3
chóng lan rộng ra các khu vực khác trên thế giới, bao gồm Châu Âu, Châu Á và đặc biệt là Việt Nam vào
đầu năm 2019 (Liu & cs, 2021). Sự bùng phát của bệnh đã gây ra thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi lợn,
với hàng triệu con lợn bị tiêu hủy để ngăn chặn dịch lây lan. DTLCP lây truyền qua nhiều con đường khác
nhau, bao gồm tiếp xúc trực tiếp giữa lợn bệnh và lợn khỏe, qua thức ăn nhiễm virus hoặc các vật dụng,
phương tiện vận chuyển có chứa virus. Cho đến nay, chủng virus Dịch tả lợn Châu Phi đã xác định được
tổng cộng 24 genotype (Galindo & Alonso, 2017). Virus độc lực cao thường gây ra bệnh ở thể quá cấp
tính và cấp tính với tỷ lệ chết lên đến 100%. Virus độc lực trung bình gây ra bệnh ở thể cấp tính và á cấp
tính với tỷ lệ chết khoảng 60% trong khi bệnh thể mạn tính thường do virus độc lực thấp gây ra với tỷ lệ
chết từ 2 - 10% (Mighell & Ward, 2021; Li & cs., 2022).
2.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC VỀ BỆNH DỊCH TẢ LỢN CHÂU PHI
2.2.1. Nghiên cứu trong nước về bệnh Dịch tả lợn châu Phi
Việt Nam đã phát hiện bệnh Dịch tả lợn Châu Phi lần đầu tiên vào tháng 2 năm 2019 tại trại lợn
ở Hưng Yên (Le & cs., 2019). Chủng virus gây bệnh được đặt tên VNUA/HY-ASF1 thuộc p72 genotype
II và CD2v serotype VIII và đã đăng ký trong ngân hàng gen sau khi giải trình tự gen. Sau đó thì dịch
cũng được phát hiện ở nhiều tỉnh thành trên cả nước.
Kết quả phân tích virus huyết bằng phương pháp rea-ltime PCR cho thấy vào ngày thứ 2 sau gây
nhiễm bắt đầu có sự xuất hiện virus DTLCP trong máu, và virus nhân lên mạnh trong máu từ ngày 3-6 sau
gây nhiễm (Trương Quang Lâm & cs., 2020). Bên cạnh đó, một nghiên cứu khác đã xác định được đặc điểm
bệnh lý của lợn mắc bệnh DTLCP tại một số ổ dịch đầu tiên tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lợn
mắc bệnh có triệu chứng lâm sàng chủ yếu gồm sốt cao, bỏ ăn, nôn ói, xuất huyết thành nốt trên da, máu
khó đông, chảy máu mũi và hậu môn; xuất huyết nặng ở các tổ chức khác nhau (hệ thống hạch lympho, tim,
thận, dạ dày, ruột, túi mật, bóng đái...). Lách phì đại, hạch dạ dày - gan, hạch thận xuất huyết tím đen là các
bệnh tích quan sát được trên hầu hết các ca bệnh. Bệnh tích vi thể đặc trưng bởi giảm lympho bào, teo các
nang lympho ở hệ thống miễn dịch, sung huyết, xuất huyết và hoại tử ở các cơ quan nội tạng. Kết quả nghiên
cứu cho thấy những ca bệnh này thuộc thể cấp tính và quá cấp tính, gây bởi chủng virus có độc lực cao (Bủi
Thị Tố Nga & cs., 2020).
Việc ứng dụng nhuộm hóa mô miễn dịch phát hiện kháng nguyên virus DTLCP trên lợn mắc bệnh là
rất quan trọng để xác định được các vị trí cư trú của virus trên các cơ quan đích. Một nghiên cứu khác cho
thấy kháng nguyên virus tập trung nhiều nhất ở hạch, lách, tiếp đến là phổi, thận, gan, phân bố ít ở não, tim,
ruột và dạ dày. Kháng nguyên được phát hiện ở các tế bào đại thực bào, tế bào đơn nhân lớn ở nhiều cơ
quan khác nhau, tế bào gan và tế bào biểu mô ống thận (Nguyễn Thị Hoa & cs., 2020).
2.2.2. Nghiên cứu ngoài nước về bệnh Dịch tả lợn châu Phi
Virus DTLCP, tác nhân gây ra DTLCP, là một loại virus lớn có màng bọc với bộ gen ADN chuỗi
kép. Bộ gen của virus DTLCP có độ dài từ 170 đến 190 kbp, mã hóa hơn 170 protein (Dixon & cs., 2013;
Galindo & cs., 2017). Các chủng virus DTLCP được chia thành 24 kiểu gen dựa trên trình tự một phần
của gen B646L mã hóa protein p72 (Quembo & cs., 2018).
DTLCP lần đầu tiên được báo cáo ở Kenya vào năm 1921 (Montgomery, 1921). Sự lây lan xuyên
lục địa đầu tiên của DTLCP được ghi nhận vào năm 1957 từ châu Phi sang Tây Ban Nha. Virus này,
thuộc kiểu gen ASFV p72 genotype I, sau đó lan sang Bồ Đào Nha (1960) và các nước láng giềng.
DTLCP đã được loại trừ khỏi châu Âu vào giữa những năm 1990, ngoại trừ Sardinia, nơi bệnh vẫn lưu
hành (Montgomery, 1921; Revilla, 2018). Sự lây lan xuyên lục địa lần thứ hai của DTLCP diễn ra vào
năm 2007 (Gallardo & cs., 2014; Sánchez-Vizcaíno & cs., 2013; Revilla & cs, 2018). Một chủng
virus DTLCP p72 genotype II được phát hiện ở Georgia và sau đó lan rộng sang Armenia, Liên bang
Nga, các khu vực của Haiti và các nước Đông Âu, chủ yếu thông qua lợn rừng (Revilla & cs., 2018;
Ramirez-Medina & cs., 2022).