơ bản đảm bảo quy trình thực hiện chính sách, tuân thủ các
bước từ xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; phổ biến, tuyên truyền
chính sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; đôn đốc thực hiện chính sách
đến đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính
sách cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định, thể hiện qua các vấn đề:
* Vấn đề thứ nhất, các bước thực hiện chính sách chưa thật sự khoa học
đã ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách, như:
- Thứ nhất là việc xây dựng kế hoạch ĐTBD CBCC vẫn chưa được quan tâm
đúng mức; một số kế hoạch triển khai chưa cụ thể, rõ ràng nên gây khó khăn cho
các cơ quan trong quá trình thực hiện.
- Thứ hai là công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách ĐTBD CBCC tại một
số CQCM chưa được thực hiện bài bản, nghiêm túc, dẫn tới tình trạng một số
CBCC được cử đi ĐTBD không đúng với ví trí việc làm.
- Thứ ba là khâu đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm chưa được quan tâm
đúng mức. Hàng năm tỉnh An Giang chưa tổ chức các buổi hội nghị tổng kết về
công tác ĐTBD CBCC để đánh giá những mặt thành công và hạn chế, trên cơ sở đó
có những điều chỉnh cho phù hợp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác
51
ĐTBD CBCC tại các CQCM.
* Vấn đề thứ hai, năng lực thực hiện chính sách ĐTBD của CBCC trong
bộ máy quản lý nhà nước
Năng lực của một số cán bộ thực thi chính sách vẫn còn hạn chế nên việc lập
kế hoạch về nhu cầu ĐTBD CBCC chưa sát với tình hình thực tế của từng nhóm
ngành nghề, thiếu phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu không cụ thể, rõ ràng đối với
từng ngành, lĩnh vực quan trọng của tỉnh. Dù đã hình thành được đầu mối quản lý
tập trung công tác ĐTBD nhưng quá trình thực hiện còn bị động, lúng túng chưa
làm chủ các tác động ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chính sách nên tham mưu
thực hiện chưa chặt chẽ, chưa toàn diện, hiệu quả không cao. Một bộ phận cán bộ
áp dụng kế hoạch thực hiện chính sách của cấp trên một cách máy móc, rập khuôn,
chưa có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với tình hình ở cơ quan, đơn vị
mình.
+ Việc quy hoạch đội ngũ CBCC chậm nên gây ra tình trạng vừa thừa lại vừa
thiếu, lại không đồng bộ, chậm khắc phục nên thiếu hụt cả về lượng và chất.
+ Tại một số CQCM việc đánh giá và quy hoạch CBCC để ĐTBD chưa sát
với tình hình thực tế gây lãng phí nguồn nhân lực và kinh phí của địa phương.
- Việc xây dựng kế hoạch ĐTBD CBCC thuộc các CQCM của tỉnh hiện nay
do Sở Nội vụ thực hiện dựa trên kết quả tổng hợp từ các CQCM của tỉnh. Song
chính các cơ quan chuyên môn hay Sở Nội vụ cũng chưa tổ chức điều tra, khảo sát
nhu cầu ĐTBD của đội ngũ CBCC.
- Trình độ tổ chức quản lý ĐTBD có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu
quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Không có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi
với cơ chế quản lý thích hợp, trình độ tổ chức quản lý, điều hành quá trình đạo tạo
theo kịp với yêu cầu thực tiễn đổi mới quản lý đào tạo, bồi dưỡng hiện nay thì
không tạo ra môi trường, điều kiện phục vụ tốt các hoạt động giảng dạy, học tập,
sinh hoạt có chất lượng; không tạo được môi trường sư phạm thuận lợi để giáo dục,
rèn luyện cán bộ, công chức được.
* Vấn đề thứ ba, điều kiện vật chất trong quá trình thực hiện chính sách
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị giữ vai trò quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi
52
cho việc tổ chức thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi
dưỡng CBCC. Nhưng cho đến nay, cơ sở đào tạo chính của tỉnh là Trường Chính trị
Tôn Đức Thắng nhưng cơ sở vật chất về phòng ở, lớp học, thư viện, trang thiết bị của
Trường Chính trị Tôn Đức Thắng còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ. Việc xây dựng cơ
sở vật chất, đổi mới trang thiết bị đạt tiêu chuẩn hiện đại là cần thiết để đáp ứng yêu
cầu nghiên cứu, giảng dạy, học tập và tổ chức quản lý của Trường hiện nay.
- Việc quản lý, sử dụng nguồn kinh phí ĐTBD giữ vai trò quan trọng bởi trên
thực tế nguồn kinh phí sử dụng cho công tác ĐTBD CBCC của tỉnh An Giang không
cao nên việc sử dụng như thế nào để đạt hiệu quả, đúng mục đích và tránh lãng phí là yêu
cầu cần thiết. Theo Thông tư 36/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ Tài chính về
việc hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí dành cho công tác
ĐTBD CBCC từ ngân sách nhà nước so với mức chi bảo đảm thực tế vẫn còn nhiều khó
khăn, nhất là chi phí đi lại (công tác phí), ăn uống, lưu trú… so với mức sống hiện nay thì
chưa phù hợp. Chính điều này cũng gây tâm lý e ngại cho một bộ phận CBCC có nhu
cầu được đi ĐTBD nâng cao trình độ chuyên môn.
* Vấn đề thứ tư, yếu tố quyết định sự thành bại của chính sách là do sự
đồng tình ủng hộ của CBCC tại các CQCM
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách ĐTBD tại một số cơ quan còn
hạn chế dẫn tới tình trạng một số CBCC chưa hiểu rõ ý nghĩa của việc ĐTBD nên
không muốn tham gia vào các khóa ĐTBD ngắn hạn và dài hạn để nâng cao trình
độ chuyên môn.
- Động cơ, thái độ, ý thức, trách nhiệm của CBCC được cử đi ĐTBD là nền
tảng bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Động
cơ, thái độ, ý thức học tập thể hiện ở sự tự giác, tích cực, sáng tạo trong học tập.
Người cán bộ, công chức đi học phải có động cơ và thái độ học tập đúng đắn như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Ngược lại, người
không muốn học hay học cho có lấy lệ, rập khuôn máy móc, không tự giác nghiên
cứu, tìm tòi cái mới, chỉ cốt lấy được cài bằng tốt nghiệp, giấy chứng nhận cho đủ
chuẩn này, chuẩn nọ thì sẽ không đạt được kết quả tốt.
53
- Môi trường, điều kiện công tác thuận lợi đảm bảo cho cán bộ, công chức
sau đào tạo được công tác và phát huy năng lực, hoàn thành nhiệm vụ cao hơn, hiệu
quả hơn. Việc bố trí sử dụng cán bộ không phù hợp, môi trường điều kiện công tác
không thuận lợi sẽ không phát huy hết trình độ, năng lực, kiến thức, kỹ năng,
nghiệp vụ chuyên môn được tích qua quá trình đào tạo của cán bộ - tức không sử
dụng và phát huy hết chất lượng đào tạo, bồi dưỡng là khiếm dụng, không hiệu quả.
Thực tế việc bố trí CBCC sau ĐTBD nhìn chung vẫn chưa thật sự hợp lí, nhiều
CBCC sau khi ĐTBD được bố trí công việc không phù hợp với chuyên môn đã
được ĐTBD; nguyên nhân của thực trạng này là do công tác ĐTBD CBCC vẫn
chưa được tiến hành một cách cụ thể, không theo định hướng mà chủ yếu là mang ý
chí chủ quan của nhà quản lý, dẫn đến kiến thức, chuyên môn được ĐTBD không
phù hợp với yêu cầu của công việc mà tổ chức phân công cho họ.
* Vấn đề thứ năm, xu thế, yêu cầu phát triển của đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Đội ngũ CBCC tại các CQCM chính là những người vận hành bộ máy hành
chính của Nhà nước. Vì vậy muốn có nền hành chính công vụ vững mạnh, đáp ứng
được nhu cầu phát triển của đất nước thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong đó chú trọng đến công tác ĐTBD CBCC tại các CQCM giữ vai trò quan
trọng. Với xu hướng hiện nay thì đội ngũ CBCC phải có kiến thức rộng, tầm nhìn
dài hạn đáp ứng yêu cầu của tổ chức và yêu cầu của từng vị trí, chức danh, nhiệm
vụ công tác được giao. Trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần phải tiếp cận được các
chiến lược, kế hoạch ĐTBD, phát triển công chức của các nước tiên tiến, tiếp thu
tinh hoa tri thức nhân loại. Sau quá trình ĐTBD, đội ngũ CBCC sẽ được trang bị
thêm nhiều kiến thức và kỹ năng để nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới,
nâng cao chất lượng hoạch định và thực thi các chính sách của Nhà nước, đáp ứng
54
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của đất nước.
* Vấn đề thứ sáu, công tác phối hợp quản lý giữa cơ quan quản lý công
chức, cơ quan sử dụng công chức và cơ sở đào tạo chưa chặt chẽ.
Công tác phối hợp giữa đơn vị có CBCC đi ĐTBD và các cơ sở ĐTBD chưa
được chú trọng nên chưa kiểm soát tốt chất lượng ĐTBD CBCC. Đồng thời, việc
đánh giá công chức sau ĐTBD và tác động của ĐTBD đến năng lực công chức để
thu thập thông tin phản hồi về quá trình ĐTBD chưa được quan tâm đúng mức.
Tiểu kết chương 2
Có thể nói, việc triển khai thực hiện các chính sách ĐTBD CBCC các
CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang trong thời gian qua đã được thực hiện khá toàn
diện. Để thực hiện chính sách, Tỉnh ủy, UBND tỉnh An Giang cùng với các cấp, các
ban ngành quán triệt chủ trương từ Trung ương, ban hành nhiều chủ trương, chính
sách phù hợp nhằm cụ thể hóa các văn bản pháp quy từ trung ương, nhằm áp dụng
chủ trương chính sách phù hợp với thực tiễn địa phương.
Dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh An Giang, các cơ quan, ban ngành của tỉnh An
Giang đã phối hợp thực hiện nghiêm túc các kế hoạch do UBND tỉnh đề ra. Các khâu
trong quá trình thực thi chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh được
thực hiện tương đối chặt chẽ, bám sát mục tiêu kế hoạch. Đa số cán bộ tham gia các
khóa ĐTBD được bố trí làm việc theo đúng chuyên môn được đào tạo. Một số cán bộ
đã khẳng định năng lực của bản thân trong quá trình làm việc tại đơn vị.
Kết quả của việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND
tỉnh An Giang đã góp phần nâng cao phẩm chất, năng lực và kỹ năng cho đội ngũ
CBCC nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của công việc trong tình hình mới.
Mặc dù vậy, chúng ta vẫn thừa nhận còn không ít những hạn chế chủ quan và
khách quan liên quan đến công tác triển khai thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang. Việc đúc kết các ưu điểm, hạn chế và đưa
ra những vấn đề cần giải quyết chính là cơ sở để tác giả luận văn đề xuất những giải
pháp mang tính chất căn bản, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình thực
55
hiện chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang.
Chương 3
MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC THUỘC CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG ĐẾN NĂM 2025
3.1. Cơ sở đề xuất
Thời gian qua việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM trên
địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả nhất định tuy nhiên vẫn còn những tồn tại,
hạn chế. Kết quả thực hiện cho thấy việc xác định mục tiêu, tiêu chuẩn và đề ra các
biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC nhà nước nói chung, CBCC tại các
CQCM nói riêng, cần đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính trong những điều kiện
và hoàn cảnh cụ thể. Theo đó, để nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC chuyên
nghiệp, hiện đại ngoài việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước thì việc căn cứ vào thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh, vào
yêu cầu nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh là điều tất yếu và quan trọng.
Xác định vấn đề xây dựng đội ngũ CBCC tại các CQCM là một trong bốn
nội dung quan trọng của công cuộc cải cách hành chính hiện nay; đồng thời là điều
kiện tiên quyết để thực hiện thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ X đề ra quan điểm phát triển: “Xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với Nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa
quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển của Tỉnh”.
Xác định việc “Nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ; cải thiện
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị” là một trong ba khâu đột phá. Với các
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:
Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển của Tỉnh. Tiếp tục triển khai nội dung, kế hoạch đào tạo theo
56
Chương trình phát triển nguồn nhân lực của Tỉnh đến năm 2025; tập trung phát triển
nhân lực cạnh tranh phục vụ thị trường lao động trong và ngoài nước.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tạo môi trường thuận lợi để cán bộ
phát huy năng lực, sở trường, dám nghĩ, dám làm, đổi mới sáng tạo và cống hiến có
hiệu quả. Phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng những đảng viên ưu tú, có triển vọng, chuẩn
bị nguồn cán bộ chủ chốt các cấp; khắc phục tình trạng hụt hẫng cán bộ, nhất là cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
3.2. Mục tiêu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang giai đoạn 2020-2025
3.2.1. Mục tiêu chung
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng,
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp có đủ phẩm chất, trình
độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất
nước và hội nhập quốc tế.
3.2.2. Các mục tiêu cụ thể
a) Xây dựng hệ thống thể chế thống nhất, đồng bộ cho hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức phù hợp với điều kiện của Việt Nam và yêu cầu hội nhập
quốc tế; hệ thống chính sách khuyến khích cán bộ, công chức học tập và tự học để
không ngừng nâng cao trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
b) Xây dựng hệ thống quản lý cũng như cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức gọn nhẹ, khoa học, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đào tạo, bồi
dưỡng.
c) Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của cán bộ, công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
- Tập trung bồi dưỡng đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện quy định về trình độ lý
luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức quốc phòng - an ninh, tin học,
ngoại ngữ. Mục tiêu đến năm 2022, 100% cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu tiêu
chuẩn quy định. 100% CBCC hoàn thành xong các khóa ĐTBD về chuyên môn và
chính trị trước khi bổ nhiệm ngạch, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý.
57
- Mỗi năm UBND tỉnh tổ chức được ít nhất từ 1 đến 2 lớp để bồi dưỡng, cập
nhật kiến thức về pháp luật và đạo đức công vụ cho CBCC. Hàng năm, mỗi cơ quan
chuyên môn mở được ít nhất 01 lớp ĐTBD nâng cao kiến thức về chuyên môn theo
tình hình thực tế cho CBCC của cơ quan nâng cao năng lực thực thi công vụ.
3.3. Phương hướng
Bên cạnh mục tiêu về chính sách ĐTBD cán bộ, công chức giai đoạn 2020 -
2025, xác định các công cụ để nâng cao chất lượng CBCC trong thời gian tới. Trong
đó sử dụng đa dạng các giải pháp để tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
bảo đảm theo mục tiêu của Chính phủ, tỉnh An Giang với các phương hướng:
- Đến năm 2022, đội ngũ cán bộ, công chức các CQCM thuộc UBND tỉnh
An Giang đảm bảo được số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng
lực thực thi công vụ phục vụ người dân.
- Tạo điều kiện cho CBCC tham gia các khóa ĐTBD ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn để xây dựng đội ngũ CBCC tại các CQCM có đủ phẩm chất đạo đức tốt, có
bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy thực thi công vụ
thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, hiệu quả.
- Rà soát, bổ sung các quy định về quy hoạch chức danh, tiêu chuẩn nghiệp
vụ của công chức kể cả công chức lãnh đạo
- Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức gắn với kế
hoạch, quy hoạch đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của các CQCM thuộc UBND tỉnh An
Giang.
3.4. Giải pháp
3.4.1. Nhóm giải pháp về lập kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng
Lập kế hoạch là khâu đầu tiên trong các bước thực hiện chính sách và cũng
là khâu khá quan trọng giúp định hướng cho các hoạt động thực hiện chính sách.
Lập kế hoạch không tốt sẽ dẫn đến nhiều tình huống phát sinh trong quá trình thực
hiện chính sách đòi hỏi phải điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện.
Trong việc lập kế hoạch chính sách, cần xác định rõ mục tiêu của kế hoạch.
Bất cứ một nội dung hay hoạt động nào cũng phải đều hướng tới mục tiêu chung,
58
nếu không sẽ dẫn đến chệch hướng, không đạt được kết quả hư mong muốn.
Trong Kế hoạch, cần xác định ai, cơ quan nào là người thực hiện chính tránh
chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn và làm hạn chế hiệu quả thực hiện
chính sách. Cơ chế phối hợp giữa các cấp và giữa các cơ quan đồng cấp là điều cần
phải được đặc biệt quan tâm để tạo sự chặt chẽ trong phối hợp, chia sẻ, công khai
thông tin.
Kế hoạch thực hiện chính sách ĐTBD phải đánh giá được những thuận lợi và
khó khăn trong thực hiện chính sách; đồng thời dự báo những vấn đề có thể xảy ra
trong quá trình thực hiện để các bên cân nhắc thực hiện.
Năng lực của đội ngũ CBCC thực hiện chính sách ĐTBD CBCC là một trong
những yếu tố quyết định đến hiệu quả thực thi chính sách. Công chức có năng lực
tốt, thực hiện việc tham mưu đề ra kế hoạch thực hiện cụ thể bao gồm quy hoạch
đối tượng, nguồn vật lực, đề xuất cơ sở đào tạo phù hợp, thời gian thực hiện, kế
hoạch kiểm tra, đôn đốc, giám sát thực hiện, xây dựng nội quy, quy chế cho từng
khóa ĐTBD. Người lập kế hoạch cần có trình độ chuyên môn, có năng lực, tầm
nhìn của chính sách, hạn chế rủi ro của chính sách, phát huy điểm mạnh, điểm yếu
của từng cá nhân, tổ chức, đơn vị, không xảy ra tình trạng trùng chéo về nhiệm vụ
được giao và không rõ trách nhiệm. Bên cạnh đó, năng lực của CBCC lãnh đạo,
quản lý trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, đưa chính sách áp
dụng vào thực tiễn là rất quan trọng vì vậy cần chú trọng công tác nâng cao năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang.
Quy trình quy hoạch CBCC thực hiện đồng bộ các chủ trương, biện pháp để
tạo nguồn, xây dựng đội ngũ CBCC trên cơ sở dự báo nhu cầu CBCC, nhằm đảm
bảo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong một thời gian nhất định. Thực hiện tốt nội
dung quy hoạch sẽ chủ động hơn trong công tác xây dựng kế hoạch ĐTBD. Do vậy,
xây dựng quy hoạch đội ngũ CBCC tại các CQCM phải gắn liền với kế hoạch
ĐTBD. Có quy hoạch, kế hoạch thì việc ĐTBD CBCC tại các CQCM sẽ khắc phục
được tình trạng phân tán, tự phát, tùy tiện, mới có khả năng khắc phục sự lãng phí
về sức người, sức của và thời gian của CBCC. Ví dụ như: Tỉnh ủy An Giang ban
59
hành Qui định số 1118-QĐ/TU năm 2019 quy định tiêu chuẩn chức danh cán bộ
lãnh đạo, quản lý, trong đó yêu cầu để được bổ nhiệm Phó trưởng phòng và tương
đương phải có trình độ Trung cấp LLCT trở lên. Nhưng thực tế, vẫn tồn tại số cán
bộ, công của tỉnh người đương chức và người trong quy hoạch chức danh Phó
trưởng phòng và tương đương đều chưa đáp ứng được. Điều này đã ảnh hưởng đến
công tác cán bộ, CBCC có tâm lý dao động, hoang mang, nhiều CBCC tự tìm lớp
học bổ sung trình độ TC LLCT để hoàn thiệu tiêu chuẩn khi sắp đến thời hạn bổ
nhiệm lại. Vì vậy công tác quy hoạch CBCC cần phải có lộ trình và phải gắn với
công tác ĐTBD để đảm bảo sự ổn định và phát triển chung.
Cần quan tâm đến hoạt động điều tra, khảo sát nhu cầu của từng vị trí công
việc của CBCC để lựa chọn những nội dung kiến thức, kỹ năng cần thiết để tổ chức
biên soạn nội dung tài liệu ĐTBD cho từng đối tượng CBCC ở những vị trí, chức
danh khác nhau. Nội dung, chương trình ĐTBD phải đổi mới theo hướng cập nhật
hóa, chú trọng đổi mới nâng cao kỹ năng, phẩm chất đạo đức; sửa đổi, bổ sung ngay
các nội dung, chương trình có tính trùng lặp, không sát với tình hình thực tế, gây
lãng phí các nguồn lực trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.
Giảng viên có vai trò quyết định đối với chất lượng ĐTBD CBCC, do đó cần
có đội ngũ giảng viên giỏi, chuyên sâu, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có
phương pháp giảng dạy phù hợp, giàu kinh nghiệm nghiên cứu thực tiễn để đào tạo
được một đội ngũ CBCC tại các CQCM có đủ phẩm chất, năng lực, thực hiện công
cuộc cải cách hành chính, nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Theo đó, việc lựa chọn giảng viên là sự cần thiết, đặc biệt là những giảng viên đã
từng làm việc thực tế, giữ những cương vị khác nhau trong hệ thống các cơ quan
hành chính. Đó chính là những người có kinh nghiệm thực tiễn thì việc truyền đạt
kiến thức cũng dễ dàng và đạt hiệu quả cao hơn; bên cạnh đó, có kế hoạch tổ chức
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ CBCC, viên chức là giảng viên
thỉnh giảng đương chức và CBCC, viên chức là nguồn giảng viên thỉnh giảng để
trang bị kiến thức và kĩ năng nghiệp vụ sư phạm cơ bản góp phần nâng cao năng lực
sư phạm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục trong bối cảnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
60
Cơ sở vật chất là một trong những yêu cầu quan trọng để vừa đổi mới
phương pháp giảng dạy, học tập và nghiên cứu của thầy và trò, vừa góp phần đổi
mới phương pháp quản lý học viên. Cần đầu tư, phát triển cơ sở vật chất Trường
đào tạo của tỉnh bảo đảm các phòng học, phòng thảo luận đầy đủ tiện nghi và thuận
lợi trong việc thực hiện phương pháp giảng dạy tích cực; phòng nghỉ của học viên
đủ điều kiện sinh hoạt và nghiên cứu cá nhân; hiện đại hóa thư viện giúp giảng viên
và học viên sưu tầm thông tin dễ dàng, nhanh chóng; phủ sóng để truy cập các
thông tin cần thiết trên mạng nhằm phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
3.4.2. Nhóm giải pháp về phổ biến, tuyên truyền trong thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng
Đội ngũ CBCC trong quá trình phổ biến, tuyên truyền chính sách phải hiểu
rõ, nắm chắc mục tiêu, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi của chính
sách. Dựa vào đó CBCC có thể lựa chọn các hình thức tuyên truyền, phổ biến chính
sách phù hợp với từng cơ quan đơn vị, phù hợp với từng loại đối tượng như: mở các
lớp dành cho lãnh đạo cấp phòng và tương đương thì không chỉ CBCC là lãnh đạo
cấp phòng và tương đương theo học mà còn có cả CBCC trong quy hoạch chức
danh lãnh đạo cấp phòng và tương đương tham gia. Thông qua lớp học, học viên
được trang bị kiến thức lãnh đạo, chỉ đạo, kỹ năng làm việc, đào tạo cán bộ
nguồn,...
Thực tế, nhiều cán bộ, công chức các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân
dân tỉnh còn thiếu thông tin hoặc nắm thông tin chưa đầy đủ, kịp thời về chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân
dân tỉnh dẫn đến bị đọng hoặc lỡ cơ hội trong việc tham gia thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Do vậy, cần tăng cường công tác phổ biến,
tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cơ quan chuyên
môn của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đảm bảo cho đối tượng tham gia và thụ
hưởng chính sách nắm và hiểu để thực hiện; để làm tốt điều này đòi hỏi công tác
phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải gắn
với việc thực hiện công khai, minh bạch tại các cơ quan chuyên môn của Ủy ban
nhân dân tỉnh An Giang và có cơ chế giám sát, kiểm tra của cơ quan thực hiện chức
61
năng quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh.
3.4.3. Nhóm giải pháp về phân công, phối hợp trong thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng
Quá trình tổ chức, điều hành có thành công hay không phần lớn dựa vào việc
phân công, phối hợp thực hiện chính sách. Khi phân công, phối hợp thực hiện chính
sách một cách khoa học, chặt chẽ và hợp lý thì chính sách sẽ đạt hiệu quả cao. Điều
đó được thể hiện trong việc phân công quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho
từng tổ chức, cá nhân, đơn vị có liên quan tham gia tổ chức thực hiện chính sách
ĐTBD; xác định rõ vai trò của từng đối tượng tham gia thực hiện chính sách. Qua
việc phân công, phối hợp tổ chức triển khai thực hiện chính sách ĐTBD sẽ thấy
được những phần đạt được và hạn chế của đối tượng tham gia, từ đó có những trao
đổi, thống nhất điều chỉnh để tổ chức triển khai thực hiện chính sách đạt được mục
tiêu chung.
Kết quả triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cần có Quy chế phối
hợp quy định rõ ràng, cụ thể nội dung, nhiệm vụ, thời gian phải thực hiện của từng
đối tượng tham gia, cũng như quy định nội dung phải phối hợp thực hiện giữa các
đối tượng. Từ đó, các đối tượng tham gia thực hiện chính sách sẽ chủ động và phối
hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, giúp việc thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cơ quan chuyên môn của Ủy
ban nhân dân tỉnh An Giang hiệu được quả hơn.
3.4.4. Nhóm giải pháp về đôn đốc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
Cần theo dõi, thu thập thông tin chính xác, kịp thời phản ánh quá trình tổ
chức thực hiện chính sách từ các bên tham gia chính sách như: học viên, cơ sở đào
tạo, các cơ quan, đơn vị có CBCC tham gia ĐTBD, ... Việc kiểm tra, đôn đốc có thể
được thể hiện ở chỗ quản lý công tác học viên, có văn bản gửi về cơ quan đơn vị nơi
học viên theo học nếu nghỉ quá số buổi tham dự lớp học cho phép. Thực hiện việc
kiểm tra các chương trình, chuyên đề đào tạo từ các cơ sở đào tạo xem có phù hợp
với đối tượng tham gia. Lấy ý kiến học viên về các chương trình đào tạo, về giảng
viên sau mỗi khóa ĐTBD. Và đưa ra những giải pháp chấn chỉnh kịp thời để nâng
62
cao hiệu quả thực hiện chính sách.
Đối với mỗi chính sách được đưa ra, cần phải xây dựng được cơ chế giám sát
của các bên: thanh tra Sở, Sở Tài chính, Sở Nội vụ, các sở, ban, ngành và giám sát
cộng đồng để đảm bảo các chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh
được thực hiện đúng đối tượng và thực sự hiệu quả.
Đối với các chính sách được đưa ra, không nên chủ quan duy ý chí mà phải
dựa trên ý kiến từ các ngành liên quan, các bộ phận tham mưu và trực tiếp từ CBCC
được cử ĐTBD trước khi chính sách được ban hành.
Các chính sách trợ cấp ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An
Giang hiện nay có thể gắn với các khoản chi tài chính rất lớn, điều này dễ dẫn đến
những vi phạm về tài chính, vì vậy nên thực hiện việc kiểm tra giám sát một cách
thường xuyên, liên tục, kết hợp kiểm tra đột xuất với kiểm tra về mặt chuyên môn,
kiểm tra tài chính giữa kỳ, cuối kỳ để phát hiện những bất thường, sai sót và kịp
thời chấn chỉnh.
3.4.5. Nhóm giải pháp về đánh gía, tổng kết rút kinh nghiệm
Công tác ĐTBD cần được đánh giá thường xuyên. Các cơ sở đào tạo nên tổ
chức đánh giá ngay, trong và sau khi kết thúc quá trình ĐTBD.
Kiểm tra kiến thức là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước
đối với cán bộ, công chức, vì kiểm tra kiến thức sẽ đánh giá chuẩn xác kết quả, hiệu
quả hoạt động của cán bộ, công chức trong việc thực thi, thừa hành nhiệm vụ. Thực
hiện việc kiểm tra kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức
thông qua các hội thi, kiểm tra trực tiếp... Kết quả kiểm tra kiến thức là căn cứ để
nhận xét, đánh giá, bố trí, sử dụng, phân công nhiệm vụ cho công chức. Do vậy,
thực hiện việc kiểm tra kiến thức sau khi ĐTBD là giải pháp thúc đẩy cán bộ, công
chức tích cực nghiên cứu, học tập và nâng cao trình độ. Đơn vị tổ chức đánh giá kết
quả sau khi ĐTBD để rút ra những mặt đạt được để tiếp tục phát huy; đồng thời,
thấy được những nhược điểm của công tác ĐTBD để tìm nguyên nhân khắc phục,
rút kinh nghiệm cho công tác ĐTBD lần sau.
Việc đánh giá rút kinh nghiệm phải được thực hiện thường xuyên từ khâu
đầu tiên cho đến khâu cuối cùng. Công tác đánh giá rút kinh nghiệm cần được tiến
hành bằng nhiều hình thức như tổng hợp báo cáo số liệu từ các CQCM, các cơ sở
63
đào tạo; kiểm tra thực tiễn và sổ sách thu chi; ghi nhận ý kiến từ giảng viên, học
viên – những người thụ hưởng trực tiếp. Khi ban hành chính sách, cùng với kế
hoạch thực thi, Sở Nội vụ cần quy định rõ chế độ báo cáo cụ thể để các bộ phận,
đơn vị có liên quan có kế hoạch chuẩn bị thu thập số liệu, dự liệu một cách chi tiết.
Đối với những chính sách lớn, cần thiết phải tổ chức hội nghị sơ, tổng kết để lấy ý
kiến rộng rãi và công bố kết quả thực hiện, đánh giá tác động của chính sách.
Để việc đánh giá một cách công tâm, khách quan, kịp thời phát hiện sai sót,
cần có một đội ngũ chuyên trách hoặc thuê từ các đơn vị đánh giá độc lập. Điều này
giúp hạn chế tiêu cực trong quá trình kiểm tra phát hiện và xử lý lỗi trong quá trình
đưa chính sách vào thực tiễn.
Đối với những chính sách ĐTBD Trung ương hoặc địa phương ban hành
không phù hợp, nên có văn bản kiến nghị sửa đổi, bổ sung điều chỉnh hoặc thậm chí
nên kiên quyết tạm dừng nếu các chính sách này mâu thuẫn với các chính sách hiện
hành và có thể gây hậu quả lãng phí đối với sự phát triển.
3.4.6. Giải pháp về đảm bảo quy trình thực hiện chính sách
Để việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC đạt kết quả cao thì các cấp lãnh
đạo, các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình thực hiện chính sách phải nhận
thức được đầy đủ về vai trò và vị trí của công tác ĐTBD CBCC để từ đó nâng cao
tinh thần, trách nhiệm và thực hiện nghiêm túc tất cả các khâu trong quá trình thực
thi chính sách từ việc lên kế hoạch, phổ biến, tuyên truyền đến việc phân công phối
hợp thực hiện….
Việc nâng cao nhận thức không chỉ đối với riêng với những cán bộ thực thi
chính sách mà còn phải thay đổi cả tư duy, nhận thức của đối tượng thụ hưởng
chính sách. Mỗi CBCC luôn phải xác định tầm quan trọng của công tác ĐTBD để
chủ động sắp xếp thời gian và kinh phí để tham gia vào các khóa ĐTBD. Mỗi
CBCC phải xác định việc tham gia vào các khóa ĐTBD là để nâng cao năng lực cho
bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu của công việc chứ không phải học để có đủ bằng
cấp và cho đẹp hồ sơ.
Việc thực hiện các chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh
An Giang trên thực tế vẫn còn nhiều hạn chế do sai sót trong quy trình thực hiện
chính sách. Vì vậy, để thực hiện chính sách thành công thì việc đảm bảo quy trình là
64
vô cùng cần thiết. Việc đốt cháy giai đoạn, việc thiếu phân công phối hợp hợp lý
hay hạn chế trong khâu rút kinh nghiệm có thể dẫn đến những lỗ hỏng trong thực thi
chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh.
Mỗi chính sách ĐTBD được đưa ra không phải hoàn toàn phù hợp với từng
đơn vị cụ thể. Do đó, việc đánh giá, xem xét qua từng giai đoạn những thuận lợi và
hạn chế trong việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND
tỉnh có thể giúp kịp thời phát hiện những sai sót và điều chính các hoạt động cho
phù hợp.
Mỗi giai đoạn có những khó khăn trở ngại riêng, để khắc phục đòi hỏi người
CBCC phải có khả năng phân tích những khó khăn, bất cập và đề xuất chủ thể ban
hành chính sách thực hiện điều chỉnh, tạo môi trường thuận lợi để chính sách phù
hợp với thực tế mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra. Qua đó CC tham mưu, đề xuất các
biện pháp để duy trì chính sách ĐTBD CBCC bảo đảm duy trì tồn tại và phát huy
mục tiêu, vai trò của chính sách.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở nội dung lý luận về chính sách và thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC ở Chương 1; kết quả phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính
sách ĐTBD CBCC ở Chương 2 và căn cứ vào các mục tiêu, định hướng chính sách
ĐTBD CBCC của Chính phủ, tỉnh An Giang giai đoạn 2020 - 2025 về chất lượng
đội ngũ CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang thời gian tới, Chương 3 đã
đưa ra một số giải pháp đề xuất hoàn thiện chính sách ĐTBD CBCC các CQCM
thuộc UBND tỉnh An Giang trong thời gian tới, bao gồm: Nhóm giải pháp về lập kế
hoạch thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng; Nhóm giải pháp về phổ biến, tuyên
truyền trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng; Nhóm giải pháp về phân
công, phối hợp trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng; Nhóm giải pháp về
đôn đốc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng; Nhóm giải pháp về đánh gía, tổng
kết rút kinh nghiệm; Giải pháp về đảm bảo quy trình thực hiện chính sách.
Với các giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách ĐTBD CBCC các CQCM
thuộc UBND tỉnh An Giang trong những năm tới nêu trên. Hy vọng, sẽ tạo chuyển
65
biến về chất lượng đội ngũ CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang, góp
phần nâng cao phẩm chất, đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực
66
thực thi công vụ của đội ngũ CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang.
KẾT LUẬN
Quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi
để Việt Nam nói chung, tỉnh An Giang nói riêng phát triển trên nhiều lĩnh vực. Tuy
nhiên, quá trình này cũng tạo ra nhiều thách thức không nhỏ trong chiến lược phát triển
của Tỉnh. Để vượt qua những thách thức đó, đưa nền kinh tế, xã hội của Tỉnh ngày
càng đi lên, cần có các giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả, hợp lý tất cả các nguồn
lực trong xã hội, trong đó có việc đào tạo và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực.
Xác định được tầm quan trọng của nguồn nhân lực, tỉnh An Giang đã triển
khai thực hiện các chính sách ĐTBD CBCC ở tất cả các cơ quan ban ngành, đoàn
thể trong đó có các CQCM thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Đề tài “Thực hiện chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh
An Giang” đã được lựa chọn nhằm nghiên cứu hoạt động tổ chức thực hiện chính
sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang và đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện thực hiện chính sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND
tỉnh An Giang trong thời gian tới. Thông qua đó góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận
trong thực hiện chính sách ĐTBD CBCC nói chung và các CQCM thuộc UBND
tỉnh An Giang nói riêng bằng việc phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang thông qua các bước
thực hiện chính sách. Kết quả đánh giá quá trình thực thi chính sách ĐTBD CBCC
các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang đã cho thấy việc thực hiện chính sách tại
tỉnh An Giang được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo công khai, minh bạch. Các bước
cần thiết trong quá trình thực thi chính sách đều được UBND tỉnh chỉ đạo và quán
triệt thực hiện đầy đủ.
Bên cạnh đó, đề tài cũng chỉ ra được một số tồn tại, những nguyên nhân chủ
yếu của những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách. Từ đó tác giả
đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện thực hiện chính sách ĐTBD CBCC các
CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang trong thời gian tới; Những giải pháp cơ bản
nêu ra trong phạm vi đề tài này được lựa chọn và đúc kết trên cơ sở hoạt động thực
67
hiện chính sách ĐTBD CBCC tại các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang trong
nhiều năm qua, nên xét về bản chất có những giải pháp không phải là hoàn toàn
mới. Nhưng có thể coi đây là những giải pháp rất cần thiết đối với công tác ĐTBD
CBCC tại các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang hiện nay. Thực hiện tốt các giải
pháp trên thì công tác ĐTBD CBCC tại các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang sẽ
phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các đơn vị để đạt được
chất lượng và hiệu quả tốt hơn.
Với phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ từ thực tiễn thực hiện chính
sách ĐTBD CBCC các CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang, do hạn chế về thời gian
và khả năng, năng lực nên nghiên cứu chỉ ở mức độ tương đối và trong phạm vi
hẹp, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ của mình với hy vọng công tác tổ
chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC được thực hiện ngày càng tốt hơn, góp
phần xây dựng đội ngũ CBCC vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu ngày càng
68
cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.