ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦM THỊ THANH VÂN
GIÁM SÁT SỰ LƯU HÀNH CỦA VIRUS CÚM A/H5N6
TRÊN ĐÀN GIA CẦM SỐNG TẠI MỘT SỐ CHỢ CỦA
TỈNH QUẢNG NINH VÀ ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP
REAL TIME RT– PCR TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y
Thái Nguyên - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦM THỊ THANH VÂN GIÁM SÁT SỰ LƯU HÀNH CỦA VIRUS CÚM A/H5N6
TRÊN ĐÀN GIA CẦM SỐNG TẠI MỘT SỐ CHỢ CỦA
TỈNH QUẢNG NINH VÀ ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP
REAL TIME RT – PCR TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH
Ngành: Thú y Mã ngành: 8.64.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y Người hướng dẫn khoa học: TS. La Văn Công
Thái Nguyên - 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tôi trực tiếp nghiên cứu dưới sự
hướng dẫn của TS. La Văn Công, và sự giúp đỡ chân tình của các, anh chị, em:
phòng Dịch tễ, Chi cục Thú y vùng II Hải phòng, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh
Quảng Ninh...
Các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn này là hoàn toàn trung thực,
khách quan, được rút ra từ tình hình thực tế tại tỉnh Quảng Ninh trong những năm
qua và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin
trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Trầm Thị Thanh Vân
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt 2 năm học tập, với nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ, hướng dẫn tận tình của nhiều cá nhân và tập thể, đến nay luận văn của tôi đã
được hoàn thành. Nhân dịp này, cho phép tôi được tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân
thành tới: TS. La Văn Công - Khoa chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên.
Người thầy mẫu mực, tận tình và chu đáo đã luôn cổ vũ tinh thần, động viên,
hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận
văn. Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Bộ phận quản lý sau
Đại học, khoa Chăn nuôi - Thú y, các thầy cô giáo đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi
học tập, tiếp thu kiến thức của chương trình học.
Các cán bộ thuộc phòng Dịch tễ, Chi cục Thú y vùng II Hải Phòng. Ban Lãnh
đạo và toàn thể cán bộ Chi cục Chăn nuôi và Thú y, đồng nghiệp đang làm việc
trong lĩnh vực Chăn nuôi - Thú y của tỉnh Quảng Ninh.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
gia đình, người thân cùng bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Một lần nữa tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn, cảm ơn chân thành tới những tập thể,
cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học tập.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Trầm Thị Thanh Vân
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii
MỤC LỤC .................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ................................................................ vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ vii
DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................ viii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1
2. Mục tiêu của đề tài .......................................................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ......................................................................... 2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 3
1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu .......................................................... 3
1.1.1. Khái niệm bệnh cúm gia cầm .................................................................... 3
1.1.2. Lịch sử bệnh cúm gia cầm ......................................................................... 3
1.1.3. Đặc điểm sinh học của virus cúm type A .................................................. 5
1.1.4. Dịch tễ học bệnh cúm gia cầm .................................................................. 9
1.1.5. Triệu chứng, bệnh tích của bệnh cúm gia cầm ........................................ 12
1.1.6. Chẩn đoán bệnh ....................................................................................... 13
1.1.7. Hoạt động giám sát cúm gia cầm tại Việt Nam ...................................... 14
1.1.8. Nguyên lí phản ứng Real time PCR ........................................................ 16
1.2. Tổng quan kết quả nghiên cứu trên thế giới ................................................. 18
1.3. Tổng quan kết quả nghiên cứu ở việt nam .................................................... 22
Chương 2: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..... 25
2.1. Đối tượng, phạm vi ....................................................................................... 25
2.1.1. Đối tượng................................................................................................. 25
2.1.2. Phạm vi .................................................................................................... 25
2.2. Nội dung nghiên cứu ..................................................................................... 26
iv
2.2.1. Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh cúm gia cầm ở
tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020 ........................................................ 26
2.2.2. Tình hình tiêm vacxin cúm A/H5N1 của tỉnh Quảng Ninh .................... 26
2.2.3. Nghiên cứu lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ gia cầm sống ....... 26
2.3. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 27
2.3.1. Phương pháp điều tra dịch tễ học ............................................................ 27
2.3.2. Phương pháp phân tích dịch tễ học ......................................................... 27
2.3.3. Phương pháp lấy mẫu và bảo quản ......................................................... 27
2.3.4. Phương pháp nghiên cứu lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ gia
cầm sống và kỹ thuật chẩn đoán bệnh cúm gia cầm trong phòng thí nghiệm
bằng kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) ............................................ 28
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 30
3.1. Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh cúm gia cầm ở tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020. ................................................................. 30
3.1.1. Sự phân bố bệnh cúm gia cầm và type/subtype gây bệnh tại các
huyện, thành, thị của tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 - 6/2020 .......................... 30
3.1.2. Tình hình dịch cúm gia cầm tại Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020 .. 35
3.1.3. Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo mùa ................................................... 38
3.1.4. Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo loại gia cầm ...................................... 41
3.1.5. Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo phương thức chăn nuôi ..................... 43
3.2. Tình hình tiêm vacxin cúm A/H5N1 của tỉnh Quảng Ninh .......................... 48
3.2.1. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh Quảng
Ninh năm 2019 .................................................................................................. 48
3.2.2. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh Quảng
Ninh nửa đầu năm 2020 .................................................................................... 48
3.2.3. Tình hình tiêm vacxin cúm A/H5N1 tại một số huyện, thị, thành phố
của tỉnh Quảng Ninh ......................................................................................... 50
3.3. Nghiên cứu lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ gia cầm sống............. 52
3.3.1. Kết quả lấy mẫu tại các chợ .................................................................... 52
3.3.2. Tỷ lệ nhiễm virus cúm type A trong các mẫu giám sát ........................... 54
v
3.3.3. Tỷ lệ nhiễm virus cúm subtype H5 trong các mẫu giám sát ................... 56
3.3.4. Tỷ lệ nhiễm virus cúm subtype N6 trong các mẫu giám sát ................... 57
3.3.5. Lưu hành virus cúm A/H5N6 qua các vòng lấy mẫu .............................. 57
3.3.6. Lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ lấy mẫu .................................. 60
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ..................................................................................... 66
1. Kết luận ............................................................................................................ 66
2. Đề nghị ............................................................................................................. 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 68
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Từ viết tắt Dịch nghĩa
AI : Avian Influenza
BNNPTNT : Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
DNA : Acid Deoxyribo Nucleic
GP : Glycoprotein
HA : Hemagglutination
HEF : Hemagglutinin Esterase Fusion
HI : Hemagglutination Inhibition
HPAI : Highly pathogenic avian influenza
LPAI : Low pathogenic avian influenza
M : Matrix
NA : Neuraminidase
OIE : Office International des Epizooties
PB1 : Polymerase basic protein 1
PB2 : Polymerase basic protein 2
PBS : Phosphate Buffered Saline
PCR : Polymerase Chain Reaction
RNA : Ribonucleic Acid
RNP : Ribonucleoprotein
TP : Thành phố
TT TP : Trung tâm Thành phố
WHO : World Health Organization
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tóm tắt các chủng virus cúm gia cầm tại Việt Nam, 2003 - 2019 .................. 15
Bảng 3.1. Sự phân bố bệnh cúm gia cầm và type/subtype gây bệnh tại
Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020 ......................................................... 32
Bảng 3.2. Tỷ lệ gia cầm mắc bệnh chết và tiêu hủy do cúm gia cầm từ tại
Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020 ......................................................... 36
Bảng 3.3. Tỷ lệ mắc bệnh cúm theo mùa .................................................................. 38
Bảng 3.4. Tỷ lệ mắc bệnh cúm theo loại gia cầm ..................................................... 41
Bảng 3.5. Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo phương thức chăn nuôi ...................... 44
Bảng 3.6. Tỷ lệ mắc bệnh cúm theo quy mô đàn gia cầm ........................................ 46
Bảng 3.7. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh
Quảng Ninh năm 2019 ................................................................................ 48
Bảng 3.8. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh
Quảng Ninh nửa đầu năm 2020 ................................................................... 49
Bảng 3.9. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm A/H5N1 tại một số huyện của
tỉnh Quảng Ninh .......................................................................................... 51
Bảng 3.10. Kết quả lấy mẫu tại các chợ .................................................................... 53
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm virus cúm type A trong các loại mẫu ................................. 54
Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm virus cúm Subtype H5 trong các loại mẫu ......................... 56
Bảng 3.13. Lưu hành virus cúm A/H5N6 qua các tháng lấy mẫu ............................ 57
Bảng 3.14. Tỷ lệ nhiễm virus cúm A giữa các chợ lấy mẫu ..................................... 61
Bảng 3.15. Tỷ lệ nhiễm virus cúm Subtype H5 giữa các chợ lấy mẫu ..................... 63
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Cấu trúc bên ngoài của virus cúm gia cầm ................................................. 6
Hình 2.1. Bản đồ thể hiện các chợ buôn bán gia cầm sống được lấy mẫu
theo không gian ........................................................................................ 25
Hình 3.1. Bản đồ sự phân bố dịch cúm gia cầm và type/subtype gây bệnh
tại Quảng Ninh 2015 - 6/2020 .................................................................. 31
Hình 3.2. Sự phân bố bệnh cúm gia cầm tại Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020 ............... 34
Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ mắc và tiêu hủy do bệnh cúm gia cầm ................................ 37
Hình 3.4. Biểu đồ tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo mùa ........................................ 39
Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo loại gia cầm ............................ 43
Hình 3.6. Biểu đồ tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo phương thức chăn nuôi ................ 44
Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ mắc bệnh cúm theo quy mô đàn gia cầm ............................ 47
Hình 3.8. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm A/H5N1 tại 3 huyện,thị/TP có
các chợ tiến hành lấy mẫu trong năm 2019 – 6/2020 ............................... 52
Hình 3.9. So sánh tỷ lệ mắc cúm A giữa các loại mẫu ............................................. 55
Hình 3.10. Lưu hành virus cúm A/H5N6 qua các tháng lấy mẫu ............................. 59
Hình 3.11. Lưu hành virus cúm A tại các chợ lấy mẫu ............................................ 62
Hình 3.12. Lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ lấy mẫu.................................. 64
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Ninh nằm trong dải hành lang biển lớn của Bắc Bộ, có mạng lưới
đường bộ, đường sắt và cảng biển lớn đang được mở rộng và phát triển. Phía Đông
Bắc giáp Trung Quốc, có đường biên giới dài khoảng 132,8 km, phía Nam giáp
vịnh Bắc Bộ, có chiều dài bờ biển 250 km; phía Tây Nam giáp thành phố Hải
Dương, phía Tây Bắc giáp các tỉnh Lạng Sơn và Bắc Giang. Do tiếp giáp với Trung
Quốc nên việc vận chuyển động vật, sản phẩm động vật diễn ra khá sôi động và khó
kiểm soát. Đặc biệt, hiện tượng nhập lậu gia cầm (gà mái đẻ loại thải) với giá rẻ vào
Quảng Ninh để tiêu thụ. Mặt khác, Quảng Ninh là tỉnh có ngành du lịch phát triển,
mật độ dân số khá đông, nhu cầu tiêu thụ thịt gia cầm ngày càng tăng, trong khi đó
ngành chăn nuôi gia cầm chưa đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ của tỉnh. Vì vậy, để đáp
ứng nhu cầu tiêu thụ thịt gia cầm tỉnh Quảng Ninh vẫn phải nhập từ tỉnh ngoài vào
cho nên nguy cơ bùng phát dịch bệnh cúm gia cầm trên địa bàn tỉnh là rất cao.
Ngày nay, bệnh cúm gia cầm đã và đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, gây
thiệt hại lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội và là mối quan tâm đáng lo ngại của
toàn cầu. Từ khi dịch xuất hiện đến nay đã có 75 quốc gia và vùng lãnh thổ thế giới
xuất hiện dịch khiến hàng trăm triệu gia cầm ốm chết, phải tiêu hủy và đã có 455
người tại 16 quốc gia chết vì H5N1, 7/24 ca chết vì H5N6, 623/1625 ca chết vì
H7N9 (bao gồm cả 3 trường hợp người Trung Quốc đến Ca-na-đa và Ma-lai-xi-a thì
phát bệnh) (Cục thú y, 2019).
Tháng 4 năm 2014, virus cúm H5N6 được phát gây bệnh trên gia cầm và gây
chết người tại tỉnh Tứ Xuyên-Trung Quốc và đã có 6 người chết do H5N6 trong
tổng số 10 ca mắc. Tháng 8 năm 2014, Cục Thú y cũng lần đầu tiên phát hiện cúm
A/H5N6 trên lãnh thổ Việt Nam, cụ thể ở tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Hà Tĩnh. Trước đó,
chủng virus này đã được phát hiện ở vịt trời và chim hoang dã tại Thuỵ Điển, Đức,
Mỹ, Trung Quốc. Đáng lo ngại là kết quả giải trình tự gen của các mẫu virus cúm
A/H5N6 phát hiện ở Việt Nam cho thấy có sự tương đồng đến 99% về kiều gen với
chủng virus cúm A/H5N6 gây tử vong đầu tiên trên người tại Trung Quốc (Cục thú
2
y 2014). Từ đó đến nay, virus cúm A/H5N6 tiếp tục được phát hiện tại nhiều tỉnh
trong cả nước trong đó có các tỉnh Hải Phòng, Lạng Sơn, Quảng Ninh và các tỉnh
khác như: Lào Cai, Ninh Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Tuyên Quang, ...
Dịch cúm xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong những năm vừa qua mặc
dù là những ổ dịch nhỏ lẻ, tuy nhiên năm nào cũng xảy ra gây ảnh hưởng không nhỏ
đến tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp và du lịch của địa phương.
Ở nước ta chợ buôn bán gia cầm sống rất phổ biến, người dân có thói quen
mua gia cầm sống và giết mổ tại chợ. Gia cầm đến từ nhiều nguồn khác nhau và có
nhiều loài gia cầm khác nhau được bán tại chợ. Nơi bán và giết mổ cùng một chỗ,
không được vệ sinh tiêu độc khử trùng thường xuyên, người buôn bán, người mua
tiếp xúc trực tiếp với gia cầm do đó nguy cơ virus cúm gia cầm nói chung và virus
cúm A/H5N6 nói riêng từ gia cầm xâm nhập và lây nhiễm cho người là rất cao.
Nhận thấy, virus cúm A/H5N6 có độc lực cao, có khả năng lây lan nhanh và nguy
hiểm có khả năng lây trực tiếp sang người, vì vậy tôi tiến hành thực hiện đề
tài:“Giám sát sự lưu hành virus cúm A/H5N6 trên đàn gia cầm sống tại một số
chợ của tỉnh Quảng Ninh và ứng dụng phương pháp Real time RT – PCR trong
chẩn đoán bệnh”
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định sự lưu hành của virus cúm A/H5N6 ở tỉnh Quảng Ninh
- Ứng dụng phương pháp Real time RT – PCR trong chẩn đoán bệnh
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
* Ý nghĩa khoa học
Các kết quả nghiên cứu tại tỉnh Quảng Ninh nhằm cung cấp, bổ sung và hoàn
thiện các thông tin về bệnh cúm gia cầm ở Việt Nam.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Là cơ sở để biết thêm về dịch tễ học của bệnh, đồng thời đánh giá công tác
kiểm soát giết mổ và vệ sinh phòng bệnh.
- Đưa ra khuyến cáo hợp lý trong phương pháp lấy mẫu xét nghiệm, hỗ trợ
chẩn đoán bệnh nhanh và chính xác về bệnh cúm gia cầm H5N6.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm bệnh cúm gia cầm
Cúm gia cầm (Avian Influenza – AI) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính ở gia
cầm, do nhóm virus cúm typ A, thuộc họ Orthomyxoviridae gây ra. Đây là nhóm
virus có biên độ vật chủ rộng, được phân chia thành nhiều subtype khác nhau dựa
trên hai kháng nguyên bề mặt capsid của hạt virus là HA và NA (De Wit, 2008).
Nhóm virus cúm A có 16 subtype HA (từ H1 đến H16) và 9 subtyp NA (từ N1 đến
N9). Sự tổ hợp giữa các subtype HA và NA sẽ tạo ra nhiều subtyp khác nhau. Mặt
khác, virus cúm A có đặc tính quan trọng là dễ dàng đột biến trong gen/hệ gen (đặc
biệt ở gen NA và HA) hoặc trao đổi các gen với nhau, trong quá trình xâm nhiễm và
tồn tại lây truyền giữa các loài vật chủ, dẫn đến việc tạo nên nhiều subtype có độc
tính và khả năng gây bệnh khác nhau (Nguyễn Bá Hiên và cs, 2014).
Trong những năm gần đây, dịch cúm gia cầm chủng độc lực cao (HPAI –
Highly Pathogenic Avian Influenza) xuất hiện và đã giết chết hàng chục triệu gia
cầm trên thế giới, đồng thời khiến hàng tỷ gia cầm khác phải tiêu hủy bắt buộc để
tránh lây lan, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi. Bệnh cúm gia cầm
HPAI là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, có tốc độ lây lan rất nhanh với tỷ lệ chết cao
trong đàn gia cầm nhiễm bệnh. Virus gây bệnh cúm gia cầm chủ yếu là loại H5, H7
và H9, gây bệnh cho gà, vịt, ngan, ngỗng, đà điểu, các loại chim. Virus còn gây
bệnh cho cả người và có thể gây thành đại dịch, vì thế bệnh cúm gia cầm đang ngày
càng trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết (Lê Văn Năm, 2004), (Cục Thú y, 2005).
1.1.2. Lịch sử bệnh cúm gia cầm
Năm 412 trước công nguyên, Hippocrate đã mô tả về bệnh cúm. Năm 1680
một vụ đại dịch cúm đã được mô tả kỹ và từ đó đến nay đã xảy ra 31 vụ đại dịch.
Trong hơn 100 năm qua đã xảy ra 4 vụ đại dịch cúm vào các năm 1889, 1918, 1957
và 1968 (Cục Thú y, 2004).
4
Năm 1878, ở Italy đã xảy ra một bệnh gây tử vong rất cao ở đàn gia cầm và
được gọi là bệnh dịch tả gia cầm (Fowl plague), bệnh lần đầu tiên được Porroncito
mô tả và ông nhìn nhận một cách sáng suốt rằng tương lai sẽ là một bệnh quan trọng
và nguy hiểm. Năm1901, Centanni và Savunozzi đã đề cập đến ổ dịch này và xác
định được căn nguyên siêu nhỏ qua lọc (Filterable agent) là yếu tố gây bệnh. Đến
năm 1955, Achafer đã xác định được căn nguyên gây bệnh thuộc nhóm virus cúm
type A thông qua kháng nguyên bề mặt là H7N1 và H7N7 gây chết nhiều gà, gà tây
và chim hoang ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Châu Phi, Trung Cận Đông (Lê Văn Năm, 2004).
Năm 1963, virus cúm type A được phân lập từ gà tây ở Bắc Mỹ do loài thuỷ
cầm di trú dẫn nhập virus vào đàn gà. Cuối thập kỷ 60, phân type H1N1 thấy ở lợn
và có liên quan đến những ổ dịch ở gà tây. Mối liên hệ giữa lợn và gà tây là những
dấu hiệu đầu tiên về virus cúm ở động vật có vú có thể lây nhiễm và gây bệnh cho
gia cầm. Những nghiên cứu đều cho rằng virus cúm typ A phân type H1N1 đã ở lợn
và truyền cho gà tây, ngoài ra phân type H1N1 ở vịt còn truyền cho lợn.
Sự lây nhiễm từ chim hoang dã sang gia cầm đã có bằng chứng từ trước năm
1970, nhưng chỉ được công nhận khi xác định được tỷ lệ nhiễm virus cúm cao ở
một số loài thuỷ cầm di trú. Sau khi phát hiện ra virus cúm type A, các nhà khoa
học thấy rằng virus cúm có ở nhiều loài chim hoang dã và gia cầm nuôi ở những
vùng khác nhau trên thế giới. Bệnh xảy ra nghiêm trọng nhất với gia cầm thuộc
phân type H5 và H7 như ở Scotland năm 1959 là H5N1, ở Mỹ năm 1983 - 1984 là
H5N2 (Cục Thú y, 2004).
Năm 1971, Beard đã mô tả khá kỹ virus gây bệnh và đặc điểm bệnh lý lâm
sàng của gà trong các ổ dịch cúm gà, gà tây khá lớn xảy ra ở Mỹ mà chủng gây
bệnh là H7N1. Từ năm 1960 - 1979 bệnh được phát hiện ở Canada, Mehico,
Achentina, Braxin, Nam Phi, ý, Pháp, Anh, Hà Lan, Australia, Hồng Kông, Nhật
Bản, các nước vùng Trung Cận Đông, các nước thuộc liên hiệp Anh và Liên Xô.
Các công trình nghiên cứu có hệ thống về bệnh cúm gia cầm lần lượt được công bố
ở Australia (1975), ở Anh (1979), ở Mỹ (1983-1984), ở Ailen (1983-1984) về đặc
điểm sinh học, bệnh học và dịch tễ học, các phương pháp chẩn đoán miễn dịch và
biện pháp phòng chống bệnh (Đào Yến Khanh, 2005).
5
Đến nay, dịch cúm gia cầm đã xảy ra ở khắp các châu lục với mức độ ngày
càng nguy hiểm hơn đối với các loài gia cầm và sức khoẻ của cộng đồng, đã thôi
thúc Hiệp hội các nhà chăn nuôi gia cầm tổ chức hội thảo chuyên đề về bệnh cúm
gà. Hội thảo lần đầu tiên tổ chức vào năm 1981, lần thứ 2 tại Ailen năm 1987, lần
thứ 3 cũng tại Ailen năm 1992. Từ đó đến nay trong các hội nghị về dịch tễ trên thế
giới, bệnh cúm gia cầm luôn là một trong những nội dung được coi trọng.
1.1.3. Đặc điểm sinh học của virus cúm type A
1.1.3.1. Đặc điểm cấu trúc chung của virus thuộc họ Orthomyxoviridae
Virus thuộc họ Orthomyxoviridae có đặc tính cấu trúc chung là hệ gen chứa
axit ribonucleic (ARN) một sợi, có cấu trúc là sợi âm được ký hiệu là ss (-) ARN
(Negative Single Stranded RNA). Sợi âm ARN của hệ gen có độ dài từ 10.000 -
15.000 nucleotit (tùy theo loại virus), mặc dù nối với nhau thành 1 sợi ARN liên
tục, nhưng hệ gen lại chia thành 6 - 8 phân đoạn (segment), mỗi phân đoạn là một
gen chịu trách nhiệm mã hóa cho mỗi loại protein của virus.
Hạt virus (virion) có cấu trúc hình khối, đôi khi có dạng hình khối kéo dài,
đường kính khoảng 80 - 120 nm.
Vỏ virus có bản chất protein, có nguồn gốc từ nguồn tế bào mà virus đã gây
nhiễm, bao gồm một số protein được glycosyl hóa (glycoprotein) và một số Protein
dạng trần không được glycosyl hóa (non glycosylated protein). Protein bề mặt có
cấu trúc từ các loại glycoprotein, đó là những gai, mấu có độ dài 10 - 14 nm, đường
kính 4 - 6 nm. Nucleocapsid bao bọc lấy nhân virus là tập hợp của nhiều protein
phân đoạn, cấu trúc đối xứng xoắn, kích thước 130 - 150 nm, tạo vòm (loop) ở giới
hạn cuối của mỗi phân đoạn và liên kết với nhau qua cầu nối các peptit. Phân tử
lượng của hạt virus vào khoảng 250 triệu dalton (Muphy, 1996; Lê Thanh Hòa, 2004).
1.1.3.2. Đặc điểm sinh học phân tử của virus cúm gia cầm
Hình thái và cấu trúc của virus cúm gia cầm type A được Kawaoka và
Murphy (1988) mô tả khá chi tiết. Qua kính hiển vi điện tử, virus có dạng hình
khối tròn, hình trứng hoặc dạng khối dài, đường kính khoảng 80 – 120 nm. Nhiều
khi virus có dạng hình sợi dài tới vài µm. Phân tử lượng của hạt virus vào khoảng
250 triệu Dalton
Vỏ virus có chức năng bao bọc và bảo vệ vật chất di truyền RNA củavirus,
bản chất cấu tạo là màng lipit kép, có nguồn gốc từ màng tế bào nhiễm được đặc
6
hiệu hóa gắn vào các protein màng của virus. Trên bề mặt có khoảng 500 “gai mấu”
nhô ra và phân bố dày đặc, mỗi gai mấu dài khoảng 10-14 nm có đường
glycoprotein gồm: HA, NA, MA (matrix) và các dấu ấn khác của virus (Bender và
cs., 1999; Zhao và cs., 2008). Có sự phân bố không đồng đều giữa các phân tử NA
và HA (tỷ lệ khoảng 1NA/4HA), đây là 2 loại protein kháng nguyên có vai trò quan
trọng trong quá trình xâm nhiễm của virus ở tế bào cảm nhiễm (Murphy và
Webster, 1996; Uiprasertkul và cs., 2007).
Hình 1.1. Cấu trúc bên ngoài của virus cúm gia cầm
(Nguồn: http://micro.magnet.fsu.edu/cells/viruses/influenzavirus.html)
1.1.3.3. Kháng nguyên của virus cúm gia cầm
Virus cúm type A được xác định subtype dựa trên cơ sở kháng nguyên
(protein) bề mặt là HA (Hemagglutinin – viết tắt là H) và NA (Neuraminidase – viết
tắt là N) có vai trò quan trọng trong miễn dịch bảo hộ. Hemagglutinin được coi là
yếu tố vừa quyết định tính kháng nguyên, vừa quyết định độc lực của virus cúm A.
Các loại protein kháng nguyên: Protein nhân (NP), protein đệm (matrix
protein - M1), protein bề mặt (HA), protein enzyme cắt thụ thể (NA) là những
protein kháng nguyên được nghiên cứu nhiều nhất.
Một trong những đặc tính kháng nguyên quan trọng của virus cúm là khả năng
gây ngưng kết hồng cầu của nhiều loài động vật mà thực chất là sự kết hợp giữa
7
mấu lồi kháng nguyên HA trên bề mặt của virus với thụ thể có trên bề mặt hồng cầu
làm cho hồng cầu ngưng kết với nhau tạo mạng ngưng kết qua các cầu nối virus. Từ
đặc tính kháng nguyên này có thể sử dụng các phản ứng ngưng kết hồng cầu HA và
phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu HI trong chẩn đoán cúm gia cầm.
Theo Ito T. and Kawaoka Y. (1998): Sự phức tạp trong diễn biến kháng
nguyên mà virus cúm có được là do sự biến đổi và trao đổi kháng nguyên trong nội
bộ gene và giữa gene hemagglutinin (HA) và gene neutraminidase (NA).
1.1.3.4. Thành phần hóa học của virus
ARN của virus cúm type A chiếm từ 0,8 - 1,1%; protein chiếm 70 - 75%; lipit
chiếm 20 - 24%; hydratcacbon chiếm 5 - 8% khối lượng hạt virus.
Lipit tập trung ở màng virus và chủ yếu là lipit có gốc phospho, số còn lại là
cholesterol, glucolipit và một ít hydratcacbon gồm các loại men galactose, ribose,
fructose, glucosamin. Thành phần protein chính của virus chủ yếu là glycoprotein
(Lê Văn Năm, 2004).
1.1.3.5. Cơ chế xâm nhiễm gây bệnh của virus cúm A trong tế bào vật chủ
Virus cúm A/H5N1 kí sinh nội bào bắt buộc, quá trình xâm nhiễm và nhânlên
của virus xảy ra chủ yếu ở các tế bào biểu mô đường hô hấp, đường tiêu hóa của cơ
thể nhiễm (Murphy và Webster, 1996; Nicholson và cs., 2003), có những nét đặc
trưng như sau:
- Quá trình xâm nhiễm của virus cúm A được mở đầu bằng sự kết hợp của HA
và thị thể thích ứng của nó trên bề mặt các tế bào này, và cuối cùng là giải phóng hệ
gen của virus vào trong bào tương của tế bào nhiễm.
- Quá trình nhân lên của RNA virus cúm A chỉ xảy ra trong nhân của tế bào, đây là
đặc điểm khác biệt so với các virus khác (quá trình này xảy ra trong nguyên sinh chất),
và cuối cùng là giải phóng các hạt virus ra khỏi tế bào nhiễm nhờ vai trò của enzyme
neuraminidae. Thời gian một chu trình xâm nhiễm và giải phóng các hạt virus mới của
virus cúm chỉ khoảng và giờ (trung bình 6h). Sự tạo thành các hạt virus mời không phá
tan tế bào nhiễm, nhưng các tế bào này bị rối loạn hệ thống tổng hợp các đại phân tử, và
rơi vào quá trình chết theo chương trình (apopyosis) làm tổn thương mô của cơ thể vật
chủ (Wanasawaeng và cs., 2009; Tumpey và cs., 2002).
8
- Sau khi được giải phóng vào trong bào tương tế bào nhiễm, hệ gen củavirus
sử dụng bộ máy sinh học của tế bào tổng hợp các protein của virus và các RNA vận
chuyển phụ thuộc RNA (RNA-dependent RNA transcription). Phức hợp protein –
RNA của virus được vận chuyển vào trong nhân tế bào (Beard, 1998).
Hình 1.2. Mô hình cơ chế xâm nhiễm và nhân lên virus cúm A ở tế bào chủ
(Nguồn: Beard, 1998)
Trong nhân tế bào các RNA hệ gen của virus tổng hợp các sợi dương từ khuôn
là sợi âm của hệ gen virus, từ các sợi dương này chúng tổng hợp nên RNA hệ gen
của virus mới nhờ RNA-poymerase. Các sợi này không được Adenine hóa (gắn
thêm các Adenine – gắn mũ) ở đầu 5’- và 3’-, chúng kết hợp vớinucleoprotein (NP)
tạo thành phức hợp ribonucleoprotein (RNP) hoàn chỉnh và được vận chuyển ra bao
tường tế bào. Đồng thời, các RNA thông tin của virus cũng sao chép nhờ hệ thống
enzyme ở từng phân đoạn gen của virus, và được enzyme PB2 gắn thêm 10 – 20
nucleotide Adenin ở đầu 5’-, sau đó được vận chuyển ra bào tương và dich mã tại
lưới nội bào có hạt để tổng hợp nên các proteincủa virus.
- Các phân tử NA và HA của virus sau khi tổng hợp được vận chuyển gắn lên
mặt ngoài của màng tế bào nhiễm nhờ bộ máy Golgi, goi là hiện tượng “nảy chồi”
của virus. NP sau khi tổng hợp được vận chuyển trở lại nhân lên tế bào để kết hợp
với RNA thành RNP của virus. Sau cùng các RNP của virus được hợp nhất với
cùng “nảy chồi”, tạo thành các “chồi” virus gắn chặt vào màng tế bào chủ bởi liên
9
kết giữa HA với thụ thể chứa sialic acid. Các NA phân cắt các liên kết này và giải
phòng các hạt virus trưởng thành tiếp tục xâm nhiễm các tế bào khác (Murphy và
Webster, 1996; Nayak và cs., 2004).
Theo quy định của tổ chức y tế thế giới (WHO), tổ chức thú y thế giới (OIE),
1.1.3.6. Độc lực và khả năng gây bệnh của virus cúm gia cầm
virus cúm gia cầm chia thành 3 loại:
- Loại virus có độc lực cao: Nếu 10 ngày sau tiêm tĩnh mạch cho gà phải làm
chết 75 - 100% gà thực nghiệm và phát triển tốt trên tế bào sơ phôi gà và tế bào thận
trong môi trường nuôi cấy không có trypsin (Alexander D. J., 1996).
- Loại virus có độc lực trung bình: Là những chủng virus gây bệnh trên gà
thực nghiệm có triệu chứng lâm sàng rõ rệt nhưng gây chết không quá 20%.
- Loại virus có độc lực thấp (nhược độc): Là những virus phát triển tốt trong cơ
thể gà, có thể gây ra dịch cúm nhưng không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt và không
gây ra bệnh tích đại thể, không làm chết gà (Seo S. và Webter R. G., 2001).
1.1.3.7. Danh pháp quốc tế
Để ký hiệu và lưu trữ một cách khoa học và đầy đủ các chủng virus cúm phân
lập được, từ năm 1980 Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra một hệ thống phân
loại mới, được quy định ký hiệu theo trình tự: Serotype/loài nhiễm/nơi phân lập/số
hiệu chủng/thời gian phân lập/loại hình Subtype HA (H) và NA (N). Ví dụ: Virus
cúm có ký hiệu A/GS/HK/437/4/99/H5N1, có nguồn thông tin là: Cúm nhóm A;
loài nhiễm là ngỗng (GS = goose); nơi phân lập là Hồng Kông (HK); số hiệu 437;
thời gian phân lập tháng 4/1999; Subtype H5N1 (Đào Yến Khanh, 2005).
1.1.4. Dịch tễ học bệnh cúm gia cầm
1.1.4.1. Phân bố dịch
Virus cúm gia cầm phân bố khắp thế giới trong các loài gia cầm, dã cầm, động
vật có vú. Sự phân bố và lưu hành của virus cúm khó xác định chính xác và chịu
ảnh hưởng bởi các loài vật nuôi, thú hoang dã, tập quán chăn nuôi gia cầm, đường
di trú của dã cầm, mùa vụ và hệ thống báo cáo dịch bệnh, phương pháp nghiên cứu
(Cục Thú y, 2004).
10
1.1.4.2. Động vật cảm nhiễm
Tất cả các loài gia cầm (gà, vịt, ngan, chim cút, vẹt, bồ câu), chim hoang dã
(đặc biệt thủy cầm di trú) đều mẫn cảm với virus. Phần lớn các loài gia cầm non đều
mẫn cảm với virus cúm type A. Ngoài ra, virus cúm type A còn gây bệnh cho nhiều
loài động vật có vú như lợn, ngựa, chồn, hải cẩu, thú hoang dã và cả con người. Lợn
mắc bệnh cúm thường do phân type H1N1 và H3N2 gây nên.
Vịt nuôi bị nhiễm virus nhưng ít phát thành bệnh do vịt có sức đề kháng với
virus gây bệnh. Tuy nhiên, năm 1961, ở Nam Phi đã phân lập được virus cúm type
A (H5N1) gây bệnh cho cả gà và vịt (Bùi Quang Anh và Văn Đăng Kỳ, 2004; Cục
Thú y, 2004).
1.1.4.3. Động vật mang virus
Virus cúm đã phân lập được ở hầu hết các loài chim hoang dã như vịt trời,
thiên nga, hải âu, mòng biển, vẹt, vẹt đuôi dài, vẹt mào, chim thuộc họ sẻ, diều hâu.
Tần suất và số lượng virus phân lập được ở thủy cầm, đặc biệt vịt trời đều cao hơn
các loài khác (Bùi Quang Anh và Văn Đăng Kỳ, 2004).
Kết quả điều tra thủy cầm ở Bắc Mỹ cho thấy, trên 60% chim non bị nhiễm
virus do tập hợp đàn trước khi di trú. Sự kết hợp các kháng nguyên bề mặt H và N
của các phân type virus cúm A diễn ra ở chim hoang dã, virus không gây độc đối
với vật chủ, được nhân lên ở đường ruột của chim khiến cho các loài này mang
virus và là nguồn gieo rắc virus cho các loài khác, đặc biệt là gia cầm (Alexander
D.J., 2000).
Đã có nhiều nghiên cứu phát hiện virus cúm từ những loài vịt đi đầu trong
mùa di trú, sau khi xuất hiện đã gây ra dịch ở gà tây. Vịt từ khi bị nhiễm đến khi bắt
đầu thải virus trong vòng 30 ngày. Dường như virus được duy trì trong số đông vịt
trời cho tới mùa sinh sản tiếp theo lại truyền cho các con non theo đường tiêu hóa,
do virus bài thải theo phân, gây ô nhiễm ao, hồ (Bùi Quang Anh và Văn Đăng Kỳ,
2004; Cục Thú y, 2004).
1.1.4.4. Sự truyền lây virus cúm gia cầm
Khi gia cầm nhiễm virus cúm, virus được nhân lên trong đường hô hấp và
đường tiêu hóa. Sự truyền lây của bệnh được thực hiện theo 2 phương thức.
11
- Lây trực tiếp: Do con vật mẫn cảm tiếp xúc với con vật mắc bệnh thông qua các
chất được bài tiết từ đường hô hấp hoặc qua phân, thức ăn, nước uống bị nhiễm virus.
- Lây gián tiếp: Qua các hạt khí dung trong không khí với khoảng cách gần
hoặc những dụng cụ chăn nuôi, phân, thức ăn, nước uống, quần áo, giầy dép,
phương tiện vận chuyển, lồng nhốt, chim, thú, côn trùng có mang mầm bệnh.
Như vậy, virus cúm dễ dàng truyền tới vùng khác do con người, phương tiện
vận chuyển, dụng cụ và thức ăn chăn nuôi. Bệnh chủ yếu truyền ngang (do tiếp
xúc), chưa có bằng chứng cho thấy bệnh có thể truyền dọc (qua phôi thai) vì những
phôi bị nhiễm virus thường chết mà không phát triển được (Lê Văn Năm, 2004).
Đối với gia cầm nuôi, nguồn dịch đầu tiên thường thấy là từ các loài gia cầm nuôi
khác nhau trong cùng một trang trại hoặc các trang trại khác liền kề; từ gia cầm
nhập khẩu; từ chim di trú, đặc biệt thuỷ cầm được coi là đối tượng chính mang và
truyền virus vào quần thể đàn gia cầm nuôi.
Tỷ lệ lưu hành bệnh cao hơn đối với các đàn gia cầm nằm trên đường di trú
của các loài thủy cầm, các đàn gia cầm nuôi nhốt trong các trang trại, vịt được nuôi
vỗ béo tại các cánh đồng gần trang trại. Các ổ dịch cúm thường có nguy cơ xuất
hiện cao ở các mùa có hoạt động của thủy cầm di trú. Phần lớn các ổ dịch đều ghi
nhận có sự tiếp xúc với thủy cầm tại thời điểm phát dịch đầu tiên. Từ người và các
động vật có vú khác, phần lớn các ổ dịch cúm gia cầm gần đây đã có sự lây lan thứ cấp
thông qua con người (Bùi Quang Anh và Văn Đăng Kỳ, 2004); (Cục Thú y, 2004).
1.1.4.5. Sức đề kháng của virus cúm
Virus không bền vững với nhiệt độ, ở 56 - 600C, chỉ vài phút virus mất độc
lực. Trong nước ao hồ, virus vẫn có thể duy trì đặc tính gây bệnh tới 4 ngày ở nhiệt
độ 220C và trên 30 ngày ở nhiệt độ 00C (WebsterR.G và cs, 1992). Tuy nhiên, virus
tồn tại khá lâu trong các vật chất hữu cơ như phân gà 30 - 35 ngày ở nhiệt độ 40C, 7
ngày ở nhiệt độ 200C. Trong thức ăn, nước uống bị ô nhiễm virus có khả năng tồn
tại hàng tuần. Đây chính là nguồn bệnh nguy hiểm và tiềm tàng để làm lây lan dịch
bệnh (Lê Văn Năm, 2004).
Do cấu trúc vỏ ngoài của virus là lipit nên chúng mẫn cảm với các chất dung
môi và chất tẩy rửa như formalin, axit, ete, - propiolacton. Sau khi tẩy vỏ, các hóa
12
+, axit loãng, natrihypochlorit và hydroxylanine có thể phá
chất như phenolic, NH4
hủy virus cúm gia cầm. Người ta thường dùng các hóa chất này như các chất sát
trùng hữu hiệu để tẩy uế chuồng trại, dụng cụ và các thiết bị chăn nuôi (Ilaria Capua
và Stefano Marangon, 2004).
1.1.5. Triệu chứng, bệnh tích của bệnh cúm gia cầm
1.1.5.1. Triệu chứng lâm sàng của bệnh cúm gia cầm
Các biểu hiện triệu chứng lâm sàng của bệnh diễn biến rất đa dạng và phức
tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độc lực, số lượng virus, loài nhiễm bệnh, mật
độ chăn nuôi, tiểu khí hậu chuồng nuôi...
Thời gian ủ bệnh ngắn thường chỉ vài giờ đến 21 ngày, có thể tới 28 ngày. Các
triệu chứng về hô hấp thường xuất hiện đầu tiên và khá điển hình như khẹc, lắc đầu,
vẩy mỏ, khó thở, chảy nước mũi, nước mắt. Tiếp theo là mí mắt viêm, sưng mọng, phù
mặt, phù đầu. Mào và tích dầy lên do phù thũng, tím tái, xuất huyết, thịt gà bị bệnh
thâm tím. Xuất huyết dưới da chân là đặc điểm đặc trưng của bệnh cúm gia cầm.
Ngoài các triệu chứng trên còn thấy các triệu chứng về thần kinh như đi lại
không bình thường, siêu vẹo, run rẩy, mệt mỏi, nằm li bì tụm đống. Gia cầm tiêu
chảy mạnh, phân loãng trắng, trắng xanh. Gia cầm đang đẻ thì tỷ lệ đẻ giảm rất
nhanh. Bệnh lây lan nhanh, gia cầm chết đột ngột. Với chủng virus độc lực cao
(HPAI) tỷ lệ chết từ 15 - 100%, với chủng virus độc lực thấp (LPHI) tỷ lệ chết thấp
hơn và mức độ biểu hiện triệu chứng cũng nhẹ hơn. Tuy nhiên, khi có sự bội nhiễm
hoặc điều kiện chăn nuôi bất lợi, tỷ lệ tử vong có thể tới 60 - 70% với các biểu hiện
triệu chứng nặng hơn (Nguyễn Tiến Dũng, 2004; Lê Văn Năm, 2004).
1.1.5.2. Bệnh tích của bệnh cúm gia cầm
Bệnh tích đại thể
Bệnh tích thường gặp là mào, tích sưng to, tím tái phù quanh mí mắt. Xuất
huyết dưới da ống chân hoặc kẽ ngón chân thành vệt đỏ rất rõ. Xuất huyết điểm trên
bề mặt niên mạc và tương mạc nội tạng. Xuất huyết hầu hết toàn bộ đường tiêu hóa,
đặc biệt thấy rõ ở manh tràng và dạ dày tuyến. Túi fabricius xung huyết và xuất
huyết (Lê Văn Năm, 2004; Alexander, 2007).
13
Bệnh tích vi thể
Bệnh tích vi thể chủ yếu là xung huyết, xuất huyết, thâm nhiễm bạch cầu đơn
nhân ở não và một số cơ quan khác. Mạch quản của cơ quan như mào, tích, gan, lách,
phổi, thận, cơ tìm, cơ vân, não... bị giãn rộng và thâm nhiễm tế bào (Beard, 1998).
1.1.6. Chẩn đoán bệnh
1.1.6.1 Chẩn đoán dựa vào dịch tễ học
Căn cứ vào các yếu tố dịch tễ học như bệnh lây lan nhanh, gia cầm mọi lứa
tuổi, nhiều loại gia cầm mắc bệnh, tỷ lệ chết cao lên tới 100% số gia cầm mắcbệnh,
những vùng có ổ dịch cũ, những nơi gia cầm chưa được tiêm phòng vacxin cúm
hoặc tiêm phòng chưa đủ thời gian đáp ứng miễn dịch, hoặc đã tiêm phòng nhưng
qua khảo sát hiệu giá kháng thể bao hộ chỉ đạt mức thấp.
1.1.6.2. Chẩn đoán dựa vào triệu chứng và bệnh tích
Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích để chẩn đoán. Lưu ý cácđặc
điểm chính như gia cầm bệnh chảy nhiều nước mắt, viêm xoang mũi, mào tích tím
tái, phù đầu và mí mắt, lông cổ dựng ngược, ỉa chảy và có triệu chứng thần kinh, da
chân vùng không lông xuất huyết.
Căn cứ những bệnh tích điển hình như phổi, gan, thận, lách sưng to. Xuất
huyết dạ dày cơ, dạ dày tuyến giống bệnh Newcastle. Túi fabricius xuất huyết điểm,
lỗ huyệt xuất huyết…(Alexander, 2007; Baigent và Mc Cauley, 2001). Trong
trường hợp gia cầm chết cấp tính thì biểu hiện bệnh tích thường không điển hình.
1.1.6.3. Chẩn đoán phòng thí nghiệm
Chẩn đoán virus học: nuôi cấy, phân lập virus trên rứng gà có phôi ấp 9– 10
ngày tuổi hoặc trên môi trường tế bào xơ phôi gà hoặc tế bào thận chó MDCK.
Giám định virus trong dịch nuôi cấy bằng các phản ứng HA, HI.
Chẩn đoán và giám định virus bằng kỹ thuật RT-PCR: cho phép xác địnhvirus
với lượng rất nhỏ. Khẳng định chắc chắn subtypeH5 và N1 căn cứ vào primer và
probe được thiết kế đặc hiệu. Hiện nay, kỹ thuật này đã được ứng dụng rộng rãi và
thường quy ở Việt Nam, cũng như nhiều nước trên thế giới.
Chẩn đoán huyết thanh học: dùng phản ứng HI để phát hiện và xác địnhhiệu
giá kháng thể trong huyết thanh gia cầm chưa tiêm phòng. Ngoài ra có thể dùng
phản ứng ELISA để phát hiện kháng thể.
14
1.1.7. Hoạt động giám sát cúm gia cầm tại Việt Nam
1.1.7.1. Kết quả giám sát
Kể từ khi xuất hiện tại nước ta, dịch cúm gia cầm đã ảnh hưởng rất nhiều tới
nước ta kể về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Chính vì vậy việc chủ động các
biện pháp phòng bệnh luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Bên cạnh đó, chúng
ta cũng đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các tổ chức trên thế giới như FAO,
VAHIP, CDC,...qua rất nhiều chương trình giám sát chủ động nhằm phát hiện sự
lưu hành của các chủng virus trong cả nước qua đó điều chỉnh các biện pháp phòng
chống dịch cho phù hợp. Giai đoạn 2014 – 2018 Cục Thú y đã phối hợp với Tổ
chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc (FAO), Trung tâm Kiểm soát
bệnh tật Hoa Kỳ (CDC), OIE, Đại học Hokkaido và các Chi cục Thú y, Chi cục
Chăn nuôi và Thú y tổ chức thực hiện các chương trình giám sát CGC tại hộ chăn
nuôi, chợ, điểm buôn bán gia cầm, nơi tập trung gia cầm và nơi tiêu hủy gia cầm
nhập lậu của trên 35 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước. Kết quả, tổng cộng lấy
và xét nghiệm 76.858 mẫu; trong đó, tỷ lệ dương tính với cúm A là khoảng 29%,
dương tính với cúm H5 là 13%, A/H5N1 là 4,7%, A/H5N6 là 6,9%; tổng cộng có
18 mẫu dương tính với viruscúm A/H7 nhưng không có mẫu nào dương tính với
virus cúm A/H7N9 (Cục thú y, 2018). Năm 2019 CDC và FAO tổng cộng lấy và xét
nghiệm 3.380 mẫu; trong đó tỷ lệ dương tính với cúm A là 37,46%, dương tính với
cúm H5 là 3,52%, A/H5N1 là 1,36%, A/H5N6 là 1,78%; tổng cộng có 3 mẫu dương
tính với virus cúm A/H7 nhưng không có mẫu nào dương tính với virus cúm
A/H7N9 (Cục thú y, 2019).
1.1.7.2. Kết quả phân tích cúm gia cầm tại Việt Nam
Để làm tốt công tác phòng, chống bệnh cúm gia cầm độc lực cao, ngoài việc
xác định tỷ lệ lưu hành tại các địa phương trong cả nước thì công tác nghiên cứu,
giải trình tự gen của virus để qua đó lựa chọn loại vaccine phù hợp cho công tác
tiêm phòng trong cả nước. Quá trình biến đổi của các chủng virus cúm tại Việt Nam
từ 2003 đến nay được thể hiện qua bảng sau:
15
Bảng 1.1. Tóm tắt các chủng virus cúm gia cầm tại Việt Nam, 2003 - 2019
Năm Miền Bắc Miền Nam
Virus H5N1 xâm nhập vào Việt Nam Clade 1 2003 - 2005
2007 - 2008 Xuất hiện Clade 2.3.4 thay thế clade 1; Clade 7 được phát hiện trên gà nhập lậu
2009 Phát hiện được nhiều nhánh của clade 2.3.4
2010 Xuất hiện clade 2.3.2 giống với chủng phát hiện tại Mông Cổ, Hong Kong. Clade 1 phổ biến và có những biến đổi. Clade 2.3.2/2.3.4 thỉnh thoảng được phát hiện.
2011 -2013 Biến đổi từ clade2.3.4 sang 2.3.2.1 với 3 nhánh phụ A, B, C
2014 Clade 2.3.2.1C là chủ yếu Xuất hiện virus H5N6 (Clade 2.3.4.4) Clade 2.3.2.1C phổ biến Clade 1.1 có tại một vài ổ dịch
H5N6 Clade 2.3.4.4 lưu hành chủ yếu H5N1 Clade 2.3.2.1C phổ biến 2015 - 2019
Cục Thú y đã chỉ đạo Trung tâm Chẩn đoán thú y Trung ương và Chi cục Thú
y vùng VI gửi tổng cộng 1.261 mẫu virus Cúm gia cầm sang phòng thí nghiệm của
CDC Hoa Kỳ để phân tích chuyên sâu. Kết quả phân tích cho thấy:
Tất cả các mẫu virus gây ra ổ dịch CGC tại Việt Nam đều thuộc chủng
A/H5N1 (nhánh 2.3.2.1c) và A/H5N6 (nhánh 2.3.4.4g và 2.3.4.4h);
Các nhánh virus không có biến đổi lớn, về cơ bản giống với các chủng đã lưu
hành năm 2019, ngoại trừ nhánh virus 2.3.4.4h có chiều hướng biến đổi.
Chủng virus A/H5N6 (phân nhánh 2.3.4.4h) lưu hành chủ yếu tại các địa
phương thuộc miền Bắc và miền Trung, trong khi đó chủng virus A/H5N6 (phân
nhánh 2.3.4.4g) lưu hành tại các tỉnh phía Nam.
Chủng virus H9N2 được phát hiện khá phổ biến, phát hiện ở khoảng 52% tổng
số mẫu đã phân tích (662 mẫu).
Không phát hiện mẫu dương tính với virus cúm A/H7N9 (chủng gây bệnh
trên người ở Trung Quốc) (Cục thú y, 2020).
1.1.7.3. Công tác phòng, chống bệnh cúm gia cầm
Tại nước ta hiện nay, bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao là 1 trong 5 bệnh ưu
tiên phối hợp liên ngành giữa y tế và thú y trong việc điều tra, giám sát, chia sẻ
16
thông tin và nghiên cứu khoa học theo Thông tư 16/2013/TTLT-BYT-BNNPTNT.
Đối với công tác xử lý các ổ dịch cúm gia cầm thực hiện theo Thông tư
07/2016/TT-BNNPTNT ngày 31/5/2016 của Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định về
phòng, chống dịch bệnh động vật trên cạn.
Đối với dịch cúm A/H7N9 thực hiện theo Quyết định số 210/QĐ-BNN-TY ngày
14/02/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc Ban hành Kế hoạch hành động ứng
phó khẩn cấp với các chủng virus cúm nguy hiểm có khả năng lây lan sang người.
Trong điều kiện chăn nuôi gia cầm như ở Việt Nam hiện nay, để kiểm soát
dịch cúm gia cầm, một biện pháp rất quan trọng là tạo miễn dịch chủ động bằng
cách tiêm vacxin cho đàn gia cầm. Theo kết quả nghiên cứu mới nhất, hiện nay tại
nước ta lưu hành 2 chủng virus cúm gia cầm chủ yếu là virus cúm A/H5N1 thuộc
nhánh 2.3.2.1C và virus cúm A/H5N6 thuộc nhánh 2.3.4.4g và 2.3.4.4h (Cục Thú y
, 2020). Do đó các loại vacxin được sử dụng cho công tác tiêm phòng hiện nay là:
- Vacxin cúm gia cầm H5N1 Navet-Vifluvac sử dụng để phòng bệnh cúm gia
cầm do virus cúm A/H5N1 nhánh 1, A/H5N1 nhánh 2.3.2.1c và A/H5N6 nhánh
2.3.4.4 gây ra.
- Vacxin cúm H5N1 Re-6 sử dụng để phòng bệnh cúm gia cầm do virus cúm
A/H5N1 nhánh 2.3.2.1c gây ra.
- Vacxin H5N1 Re-5 có thể phòng bệnh cúm gia cầm do virus cúm A/H5N1
nhánh 1 và virus cúm A/H5N6 nhánh 2.3.4.4 gây ra.
Hiện nay, Việt Nam chưa phát hiện virus cúm A/H7N9. Tuy nhiên, nguy cơ
virus cúm A/H7N9 và các virus cúm gia cầm khác như A/H5N2, A/H5N8 xâm
nhiễm là rất cao.
Vì vậy, cần tăng cường hoạt động giám sát chủ động đặc biệt là tại các tỉnh
vùng biên giới, các chợ buôn bán, các điểm thu gom gia cầm sống để phát hiện
thêm các chủng virus mới cũng như xác định sự lưu hành của virus tại các địa
phương qua đó đưa ra các cảnh báo sớm, các khuyến cáo kịp thời trong công tác
phòng chống dịch.
1.1.8. Nguyên lí phản ứng Real time PCR
- Phản ứng Real time PCR là một kỹ thuật PCR sử dụng các đặc điểm của quá trình sao chép DNA. Trong phản ứng PCR truyền thống, sản phẩm khuyếch đại
17
được phát hiện qua phân tích điểm kết thúc bằng cách điện di DNA trên gelagarose khi phản ứng kết thúc. Ngược lại, RT – PCR cho phép phát hiện và định lượng sự
tích lũy DNA khuyếch đại ngay khi phản ứng đang xảy ra. Khả năng này được phát
hiện nhờ bổ sung vào phản ứng những phân tử phát huỳnh quang. Những hóa chất
phát huỳnh quang bao gồm thuốc nhuộm liên kết DNA và những trình tự gắn huỳnh quang liên kết đặc hiệu với Primer gọi là Probe. Khi DNA tương hợp với primer thì
quá trình sao chép sẽ xảy ra và sự gia tăng lượng tín hiệu huỳnh quang tỷ lệ với sự gia tăng lượng DNA. Ban đầu, tín hiệu huỳnh quang còn ở tín hiệu nền ta không thể
phát hiện sự gia tăng tín hiệu cho dù có quá trình khuyếch đại và sản phẩm đã tăng
theo hàm mũ. Đến một thời điểm xác định, sản phẩm khuyếch đại đã tạo ra đủ tín
hiệu huỳnh quang có thể phát hiện được. Chu kỳ này được gọi là chu kỳ ngưỡng CT
(Cycle of threshold). Đây cũng là giá trị để đánh giá kết quả phản ứng. Cúm gia cầm type A có vật chất di truyền là RNA nên trong phản ứng realtime PCR có thêm
quá trình sao chép ngược từ RNA → cDNA gọi là Reversetranscription nên phương
pháp này được gọi là Real time RT – PCR
- Nguyên lí hoạt động của Probe. Có nhiều loại hóa chất phát huỳnh quang
dựa trên Primer và Probe, hóa chất được sử dụng trong phản ứng Real time RT –
PCR là Taqman Probe.
Hình 1.3. Cơ chế hoạt động của Taqman probe
(http://en.wikipedia.org/wiki/TaqMan)
18
Taqman probe được sử dụng như một trình tự oligonucleotide đặc hiệu, gắn
chất huỳnh quang gọi là mẫu dò Taqman probe, cùng với các primer. Taqman probe
gắn một chất phát huỳnh quang ở đầu 5’ và một chất hấp phụ huỳnh quang ở đầu 3’.
Khi còn nguyên vẹn, tín hiệu của chất phát huỳnh quang bị hấp thụ do nó nằm gần
chất hấp phụ. Trong giai đoạn kết hợp bắt gặp và kéo dài DNA trong phản ứng
khuếch đại, probe liên kết với trình tự đích và hoạt động 5’- 3’ exonuclease đặc hiệu
cho DNA mạch đôi của Taq sẽ cắt đứt đầu gắn chất huỳnh quang. Kết quả chất
huỳnh quang bị tách khỏi chất hấp phụ và tín hiệu huỳnh quang phát ra tỷ lệ với
lượng sản phẩm khuyếch đại trong mẫu.
1.2. Tổng quan kết quả nghiên cứu trên thế giới
Cúm gia cầm lần đầu được phát hiện ở Italia vào năm 1878 với tên gọi là
dịch tả gia cầm (Fowl plague) (Stubb và cs., 1965) nhưng mãi tới năm 1901 mới
xác định được yếu tố gây bệnh là căn nguyên siêu nhỏ có khả năng qua màng lọc và
tới năm 1955 mới xác định được nguyên nhân chính xác nguyên nhân gây bệnh
cúm gia cầm là virus cúm type A thông qua kháng thể bề mặt A/H7N1 và A/H7N7
gây chết nhiều ở gà, gà tây và các loại động vật khác (Beard và cs., 1998).
Bên cạnh đó virus cúm gia cầm còn lây lan và tạo ra các đại dịch gây tử vong
rất lớn trên người.
Từ năm 1889 – 1890 đã xảy ra 1 đợt dịch cúm làm chết khoảng 1 triệu người
trên thế giới. Nguyên nhân được xác định có thế do 2 chủng virus cúm H3N8 hoặc
H2N2 (Valleron, 2010).
Năm 1918 – 1919, một đại dịch cúm (cúm Tây Ban Nha) đã nổ ra với mức độ
trầm trọng đã gây tử vong khoảng 20 – 100 triệu người trên toàn thế giới. Các
nghiên cứu sau này đã chứng minh được virus gây ra đại dịch này là H1N1
(Taubenberger và cs, 1997).
Cúm Châu Á hay cúm Nga xảy ra trong giai đoạn 1889 - 1890 do virus cúm
type A/H2N2 gây nên, bắt đầu từ Hong Kong năm 1957. Số người tử vong ước tính
từ 1 đến 1,5 triệu người.
Cúm Hong Kong – Hong Kong Flu do virus cúm type A/H3N2, xảy ra năm
1968. Tổn thất tử vong ước tính vào khoảng 0,75 đến 1 triệu người
19
Cúm Nga – Russia flu do virus cúm type A/H1N1 xảy ra năm 1977.
Đại dịch cúm H1N1 giai đoạn 2009 – 2010 đã gây tử vong cho khoảng hơn
100 nghìn tới gần 400 nghìn người trên thế giới.
Chủng virus cúm A/H5N1 được phát hiện lần đầu tiên gây bệnh dịch trên gà
tại Scotland vào năm 1959 và có thể là biến thể H5N1 đầu tiên trên thế giới.
Năm 1997 ở Hong Kong, lần đầu tiên virus cúm gia cầm H5N1 đã gây ra ổ
dịch trên gia cầm và lây sang người làm 18 người nhiễm bệnh, 6 người chết và hàng
triệu gia cầm đã bị tiêu hủy nhằm ngăn chặn dịch lây lan. Đây là lần đầu tiên virus
cúm A/H5N1 gây bệnh trên người (Wu và cs, 2008).
Từ tháng 12/2003 đến tháng 3/2004, bệnh cúm gia cầm đã liên tiếp xảy ra với
quy mô lớn ở 11 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á. Sự lây lan nhanh chóng dịch cúm
gia cầm xảy ra đồng thời ở một số nước đã trở thành mối quan tâm lớn trên toàn cầu.
Các chủng virus gia cầm độc lực cao đã được phân lập và định type là chủng H5N1, ở
Đài Loan là chủng H5N2 (Bùi Quang Anh, 2005; Nguyễn Tiến Dũng và cs, 2004;
Phạm Sỹ Lăng, 2004; Tô Long Thành, 2004). Từ đó đến nay, hàng năm dịch đều xảy
ra tại nhiều nước trên thế giới với nhiều chủng virus khác nhau.
Tính đến hết tháng 12 năm 2019, dịch cúm gia cầm đã xảy ra tại 53 quốc gia
và vùng lãnh thổ tại tất cả các châu lục trong đó chủ yếu tại các quốc gia châu Á
(http://www.oie.int).
Từ khi dịch cúm gia cầm tái bùng phát trở lại tới nay, hàng năm vẫn có rất
nhiều quốc gia giới thông báo đã xảy ra các ổ dịch cúm gia cầm.
Các quốc gia thuộc Châu Á đặc biệt là khu vực Đông Á và Đông Nam Á như
Trung Quốc, Ấn Độ, Camphuchia, Indonesia, Việt Nam... Được coi là khu vực tồn
tại lâu dài các ổ dịch do có nhiều điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh lưu hành như
tổng đàn gia cầm lớn, phương thức chăn nuôi, buôn bán, giết mổ lạc hậu (Phạm
Thành Long, 2016).
Virus cúm liên tục biến đổi tạo ra các chủng virus mới gây bệnh trên gia cầm.
Ở giai đoạn 2003 - 2004 mới chỉ có 2 chủng virus gây bệnh là H5N1 và H5N2 thì
tới nay đã xuất hiện hơn 10 chủng virus cúm có khả năng gây bệnh cho gia cầm và
bùng phát thành dịch. Tại một số quốc gia hiện mới chỉ phát hiện 1 chủng virus như
Ấn Độ (H5N1), Nam Phi (H5N2), Mexico (H7N3)… Bên cạnh đó tại các quốc gia
20
khác đã phát hiện nhiều chủng virus khác nhau gây bệnh cho gia cầm như: Trung
Quốc (H5N1, H5N2, H5N3, H5N6, H5N8, H5N9), Đức (H5N1, H5N8, H7N7),
Việt Nam (H5N1, H5N6)... gây khó khăn cho công tác chẩn đoán xác định mầm
bệnh cũng như tốn kém về kinh tế cho công tác phòng chống dịch.
Không chỉ gây bệnh cho gia cầm, các chủng virus cúm đã lây sang người gây
tỷ lệ tử vong rất cao có khi lên tới 100%. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế
thế giới (WHO) đến tháng 9/2018, tổng cộng có 861 người bị nhiễm vi rút cúm
A/H5N1 tại 16 quốc gia, trong đó có 455 (chiếm 52,8%) trường hợp tử vong, được
tổng hợp như sau: từ năm 2003 - 2009: virus CGC đã lây nhiễm cho 468 người của
16 quốc gia, trong đó 282 người tử vong (gồm cả Việt Nam). Từ năm 2010 - 2014:
Vi rút A/H5N1 CGC đã lây nhiễm cho 233 người tại 07 quốc gia, trong đó 125
người tử vong (gồm cả Việt Nam). Từ năm 2015 - 2017: virus CGC A/H5N1 đã lây
nhiễm cho 159 người tại 04 quốc gia, trong đó 47 người tử vong (không có Việt
Nam). Năm 2018 – 10/2019 không ghi nhận ca bệnh cúm A/H5N1 trên người
(http://www.who.int).
Trong các quốc gia có người mắc và tử vong do bệnh cúm thì Ai Cập là quốc
gia chịu thiệt hại lớn nhất với 346 ca mắc, 116 ca tử vong trong đó đặc biệt nghiêm
trọng vào năm 2015 với 136 ca mắc và 39 ca tử vong. Cùng với Indonesia với 199
ca mắc, 167 ca tử vong. Hai quốc gia này năm nào cũng có người mắc và tử vong
do bệnh cúm gia cầm.
Các ca mắc và tử vong trên người tập trung chủ yếu ở các nước thuộc Châu
Á và Châu Phi đặc biệt là khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Năm 2013, tại Trung Quốc đã xảy ra dịch cúm A/H7N9 trên người nhiều
tỉnh thành trong cả nước sau đó dịch tiếp tục được phát hiện tại một số quốc gia
khác như Hồng Kong, Đài Loan, Canada và Malaysia. Đến tháng 9/2018 đã ghi
nhận 1.625 trường hợp dương tính với cúm A/H7N9 ở người trong đó 623 người
chết (tỷ lệ 38,3%). Trung Quốc là quốc gia ghi nhận nhiều nhất. Hiện tình hình dịch
cúm A/H7N9 trên người tại Trung Quốc vẫn diến biến phức tạp. Đặc tính của virus
cúm A/H7N9 là dễ biến đổi, thích nghi cao với động vật có vú, có khả năng lây lan
21
rộng. Tuy nhiên, đến nay chưa có hiểu biết đầy đủ các nguồn lây bệnh. Đặc biệt
biểu hiện cúm A/H7N9 ở gia cầm không rõ ràng (http://www.fao.org).
Cũng vào cuối năm 2013 tại tỉnh Giang Tây - Trung Quốc đã phát hiện 1 ca
mắc và tử vong do virus bệnh cúm A/H10N8 kết quả nghiên cứu cho thấy đã tìm
thấy virus trên các loài chim hoang dã, đã có biến đổi và lây sang người.
* Tình hình dịch cúm H5N6 trên thế giới
Chủng virus cúm type A/H5N6 đã từng được phát hiện ở vịt trời và chim
hoang dã tại Thụy Điển, Đức, Mỹ và Đài Loan tuy nhiên chưa ghi nhận các ổ dịch
trên gia cầm. Chủng virus này lần đầu được phát hiện gây bệnh trên gia cầm vào
tháng 4 năm 2014 tại Tứ Xuyên, Tây Nam, Trung Quốc, cơ quan chức năng đã
phải tiêu hủy 1.338 con gà. Cũng tại đây, lần đầu tiên một người đàn ông 49 tuổi tử
vong do nhiễm virus cúm A/H5N6.
Vào tháng 7 năm 2014, tại tỉnh Luang Phabang, Lào cũng đã phát hiện ổ dịch
cúm A/H5N6 trên đàn gia cầm 200 con của 1 hộ chăn nuôi (WWW.oie.int).
Tháng 9/2014, tiếp tục phát hiện các ổ dịch cúm A/H5N6 tại thành phố Cáp
Nhĩ Tân, tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc với hơn 86 nghìn con ngỗng đã bị tiêu
hủy bắt buộc (WWW.oie.int).
Đầu năm 2015 xuất hiện 1 trường hợp bệnh nhân nam 44 tuổi, sống ở Khu tự
trị Tây Tạng, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc có tiền sử tiếp xúc với chim hoang dã
chết. Mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân được xét nghiệm cho kết quả dương tính với
cúm A/H5N6. Như vậy, tính tới tháng 6/2016, trên lãnh thổ Trung Quốc đã xảy ra
35 ổ dịch cúm gia cầm H5N6 với gần 52 nghìn con mắc bệnh, số gia cầm phải tiêu
hủy lên tới 273 nghìn con và 2 trường hợp mắc bệnh trên người trong đó có 1
trường hợp tử vong (http://www.vncdc.gov.vn).
Năm 2016, thông qua chương trình giám sát chủ động, các nhà khoa học Hồng
Kong đã phát hiện virus H5N6 trên mẫu bệnh phẩm thu thập từ chim hoang dã
(WWW.oie.int). Cũng theo Tổ chức thú y thế giới, virus cúm A/H5N6 là chủng
virus có độc cao nhưng chưa có bằng chứng lây truyền từ người sang người.
22
Năm 2017 tái tổ hợp địa phương tại Trung Đông và Châu Âu đã kết luận virus
H5N6 tại Hà Lan không phải bệnh lây truyền giữa động vật và người do khác gen.
Từ 2018 đến nay có 23 ca nhiễm bệnh trên người, tất cả các ca nhiễm trên
người đều ở Trung Quốc.(http://www.fao.org)
1.3. Tổng quan kết quả nghiên cứu ở việt nam
Bệnh cúm gia cầm xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam vào cuối tháng 12/2003
do virus cúm gia cầm H5N1 độc lực cao (HPAI) gây ra. Kể từ khi dịch xuất hiện,
đến năm 2015 đã có 5.611 ổ dịch cúm gia cầm với khoảng 60 triệu con gia cầm mắc
bệnh phải tiêu hủy bắt buộc. Nghiêm trọng hơn, virus cúm đã lây sang người làm
127 người mắc bệnh, số bệnh nhân tử vong là 64 người (Phạm Thành Long, 2016).
Nguyễn Hữu Đệ (2011) cho biết, dịch cúm gia cầm xảy ra trên địa bàn tình
Bắc Ninh từ năm 2004 - 2010 chia làm 7 đợt chính, đã có 434 lượt hộ chăn nuôi gia
cầm tại 127/699 thôn (18,17%), của 65/165 xã, phường, thị trấn (51,59%) thuộc 8/8
huyện, thị xã, thành phố (100%) xảy ra dịch; tổng số gia cầm mắc bệnh và buộc
phải tiêu hủy 221.604 con (trong đó gà 190.796 con, thủy cầm 30.808 con).
Theo Văn Đăng Kỳ (2012), từ đầu năm 2012 đến tháng 3/2012, dịch cúm gia
cầm đã xảy ra ở 59 xã /phường của 42 huyện /quận thuộc 14 tỉnh /thành. Tổng số
gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu huỷ là 66.373 con, trong đó gồm 8.711 gà, 56.550
vịt, 1.112 ngan.
Trong năm 2014 đã xảy ra 181 ổ dịch tại 96 huyện, 33 tỉnh trong cả nước, số
gia cầm phải tiêu hủy là 212.780 con. Trong năm này có 2 ca mắc bệnh ở người và
đều đã tử vong (Cục Thú y, 2014).
Theo Lê Văn Lương (2015), có 33 tỉnh trên phạm vi cả nước có gia cầm mắc
bệnh cúm vào năm 2014, dịch xảy ra tại 93 huyện, 158 xã với tổng số 212.600 gia
cầm mắc bệnh, cụ thể có 84.972 gà, 136.426 vịt và 119 ngan mắc bệnh.
Trong năm 2016, dịch xảy ra tại 07 xã, phường của 06 huyện, thị xã thuộc 03
tỉnh, thành phố (Nghệ An, thành phố Cần Thơ và Cà Mau). Số gia cầm mắc bệnh là
4.767 con (gà 1.517 con, chiếm 31,8% tổng số mắc bệnh, vịt 2.720 con, chiếm
57,1% và ngan 530 con, chiếm 11,1%); trong đó số tiêu huỷ là 6.182 con, bao gồm
23
cả gia cầm khỏe mạnh trong cùng đàn mắc bệnh (gà chiếm 35% trong tổng số chết,
vịt chiếm 55,3% và ngan chiếm 9,7%).
Năm 2017, toàn quốc đã xảy ra 34 ổ dịch cúm A/H5N1 và 6 ổ cúm A/H5N6
tại 32 huyện thuộc 21 tỉnh, thành phố (Cao Bằng, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hà Nam,
Nam Định, Hà Tĩnh, Nghệ An, Đắk Lắk, Đắk Nông, Sóc Trăng, TP Cần Thơ, An
Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Hậu Giang, Đồng Nai, Tây Ninh,Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế, Quảng Ngãi và Kon Tum). Số gia cầm mắc bệnh và buộc phải tiêu hủy
là 95.761 con gà, vịt là 37.443 và ngan là 935 con (Cục thú y, 2017).
Năm 2018 dịch xảy ra tại 2 xã, phường của 2 huyện thuộc tỉnh, thành phố
(Quảng Ninh) mắc cúm gia cầm A/H5N1. Số gia cầm mắc bệnh, chết và buộc phải
tiêu hủy là 5.010 con (gà 3.880 con, vịt 1.130 con) (Cục Thú y, 2018).
Năm 2019 dịch xảy ra tại 7 xã, phường của 6 huyện thuộc 6 tỉnh, thành phố
(Đăk Lăk, Long An, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang). Số gia cầm
mắc bệnh, chết và buộc phải tiêu hủy là 47.545 con (gà 5.445 con, vịt 5.500 con,
chim 33.000 con).
Từ đầu năm đến tháng 6/2020, cả nước có 45 ổ dịch tại 33 xã, phường của 26
huyện, thị thuộc 15 tỉnh, thành phố, số gia cầm chết và buộc phải tiêu hủy trên
137.180 con. Trong đó có 6 ổ dịch cúm A/H5N1 và 39 ổ dịch cúm A/H5N6 tại 15
tỉnh (Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hòa Bình, Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình,
Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Trà Vinh, Vĩnh Long,
Cần Thơ) (BNNPTNT, 2020).
Qua các diễn biến dịch cúm gia cầm tại nước ta trong thời gian qua cho thấy:
thời gian xảy ra các ổ dịch cúm gia cầm A/H5N1, A/H5N6 thường tập trung vào các
tháng cuối năm và kéo dài tới các tháng đầu năm đặc biệt thường tập trung vào dịp
Tết nguyên đán. Điều này cũng phù hợp với thực tế tại nước ta đây là giai đoạn
chuyển mùa, thời tiết thuận lợi; hoạt động chăn nuôi, vận chuyển buôn bán gia cầm
diễn nhộn nhịp để phục vụ nhu cầu thịt gia cầm rất cao của người dân trong dịp tết
đã tạo điều kiện lý tưởng cho mầm bệnh phát triển và lây lan.
24
Các ổ dịch thường tập trung chủ yếu tại các tỉnh thuộc 3 vùng đồng bằng lớn
của cả nước là đồng bằng Sông Hồng, các tỉnh duyên hải Miền trung và các tỉnh
thuộc khu vực đồng bằng Sông Cửu Long. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với
đặc điểm đây là những vùng có tổng đàn gia cầm lớn, mật độ chăn nuôi gia cầm rất
cao, hoạt động buôn bán, vận chuyển gia cầm và các sản phẩm gia cầm rất nhộn
nhịp, tình trạng buôn bán gia cầm nhập lậu qua biên giới tại các tỉnh phía Bắc, hoạt
động nuôi vịt chạy đồng tại các tỉnh phía Nam do đó có nhiều cơ hội thuận lợi cho
virus cúm phát tán và lây bệnh cho gia cầm.
25
Chương 2
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, phạm vi
2.1.1. Đối tượng
Gia cầm sống (gà, vịt): Lấy mẫu swab (hầu, họng); Mẫu môi trường (mẫu
phân tươi, mẫu nước thải, mẫu nước uống, mẫu chất thải trên lông nhốt gia cầm)
của gia cầm sống bán tại các chợ (điểm) buôn bán gia cầm của tỉnh Quảng Ninh.
2.1.2. Phạm vi
2.1.2.1. Địa điểm
-Điểm lấy mẫu: phường Minh Thành, chợ Rừng, chợ Trung tâm TP. Cẩm Phả,
chợ Ka Long TP Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh.
- Trạm chẩn đoán xét nghiệm bệnh động, thực vật - Chi cục Chăn nuôi và Thú
y tỉnh Quảng Ninh.
Hình 2.1. Bản đồ thể hiện các chợ buôn bán gia cầm sống được lấy mẫu theo
không gian
26
2.1.2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 1/2019 đến tháng 6/202
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh cúm gia cầm ở tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020
- Sự phân bố bệnh cúm gia cầm và type/subtype gây bệnh tại các huyện, thành,
- Tình hình dịch cúm gia cầm tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020
thị của tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 - 6/2020
- Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo mùa
- Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo loại gia cầm
- Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo phương thức chăn nuôi
- Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo quy mô đàn gia cầm
2.2.2. Tình hình tiêm vacxin cúm A/H5N1 của tỉnh Quảng Ninh
- Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh Quảng Ninh năm 2019
- Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh Quảng Ninh nửa
đầu năm 2020
- Tình hình tiêm vacxin cúm A/H5N1 tại một số huyện, thị, thàn phố của tỉnh
Quảng Ninh
2.2.3. Nghiên cứu lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ gia cầm sống
- Kết quả lấy mẫu tại các chợ
- Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm virus cúm type A trong các mẫu giám sát.
- Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm virus cúm subtype H5 trong các mẫu giám sát.
- Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm virus cúm subtype N6 trong các mẫu giám sát.
- Nghiên cứu lưu hành virus cúm A/H5N6 qua các vòng lấy mẫu.
- Nghiên cứu lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ lấy mẫu.
27
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra dịch tễ học
Phương pháp điều tra hồi cứu được sử dụng nhằm thu thập, tổng hợp thông tin
từ các Trung tâm dịch vụ nông nghiệp, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Quảng Ninh,
Cục thú y về tình hình chăn nuôi gia cầm, diễn biến dịch cúm gia cầm và các
type/subtype gây bệnh, kết quả tiêm phòng vacxin, kết quả xét nghiệm mẫu giám
sát lưu hành tại các chợ và điểm thu gom. Từ đó đánh giá được hiệu quả của việc
tiêm phòng vacxin cúm trên thực địa của tỉnh Quảng Ninh.
2.3.2. Phương pháp phân tích dịch tễ học
Phương pháp phân tích dịch tễ học được dùng để đánh giá một số đặc điểm
dịch tễ của bệnh cúm gia cầm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
2.3.3. Phương pháp lấy mẫu và bảo quản
Phương pháp lấy mẫu (theo tài liệu hướng dẫn của Cục thú y 2019)
* Phương pháp lấy mẫu swab hầu họng
- Tổng số mẫu swab tại mỗi địa điểm là 06 mẫu.
- Cách lấy: Mỗi con gia cầm lấy 01 (một) mẫu dịch ngoáy hầu, họng. Sau đó,
mẫu của 05 con gia cầm đó được cho vào cùng một ống đựng mẫu đã có dung dịch
bảo quản virus cúm (mẫu gộp). Cụ thể như sau:
+ Đối với địa điểm có bán nhiều gà và vịt: Lấy 03 mẫu gộp của gà và 03 mẫu
gộp của vịt.
+ Đối với địa điểm có bán gà nhiều hơn vịt, ngan (vịt xiêm): Lấy mẫu gà
là chủ yếu; chỉ lấy mẫu vịt và ngan (vịt xiêm) nếu địa điểm đó tại thời điểm lấy
mẫu có nhiều hơn 05 (năm) con vịt và ngan (vịt xiêm) để bảo đảm có đủ mẫu
gộp của 05 con.
+ Đối với địa điểm có bán nhiều vịt, ngan (vịt xiêm) hơn gà: Lấy mẫu vịt,
ngan (vịt xiêm) là chủ yếu; chỉ lấy mẫu gà nếu địa điểm đó tại thời điểm lấy mẫu có
nhiều hơn 05 (năm) con gà để bảo đảm có đủ mẫu gộp của 05 con.
+ Đối với địa điểm chỉ bán gà thì lấy đủ 06 mẫu gộp của gà.
28
+ Đối với địa điểm chỉ bán vịt, ngan (vịt xiêm) thì lấy đủ 06 mẫu gộp của vịt,
ngan (vịt xiêm).
- Chỉ trộn mẫu của những gia cầm được lấy tại cùng một địa điểm vào trong
cùng một ống đựng mẫu, kể cả số lượng gia cầm ít hơn 30 con/điểm lấy mẫu.
Không trộn mẫu của gia cầm ở địa điểm này với mẫu của gia cầm ở địa điểm khác.
* Phương pháp lấy mẫu swab môi trường
Mỗi quầy bán gia cầm lấy 05 (năm) mẫu phân mới tại 05 vị trí khác nhau bằng
05 tăm bông. Sau đó bỏ 05 tăm bông này vào trong cùng một ống đựng mẫu có
chứa dung dịch bảo quản vi rút cúm.
Trường hợp không có mẫu phân tại thời điểm lấy mẫu thì lấy mẫu swab để
bảo đảm đủ số lượng mẫu cho mỗi địa điểm tại mỗi vòng lấy mẫu
Trong quá trình lấy mẫu phải đảm bảo đúng kỹ thuật, tránh lây nhiễm chéo
giữa các mẫu bệnh phẩm.
2.3.4. Phương pháp nghiên cứu lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ gia cầm
sống và kỹ thuật chẩn đoán bệnh cúm gia cầm trong phòng thí nghiệm bằng kỹ
thuật PCR (Polymerase Chain Reaction)
Chẩn đoán bệnh cúm gia cầm trong phòng thí nghiệm của Chi cục Thú y vùng
II bằng kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction)
* Phương pháp xét nghiệm virus cúm A/H5N6
Bước 1: Xét nghiệm tất cả các mẫu (pool) để phát hiện vi rút cúm A.
Bước 2: Tất cả các mẫu (pool) dương tính với virus cúm A tiếp tục được xét
nghiệm để phát hiện H5.
Bước 3: Tất cả các mẫu dương tính với virus cúm H5 tiếp tục được xét nghiệm
để phát hiện N6.
Mẫu được xác định là dương tính với Real-time RT PCR nếu có giá trị Ct ≤
38; mẫu được xác định là âm tính nếu không có giá trị Ct; mẫu có giá trị Ct > 38
được coi là mẫu có kết quả nghi ngờ.
Phương pháp này được tiến hành theo quy trình hướng dẫn giám sát ban hành
bởi Cục thú y (2019), theo sơ đồ:
29
Mẫu (Swabs, mô)
Trộn 5 mẫu swabs trong cùng 1 đàn
Kết luận âm tính
Realtime RT – PCR phát hiện type A
Âm tính
dương tính
Xác định type khác
Realtime RT – PCR phát hiện subtype H5
Âm tính
Realtime RT – PCR phát hiện subtype N6
Kết luận bệnh
dương tính
Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu dịch bệnh được tổng hợp và vẽ bản đồ bằng phần mềm vẽ bản đồ
dịch tễ ArcGIS 9.3.
Kết quả xét nghiệm được nhập và xử lý qua MS. Excel năm 2007 tính tỷ lệ
dương tính xét nghiệm (tỷ lệ nhiễm p) tính theo công thức:
(trong đó a là số mẫu dương tính; n là tổng số mẫu xét nghiệm).
30
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh cúm gia cầm ở tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020.
Kể từ khi dịch cúm gia cầm xuất hiện tại nước ta vào cuối tháng 12/2003 đến
12/2018, dịch cúm gia cầm xảy ra ở 5.272 xã thuộc 874 huyện tại hầu hết các tỉnh
thành trong cả nước với khoảng 60 triệu con gia cầm các loại mắc bệnh phải tiêu
hủy bắt buộc. Mặt khác virus cúm đã lây sang người làm 127 trường hợp mắc bệnh,
trong đó có 64 ca tử vong.
Hiện nay tình hình dịch cúm gia cầm tại các tỉnh biên giới phía Bắc giáp
Trung Quốc của Việt Nam như các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, Quảng Ninh đang có
những diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Nguy cơ lây
nhiễm dịch cúm gia cầm từ Trung Quốc sang Việt Nam qua các cửa khẩu biên giới
hoặc nhập lậu gia cầm là rất lớn. Trước thực tế đó, chúng tôi tiến hành thu thập mẫu
và giám sát sự lưu hành của virus cúm gia cầm A/H5N6 tại 3 chợ và 1 điểm thu
gom của tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2015 - 6/2020.
3.1.1. Sự phân bố bệnh cúm gia cầm và type/subtype gây bệnh tại các huyện,
thành, thị của tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 - 6/2020
Giai đoạn từ 2015 đến nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hàng năm dịch cúm
vẫn dịch cúm xảy ra ở mức nhỏ lẻ, không lây lan ra diện rộng. Dịch bệnh xảy ra ở
mức nhỏ lẻ nên không ảnh hưởng nhiều đến ngành chăn nuôi, chính vì thế tổng đàn
gia cầm của tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2015 đến nay luôn duy trì ở mức ổn
định. Từ năm 2015 – 6/2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh xảy ra dịch cúm gia cầm
ở 6/14 huyện của tỉnh Quảng Ninh, Subtype gây bệnh từ giai đoạn 2015 đến 6/2020
Virus gây bệnh là cả 2 chủng H5N1 và H5N6, nhưng chủ yếu là H5N6. Dịch bệnh
nhỏ lẻ không lây lan sang diện rộng cũng phản ánh công tác phòng chống dịch của
tỉnh có hiệu quả. Số liệu chi tiết sự phân bố dịch cúm gia cầm và type/subtype gây
bệnh được trình bày ở hình 3.1 và bảng 3.1.
31
Hình 3.1. Bản đồ sự phân bố dịch cúm gia cầm và type/subtype gây bệnh
tại Quảng Ninh 2015 - 6/2020
Qua hình 3.1 cho ta thấy, tình hình dịch bệnh cúm gia cầm tại tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020 xảy ra tại 15 xã thuộc 6/14 huyện của tỉnh Quảng
Ninh. Huyện Hải Hà là huyện có nhiều ổ dịch cúm nhất, dịch xảy ra vào các năm
2015, 2016, 2017 và 2019, subtype gây bệnh là A/H5N6. Trong địa bàn tỉnh, thị xã
Quảng Yên và TP Móng Cái là 2 địa phương có subtype gây bệnh cả 2 chủng cúm
A/H5N1 và A/H5N6. Nhưng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2015 –
6/2020 subtype gây bệnh chủ yếu là cúm A/H5N6.
32
Bảng 3.1. Sự phân bố bệnh cúm gia cầm và type/subtype gây bệnh tại
Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020
Năm Huyện có dịch Xã có dịch Thời gian phát dịch
Số GC chết và tiêu hủy (con) 1.300 Type/ subtype gây bệnh A/H5N6 Hải Hà Quảng Chính 22/10/2015 2015 Ba Chẽ Minh Cầm 7/12/2015 1.000 A/H5N6
Đầm Hà Tân Lập 30/10/2016 1.915 A/H5N6
Sông Khoai 10/11/2016 3.618 A/H5N6 Quảng Yên Liên Hòa 30/11/2016 3.350 A/H5N6 2016
Ba Chẽ Thanh Lâm 20/12/2016 1.457 A/H5N6
Hải Hà Quảng Thắng 19/12/2016 232 A/H5N6
Quảng Yên A/H5N6 A/H5N1
Phong Cốc Liên Vị Quảng Điền 18/01/2017 27/4/2017 28/01/2017 2.800 5.000 2.000 2017 Hải Hà Quảng Thắng 19/11/2017 445 A/H5N6 A/H5N6
Móng Cái Hải Yên 4/4/2017 670 A/H5N1
Quảng Yên Sông Khoai 5/01/2018 1.250 A/H5N1
Quảng Nghĩa 8/4/2018 3.760 A/H5N1
2018 Móng Cái Hải Yên 19/4/2018 4.000 A/H5N6
Hải Tiến 23/12/2018 670 A/H5N6
Tiên Yên Đông Hải 10/12/2018 1.173 A/H5N6
2019 Hải Hà Quảng Chính 03/01/2019 3.000 A/H5N6
2020 Đầm Hà Dực Yên 18/1/2020 3.255 A/H5N6
Tổng 40895
(Nguồn Cơ quan thú y vùng II, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Quảng Ninh)
Qua bảng 3.1 cho thấy: trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2020, mỗi
năm dịch cúm gia cầm đều xảy ra; tuy nhiên, dịch chỉ xảy ra với quy mô nhỏ lẻ tại
một số ít hộ gia đình chăn nuôi. Cụ thể:
33
Năm 2015, dịch cúm xảy ra tại 2 xã thuộc 2 địa phương ghi nhận gia cầm
mắc bệnh; toàn bộ số gia cầm này đều bị tiêu hủy theo đúng quy định. Subtype gây
bệnh là cúm A/H5N6.
Năm 2016, dịch cúm gia cầm xảy ra với quy mô rộng hơn tại 5 xã thuộc 4
địa phương, ghi nhận gia cầm mắc bệnh, subtype gây bệnh là cúm A/H5N6.
Năm 2017, dịch cúm gia cầm tiếp tục xảy ra tại 5 xã của 3 địa phương trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh, ghi nhận gia cầm mắc cúm, subtype gây bệnh là cúm
A/H5N1 và A/H5N6.
Năm 2018, dịch cúm gia cầm vẫn tiếp tục xảy ra tại 5 xã trên địa bàn 3
huyện, thành của tỉnh Quảng Ninh, ghi nhận gia cầm mắc cúm, subtype gây bệnh là
cúm A/H5N1 và A/H5N6.
Đến năm 2019, dịch cúm gia cầm chỉ xảy ra tại 1 xã thuộc 1 huyện của tỉnh
Quảng Ninh ghi nhận gà mắc cúm, subtype gây bệnh là cúm A.H5N6.
Nửa đầu năm 2020, dịch cúm cũng xảy ra tại 1 xã thuộc 1 huyện của tỉnh
Quảng Ninh ghi nhận gà mắc cúm, subtype gây bệnh là cúm A/H5N6.
Trong giai đoạn 2015 – 6/2020, dịch cúm gia cầm xảy ra trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh có huyện chỉ xảy ra trong 1 năm, nhưng có huyện xảy ra trong 4 năm,
cũng có huyện xảy ra trong 2 năm, 3 năm. Cụ thể:
Huyện Hải Hà là địa phương xảy ra dịch cúm gia cầm thường xuyên nhất qua
các năm giai đoạn 2015 – 6/2020. Dịch xảy ra liên tục trong các năm 2015, 2016,
2017 và 2019.
Thị xã Quảng Yên là địa phương có dịch xảy ra liên tiếp trong 3 năm 2016,
2017 và 2018 trong giai đoạn 2015 – 6/2020.
Huyện Ba Chẽ, Đầm Hà, TP Móng Cái là 3 địa phương có 2 năm xảy ra dịch
trong giai đoạn 2015 – 6/2020. Tại Ba Chẽ dịch xảy ra liên tiếp vào 2 năm 2015 và
2016, tại Đầm Hà dịch xảy ra vào năm 2016 và 2020, tại TP Móng Cái dịch xảy ra
vào năm 2017 và 2018.
Huyện Tiên Yên là huyện duy nhất dịch cúm xuất hiện vào năm 2018 trong
giai đoạn 2015 – 6/2020.
34
Hình 3.2. Sự phân bố bệnh cúm gia cầm tại Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020
Kết quả ở hình 3.2 cho thấy từ năm 2015 đến 6/2020, dịch bệnh xảy ra nhỏ lẻ
và có 6 đợt dịch:
Đợt 1 từ tháng 10/2015-11/2015, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và
buộc phải tiêu hủy là 2.300 con.
Đợt 2 từ tháng 10/2016 – 12/2016, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và
buộc phải tiêu hủy là 10.572 con.
Đợt 3 từ tháng 1 – 11/2017, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc
phải tiêu hủy là 10.915 con.
Đợt 4 từ tháng 1 – 11/2018, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc
phải tiêu hủy là 10.853 con.
Đợt thứ 5 từ tháng 1/2019, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc
phải tiêu hủy là 3.000 con.
Đợt thứ 6 từ tháng 1/2020, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc
phải tiêu hủy là 3.255 con
Các đợt dịch về sau nhỏ dần so với các đợt dịch trước. Ổ dịch lớn nhất làm
chết và tiêu hủy trên 6.000 gia cầm; ổ dịch nhỏ làm chết 232 gia cầm.
35
Dịch xuất hiện rải rác, chủ yếu trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 4 và
tháng 10 đến tháng 12 hằng năm, điều này được lý giải như sau. Thời điểm hiện tại đang
có nhiều yếu tố nguy cơ khiến bệnh cúm gia cầm trở nên phức tạp hơn rất nhiều so với
trước đây như: mùa Đông Xuân với khí hậu lạnh và thay đổi liên tục làm sức đề kháng
của động vật giảm, virus tồn tại lâu ở ngoài môi trường có cơ hội xâm nhập và gây bệnh.
Từ năm 2019 đến 6/2020 địa bàn tỉnh chỉ xuất hiện 2 ổ dịch, đã giảm đi đáng kể số gia
cầm chết và buộc phải tiêu hủy so với các năm 2016, 2017, 2018 điều đó cho thấy công
tác phòng đã tạo miễn dịch cho đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh.
Theo Hoàng Thị Ngọc Lan (2017) cũng đã nghiên cứu về bệnh cúm gia cầm
tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2013 - 2017 cho biết, trong tất cả các năm điều tra,
năm nào tại Quảng Ninh cũng xảy ra dịch cúm gia cầm, tuy nhiên có đợt dịch năm
2013 là gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngành chăn nuôi gia cầm tại Quảng Ninh.
Như vậy, diễn biến dịch không có tính chất chu kỳ mà có thể kéo dài liên tục
nhiều năm tại một huyện, thành, thị. Đồng thời, có thể thấy dịch cúm gia cầm tại
Quảng Ninh trong giai đoạn 2016 - 2018 diễn biến khá phức tạp với quy mô lớn hơn so
với những năm còn lại. Năm 2019, nửa đầu 2020 do đã thực hiện tốt công tác tuyên
truyền kết hợp với các phương pháp phòng chống dịch nên khi có dịch xảy ra thì chủ
hộ chăn nuôi đã kịp thời báo cáo với cơ quan chức năng để phối hợp khoanh vùng và
dập dịch nên dịch chỉ xảy ra với quy mô nhỏ tại duy nhất 1 hộ gia đình.
3.1.2. Tình hình dịch cúm gia cầm tại Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020
Từ năm 2015- nửa đầu 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh dịch cúm gia cầm
xảy ra tại 15 xã thuộc 6/14 huyện của tỉnh Quảng Ninh, làm chết và buộc phải tiêu
hủy 40.895 con gia cầm các loại. Số gia cầm chết và tiêu hủy từ năm 2015 – 6/2020
hơn 40 nghìn con so với tổng đàn luôn duy trì gần 4 triệu như vậy tỷ lệ rất nhỏ
khoảng 1% tổng đàn. Dịch bệnh nhỏ lẻ không lây lan sang diện rộng cũng phản ánh
công tác phòng chống dịch của tỉnh có hiệu quả.
Các ổ dịch Năm 2016, 2017 và 2018 gây thiệt hại lớn hơn so với các ổ dịch
những năm còn lại, số gia cầm chết và tiêu hủy chủ yếu là ở 3 năm này (32.340 con
gia cầm bị chết và tiêu hủy, trong khi đó từ năm 2015, 2019 và nửa đầu năm 2020
là 8.555 con gia cầm bị chết và tiêu hủy). Số liệu chi tiết về dịch cúm gia cầm được
trình bày ở bảng 3.2 và hình 3.2, cụ thể:
36
Bảng 3.2. Tỷ lệ gia cầm mắc bệnh chết và tiêu hủy do cúm gia cầm từ tại
Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020
Năm Tổng đàn gia cầm (con) Số gia cầm chết và tiêu hủy do cúm Tỷ lệ (%) Số gia cầm (con)
2015 2.300 0,07 2.741.395
2016 10.572 0,31 2.882.200
2017 10.915 0,31 3.222.820
2018 10.853 0,28 3.317.000
2019 3.000 0,08 3.682.000
3.448.000
6/2020 3.255 0,09
Tổng 19.293.415 40.895 0,21
Kết quả bảng 3.2 cho thấy, tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020,
dịch cúm gia cầm xảy ra nhỏ lẻ. Cụ thể:
Năm 2015, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc phải tiêu hủy là
2.300 con, chiếm 0,07% so với tổng đàn.
Năm 2016, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc phải tiêu hủy là
10.572 con, chiếm 0,31% so với tổng đàn.
Năm 2017, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc phải tiêu hủy là
10.915 con, chiếm 0,31% so với tổng đàn.
Năm 2018, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc phải tiêu hủy là
10.853 con, chiếm 0,28% so với tổng đàn.
Năm 2019, dịch cúm gia cầm chỉ xảy ra duy nhất tại hộ gia đình ông Nguyễn
Văn Lui (thôn 3, xã Quảng Chính, huyện Hải Hà) ghi nhận số gia cầm mắc bệnh và
buộc phải tiêu hủy là 3.000 con, chiếm 0,08% so với tổng đàn.
Từ đầu năm 2020 đến nay xuất hiện 1 ổ dịch tại hộ ông Đào Văn Chung,
(thôn Tây, xã Dực Yên, huyện Đầm Hà) ghi nhân số gia cầm mắc bệnh và buộc
phải tiêu hủy là 3.255 con, chiếm 0,09% so với tổng đàn.
37
Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ mắc và tiêu hủy do bệnh cúm gia cầm
Kết quả hình 3.3 cho thấy:
Năm 2015, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc phải tiêu hủy là
chiếm 0,07% so với tổng đàn, thấp nhất trong giai đoạn 2015 – 6/2020.
Năm 2016 và năm 2017 dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc phải
tiêu hủy chiếm 0,31% so với tổng đàn, là 2 năm có tỷ lệ cao nhất trong giai đoạn
2015 – 6/2020.
Năm 2018, dịch xảy ra làm số gia cầm mắc bệnh và buộc phải tiêu hủy là
chiếm 0,28% so với tổng đàn.
Năm 2019 và nửa đầu 6 tháng đầu năm 2020 dịch cúm gia cầm xảy ra làm số
gia cầm mắc bệnh và buộc phải tiêu hủy khá tương đương nhau chiếm 0,08% và
0.09% so với tổng đàn.
Kết quả về tình hình dịch cúm gia cầm tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2015 -
6/2020 cho thấy, dịch chỉ xảy ra với quy mô nhỏ lẻ tại 1 số huyện, thị, thành. Sở dĩ
như vậy là do khi có dịch cúm gia cầm xảy ra Ban chỉ đạo phòng chống dịch của
tỉnh cũng như cơ sở; kịp thời hỗ trợ về nhân lực, vật tư, hóa chất xử lý ổ dịch cũng
như vacxin tiêm phòng bao vây dập dịch. Đồng thời, tỉnh Quảng Ninh luôn bám sát
các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Cục Thú
y trong xử lý ổ dịch cũng như thực hiện cơ chế hỗ trợ đối với vật nuôi bị thiệt hại do
38
thiên tai, dịch bệnh. Vì vậy, công tác xử lý ổ dịch, hỗ trợ thiệt hại cho người chăn
nuôi được thực hiện đúng quy định, đúng đối tượng và có hiệu quả. Điều này đã
khuyến khích người chăn nuôi kịp thời khai báo khi có dịch xảy ra.
Dịch cúm gia cầm phát sinh tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn điều tra
(2015 - 6/2020) đều trên gia cầm chưa được tiêm phòng vacxin cúm hoặc tiêm
phòng chưa đủ thời gian miễn dịch. Tại một số địa phương còn xảy ra hiện tượng
mua con giống trôi nổi, không có giấy chứng nhận nguồn gốc, không khai báo với
chính quyền địa phương khi nhập nuôi mới, khi có gia cầm ốm không báo kịp thời...
làm phát sinh dịch bệnh (Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh, 2018).
3.1.3. Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo mùa
Mùa là yếu tố được rất nhiều nhà dịch tễ học quan tâm đến vì đây là yếu tố tác
động trực tiếp đến sức đề khỏe của đàn gia cầm, đồng thời cũng là điều kiện phát triển
của virus cúm gia cầm. Qua điều tra cho thấy, dịch cúm gia cầm tại Quảng Ninh chủ yếu
xảy ra vào mùa xuân và mùa đông ở hầu hết các năm. Để hiểu rõ hơn về đặc điểm dịch
tễ của bệnh cúm gia cầm, chúng tôi đã tiến hành điều tra tỷ lệ mắc bệnh cúm theo mùa.
Kết quả tỷ lệ về bệnh cúm gia cầm được thể hiện qua bảng 3.3.
Bảng 3.3. Tỷ lệ mắc bệnh cúm theo mùa
Mùa
Xuân Hè Thu Đông
Năm
Tổng số gia cầm mắc (con) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Số lượng mắc (con)
2.300 Số lượng mắc (con) - 0 Số lượng mắc (con) - Số lượng mắc (con) - 2.300 100 0 0 2015
10.572 - 0 10.572 100 0 - 0 - 2016
10.915 4.800 43,97 5.670 51,94 445 4,07 0 - 2017
10.853 1.250 11,51 7.760 71,50 1.843 16,98 0 - 2018
3.000 3.000 100 - 0 0 - 0 - 2019
3.255 3.255 100 - 0 0 - 0 - 2020
37,07 40.895 12.305 30,08 13.430 32,84 15.160 Tính chung
39
Kết quả bảng 3.3 cho thấy, trong những năm vừa qua, dịch cúm gia cầm chủ
yếu xảy ra vào mùa đông (15.160 con bị mắc bệnh trong mùa đông so với 40.895
gia cầm bị mắc bệnh trong tất cả các đợt dịch, chiếm 37,07%). Sau đó là mùa hè (số
gia cầm bị mắc bệnh là 13.430 con so với tổng số gia cầm bị mắc bệnh trong tất cả
các đợt dịch, chiếm 32,84%). Số gia cầm mắc cúm trong mùa xuân từ năm 2015 –
6/2020 chiếm 30,08% tổng số gia cầm bị bệnh. Vào mùa thu không có dịch xảy ra.
Vào vụ đông xuân, thời tiết thường âm u, cường độ ánh sáng yếu, độ ẩm cao,
thời tiết thay đổi đột ngột, làm giảm sức đề kháng tự nhiên của con vật và khả năng
diệt trừ các mầm bệnh ngoài tự nhiên cũng hạn chế. Đây là điều kiện thuận lợi cho
các loại vi khuẩn và virus (trong đó có cả virus cúm H5N1) sinh sôi rất nhanh (tăng
về số lượng và độc lực), làm tăng khả năng gây bệnh. Hơn nữa, về mùa đông là
những tháng gần giáp tết, cho nên việc vận chuyển buôn bán gia cầm cũng tăng cao,
làm cho dịch bệnh lây lan từ vùng này sang vùng khác dễ dàng hơn, làm cho số
lượng gia cầm mắc bệnh tương đối cao.
Vào mùa hè số lượng gia cầm mắc bệnh tăng lên. Theo chúng tôi thì mùa hè là do
gia cầm chưa kịp tiêm phòng, hay do gia cầm mới được tiêm phòng vacxin sự bảo hộ
chưa cao. Do các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ kế đàn liên tục dẫn đến áp lực dịch bệnh lớn.
Hình 3.4. Biểu đồ tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo mùa
40
Kết quả hình 3.4 chúng tôi thấy, trong những năm vừa qua, dịch cúm gia cầm
chủ yếu xảy ra vào mùa xuân và mùa đông ở hầu hết các năm. Mùa hè dịch chỉ xảy
ra vào năm 2017 – 2018, mùa thu không có dịch, cụ thể:
Năm 2015: toàn bộ 2.300 gia cầm mắc bệnh cúm chết và buộc phải tiêu hủy
vào mùa đông, chiếm tỷ lệ 100%.
Năm 2016: toàn bộ 10.572 gia cầm mắc bệnh cúm chết và buộc phải tiêu
hủy vào mùa đông , chiếm tỷ lệ 100%.
Năm 2017: trong tổng số 10.915 gia cầm mắc bệnh cúm và buộc phải tiêu
hủy; có 4.800 con mắc bệnh vào mùa xuân chiếm 43,97%, có 5.670 con mắc bệnh
vào mùa hè chiếm 51,94%, có 445 con mắc bệnh vào mùa đông chiếm 4,07%.
Năm 2018: toàn bộ 10.853 gia cầm mắc bệnh, chết và buộc phải tiêu hủy; có
1.250 con mắc bệnh vào mùa xuân chiếm 11,51%, có 7.760 con mắc bệnh vào mùa
hè chiếm 71,5%, có 1.843 con mắc bệnh vào mùa đông chiếm 16,98%.
Năm 2019, tất cả 100% số gia cầm mắc bệnh, chết và buộc phải tiêu hủy do cúm
chỉ xảy ra vào mùa xuân (Số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy năm 2019 là 3000 con).
Nửa đầu năm 2020, có 3.255 con gia cầm mắc bệnh, chết và buộc phải tiêu
hủy vào mùa đông chiếm tỷ lệ 100% .
Đặc biệt từ năm 2015 đến nay đã thấy số ổ dịch xuất hiện vào mùa đông
nhiều hơn, có thể đây là thời gian mới tái đàn nhiều và thời điểm giao mùa nên khả
năng đề kháng của gia cầm kém dễ phát sinh dịch.
Khi nghiên cứu về dịch cúm gia cầm tại Bắc Giang tác giả Trần Vân Nam
(2017) cho biết dịch cúm xảy ra ở tỉnh Bắc Giang vào cả 4 mùa: xuân, hè, thu, đông.
Tuy nhiên, số gia cầm mắc bệnh cúm vào mùa đông và mùa xuân chiếm tỷ lệ cao hơn
mùa hè và mùa thu. Như vậy, kết quả điều tra về tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm tại một
số địa phương của tỉnh Quảng Ninh là phù hợp với công bố của tác giả.
Theo kết quả nghiên cứu dịch cúm gia cầm tại Quảng Ninh của Trần Thị
Thắm (2015) dịch cúm gia cầm chủ yếu xảy ra vào mùa xuân và ở hầu hết các
năm (11,09%). Vào mùa đông, số gia cầm bị mắc bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất
trong 4 mùa (79,21%). Đặc biệt từ năm 2011 đến nay đã thấy số ổ dịch xuất hiện
vào mùa đông nhiều hơn, có thể đây là thời gian mới tái đàn nhiều và thời điểm
giao mùa nên khả năng đề kháng của gia cầm kém dễ phát sinh dịch. Mùa hè, số
41
gia cầm bị mắc bệnh và tiêu hủy chiếm tỷ lệ 9,38%. Vào mùa thu dich xảy ra ít
chiếm tỷ lệ 0,31%. Kết quả của tác giả có sai khác so với điều tra của chúng tôi
nguyên nhân có sự sai khác có thể là do thời điểm nghiên cứu của chúng tôi và
tác giả khác nhau, những năm gần đây thời tiết có sự thay đổi khác biệt dẫn đến
thời điểm xảy ra dịch cũng khác nhau.
Theo báo cáo của Chi cục Thú y vùng II (2018): Năm 2017 vùng Tả ngạn
Sông Hồng xuất hiện 20 ổ dịch thuộc 8 tỉnh (Cao Bằng, Hải Dương, Lạng Sơn,
Quảng Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên và Tuyên Quang), trong đó có 15 ổ dịch xảy
ra vào vụ đông - xuân (chiếm 75%).
3.1.4. Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo loại gia cầm
Virus cúm type A rât mẫn cảm với hầu hết tất cả các loài gia cầm nuôi (gà,
vịt, ngan, ngỗng, chim cút, bồ câu) và chim hoang dã; đặc biệt gà rất mẫn cảm với
virus này. Chính vì vậy, giống, loài sẽ có ảnh hưởng nhất định đến tỷ lệ nhiễm bệnh
cúm ở gia cầm. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành điều tra tỷ lệ mắc bệnh cúm theo loại
gia cầm từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020. Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ mắc
bệnh cúm gia cầm phụ thuộc theo loại gia cầm có tại Quảng Ninh giai đoạn 2015 –
6/2020 bệnh chỉ xảy ra trên gà, vịt, ngan và ngỗng không thấy xuất hiện trên các
loài gia cầm khác. Số liệu cụ thể được thể hiện qua bảng 3.4.
Bảng 3.4. Tỷ lệ mắc bệnh cúm theo loại gia cầm
Loại gia cầm
Gà Vịt Loại khác Năm Tổng số gia cầm mắc (con) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
2015 2.300 Số lượng mắc (con) 1.300 56,52 Số lượng mắc (con) 800 34,78 Số lượng mắc (con) 200 8,70
2016 10.572 2.995 28,32 7.318 69,22 259 2,44
2017 10.915 10.763 98,60 152 1,39 0 -
2018 10.853 5.010 46,16 5.620 51,78 223 2,05
0 - 3.000 3.000 100 - 0 2019
0 - 3.255 3.255 100 - 0 2020
40.895 26.323 64,36 13.890 33,96 682 1,66 Tính chung
42
Kết quả bảng 3.4 cho thấy, loại gia cầm khác nhau thì tỷ lệ mắc bệnh cúm cũng
khác nhau. Tất bả các loài gia cầm đều có khả năng cảm nhiễm với virus cúm gia cầm,
trong đó gà mắc bệnh với tỷ lệ cao nhất (chiếm 64,36% so với tổng số gia cầm mắc
trong giai đoạn 2015 – 6/2020), sau đó đến vịt (chiếm 33,96%), các loại gia cầm khác
như ngan, ngỗng, chim bồ câu và chim cút tỷ lệ mắc bệnh là thấp nhất, chiếm 1,66%.
Theo số liệu thống kê về tình hình dịch cúm gia cầm qua các năm cho thấy:
Năm 2015, số gà nhiễm bệnh cúm chiếm tỷ lệ cao. Trong tổng số 2.300 gia
cầm mắc bệnh có 1.300 con gà, chiếm tỷ lệ 56,52%; 800 con vịt, chiếm 34,78% và
200 gia cầm khác, chiếm 8,70%.
Năm 2016, số gia cầm nhiễm cúm nhiều nhất là loài vịt, sau đó đến gà và tỷ
lệ nhiễm ít nhất là các loài gia cầm khác. Trong tổng số 10.572 gia cầm mắc bệnh
có 2.995 con gà, chiếm tỷ lệ 28,32%; 7.318 con vịt, chiếm 69,22% và 259 gia cầm
khác, chiếm 2,44%.
Năm 2017, trong tổng số 10.915 con gia cầm mắc bệnh cúm, tỷ lệ nhiễm
bệnh ở gà rất cao có 10.763 con (chiếm 98,61%) và tỷ lệ nhiễm ở vịt chỉ có 152 con
chiếm 1,39%.
Năm 2018, tỷ lệ nhiễm bệnh ở gà và vịt khá tương đương nhau, tỷ lệ nhiễm
bệnh ở loài gia cầm khác ít. Trong tổng số 10.850 gia cầm mắc bệnh có 5.010 con
gà, chiếm tỷ lệ 46,16%; 5.620 con vịt, chiếm 51,78% và chỉ có 223 gia cầm khác
nhiễm bệnh, chiếm 2.05%.
Năm 2019, có 3.000 con gà thuộc 1 hộ gia đình nuôi gà thuộc xã Quảng
Chính, huyện Hải Hà mắc bệnh cúm gia cầm, chiếm tỷ lệ 100%.
Nửa đầu năm 2020, có 3255 con gà của 1 hộ gia đình ở xã Dực Yên, huyện
Đầm Hà mắc bệnh, cúm gia cầm chiếm 100%.
Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu của Đỗ Thị Vân Giang
(2019), tất cả các loài gia cầm đều có khả năng cảm nhiễm với virus cúm gia cầm,
tuy nhiên, trong các năm điều tra tại tỉnh Quảng Ninh không thấy bệnh xuất hiện
trên các loại chim nuôi (bồ câu, chim cút…) mà chỉ xuất hiện trên đàn gà, vịt, ngan
và ngỗng. Số lượng gà mắc bệnh cúm chiếm tỷ lệ cao nhất chiếm (61,28%), tiếp
đến vịt chiếm (35,22%) và thấp nhất ở ngan, ngỗng chiếm (3,49%).
43
Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo loại gia cầm
Kết quả hình 3.5 cho thấy, cột cao nhất biểu thị tỷ lệ mắc cúm gia cầm trên
loài gà là cao nhất (64,36%); tiếp đó là vịt tỷ lệ mắc (33,96%) và thấp nhất là ngan,
ngỗng (1,66%).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với Bùi Quang Anh và cộng sự
(2004), vịt nuôi bị nhiễm virus cúm H5N1 nhưng ít phát thành bệnh do vịt có sức đề
kháng với virus này.
Theo Nguyễn Trường Sơn (2018) nghiên cứu tỷ lệ nhiễm bệnh cúm theo
loại gia cầm tại Thái Nguyên và cho biết: Loại gia cầm khác nhau thì tỷ lệ bệnh
cũng khác nhau, trong đó gà mắc bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 81,98%), sau đó
đến ngan (chiếm 15,45%), vịt chiếm tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất (chiếm 2,57%). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi hơi khác so với nghiên cứu của tác giả trên có thể là
do loại gia cầm nuôi tại 2 địa phương khác nhau, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng và
phòng chống dịch bệnh khác nhau.
3.1.5. Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo phương thức chăn nuôi
Chăn nuôi gia cầm của tỉnh Quảng Ninh khá đa dạng, hiện tồn tại ba phương
thức chăn nuôi chính đó là: nuôi nhốt hoàn toàn là những hộ gia đình chăn nuôi với
số lượng nhiều (chủ yếu là chăn nuôi gà công nghiệp), với quy mô dưới 1000 con
gọi là mô hình trang trại; nuôi bán chăn thả và chăn thả tự do. Trong đó, chăn thả tự
44
do là phương thức chăn nuôi phổ biến nhất ở tỉnh Quảng Ninh, với số lượng khoảng
vài chục đến vài trăm con/hộ. Chúng tôi đã nghiên cứu về tỷ lệ gia cầm ở các
phương thức chăn nuôi khác nhau mắc bệnh cúm kết quả được thể hiện qua bảng
3.5 và hình 3.6
Bảng 3.5. Tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo phương thức chăn nuôi
Phương thức chăn nuôi
Năm
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng số gia cầm mắc (con) Nuôi nhốt (con) Chăn thả tự do (con)
2015 2.300 300 13,04 Bán chăn thả (con) 860 37,39 1.140 49,56
2016 10.572 815 7,70 1.252 11,84 8.505 80,44
2017 10.915 960 8,79 2.065 18,91 7.890 72,28
2018 10.853 670 6,17 1.845 16,99 8.338 76,82
2019 3.000 - 0 1.250 41,66 1,750 58,33
2020 3.255 - 0 1.675 51,45 1,580 48,54
40.895 2.745 6,71 8.947 21,87 29.203 71,40 Tính chung
Hình 3.6. Biểu đồ tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm theo phương thức chăn nuôi
45
Qua bảng 3.5 và hình 3.6 cho thấy: Đối với các phương thức chăn nuôi gia
cầm khác nhau thì tỷ lệ gia cầm mắc bệnh cúm khác nhau: gia cầm được nuôi theo
phương thức chăn thả tự do có tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất có 29.203 con mắc bệnh
so với tổng số gia cầm mắc bệnh là 40.895 con trong giai đoạn 2015 – 6/2020
chiếm (71,4%), phương thức bán chăn thả tỷ lệ gia cầm mắc bệnh là 8.947 con so
với tổng số gia cầm mắc bệnh chiếm (21,87%), phương thức nuôi nhốt hoàn toàn tỷ
lệ mắc thấp nhất 2.745 con chiếm (6,71%).
Như vậy, ở những gia trại chăn nuôi gà công nghiệp tập trung (nuôi nhốt)
thường thực hiện tiêm phòng bệnh đầy đủ, vệ sinh phòng bệnh nghiêm ngặt, vì vậy
tỷ lệ mắc bệnh rất thấp . Các hộ chăn nuôi theo phương thức chăn thả tự do có tỷ lệ cúm
gia cầm cao nhất là vì phương thức chăn nuôi này gia cầm thường xuyên tiếp xúc với
môi trường bên ngoài, đặc biệt là động vật mẫn cảm truyền bệnh cúm gia cầm, cũng từ
phương thức chăn thả tự do sẽ dẫn đến chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng kém, điều kiện vệ
sinh thú y không đạm bảo làm cho gia cầm dễ nhiễm bệnh và tốc độ lây lan nhanh hơn.
Các hộ này nuôi gia cầm chủ yếu là để tận dụng, cải thiện cải thiện đời sống sinh hoạt
hằng ngày nên không chú ý đến tiêm vacxin H5N1 phòng bệnh cúm cho gia cầm, các
biện pháp an toàn sinh học, cách ly gia cầm với chim hoang...cũng ít được chú trọng.
Kết quả điều tra này cũng phù hợp với công bố của Đỗ Tiến Đạt (2016) khi
nghiên cứu về tình hình dịch cúm gia cầm tại Lạng Sơn giai đoạn 2011 - 2016 đã
cho biết, việc áp dụng phương thức chăn thả tự do thì tỷ lệ gia cầm mắc bệnh cúm
là cao nhất 80,90%; bán công nghiệp 11,49% và chăn nuôi công nghiệp tỷ lệ mắc
cúm thấp nhất 7,62%.
Do vậy, để hạn chế khả năng mắc bệnh cúm gia cầm, cần làm tốt việc tuyên
truyền để người dân hiểu được tác dụng tiêm vacxin phòng bệnh, khi dịch phát ra
cần tiêu huỷ triệt để những gia cầm bị mắc bệnh để hạn chế việc lây nhiễm bệnh.
3.1.6. Tỷ lệ mắc bệnh cúm theo quy mô đàn gia cầm
Để đánh giá được những biến động về tỷ lệ mắc cúm gia cầm theo quy mô
đàn, chúng tôi tiến hành điều tra và thu thập số liệu tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn
2015 – 6/2020. Kết quả được thể hiện qua bảng 3.6 và hình 3.7.
46
Bảng 3.6. Tỷ lệ mắc bệnh cúm theo quy mô đàn gia cầm
< 200 Quy mô đàn 200 – 500 > 500
Năm Tổng số gia cầm mắc (con) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Số lượng mắc (con)
2015 2016 2017 2018 2019 2020 2.300 10.572 10.915 10.853 3.000 3.255 1.748 8.563 9.714 9.333 - - 76,00 80,99 88,99 85,99 0 0 Số lượng mắc (con) 322 1.585 873 868 - - 14,00 14,99 7,99 7,99 0 0 Số lượng mắc (con) 230 424 328 652 3.000 3.255 10,00 4,01 3,00 6,00 100 100
40.895 29.358 71,78 3.543 8,66 7.994 19,54
Tính chung
Qua bảng 3.6 và hình 3.7 cho ta thấy, tỷ lệ mắc bệnh cúm gà thay đổi theo
quy mô đàn, bệnh thường thấy ở :
Những đàn có quy mô nhỏ dưới 200 con có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất chiếm
71,78%. Thực tế cho thấy những hộ chăn nuôi manh mún, tự phát, nhỏ lẻ, thường
nuôi chung nhiều loại gia cầm với nhau như: ngan, gà, vịt… Điều kiện kinh tế hạn
hẹp, chi phí đầu tư thấp, không áp dụng những tiến bộ khoa học trong chăn nuôi và
quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, công tác tiêm phòng, khử trùng tiêu độc
không được chú trọng nên bệnh cúm gia cầm xảy ra nhiều hơn.
Những đàn có quy mô vừa (từ 200 - 500 con) mắc bệnh ít hơn nhiều có 3.543
con chiếm tỷ lệ 8,66 %.
Giai đoạn 2015 – 2018 tỷ lệ mắc ở những đàn có quy mô lớn trên 500 con
thấp, năm 2019 – 6/2020 dịch xảy ra trên 2 đàn gà có quy mô trên 500 con lớn
khiến tỷ lệ mắc cho quy mô đàn trên 500 con cao chiếm 19,54%. Điều này có sự sai
khác so với quy luật, nhưng theo chúng tôi thấy nguyên nhân chính làm cho quy mô
đàn trên 500 con có tỷ lệ mắc bệnh nhiều hơn quy mô đàn 200 – 500 con là tại tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2015 – 6/2020 là do 2 hộ chăn nuôi trên khi nhập gà về
47
không khai báo, không được kiểm dịch và đàn gà chưa được tiêm phòng vacxin
cúm gia cầm. Chính vì vậy công tác phòng bệnh và tiêm phòng cho đàn gia cầm là
rất quan trọng trong chăn nuôi.
Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ mắc bệnh cúm theo quy mô đàn gia cầm
Từ kết quả điều tra chúng tôi thấy quy mô đàn ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh
cúm gia cầm tại tỉnh Quảng Ninh. Những gia đình nuôi gia cầm với quy mô đàn vừa
và lớn thường chú trọng đến công tác vệ sinh phòng trừ dịch bệnh, áp dụng tiến bộ
khoa học vào sản xuất cho nên tỷ lệ mắc bệnh cúm gia cầm thấp hơn so với những
hộ gia đình chăn nuôi gia cầm theo quy mô nhỏ lẻ dưới 200 con.
Theo Trịnh Thị Qúy (2010) tỷ lệ mắc bệnh cúm gà thay đổi theo quy mô
đàn, bệnh thường thấy ở những đàn có quy mô nhỏ dưới 200 con, chiếm tỷ lệ
78,7%. Những đàn có quy mô vừa (từ 200- 500 con) mắc bệnh ít hơn nhiều chiếm
tỷ lệ 14,2%. Tỷ lệ mắc thấp nhất ở những đàn có quy mô lớn trên 500 con (7,1 %). .
Thực tế cho thấy, đối với những hộ chăn nuôi để kinh doanh, nuôi số lượng gia cầm
nhiều thì có ý thức cao hơn trong việc phòng bệnh cho gia cầm, cho nên tỷ lệ mắc
thấp nhất. Kết quả của tác giả có khác so với kết quả điều tra của chúng tôi, nguyên
nhân làm cho quy mô đàn trên 500 con của tỉnh Quảng Ninh có tỷ lệ mắc cao hơn
so với quy mô 200 – 500 con là do 2 hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh năm 2019 và
đầu năm 2020 nhập gà về không khai báo, đàn gà chưa được tiêm phòng vacxin
cúm gia cầm.
48
3.2. Tình hình tiêm vacxin cúm A/H5N1 của tỉnh Quảng Ninh
3.2.1. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh Quảng Ninh
năm 2019
Để nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch của đàn gia cầm, chúng tôi đã thống kê
số gia cầm của tỉnh được tiêm phòng vacxin năm 2019. Kết quả được thể hiện ở
bảng 3.7.
Bảng 3.7. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh Quảng
Ninh năm 2019
Gia cầm được tiêm
Đợt Số huyện, TP Tỷ lệ tiêm phòng (%) Gà (con) Vịt (con) Tổng số đăng ký (con)
1 14 Số gia cầm được tiêm (con) 3.052.720 2.630.000 422.720 3.420.120 89,25
2 14 3.020.522 2.520.000 500.522 3.220.002 93,80
Kết quả bảng 3.7 cho thấy năm 2019 tỉnh Quảng Ninh đã tiêm phòng vacxin
cúm cho gia cầm 2 đợt:
Đợt 1: Tiêm vào tháng 3 đến tháng 4 năm 2019. Tổng đàn gia cầm đăng ký
của toàn tỉnh là 3.420.120 con trong đó số gia cầm đã được tiêm là 3.052.720 con
chiếm tỷ lệ 89,25%. Trong đó, số con gà được tiêm là 2.630.000 và 422.720 con vịt.
Đợt 2: Tiêm vào tháng 9 đến tháng 10 năm 2019. Tổng đàn gia cầm đăng ký
của tỉnh là 3.220.002 con đã tiêm được 3.020.522 con, chiếm tỷ lệ 93,80%. Trong
đó, có 2.520.000 con gà được tiêm phòng và 500.522 con vịt.
Như vậy tỷ lệ tiêm phòng vacxin H5N1 năm 2019 ở Quảng Ninh đạt tỷ lệ
khá cao (89,25 – 93,8%), có được tỉ lệ tiêm phòng cao như vậy là nhờ thành phố đã
làm tôt công tác chỉ đạo và sự hoạt động hiệu quả của hệ thống thú y cơ sở.
3.2.2. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm của tỉnh Quảng Ninh nửa
đầu năm 2020
Chúng tôi tiếp tục theo dõi việc tiêm phòng bệnh cúm cho đàn gia cầm tại
Quảng Ninh đợt 1 nửa đầu năm 2020, kết quả thể hiện qua bảng 3.8.
49
Bảng 3.8. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm
của tỉnh Quảng Ninh nửa đầu năm 2020
Gia cầm được tiêm
Đợt Số huyện, TP Tỷ lệ tiêm phòng (%) Gà (con) Vịt (con) Tổng số đăng ký (con)
1 14 Số gia cầm được tiêm (con) 1.859.812 1.539.092 320.720 2.007.000 92,67
Nhìn kết quả bảng 3.8 cho thấy, việc thực hiện tiêm phòng cúm gia cầm tại
Quảng Ninh luôn được quan tâm chú trọng hàng đầu, tỷ lệ gia cầm được tiêm phòng
cúm luôn đạt ở mức cao 92,67%.
Theo Nguyễn Thu Thủy (2013), từ cuối năm 2005 đến nay, Việt Nam đã tổ
chức tiêm phòng vacxin (phần lớn là nhập khẩu từ Trung Quốc: H5N1, H9N2,
H5N2 và Trovac) cho đàn gia cầm, kết hợp với các biện pháp phòng chống dịch
tổng hợp khác nên đã đạt được một số kết quả nhất định như: khống chế được dịch
lưu hành, dịch không xảy ra ở diện rộng, giảm thiểu thiệt hại cho ngành chăn nuôi
gia cầm, đàn gia cầm vẫn tăng trưởng đều qua các năm, các trang trại lớn đều không
có dịch, đặc biệt đã giảm thiểu ca nhiễm bệnh cúm trên người.
Nhưng từ 2014 đến nay tình hình dịch bệnh đã diễn biến một cách phức tạp
chính vì vậy, căn cứ Kế hoạch số 282/KH-UBND ngày 30/12/2019 của UBND tỉnh
Quảng Ninh v/v Kế hoạch phòng chống dịch bệnh ngành nông nghiệp năm 2020; Căn cứ
công văn số 37/TY-DT ngày 10/01/2020 của Cục Thú y v/v cập nhật thông tin về lưu
hành vi rút CGC và khuyến cáo sử dụng vacxin; Căn cứ kết quả giám sát lưu hành thực
tế của chủng, type vi rút gây bệnh cúm gia cầm tại Quảng Ninh.
Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh khuyến cáo các địa phương trên địa bàn tỉnh
lựa chọn và sử dụng các loại vacxin để phòng bệnh cho gia súc, gia cầm năm 2020
như sau: Kết quả giám sát lưu hành virus cúm gia cầm trong các năm 2018-2019 tại
Móng Cái, Tiên Yên, Hải Hà và ổ dịch cúm gia cầm tại Đầm Hà tháng 01/2020 cho
thấy: virus gây bệnh là virus cúm gia cầm A/H5N6. Do vậy, các địa phương nghiên
cứu hiệu lực các loại vacxin sau để lựa chọn mua phù hợp: vacxin Navet-Vifluvac,
50
Navet-Fluvac 2 và K-New H5 có hiệu lực bảo hộ đối với virus cúm gia cầm
A/H5N1 nhánh 2.3.2.1 và virus cúm A/H5N6 nhánh 2.3.4.4.
Do vậy, việc phòng và thiết lập các biện pháp an toàn sinh học là hàng rào rất
quan trọng ngăn chặn sự lây truyền virus cúm. Điều này phù hợp với công bố của
Hoàng Thị Ngọc Lan (2017), tiêm vacxin là biện pháp tốt nhất trong kiểm soát và
phòng bệnh nhưng cũng cần có sự phối hợp và duy trì thường xuyên các kế hoạch
hành động, các biện pháp kiểm soát và phòng bệnh cúm gia cầm. Do vậy, việc thiết
lập các biện pháp an toàn sinh học là hàng rào rất quan trọng ngăn chặn sự lây
truyền virus cúm.
3.2.3. Tình hình tiêm vacxin cúm A/H5N1 tại một số huyện, thị, thành phố của
tỉnh Quảng Ninh
Trong năm 2014 virus cúm A/H5N6 đã được phát hiện gây bệnh trên gia cầm
tại Trung Quốc và Việt Nam, do đây là chủng virus mới, trên thế giới chưa có
vacxin phòng bệnh. Đến năm 2015 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã xảy ra dịch cúm
A/H5N6. Virus cúm A/H5N1 lưu hành phổ biến ở miền Bắc và miền Trung thuộc
clade 2.3.2.1, trong khi đó ở miền Nam thuộc clade 1.1 tuy nhiên các virus này đã
có những biến đổi so với các chủng virus H5N1 đã lưu hành trong các năm trước
(BNN&PTNT, 2012).
Hiện nay, miền Nam lưu hành đồng thời cả 2 chủng virus A/H5N1 clade
2.3.2.1c và A/H5N6 subclade 2.3.2.1c, trong đó miền Bắc và miền Trung lưu hành
virus A/H5N6 subclade 2.3.4.4h (Cục thú y, 2020).
Điều này làm giảm hiệu quả của việc tiêm phòng vacxin cúm A/H5N1. Bên
cạnh đó với đặc điểm chăn nuôi nhỏ lẻ khiến cho việc tiêm phòng trên địa bàn gặp
nhiều khó khăn và làm giảm tỷ lệ gia cầm được tiêm phòng cũng dẫn đến hiệu quả
tiêm phòng vacxin bị giảm xuống. Theo số liệu Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh
Quảng Ninh chúng tôi có kết quả tiêm phòng vaxin cho đàn gia cầm tại 3 huyện/TP
từ 2019 đến 6/2020, cụ thể trình bày ở bảng 3.9, hình 3.8.
51
Bảng 3.9. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm A/H5N1 tại một số huyện của tỉnh
Quảng Ninh
Năm Chỉ tiêu Quảng Yên TP Cẩm Phả TP Móng Cái
g 742.227 82.000 220.000
Số gia cầm tiêm 711.000 82.000 187.500 2019
Tỷ lệ tiêm phòng % 95,80 100,00 85,23
Tổng số gia cầm 355.500 40.000 110.000
Số gia cầm tiêm 346.000 28.600 110.000 6/2020
Tỷ lệ tiêm phòng % 97,33 71,50 100,00
(Nguồn Chi cục Chăn nuôi và Thú y Quảng Ninh)
Qua bảng 3.9 chúng tôi có nhận xét như sau:
Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo việc tiêm phòng, tiến
hành tiêm vào 2 đợt (đợt 1 vào tháng 3 và tháng 4 hằng năm, đợt 2 vào tháng 9 và
tháng 10 hằng năm).Nhìn chung tỷ lệ tiêm phòng vacxin cho đàn gia cầm ở 3 huyện
thị/TP tiến hành khảo sát đạt tỷ lệ khá cao, mặc dù chăn nuôi gia cầm ở đây chủ yếu
là chăn nuôi hộ gia đình, nhỏ lẻ, thả tự do nhưng nhờ làm tốt công tác tuyên truyền
vận động nên số gia cầm không được tiêm phòng không nhiều góp phần hạn chế
dịch cúm xảy ra. Cụ thể như sau:
Thị xã Quảng Yên: năm 2019 số lượng gia cầm cần tiêm phòng là 742.227
con và tiến hành tiêm phòng được 711.000 con chiếm 95,80%. Sang nửa đầu năm
2020 số lượng gia cầm tiêm phòng là 355.500 con và tiến hành tiêm phòng được
346.000 chiếm 97,33%.
TP Cẩm Phả: năm 2019 số lượng gia cầm cần tiêm phòng là 82.000 con và
tiến hành tiêm phòng được 82.000 con chiếm 100%. Sang nửa đầu năm 2020 số
lượng gia cầm tiêm phòng là 40.000 con và tiến hành tiêm phòng được 28.600
chiếm 71,50%.
TP Móng Cái: năm 2019 số lượng gia cầm cần tiêm phòng là 220.000 con và
tiến hành tiêm phòng được 187.500 con chiếm 85,23%. Sang nửa đầu năm 2020 số
lượng gia cầm tiêm phòng là 110.000 con và tiến hành tiêm phòng được 110.000
chiếm 100%.
52
Tỷ lệ tiêm phòng tại 3 huyện/TP có các chợ tiến hành lấy mẫu qua các năm
được thể hiện rõ qua hình 3.8
Hình 3.8. Kết quả tiêm phòng vacxin cúm A/H5N1 tại 3 huyện,thị/TP có các chợ
tiến hành lấy mẫu trong năm 2019 – 6/2020
Như vậy, ta có thể thấy rằng tỷ lệ tiêm phòng vacxin cho đàn gia cầm tại 3
huyện, thị/TP mà chúng tôi tiến hành lấy mẫu đạt tỷ lệ khá cao từ 71% đến 100% và
được duy trì ổn định từ 2019 đến 6/2020 đây là một con số ấn tượng khi mà phương
thức chăn nuôi tại đây chủ yếu nhỏ lẻ quy mô hộ gia đình. Trong 3 huyện, thị/TP
trên thì thị xã Quảng Yên đạt tỷ lệ tiêm phòng cao nhất khi duy trì ở mức trên 95%.
3.3. Nghiên cứu lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ gia cầm sống
3.3.1. Kết quả lấy mẫu tại các chợ
Trong những (2012 – 2014), dịch cúm gia cầm type A gần như không còn phát
dịch tại một số tỉnh phía Bắc, nhưng không có dịch không đồng nghĩa là không có
sự lưu hành của virus cúm trong các đàn gia cầm. Đặc biệt, vào những tháng cuối
năm 2014, ở Việt Nam bất ngờ xuất hiện virus cúm type A/H5N6 hoàn toàn mới
gây ra một số đợt dịch bện trên các đàn gia cầm ở nước ta. Đây là chủng virus có
độc lực cao lần đầu tiên phát hiện gây bệnh cho gia cầm vào tháng 4/2014 ở Tứ
Xuyên, Trung Quốc và gây tử vong 1 trường hợp ở đây.
53
Sau đó vào tháng 8/2014, Cục thú y cung đã xác nhận sự xuất hiện của virus
này ở Lạng Sơn (http://www.cucthuy.gov.vn). Đến tháng 10/2015 dịch cúm
A/H5N6 đã xảy ra tại tỉnh Quảng Ninh và từ đó đến nay Quảng Ninh chủ yếu xảy ra
dịch cúm A/H5N6.
Như chúng ta đã biết, do đặc thù chăn nuôi gia cầm tại nước ta chủ yếu là chăn
nuôi nhỏ lẻ, loại hình chăn nuôi nông hộ chiếm tỷ lệ lớn. Cùng với đó là thói quen
thích mua thịt gia cầm tươi sống về chế biến. Đi kèm với nó là hàng loạt các chợ
buôn bán, điểm giết mổ gia cầm sống trải dài khắp cả nước. Tại đó, người dân mua
gia cầm giống cũng như gia cầm sống và giết mổ tại chỗ. Gia cầm đến từ nhiều
nguồn khác nhau và có nhiều loài gia cầm khác nhau được bán tại chợ. Nơi bán và
giết mổ cùng một chỗ, không được vệ sinh tiêu độc khử trùng thường xuyên, người
buôn bán, người mua tiếp xúc trực tiếp với gia cầm do đó nguy cơ virus cúm gia
cầm nói chung và virus cúm A/H5N6 nói riêng từ gia cầm xâm nhập và lây nhiễm
cho người là rất cao. Để phát hiện lưu hành virus tại các chợ buôn bán gia cầm sống
nhằm cảnh bảo sớm dịch cúm gia cầm và điều chỉnh các biện pháp phòng chống
dịch cho phù hợp, chúng tôi tiến hành lấy mẫu tại 3 chợ buôn bán gia cầm sống và
một điểm thu gom; chúng tôi cũng tiến hành song song việc phân loại mẫu tại các
chợ là gà, vịt và môi trường. Các chợ lựa chọn lấy mẫu bao gồm chợ Rừng, chợ
Trung tâm Thành phố Cẩm Phả, chợ Ka Long Thành phố Móng Cái và điểm thu
gom phường Minh Thành. Số mẫu được thu thập tại các chợ và điểm thu gom thể
hiện qua bảng 3.10
Bảng 3.10. Kết quả lấy mẫu tại các chợ
Số mẫu (mẫu gộp) TT Chợ (điểm) Gà Vịt Môi trường Tổng
1 P. Minh Thành 60 42 17 119
2 TT TP. Cẩm Phả 102 0 17 119
3 Ka Long Móng Cái 102 0 17 119
4 Chợ Rừng 36 0 6 42
Tổng 300 42 57 399
54
Qua kết quả bảng 3.10 cho thấy, từ năm 2019 đến 6/2020 tôi đã thu thập được
399 mẫu bệnh phẩm (mẫu gộp) tại 03 chợ và 01 điểm thu gom với 3 loại đối tượng
là mẫu dịch ngoáy hầu, họng của gà, của vịt và mẫu môi trường.
Trong đó gà, vịt mỗi loại lấy 6 mẫu, số mẫu hầu, họng gà lấy năm 2019 –
6/2020 là 300/399 mẫu.
Mẫu hầu, họng vịt lấy trong giai đoạn 2019 – 6/2020 là 42/399 mẫu.
Mẫu môi trường mỗi loại lấy 1 mẫu, số mẫu môi trường lấy trong năm 2019 –
6/2020 là 57/399 mẫu.
Năm 2019 mỗi vòng lấy tổng số 21 mẫu/chợ, điểm thu gom và năm 2020
mỗi vòng lấy tổng 28 mẫu/chợ, điểm thu gom. Tất cả các mẫu sau khi lấy được bảo
quản đúng theo quy trình lưu giữ và được đưa về phòng thí nghiệm của Chi cục Thú
y vùng II để bảo quản và tiến hành xét nghiệm.
3.3.2. Tỷ lệ nhiễm virus cúm type A trong các mẫu giám sát
Mẫu sau khi thu thập tại chợ, điểm thu gom được gửi về Trạm Chẩn đoán xét
nghiệm bệnh động, thực vật – Chi cục Chăn nuôi và Thú y Quảng Ninh, Chi cục
Thú y vùng II.
Theo quy trình chẩn đoán cúm gia cầm, trước tiên chúng tôi tiến hành xét
nghiệm cúm type A (gene M) bằng kỹ thuật Real time RT – PCR. Tổng hợp kết quả
xét nghiệm virus cúm type A được trình bày ở bảng 3.11 và hình 3.9.
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhiễm virus cúm type A trong các loại mẫu
Kết quả XN
STT Đối tượng XN Số mẫu XN
95%CI
28,0
39,0
1 Gà 300 Số mẫu (+) 100 Tỷ lệ (%) 33,33
23,6
54,4
2 Vịt 42 16 38,09
19,9
45,2
3 Môi trường 57 18 31,57
Tổng 399 134 33,58
29,0
38,5
55
Kết quả qua bảng 3.11 cho thấy: tất cả các chợ, điểm thu gom đều phát hiện
dương tính với type A và mẫu dương tính với virus cúm type A được phát hiện trên
tất cả các loại đối tượng lấy mẫu với tỷ lệ khác nhau. Trong tổng số 399 mẫu bệnh
phẩm có 134 mẫu dương tính với virus cúm A, chiếm tỷ lệ 33,58%; với phương
pháp nhị thức chính xác khoảng tin cậy 95% cho tỷ lệ lưu hành với khoảng tin cậy
cận dưới và cận trên (29,0 – 38,5). Trong đó số mẫu dương tính trên đối tượng vịt
chiếm tỷ lệ cao nhất với 16/42 mẫu dương tính chiếm tỷ lệ 38,09% nằm trong
khoảng tin cậy (23,6 – 54,4). Tiếp đó là mẫu bệnh phẩm trên gà với 100/300 mẫu
dương tính chiếm tỷ lệ 33,33% nằm trong khoảng tin cậy (28,0 – 39,0). Thấp nhất
đối với mẫu bệnh phẩm môi trường với 18/57 mẫu dương tính chiếm tỷ lệ 31,57%
nằm trong khoảng tin cậy (19,9 – 45,2).
Hình 3.9. So sánh tỷ lệ mắc cúm A giữa các loại mẫu
Qua hình 3.9 cho thấy, tỷ lệ mắc cúm A giữa các đối tượng lấy mẫu khác
nhau. Cụ thể như sau:
Cột cao nhất là mẫu bệnh phẩm dương tính trên đối tượng vịt chiếm tỷ lệ
38,09%.
Tiếp đến là cột thấp hơn là mẫu bệnh phẩm dương tính trên đối tượng gà
chiếm tỷ lệ 33,33%.
56
Cột thấp nhất là mẫu bệnh phẩm dương tính với đối tượng môi trường chiếm
tỷ lệ 31,57%.
Kết quả này của tôi cũng phù hợp với kết quả của Phạm Thành Long (2016).
Theo đó tỷ lệ dương tính với virus cúm A cao nhất ở các mẫu bệnh phẩm của vịt
(31,43%), tiếp đó là ở gà (29,73%) và thấp nhất ở mẫu môi trường (28%).
3.3.3. Tỷ lệ nhiễm virus cúm subtype H5 trong các mẫu giám sát
Trong quá trình xét nghiệm, sau khi phát hiện các mẫu bệnh phẩm dương tính
với virus cúm type A (dương tính với gen M), chúng tôi tiếp tục tiến hành xét
nghiệm để xác định subtype H5 bằng kỹ thuật Realtime RT-PCR. Kết quả xét
nghiệm được trình bày ở bảng 3.12.
Bảng 3.12. Tỷ lệ nhiễm virus cúm Subtype H5 trong các loại mẫu
Kết quả XN
STT Đối tượng XN Số mẫu XN
300 Số mẫu (+) 0 Tỷ lệ (%) 0 Gà 1
42 0 0 Vịt 2
57 0 0 3 M. Trường
399 0 0 Tổng
Từ kết quả bảng 3.12 ta thấy, trong tổng số 399 mẫu bệnh phẩm xét nghiệm có
134 mẫu dương tính với cúm type A thu tại các chợ, điểm thu gom đều âm tính với
virus cúm subtype H5 chiếm tỷ lệ 0%.
Lý do trong 134 mẫu bệnh phẩm dương tính với cúm type A không có mẫu
nào dương tính với H5 ở các mẫu bệnh phẩm có thể lý giải như sau:
Mặc dù tại tỉnh Quảng Ninh có rất nhiều chợ gần biên giới, điểm thu gom nơi
có nguy cơ bùng phát dịch cao với số lượng lớn buôn bán gia cầm. Nhưng lại không
có mẫu nào dương tính với H5 là do việc kiểm soát, kiểm dịch được thực hiện chặt
57
chẽ, gia cầm đã được tiêm phòng vacxin trước khi vận chuyển đến để giết mổ và
đây là mẫu trên các gia cầm sống tại các chợ, điểm thu gom.
3.3.4. Tỷ lệ nhiễm virus cúm subtype N6 trong các mẫu giám sát
Cũng như đối với việc không phát hiện sự lưu hành virus cúm subtype H5
trong 134 mẫu dương tính với cúm type A, chứng tỏ không có mẫu bệnh phẩm
dương tính với virus cúm subtype N6 trên địa bàn tỉnh.
3.3.5. Lưu hành virus cúm A/H5N6 qua các vòng lấy mẫu
Với mục đích phát hiện sự xâm nhập và lưu hành của virus cúm gia cầm A/H5N6
qua các giai đoạn lấy mẫu qua đó dự đoán thời điểm dễ bùng phát dịch bệnh nhất,
chúng tôi tiến hành thống kê kết quả xét nghiệm các mẫu bệnh phẩm thu được qua các
vòng lấy mẫu. Quá trình lấy mẫu được chúng tôi được kéo dài từ năm 2019 đến tháng
6 năm 2020. Mẫu được lấy mỗi tháng một lần (01 vòng) trong thời gian 2 tuần đầu
của các tháng. Tổng hợp kết quả các vòng lấy mẫu được thể hiện ở bảng 3.13
Bảng 3.13. Lưu hành virus cúm A/H5N6 qua các tháng lấy mẫu
Tháng Tỷ lệ (%) Số mẫu (+) H5 Tỷ lệ (%) Số mẫu (+) N6 Tỷ lệ (%)
Số mẫu XN 21 Số mẫu (+) cúm A 9 T2-2019 42,86 0 0 0 0
T3-2019 21 0,00 0 0 0 0 0
T4-2019 21 23,81 0 5 0 0 0
T5-2019 21 14,29 0 3 0 0 0
T6-2019 21 28,57 0 6 0 0 0
T7- 2019 21 71,43 0 15 0 0 0
T8-2019 21 14,29 0 3 0 0 0
T9-2019 21 9,52 0 2 0 0 0
T10-2019 21 19,05 0 4 0 0 0
T11-2019 21 66.67 0 14 0 0 0
T12-2019 21 4,76 0 1 0 0 0
T1-2020 28 14,29 0 4 0 0 0
58
T2-2020 28 10 35,71 0 0 0 0
T3-2020 28 10 35,71 0 0 0 0
T4-2020 28 12 42,86 0 0 0 0
T5-2020 28 20 71,43 0 0 0 0
T6-2020 28 16 57,14 0 0 0 0
0 0 0 0 Tổng 399 134 33,58
Qua bảng 3.13 cho thấy, tỷ lệ dương tính với cúm tpye A nói chung, tập chung
trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Kết luận này
của chúng tôi cũng phù hợp với kết luận của Nguyễn Huy Đăng, (2014). Đây có thể
coi là thời điểm nhạy cảm lưu hành virus cúm type A liên quan đến 3 yếu tố chính:
Đây là thời điểm trước và sau Tết Nguyên Đán cổ truyền, là thời đểm có sự
lưu thông gia cầm nạnh nhất trong năm và tất nhiên bao gồm cả sự lưu thông và
buôn bán gia cầm có nguồn gốc ngoại tỉnh.
Đây là thời điểm mà thời tiết, khí hậu ẩm, mưa nhiều, là điều kiện thuận lợi
cho sự tồn tại và lưu hành của virus cúm type A.
Là giao thời của định kỳ tiêm phòng đại trà trong năm (tháng 4 tiêm đợt 1) và
cũng là lúc tái đàn với số lượng lớn. Thời điểm này có nhiều gia cầm chưa được
tiêm phòng hoặc tiêm phòng đã lâu, hết thời hạn bảo hộ của vacxin.
Phát hiện có lưu hành virus cúm A qua tất cả các vòng lấy mẫu. Tổng số mẫu
dương tính với virus cúm A là 134 mẫu chiếm tỷ lệ 33,58% trong đó cao nhất tại
vòng 5 (tháng 5/2020) với 20/28 mẫu dương tính (71,43%), và thấp nhất tại vòng 2
(tháng 3/2019) với 0/21 mẫu dương tính chiếm tỷ lệ 0%.
59
(Tỷ lệ %)
Hình 3.10. Lưu hành virus cúm A/H5N6 qua các tháng lấy mẫu
Kết quả ở hình 3.13 cho thấy, tỷ lệ dương tính với cúm type A nói chung,
tập chung trong khoảng thời gian từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.
Kết luận này của chúng tôi cũng phù hợp với kết luận của Nguyễn Huy Đăng
(2014). Đây có thể coi là thời điểm nhạy cảm lưu hành virus cúm type A liên
quan đến 3 yếu tố chính:
Đây là thời điểm trước và sau Tết Nguyên Đán cổ truyền, là thời điểm có
sự lưu thông gia cầm mạnh nhất trong năm và tất nhiên bao gồm cả sự lưu thông
và buôn bán gia cầm có nguồn gốc ngoại tỉnh để phục vụ nhu cầu thịt gia cầm
của người dân trong dịp tết đã tạo điều kiện lý tưởng cho mầm bệnh phát triển
và lây lan.
Là Đây là thời điểm chuyển mùa, khí hậu ẩm, mưa nhiều, là điều kiện thuận
lợi cho sự tồn tại và lưu hành của virus cúm type A.
Là giao thời của định kỳ tiêm phòng đại trà trong năm (tháng 4 tiêm đợt 1) và
cũng là lúc tái đàn với số lượng lớn. Thời điểm này có nhiều gia cầm chưa được
tiêm phòng hoặc tiêm phòng đã lâu, hết thời hạn bảo hộ của vacxin.
60
Virus cúm A/H5N6 lần đầu tiên được phát hiện gây bệnh trên gia cầm và gây
tử vong trên người được xác định ở Trung Quốc, vì vậy không phát hiện có lưu
hành virus cúm subtype H5N6 qua các vòng lấy mẫu trong tổng số 134 mẫu dương
tính với virus cúm type A.
Như vậy, qua bảng 3.11 và hình 3.9 chúng tôi có thể xác định được thời điểm
nóng và nhạy cảm đổi với virus cúm type A là thời điểm trước và sau Tết Nguyên
Đán cổ truyền, cũng là trước khi tiêm phòng vacxin đợt 1 trong năm.
Nhận định nguyên nhân không có sự lưu hành của virus cúm gia cầm A/H5N6
tại đây là do các mẫu được lấy trên gia cầm sống, khỏe mạnh và không phải là ổ
dịch. Điều này chứng tỏ công tác tiêm phòng, kiểm dịch, kiểm soát tình trạng buôn
lậu gia cầm ở vùng biên giới từ Trung Quốc sang Việt Nam, gia cầm từ các tỉnh
biên giới được vận chuyển về các địa phương và được buôn bán cùng với gia cầm
nội địa được thực hiện chặt chẽ. Cùng với việc vệ sinh tiêu độc khử trùng chợ, khu
vực buôn bán giết mổ gia cầm sau mỗi ngày chợ được duy trì thường xuyên một
phần làm cho virus cúm A/H5N6 không lưu hành các tại địa phương này.
3.3.6. Lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ lấy mẫu
Để đánh giá mức độ lưu hành rộng khắp của virus cúm A/H5N6, tôi tiếp tục
tiến hành nghiên cứu sự lưu hành của virus tại các chợ thực hiện lấy mẫu trên địa
tỉnh Quảng Ninh. Có 3 chợ và 1 điểm thu gom buôn bán gia cầm sống được tôi lựa
chọn. Qua tổng hợp kết quả xét nghiệm tại các chợ, tôi nhận thấy 3/3 chợ và điểm
thu gom đều lưu hành virus cúm gia cầm type A. Trong 3 chợ và điểm thu gom thì
cả 3 chợ là chợ Rừng, chợ TT TP Cẩm Phả, chợ Ka Long và điểm thu gom Phường
Minh Thành đều có tỷ lệ dương tính với cúm A khá cao, dao động từ 30,25% đến
50% số liệu được thể hiện qua bảng 3.14 và hình 3.11.
61
Bảng 3.14. Tỷ lệ nhiễm virus cúm A giữa các chợ lấy mẫu
Kết quả XN
STT Chợ (điểm) Số mẫu XN
95%CI
Số mẫu (+) Tỷ lệ (%)
24,4
42,0
1 P. Minh Thành 119 32,77 39
22,2
39,3
2 TT TP. Cẩm Phả 119 30,25 36
23,7
41,1
3 Ka Long Móng Cái 119 31,93 38
34,2
65,8
42 4 Chợ Rừng 50,00 21
Tổng 134 399 33,58
29,0
38,5
Qua kết quả bảng 3.14 cho thấy, trong tổng số 399 mẫu xét nghiệm có 134
mẫu dương tính với virus cúm A (dương tính với gen M) chiếm 33,58%; với
phương pháp nhị thức chính xác khoảng tin cậy 95% cho tỷ lệ lưu hành nằm trong
khoảng tin cậy cận dưới và cận trên (29,0 – 38,5). Trong đó, điểm thu gom và các
chợ có tỷ lệ lưu hành nằm phường Minh Thành có 39/119 mẫu chiếm 32,77% nằm
trong khoảng tin cậy (24,4 – 42,2), chợ Trung tâm TP Cẩm Phả có 36/119 mẫu
chiếm 30,25% nằm trong khoảng tin cậy (22,2 – 39,3), cho phép chợ KaLong TP
Móng Cái có 38/119 mẫu chiếm 31,93% nằm trong khoảng tin cậy (23,7 – 41,1) và
chợ Rừng có 21/42 mẫu chiếm 50% nằm trong khoảng tin cậy (34,2 – 65,8).
62
Hình 3.11. Lưu hành virus cúm A tại các chợ lấy mẫu
Kết quả ở hình 3.11 cho thấy: trong tổng số 399 mẫu xét nghiệm có 134 mẫu
dương tính với virus cúm A (dương tính với gen M), chiếm tỷ lệ 33,58%. Trong đó,
chợ Rừng có tỷ lệ cao nhất chiếm 50% trên tổng số mẫu bệnh phẩm đã lấy; chợ
trung tâm TP Cẩm Phả, chợ KaLong TP Móng Cái và điểm thu gom phường Minh
Thành có tỷ lệ gia cầm nhiễm virus cúm A khá tương đương nhau giao động từ
30,25% - 33,77%.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ mẫu dương tính với
virus cúm gia cầm type A tại các chợ. Nguyên nhân chủ quan là phương pháp lấy
mẫu và bảo quản mẫu trong quá trình vận chuyển về phòng thí nghiệm không đúng
kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn . Bên cạnh nguyên nhân chủ quan là
những nguyên nhân khách quan cũng ảnh hưởng tới sụ khác nhau này.
Chợ Rừng có tỷ lệ nhiễm virus cúm type A nhiều nhất là do gia cầm ở chợ
này được buôn bán nhiều, ngoài nguồn gốc được các tư thương thu gom từ Bắc
Giang còn có cả của các hộ chăn nuôi tại ở nhiều nơi khác nhau sau đó tập trung
đưa về chợ. Bên cạnh đó còn có cả các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ mang đến chợ, gia cầm
tại địa phương quanh khu chợ này không thực hiện việc tiêm phòng vacxin triệt để.
63
Từ đây gia cầm lại được giết mổ, mua bán đem đi nơi khác dẫn đến tỷ lệ nhiễm
virus cúm A cao nhất. Hai chợ và điểm thu gom còn lại có tỷ lệ gia cầm nhiễm cúm
type A thấp hơn, do số lượng gia cầm được giết mổ, buôn bán tại đây ít hơn; nguồn
gốc được kiểm định rõ ràng và công tác vệ sinh khử trùng cũng được thực hiện tốt hơn.
Sau khi có kết quả xét nghiệm dương tính với virus cúm type A (dương tính
với gen M), chúng tôi tiếp tục tiến hành phản ứng Real Time RT – PCR để xác định
xem có sự lưu hành gen H5 trong các mẫu dương tính với gen M (gen cúm A) mà
chúng tôi đã xác định được. Kết quả xét nghiệm virus cúm H5 được chúng tôi trình
bày ở bảng 3.15
Bảng 3.15. Tỷ lệ nhiễm virus cúm Subtype H5 giữa các chợ lấy mẫu
Kết quả XN cúm A Kết quả XN cúm subtype H5 STT Chợ (điểm) Số mẫu XN
Số mẫu (+) Số mẫu (+) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
1 P. Minh Thành 119 39 32,77 0 0
2 TT TP. Cẩm Phả 119 36 30,25 0 0
3 Ka Long Móng Cái 119 38 31,93 0 0
4 Chợ Rừng 42 21 50,00 0 0
Tổng 399 134 33,58 0 0,00
64
Hình 3.12. Lưu hành virus cúm A/H5N6 tại các chợ lấy mẫu
Theo kết quả bảng 3.15 và hình 3.12 chúng tôi xác định được không có mẫu
nào dương tính với virus cúm subtype H5. Mặc dù cả 3 chợ và 1 điểm thu gom có tỷ
lệ dương tính với cúm type A khá cao giao động từ ( 30,25% - 50%) nhưng không
có mẫu dương tính với virus cúm subtype H5.
Không có sự lưu hành của virus cúm subtype H5 là do công tác kiểm soát,
kiểm dịch số lượng gia cầm nhập lậu và gia cầm từ nơi khác chuyển đến đã được
thực hiện quyết liệt, triệt để. Cùng với khâu kiểm dịch tại các chợ đã được thực hiện
đầy đủ, đúng quy định. Khâu vệ sinh và sát trùng triệt để, các khu chợ đã được tiêu
độc khử trùng, quá trình vận chuyển gà vào chợ cũng đã được tiêu độc khử trùng.
Bên cạnh đó, khi gia cầm được gom lên các xe tư thương cán bộ thú y đã kiểm tra
cẩn thận rồi mới cấp phép.
Không sự lưu hành của subtype H5 nên không có sự lưu hành subtype N6 ở 3
chợ và điểm thu gom. Như vậy qua kết quả điều tra tôi nhân thấy, tỷ lệ nhiễm virus
cúm type A khá cao trong năm 2019 – 6/2020, tuy nhiên không có sự lưu hành của
sutype A/H5N6.
3.4. Đề xuất biện pháp khống chế dịch cúm gia cầm
Để chủ động ngăn chặn dịch cúm gia cầm, hạn chế thấp nhất virus cúm lây
nhiễm và gây tử vong cho người, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng, giảm
thiểu thiệt hại cho ngành chăn nuôi, cần tập trung chỉ đạo các biện pháp cụ thể sau:
- Các bộ, ban, ngành Trung ương hướng dẫn các địa phương tổ chức triển
khai thực hiện “Kế hoạch hành động ứng phó khẩn cấp đối với các chủng virus cúm
gia cầm nguy hiểm có khả năng lây sang người”.
- Cần tập trung triển khai thực hiện các biện pháp để ngăn chặn sự xâm nhập
và lây lan của virus A/H5N1, A/H5N6 và các chủng virus cúm gia cầm khác vào
Việt Nam.
- Tăng cường lấy mẫu giám sát trên gia cầm và môi trường nhằm phát hiện
virus cúm A/H7N9 và các chủng virus khác trên gia cầm nhập lậu, tại các chợ buôn
bán gia cầm sống nhằm phát hiện sớm và có biện pháp xử lý kịp thời.
65
- Tuyên truyền cho người chăn nuôi, buôn bán gia cầm thực hiện tốt công tác
vệ sinh, khử trùng tiêu độc, khuyến khích áp dụng các mô hình chăn nuôi an toàn
dịch bệnh, nâng cao hơn nữa tỷ lệ tiêm phòng vacxin cúm trên đàn gia cầm nhằm
giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm và phát tán virus.
- Khi có gia cầm bị bệnh và chết, hộ chăn nuôi phải báo ngay cho trưởng thôn
để báo cáo Ban chỉ đạo phòng chống dịch cúm gia cầm của xã và cấp trên. Căn cứ
vào kết quả xét nghiệm và tình hình phát triển của dịch, các cơ sở chăn nuôi, nơi
buôn bán gia cầm sống, cơ sở giết mổ, chế biến gia cầm phải thực hiện theo chỉ đạo
của Ban chỉ đạo phòng chống dịch cúm gia cầm cấp tỉnh quyết định việc mở rộng
phạm vi tiêu hủy gia cầm trong vùng có dịch. Phải tiêu hủy tất cả các đàn gia cầm
phát hiện có virus mặc dù không có dấu hiệu mắc bệnh.
- Tiến hành vệ sinh tiêu độc khử trùng môi trường trong vòng bán kính 3 km
từ điểm có dịch; phun thuốc khử trùng các phương tiện ra vào khu vực có dịch.
- Tiêm phòng bao vây cho toàn bộ gia cầm trong vùng vành đai 3-5 km tính từ
điểm có dịch. Khoanh vùng bán kính 3 km kể từ điểm có dịch; tổ chức giám sát đàn
gia cầm trong vùng dịch; bố trí lực lượng canh gác không để vận chuyển gia cầm và
sản phẩm gia cầm ra khỏi vùng dịch.
- Cần thông tin kịp thời, chính xác cho người dân về diễn biến tình hình dịch
cúm gia cầm và các biện pháp phòng chống dịch .
66
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Từ các kết quả nghiên cứu tại tỉnh Quảng Ninh, chúng tôi rút ra kết luận như sau:
1. Trong giai đoạn từ 2015 – 2020 tỉnh Quảng Ninh xảy ra 23 ổ dịch làm chết và
tiêu hủy 40.895 con gia cầm các loại, có sự lưu hành cả 2 chủng vius H5N1 và H5N6.
- Từ năm 2015 đến 6/2020 dịch cúm gia cầm xảy ra rải rác trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh tỷ lệ mắc bệnh và tiêu hủy là 0,30 % biến động từ 0,07 – 0,31%.
- Các mùa khác nhau thì tỷ lệ mắc bệnh khác nhau, cao nhất vào mùa đông (37,07%),
tiếp đến là mùa hè (32,84)%, mùa xuân (30,08%) và thấp nhất là mùa thu (0%).
- Gà có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là 64,36%, tiếp là vịt 33,96% và các loại gia
cầm khác là 1,66%.
- Chăn thả gia cầm tự do tỷ lệ mắc bệnh cúm cao nhất là 71,40%, bán chăn
thả 21,87% và nuôi nhốt hoàn toàn tỷ lệ thấp nhất 6,71%.
- Chăn nuôi gia cầm quy mô dưới 200 tỷ lệ mắc bệnh cúm cao nhất (71,78%),
quy mô đàn 200-500 chiếm (8,66%) và ở quy mô lớn hơn 500 con (19,54%).
2. Kết quả tiêm phòng vắc xin cúm A/H5N1 cho đàn gia cầm của tỉnh Quảng
Ninh đạt tỷ lệ khá cao
- Năm 2019 tỷ lệ tiêm phòng cho toàn đàn gia cầm của tỉnh Quảng Ninh đạt từ
89,25 – 93,80%.
- 6/202 tỷ lệ tiêm phòng đạt 92,67%.
- Tình hình tiêm phòng vacxin tại 1 số huyện, thị, thành phố có chợ và điểm
thu gom lấy mẫu của tỉnh Quảng Ninh có tỷ lệ tiêm phòng cao. Năm 2019 tỷ lệ tiêm
phòng giao động từ 85,23% - 100%, nửa đầu năm 2020 tỷ lệ tiêm phòng giao động
từ 71,50% – 100%
3. Sự lưu hành của virus cúm A/H5N6 tại các chợ gia cầm sống có tỷ lệ:
- Tỷ lệ dương tính với virus cúm A trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn
2019 – 6/ 2020 là 33.58%.
- Tỷ lệ dương tính với virus cúm subtype H5 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2019 – 6/2020 là 0%.
67
- Tỷ lệ dương tính với virus cúm subtype N6 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2019 – 2020 là 0%.
- Phát hiện 4/4 100% chợ, điểm thu gom có lưu hành virus cúm type A, không
có chợ, điểm thu gom giám sát có sự lưu hành virus cúm subtype H5, chủng lưu
hành subtype N6.
2. Đề nghị
Hàng năm phải rà soát, thống kê tổng đàn gia cầm tại các địa phương đảm bảo
chính xác, xây dựng và triển khai kế hoạch tiêm phòng vacxin cúm cho đàn gia cầm
tại địa phương theo 2 vụ xuân - hè và thu - đông cũng như tiêm phòng bổ sung cho
đàn gia cầm mới được tái đàn đảm bảo gia cầm được miễn dịch với mầm bệnh. Lựa
chọn loại vacxin phù hợp với chủng virus lưu hành tại địa phương theo khuyến cáo
của Cục Thú y.
Tiếp tục tiến hành chương trình giám sát sự lưu hành của virus cúm gia cầm
type A/H5N6 trên đàn gia cầm tại các chợ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng như
các tỉnh có đường biên giới với Trung Quốc, các tỉnh nằm trên tuyến đường vận
chuyển gia cầm nhập lậu với số lượng mẫu nhiều hơn qua các vòng trong năm. Bên
cạnh đó cần có hướng chuyển đổi, xây dựng các chợ buôn bán, các lò giết mổ tập
trung có sự quản lý, giám sát chặt chẽ của Cơ quan thú y với đầy đủ trang thiết bị kỹ
thuật nhằm nhanh chóng phát hiện và xử lý gia cầm có nguy cơ mắc cúm.
Trong chăn nuôi chú trọng đến công tác vệ sinh tiêu độc khử trùng, không
nuôi hỗn hợp gia cầm, tiêm phòng định kỳ, không giết mổ gia cầm trong khu chăn
nuôi để giảm thiểu nguy cơ gây ra dịch cúm gia cầm.
68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu trong nước:
1. Bùi Quang Anh, Văn Đăng Kỳ (2004), “Bệnh cúm gia cầm: lưu hành bệnh, chẩn đoán
và kiểm soát dịch bệnh”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập 11(3), tr. 69 - 75.
2. Bùi Quang Anh (2005), Báo cáo vềdịch cúm gia cầm, Hội nghị kiểm soát dịch
cúm gia cầm khu vực châu Á do FAO, OIE tổ chức, từ 23 – 25 tháng 2 năm
2005,thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Tuấn Anh (2006), “Dịch cúm gia cầm hai năm qua – nguyên nhân tính
chất dịch và những tồn tại”. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 3-7.
4. Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch cúm gia cầm (2014), Báo cáo công tác
phòng chống dịch cúm gia cầm.
5. Lê Phú Bình (2010), Giám sát sau tiêm phòng vacxin cúm gia cầm H5N1 tại Bình
Định trong 02 năm 2009 - 2010, Luận Văn Thạc sĩ khoa học Nông nghiệp,
Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam.
6. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2005), Tiêu chuẩn ngành - Quy trình chẩn đoán bệnh
cúm gia cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
7. Bộ Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn (2005), Hướng dẫn thực hiện một số
biện pháp phòng chống dịch cúm gia cầm (H5N1) ở gia cầm. Thông tư số
69/2005/TT-BNN, Hà Nội.
8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2020). Công điện khẩn số 735/CĐ-
BNN-TY ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc tập trung triển khai quyết liệt,
đồng bộ các giải pháp phòng, chống bệnh Cúm gia cầm.
9. Chi cục Chăn nuôi và Thú Y tỉnh Quảng Ninh (2018), Báo cáo tổng kết công tác
phòng, chống dịch cúm gia cầm giai đoạn 2014 – 2018.
10. Cục thú y (2016), Báo cáo chuyên đề Công tác thú y năm 2016 và kế hoạch
công tác Thú y năm 2017, tr 3.
11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2019), công văn số 10/TY-DT
ngày 18/01/2019 về việc triển khai chương trình giám sát cúm gia cầm do
CDC tài trợ.
69
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2019), dự thảo 6 về kế hoạch quốc gia
phòng, chống bệnh cúm gia cầm giai đoạn 2019 – 2025.
13. Nguyễn Thị Dàng (2010), Nghiên cứu một số đặc điểm dịich tễ, sự lưu hành của
bệnh cúm gia cầm và hiệu quả sử dụng vacxin trong thực địa tỉnh Bắc Ninh,
Luận văn thạc sĩ khoa học Nông nghiệp, ĐH Thái Nguyên, tr. 77.
14. Đỗ Tiến Đạt (2016), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và giám sát virus cúm
A/H5N1 gây bệnh cúm gia cầm tại tỉnh Lạng Sơn từ năm 2011 - 2016, Luận văn
thạc sĩ Thú y, ĐH Thái Nguyên.
15. Nguyễn Hữu Đệ (2011), Tình hình dịch cúm gia cầm và kết quả tiêm phòng
vacxin H5N1, H5N2 của Trung Quốc cho gà, vịt nuôi tại Bắc Ninh từ năm
2004 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Nông nghiệp, ĐH Nông nghiệp Hà Nội.
16. Đỗ Thị Vân Giang, Đỗ Thị Vân Hương, Vũ Thị Ánh Huyền (2019), “Thực
trạng dịch cúm gia cầm tại Quảng Ninh 2013 - 2018”, Tạp chí Khoa học Kỹ
thuật Chăn nuôi, tháng 6 năm 2019.
17. Nguyễn Thị Thúy Hà (2007), Nghiên cứu đáp ứng miễn dịch của gà tại một số
cơ sở chăn nuôi gà giống quốc gia được sử dụng vacxin phòng chống cúm gia
cầm H5N1, Luận Văn Thạc sĩ khoa học Nông nghiệp, Viện khoa học kỹ thuật
Nông nghiệp Việt Nam.
18. Nguyễn Bá Hiên, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Tùng, Đỗ Ngọc
Thú y, Trần Quang Vui, Huỳnh Mỹ Lệ, Trịnh Đình Thâu, Lê Văn Phan, Phạm
Đức Phúc và Phạm Thị Mỹ Dung (2014). Bệnh cúm ở người và động vật,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
19. Lê Thanh Hoà (2004), Họ Orthomyxoviridae và nhóm virus cúm A gây bệnh
cúm gà và người, Viện khoa học công nghệ.
20. Lê Thanh Hòa (2006), Chiến lược nghiên cứu ứng dụng virus vector tái tổ hợp
trong sản xuất vacxin thế hệ mới. Tạp chí Công nghệ Sinh học 4(4), tr. 397 – 416.
21. Đăng Văn Kỳ (2012), “ Dịch cúm gia cầm từ đầu năm 2012 đến nay và các biện
pháp phòng chống”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập 19, số 5, tr. 79 - 84.
22. Phạm Hồng Kỳ, Phạm Minh Hằng và Nguyễn Viết Không (2018). Sinh thái dịch
tễ học cúm A/H5 tại Quảng Bình. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, (1), 18.
70
23. Hoàng Thị Ngọc Lan (2017), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh cúm
gia cầm và đáp ứng miễn dịch của gà, vịt với vacxin vô hoạt H5N1, chủng RE-5
tại tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ Thú y, ĐH Thái Nguyên.
24. Nguyễn Thị Lan, Phạm Ngọc Thạch, Đào Lê Anh, Trịnh Thâu (2017), Giám sát
sự lưu hành virus cúm A (H5N1, H5N6 và H7N9) tại một số chợ ở các tỉnh
biên giới phía bắc giáp Trung Quốc, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam,
tập 15, số 2: 178-187.
25. Phạm Sỹ Lăng (2004), Diễn biến của bệnh cúm gà trên thế giới, Hội thảo một
số biện pháp khôi phục đàn gia cầm sau dập dịch, Hà Nội, tr. 33 - 38.
26. Nguyễn Văn Lâm, Tô Long Thành, Nguyễn Hoàng Đăng và Nguyễn Đăng Thọ
(2018). “Hiệu lực một số loại vacxin cúm gia cầm sử dụng trên gà chống lại virus
cúm A/H5N6 CLADE 2.3. 4.4 B”. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, (1), 11.
27. Lê Văn Lương (2015), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh cúm gia cầm và
đáp ứng miễn dịch của gà, vịt đối với vacxin A.H5N1 tại 03 huyện Tĩnh Gia,
Quảng Xương, Như Thanh tỉnh Thanh Hóa, biện pháp khống chế, Luận văn
thạc sĩ Thú y, ĐH Thái Nguyên.
28. Lưu Hữu Mãnh, Nguyễn Bá Thành, Trương Thị Kim Dung, Đặng Thanh Tùng,
Nguyễn Hiền Trung, Xầm Văn Lang, Chau Bora, Nguyễn Thị Thanh Tâm (2009),
“Một số kết quả nghiên cứu về cúm gia cầm (Avian Influenza) ở đồng bằng sông
Cửu Long”. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 11: 237-245.
29. Lưu Hữu Mãnh, Nguyễn Hiếu Thuận, Nguyễn Nhựt Xuân Dung (2011), “Khảo
sát hiệu giá kháng thể của vịt Super ở thời điểm tiêm phòng vacxin cúm gia
cầm khác nhau”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập 18, số 5, tr. 6 – 11.
30. Trần Văn Nam (2017), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh cúm gia cầm
và khả năng đáp ứng miễn dịch của gà với vacxin H5N1 tại tỉnh Bắc Giang,
Luận văn thạc sĩ Thú y, ĐH Thái Nguyên.
31. Lê Văn Năm (2004), “Bệnh cúm gà”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập 11(1),
tr. 81 - 86.
32. Lê Văn Năm (2004), “Kết quả khảo sát các biểu hiện lâm sàng và bệnh tích đại
thể bệnh cúm gia cầm ở một số cơ sở chăn nuôi các tỉnh phía Bắc”, Tạp chí
Khoa học kỹ thuật thú y, 11(3), tr. 86 - 90.
71
33. Lê Văn Năm (2007), “Đại dịch cúm gia cầm và nguyên tắc phòng chống”, Tạp
chí Khoa học kỹ thuật Thú y. Tập XIV, 2, 91-94.
34. QCVN 01-83:2011/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về bệnh động vật
– Yên cầu chung lấy mẫu bệnh phẩm, bảo quản và vận chuyển. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn.
35. Trịnh Thị Qúy (2010), Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh cúm gia cầm và sự
đáp ứng miễn dịch của gà, vịt đối với vacxin H5N1 tại tỉnh Phú Thọ,Luận văn
thạc sĩ Thú y, ĐH Thái Nguyên.
36. Quyết định số 172/QĐ-TTg ngày 13/2/2019 về việc phê duyệt ‘‘Kế hoạch quốc
gia phòng, chống bệnh CGC, giai đoạn 2019 -2025”; Công văn số 167/TTg –NN
ngày 5/2/2020 về việc chủ động phòng, chống dịch cúm A/H5N1 trên gia cầm và
ở người; Chỉ thị số 12/CT –TTg ngày 9/3/2020 về việc tập trung triển khai quyết
liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm.
37. Nguyễn Trường Sơn (2018), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, sự lưu hành
của virus cúm gia cầm và hiệu quả phòng bệnh của vacxin cúm A.H5N1 tại tỉnh
Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Thú y, ĐH Thái Nguyên.
38. Trần Thị Thắm (2015), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và hiệu giá kháng
thể sau tiêm phòng vắc xin H5N1 trên gia cầm tại tỉnh Quảng Ninh, Luận văn
thạc sĩ Thú y, ĐH Thái Nguyên.
39. Nguyễn Như Thanh (1997), Miễn dịch học Thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
40. Nguyễn Như Thanh (2001), Dịch tễ học Thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
41. Tô Long Thành (2006), “Thông tin cập nhật về bệnh cúm gia cầm và vaccine
phòng chống”, Tạp chí khoa học kỹ thuật Thú y. Tập XIII, 01, 66-76.
42. Tô Long Thành và Đào Yến Khanh (2009), “Khảo nghiệm thực địa vacxin cúm
gia cầm H5N2 nhập từ Hà Lan và Trung Quốc. Phần 1: Độ an toàn của vacxin
và đáp ứng miễn dịch của gà sau khi tiêm phòng”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật
thú y, Tập XVI, số 1 - 2009, tr 10 - 18.
43. Nguyễn Văn Thiện (2008), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
72
44. Nguyễn Đăng Thọ, Cấn Xuân Minh Đỗ Thị Hoa, Nguyễn Hoàng Đăng, Đàm
Thị Vui, Mai Thùy Dương, Nguyễn Viết Không, Tô Long Thành (2017), “Sự
phát sinh virus cúm A/H5N6 ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú
y, 24(3), 14.
45. Đỗ Ngọc Thúy (2008), Tin khoa học kỹ thuật về cúm gia cầm, (4), tr. 92 – 94.
46. Nguyễn Thu Thủy (2013), “Tình hình sản xuất và cung ứng vacxin phục vụ
công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật
Thú y, 20(1), tr. 91 - 95.
47. Nguyễn Ngọc Tiến (2013), ‘‘Tình hình dịch cúm gia cầm giai đoạn 2008-2012
và các biện pháp phòng chống”, Tạp chí khoa học kỹ thuật Thú y, tập 20, số 1,
tr 82-90.
48. Trần Thị Trúc (2013), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và biến đổi bệnh lý
của bệnh cúm gia cầm type A/H5N1 tại tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ khoa
học Nông nghiệp, ĐH Thái Nguyên, tr. 65.
2. Tài liệu nước ngoài:
49. Alexander D. J. (1993), “Orthomyxovirus Infections”, Viral Infections of
Vertebrates, Vol. III, pg. 277 - 316.
50. Alexander D. J. (1996), Highly Pathogenic Avian Influenza (fowl plague), OIE
Manual of standards for diagnostic test and vacxin, List A and B diseases of
mammals, birds and bees, 3rd ed, pg. 155 - 160.
51. Basler CF (2007), “Influenza viruses”, basic biology and potential drug targets.
InfectDisord Drug Targets 7(4), pg. 282-293.
52. Bauer TT, Ewig S, Rosloff AC, Müller EE (2006), “Acute respiratoy distress
syndrome and pneumonia”, a comprehensive review of clinical data. Clin
Infect Dis 43(6), pg. 748-756.
53. Bender C, Hall H, Huang J, Klimov A, Cox N, Hay A, Gregory V, Cameron K,
Lim W and SubbaraoK (1999), Characterization of the surface proteins of
influenza A (H5N1) viruses isolated from humans in 1997– 1998, Virology
254, pg. 115-123.
54. Bosch FX, Garten W, Klenk HD, Rott R (1981), Proteolytic cleavage of
influenza virus hemagglutininss; primary structure of the connecting peptide
between HA1 and HA2 determines proteolytic cleavability and pathogenicity
of avian influenza viruses, Virology 113, pg. 725-735.
73
55. Conenello GM, Zamazin D, Perrone LA, Tumpey T, Palese P (2007), A single
mutation in the PB1-F2 of H5N1 (HK/97) and 1918 influenza A viruses
contributes to increased virulence, PloS Pathog 3(10), pg. 1414-1421.
56. Fournié G, Guiti J, Desvaux S, Cuong VC, Dung H, Pfeiffer DU, et al (2013),
Interventions to manage the risk of influenza A (H5N1) in bird market
networks, Proc Natl Acad Sci United States, pg. 9177 - 82.
57. Gao GF (2014), Influenza and live poultry trade, Science, pg. 344: 235.
58. Haider N., Sturm-Ramirez K., Khan S. U., Rahman M. Z., Sarkar S., Poh M. K.,
Shivaprasad H. L., Kalam M. A., Paul S. K., Karmakar P. C., Balish A.,
Chakraborty A., Mamun A. A., Mikolon A. B., Davis C. T., Rahman M.,
Donis R. O., Heffelfinger J. D., Luby S. P., Zeidner N. (2015), “Unusually
High Mortality in Waterfowl Caused by Highly Pathogenic Avian Influenza
A(H5N1) in Bangladesh”, Transbound Emerg Dis.
59. Hill S. C., Lee Y. J., Song B. M., Kang H. M., Lee E. K., Hanna A., Gilbert M.,
Brown I. H., Pybus O. G. (2015), “Wild waterfowl migration and domestic
duck density shape the epidemiology of highly pathogenic H5N8 influenza in
the Republic of Korea”, Infect Genet Evol, 1348 (15), pg. 246 - 254.
60. In-Pil Mo, Yeon-Ji Bae, Seung-Baek Lee, Jong-Suk Mo, Kwang-Hyun Oh, Jeong-
Hwa Shin, Hyun-Mi Kang, Youn-Jeong Lee (2016), “Review of Avian Influenza
Outbreaks in South Korea from 1996 to 2014”, Avian Dis, 60(1), pp. 172-177.
61. Ioanna P Chatziprodromidou, Malamatenia Arvanitidou, Javier Guiti, Thomas
Apostolou, George Vantarakis, Apostolos Vantarakis (2018), “Global avian
influenza outbreaks 2010-2016: a systematic review of their distribution, avian
species and virus subtype”, Syst Rev, 7(1), pp. 17.
62. Ivan M Susloparov, Natalia Goncharova, Natalia Kolosova, Alexey Danilenko,
Vasiliy Marchenko, Galina Onkhonova, Vasiliy Evseenko, Elena Gavrilova,
Rinat A Maksutov, Alexander Ryzhikov (2019), “Genetic Characterization of
Avian Influenza A(H5N6) Virus Clade 2.3.4.4, Russia, 2018”, Emerg Infect
Dis, 25(12), pp. 2338-2339.
63. Juping Zhang, Wenjun Jing, WenYi Zhang, Zhen Jin (2018), “Avian Influenza
A (H7N9) Model Based on Poultry Transport Network in China”, Comput
Math Methods Med, 73(8), pp. 170.
80-95.