BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
________________
VĂN THỊ LỆ HIỀN
HỒN – TÌNH – HÌNH - NHẠC TRONG THƠ HOÀNG CẦM
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Mã số
: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh -2009
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu
Trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại
học cùng tập thể các Thầy, Cô khoa Ngữ văn của trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Phùng Quý Nhâm, người
đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên và giúp đỡ tôi rất
nhiều trong suốt thời gian tôi học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1.1. Là loại hình nghệ thuật mang tính đặc thù, văn học thu hút sự quan tâm nghiên cứu, sự tìm tòi, khám phám không chỉ với giới nghiên cứu mà rộng ra, với cả những người yêu thích và biết thưởng thức văn chương. Bước vào thế giới đa chiều văn học, mỗi người, bằng khả năng, sở trường, sự tâm đắc và niềm đam mê của mình, sẽ bàn về văn học từ những góc nhìn khác nhau, những phương diện khác nhau của một lĩnh vực vốn phong phú về đặc điểm và đa dạng trong sự biểu hiện. Việc tìm hiểu, đánh giá cái hay, cái đẹp, giá trị của một tác phẩm, một tác giả, một trào lưu văn học cần rất nhiều thời gian và công sức. Những tác giả lớn là những đài kỉ niệm sống, được xếp hàng ngang và mỗi tác phẩm hay là một nốt nhạc riêng, mang cung bậc và sức âm vang riêng, làm nên sự phong phú, đa dạng với vẻ đẹp độc đáo của khu vườn văn học.
1.2. Nền văn học ta giai đoạn từ nửa sau thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX là thời ngự trị của những đại danh hào, những giá trị cổ điển bậc nhất như: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…, những tên tuổi đã làm rạng danh nền văn học nước nhà. Và giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, bên cạnh những tên tuổi như: Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử…, Hoàng Cầm là một hiện tượng tiêu biểu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Dấn thân trên bước đường kịch nghệ và thi ca, với Hoàng Cầm, đâu chỉ là cái duyên mà như là một thiên mệnh. Quả vậy, chất chứa trong hồn người thi sĩ Hoàng Cầm là niềm mê đắm khôn nguôi với đời và với thơ ca. Phất cánh diều thơ từ rất sớm, chàng thi sĩ tự nhận mình có duyên với làng quê và có nợ với thi ca ấy, trọn đời một lòng chung thủy với nàng thơ, lấy thơ làm cứu cánh, làm mục đích và lẽ sống cho mình. Tiếng thơ Hoàng Cầm không ồn ào mà khiêm nhường, lặng lẽ, sâu lắng. Giọng thơ Hoàng Cầm mượt mà, đầy sức quyến rũ, bởi hơn ai hết, nhà thơ có biệt tài trong việc khai thác chất men say của thơ và hơn thế, còn sở hữu một thế giới nội tâm sâu thẳm và chiều sâu văn hóa làng quê Việt. Thơ ông đẹp vẻ đẹp thướt tha mà dạt dào, hào sảng, óng ả, thanh cao mà ngọt ngào, lắng đọng. Bước vào thế giới ấy, người đọc sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước nét bút tài hoa mà rất đỗi nguyên khôi, một hồn thơ đặc biệt tinh tế và nhạy cảm. Vậy nên, dù gia tài văn chương thi nhân để lại cho đời không thật nhiều song những tiếng vọng từ sâu thẳm tâm can ông, qua thơ, lại có ấn tượng không nhỏ trong lòng người đọc.
1.3. Làm nên tên tuổi của Hoàng Cầm trên văn đàn, bên cạnh những sáng tác thơ còn phải nói đến những tác phẩm văn xuôi và kịch thơ nổi tiếng. Đương nhiên, chỉ với mảng sáng tạo đầy chất mộng của mình, Hoàng Cầm đã xứng đáng được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Giữa mênh mông cuộc đời, tâm hồn anh minh, sâu lắng và luôn luôn rộng mở ấy, tiếng thơ tràn đầy nhiệt huyết và giàu trải nghiệm về cuộc sống ấy đã không thể lẫn vào đâu được, càng không thể phai mờ được. Tuy vậy, đời thơ nhiều tìm tòi, nhiều trăn trở Hoàng Cầm, trước nay vẫn chưa có được sự quan tâm nghiên cứu đúng mức. Sự yêu thích và niềm trân trọng của người thưởng thức đối với thi phẩm ông là không thể diễn tả hết nhưng việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những bài viết nhỏ, những tiểu luận ngắn. Nhìn lại những cống hiến to lớn của Hoàng Cầm đối với nền thi ca nước nhà, sẽ thấy, rất cần thiết phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu đối với di sản thơ ca quý giá của ông, để cho, cuộc đời sáng tạo không mệt mỏi ấy được tri ân một cách đúng nghĩa.
Với những lẽ trên, chúng tôi thực hiện luận văn nghiên cứu: Hồn – Tình – Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm với mong muốn phát hiện ra những điểm sáng giá trị trong thơ ông, khẳng định một lần nữa tài năng và những đóng góp nhất định của thi nhân trong dòng chảy lớn của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Điều đó, thiết nghĩ, có ý nghĩa không nhỏ đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập thơ Hoàng Cầm.
2. Mục đích nghiên cứu Ý thức được giá trị to lớn của nguồn thơ Hoàng Cầm, nhận thấy có những vấn đề mà các công trình nghiên cứu trước đây hoặc chỉ đề cập hoặc có quan tâm khai thác, song vì lý do nào đó, đã chưa triển khai được một cách sâu sắc, chúng tôi nghiên cứu mảng vấn đề: Hồn - Tình – Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm với mục đích tìm hiểu những phần sâu hơn, khám phá được nhiều hơn chất ngọc tiềm ẩn trong những sáng tác thơ của ông. Việc tiếp thu có chọn lọc thành quả nghiên cứu của những người đi trước trong quá trình làm luận văn nhằm hướng đến trang bị cho người đọc những nhận thức đúng đắn, đầy đủ về di sản thơ Hoàng Cầm. Nét văn phong riêng, sự sáng tạo đặc sắc và độc đáo của người nghệ sĩ tài hoa Hoàng Cầm cũng được khẳng định theo đó.
Mục đích đặt ra là không nhỏ, những gì có thể làm được hẳn cũng chưa phải là tất cả khi sự nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn. Dẫu vậy, bằng niềm say mê và lòng nhiệt thành, chúng tôi rất mong mang lại những đóng góp mới mẻ, dù nhỏ, cho
ngành nghiên cứu văn học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nếu những vở kịch thơ và những trang văn xuôi của Hoàng Cầm bộc lộ một bề dày văn hóa cùng những trải nghiệm về đời, về nghệ thuật sâu sắc và thấu đáo thì suối thơ của ông chính là dòng sông tâm hồn ông – nơi luôn đầy ắp những con sóng dạt dào, trẻ trung và ngọt mát. Quả là, ở lĩnh vực nào Hoàng Cầm cũng tạo ra được ấn tượng đẹp trong lòng người đọc. Song có lẽ, với thi ca, sức bung tỏa của tài năng và mạch cảm xúc bất tận trong tâm hồn ông mới thực sự tuôn trào. Luận văn không đề cập đến toàn bộ sáng tác của Hoàng Cầm mà chỉ tập trung nghiên cứu phần thơ của thi nhân. Ở đó, chúng tôi cũng không bàn đến mọi phương diện về nội dung và nghệ thuật mà chỉ đi sâu tìm hiểu cái hay, nét đẹp của thơ ông qua những yếu tố về hồn thơ, tình thơ, hình ảnh và nhạc điệu trong thơ.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đặt ra ấy, chúng tôi khảo sát toàn bộ sáng tác thơ của Hoàng Cầm, cụ thể qua những tập thơ: “Mưa Thuận Thành”, NXB Văn hóa 1991; “Bên kia sông Đuống”, NXB Văn học 1993; “Lá Diêu Bông”, NXB Văn học 1993; “Về Kinh Bắc”, NXB Văn học 1994; “Men đá vàng”, NXB Văn học 1995; và “99 tình khúc”, NXB Văn học 1996. Ngoài ra, Hoàng Cầm còn có nhiều tác phẩm thơ được in trên các báo và tạp chí song chúng tôi chỉ xem đó như là những tài liệu tham khảo hữu ích cũng như những sáng tác văn xuôi và kịch thơ vậy.
Tuy sự nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đế mà đề tài đặt ra nhưng để những điều ấy được khai thác trọn vẹn, được làm sáng rõ, người nghiên cứu đặt chúng trong mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với toàn bộ sáng tác của Hoàng Cầm, với cả những sáng tác văn xuôi và kịch thơ của ông. Và trong chừng mực nhất định, sự liên hệ, đối sánh những nét độc đáo, đặc sắc trong thơ Hoàng Cầm với sáng tác thơ của một số tác giả trước, sau hay cùng thời với thi nhân nhằm khẳng định nét đẹp riêng của tiếng thơ ông, xét thấy cũng là điều cần thiết.
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Thơ Hoàng Cầm như chính con người ông, thu hút sự quan tâm của mọi người không phải bằng sự ồn ào, làm say mê lòng người không phải từ sự trau chuốt đến bóng bẩy bởi lớp ngôn từ nhiều phép tắc. Vẻ đẹp thơ ông toát ra từ thế giới tâm hồn, từ tình cảm bao la mà rất mực chân thành của một nhà thơ suốt đời tận tụy vì nghệ thuật, xem thơ là lẽ sống của mình. Sức quyến rũ kì lạ của thơ Hoàng Cầm khiến cho những ai yêu thơ khó lòng mà dứt ra được, để rồi càng thấy thương hơn, quý hơn tấm lòng và tài nghệ con người ấy. Tuy vậy, nhìn lại lịch sử
nghiên cứu văn học trước nay, có thể nói chưa có công trình nào nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm một cách toàn diện và có hệ thống. Dưới hình thức những tiểu luận, những bài viết ngắn, giới nghiên cứu, phê bình, người giảng dạy và độc giả yêu thích thơ Hoàng Cầm đã khám phá ra được những giá trị nhất định của thi phẩm ông, khẳng định sự cống hiến to lớn của thi nhân trong nền văn học hiện đại.
Chính thức bước vào làng Văn từ năm 1939 và thành công với nhiều vở kịch thơ, nhưng phải nói, thơ là lĩnh vực Hoàng Cầm thử bút sớm nhất. Cậu bé ấy năm lên tám tuổi đã thổi hồn mình vào trang thư tình trên nền thơ lục bát trao cho người Chị yêu dấu của mình. Tuy vậy, thi nghiệp của ông chỉ thực sự được khẳng định khi Bên kia sông Đuống ra đời. Bài thơ đã nâng tên tuổi Hoàng Cầm lên trên đài thơ, đứng cạnh các bậc liền anh Thế Lữ, Nguyễn Bính, Xuân Diệu…, và cùng với những Lá Diêu Bông, Quả vườn ổi…, thơ Hoàng Cầm làm say lòng độc giả bằng cách riêng của nó, thu hút mạnh mẽ sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Đến với thơ Hoàng Cầm, người nghiên cứu dù đứng ở góc độ nào, bàn về phương diện gì cũng đều nhận ra cái tài thơ với tấm lòng yêu thơ, yêu cuộc sống hiếm thấy nơi ông, ngưỡng mộ thật sự vẻ đẹp tâm hồn, cốt cách của thi nhân. Và ở những mức độ đậm nhạt khác nhau, các bài viết thể hiện niềm ưu ái, sự đồng cảm và trân trọng đối với những vần thơ chan chứa tình đời, tình người, ngút đầy nỗi nhớ, niềm thương của ông. Những bài viết ấy được tập hợp lại trong mấy quyển sách sau đây: Quyển thứ nhất do Hoài Việt sưu tầm, biên soạn, có tên: Hoàng Cầm, thơ văn và cuộc đời của NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1997. Quyển thứ hai của Vũ Tiến Quỳnh, quyển Lý luận phê bình – bình luận văn học, giới thiệu các tác giả Hồng Nguyên, Chính Hữu, Trần Hữu Thung, Quang Dũng và Hoàng Cầm, NXB Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh, 1998. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Lạc biên soạn quyển Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc, tập sách có sự tham gia của nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng và được Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học thành phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ xuất bản năm 2004. Quyển Hoàng cầm – Tác giả, tác phẩm, tư liệu và quyển Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, về hai tác giả Nguyễn Đình Thi và Hoàng Cầm, được Nguyễn Bích Thuận và Lê Lưu Oanh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn nhiều bài viết về đời và thơ Hoàng Cầm song phần lớn đã được giới thiệu trong những sách trên. Ngoài ra, còn có một số bài nghiên cứu nằm rải rác trên các sách, báo và tạp chí, với những cách nhìn, cách nghĩ khác nhau, tác giả mỗi bài viết đã góp những tiếng nói đầy ý nghĩa cho việc nhìn nhận, đánh giá về sự nghiệp thơ ca Hoàng Cầm. Trong phạm vi giới hạn
của luận văn, chúng tôi điểm qua những bài nghiên cứu, phê bình, những bài viết có liên quan và ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu chuyên luận này.
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm từ trước đến nay, có thể thấy, thơ ông được tiếp cận theo hai hướng. Hướng thứ nhất gồm những bài giới thiệu về cuộc đời và con người nhà thơ, những bài bình luận, đánh giá mang tính khái quát về cái hay, nét đẹp và cả những điểm hạn chế trong thơ Hoàng Cầm. Hướng thứ hai đi vào phân tích, thẩm bình một số tác phẩm cụ thể nhằm cung cấp những tư liệu cần thiết, những gợi ý hữu ích cho việc khám phá, cảm thụ tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm trong nhà trường nói riêng. Việc trình bày sơ lược những hướng tiếp cận thơ Hoàng Cầm nhằm có cái nhìn đúng đắn, toàn diện về đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ ông là điều mà chúng tôi mong muốn.
Theo hướng tiếp cận thứ nhất, người nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau đã đem đến cho người đọc những ấn tượng chung nhất về thơ Hoàng Cầm. Tác giả các bài viết ấy là những nhà nghiên cứu, phê bình văn học nổi tiếng, những nhà văn, nhà thơ và những người bạn thân thiết của ông. Đó là những tên tuổi được nhiều người biết đến như: Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Đức Hiểu, Hoài Việt, Chu Văn Sơn, Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Lai Thúy, Ngô Văn Phú, Nguyễn Xuân Lạc…
Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên trên đất Kinh Bắc huê tình, diễm ảo, vùng đất đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho hồn thơ Hoàng Cầm từ nhiều nguồn, nhiều phía. Nhận định về điều này, Nguyễn Xuân Lạc viết: “Ta từng biết một Nguyên Ngọc gắn bó với rừng xà nu Tây Nguyên, một Quang Dũng phiêu diêu trong mây trắng xứ Đoài,… nhưng dễ thường ít có thi nhân nào lại gắn bó đến mức máu thịt với quê hương Kinh Bắc như Hoàng Cầm... Có sự hòa hợp cộng hưởng giữa thế giới Kinh Bắc với hồn thơ Hoàng Cầm để làm nên một gương mặt thi nhân, một người thơ Kinh Bắc quen mà lạ, với phong cách và sắc điệu riêng, chỉ riêng ông mới có” [66, tr.15]. Bài viết của Nguyễn Xuân Lạc về Hoàng Cầm và thơ ông tuy không thật dài song đã bộc lộ một sự am hiểu sâu sắc về đời thơ này. Tác giả viết: “Người thơ ấy đã đi một chặng đường thơ hơn nửa thế kỉ. Nhiều dáng thơ, kiểu thơ, lối thơ nhưng vẫn chung một hồn thơ Kinh Bắc. Hồn thơ ấy đã lắng đọng và thăng hoa để làm nên những nét đẹp riêng của thơ Hoàng Cầm mà dường như chỉ ông mới có” [66, tr.20]. “Những nét đẹp riêng” ấy trong thơ Hoàng Cầm được người viết nhận ra từ những chiếc Lá Diêu Bông, từ Cây Tam Cúc, Quả vườn ổi, từ Bên kia sông Đuống…, từ cả tập Mưa Thuận Thành, Về Kinh Bắc..., và được khẳng định đó là “cái đẹp kì ảo”,
“lý tưởng”, là “cái đẹp của thơ siêu thực”, “thơ của cái viết tự động”.
Thơ Hoàng Cầm là vậy, làm khó ngay cả những người thật sự am hiểu và yêu thích thi ca. Nghĩ về thơ ông, Nguyễn Đăng Mạnh băn khoăn: “Hình như có một không gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ anh” [66, tr.26]. Cùng suy nghĩ ấy, Nguyễn Xuân Lạc khẳng định: “Cái may mắn lớn nhất trong đời thơ ông là được hút nhụt ngọt từ vườn hoa thơ diễm tình Kinh Bắc. Và vùng đất thơ ấy đã nuôi dưỡng, ôm ấp, nâng đỡ cho hồn thơ ông bay lên” [66, tr.24]. Đây là điều không ai có thể phủ nhận trước mỗi thi phẩm của Hoàng Cầm, mà có chăng chỉ là những cách nói khác nhau, xuất phát từ những điểm nhìn khác nhau.
Thật vậy, Đỗ Đức Hiểu trong bài viết Hoàng Cầm, đã nói: “Tính hiện đại của thơ Hoàng Cầm không phải là như ở thơ Vũ Hoàng Chương (nhà thơ đô thị với phố xá đô thị, sàn nhảy đô thị, tiệm hút đô thị…), mà là một vùng cỏ cây, sông hồ nhẹ bay của thôn quê Kinh Bắc, được siêu thực hóa thành cỏ Bồng Thi, cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa và lá Diêu Bông, hay những người con gái mờ ảo, những mối tình hư ảo xứ Kinh Bắc, xóa nhòa trong mưa bụi bay” [66, tr.30]. Còn Nguyễn Đăng Điệp thì khẳng định: “Chắc hẳn, nếu tước đi cái không khí Kinh Bắc thì có lẽ thơ Hoàng Cầm sẽ hết thiêng! Bởi lẽ, “Kinh Bắc đã trở thành quê thiêng – quê thơ – quê tình trong thơ Hoàng Cầm”, và “Vũ trụ thơ ấy thực chất là hồn quê Kinh Bắc rung lên qua những sợi dây thần kinh thi ca nhạy cảm được ươm ủ từ thời ấu thơ” [66, tr.44]. Hiểu rõ điều đó, lại có diệp đi sâu nghiên cứu vườn thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Đăng Điệp đi đến kết luận: “Trong thơ Việt Nam thế kỉ XX, chưa một ai sánh được Hoàng Cầm khi viết về Kinh Bắc” [66, tr.44]. Phải có một cái nhìn bao quát, sự am hiểu sâu sắc và lòng yêu thích thực sự về thi giới Hoàng Cầm, người viết mới có thể đưa ra được những lời nhận định đầy sức thuyết phục như vậy. Những nhận xét như thế tuy có phần cảm tính và chủ quan nhưng kì thực bắt nguồn từ chính hồn thơ Hoàng Cầm, từ những trang thơ giàu sức lan tỏa của ông.
Thâm nhập sâu vào thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Đăng Mạnh gọi đó là “phạm trù siêu thơ”. “Một thứ thơ hướng nội ở độ sâu thẳm nhất. Nó đi hẳn vào cõi tiềm thức, vô thức và diễn tả bằng chính ngôn ngữ mông lung vô thức” [66, tr.28]. Ông cũng cho rằng: “Sáng tạo ra thứ thơ này phải là những nhân cách vô cùng trung thực, trung thực với mình, trung thực với người” [66, tr.28]. Chính phẩm chất tốt đẹp ấy đã giúp Hoàng Cầm tạo nên phong cách riêng, vẻ đẹp riêng cho thơ ông. Và cũng từ đó, nhiều sự nghiên cứu đã chú ý đến đặc điểm này của thơ ông. Nguyễn Đăng Điệp xem Hoàng Cầm là “Người dệt thơ từ những giấc mơ”;
Nguyễn Xuân Lạc khẳng định cái đẹp trước hết trong thơ Hoàng Cầm là “cái đẹp kì ảo, lý tưởng trong thơ tình”, và là “cái đẹp của thơ siêu thực, thơ của cái viết tự động” [66, tr.20-21]; còn Đỗ Lai Thúy thì nhận định: “Có thể Hoàng Cầm không có lý luận, không có tuyên ngôn như nhóm siêu thực của Bréton, nhưng trên thực tế ông đã sáng tạo như họ” [66, tr.56]. Cũng trên quan điểm ấy, Đỗ Đức Hiểu viết về Mưa Thuận Thành: “Mưa Thuận Thành là thế giới siêu Thuận thành, siêu Kinh Bắc, siêu mưa” [66, tr.30].
Tìm hiểu thơ ông, nhất là những sáng tác ở giai đoạn sau, nhiều nhà nghiên cứu, điển hình như Nguyễn Đăng Điệp, đã khẳng định: “Đó là tiếng vọng của cõi mơ, là sự siêu thăng của vô thức” [66, tr.52]. Dễ hiểu hơn, Đỗ Lai Thúy nói: “Đó là thơ của tiềm thức, của giấc mơ, mê sảng, của cái viết tự động…” [66, tr.56]. Một chỗ khác, tác giả viết: “Nhà thơ chìm vào tiềm thức để cho ngòi bút tự tuôn chảy”.
Điều kì lạ mà hết sức thú vị này, chính Hoàng Cầm đã chia sẻ trong nhiều bài viết của mình. Trong Đôi dòng tâm tưởng về thơ, thi nhân viết: “Thơ, từ những khát vọng người, từ vùng u huyền, bí ẩn nhất, bật ra như một điệu đàn, như một hình bóng, bất chợt, như tiếng nói các thần linh không biết tự thưở nào” [101, tr.89]. Sự thật, nhiều bài thơ của Hoàng Cầm đã ra đời như vậy, và sự thật, đó là những tác phẩm được độc giả yêu thích trước nay. Nhà thơ tâm tình: “Nói chung, hầu hết những bài thơ được độc giả yêu thích trong nhiều năm của tôi, bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu là từ ngoài tôi, vẳng lên đôi ba câu nghe rất rành rẽ giọng phụ nữ lảnh lót mà rất xa, như hát mà như đọc” [101, tr.93]. Kì thực, đó chính là tiếng nói dội lên từ tiềm thức thi nhân, những gì tưởng đã lắng đọng thật sâu trong hồn ông bỗng có lúc vọng về, thổn thức, khôn nguôi. Gọi là “thơ của giấc mơ”, chớ hiểu giấc mơ theo nghĩa thông thường của nó, bởi giấc mơ ấy thật diệu kì mà chẳng mấy ai có đuợc. Đó là kết quả của bao đêm thao thức không ngủ, là sự thăng hoa của một hồn thơ, là sự kết tinh máu thịt của cuộc đời và tâm hồn nhà thơ. Trong “những liên tưởng đứt đoạn, những hình ảnh rời rạc là rất nhiều các khoảng trắng, các dấu lặng... Tất cả trôi đi trong một nhịp điệu thôi miên” [66, tr.56], Đỗ Lai Thúy viết. Vậy nên, tìm hiểu thơ Hoàng Cầm, nhất định phải nhìn thât kĩ, thật lâu và phải thật sâu nữa. Sẽ thấy, trên trang thơ ông, những khoảng lặng ấy chất chứa thật “nhiều xót xa, nhiều bi kịch, không nói” [66, tr.31]. Thấy được điều này trong thơ Hoàng Cầm xem như chúng ta đã tiếp cận được một đặc điểm thi pháp của thơ ông.
Quan tâm nhiều đến nỗi ẩn ức, khối tình nghẹn ứ đầy trong lồng ngực thi nhân, trong bài Ấn tượng thơ Hoàng Cầm, Chu Văn Sơn viết: “Thứ tình nào làm
thành ẩn ức của nguồn thơ Hoàng Cầm? Một mối tình non? Mối tình câm? Mối tình đau? Không, một mối tình nghẹn! Như cây lúa nghẹn đòng, như cây chuối nghẹn buồng…Thơ Hoàng Cầm là thứ hoa trái vật vã mộng du, óng ả thanh cao mà phong trần lận đận của nỗi nghẹn ngào đó” [151, tr.285-286]. Bài viết thuyết phục người đọc bằng sự lý giải sâu sắc mối liên quan mật thiết giữa thế giới tinh thần, tình cảm của nhà thơ với thi phẩm ông, bằng những viện dẫn về cuộc đời và về thơ được rút ra từ nhiều tác phẩm của thi nhân.
Luận giải về chất thơ Hoàng Cầm, Chu Văn Sơn đề cập đến vấn đề nhạc thơ, điệu thơ Hoàng Cầm. Cụ thể, ông nói đến tình điệu riêng trong thơ Hoàng Cầm: “Có cảm giác điệu thơ Hoàng Cầm như con hạc đầu đình muốn bay không cất nổi mình mà bay, nó là những sải cánh, đập cánh chới với, chơi vơi” [151, tr.289]. Nửa sau bài nghiên cứu, phần bàn về “sự hội nhập của nghệ thuật Hoàng Cầm”, qua đi sâu phân tích bài thơ Cây Tam Cúc, tác giả Chu Văn Sơn bày tỏ suy nghĩ, cảm nhận của mình về “bản lĩnh nghệ thuật quái kiệt” của nhà thơ này. Theo Chu Văn Sơn, “Cây Tam Cúc là một trong những bài cao thủ nhất của Hoàng Cầm, một tìm tòi thành công trong thi pháp của ông”, “là cái giá đã trả được của đời thơ Hoàng Cầm” [151, tr.291-297]. Ở đó, chàng thi sĩ tài hoa, đa tình này “đã biết tiết chế tình cảm của mình, đã nén chìm tính biểu cảm vào câu chữ, để nỗi nghẹn ngào khuất chìm trong câu chữ đặng kí thác trọn vẹn vết thương tủi cực của số phận mình” [151, tr.297].
Đồng cảm với Chu Văn Sơn, trong bài Đọc Mưa Thuận Thành của Hoàng Cầm, nhà văn Phạm Thị Hoài viết: “Trước hết, tôi thấy Hoàng Cầm đẹp và xa cách. Thật lạ lùng, là thực ra hầu hết những gì tạm gọi là chất liệu làm nên thế giới thơ ông đều còn nguyên cả đấy, thực ra không xa vời, không siêu nhiên hoang đường gì hết, mà hồn thơ ông vẫn là một người khách xa…” [151, tr.250]. Ngẫm về điều đó, nhà văn cho rằng: “Hoàng Cầm có một hệ lời tinh vi và lắt léo… Cái hệ lời ới hời vi vút sấp ngửa khép nép nghiêng ngửa mê và tê mê vời vợi ấy lại đi đôi với một âm vận rất riêng, dường như đã được gọt rũa tính toán cho không còn một chút ngẫu nhiên nào lọt lưới… Tất nhiên là Hoàng Cầm cầu kì. Bất kì câu nào của ông cũng tiêu tao yểu điệu…” [151, tr.250-251].
Phạm Thị Hoài bộc lộ cảm nhận của mình: “Lần đầu đọc thơ ông, tôi hơi bối rối trước những từ ngữ không ngờ có thể đặt cạnh nhau, những hình ảnh không ngờ có thể nối tiếp nhau để xuất hiện những thi tứ không ngờ và một nhạc điệu không ngờ” [151, tr.255]. Chính khả năng liên tưởng kì lạ đã “gợi về cho ông những cảm
xúc đang lang thang đâu đó, đã xâu chuỗi những hình ảnh, đã lảy ra những từ ngữ, nhạc điệu không thể có nổi ở một trường liên tưởng nông cạn, nghèo nàn, hoặc tầm thường hơn” [151, tr.256], Phạm Thị Hoài kết luận.
Về phương diện tình cảm trong thơ Hoàng Cầm, nhân đọc Mưa Thuận Thành, Phạm Thị Hoài nhận xét: “Thế giới tình cảm của Hoàng Cầm trong Mưa Thuận Thành, dù gồm nhiều mảng rất khác nhau, chỉ xót xa phiền muộn, yểu điệu, yếu ớt, tinh vi, nhiều mặc cảm, nhiều nữ tính” [151, tr.253]. Còn Về Kinh Bắc thì “cho đến bây giờ vẫn tiếp tục mang vầng hào quang riêng…, và chỉ cái tên riêng của nó thôi đã hứa hẹn, và hơn cả hứa hẹn: đã thiết lập hẳn một không gian tinh thần đặc trưng” [151, tr.248]. Đó chính là không gian văn hóa Kinh Bắc.
Nghĩ về hồn thơ ấy, Hoàng Như Mai viết: “Đọc thơ Hoàng Cầm, ta cảm tưởng như nhà thơ viết một mạch, một hơi những lời từ trái tim nhà thơ rót thẳng vào lòng người đọc, không sắp xếp, không điểm trang, như nước suối từ khe đá tuôn ra, như hoa mọc tự nhiên ngoài đồng nội. Thơ Hoàng Cầm mang sự nguyên trinh của tình cảm, không trải qua một sự chế biến nào, không thêm một chút phụ gia nào” [66, tr.82]. Về điều này, Lê Hồng Lâm cho rằng: “Hoàng Cầm làm thơ không bao giờ có chủ ý từ trước mà phần lớn bắt nguồn từ một rung cảm, một kỉ niệm, một chuyện cũ hay một nỗi đau buồn nào đấy… Những tập thơ của ông đều xuất phát từ những cảm xúc đó và xuyên suốt trong thơ là chất trữ tình bay bổng của một vùng văn hóa phồn thực Kinh Bắc, của một con chim vàng với giọng hót lảnh lót, của một cây đàn hoàng tử với âm điệu lịch lãm sang trọng ngân vang mãi trong nền thơ Việt Nam” [152, tr.69].
Khái quát về đường thơ Hoàng Cầm, trong bài viết Đến với Hoàng Cầm, Hoài Việt nói rằng: “Trước 1945, trong bảng phong thần của các nhà thơ mới chưa có tên anh”. Tháng ngày qua, người ta ngỡ ngàng nhận ra “con chim có bộ lông vàng quen nhả giọng véo von” ấy hóa ra là “một người làm vườn cần mẫn cuốc xới trên mảnh đất hương hỏa, gieo vãi những hạt hoa nhài, hoa ngâu… xen vào hoa păngxê, hoa tuylíp. Vườn hoa thơ ấy bỗng trở nên đẹp lạ lùng” [151, tr.7-12].
Không tình nguyện làm một “phu chữ” như Lê Đạt, nhưng Hoàng Cầm cũng quan niệm: “Thơ là thành tựu của cả tâm lực (dụng công trong việc đầu tư chất xám) và thần lực (như có tiếng một người nào đó từ thâm cung nội tâm hay từ cõi mịt mờ hư ảo của xứ sở tâm linh thì thầm bên tai). Thơ là thành tựu của cả hữu thức lẫn vô thức” [66, tr.36-37]. Cũng chẳng vướng vào bệnh cầu kì hình thức, quá xem trọng việc mạ hình đẽo chữ trong sáng tác. “Con chữ trong tay anh như âm binh
trong tay phù thủy có tài phù phép. Anh muốn thổi hồn vào con chữ” [66, tr.38]. Thơ Hoàng Cầm do vậy có sức gợi cảm rất lớn, làm lay động cả tâm thức người đọc. Nhận rõ điều đó, qua bài viết, Hoài Việt bày tỏ tình cảm, niềm tâm đắc của mình về nhiều phương diện của tài thơ này.
Về vấn đề sáng tạo hình ảnh trong thơ, Hoài Việt ghi nhận: “Anh không thuộc trường phái cấu trúc luận nhưng lại rất có duyên cấu trúc hình ảnh trong thơ” [66, tr.38]. Về khả năng dùng chữ thì biệt tài của “con người mái tóc bụi tro này là việc mày mò tìm ra cái lẫn đằng sau chữ, tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, tạo nên bề dày chữ nghĩa, không chỉ nổi mà còn chìm…” [66, tr.38]. Và với những gì đã có, Mưa Thuận Thành, Về Kinh Bắc, Men đá vàng và 99 tình khúc, Hoàng Cầm nghiễm nhiên được coi là “một cao thủ trong làng thơ hiện đại” [151, tr.11].
Bài nghiên cứu Hoàng Cầm và 99 tình khúc của Trần Mạnh Hảo đánh giá về thơ Hoàng Cầm trên cả hai phương diện: thành công và hạn chế, cái hay và điểm khuyết của nó. Qua đây, một lần nữa, cái đẹp, nét duyên của đời và thơ Hoàng Cầm được ghi nhận: “Hoàng Cầm trong đời và trong thơ vốn là một thi khách tài hoa và một ái khách đào hoa… Nhà thơ đã lấy yêu làm nghiệp để trang trải cái nghề thơ vốn nhiều oan khiên của mình” [109, tr.110]. Bằng sự thấu hiểu và đồng cảm, tác giả nói tiếp: “Chừng như nhà thơ có duyên phận với nỗi đau, nên cứ đụng vào nỗi đau, thơ ông lại được người đọc cảm thông, chia sẻ” [109, tr.115]. Tuy chỉ đi sâu bàn về 99 tình khúc nhưng những lời nhận định của tác giả lại có ý nghĩa với mọi thi phẩm của Hoàng Cầm và đặc biệt với mảng thơ tình của ông. Trần Mạnh Hảo khẳng định: “Tựu trung, thơ tình Hoàng Cầm đằm thắm, nồng nhiệt, thậm chí mê cuồng nhưng không kém phầm quằn quại đau thương” [109, tr.113].
Lại nói về chữ nghĩa trong thơ Hoàng Cầm, cũng như Hoài Việt, Trần Mạnh Hảo cho rằng: “Hoàng Cầm rất giỏi dùng chữ nghĩa, rất sành điệu trong kĩ thuật thơ” [109, tr.116]. Tuy vậy, cũng có khi vì quá đỗi cầu kì mà “cho chữ nghĩa chơi son phấn, cho vần điệu lụa là quá xá rồng bay phượng múa, khiến cái Chân Mộc có lúc bị tổn thương” [109, tr.124]. Theo Trần Mạnh Hảo, chính sự thiếu trong sáng của những câu, những chữ quá ư cầu kì ấy đôi khi “đánh bạt” đi ý nghĩa của thơ, “đánh hỏng” tình thơ, “người đọc không còn thấy thơ đâu nữa mà chỉ toàn những chữ mạ kền, chữ vàng mã nhóng nhánh thông thênh…” [109, tr.117].
Chia sẻ với suy nghĩ của Trần Mạnh Hảo, Phạm Thị Hoài nhận xét: “Sự lắt léo quá mức của ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm có khi chẳng giúp được gì… Lắm chỗ cứ ngang phứa lên, phá kỉ lục của cả những tay chơi thượng hạng nhất, tuy có chỗ
chỉ là một sự chơi không thấm thía lắm, không làm người đọc bàng hoàng bởi một sự phi thường nào đó phát lộ qua vài con chữ…” [151, tr.251]. Nhà văn đi đến kết luận: “Có thể say mê Hoàng Cầm, cũng có thể khó chịu, hoặc cả hai thứ một lúc” [151, tr.257]. Dù vậy, “cũng có thể thuần túy thán phục tài thơ ông, học ở ông, thậm chí chịu ảnh hưởng của ông…” [151, tr.257]. Trong bài viết 75 tuổi… Hoàng Cầm, Lê đạt phát biểu: “Trong hàng ngũ các nhà thơ kháng chiến, ngoài Tố Hữu ra có lẽ ít người nổi tiếng như Hoàng Cầm. Cái quá nổi tiếng ấy cũng có mặt không hay. Nó khiến một số người vội vã liệt anh vào hàng dễ dãi” [151, tr.237].
Đánh giá chung về đời thơ Hoàng Cầm, Phạm Thị Hoài cho rằng: “Hoàng Cầm quả thật là một trong số không nhiều lắm những người lập được cho mình một vương quốc thơ riêng, với nền móng, bản sắc và các nghi thức không thể trộn lẫn” [151, tr.257]. Hoàng Cầm – cái tên ấy, vì thế đã được tiếp nối vào danh sách không dài lắm những tên tuổi sống mãi trong lòng bạn đọc.
Tóm lại, những kiến giải tuy không giống nhau song trong chừng mực nào đó, thể hiện sự thống nhất trong cách nhìn nhận, đánh giá về thơ Hoàng cầm, sự ngưỡng mộ, quý trọng đối với tài năng thơ của thi nhân. Sẽ càng có ý nghĩa nếu đời thơ ấy nhận được ngày càng nhiều sự thấu hiểu, lòng yêu thương cùng niềm cảm thông của người đọc.
Hướng tiếp cận thứ hai đi sâu phân tích, tìm hiểu một số tác phẩm nổi tiếng, tiêu biểu cho hồn thơ Hoàng cầm như: Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc… Trong đó, Bên kia sông Đuống – một tác phẩm đặc sắc được chọn giảng dạy trong nhà trường phổ thông – được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất. Ở đây, chúng tôi đề cập đến một số bài viết của những tác gia như: Hà Minh Đức, Hoàng Như Mai, Lê Trí Viễn, Trần Đăng Xuyền, Phạm Tiến Duật…
Ngay từ lúc ra đời đã gây một tiếng vang lớn, thi phẩm Bên kia sông Đuống thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Hoàng Như Mai nhận định: “Bài thơ Bên kia sông Đuống là một sáng tác tiêu biểu trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Nó thể hiện sâu sắc, cảm động cuộc sống, tâm trạng, ước vọng của nhân dân Việt Nam” [66, tr.91]. Trong bài Hoàng Cầm và các bài thơ Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông, Hà Minh Đức cũng khẳng địng giá trị bất hủ của Bên kia sông Đuống: “Bài thơ đã nói lên được khá sâu sắc tình cảm với quê hương đất nước, vẻ đẹp của vùng quê Kinh Bắc, tội ác của kẻ thù trên quê hương và tấm lòng của người con nơi xa khi nghĩ về làng quê trong cảnh ngộ đau lòng đó” [132, tr.100]. Có thể nói Bên kia sông Đuống đã mang được tấm lòng của nhà thơ đến với
quê hương.
Tâm đắc về những dòng thơ tuyệt bút trong bài Bên kia sông Đuống, về sắc màu và âm thanh trên dòng sông thơ của Hoàng Cầm, nhà thơ Phạm Tiến Duật phát biểu: “Trong thơ ca ta, kể từ xưa đến nay, chưa có bài thơ nào viết về quê hương quan họ mà màu sắc văn hóa đông kết một cách xuất sắc như trong bài thơ này của Hoàng Cầm” [66, tr.101]. Và chỉ mấy tiếng Bên kia sông Đuống thôi, theo Phạm Tiến Duật, cũng “gợi nên một tình thế dân ca sẽ là dòng nhạc chính trong cả phức điệu trôi xuôi”, là “âm hình chủ đạo của cả bản sônat thơ dào dạt tình đời này” [66, tr.100]. Nhìn Bên kia sông Đuống bằng cái nhìn đậm tính nhạc và đầy chất thơ ấy, nhà thơ thấy “dòng sông Đuống như sáng rực lên, hắt ánh sáng ngũ sắc lên quê hương, lộng lẫy một cách xa xót và xa xót một cách lộng lẫy đến kì lạ” [66, tr.101]. Bình về tính nhạc trong bài thơ, Lê Trí Viễn nói đến cái giọng, cái điệu, cái tông, nốt, âm thanh… của nhạc phẩm thơ này. Ông nói: “Bài thơ là một âm điệu tha thiết, đau thương sâu sắc mà vẫn là dịu nhẹ, sâu xa, không ồn ào, to tiếng” [109, tr.226]. Cái độc đáo của bài thơ, theo giáo sư, là đã mang “một giọng điệu nghĩa tình thấm sâu, đi thẳng vào lòng người” [109, tr.231].
Qua Bên kia sông Đuống, Trịnh Thanh Sơn đánh giá tài năng sáng tạo của Hoàng Cầm: “Kể từ bài Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm đã tự lập nên một trường thơ riêng, một gạch nối cực kì ngoạn mục giữa cổ điển và hiện đại, giữa đài các và dân dã, giữa duy tâm và duy lý, vừa hiện hữu vừa thoát tục, vừa trần thế vừa bồng lai… Hoàng Cầm như một con nhện vàng, ngày đêm miệt mài giăng tơ. Ông chăng tơ không phải để bắt ruồi muỗi mà để bắt bóng giai nhân. Người xưa có câu thả mồi bắt bóng là để nói về Hoàng Cầm và về thơ Hoàng Cầm là như vậy” [28, TT]. Đỗ Lai Thúy thì cho rằng: “Hoàng Cầm là người kế tục Thơ Mới không phải như một sự kéo dài, mà như là sự phát triển, sau một đứt đoạn. Chỗ đứt đoạn tuyệt vời ấy là Bên kia sông Đuống” [66, tr.55].
Viết về Bên kia sông Đuống, bài nghiên cứu của Trần Đăng Xuyền thể hiện một sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc. Tác giả bài thơ được ngợi ca trước hết bởi những tình cảm thật đẹp: “Tình yêu tha thiết, say mê vùng quê Kinh Bắc vốn tiềm tàng, chất chứa bấy lâu trong hồn thơ ông, chỉ chờ một hoàn cảnh nào đấy là bùng lên mạnh mẽ, trào ra đầu ngọn bút thành những vần thơ dòng dòng cảm xúc” [66, tr.105]. Và Bên kia sông Đuống là ngọn lửa tình cảm cháy lên từ dòng mạch cảm xúc cuồn cuộn bao nỗi nhớ thương, tiếc nuối, đau đớn, xót xa, căm giận… trong lòng thi nhân. Đồng cảm sâu sắc với nhà thơ cũng như nắm bắt được linh hồn của
tác phẩm, Trần Đăng Xuyền nhận ra: “Trên một cái nền nhạc buồn, cái hồn của quê hương, cái hồn của dân tộc phảng phất trong mỗi dòng thơ” [66, tr.112].
Cùng cảm nhận ấy, Vũ Dũng cho rằng: tìm hiểu bài thơ Bên kia sông Đuống bên cạnh lưu ý đến chất Kinh Bắc trong hồn nhà thơ, phải thấy được tình huống, hoàn cảnh khơi dậy mạch nguồn cảm xúc trong ông. Sẽ hiểu vì sao “Bài thơ là một dòng thác tình cảm tuôn trào. Nó không muốn dừng lại để chọn lựa và gọt rũa từng câu, từng chữ. Nó cứ trào ra từng đợt, từng đợt như những đợt sóng tình cảm, cảm xúc, và mỗi đợt như thế lại gọi dậy một cách tự nhiên trong kho kí ức, hàng loạt kỉ niệm đẹp nhất, thân thiết nhất về quê hương mình…” [109, tr.233]. Bài phân tích khá tỉ mỉ và ấn tượng của Tạ Đức Hiền về bài thơ Bên kia sông Đuống cuối cùng cũng đi đến kết luận: “Có thể nói cảnh sắc và con người Kinh Bắc đã tạo nên chất tài hoa, độc đáo trong thơ Hoàng Cầm. Chất Kinh Bắc làm nên vẻ đẹp thẩm mĩ của bài thơ Bên kia sông Đuống để ta yêu quý và trân trọng [158, tr.560].
Trong bài Bên kia sông Đuống, niềm xót xa, tiếc nhớ gửi về quê hương trong cảnh điêu tàn, Phan Huy Dũng khẳng định: “Hoàng Cầm vốn hay nói về miền quê Kinh Bắc cổ kính, thì ở đây, trong Bên kia sông Đuống, miền quê ấy hiện lên đầy màu sắc” [66, tr.92]. Và theo Phan Huy Dũng: “Dòng chảy của thơ Hoàng Cầm trước hết là dòng chảy lãng mạn. Điều đó cũng được chứng minh cụ thể qua bài thơ này – một bài thơ của sự giãi bày miên man, của tâm trạng ứ đầy đòi hỏi phải được bộc lộ hết” [66, tr.92]. Người viết nói tiếp: “Thơ Hoàng Cầm cũng thấp thoáng nét tượng trưng, thậm chí siêu thực với sự xuất hiện của những câu thơ đột xuất, thần tình, khó giải thích, ở sự khởi đầu linh diệu của nhiều bài thơ, ở sự chập chờn trong những cơn mê không dứt. Bên kia sông Đuống không xa những điều vừa nói” [66, tr.92]. Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Vinh dự thay cho thi sĩ Hoàng Cầm, trong cuộc đời sáng tác hơn nửa thế kỉ của mình, đã tạo được một vài bài thơ như thế” [66, tr.29].
Với Bên kia sông Đuống, tên tuổi Hoàng Cầm được rạng danh trên vòm trời thơ Việt Nam hiện đại, nhưng sự thành công của đời thơ này còn ở Lá Diêu Bông, Quả vườn ổi… Đỗ Đức Hiểu cho rằng: “Hoàng Cầm của Men đá vàng, của Mưa Thuận Thành, theo tôi nghĩ là người kế tục (xa, rất xa) Thơ Mới, với Lá Diêu Bông, Quả vườn ổi, Cỏ Bồng Thi…” [66, tr.91]. Đó là những tác phẩm được xem như bằng chứng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Hoàng Cầm. Nói như Nguyễn Đăng Điệp: “Nếu được quyền chọn lấy những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Hoàng Cầm, tôi sẽ chọn Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc, Về với
ta. Bốn bài thơ mang bốn vẻ đẹp riêng nhưng bài nào cũng có Kinh Bắc, bài nào cũng khép mở những ẩn khuất dục tình, bài nào cũng mở ra khát vọng về cái đẹp bình dị mà thanh cao…” [66, tr.53].
Sau Bên kia sông Đuống, có lẽ, khi nói đến Hoàng Cầm, người ta nhớ đến Lá Diêu Bông. Suy ngẫm về chiếc lá kì diệu đầy bí ẩn ấy, Hà Minh Đức nhận ra: “Ở Hoàng Cầm, chất say thơ tựa như mối duyên tiền kiếp, nên tâm hồn dường như vừa sống trong thực tại vừa sống trong hoài niệm, ước mơ. Trải qua bao thăng trầm thế sự, tâm hồn ấy “được dựng nên bằng nhiều lớp kỉ niệm của tuổi trẻ gắn với một vùng đất quê hương đẹp, giàu có, thơ mộng” [132, tr.101]. Cuộc đời nhờ đó mà có Lá Diêu Bông! “Bài thơ đã để lại những ấn tượng đẹp, bình dị mà rất nên thơ…” [132, tr.104]. Về ẩn ý của bài thơ, “tôi nghĩ rằng anh muốn nói đến hiện thực và mơ ước như một bi kịch trong tình yêu lứa đôi” [132, tr.104]. Rộng ra, ấy là “bi kịch ngàn đời của con người, là những mong ước mà con người suốt đời lặn lội tìm kiếm”, theo Lê Tiến Dũng [66, 399].
Mai Thục khẳng định: “Lá Diêu Bông chính là ẩn ức của Hoàng Cầm về một tình yêu đã mất” [151, tr260]. Kiến giải về điều đó, người viết cho rằng: “... càng đọc, càng thấy âm vang tiếng vọng của ngàn xưa, thân thương gần gũi mà xa xôi vời vợi… Lá Diêu Bông xôn xao một thế giới riêng như ảo, như thực ẩn hiện giữa một không gian mênh mông của đồng quê Việt Nam” [151, tr.259].
Đánh giá về bài thơ Cây tam cúc, Đặng Tiến viết: “Cây tam cúc là một bài thơ hay, tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật của Hoàng Cầm. Từ một trò chơi dân gian khá phổ biến, tác giả đã sáng tạo nên một bức tranh trữ tình đặc sắc và phong phú, đã vẽ lên giấc mơ hạnh phúc, giấc mộng lứa đôi…” [66, tr.60]. Phần quan trọng của thi phẩm đã được người viết chú trọng – Không khí và văn hóa quan họ. Chính nhờ yếu tố ấy mà bài thơ có thêm hương sắc. “Nó chuyên chở tình người, tình quê nhiều hơn luyến ái lứa đôi” [66, tr.61].
Cùng với nội dung, phương diện nghệ thuật của bài thơ cũng được tìm hiểu kĩ lưỡng. Đặng Tiến nhận xét: “Thơ Hoàng Cầm giàu âm điệu… Cây tam cúc là một bài thơ ngắn dồi dào nhịp điệu vào hàng đầu trong thơ Việt” [66, tr.61]. Bên cạnh đó, hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách tài hoa và tinh tế, từ cách chọn chữ đặt câu, đến cách xe kết âm thanh, nhịp điệu, màu sắc, hình ảnh, tác phẩm theo đó hiện ra trong một cấu trúc đặc biệt – “một tấm áo đẹp, một họa phẩm tuyệt vời” [66, tr.62].
Tóm lại, đó là những tác phẩm được quan tâm nghiên cứu sâu sắc, được xem là bằng chứng tiêu biểu cho thành tựu nghệ thuật của đời thơ Hoàng Cầm nói riêng và của nền thơ hiện đại nói chung. Trên cơ sở phân tích, lý giải, nhận định những giá trị nội dung và nghệ thuật của thi phẩm Hoàng Cầm, các nhà nghiên cứu đã giúp người đọc thấy được một hồn thơ tài hoa, quyến rũ, một phong cách thơ độc đáo và đặc sắc.
Hành trình thơ dẫu có lúc gập ghềnh, trắc trở, nhà thơ ấy đã nâng những cánh thơ của mình lên đài vinh quang và bền bĩ đẩy chiếc xe thơ đi hết con đường thiên mệnh của nó. Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, chúng tôi nhận thấy, những hướng tiếp cận khác nhau tuy cũng có những điểm khác nhau trong sự đánh giá về thơ ông song nhìn chung đều thống nhất cho rằng:
- Hoàng Cầm – một hồn thơ trữ tình, tài hoa, một nguồn thơ trong trẻo mà
nồng sâu, chung thủy.
- Hoàng Cầm – một Người thơ đa tình với tiếng thơ tha thiết, nghẹn ngào, mê đắm. Thơ Hoàng Cầm thấm đẫm tình yêu quê hương, yêu cuộc sống, yêu cái đẹp.
- Thơ Hoàng Cầm là thơ siêu thực kiểu Phương Đông – lối thơ siêu thực –
hiện đại – dân gian Hoàng Cầm.
- Chất thơ Hoàng Cầm đậm tính nhạc, chất say, ngôn ngữ giàu sức gợi hình,
gợi cảm, hàm súc, cô đọng.
Từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu ít nhiều đã đề cập đến những vấn đề về hồn thơ, tình thơ, hình ảnh và nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm. Tiếp nối những gì đã được gợi ra ấy, chúng tôi – những người thực hiện chuyên luận này, hy vọng về sự thành công và những đóng góp nhất định của một công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về thơ Hoàng Cầm. Thiết nghĩ, đề tài Hồn – Tình – Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm tuy không thật mới lạ song sự giải mã đầy đủ, hoàn thiện về chúng vẫn là điều quan tâm sâu sắc đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học cũng như những người quan tâm, yêu thích thơ ông.
5. Phương pháp nghiên cứu Để việc nghiên cứu đạt được hiệu quả cao, trong quá trình thực hiện luận văn
này, chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp hệ thống Đặt thi nghiệp Hoàng Cầm trong dòng chảy chung của nền thơ hiện đại để nhận rõ và đánh giá những nét độc đáo riêng cùng những đóng góp của thi nhân
trong tiến trình thơ của dân tộc. Nhìn thế giới thơ Hoàng Cầm trong một chỉnh thể toàn vẹn, để qua đó, thấy được thế giới tâm hồn, tình cảm và những suy nghĩ của nhà thơ về con người và về cuộc đời, những đặc trưng nghệ thuật trong sáng tác của ông. Vấn đề nghiên cứu cũng theo đó mà được soi sáng một cách tường tận.
5.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp Thao tác phân tích giúp đem lại sự cảm nhận sâu sắc, thấu đáo về một hồn thơ vốn đầy ắp những nỗi niềm, những suy tư về nhân thế. Bên cạnh đó, các yếu tố hình ảnh, nhạc điệu qua sự phân tích, miêu tả cụ thể, sinh động, sẽ là nền tảng, là cơ sở thuyết phục cho những nhận định mang tính khái quát về sắc điệu riêng của thơ Hoàng Cầm.
5.3. Phương pháp thống kê, phân loại Thực hiện việc thống kê, phân loại thơ Hoàng Cầm về mặt thể loại, cấu trúc câu thơ, hệ thống những hình ảnh tiêu biểu, nổi bật, các hiện tượng ngôn ngữ mang tín hiệu thẩm mĩ đặc biệt… là việc làm cần thiết, góp phần làm sáng tỏ linh khiếu sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của người nghệ sĩ này.
5.4. Phương pháp so sánh Với phương pháp so sánh, nét phong cách riêng, độc đáo và đặc sắc của Hoàng Cầm và thi phẩm ông sẽ được khẳng định và được làm nổi bật giữa những nhà thơ khác, trước, sau và cùng thời với ông. Việc đánh giá về vị trí, sự đóng góp của thi nhân trong nền thơ dân tộc nhờ vậy thuận tiện hơn, khách quan và đúng đắn hơn.
6. Một số đóng góp của luận văn Đặt vấn đề nghiên cứu những yếu tố: Hồn – Tình – Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm, luận văn trên cơ sở khai thác, lý giải một cách sâu sắc và hệ thống những phần cốt lõi về nội dung và nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm, hướng đến dựng nên hình ảnh về người nghệ sĩ tài hoa, tinh anh trong cách thể hiện tâm hồn, tình cảm và trong mĩ cảm. Chúng tôi rất mong luận văn được xem là một tài liệu hữu ích đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về thơ Hoàng Cầm.
7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Hồn thơ Hoàng Cầm Chương 2: Tình cảm trong thơ Hoàng Cầm Chương 3: Hình ảnh – Nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm
Chương 1 HỒN THƠ HOÀNG CẦM
1.1. Hồn thơ Thơ là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là sự hòa điệu tâm hồn nhà thơ với những âm vang của cuộc đời. Thơ là cuộc sống muôn màu muôn vẻ được nhìn, được mô tả không chỉ bằng mắt, bằng tai mà bằng tâm, bằng sự linh cảm và cả tâm hồn. Sự gặp gỡ, tri kỉ, phút tâm giao giữa nhà thơ và độc giả cũng chỉ thực sự diễn ra ở phần hồn của tác phẩm, nơi tiếng vọng, dư ba của tác phẩm đọng lại sau câu chữ, nơi cảm xúc hòa cùng cảm xúc và những điệu tâm hồn cứ rung lên mãi, ngân xa mãi.
Thơ, sở dĩ có sức sống và trường tồn theo tháng năm, bởi ngoài chất trí tuệ, chất suy tưởng, nó có chất thơ, hồn thơ. Những nhà thơ lớn vừa là những nhà tư tưởng lớn lại vừa là những kĩ sư tâm hồn giỏi. Văn học nói chung và thi ca thực chất là sự nhập cuộc, là quá trình thâm nhập một cách sâu sắc đời sống xã hội và thế giới tâm hồn con người. Thi phẩm suy cho cùng là nơi nhà thơ thể hiện những trải nghiệm tinh thần, bộc bày tâm tư, tình cảm và thố lộ những gì sâu kín nhất, chân thật nhất, trong sáng, hồn nhiên nhất trong hồn mình. Dụng công sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật, trong sâu thẳm lòng mình, người nghệ sĩ không mong muốn cảm hóa được lòng người bằng những lời lẽ tuyên truyền, những lập luận hay lý giải mà bằng những lay động trong tâm hồn, trong trái tim với niềm cảm xúc thực sự. Khi tác phẩm nghệ thuật được viết ra từ chính nỗi lòng, từ niềm rung cảm mạnh mẽ, chân thành, nó sẽ thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng: “Mang tiếng nói của mỗi người đến cho mọi người và mang tiếng nói của mọi người đến cho từng người” [140, tr.18]. Thi nhân phải là người biết nuôi nấng, bồi dưỡng cho hồn thơ phát triển, bay bổng. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Marx nói rằng: “Chỉ có âm nhạc mới thức tỉnh được cảm giác về âm nhạc của con người” [60, tr.137]. Thơ, không thể đi vào lòng người và nhận được những sự đồng điệu khi tác phẩm chỉ là sự mô phỏng, sao chép hiện thực một cách máy móc, khô khan, vô hồn, vô cảm.
Ngôn ngữ thơ trong những mã mĩ học đặc sắc của nó, trở thành một hữu thể sống, là tiếng nói từ trái tim chứ không phải chỉ là những từ. Trong Sổ tay nghệ thuật, B. Brếch viết: “Từ ngữ có linh hồn riêng của chúng. Đừng làm chúng trở thành vô vị. Đó là cái bắt đầu của sự kết thúc” [9, tr.38]. Có lẽ, ý thức được điều đó
mà “Xuân Diệu suốt đời phấn đấu trở thành thi sĩ của tiếng mẹ đẻ, Tô Hoài thì ra sức tìm kiếm và phục sức cái thần của tiếng nói, còn người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân thì luôn tâm niệm Nghề văn là nghề của chữ…” [121, tr.46]. Nếu văn xuôi thâm nhập, khám phá cuộc sống trong tầng sâu của nó để các hiện tượng đời sống được nhìn ngắm và phân tích một cách cụ thể, sinh động, kĩ lưỡng, thì thơ thực chất là những mảnh tâm hồn, những khoảnh tâm trạng, những nhát cắt của cảm xúc. Nói cách khác, nếu Văn nói chuyện đời thì “Thơ chính là tiếng đời u huyền trực tiếp, là độc bạch của nhà thơ, là tiếng nói, là tâm hồn của nhà thơ. Thơ là sự trong trẻo, vô tư lự. Thơ là tiếng nói tri âm, là chuyện đồng điệu” [72, tr.10]. Đó là tinh hoa, là thể chất cô đọng của trí tuệ và tình cảm của thi nhân.
Sinh thời, Xuân Diệu từng nói: “Quy luật của thơ là quy luật của cảm xúc. Cũng như đã là nước thì có thể đục, có thể trong, nhưng không thể khô” [93, tr.12]. Thơ, không chỉ có bề mặt mà còn có bề sâu và cả bề xa nữa, theo Chế Lan Viên. Trong thơ, mỗi con chữ đều mang trong nó hồn cốt, tình điệu riêng của nhà thơ. Chẳng cứ phải là một tác phẩm thật hay với nhiều mĩ từ, đề cập đến những vấn đề to tát, được vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc thì có giá trị và tạo được sự đồng cảm với độc giả. Trái lại, làm thơ phải làm sao tạo được cái hồn cho bài thơ. Hồn thơ thể hiện chiều sâu, chiều rộng và chiều cao tư tưởng, tình cảm trong tác phẩm. Hồn thơ càng sâu, tác phẩm càng có nội lực với sức chứa tình ý sâu sắc, giá trị thẩm mĩ nhờ đó sẽ càng cao.
Trước một tác phẩm văn học, đặc biệt là thi ca, nếu chỉ cố công chiếm lĩnh tác phẩm ở mặt nội dung và hình thức nghệ thuật thôi thì chưa đủ. Phải làm sao nhận diện cho được cái hồn cốt, thần thái của nó, thẩm thấu được dư ba vị ngọt của thi phẩm sau từng con chữ. Có vậy, sự giao tiếp bằng thơ mới diễn ra theo đúng nghĩa của nó và giá trị đặc biệt to lớn của tác phẩm thi ca mới được nhìn nhận, đánh giá đúng mức. Yếu tố hồn thơ quả thực có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với một bài thơ, một đời thơ. Dù vậy, vấn đề này trước nay vẫn chưa dành được sự quan tâm sâu sắc và nghiên cứu như một vấn đề lý luận. Khái niệm hồn thơ xem ra còn chưa được làm sáng tỏ và giá trị thẩm mĩ, nghệ thuật của nó vì thế cũng chỉ được nói đến một cách chung chung, sơ sài, mờ nhạt. Vậy hồn thơ là gì? Ý nghĩa của nó trong sáng tác thơ? Làm thế nào để nhận diện một hồn thơ?
Thơ là một trong những thành quả đẹp nhất, cao quý nhất của tâm hồn con người. Đó “là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người lao động, phấn đấu, suy nghĩ, yêu thương, trong cái phần cao nhất,
sâu nhất của họ, tức là tâm trí” [18, tr.34]. Nói cách khác, “tác phẩm thơ được sinh ra do sự quyện xe của thực tại khách quan với tâm hồn, trí tuệ con người” [18, tr.33]. Đây là quy luật quan trọng trước hết của sự sáng tạo mà cả người sáng tác và người thưởng thức đều phải hiểu và quan tâm. Để cho, một bài thơ ra đời phải chạm được vào tâm hồn của người đọc bằng chính phần hồn của nó, phải làm cho họ rung động, yêu thích và say mê. Muốn vậy, người làm thơ phải gửi được vào trong ấy thật đậm, thật sâu, hương sắc tâm hồn mình. Tự nhiên, và hết sức chân thành, thơ mang giai điệu tâm hồn của thi nhân, thể hiện cá tính sáng tạo của anh ta. Làm đuợc điều này, nhà thơ có thể nói đã tạo được sức sống, tinh chất cho thơ, chất thơ cho thi phẩm của mình. Có vậy, tác phẩm mới tạo được ấn tượng mạnh mẽ nơi người đọc, làm cho người ta nhớ, nhớ mãi, và ngẫm nghĩ mãi không thôi.
Cũng như giọng điệu, từ lâu, hồn thơ đã được nói đến và được xem như một nhân tố quan trọng để đón nhận dung mạo, xác định chân tài thi nhân. Luận về văn chương, Nguyễn Đức Đạt viết: “Văn thâm hậu thì con người của nó trầm mà tĩnh; văn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa; văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản; văn hùng hồn thì con người của nó cương mà nhanh; văn uyên sâu thì con người của thuần túy mà đứng đắn” [169, tr.189]. Văn chính là người mà thơ là “bản tự thuật tâm trạng”. Tâm hồn nhà thơ thế nào thì sẽ bộc lộ ra thơ như thế. Xem thơ ắt hiểu người. Sáng tác ngôn từ bao giờ cũng lưu lại đậm nét dấu ấn riêng của người cầm bút. Dường như trong mỗi bức thông điệp thẩm mĩ mà nhà thơ gửi đến cho đời, đậm hay nhạt, luôn có bóng dáng, cái tôi của người nghệ sĩ. Vì thế, Lê Quý Đôn, một học giả và là một nhà thơ, sau khi đọc Nghệ An thi tập của Bùi Huy Bích, đã viết: “ Đọc thơ ông như thấy con người ông” [45, tr.101]. Còn Trương Quang Đản, đại học sĩ dưới triều Nguyễn, khi đọc Giá viên thi tập của Phạm Phú Thứ, cũng nói: “Văn ông thì nhuần nhã nhưng cao đẹp, hùng biện nhưng kiên cường, đó là cái phong cốt xui ra như vậy. Đem cái tính tình bản nhiên kết hợp với cái phong cốt phiêu nhiên, mà cái góc cạnh bình sinh của ông ở đó” [45, tr.101]. Từ rất lâu, người ta đã nhận ra rằng, “mỗi người đều có một cái thần thơ riêng, và mỗi thời cũng có thơ của một thời” [45, tr.103].
Trong thực tế, thơ, cuộc đời và con người nhà thơ có quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau. Dù rằng, đó không phải là mối quan hệ mang nghĩa đồng nhất, nhưng có thể nói tất cả những gì tạo nên một hồn thơ đều được nảy sinh trên mảnh đất hồn người. Nói cuộc sống là chất liệu tạo nên thơ, nghĩa là nó phải được “đào”, được “xới”, được “chắt lọc”, “phải được ủ thành men và bốc lên trong tâm hồn thi
sĩ” mới thành thơ được” [72, tr.74]. Và nếu nói thơ là thiên nhiên thứ hai được sáng tạo nên từ thiên nhiên thứ nhất thì tâm hồn nhà thơ chính là đấng tạo hóa thứ hai vậy. Thơ là cuộc sống nhưng cuộc sống chỉ thành thơ qua sự thanh lọc của tâm hồn thi nhân.
Quả vậy, thơ, kì thực là tiếng vọng của tâm hồn thi nhân trước âm thanh đa sắc của thế giới thực tại. Và nhà thơ, theo Coleridge, “là người đưa linh hồn của con người vào giữa hành động bằng cách đẩy chúng kết ước tháp tùng lẫn nhau trong cuộc phiêu du đuổi bắt chiếc bóng của giá trị và phẩm giá. Anh thả âm thanh và tinh thần vào cùng một mảnh đất, ở đấy, chúng quấn lấy nhau, trộn lấy nhau để tạo thành một sức mạnh toàn diện và thần diệu” [Dẫn theo 37, tr.170]. Nguyễn Địch Cát, vì thế đã nói: “Người nào trội về nhân cách thì làm thơ hay trang nhã, người nào trội về khí phách thì làm thơ hay hùng hồn, người nào giỏi dùng chữ đặt câu thì làm thơ hay hoa mĩ, người nào giỏi về điển cố thì làm thơ hay vững vàng... Xem thơ thì có thể mường tượng mà thấy được người [72, tr.34]. Với triết lý: “Cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, Hoài Thanh – người thẩm thơ và bình thơ xuất sắc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại – đã nhận ra hồn thơ của các anh tài Thơ Mới: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” [123, tr.37].
Hồn thơ thể hiện bản lĩnh nghệ thuật, phẩm chất thẩm mĩ và bộc lộ cảm quan hiện thực của thi nhân. Để một hồn thơ lướt qua được sự nghiệt ngã của bao lớp thời gian và lưu mãi trong lòng nguời, nhà thơ phải biết bứt ra khỏi khuôn hình chung để xác lập giọng điệu riêng, sắc thái riêng cho thơ mình. Những cây bút lớn đều có phong thái riêng và sở hữu một hồn thơ độc đáo, không nhòe lẫn giữa mọi người. Điều đó hoàn toàn hợp với quy luật sáng tạo của nghệ thuật nói chung và biệt là thơ ca. Bởi lẽ, thơ là tâm hồn, là sự bộc lộ tính tình và những linh cảm của nhà thơ. Khi đưa vào tác phẩm cái tôi sáng tạo của mình, nhà thơ góp phần làm phong phú hơn lên thế giới tinh thần, kinh nghiệm nghệ thuật của mọi người và đồng thời khẳng định nét bản sắc sáng tạo của riêng mình. Vì cuộc sống trong tác phẩm nghệ thuật không bao giờ có thể tồn tại ngoài cách nhìn thế giới của nhà thơ, ngoài phương thức tư duy hình tượng và sáng tác của anh ta. Lẽ đương nhiên, không phải tất cả những gì được thể hiện trong tác phẩm đều là sự tự biểu hiện của bản thân nhà thơ. Bởi trong sáng tác, ngoài nhu cầu thể hiện bản thân, nhà thơ con
phải bao quát được những vấn đề lớn lao của cuộc sống, của thời đại. Duy có điều chắc chắn rằng thơ là sự kết tụ, thăng hoa của cái đẹp. [27, 12]. Trái tim giàu yêu thương và trách nhiệm cùng với một tâm hồn phong phú, giàu trí tưởng tượng, tinh tế và nhạy cảm sẽ giúp nhà thơ làm nên những trang thơ lung linh màu sắc, phản chiếu được mọi mặt của cuộc sống vốn đa chiều, phức tạp.
Hồn thơ, bên cạnh thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của thi nhân, bộc lộ những nét nhân cách của anh ta. Điều này giải thích vì sao Lev.Tolxtoi viết “Khi chúng ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm nghệ thuật của một tác giả mới thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: Nào, anh là con người như thế nào đây? Anh có gì khác với tất cả những người mà tôi đã biết, và anh có thể nói cho tôi một điều gì mới về việc cần phải nhìn cuộc sống của chúng ta như thế nào?” [63, tr.90]. Văn học nghệ thuật vốn không dung nạp những cây bút thường thường bậc trung, những tác giả không tạo được chất giọng riêng, hồn thơ riêng cho mình. Nhà thơ sáng tạo ra tác phẩm cũng đồng thời sáng tao ra hơi thơ, hồn thơ của mình. Nếu không có được điều đó, anh ta khó có thể trở thành một thi sĩ thực thụ. “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ, và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay” [72, tr.75].
Hồn thơ được hình thành từ sự hội tụ của hai yếu tố: tố chất bẩm sinh, thiên phú và sự dày công tìm tòi, học tập và thể nghiệm của nhà thơ. Luôn giữ cho tâm hồn trong sáng, lung linh với những cảm xúc dào dạt, những rung động sâu xa và gửi nó vào tác phẩm nghệ thuật là công việc suốt đời và nhiều kiếp của thi nhân. Thế giới tâm hồn con người và đặc biệt của người nghệ sĩ vốn phong phú, đa dạng, kỳ ảo, vô hình. Để tâm hồn thấm vào câu chữ, làm rung đông trái tim người đọc và làm nên sự bất tử của tác phẩm văn chương, nhà thơ không chỉ là người sáng tạo mà còn phải biết dấn thân. Sống giữa cuộc đời, giữa mọi người, anh ta phải biết đau nỗi đau của người khác, buồn, thương, vui sướng phải nhiều hơn người khác. Mỗi tác phẩm, với họ, là một sự hóa thân, là một phần tâm hồn, khí lực của họ. Sâu trong ấy là những tâm nguyện, những ước muốn cao đẹp của nhà thơ về cuộc đời và về con người. Hiện lên qua tác phẩm dù là một cái tâm trong sáng hay một miền tâm linh kỳ ảo, một tương lai tươi sáng hay những giấc mơ mờ ảo của vùng tiềm thức xa xôi…, hết thảy đều là những nét đẹp sâu kín trong hồn nhà thơ. Nỗi khát khao được gửi hồn vào tác phẩm cũng là nỗi khát khao được giao cảm với thiên nhiên, đất trời
và lòng người của thi nhân. Hồn thơ, trong chừng mực nào đó, thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan của người nghệ sĩ.
Trong tâm hồn nhà thơ, có những phần không dễ gì chạm tới được, không thể hiểu và lý giải được. Chỉ biết rằng đến một lúc nào đó, nó trào ra mạnh mẽ, liên tục dưới ngòi bút nhà thơ. Ấy có thể nói là cái duyên đặc biệt mà người cầm bút nào cũng mơ ước. Trút được tâm hồn vào thơ đã khó, cảm nhận cho đúng, cho sâu những giao động, những cung bậc hết sức tinh tế và kì diệu của một hồn thơ lại còn khó hơn. Người thưởng thức, ngoài lí trí, tình cảm, còn phải có tâm, và phải lắng hồn lại, mới nghe được. Vì hồn thơ, ấy là cái tinh diệu của thơ, là chất ngọc trong thơ. Điểm tựa của thơ ca, sức sống của thơ ca, thực ra, chính là ở cái hồn của nó.
Là một phạm trù thuộc về nội dung song hồn thơ luôn có mối liên hệ chặt chẽ đến các phương diện hình thức và được bộc lộ qua những yếu tố có tính hình thức. Đặc điểm này của hồn thơ bắt nguồn từ đặc trưng mang tính bản chất của thơ ca. Thơ vốn dĩ không náu mình dưới mái nhà che chở của hình thức, bởi chính bản thân nó đã là hình thức. Và chỉ trong một hình thức cụ thể nào đó, nó mới có lý do để tồn tại. Chính nhờ những dấu hiệu hình thức, hồn thơ thể hiện được chiều sâu nội cảm của tác phẩm. Trong chỉnh thể tác phẩm, hồn thơ hiện ra không phải qua những mảnh rời rạc, chắp vá mà trong sự liền mạch, xuyên suốt của hệ thống ngôn từ được tổ chức khéo léo và tinh vi. Với tư cách là một hiện tượng phong cách, ngôn từ nghệ thuật đảm nhiệm một chức năng khá phức tạp, nó tạo ra hồn điệu cho bài thơ. Nhờ vậy, qua hệ lời của tác phẩm, người ta nhận ra hồn thơ của mỗi tác giả và nhận xét sự khác biệt giữa các hồn thơ.
Hồn thơ chi phối trực tiếp và mạnh mẽ đến sự lựa chọn và sử dụng các yếu tố hình thức trong tác phẩm. Một thể loại phù hợp là điều kiện thuận lợi để bộc lộ những cung điệu cảm xúc, tình cảm trong hồn thi nhân. Vì mỗi thể loại luôn hàm chứa trong nó sức mạnh biểu cảm với những hiệu quả thẩm mĩ riêng. Hồn thơ chân quê, thuần hậu Nguyễn Bính sống mãi bên đời một phần nhờ những đặc điểm ưu trội của thể lục bát. Trong loại thơ 8 chữ, Thế Lữ đưa được “hồn thơ rộng mở” của mình đến với người đọc và nhận lại biết bao niềm cảm thông, chia sẻ…
Bên cạnh đó, hồn thơ điều phối việc xây dựng các thủ pháp nghệ thuật và cả cách xây dựng kết cấu tác phẩm. Đây thực chất là mối liên hệ bên trong của thơ, là mối tương liên đem lại sự thống nhất, hoàn chỉnh cho tác phẩm. Không phải chỉ đến khi tác phẩm đã hoàn tất và được cố định lại trong một hình thức nhất định mới xuất hiện hồn thơ. Trong thực tế, hồn thơ định hình ngay từ đầu, trong tư duy, tình cảm
của nhà thơ, trong điểm nhìn nghệ thuật của anh ta. Nó can dự trực tiếp vào quá trình sáng tạo và góp phần làm nên sự thành công cho thi phẩm. Cùng viết về làng quê như Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ…nhưng sao chỉ Nguyễn Bính đưa được bức tranh thơ thấm tình đồng nội của mình chạm tới được cái hồn của dân tộc? Có lẽ, vì Nguyễn Bính, nhà thơ ấy đã thổi được hồn mình vào trong thơ, và hơn thế, đã tạo nên được tiếng thơ mới mang sắc điệu riêng, đầy biến hóa trên nền thơ lục bát quen thuộc.
Vấn đề hồn thơ với những đặc điểm phức tạp như thế, để hiểu cho sâu sắc, thấu đáo kỳ thực là một thử thách không nhỏ đối với thưởng thức và nghiên cứu thơ ca. Việc chiềm lĩnh thi phẩm suy cho cùng là nhận diện hồn thơ và chỉ ra những điểm đặc sắc, độc đáo của nhà thơ. Một nền thơ phong phú, đa dạng, phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu, phải là một nền thơ đa phong cách, đa sắc điệu, thực sự giàu có về hồn điệu . Đó phải như là một bầu trời đầy sao, lung linh, lấp lánh, một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, trăm sắc, trăm hương…Bởi vì, hồn thơ chân chính luôn luôn và bao giờ cũng là hiện thân của cái đẹp, cái cao cả, chất nhân văn trong tâm hồn, cốt cách con nguời. Thêm nữa, khi hồn thơ kết đọng trong nó tâm hồn nhà thơ với hồn dân tộc, hồn đất trời, vũ trụ, nó sẽ thành bất tử với những giá trị nghệ thuật đích thực.
1.2. Hồn thơ Hoàng Cầm 1.2.1. Dòng sông thơ trong trẻo “Thơ ra đời cốt để nói những điều tinh vi nhất, sâu kín nhất, mong manh nhất, mơ hồ nhất của tâm hồn con người” [66, tr.28]. Để tạo ra được những thi phẩm có độ hướng nội sâu thẳm như thế, nhà thơ – những tài năng thiên bẩm – phải có lòng trung thực, trung thực với người và trung thực với chính mình. Để cho, tiếng thơ đích thực là tiếng lòng, là giai điệu ngân lên từ tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của thi nhân. Sáng tác ngôn từ theo đó sẽ vượt qua những nguyên tắc của cú pháp thông thường, của sự tư duy theo logic thông thường để vươn tới lĩnh vực siêu thơ – những tác phẩm giàu nhạc tính và men say hồn thơ.
Bước vào thi giới Hoàng Cầm, người đọc nhận ra một tấm lòng tận hiến cho thơ, một tâm hồn đặc biệt tinh tế và nhạy cảm trước cuộc sống. Tiếng thơ ấy đẹp như những điệu ngọc rung lên huyền diệu trên những sợi tơ vàng trong sâu thẳm tâm hồn thi nhân. Tình yêu cuộc sống, quê hương, tình yêu cái đẹp và thi ca trong Hoàng Cầm thiêng liêng, đầy mê đắm, không chút tính toán, so bì. Tình yêu rất đẹp ấy đã giúp nhà thơ đánh thức được hồn quê Kinh Bắc trong cõi sâu vô thức của hồn
mình. Tiếng vọng sau câu chữ của tác phẩm ông không phải từ phép cộng các thủ pháp nghệ thuật đơn thuần mà ở giai âm tiêu tao, sâu lắng của một hồn thơ tinh tế.
Đi đến tận cùng chiều sâu hồn mình, khát khao đến cháy bỏng được yêu trọn đời những cảnh, những người trên đất Kinh Bắc cổ kính và thanh tao, Hoàng Cầm đã tạo được cho mình tiếng thơ riêng hết sức độc đáo. Đó là tiếng vọng của “những lớp trầm tích văn hóa được thẩm thấu qua bộ lọc tinh tế của thi nhân” [66, tr.50]. Thực chất, đó là tiếng vọng của cõi mơ, là sự siêu thăng của vô thức. Khi tình yêu và niềm cảm xúc dâng tràn bất tận, sẽ cất thành thơ. Sự kì lạ, đôi khi khó hiểu của thơ Hoàng Cầm thực chất bắt nguồn từ những khát khao, những ẩn ức nằm sâu trong hồn ông. Thi phẩm Hoàng Cầm mỗi bài một vẻ, bài nào cũng khép mở những ẩn khuất riêng tư nhưng bài nào cũng mở ra khát vọng đẹp, thanh cao, bình dị và rất đỗi chân thành. Nhà thơ tự nhận mình xa lạ với mọi bon chen và chỉ biết hết lòng tận hiến cho thơ. Ông như “người khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo và phiêu lãng trong những bến mơ, bến mộng, bến tình” [66, tr.49]. Lắm khi, thi nhân để hồn chìm hẳn vào tiềm thức, mặc cho ngòi bút cứ thế tuôn chảy, tự nhiên, dạt dào, mãnh liệt. Thơ Hoàng Cầm có thể nói như chính tâm hồn ông, con người ông, chân thành, nồng nhiệt và sáng trong vô ngần.
Trong cuộc đời cầm bút của mình, khác với nhiều nhà thơ khác, Hoàng Cầm sáng tác theo sự mách bảo của cảm hứng, của tâm thức. Thơ ông hầu như chẳng có những kĩ xảo nghệ thuật cầu kì về tu từ hay cấu trúc. “Đọc thơ Hoàng Cầm, ta có cảm tưởng như nhà thơ viết thẳng một mạch, những lời từ trái tim anh rót thẳng vào lòng bạn đọc không sắp xếp, không điểm trang, như nước suối từ khe đá tuôn ra, như hoa mọc tự nhiên ngoài đồng nội. Thơ anh mang sự nguyên trinh của tình cảm, không trải qua một sự chế biến nào, không thêm một chút phụ gia nào” [66, tr.82]. Tình cảm ấy trinh nguyên như dòng nước cất trong suốt rót từ hồn thi nhân vào thơ rồi thấm dần vào trái tim người đọc. Tình cảm ấy vốn tiềm tàng, chất chứa từ rất lâu trong hồn ông để trong một khoảnh khắc nào đấy, một hoàn cảnh nào đấy sẽ bùng lên mạnh mẽ, trào ra đầu ngọn bút thành những dòng sông cảm xúc bất tận.
Ở Hoàng Cầm, những ý nghĩ rõ ràng dường như chẳng bao giờ đến trước câu thơ. “Thơ đến hồn nhiên và nhiều khi cũng không giải thích được tại sao mình lại viết như thế” – Hoàng Cầm nói [132, tr.101]. Thi hứng dẫu bất chợt, chất say thơ vẫn tràn đầy trong tâm hồn một con người vừa sống trong thực tại, vừa sống trong hoài niệm, mộng tưởng. Yêu người, yêu cuộc sống và đặc biệt yêu thơ, Hoàng Cầm đã sống hết mình trong mỗi bài thơ, gửi gắm hết tâm tư, tình cảm của mình trong
mỗi câu thơ. Nhà thơ đến bên đời với tấm lòng trinh nguyên, mong tìm đến cõi nhân tình, cõi suy tưởng, tuôn chảy suối nguồn xúc cảm thành thơ. Trên con đường thơ phiêu bồng, có lúc vắng vẻ đến rợn ngợp, hồn mênh mang, thi nhân tìm cái bất chợt để cảm, và để yêu.
Thơ Hoàng Cầm hay bởi sự tự nhiên, thanh thoát, không sắp xếp gò bó, tình cảm toát ra một cách hồn nhiên, chân thành mà sâu sắc. Thơ ông, những rung động chân thành trong trái tim người nghệ sĩ tài hoa, đa tình ấy như điệu đàn huyền diệu xui người ta biết say sưa với cuộc đời đầy hương sắc, đam mê dù cũng nhiều đắng cay, đau khổ. Thi phẩm được viết ra theo nhịp rung động của toàn thân, của cả tâm hồn và thể chất, khí chất ắt hẳn sẽ là tiếng lòng chân thật và cuộc đời sẽ có những trái ngọt hoa thơm.
Suốt đời mình, Hoàng Cầm lặn lội tìm kiếm và chắt lọc sự sáng trong, tinh khôi, tinh hoa của cuộc sống và nghệ thuật. Tiếng thơ ấy – chất trữ tình bay bổng của văn hóa mẹ Kinh Bắc, của con chim vàng với giọng hót lảnh lót, trong trẻo, của cây đàn hoàng tử với âm điệu lịch lãm, sang trọng, ngân vang mãi trong nền thơ dân tộc. Sự hồn nhiên, thanh khiết trong tâm hồn thi nhân hẳn phải do thiên phú. Thời gian có nghiệt ngã và cuộc sống có thăng trầm đến mấy dường như cũng không thể làm cằn, làm vẩn tâm hồn ấy được. Nhìn vào tâm hồn thi nhân ấy, có lúc người ta còn tưởng rằng thế gian này đã chẳng có những khổ đau và nước mắt, những phiền muộn, trái ngang.
Mang tâm hồn trong sáng vô ngần ấy, nhà thơ đi giữa mọi người và nhìn ngắm cuộc đời. Nguồn thi cảm thanh khiết đã đem đến cho ông ánh nhìn trong ngần, ngời sáng:
- Con sông Đuống hồng như giải lụa Con sông Cầu tựa tấm sồi non Cùng đổ về đông theo mấy cánh buồm Tìm đến phương trời nắng mới Những mái nhà quần tụ dưới thôn Gà gáy trong mùi khói rạ Khoai nướng thoáng thơm Em bé trái đào hát ru lanh lảnh Bếp nhà ai lửa ánh Chập chờn yếm trắng sau rặng tre thưa… [Quan họ mở đầu, 6, tr.71]
- Tôi người làng quan họ Ngày trở về nghe hát nổi trên đê Tiếng hát dường như mê Ném ngọc trên trời lanh lảnh
[Tìm đến chân trời, 6, tr.97]
Xa quê từ thuở nhỏ nên kí ức về quê hương trong Hoàng Cầm là miền kí ức xanh miên man, huyền diệu. Nó vốn đẹp, lại còn đẹp hơn bởi được nhìn, được nhớ, được cảm nhận và miêu tả bởi một hồn thơ đặc biệt tinh nhạy và chứa chan cảm xúc. Người đọc bắt gặp qua nhiều thi phẩm ông một Hoàng Cầm trẻ thơ, ngơ ngác, đáng yêu, ươm đắp ngập hồn những ước mơ ngời sáng. Còn gì đẹp và thánh thiện hơn cái ước mơ của cậu bé được ngồi đánh tam cúc bên người chị yêu của mình: Em đừng lớn nữa Chị đừng đi. Cũng như, nếu không có sức mạnh của một tình yêu trong sáng như pha lê, một tình yêu không mảy may gợn chút tính toán, người thơ ấy chẳng thể suốt đời thương nhớ hoài mộng đẹp Diêu Bông:
- Diêu Bông gọi mãi không về Cứ ngồi canh một giấc mê mặn nồng Lá – em tuyệt sắc thành không Tòa sen tỏa rọi bềnh bông kiếp người
[Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông, 6, tr.246]
Vẫn biết, đi tìm lá Diêu Bông là vô vọng nhưng suy cho cùng, đó chính là khát vọng thiêng liêng của con người: tìm đến cái đẹp, tìm đến niềm hạnh phúc đích thực trong cuộc đời. Người đọc nhiều thế hệ yêu bài thơ cũng vì cái khát vọng đẫm chất nhân văn ấy. Chính nguồn thi cảm thanh khiết của Hoàng Cầm đã giúp ta thấm thía giá trị cao quý ấy của tình yêu và cuộc sống.
Nhìn cuộc đời bằng ánh mắt hồn nhiên, trong trẻo, tiếng thơ Hoàng Cầm vì thế luôn tươi trẻ, nồng nàn. Hoàng Cầm trong đời và trong thơ, lúc nào cũng say xưa, hân hoan, thoáng chút ngỡ ngàng. Cuộc sống với ông có lẽ cũng như là trang thơ, đầy thanh sắc, đầy chất thơ, ngọt ngào, cuốn hút:
- Xuân lá em nhung tơ đính hẹn
Anh phất diều cánh liệng ngang mây Xanh em thấm nuột trắng này Hòa âm hồ xế xang đầy nhịp đôi [Nhịp đôi, 6, tr.343]
- Em sống lao xao em hát vì sao Em giữ nghìn năm mắt răm má đào Em xuân trong veo, lớn đến đây thôi Em vịn hồn anh vin xanh ngôi trời [Xuân trăn trở, 6, tr.337] Hoàng Cầm say mê cuộc sống và thơ ca, say mê sáng tạo không phải chỉ bởi sự ảnh hưởng của yếu tố quê hương, gia đình mà căn bản vì ông có một linh khiếu bẩm sinh và một tâm hồn nhạy cảm. Tâm hồn thi nhân đặc biệt tinh nhạy trước mọi biến thái tinh vi của cuộc sống và lòng người. Dường như lúc nào nhà thơ cũng có thể rung cảm, rung cảm một cách chân thành, thiết tha với mọi biến động, mọi thay đổi của cuộc sống trên quê hương, với những kỉ niệm chất đầy trong hồn mình. Lại vốn là người có nết đa cảm, giữa cuộc đời, thi nhân đâu thể lặng thinh khi suối nguồn tình cảm trong mình cứ chực tuôn trào, réo rắt, sục sôi.
Hoàng Cầm, thi nhân ấy có thể nói, như người tình nhân thân thiết của cuộc đời. Ông sinh ra trên đời để yêu, để nhớ và để tin rằng cuộc đời vốn đẹp lung linh, huyền ảo như những giấc mơ. Căn cốt thơ Hoàng Cầm chính là tình cảm, là lòng yêu thương bao la, rộng khắp phủ đầy mọi nẻo nhân gian. Thơ Hoàng Cầm chinh phục người đọc không phải ở chất sử thi với những gì lớn lao, kì vĩ mà ở những rung động nhẹ nhàng, êm ái, đằm thắm. Ông nâng niu, ca ngợi vẻ đẹp những con người, những cảnh đời gần gũi, thân thương, bình dị: Từ Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong, Những cô hàng xén răng đen, Những nàng dệt sợi đến Cô gái hái chè, Đàn con thơ hay những Chị em gặt lúa tháng mười, những Chị em cấy lúa ngày đông, Em gái gánh gạo…
Dễ hiểu vì sao Hoàng Cầm hay viết về những dòng sông: sông Đuống, sông Thương, sông Cầu…, về những điệu lý huê tình quan họ và về những con người thân thiết, ruột thịt: người mẹ, người vợ, người em…Thực vậy, dù chưa một lần đi qua Kinh Bắc, người đọc vẫn mường tượng ra được hình ảnh những dòng sông Kinh Bắc thơ mộng, trữ tình chảy qua không gian và thời gian Kinh Bắc. Cuộc sống quê vốn gắn với ký ức tuổi thơ đầy mộng đẹp lướt qua tâm hồn dạt dào cảm xúc của người nghệ sĩ nhiều mộng mơ bổng trở thành dòng sông đất nước thiêng liêng, đầy trăn trở.
Thơ Hoàng Cầm lay động tâm hồn người đọc bằng sự rung động của một trái tim nhân hậu phảng phất nỗi buồn thương trong trẻo. Đó là những rung động trong sáng gắn với những cảnh và người trên đất quê hương: Niềm hạnh phúc và tự hào
được sinh ra và lớn lên giữa làng quan họ, được nhìn những nóc lều tranh giữa bốn bên đồng khoai đồng lúa, được nghe tiếng gà gáy trong mùi khói rạ, hương khoai nướng thoảng thơm, tiếng em bé trái đào hát ru lanh lảnh, giấc mộng trầu cau, tình say hội yếm đào, nỗi khắc khoải chuyện tình dang dở…. Với Hoàng Cầm, cảm xúc với cuộc sống dường như lúc nào cũng tươi mới, cũng đắm say như thuở ban đầu. Vậy nên, cả những điều tưởng như nhỏ bé, bình thường nhất cũng đi vào ý thơ, khơi dậy niềm cảm xúc mãnh liệt trong ông. Lẽ đương nhiên, phải có lòng yêu cuộc sống thiết tha và một tâm hồn sáng trong, nồng nàn cảm xúc, thi nhân mới có được những câu thơ, bài thơ như thế.
Từ những điều thân quen, bình dị, đời thường, thơ Hoàng Cầm vươn tới những niềm cảm xúc lớn – tình quê hương, dân tộc. Thơ Hoàng Cầm, phía sau câu từ, chữ nghĩa, sau mỗi hình ảnh thơ là những nỗi niềm, tâm sự của nhà thơ. Một lời ca dao, mặt trăng tròn, nụ hồng non, hoa gạo đầu đình, hay phù sa sông Đuống, bến hát sông Cầu, đêm tiền sử…tất cả đều gắn với một tâm trạng nào đó, hoặc vui, hoặc buồn, hoặc băn khoăn, trăn trở, cũng có khi chỉ là những rung động thoáng qua nhưng suy cho cùng là tình cảm của nhà thơ đối với con người và mảnh đất quê hương:
- Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông [Đêm Thổ, 6, tr.105] - Én bay đi không hướng tìm xuân
Lá ngọt hết rồi cỏ chát cứ phân vân Muốn nuôi người còn sợ đau dạ người Rêu xóa vết chân bạn cũ Chè tươi cáu miệng bát đàn Về ngóng tiếng em thơ bé dại đi rồi sân lặng [Người không về, 6, tr.142-143] Cảm xúc thơ ca dạt dào về thiên nhiên, về cuộc sống thường xuyên nuôi
dưỡng hồn thơ ông để rồi có mãi trong đời những vần thơ sáng trong, lấp lánh.
Hoàng Cầm luôn biết tự lắng nghe mình, lắng nghe cuộc sống ngay cả những rung động nhỏ nhất và tìm cách mã hóa, bất tử hóa chúng thành những vần thơ rút từ gan ruột. Cũng nhờ đất Kinh Bắc huê tình, diễm lệ, dạt dào nguồn sống và cảm xúc thơ ca về thiên nhiên, về cuộc sống thường xuyên nuôi dưỡng hồn thơ ông nên trong đời còn ngân mãi những vần thơ như thế.
Đọc thơ Hoàng Cầm, ấn tượng đọng lại trong lòng nguời đọc là dòng cảm xúc tuôn trào bất tận tưởng như không bờ bến, vượt qua mọi khuôn khổ nhỏ hẹp của thơ ca thường tình. Nhà thơ để mặc cho trái tim, tâm hồn mình tự do ca hát như thể dòng sông khi đã tìm thấy con đường ra đến biển. Thơ Hoàng Cầm, do vậy, cứ như lời nói tự nhiên, hồn nhiên, tùy hứng. Thật vậy, hồn thơ ông trong trẻo như cơn mưa đầu hạ, dịu dàng, mềm mại như con sông quê hương, vàng tươi nắng hạ ấp áp, và tím biếc một màu chiều dịu êm. Đó chính là vẻ đẹp của một tâm hồn đầy đam mê, say đắm và tinh tế. Nó tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ không thể nào lý giải được về thơ Hoàng Cầm.
Hoàng Cầm luôn suy tư nhưng là cái suy tư của một tâm hồn trong sáng, anh minh. Những khúc mắc, u uẩn trong thơ ông không những không làm vẩn đục một hồn thơ mà trái lại, còn thể hiện tình cảm chân thành, cháy bỏng, thiết tha. Nỗi băn khoăn, trăn trở, sự buồn thương, lo âu trong trái tim ấy về cuộc đời thường bộc lộ một cách nhẹ nhàng, bắt nguồn từ tấm lòng đôn hậu và một tâm hồn đằm thắm. Ta thường bắt gặp qua thơ ông một cái tôi cô đơn, lặng lẽ với nỗi hoài vọng, chìm khuất, đầy tiếc nuối:
Có nét buồn khôi nguyên Chìm sâu vào đằng đẳng Có tiếng ca ưu phiền Chìm sâu vào lẳng lặng [Nhớ, 6, tr.174] Hội thêu gấm mở ra “không gian tĩnh lặng” của tình yêu với những khát
khao ẩn ức, lắng sâu được đặt trong mạch nguồn văn hóa Kinh Bắc:
Một mái rạ vàng ấm Châu Long Dương Lễ Ngơ ngẩn đường khâu áo lạnh Lưu Bình Ai luồn kim giải áo dở dang mơ Chàng Lưu ứa nước mắt bước ra thềm hong mưa… [Thi thêu gấm, 6, tr.166]
Đi giữa cuộc đời với tấm lòng tận hiến và khát khao đế cháy lòng được hòa điệu hồn mình vào mỗi dòng thơ, nhiều lúc, ta vẫn thấy thi nhân âm thầm, lặng lẽ như chiếc bóng. Dù vậy, nỗi khổ đau, cay đắng trong ông cũng không quằn quại đau thương mà sâu lắng, nhẹ nhàng:
- Tôi về tu cõi ai đây
Không ăn chay để nằm chay hết mình Tôi đi quằn quại u minh Gửi đăng thơ cuối chương tình đỏ hoe Tôi về nhặt lá đáy khe Ném lên cao… lặng mình nghe… thật người [Tu, 6, tr.284]
- Tiễn em sang sân bay Đưa em về nhà chồng Đưa em xuống nghĩa trang Đưa em vào hư không [Tiễn đưa, 6, tr.285] Đặc biệt, trong thơ mình, Hoàng Cầm nói nhiều đến nỗi nhớ. Có thể nói, đa phần những bài thơ hay của Hoàng Cầm đều là những bài viết về nỗi nhớ nhung, niềm thương cảm. Nhớ mẹ: Mẹ đắp vai con mảnh chăn rách - Đêm được nằm mẹ gối đầu tay - Mẹ đã vuốt mép trầu giục giã; nhớ Nắng gấm Ba Vì phủ khắp Lục Đầu giang - Mồ hôi đá Tam Thanh gói lụa sông Hồng; nhớ một tuổi thơ chất đầy kỉ niệm với những Quả Vườn Ổi, Cây Tam Cúc, Lá Diêu Bông, Cỏ Bồng Thi…; nhớ rộng ra cả quê hương, dân tộc. Đan trong nỗi nhớ mênh mông ấy là nỗi buồn trong suốt rất dễ đồng cảm của thi nhân.
Dường như, mọi niềm vui, nỗi buồn, sự đau khổ hay nhung nhớ trong thơ Hoàng Cầm đều được giãi bày một cách chân thành, bình dị, chứa chan cảm xúc. Nhà thơ mang tâm hồn sầu mộng này đã sống hết lòng và thực lòng với đời và với thơ. Chính niềm khát khao được sống trọn vẹn và tận hiến tình yêu trong sáng cho đời và cho thơ ấy đã cô đọng khối ẩn ức và hình thành thế giới mộng ảo trong tâm tư Hoàng Cầm. Sớm nhận ra cuộc đời dẫu rất đẹp vẫn đầy những đau thương, oan trái, thi nhân hướng hồn mình về với thiên nhiên thanh sạch, về với Nàng thơ thuần khiết. Và, dấn sâu vào bản thể hồn mình để chép thơ cho đời cũng là cách để nhà
thơ ấy bảo toàn sự hồn nhiên, thanh cao của tâm hồn. Nhưng có lẽ, ngay cả khi không như thế, ngay cả khi những khổ đau và nước mắt thấm mềm câu thơ ông thì người đọc vẫn nhận ra qua đó một tâm hồn trong trẻo và sáng lán vô ngần.
Bởi lẽ, Hoàng Cầm đã sống trong đời và trong thơ bằng tấm lòng trung thực đến tận cùng. Người yêu đời, yêu cuộc sống và yêu thơ đến độ luôn khát khao được sống gắn bó, được bộc bày và thổ lộ lòng mình. Tình yêu ấy và nỗi khát khao được thể hiện ấy, hồn nhiên, không chút mặc cảm, ngại ngùng. Thi nhân tự họa mình:
Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh đi mãi tìm sim chẳng chín (…) Ta con chào mào khát nước về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm (…) Ta con chim cu về gù rặng tre Đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng (…) Ta con phù du ao đời chật chội đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao… [Về với ta, 6, tr.187-188] Có lúc, nhà thơ tự nghiệm về cái cội nguồn đầy ải của thơ mình:
Thuở ấy Chị chưa về thơ anh Áo tơ dính chặt bó khuôn hình Đến khi xé lụa bừng da thịt Ngửa mặt phù du khép gió xanh [Dáng thơ, 6, tr. 220] Mang cái tôi chứa đầy ẩn ức – những ẩn ức của tuổi thơ và những ẩn ức trong cuộc đời, Hoàng Cầm ra sức tìm kiếm, trong sự mất mát, cô đơn, những tinh hoa, vị ngọt của cuộc sống. Sự kiếm tìm có thể sẽ là mãi mãi, là vô định bởi nơi ấy dường như là hư vô mà sao nỗi khát khao đầy mê say trong nhà thơ vẫn không thôi lịm tắt:
- Em mười hai tuổi tìm theo Chị Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa Đi… Ngày tháng lụi tìm không thấy Giải yếm lòng trai mải phất cờ [Quả vườn ổi, 6, tr.151]
Hoàng Cầm thuở “mười hai” hay đến cuối cuộc đời vẫn thế - bùi ngùi nuốt
nghẹn trong nỗi cô đơn đoạn kiếp mà giấc mộng tình đời cũng vẫn chưa nguôi:
Bảy mươi đứng phía ngoẹn cười Tám mươi đứng khóc nẻo đời chưa khô Trăm năm nhào quyện hư vô Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn [Hai ngả, 6, tr.266] Thương sao người thi sĩ đâu chỉ đau nhiều trên nẻo đường đời, còn ngập trong hồn nỗi buồn thương trên cả hành trình thơ ca. Hồn thơ Hoàng Cầm có sức lay động và truyền cảm mãnh liệt. Nó toát lên từ những nỗi niềm thực hơn là từ câu chữ.
Thơ Hoàng Cầm không thiếu những hình ảnh độc đáo, lấp lánh chất trí tuệ nhưng sự chân thành của tình cảm, cảm xúc quả thực có ý nghĩa rất lớn trong thơ ông. Người đọc yêu quý Hoàng Cầm trước hết bởi sự nhiệt thành, chân thực ấy. Nó lay động tâm hồn người đọc, khiến họ nhớ mãi, vấn vương mãi về một hồn thơ giàu mộng mơ nhưng thành thực đến lạ kì. Nhiều bài thơ Hoàng Cầm là sự chập chờn nhớ lại, là hoài niệm về những gì đã rất xa xôi nhưng không nhạt nhòa, hư ảo. Nỗi nhớ vì rất sâu và nguồn xúc cảm dạt dào, bất tận đã làm sống lại thật nhanh và thật rõ nét, sống động mọi thứ.
Để sáng tác của mình sống được mãi với thời gian, người nghệ sĩ ngoài vốn sống, năng khiếu và kinh nghiệm nghệ thuật, còn phải có một tấm lòng. Lòng chân thành, đó là phẩm chất không thể thiếu đối với người nghệ sĩ trong lĩnh vực nghệ thuật đặc biệt này. Muốn vậy, tình cảm, cảm xúc, điều nhà thơ muốn bộc lộ, thể hiện trong tác phẩm phải thực sự được dâng lên từ đáy lòng anh ta, phải được rung từ trái tim chân thành của anh ta. Để cho, trước một tác phẩm văn học, người đọc bao thế hệ nhìn thấy qua đó không chỉ là một tài năng, không chỉ những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà quan trọng hơn, nó tạo được những đồng điệu quý báu về tâm hồn. Thiết nghĩ, điều đó góp phần làm nên thế mạnh và đặc trưng riêng của văn học.
Nỗi sầu hận của Ức Trai, tiếng thơ cháy lòng của Tố Như, nỗi cảm hoài của Đặng Dung…, nhói lòng bạn đọc từ những ngày xưa cho đến hôm nay và cả mai sau nữa, cũng bởi các nhà thơ, họ đã thắp sáng thi phẩm bằng ngọn lửa trái tim mình. Và Hoàng Cầm, cuộc đời lao động nghệ thuật đầy đam mê, không mệt mỏi ấy hội tụ hết thảy những tố chất của người nghệ sĩ mà điểm sáng đầu tiên, nét đẹp đầu
tiên và trước hết khiến người đọc yêu say thơ ông chính là sự chân thành, trong sáng trong tâm hồn ông. Tiếng thơ, tiếng vọng tâm hồn thi nhân cũng nhờ vậy có sức vọng rất sâu, rất xa, vọng mãi, ngân nga mãi trong lòng người bao thế hệ.
Hoàng Cầm nói về sáng tác nghệ thuật và tác phẩm của mình: “Thơ, từ những khát vọng người, từ vùng u huyền, bí ẩn nhất, bật ra như một điệu đàn, như một hình bóng, bất chợt, như tiếng nói các thần linh không biết tự thuở nào. Thơ nối yêu thương vào khát vọng, lại nhân lên đến hệ số vô cùng. Thơ cho ta được yêu, biết yêu, biết đau và chịu đau. Thơ cho ta cái thật trong cuộc đời, cho ta cái sáng láng trong lành của bầu trời tịnh khí, cho ta màu sắc và âm thanh đẹp nhất” [101, tr.89-90]. Quả vậy, khi câu thơ, bài thơ cất lên thành tiếng, thành lời, thì theo đó, bao số phận người, vui hay buồn, hạnh phúc hay bất hạnh, cũng được vỗ về trong hai tiếng yêu thương. Đời thơ Hoàng Cầm dù đầy những biến động, thi nhân vẫn như cái bóng âm thầm đi giữa dòng đời, có khi lặn tìm về tận miền quá khứ xa xôi để rung mãi trong đời điệu hồn thiết tha, trong trẻo, dậy lên từ trái tim năng nỗi yêu thương.
Có thể nói, thơ Hoàng Cầm trước sau luôn là tiếng nói trung thực của bản ngã, là sự chiêm nghiệm từ những điều tai nghe mắt thấy, những gì trải qua trong đời. Thi nhân lúc nào cũng sống rất thật với lòng mình, với niềm cảm xúc của mình:
- Hái một nụ thơm em là bước đầu biết khổ Hái thêm lá em mở đau suốt đời ngẩn ngơ [Duyên kiếp, 6, tr.279-280]
- Anh đâu biết buồn vui nào chỉ dẫn Tìm giọt sương lỡ hẹn mấy bình minh Vạch tia chớp đêm mù đi lận đận Xót xa em nhiều chớp mắt hóa vô tình. [Nhiều chớp mắt vô tình, 6, tr.231] Sống trên đời, phải sống hết mình. Cuộc sống, số phận cho ta những gì, ta phải đón nhận và chấp nhận… Thơ Hoàng Cầm, sau những đau khổ, bất hạnh hay đêm tối luôn ẩn chứa một nguồn hy vọng, mở ra một bình minh tâm trạng đầy hứa hẹn. Có thể nói, đời thơ lắm vinh quang, nhiều hệ lụy ấy chưa bao giờ khuất phục dù cái nghiệp thơ có nhiều đau khổ, oan trái và cuộc đời có lắm đắng cay. Vụ Nhân văn – Giai Phẩm qua đi như một cơn lốc, một tai nạn nghề nghiệp đáng tiếc trong
đời và thơ Hoàng Cầm, vậy mà, nhà thơ vẫn “không mang trong lòng – dẫu chỉ một ly – nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận gì ai. Đôi lúc, chỉ nghĩ về chính số phận mình, có chút cay đắng, có xót xa” [6, tr.193]. Thiết nghĩ, thế sự có thăng trầm đến mấy, bụi thời gian có rơi mãi, hồn thơ ấy vẫn tinh anh, sung sức và yêu đời.
Với Hoàng Cầm, dường như những quy tắc, chuẩn mực của câu từ, chữ nghĩa không đủ sức để chứa đựng và thể hiện cho hết, cho trọn suối nguồn tình cảm luôn dâng tràn bất tận trong ông. Đọc thơ Tế Hanh, nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng: “Tứ trong thơ Tế Hanh là cái tứ của trái tim hơn là khối óc” [Dẫn theo 29, tr.372]. Lời nhận xét ấy cũng đúng với cả Hoàng Cầm. Thật vậy, Hoàng Cầm làm thơ cốt để trải lòng mình trên trang giấy và gửi hồn trong ý thơ. Điều đó mang lại mối đồng cảm sâu sắc giữa nhà thơ với người đọc. Nó giúp xóa đi khoảng cách vời vợi của không gian và sự vô định của thời gian để cái tình riêng trong sâu thẳm lòng ông lan tỏa, cộng hưởng với cuộc đời.
Sự hồn nhiên, thanh khiết của tâm hồn, sự dạt dào của mạch nguồn cảm xúc và lòng chân thành khiến thơ Hoàng Cầm như vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp, gò bó của ngôn từ, hóa thành dòng sông trữ tình chảy vào lòng người, tự nhiên, sâu lắng. Hồn thơ Hoàng Cầm, ấy là một hồn thơ trữ tình, là sự giãi bày chân thực nỗi lòng thi nhân giữa cuộc đời. Có lẽ vì thế mà đọc thơ ông, Hoài Việt đã viết: “Thử làm một người bộ hành dạo chơi vườn thơ Hoàng Cầm từ trước khi có tập Mưa Thuận Thành, ta bắt gặp một người làm vườn cần mẫn cuốc xới trên mảnh đất hương hỏa, gieo vãi những hạt hoa nhài, hoa ngâu” [151, tr.12]. Thật ra, Hoàng Cầm lắm lúc cũng hay làm duyên, làm dáng cho thơ mình, nhưng nhìn chung, dòng thơ ông vốn cứ tự nhiên như không ấy. “Hoàng Cầm ít khi bị sa chân vào cái bẫy của mê hồn trận – chữ. Anh cố đổ sức ra tìm tòi trong khi vẫn đứng chân trên cái nền từ vựng cũ” [151, tr.12]. Đó là tố chất đáng trân trọng của người nghệ sĩ ngôn từ nói chung và nét đẹp riêng của thi nhân Hoàng Cầm.
Không nguyện làm một phu chữ ra sức mạ chữ, đẽo chữ, nấp mình sau lớp ngôn từ mắc mớ, khó hiểu, trong sáng tác, Hoàng Cầm chỉ mong muốn thổi được hồn vào con chữ. Khi ý thơ xuất hiện trong hồn thi nhân, tình cảm trào ra ngọn bút thì con chữ thi nhau nhảy múa thành thơ. Dù vậy, Hoàng Cầm vốn là người rất thạo dùng chữ và tài sai khiến con chữ của nhà thơ không ai có thể phủ nhận được. Sức gợi cảm, khả năng lay động tâm thức người đọc, cả những người khó tính nhất của thơ ông cũng nhờ biệt tài ấy của thi nhân.
Không xem thơ là kĩ xảo, kĩ thuật nhằm khỏa lấp, che đậy những cảm xúc nhạt, nông, dễ dãi, tầm thường, Hoàng Cầm quan niệm thơ hay phải là tiếng lòng trung thực của thi nhân, là một phần máu thịt của đời mình. Cho nên, trong nhiều trường hợp, “tôi không hề cấu tứ, nghĩ ngợi gì về câu, chữ, không theo một luật lệ nào gọi là thi pháp hoặc tu từ, hoặc chịu sự ràng buộc nào của phép tắc về thanh điệu, ngữ điệu gì hết. Tôi chỉ tuân theo nhịp rung động của toàn thân, cả hồn và thể chất, khí chất” [132, tr.77]. Đọc thơ Hoàng Cầm, dường như thi phẩm nào cũng tạo cho người đọc cảm giác suối thơ ông như tuôn chảy từ trái tim nóng bỏng yêu thương, từ tâm hồn ngập đầy cảm xúc. Bên kia sông Đuống có thể nói là trường hợp điển hình.
Một đêm giữa tháng 4 năm 1948, khi nghe tin quê hương bị giặc chiếm đóng, tàn phá, niềm thương cảm, nỗi xúc động dâng tràn, ý thơ bung tỏa thành lời, ào ạt, mãnh liệt. “Hình như bao nhiêu nỗi niềm ngổn ngang, xót xa, thổn thức, bao nhiêu tiếng hát buồn, lời ru con não nuột, những tiếc hận, thương nhớ cứ cuồn cuộn trào ra” [132, tr.88]. Và trong khoảnh khắc dạt dào ấy, bài thơ dù chẳng được bố cục, định ý hay cấu từ, từ ngữ cũng được bật ra hết sức tự nhiên theo dòng chảy cảm xúc, lại có sức ngân nga, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.
Rõ ràng, với Hoàng Cầm, thơ đến hồn nhiên, tự nhiên không định trước. Hình ảnh dòng sông Đuống Nằm ngiêng ngiêng trong kháng chiến trường kỳ hay nỗi nhớ tiếc, xót xa như rụng bàn tay… đến bất chợt như cơn sóng lòng chợt dâng trong nhà thơ khoảnh khắc ấy. Bao nhiêu tác phẩm đặc sắc khác của Hoàng Cầm: Cây Tam Cúc, Quả Vườn Ổi, Về với ta, Mưa Thuận Thành, Dáng thơ, Lá Diêu Bông…, mỗi thi phẩm một dòng tâm trạng, một khối tâm tình, bài nào cũng được viết ra từ đáy tâm hồn nhà thơ. Làm được cái điều không mấy ai có thể, lại hết sức nhẹ nhàng như thế cũng nhờ Hoàng Cầm đã hòa được hồn thơ mình với chất thơ của cuộc đời. Nếu Bên kia sông Đuống để lại những ấn tượng đẹp, bình dị mà tinh tế, nên thơ, thì với Lá Diêu Bông, một chiềc lá không có thực trong cuộc đời, một chiếc lá kỳ ảo, nhà thơ đã tạo nên và thả nó trên dòng sông thơ để nó trôi về đôi nẻo cuộc đời:
Từ thuở ấy Em cầm chiếc lá đi đầu non cuối bể Gió quê vi vút gọi Diêu Bông hời… …ới Diêu Bông…! [Lá Diêu Bông, 6, tr.150]
Bài thơ tựa như một khúc nhạc buồn, nhẹ, êm nhưng giàu chất say, từ một thuở nào xa xôi lắm, có lẽ từ tiền kiếp, vọng về trong tâm hồn nhà thơ: Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng. Ẩn tình Lá Diêu Bông nên chăng hiểu rằng tác giả muốn nói đến bi kịch trong tình yêu lứa đôi và rộng ra là bi kịch trong cuộc đời về hiện thực và mơ ước? Nỗi băn khoăn và ước mơ thật trong sáng, thật nhân văn: chiếc lá nhiệm màu có sức mạnh thiêng liêng, có thể thay đổi cuộc đời Chị và Em. Kỳ ảo Lá Diêu Bông – tình yêu kỳ ảo mà sao đẹp và đáng thương, đáng được đồng cảm, chia sẻ. Để rồi, mãi mãi trong đời, người ta vẫn luôn hy vọng và mong mỏi sẽ làm một điều gì đó để tình yêu không đi cùng nỗi bất hạnh ở bên đời.
Và Cây Tam Cúc, trong ổ rơm thơm, giữa những khát khao trong trẻo nhất của thời thơ dại, Em muốn cuộc đời thật ngưng đọng trong cái ngọt ngào thơ trẻ của cuộc chơi này:
Cỗ bài tam cúc mép cong cong Rút trộm rơm nhà đi trải ổ Chị gọi đôi cây trầu cay má đỏ kết xe hồng đưa Chị đến quê Em Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm Em đừng lớn nữa Chị đừng đi Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì… [Cây Tam Cúc, 6, tr.149] Những cây tam cúc nở xòe trên tay Em đẹp như niềm tin thơ dại đầy mộng mơ. Ngớ ngẩn, nực cười nhưng tội nghiệp và đáng trân trọng làm sao khi cứ muốn níu cuộc đời thực vào cuộc đời thơ: Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em Năm sau giặc giã Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi Em đứng nhìn theo Em gọi đôi [Cây Tam Cúc, 6, tr.149]
Tiếng gọi chới với, mơ hồ, mờ nhòa rơi vào khoảng không xa hút nhưng khoảng lặng tình yêu, tình người, tình quê hương xứ sở, trong vẻ đẹp truyền thống lẫn với những gieo neo của thân phận hẳn đọng mãi trong lòng người. Gấp trang thơ lại, lòng ta như còn vương vấn mãi làn hương mái tóc người con gái đương thì, mùi rơm thơm ngái của đồng quê và nhất là hương vị của tình yêu đơn phương, vô vọng vừa chớm nở.
Tứ trong thơ Hoàng Cầm thường được lập từ một trạng thái tình cảm, một sự việc nào đó. Nhiều thi phẩm của ông mang cái tứ rất lạ và đẹp mà có khi nhà thơ đã chẳng cất công cấu tứ hay dự định gì cả. Đó là những lúc ý thơ bật ra theo dòng chảy cảm xúc, bất chợt, mạnh mẽ chẳng đợi thi nhân suy nghĩ, lựa chọn hay cân nhắc. Gắn với tứ thơ ấy là giọng điệu thiên về giãi bày, chia sẻ, ít triết lý, giọng của cái tôi trữ tình luôn mê mải, ngỡ ngàng trước cuộc đời mình tin yêu. Bên kia sông Đuống cũng như nhiều bài thơ khác của Hoàng Cầm có cấu tứ đơn giản, hình ảnh thơ không quá cầu kì nhưng rất sinh động và có hồn:
Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì [Bên kia sông Đuống, 6, tr.23-24] Bài thơ mở ra một cách giản dị, bình thường như lời nói tâm tình nói chuyện với người thân, chẳng chút quanh co, rào đón. Vậy mà, Bên kia sông Đuống nói riêng và thơ Hoàng Cầm nói chung lại khiến người đọc, người nghe bao lần lịm đi trong niềm xúc động không sao diễn tả được: - Dẫu anh biết Diêu Bông không thực Sao Diêu Bông cứ thức hồn em Cứ sao băng mãi đường đêm Cứ trăng lên đậu cành mềm xuân quê [Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông, 6, tr.245] - Trong ngần giọt nước mắt rơi Mắt tôi trong, nối mắt người tôi thương Dám đâu mơ ngát thiên đường Chỉ mê man nẻo dư hưong cuối mùa Thương nhau vì một dòng thơ… [Gửi vào gió biển, 6, tr.258]
Chàng thi sĩ đi theo tiếng gọi của Nàng thơ, mặc tâm hồn rộng mở, rung lên những điệu nhạc êm đềm, sâu lắng. Ý thơ tràn về dưới ngòi bút, dạt dào, dồn dập, những tiếng thơ sáng trong, lung linh, tuyệt diệu, đẹp đến lạ lùng. Nhìn vào những dòng thơ ấy, người ta ngỡ như nhà thơ phải tốn rất nhiều công sức, phải gọt đẽo ngôn từ rất đỗi công phu. Kỳ thực, ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm không cầu kỳ, lóe sáng mà bình dị, thấm đượm tình cảm chân thành. Ngôn ngữ thơ vốn là “ngôn ngữ đến từ nơi ngọn nguồn của nó, như tia lửa bay lên từ tâm hồn con nguời đang xúc động, như chiếc lá non vừa từ chồi nụ nở ra. Mỗi từ như một viên ngọc nguyên thủy, một giọt ánh sáng, và câu thơ như dòng nước nguồn trong suốt”, theo Nguyễn Đình Thi. Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm chính là thứ ngôn ngữ ấy, trong suốt, tinh khôi, toát ra từ một hồn thơ trong trẻo.
Bằng một hệ lời đầy sáng tạo, thơ Hoàng Cầm đủ sức biểu cảm để diễn tả đúng những rung động tinh tế của tâm hồn một cách sinh động và chân thành. Sáng tác của ông đã tuân thủ “quy luật quan trọng trước tiên của tác phẩm thơ: cộng thêm vào thực tại một tâm hồn, một trí tuệ, một tình cảm, một sáng tạo” [18, tr.35]. Trên cơ sở đó, thơ ông phát huy được nhiều nhất, mạnh mẽ nhất “năng khiếu thơ” trong nó: truyền cảm xúc vào lòng người, hồn người. Có lẽ cũng vì thế mà Hoài Việt đã phác thảo chân dung Hoàng Cầm: Ấy là “Con chim có bộ lông vàng quen nhả giọng véo von”, là “Tiếng tơ đồng giọt giọt rơi từ một cây đàn vàng”, là “Một tinh thể trong thiên hà thơ bốc cháy lửa hoàn nguyên sao Chổi” [151, tr.5].
1.2.2. Hồn thơ sâu lắng, đậm chất suy tư Toàn bộ cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần của con người là mảnh đất thầm kín của tâm hồn và trái tim, nơi từ đó vươn lên một khát vọng mơ hồ về cái tốt đẹp và cao cả. Và cũng từ nơi đó, tác phẩm nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng được phát khởi và hình thành. Hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ thực chất bắt nguồn từ sự thôi thúc bên trong. Cuộc sống đầy hương sắc với bao niềm vui, nỗi buồn, lòng yêu thương, sự căm giận cùng những đắng cay ngọt bùi… tất cả kết đọng và cựa quậy trong tâm hồn nhà thơ. Nó tựa hồ những cơn sóng cứ vỗ mãi vào lòng thi nhân, làm dậy nên bao niềm rung cảm, xúc động, tựa như những hạt phù sa tích tụ lâu dần thành những cánh đồng màu mỡ, chờ được gieo trồng. Giữa cuộc sống bao la, muôn hình, có khi chỉ một vầng trăng, một cái ráng chiều, một cơn gió, một hạt sương mai, một kiếp người hay một sự đời cũng làm ta rưng rưng xúc động, yêu thương, vỗ về hay khinh ghét, căm phẫn. Với thi nhân, những ấn tượng và cảm nhận ấy có khi thành nỗi ám ảnh, day dứt khôn nguôi trong lòng họ, đòi hỏi được
thể hiện, được tuôn trào theo dòng cảm xúc mãnh liệt, bất tận. Hẳn vì thế mà Tố Hữu có dòng tâm sự: “Mỗi khi có cái gì nghĩ ngợi, chất chứa trong lòng không nói ra được thì tôi thấy cần làm thơ” [Dẫn theo 21, tr.170]. Và người làm thơ, “nếu không làm dấy lên những cảm xúc mãnh liệt trong lòng người thì quả là có lỗi” [21, tr.170].
Người thơ Hoàng Cầm may mắn được sinh ra và lớn lên trên vùng đất thơ ngọt ngào Kinh Bắc. Xứ Kinh Bắc thơ mộng, trữ tình đã lay dậy cái Người thơ trong nhà thơ, khiến nó đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Để rồi, cả cuộc đời mình, thi nhân đi tìm vẻ đẹp của Nàng thơ, tìm bạn, tìm mình, tìm lại vùng trời bình yên. Phù sa Kinh Bắc lắng đọng sâu trong hồn thơ ấy để làm nên dòng chảy Hoàng Cầm thật dạt dào, tha thiết, lắng sâu…
Cùng là tiếng lòng trĩu nặng yêu thương với con người và mảnh đất quê hương nhưng nếu Bằng Việt có tiếng nói sâu lắng và trong sáng của lớp thanh niên trí thức mới; Phạm Tiến Duật đưa được chất văn xuôi vào thơ, góp phần đáng kể vào việc mở rộng phạm vi cái nên thơ cho tác phẩm; thơ Trần Đăng Khoa mang lại một hương vị đồng nội Việt nam hết sức đậm đà; thì Hoàng Cầm, bên cạnh mạch thơ trẻ trung, trào dâng sức sống thời Bên kia sông Đuống là tiếng thơ trầm lắng, da diết với bao nỗi niềm suy tư, trăn trở.
Hoàng Cầm có nghĩa là con chim vàng, cây đàn vàng, cây đàn của Hoàng tử và vốn là tên một vị thuốc bắc. Hẳn không phải ngẫu nhiên thi nhân vận vào mình vị thuốc rất đắng ấy cũng như chẳng vì thế Hoài Việt nhận ra qua thơ Hoàng Cầm: “Vị thuốc đắng định mệnh tiên liệu một số phận”, và “Những ngang trái cuộc tình xen lẫn trái ngang cuộc đời” [151, tr.5].
Người thơ ấy từ khi vào tuổi bước đầu nhận thức được cõi đời này đến khi bước hẳn vào thế giới văn thơ, và mãi về sau này, cứ ôm ấp trong hồn những câu chuyện về quê hương, gia đình, về tình yêu với những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi ly biệt…Tất cả, cứ tầng tầng, lớp lớp úp xuống hồn thi nhân “như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền – diệu – dĩ – vãng” [6, tr.194]. Chìm thật sâu, lắng thật sâu hồn mình vào “da thịt quê hương”, “hồn phách quê hương”, trong men say nồng nàn của đất trời Kinh Bắc, hồn thơ ấy như dòng sông Kinh Bắc sóng sánh phù sa, dạt dào nguồn sống mà sao cứ không thôi chuyển mình, trăn trở…
Nhà thơ tâm sự: “Trong người tôi hòa quyện hai dòng máu. Dòng máu của nghệ thuật quan họ, dân ca hòa với dòng máu yêu nước, hào hùng và khí tiết, và cả
hai dòng đều rất mực sắt son, chung thủy như nhất. Thế nhưng, không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng? Hay chính là nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm?” [6, tr.197]. Sớm biết rằng cõi nhân gian rất đẹp mà cũng rất rắc rối nhưng bởi lòng yêu quê hương, yêu cuộc sống quá đỗi thiết tha nên hết thảy mọi điều về quê hương, gia đình, về số phận những người thân yêu… đều in đậm trong hồn thi nhân. Thơ Hoàng Cầm, do đó, có thể nói như “viên ngọc kết tinh muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa là xa xưa, vừa là đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực, như mê mà tỉnh, như ngủ mà thức, hư hư thực thực” [6, tr.199].
Thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp nhưng Hoàng Cầm, giữa những liền anh: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên cùng những nhà thơ kháng chiến như: Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Quang Dũng..., ông không hòa vào mọi người mà âm thầm, lặng lẽ với lối đi riêng của mình. Lùi sâu vào bản thể hồn mình, trở về với cái cội nguồn đầy ải của thơ ông, nguồn thi cảm của Hoàng Cầm có những nét riêng, khác với những nhà thơ khác. Thi nhân nghĩ về cuộc đời, về số phận bằng niềm băn khoăn đầy trắc ẩn:
- Mắt em đi suốt vòng thân phận
Có được về đâu lúc lệ rơi Hồn em thả hết nghìn tâm sự Có được vào trang sử kiếp người? [Ngã ba sông, 6, tr.308]
- Anh đưa em lên đường xanh mơ Hồn trăng trằn trọc đáy đêm mờ Bốn mùa giông bão vò duyên phận Trả nợ cuồng phong hết kiếp chưa? [U ẩn, 6, tr.276] Thơ Hoàng Cầm theo đó không mang âm hưởng dạt dào, hùng tráng của sử thi mà như chính con người ông, tâm hồn ông, thâm trầm, êm dịu và sâu lắng. Thi nhân tâm sự: “Thơ tôi mang đậm chất của một làng quê văn hóa quan họ. Về già tôi hay ngồi nghiền ngẫm sự đời và cũng nghiệm ra một chân lý – cách sống, lối sống của mình như thế nào thì làm thơ như thế và nó còn quán xuyến suốt cả cuôc đời mình. Tôi sống thiên về bên trong, về thế giới nội tâm còn ngoài đời thì tôi ngô nghê và dại dột…” [152, tr.70].
Đọc thơ Hoàng Cầm, người đọc có cảm giác như đang bước đi trong đất trời Kinh Bắc, cái cảm giác lâng lâng say, vừa như thực vừa như mê. Lời huê tình Quan họ sức ngân rung sao da diết, lắng sâu:
- Lý cây đa... Lý huê tình Nguyệt cầm ngại gẩy... dỗ dành ai ca Người ơi người ở... Hay là... [Thể phách tinh anh, 6, tr.281]
- Em ơi thử đếm mấy giêng hai Đêm hội Lim về đê quai rảo bước Đuổi tà lụa nhạt ánh giăng đầm thấm đường sương [Theo đuổi, 6, tr.159] Sau câu Quan họ ngọt ngào là cái sâu lắng, chất ngất của tình yêu nồng nàn:
Tơ tưởng em đêm đêm héo hắt Nghe ai ru vắng ngắt Song Hồ Gió quê người vàng ư phương Bắc? Có se buồn như gợn gió thu xưa? Tơ tưởng em chiều chiều xa lắc… [Tơ tưởng, 6, tr.310] Những trang thơ viết về tình yêu của Hoàng Cầm thật lắm cung bậc, nhiều màu sắc. Tình yêu ấy lúc mãnh liệt đầy khát khao, lúc đắng cay nghẹn ngào, lúc hết sức thâm trầm và sâu lắng. Sự sâu lắng, đằm thắm ấy như chính cuộc đời thi nhân – đọng sâu trong hồn niềm mê đắm và nỗi khắc khoải về tình yêu đơn phương:
- Cả hồn thơ dại si ngây
Còn chăng một nét chữ gầy mong manh Chỉ còn thật chuyện riêng anh Hao hao cổ tích mờ xanh tuyệt cùng [Liệu còn gì nữa, 6, tr.288]
- Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng [Quả vườn ổi, 6, tr.151] Hoàng Cầm “không đơn giản tới mức cứ đau đời từ trang này sang trang khác”, thế giới tình cảm trong thơ ông “dù gồm nhiều mảng rất khác nhau, chỉ xót xa phiền muộn, yểu điệu, yếu ớt, tinh vi, nhiều mặc cảm, nhiều nữ tính” [151, tr.253]. Nhưng cả khi nói về nỗi đau khổ, đắng cay, tiếng thơ ông cũng thật nhẹ nhàng:
- Lý lý ơi khát khô cháy giọng Tình tình ơi chớ động mành thưa Chìa vôi quệt gió hững hờ Bờ ao sáo tắm bao giờ… …hở Em [Theo đuổi, 6, tr.160] - Thương xót ấy
lạ lùng từ bé bỏng mà suốt đời lồng lộng Càng rưng rưng ước vọng Em những mùa thu đi qua [Ngày qua, 6, tr.289] Thơ Hoàng Cầm theo đó thấm đượm nỗi u hoài quyến rũ. Ẩn sâu trong những câu Quan họ mềm mại, nhẹ nhàng là nỗi buồn vời vợi, sâu thẳm mà thi nhân cố nén lại:
-Thức đi qua tháng qua ngày Qua mênh mang ánh trăng gầy xa soi Bởi không ru vẹn một lời Để anh thức suốt một đời… chờ ru [Ru anh thức, 6, tr.314] - Bốn mùa giông bão vò duyên phận
Trả nợ cuồng phong hết kiếp chưa [U ẩn, 6, tr.276] Có cảm giác mỗi dòng thơ Hoàng Cầm đều thấm đượm nỗi buồn, sự mất mát, đắng cay và nỗi khát vọng mãnh liệt. Trong đời thực hay trong thơ, Hoàng
Cầm vẫn thế, nồng nàn, mãnh liệt nỗi khát khao tình yêu, khát khao cuộc sống. Dù vậy, ở nhà thơ, “bản năng cũng được kìm nén, chỉ dịu êm một lẽ chấp nhận thoáng chút xót xa. Thế giới ấy khó chia sẻ” [151, tr.254].
Ở Hoàng Cầm, một nửa tâm hồn là niềm say cuộc sống, là khát vọng sống mãnh liệt và ước mong được bộc bày, chia sẻ, nửa còn lại như cố nén, cố lặn thật sâu vào bản thể hồn mình trước cuộc đời đầy dâu bể. Trong thực tại, hồn thơ ấy đã ôm ấp nhiều nỗi niềm, nhiều tâm sự:
- Chiều nay… gió biển hỡi – chia đôi Một nửa tôi theo đến cuối trời Một nửa em về trang giấy lạnh Cho mình gọi ấm gió xa khơi... [Ngỏ với gió biển, 6, tr.258]
- Đi tuyệt vời hạnh phúc Song song đau tuệt vời Tuyệt cùng đàn im ắng Tuyệt cùng trăng khuyết lời [Vào đường mê, 6, tr.275] Và trong tâm tưởng, “một cái bóng khác đang lặn lội tìm về quá khứ, điềm tĩnh hơn, trầm lắng hơn, sâu sắc hơn nhưng lại là tiếng lòng riêng muốn giải tỏa những ẩn ức kiểu Men đá vàng: lớp men tráng lên những đau thương của cuộc đời tan vỡ” [151, tr.16]:
Em cầm lấy cõi mưa nhung Miên miên tơ óng xuôi vùng khe sâu Em ngồi đâu Chị đứng đâu Bỗng dưng hai đứa hai đầu hư không (…) Áp môi bỏng cõi mưa dài Khát thêm từng trận khát hoài tuổi xưa Em về chưa? Chị đến chưa? Bỗng dưng hai đứa khóc mờ đêm trăng [Gọi đôi, 6, tr.232] Lặn tìm về quá khứ, trong những cơn mê dài và sâu thăm thẳm, nỗi u tình
vọng về qua thơ càng thêm khắc khoải, nghẹn ngào:
Chị lỡ xe hồng Mẹ đi lấy chồng Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc Mật vàng mọng rách vỏ nâu non (…)
Khấn thầm như gặp Chị
mắt nứa cứa tay Em vẫy đón đầu làng [Đợi mùa, 6, 177-178]
Nỗi thổn thức, ngậm ngùi về những mối tình lỡ nhịp, kỳ vọng về hạnh phúc và cái đẹp xui nhà thơ cứ mãi hoài ngóng tìm trong đau đáu, xót xa. Và nỗi nghẹn ngào duyên kiếp Em đứng nhìn theo Em gọi đôi suốt đời cứ âm ỉ, ám ảnh hoài tâm thức thi nhân:
- Ngày Chị bảo Em quên Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ Tha cho em Tha Em “Sông Thương nước chảy đôi dòng…”
[Nước sông Thương, 6, tr.153] - Em không nói. Chiều nay không bóng tím
Tiếng xe đời thét gọi mưa sa Gió nguyên hình. Đêm mê gì ngất lịm Trăng Tây Hồ sao tuyệt mù xa [Ngẩn ngơ, 6, tr.229] Thơ Hoàng Cầm mở ra chiều sâu tâm trạng, ở đó vọng lên nỗi buồn man mác, trong trẻo của tiềm thức tuổi thơ lặn sâu trong hồn ông, nỗi buồn nhẹ nhàng, sâu lắng:
- Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng Khế chua vôi bột lòng tay [Đêm Mộc, 6, tr.107] - Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt
Gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua [Đêm Thủy, 6, tr.108]
- Mắt thời gian em ơi nhìn đâu Để chiều nay tơ trắng ngang đầu
Để chiều mai đương xuân ai òa mưa mau (...) Nghe em ru Âm vang con suối nguyện cầu Mắt thời gian càng miên man xanh
[Mắt thời gian, 6, tr.297-298]
Đắm chìm trong vùng Quan họ vừa thực vừa mơ, đắm chìm vào miền ký ức đầy kỷ niệm, Hoàng Cầm mở ra trong thơ mình một vùng quê, một vùng thơ nhạt nhòa sương khói, xa xăm, mờ ảo. Nhà thơ thố lộ: “Tôi chìm vào một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà gần như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh màu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thẳm của say mê, não nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy suyển đến một sợi mi cong…” [151, tr.201]:
- Thờ ơ lắng đọng quê nhà Những sương buông khói mờ xa sông Cầu Thờ ơ nối rộng chiều sâu Nối nghiêng với chếch nối màu với hương Thơ ơ dàu nghẽn đoạn đường Vẫn lồng đau ấy vào thương phận này… [Thờ ơ, 6, tr.294] - Em đi mãi những đường làng ngơ ngắt
nhặt lá đa đan mũ Chiêu Quân hát vẩn vơ lời sẩm chợ (…) Chiều lá dứa tít mù chong chóng Gió mát này Mẹ quạt từ chênh chếch nẻo tàn trăng [Đợi mùa, 6, tr.176-177] Nguyễn Đăng Mạnh, trong bài viết Mấy ý nghĩ về thơ Hoàng Cầm, nhân đọc Mưa Thuận Thành”, đã nhận xét: “Ở Bên kia sông Đuống, thơ có say mà vẫn có tình, có màu tối, nhưng cũng có màu sáng, thậm chí tươi tắn nữa. Còn ở Lá Diêu Bông thì say triền miên và chỉ có một thứ ánh sáng buổi chiều đông chiếu trên một cánh đồng vắng, có bóng ai đó đang ngẫn ngơ tìm kiếm một cái gì…” [66, tr.14]. Thi phẩm Hoàng Cầm từ những Lá Diêu Bông, Quả Vươn Ổi, Cây Tam Cúc…, hắt
ra màu sáng le lói, nhạt nhòa của Đồng chiều cuống rạ, và màu đêm từ những Đêm Mộc, Đêm Thổ, Đêm Kim, Đêm Hỏa… Trong gam màu mờ nhòa khói sương ấy, bao nỗi niềm như lắng lại để rồi phảng phất trong hồn người đọc:
- Mùa đông sau Em tìm thấy Lá Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông [Lá Diêu Bông, 6, tr.150] - Có nét buồn khôi nguyên Chìm sâu vào đằng đẵng Có tiếng ca ưu phiền Chìm sâu vào lẳng lặng [Nhớ, 6, tr.174] Những dòng thơ ẩn chứa một lẽ gì vu vơ, hư ảo, tuy định hình một giọng diệu rõ nét song thật không dễ nắm bắt. Dòng mạch cảm xúc, ý thơ hòa trong những lớp hình ảnh, những điệu âm thanh như những con song dào dạt, mênh mang, và vỗ vào nhau, nhịp nhàng, êm ái. Nhón bước, lặng thinh đi trong miền thơ đầy những nỗi niềm ấy, người đọc cảm thấy mọi thứ vừa như thực, mà như mơ, dường rất rõ ràng mà nhạt nhòa, hư ảo. Quả vậy, cái đẹp, cái hay trong cấu khí, ý tưởng của câu thơ, bài thơ ông không ai không nhận ra song cái hồn thơ, cái hồn người man mác ẩn hiện trong thi phẩm thì thật khó nhận diện. Làm sao có thể lí giải cho tường, cho trọn vẹn nguyên do của nguồn cảm xúc chợt đến mà dâng tràn, mạnh mẽ, phủ kín hồn thơ ấy. Theo Hoàng Cầm, “Có nhiều bài thơ mang một tứ rất lạ, rất khó giảng, khó bình, mà nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi” [6, tr.211]. Muốn vậy, người đọc phải hòa được cảm xúc của mình với những rung động sâu trong hồn thi nhân, điều được thể hiện qua thi phẩm.
Thơ Hoàng Cầm, nói chung, là tấm lòng trĩu nặng tình yêu thương và nỗi suy tư sâu sắc về cuộc đời, về con người: Về quê hương, gia đình, về số phận những người thân yêu, về tình yêu, niềm hạnh phúc và nỗi bất hạnh, mất mát, hy sinh… Viết về điều gì, thi nhân cũng gửi vào đó thật đầy và thật sâu tâm tư, nỗi niềm của mình. Nhưng không phải từ sự cầu kì, khổ công tạo từ, tạo tứ cho thơ và bằng những cảm xúc tự nhiên, chân thành của một hồn thơ dào dạt, sâu lắng.
Có những bài thơ tưởng như không, như là chẳng nói gì, như câu nói bình
thường nhẹ tênh, vậy mà đọc kĩ lại, ngẫm ra mới thấy thấm thía và rồi nhớ mãi:
- Em ở bên nào một tấm gương
Liệu còn lưu giữ bóng ly hương Xin làm bóng nắng nghiêng tường cũ Đổ cái sầu chia dọc phố phường [Ngũ cung, 6, tr.417]
- Khi em đi xa quê Mới hiểu lòng ngõ vắng Nghe bánh xe nặng nề Nghiến phương mây thầm lặng [Khi em đi xa, 6, tr.225] Nhiều thi phẩm là tiếng vọng về từ miền quá khứ xa xôi, mờ ảo, nửa thực, nửa hư, tưởng sẽ mờ nhòa và tan nhanh như làn khói, rốt cuộc hằn mãi, vương vấn mãi trong tâm tư người đọc. Bởi lẽ, tiếng vọng ấy dội lên tận đáy lòng nhà thơ, là nỗi nhớ da diết, triền miên về tất cả những gì đã qua, đã xa xôi lắm. Và bởi lẽ, sự xa xôi, mơ hồ ấy chẳng bao giờ nhạt đi dù chỉ “một nét mong manh, một màu thoáng nhạt, một hương vị thoảng qua” trong hồn thi nhân. Hơn nửa, cái cách Hoàng Cầm đưa miền xa ký ức vào thơ và vào lòng quả là đặc biệt. Chính điều đó làm nên sắc điệu riêng độc đáo cho thơ ông. Ít hay nhiều, đậm hay nhạt, nhưng dường như, bài thơ, câu thơ nào của nhà thơ này cũng mang sắc điệu ấy:
- Anh đâu biết buồn vui nào chỉ dẫn
Tìm giọt sương lỡ hẹn mấy bình minh Vạch tia chớp đêm mù đi lận đận Xót xa em nhiều chớp mắt hóa vô tình [Nhiều chớp mắt vô tình, 6, tr.229] - Khi em đi quá xa Mới thấy trời mây hẹp Có phải trong hồn ta Em vẫn ngồi khép nép… [Khi em đi xa, 6, tr.227] Thơ Hoàng Cầm lại có nhiều khoảng trắng, nhiều cái lặng. Những chỗ im lặng không nói ấy, ngẫm ra mới thấy, sao nhiều xót xa, nhiều bi kịch. Đó là lúc hồn thi nhân rung động, thổn thức trong niềm xúc động mãnh liệt. Đọc bài thơ Từ nguồn đến biển, cảm giác xót thương, xúc động cứ dâng trong hồn người đọc khi nhìn đôi mắt ao mưa nhòe nắng, nhìn những nếp nhăn vầng trán” và mái tóc xào xạc lũy tre
mờ khói tím… của anh và nhận ra nỗi niềm của cô gái:
Sau chuyến đi xa lần thứ nhất Anh về (…) Nhìn mắt anh ao mưa nhòe nắng …
Sau chuyến đi xa lần thứ ba Anh về (…) Nhìn nếp nhăn vầng trán anh ngang tầm bão biển …
Sau chuyến đi xa lần thứ chín Anh về (…) Nghe tóc anh xào xạc lũy tre mờ khói tím [Từ nguồn đến biển, 6, tr.215] Chỉ ba lần gặp gỡ mà có biết bao bi kịch giữa ba khoảng trống thời gian ấy. Cô gái vẫn đợi chờ, môi vẫn thơm mận tía vườn quê, tình vẫn nồng say óng mịn, trong lặng thinh, khắc khoải.
Và Lá Diêu Bông:
Hai ngày Em tìm thấy Lá Chị chau mày đâu phải lá Diêu Bông Mùa đông sau Em tìm thấy Lá Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông Ngày cưới Chị Em tìm thấy Lá … Chị ba con Em tìm thấy Lá … Từ thuở ấy Em cầm chiếc lá Đi đầu non cuối bể… [Lá Diêu Bông, 6, tr.150-151]
Những dấu lặng trong bài thơ như kéo dài bi kịch của con người đến suốt đời, suốt kiếp, đến muôn thuở – bi kịch kiếm tìm hạnh phúc. Nỗi đau của tình yêu đơn phương, vô vọng, của sự cô đơn theo đó như dài và sâu đến vô tận.
Những dấu lặng ấy, cùng với cách tạo âm vang cuối bài thơ và lời thơ để ngỏ đã tạo độ sâu lắng, dư ba cho tác phẩm. Đây có thể nói là một đặc trưng phong cách thơ của thơ Hoàng Cầm. Thanh âm nhẹ nhàng, những câu thơ lửng lơ, những dấu hỏi, dấu ba chấm… tạo dư vị nhẹ nhàng và sâu sắc trong lòng người đọc:
- Hôm nay Họ xa nhau từ lâu Còn lại tiếng mưa ngâu Gõ nhịp giọt gianh thềm đêm vắng Và một dòng thơ Trang trải nợ ban đầu [Bâng khuâng, 6, tr.216] - Mưa đi về anh mưa đi lưu ly Kinh Bắc hồng môi gái xưa kinh kỳ Kinh Bắc lên men đằm hương vương phi Mưa phương Nam ơi, bao giờ mưa đi… [Giọt mưa phương Nam, 6, tr.269] Thơ Hoàng Cầm ẩn chứa một cái tôi đầy tâm trạng, nặng nỗi suy tư. Nỗi cô đơn, mất mát tràn ngập đời người và thấm đẫm trang thơ ông. Dù vậy, ta không thấy ở đó sự đớn đau, gào khóc mà nhẹ nhàng, thấm thía. Nỗi ngậm ngùi thân phận, sự hụt hẫng xót xa, theo hồn thơ đi vào lòng người đọc, đọng lại trong ấy nỗi buồn sâu lắng, miên man.
Sự nuốt nghẹn, sự dồn nén cảm xúc, tình cảm như thế kì thực không làm ý
thơ nhẹ đi mà ngược lại, thêm sâu sắc, thiết tha: - Tôi bỏ lại phía bên kia núi tím Nhức nhối ngực trần căng – xe tim chìm lịm Bến sông chiều le lói gọi xanh xưa [Hai phía núi, 6, tr.260] - Mấy kiếp hồn trăng đắng lạ thường Vì mê ảo vọng đắm tà dương Mọc lên đầu núi cơn cô quạnh Không nói – Ai nào biết xót thương [Thơ gửi đến người, 6, tr.251]
Vẫn biết, hạnh phúc dù mong manh nhưng là thực giữa cuộc đời. Tiếc là, với Hoàng Cầm, hạnh phúc sao xa xôi, mông lung như ảo ảnh. Vậy nên, suốt đời, Người thơ ấy cứ rong ruổi đi tìm hạnh phúc trong niềm đau và trong hy vọng. Thơ Hoàng Cầm mở ra nhiều khoảng trống, nhiều dấu lặng cũng bởi tại đây. Chứa đựng trong nó là bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu tâm trạng, là nỗi lòng sâu lắng của thi nhân. Và cũng chính ở đó chất thơ đọng lại và lan tỏa:
Tôi mơ Tiếng quê quan họ Cất cao thành núi khổng lồ Ném xuống biển cồn sóng gió Vòng nhỏ Vòng to Đến vòng nào nữa Chân mây mở rộng từng mùa Lòng Mẹ bao la con về theo nhịp múa Bài ca vỗ sóng ngàn xưa [Tìm đến chân trời, 6, tr.98] Cảm thức về thời gian ở nhà thơ thật lạ. Ở đó, quá khứ, hiện tại và tương lai như hòa vào nhau: Về khuya mê bóng bóng theo - Nhìn chênh thế kỷ bóng vèo qua mi [Ngày giỗ, 6, tr.236]. Thơ Hoàng Cầm mở ra một triết luận về thời gian. Thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ, như cơn gió thoảng nhanh: Em đi một loáng trăm năm - Nơi đâu em ngủ tôi nằm lênh đênh [Ngày giỗ, 6, tr.236]. Cách đếm thời gian cũng thật độc đáo: Chiều em đi không quá một vòng tay… Lắng lại trong hồn nhà thơ là nỗi hoài vọng mênh mông:
- Bong bóng xà phòng thuở bé chơi Sắc màu rực rỡ phút buông lơi Em đi vỡ vụn bao nhiêu nắng Về cõi nào đây chắp kiếp người [Xa, 6, tr.223]. - Bao năm và mấy phương Cứ thương thầm nhớ vụng Gió thốc bao dặm đường Sao em còn chập chững Theo mây chiều lững thững Lũy tre gầy nhuốm sương [Một phương, 6, tr.239]
Quá khứ hư ảo, xa xăm cứ chìm dần, cứ ngày càng lặn sâu trong hồn thi
nhân, vậy mà, Người vẫn nhớ, vẫn mong, để rồi nuối tiếc:
Cây đa đường xứ lớn lên ai hay Vẫn cơn gió cũ bao nhiêu chiều vụn đá Mắt nắng thay mùa mở lộc non [Đếm giờ, 6, tr.158] Hơn nửa, còn lặn lội tìm kiếm, đợi chờ:
Diêu bông gọi mãi không về Cứ ngồi canh một giấc mê mặn nồng …
Diêu bông biệt chẳng cần em tiễn Cứ chập chờn ẩn hiện tháng năm [Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông, 6, tr.246] Đọc thơ Hoàng Cầm, sẽ khó cảm và hiểu cho hết cái hay, nét đẹp với những tình ý sấu kín mà nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm nếu người đọc chưa thật sự rung động và hòa điệu hồn mình cùng cảm xúc thi nhân. Tiếng thơ ấy, có thể nói, như điệu ngọc rung lên huyền diệu trên những sợi tơ vàng trong sâu thẳm tâm hồn thi nhân. Tác phẩm Hoàng Cầm được yêu, được nhớ trong niềm đồng cảm sâu sắc cũng nhờ độ lắng sâu của hồn thơ tha thiết, nồng nàn, nhiều nữ tính. Sức hấp dẫn thơ Hoàng Cầm một phần cũng là ở đây.
Xã hội ngày càng phát triển, càng xa dần cái cộng đồng của những ngày hội nhộn nhịp, những điệu hò ngọt ngào, sâu lắng bao thuở là niềm tự hào của mỗi người dân đất Việt. Và theo đó, hình ảnh những dòng sông uốn quanh núi đồi, làng mạc, có thể cũng sẽ dần mờ nhạt trong tâm thức mọi người. Dù vậy, những câu thơ Hoàng Cầm như một dấu tích tâm hồn dân tộc hẳn sẽ còn nuôi lòng ta mãi về sau.
1.2.3. Hồn thơ Kinh Bắc Hoàng Cầm Vùng đất thơ trữ tình Kinh Bắc, những cô gái quê Kinh Bắc tài sắc, đa tình, Mẹ – người thiếu nữ làng Bựu, được thừa hưởng những tinh hoa của làng quê quan họ,… tất cả, như dòng sữa ngọt ngào thấm vào máu thịt, chảy trong huyết quản Hoàng Cầm, nuôi dưỡng hồn thơ ông – hồn thơ Kinh Bắc. Thơ viết về quê hương, trước nay, có rất nhiều, nhưng dễ thường ít có thi nhân nào lại gắn bó đến mức máu thịt với vùng quê Kinh Bắc như Hoàng Cầm. Ông là nhà thơ viết về đất Kinh Bắc
đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn cả. Có lẽ vậy mà dù viết về điều gì, về quê hương, đất nước hay về những tâm tư sâu kín trong hồn, Hoàng Cầm vẫn là nhà thơ Kinh Bắc không thể lẫn. Phải nói, phù sa Kinh Bắc đã lắng đọng và thăng hoa hồn thơ ông để đem đến cho đời một tiếng thơ lạ, mà rất đẹp. Trong trẻo, hồn nhiên mà trữ tình, đằm thắm, dạt dào, rộng mở mà da diết, lắng sâu là sắc điệu riêng của hồn thơ Kinh Bắc Hoàng Cầm, một hồn thơ đa tài và đa tình trên một vùng đất thơ đặc biệt : Kinh Bắc.
Kinh Bắc – một vùng thẩm mỹ lớn, là xứ sở của huyền thoại, truyền thuyết, ca dao dân ca, là nguồn cảm hứng sáng tạo của nhiều văn nhân, trong đó có Hoàng Cầm. Trên trang thơ ông, bóng dáng con người Kinh Bắc, quê hương Kinh Bắc với những dòng sông, những cánh đồng, những hội hè, đình đám… hiện lên trong những hình ảnh đẹp nhất, sinh động nhất. Chính cảm xúc và tình cảm sâu sắc dành cho Kinh Bắc đã giúp Hoàng Cầm tạo dựng được thế giới Kinh Bắc trong thơ mình, và hơn nữa, làm đọng lại ấn tượng rất sâu trong lòng độc giả.
Quả vậy, Kinh Bắc đâu chỉ là vùng địa linh nhân kiệt, mảnh đất của những truyền thống văn hóa đời đời, ấy còn là vùng đất thơ ngọt ngào, trữ tình và đầy quyến rũ. Kinh Bắc vì thế đã đi vào biết bao trang sử cùng bao tác phẩm văn chương. Được chuyển hóa đặc sắc trong thơ Hoàng Cầm, người đọc hôm nay và muôn đời sau thật may mắn đã có được một hồn thơ độc đáo – hồn thơ Kinh Bắc. Đất Kinh Bắc bồi đắp, nuôi dưỡng và nâng cánh thơ Hoàng Cầm bay cao, bay xa để rồi vương vấn mãi trong đời. Cũng nhờ thi nhân ấy biết khéo léo gửi trọn mảnh hồn in sâu dáng hình Kinh Bắc của mình trên mỗi dòng thơ. Thơ Hoàng Cầm lung linh, sống động và đầy ắp một miền không gian Kinh Bắc huê tình, diễm ảo. Hai lần đọc thơ ông, qua bài Bên kia sông Đuống và Lá Diêu Bông, Nguyễn Đăng Mạnh nhận ra hai lối thơ của hai thời kỳ sáng tác dù “khác nhau lắm” nhưng cả hai đều có một cái gì rất Hoàng Cầm: “Hình như có một không gian Kinh Bắc, một thời gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ ông. Và trên cái nền thời gian, không gian ấy, cứ thấy thấp thoáng một cô gái quê Kinh Bắc của một thuở nào, có vẻ đẹp duyên dáng tình tứ cười như mùa thu tỏa nắng. Tất cả được vờn vẽ bằng một ngọn bút tài hoa, đệm theo một nhạc điệu buồn…” [66, tr.14].
Dường như, cái không khí đẫm chất huê tình, bảng lảng khói sương văn hóa dân gian của đất Kinh Bắc đã ăn sâu vào tuổi thơ Hoàng Cầm và tạo thành một phần máu thịt trong bản thể thơ ông. Thi giới Hoàng Cầm dù được nhìn từ chiều hướng nào cũng thấy hiện lên một Kinh Bắc thẳm sâu, lộng lẫy, một Kinh Bắc u hoài vóc
dáng của những người đẹp. “Vũ trụ thơ Hoàng Cầm thực chất là hồn quê Kinh Bắc rung lên qua những sợi dây thần kinh thi ca nhạy cảm được uơm ủ từ thời ấu thơ” [66, tr.44]. Thơ Hoàng Cầm trước sau luôn là tiếng nói trung thực của bản ngã, là sự đào sâu vào bản thể hồn mình, để qua đó, kí ức về quê hương cứ lần lượt trở về, khắc khoải, da diết và đầy đam mê… Chẳng biết tự lúc nào, Kinh Bắc đã trở thành quê thiêng – quê thơ – quê tình trong thơ Hoàng Cầm, chỉ biết rằng, nếu mất đi không khí Kinh Bắc, chắc hẳn rằng thơ Hoàng Cầm cũng sẽ hết thiêng! Vậy nên mới nói: Kinh Bắc với Hoàng Cầm “không chỉ là chuyện đề tài mà là chuyện hồn cốt, độ sâu sắc của tình cảm hòa vào chữ nghĩa, tình điệu” [66, tr.44].
Từ cội nguồn Kinh Bắc, mang trong hồn kí ức sống động về vùng đất quê hương, anh lính trẻ Hoàng Cầm say sưa sáng tác thơ, viết kịch, diễn kịch, đem giọng oanh vàng đất Bắc của mình phục vụ bộ đội, phục vụ kháng chiến. Thơ ông hồi này tràn đầy sức trẻ, cuồn cuộn chảy dài thành những bài thơ nối tiếp nhau trong những năm đầu kháng chiến. Tiếp nối mạch thơ yêu nước, căm thù giặc trong Đêm liên hoan và Tiếng hát sông Lô , Bên kia sông Đuống ra đời, trở thành đỉnh cao của thơ kháng chiến và cũng là đỉnh cao của thơ Hoàng Cầm. Bài thơ là bức tâm tình dạt dào, tha thiết, lắng sâu của đứa con thơ Kinh Bắc khi nghe tin quê hương chìm trong ngọn lửa hung tàn của quân xâm lược.
Chẳng phải ngẫu nhiên, từ tiềm thức xa xôi bỗng vọng về thành câu chữ và tuôn chảy một thế giới Kinh Bắc trong Bên kia sông Đuống. Chính lòng yêu quê hương sâu sắc, những hồi ức đầy ắp kỷ niệm về Kinh Bắc, trong những phút thiêng, chợt làm sống dậy mãnh liệt hồn thơ Kinh Bắc Hoàng Cầm đã lắng đọng bấy lâu.
Được viết về Kinh Bắc, với Hoàng Cầm là hạnh phúc, là nỗi khát khao, là tình yêu không thể nói hết bằng lời. Viết về Kinh Bắc, hồn thơ ấy như được tìm về với đất mẹ yêu thương, để rồi thăng hoa thành những vần thơ đẹp. Dáng hình quê hương Kinh Bắc luôn thấp thoáng, ẩn hiện trên mỗi thi phẩm Hoàng Cầm nhưng rõ nhất, đậm nhất vẫn là ở những sáng tác trong tập Về Kinh Bắc. Tập thơ được viết vào những năm 1959 – 1960, giữa những đau đớn mộng mị, những suy tư, trăn trở về cuộc đời và số phận con người. Bên cạnh những đứa con mang vẻ đẹp Kinh Bắc vốn đều được thai nghén từ vùng đất ấy như: Mưa Thuận Thành, Men đá vàng, 99 tình khúc, Về Kinh Bắc đã được xem là dòng chảy Hoàng Cầm tiêu biểu nhất, là cột xương sống cho toàn bộ thi phẩm của ông. Với Hoàng Cầm, về Kinh Bắc cũng có nghĩa là trở về thời thơ ấu, quay về với cội nguồn và cũng chính là về với ta, về với niềm cảm xúc miên man và rất thật trong hồn mình.
Về Kinh Bắc để được nhớ, được mơ và được say mãi niềm hạnh phúc lung linh mê đắm. Ngập sâu hồn mình vào đất mẹ quê hương, nhà thơ thổ lộ: “Tất cả… tất cả… tôi bơi, chìm trong tất cả da thịt quê hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc…” [6, tr.195]. “Hồn tôi cứ chìm dần, chìm sâu, chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, màu sắc, hương vị đã quá xa, … Chuyện về quê hương, về tình yêu với những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi ly biệt cứ tầng tầng lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền – diệu – dĩ – vãng rồi xẻ ngang, vạch chéo, vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu những nét rung động, có khi võ vàng, gầy mảnh, có khi tươi tắn, ngỡ ngàng, lúc như ai oán, lúc như mơ mộng nhưng vui ít buồn nhiều, cái đau của thuyền tình không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mỹ nhân đã khép, những tiếng hát người yêu đã tắt, những làn da mịn màng của người gái quê Kinh Bắc đã nhăn nheo, những sợi tóc xưa óng ả nay đã úa bạc… Vậy nên, cả tập thơ Về Kinh Bắc tôi viết từ lập thu 1959 đến giữa xuân 1960, là quê hương tôi, cảnh ngộ gia đình tôi… số phận mỗi người thân yêu, nhất là số phận những người gái quê Kinh Bắc” [6, tr.194-199].
Những hình ảnh đó theo nhịp lòng thi nhân bàng bạc bao phủ cả tập thơ, “xuyên qua năm tháng và không gian, qua mưa phùn và nắng rát, qua biết bao hình thái của tâm tư, của số phận, mà trội lên vẫn là cái sầu đơn phương, cứ vấn vương mãi, cho tôi nhớ mãi đến hết một kiếp này, biết đâu còn xót xa yêu thương vào tận kiếp sau… kiếp sau nữa…” [6, tr.205].
Có thể nói đây là lúc hồn thơ Kinh Bắc lắng đọng sâu nhất, chín nhất trong đời thơ Hoàng Cầm. Cuộc “tuần du” ngược dòng thời gian trở lại quê xưa lần này đã giúp nhà thơ tạo nên nhiều dáng thơ, kiểu thơ, lối thơ mang hồn thơ Kinh Bắc độc đáo. Bốn tám dáng thơ qua tám nhịp trong Về Kinh Bắc kết tinh trong ấy muôn vàn nỗi niềm, muôn vàn yêu thương, muôn sắc hương, âm vị của cuộc sống vừa là hiện thực, vừa là huyền thoại, rốt cuộc, vẫn chưa vợi khối ân tình bao la, sâu thẳm trong lòng người thi sĩ. Bởi thế mà có Mưa Thuận Thành, Lá Diêu Bông, rồi 99 tình khúc tiếp vào mạch thơ Kinh Bắc và đẩy chiếc xe thơ ấy đi xa hơn về phía hiện đại. Ở đó, bằng lớp ngôn từ vừa mang màu sắc cổ điển vừa phóng túng linh hoạt nhưng vẫn nghiêm trang, Hoàng Cầm đã tạo dựng được một không gian cổ trọn vẹn, diệu kỳ trong thơ mình. Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Hình như có một không gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ anh” [66, tr.14]. Và Phạm Thị
Hoài: “Về Kinh Bắc, tập thơ cho đến bây giờ vẫn tiếp tục mang vầng hào quang riêng…, và chỉ cái tên của nó thôi đã hứa hẹn, và hơn cả hứa hẹn: đã thiết lập hẳn một không gian tinh thần đặc trưng – không gian văn hóa Kinh Bắc” [151, tr.248].
Nhìn nhận Hoàng Cầm là một tài năng độc đáo của nền thơ Việt Nam hiện đại phải thấy rằng phần đặc sắc nhất của thi nhân là thơ viết về Kinh Bắc. Ông là nhà thơ đã nói về Kinh Bắc nhiều và giỏi hơn cả. Nếu nói đất Kinh Bắc huê tình là cội nguồn của đời thơ Hoàng Cầm thì ngược lại, người thi sĩ tài hoa ấy đã làm thơ hóa, bất tử hóa, làm rạng danh cho vùng quê Kinh Bắc.
Quê hương là cội nguồn, là cái nôi nuôi dưỡng đời sống và tâm hồn dân tộc. Mỗi nhà thơ, nhất là những nhà thơ lớn đều có những sáng tác hay viết về quê hương. Ta đã gặp một Nguyễn Bính chân quê trên miền đất Nam Hà nghèo khổ thanh sơ bình dị; một Quang Dũng phiêu diêu trong mây trắng xứ Đoài; một Hàn Mặc Tử bên thôn Vĩ Dạ đầy thơ mộng hay một Tố Hữu với những dòng thơ ngọt ngào đậm chất dân ca và đượm thắm tâm tình cùng sông Hương, núi Ngự… Đất Kinh Bắc sinh ra Hoàng Cầm, để đến lượt mình, nhà thơ ấy đã tái sinh một thế giới Kinh Bắc đa chiều, lộng lẫy trong thơ mình.
Đọc thơ Hoàng Cầm, soi ngắm thi phẩm ông từ góc nhìn nào, người đọc cũng thấy được lòng thành kính, sự nâng niu, trân trọng xuất phát từ một tình yêu rất đặc biệt mà ông dành cho Kinh Bắc. Tình yêu ấy đã ngấm vào máu thịt thi nhân từ thưở ấu thơ, trở thành lẽ sống, niềm tin, lòng tự hào của một người suốt đời lấy thơ làm cứu cánh, làm mục đích và lẽ sống cao cả cho mình. Chính tình yêu Kinh Bắc đã đem lại nguồn cảm xúc bất tận để nhà thơ có thể làm sống dậy tất cả những gì thuộc về Kinh Bắc trong thơ mình. Và hơn thế, nó tạo nên “sự hòa hợp cộng hưởng giữa thế giới Kinh Bắc với hồn thơ Hoàng Cầm để làm nên một gương mặt thi nhân, một Người thơ Kinh Bắc quen mà lạ, với phong cách và sắc điệu riêng, chỉ riêng ông mới có” [66, tr.15].
Thơ là nơi giãi bày tâm tư, tình cảm và thổ lộ những điều tinh vi, sâu kín nhất trong tâm hồn thi nhân. Viết về Kinh Bắc, Hoàng Cầm hòa cả mảnh hồn ắp đầy tình yêu Kinh Bắc vào linh hồn quê hương, tiếng thơ ông từ đó cũng là tiếng vọng của núi sông, tiếng lòng của người Kinh Bắc. Hoàng Cầm luôn có cách thể hiện độc đáo và ấn tượng hình ảnh quê hương trong thơ mình. Điều này giúp ông tạo được sắc điệu riêng cho thơ mình, khác hẳn với cả những nhà thơ Kinh Bắc khác. Viết về những dòng sông diễm lệ, núi đồi thần tiên, chùa chiền miếu mạo, những làng quê nghèo vắng hút hay những con người tình tứ, hào hoa, nhà thơ vẫn luôn gợi được
tình yêu Kinh Bắc sâu thẳm, mãnh liệt trong câu chữ và gợi được hồn quê Kinh Bắc qua ý thơ.
Làm thăng hoa vẻ đẹp một vùng quê để những cảm xúc về quê hương Kinh Bắc đọng lại thật sâu trong lòng độc giả, phải nói, ít ai làm được như Hòang Cầm. Nhà thơ đã tạo nên được một thế giới Kinh Bắc trong không gian nhiều chiều, trên nền thời gian đặc sánh màu Quan họ. Nhiều người cho rằng chỉ với Bên kia sông Đuống thôi cũng đủ để Hoàng Cầm dựng nên thế giới Kinh Bắc trong thơ và tỏa sáng trên thi đàn. Kỳ thực, mỗi thi phẩm Hoàng Cầm là một dòng sông thơ về Kinh Bắc mang trong nó những vẻ đẹp riêng về cảnh quê, từ quê, về những con người trong cách cảm, nếp nghĩ, những nét văn hóa truyền thống… Thế giới Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm theo đó hiện ra sống động, vừa rất thực, vừa huyền hồ, hư ảo, một Kinh Bắc đẫm chất huê tình đã ăn sâu vào hồn thi nhân tự thưở nào.
Viết về quê hương, điều cốt yếu là phải là hiện lên rõ nét cái hồn của vùng quê đó. Muốn vậy, người viết đòi hỏi phải có cảm xúc mạnh, trí tưởng tượng sâu rộng, sức liên tưởng dồi dào qua các sự vật, tình cảnh có thực, đồng thời phải thấu hiểu lịch sử và nhân vật lịch sử của một vùng đất. May mắn thay, từ nhỏ, Hoàng Cầm đã được theo mẹ đi lễ chùa, dự hội chùa Phật Tích, Chùa Dâu, Bút Tháp, Tiên Sơn, Long Khánh… và đến những phường hát Quan họ nổi tiếng. Kinh Bắc vốn vậy, trữ tình, quyến rũ và rất đỗi ngọt ngào. Thế giới ấy lại được ươm ủ trong hồn người Kinh Bắc tài hoa, đa tình nên lại càng lung linh, đắm say. Trong nền thơ dân tộc, xưa nay, chưa có nhà thơ nào viết về quê hương Quan họ mà sắc màu Kinh Bắc, cái hồn dân tộc đông kết xuất sắc trong mỗi dòng thơ như thi nhân Hoàng Cầm. Thơ ông đem lại cho người đọc cảm giác như đang trôi vào những giấc mơ đầy tình yêu dành cho Kinh Bắc, dành cho Mẹ, cho Em và dành cho thơ. Mặc dù chỉ viết về một vùng quê tâm hồn thơ Kinh Bắc Hoàng Cầm lại có sức lay động sâu sắc tình cảm quê hương nói chung trong mỗi người dân đất Việt.
Tóm lại, với tài thơ độc đáo, Hoàng Cầm đã làm hiện lên một thế giới Kinh Bắc sống động trong thơ mình. Nhưng có lẽ, hồn điệu Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm sẽ nhạt và vơi nếu mất đi màu thời gian rất đỗi cổ kính được nói đến trong nhiều thi phẩm. Bằng một hệ lời tinh vi, lắt léo và thật sự ấn tượng, Hoàng Cầm đã tạo được dòng thời gian chảy qua hồn Kinh Bắc. Thời gian ấy dù mang màu tâm linh và thuộc về cảm thức Hoàng Cầm, vẫn có sức ám ảnh và khả năng gợi mở thật phong phú. Nó không chỉ mở ra trước mắt người đọc bề rộng không gian Kinh Bắc mà còn gợi lên trong lòng họ tầng sâu văn hóa của một vùng quê.
Thời gian trong thơ Hoàng Cầm có khi là đơn vị thời gian thật và cụ thể khác lắm lúc chỉ có ý nghĩa tượng trưng, mê giác. Dù vậy, thời gian trong thơ ông bao giờ cùng gắn với một tâm trạng, một nỗi niềm nào đó, bao giờ cũng trĩu nặng tình yêu dành cho Kinh Bắc. Mỗi giây, phút, giờ, trong thơ Hoàng Cầm đều là những thời khắc đáng nhớ bởi lòng người chẳng bao giờ nguôi thổn thức, trăn trở:
- Giờ ấy giờ nào Sao gióng chuông cảnh tỉnh Sao giật mình thoắt biến Hai nửa mình chống chếnh ra đi [Về cõi thật em, 6, tr.278]
- Khi em đi mưa rơi Lại thấy mình có lý Vì phút giây bồi hồi Biết nhìn sau giọt lụy [Khi em đi xa, 6, tr.227] Thời gian vật lý trong cảm thức nhà thơ, trong cái tôi sâu thẳm và mãnh liệt ấy, trở thành thời gian của tình yêu, nặng nỗi nhớ thương mà cũng nhiều hệ lụy. Những mối tình có thực đầy tiếc nuối, xót xa, nỗi khát thèm tình yêu đến cháy bỏng đã dệt nên thời gian nghệ thuật trong thơ Hoàng Cầm:
Đi tìm kỷ niệm bên nhau Sao không gặp mắt ai đâu mà tìm Phút nào tơ tưởng thành em Nghìn năm nhớ dáng tô – tem dập dìu Giạt về bến lặng thương yêu [Kỷ niệm, 6, tr.236] Khát vọng được yêu, được sống gắn bó dài lâu thể hiện qua cách nhà thơ nói về thời gian. Dù là tháng, mùa, năm hay chỉ là những chiều, đêm…, người đọc vẫn có cảm giác là cả đời người hay là mãi mãi. Ta bắt gặp trong thơ ông những đôi bờ tháng năm, trăm năm, nghìn năm, những nghiệp, thuở, cõi, ngày xưa, kiếp này, mai sau… Thời gian ấy giăng mắc trong nó lòng người nhiều u uẩn, da diết, đớn đau mà ngọt ngào hồn quê Kinh Bắc.
Thực vậy, những tháng, mùa trong thơ Hoàng Cầm luôn làm hiện rõ không gian sinh hoạt Kinh Bắc. Hoàng Cầm thường nói đến tháng giêng – tháng của hội hè Kinh Bắc:
Tháng giêng ơi vút vút nhanh Như mây từ biển liệng vành Thiên Thai Như dòng sông Đuống cuốn trôi Như Tiêu Tương liễu buông dài Bách Môn [Tháng giêng đi chậm, 6, tr.283] Tháng giêng Kinh Bắc thơ mộng núi thần Thiên Thai, êm đềm sông Đuống trữ tình, sông Cầu buông dài bất tận… làm lòng người cứ xốn xang, xúc động. Mùa xuân vốn vậy, gợi khơi rất mạnh cảm xúc ái ân, khát vọng yêu đương trong mỗi con người. Mùa xuân Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm như lời ca mênh mang, êm ái:
Khi mùa xuân đế mắt em Bỗng dưng biển sóng trào lên ngang trời Dâng theo cả chín trận cười Đậu chênh vênh bến mi dài rợp xanh [Khi mùa xuân đến, 6, 267-268] Mùa xuân trong mắt em và mắt anh, trong lòng người Kinh Bắc là hơi thở phập phồng, là tình yêu rạo rực, là nét đẹp, mơ màng, hư ảo. Sự lung linh, mơ hồ tạo cảm giác hư thực huyền bí trong thơ Hoàng Cầm. Đó là nét riêng độc đáo trong thơ ông và cũng là màu đặc trưng của Kinh Bắc. Những câu thơ như: Anh đưa em nhẹ gót về xanh xưa hay Trăm năm nhào quyện hư vô – Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn đem lại cho người đọc cảm giác phiêu bồng, miên man thật khó tả. Chẳng có những tháng ngày sống gắn bó và hòa mình vào da thịt quê hương, hồn phách quê hương, Hoàng Cầm sẽ chẳng có những câu thơ giàu sức gợi và nhiều cảm xúc đến thế. Bao tháng năm lịch sử xa xăm của miền Kinh Bắc cứ lần lượt hiện về, khắc khoải, đầy trăn trở trong thơ ông:
Ngây xanh miền thuở bé Nét nhăn hồng hoàng hôn Mãi theo dòng mẫu hệ Thắt yếm đào tuổi son [Theo dòng mẫu hệ, 6, tr.254] Mỗi dòng thơ, mỗi nét vẽ thời gian là mỗi dòng tâm trạng, là nỗi nhớ và lòng thương yêu nghìn trùng dành cho Kinh Bắc. Trong mưa chiều, trên sông chiều những chiều xưa trên Kinh Bắc, tất cả là kỷ niệm mà suốt đời Hoàng Cầm không sao quên được.
Buổi chiều là thời khắc dễ khiến người ta xúc động và muốn được bày tỏ,
chia sẻ. Chiều Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm đầy ắp tâm trạng và nỗi niềm : chiều mê mải sầu, chiều mê bến lịm, chiều nghiêng, chiều tím, chiều hoang… Một ráng chiều đỏ trên Kinh Bắc cũng gợi về trong thi nhân biết bao kỷ niệm. Thấy và nắm bắt được cái thần của khoảnh khắc ấy đã khó, tạo nên dáng chiều Kinh Bắc trữ tình và ấn tượng trong thơ quả chỉ có Hoàng Cầm:
Cúc vàng sóng sánh Khăn nhiễu tam giang Đâu chùm hoa lý Đưa trăng về làng (…) Ơi chiều Kinh Bắc Chuông chùa nhuộm son [Quà mẹ, 6, tr.180] Đêm trong thơ Hoàng Cầm càng in đậm dáng hình và cái hồn quê Kinh Bắc. Hoàng Cầm có cả một chùm Thơ đêm viết về Kinh Bắc: Đêm Thổ, Đêm Kim, Đêm Mộc, Đêm Thủy, Đêm Hỏa… Mỗi thi phẩm là một nét tâm trạng, một sự bộc bày chân thành và tha thiết tình yêu Kinh Bắc sâu kín trong lòng nhà thơ. Nếu Đêm thổ là lời khấn mẹ nghẹn ngào, nức nở và đầy yêu thương, Đêm Kim là nỗi thoảng nhớ thoảng quên và lòng tin yêu sâu sắc dành cho Kinh Bắc, Đêm Mộc gợi lại một thời ấu thơ hồn nhiên trong sáng lẫn nỗi buồn đau trước vận mệnh quê hương, Đêm Thủy trong lớp ngôn từ sáng tạo đầy táo bạo đã gợi lên sức sống ngập đầy làm xao động cả không gian Kinh Bắc; thì Đêm Hỏa là bức tranh sắc nét về nỗi thống khổ, đau thương của dân tộc. Với những hình ảnh rất đắt, Đêm Hỏa vừa cho người đọc thấy được sự dữ dội, tang tóc của quê hương vừa gợi ra những biến động, đổi thay trong cuộc sống:
Trăng lên chém đầu ngọn gió Cành si bưng chậu máu chát chao Cuối năm rì rầm tiếng khóc Chàng ôi ngựa tía võng đào Chợt mê thét giữa sân Nét mác chư thiên toạc lưng trâu mộng Máu đổ Mây đùn Gió lộng Sớm mai đi [Đêm hỏa, 6, tr.110]
Bước trong đêm Kinh Bắc, lòng thi nhân như lắng lại và chìm sâu hơn vào bản thể hồn mình. Ở đó, giữa mênh mông cuộc đời, Hoàng Cầm quan tâm nhiều hơn đến nỗi đau và số phận của những người dân Kinh Bắc. Tình cảm ấy làm nên chất nhân văn, cái đẹp cho thơ ông. Tác phẩm Quà mẹ thể hiện rất rõ chất sống quý giá ấy:
Nửa đêm Thuyền thúng đồng chiêm Đi tìm hướng làng xa Ngọn cây đa trang hoàng khúc múa Đàn cá song lơ lửng tự tình Ổ sáo đen mái chèo khua vỡ trứng Gà lên chuồng chuông động bình minh [Quà mẹ, 6, tr.179] Hình ảnh thơ gợi tả nỗi khốn khổ đến tận cùng của người dân Kinh Bắc trong cảnh mất nước và trong thiên tai lụt lội. Thời khắc “nửa đêm” vừa tô đậm nỗi đau của những kiếp người tội nghiệp vừa thể hiện lòng cảm thông sâu xa, sự thấu hiểu tận cùng của nhà thơ. Đêm trong thao thức, trằn trọc, trong nhiều xúc động dâng tràn, tiếng thơ Hoàng Cầm vốn đã chìm sâu càng thêm u uẩn, nghẹn ngào. Ẩn chứa trong ấy là tình yêu sự sống, là khao khát vô bờ có được cuộc sống bình yên, hạnh phúc:
Ngày trằn trọc suốt đêm trắng lạnh Đêm thao thức không vơi ngày trắng em Những khao khát một đêm dài óng ruột Ấm êm em trong trắng thịt da đêm Mưa mắt anh rơi đúng giờ nắng chuốt Ngọn gió nao ấp ủ một cơn thèm [Nhớ xa, 6, tr.305-306] Thơ Hoàng Cầm nồng nàn men say tình yêu và thắm đượm men quê. Những chất men ấy quyện hòa trong hồn thi nhân và làm nên men đêm kỳ diệu. Đêm trong thơ Hoàng Cầm dù là thời gian thực hay được ảo hóa trong những hình ảnh rất lạ vẫn hết sức ấn tượng và đọng lại cảm xúc khó quên trong lòng độc giả. Nó giúp người đọc có những liên tưởng thú vị, hấp dẫn về điều được khơi gợi. Đương nhiên, Hoàng Cầm không chỉ có những đêm tình yêu thơ mộng, trữ tình, ông còn có những đêm tiền sử hoang sơ, thuở An Dương Vưong xây Cổ Loa Thành:
Giếng ngọc ểnh ưong quát đêm tiền sử I…i…m…m ứ…! I…i…m…m ứ…! [Gió lông ngỗng, 6, tr.114] Câu thơ vọng về câu chuyện đau lòng và nỗi oan khiên chưa được hòa giải từ nghìn năm trước. Đêm tiền sử xa xôi hóa ra lại gần với bi kịch chẳng dễ gì khỏa lấp trong tâm hồn nhà thơ.
Đi thật sâu vào lịch sử, văn hóa vùng Kinh Bắc sẽ thấy và cảm nhận được chiều sâu hồn người và cả hồn thơ. Yếu tố thời gian trong thơ Hoàng Cầm quả có sức vọng và sức lay đặc biệt. Nó mang thế giới Kinh Bắc và tình yêu xứ sở ấy của nhà thơ, nhẹ nhàng đi vào lòng người đọc, từ những ngày xưa và đến tận mai sau. Cứ thế, thời gian hiện về trong thơ Hoàng Cầm như những dòng chảy triền miên, bất tận, mơ hồ mà thiết tha, nghẹn ngào, mê đắm:
Phân vân em cứ ngập ngừng Còn do dự mãi… hạ đừng sang thu Lá xanh lạc nẻo sương mù Muốn về cội hóa chết từ giữa xuân [Phân vân, 6, tr.432] Thời gian ấy làm hiện lên sống động, tràn đầy vẻ đẹp văn hóa vùng Kinh Bắc, nỗi đau Kinh Bắc và cả những nếp cảm, nếp nghĩ, tâm tư, tình cảm của người Kinh Bắc. Nói chung, qua ba chiều thời gian – quá khứ, hiện tại và tương lai, trong hệ lời tinh vi, uyển chuyển, Hoàng Cầm đã làm tái sinh một thế giới Kinh Bắc trong thơ mình.
Hòa nhập hồn mình vào chiều sâu văn hóa làng quê Việt, Hoàng Cầm đã làm thăng hoa vùng quê mình tong lớp không gian, thời gian thực - ảo biến hóa khôn lường. Và ở đó, tinh túy của văn hóa Quan họ - Kinh Bắc đã được chưng cất, kết đọng lại. Hoàng cầm càng miên man trong miền ký ức, càng đi sâu vào cái tôi hồn mình, thế giới Kinh Bắc trong thơ ông càng được rộng mở: Từ Mưa Thuận Thành, Nước sông Thương, trai đời Trần, gái hậu Lê đến các hội thi – Hội Gióng, Hội Vân Hà, đến… cánh chuồn chuồn khiên nắng, đám cưới chuột… nơi lịch sử hòa cùng huyền sử, mộng ảo ngập đầy ký ức.
Lâu đài thơ kỳ ảo của Hoàng Cầm làm mê đắm lòng người bởi hồn cốt văn hóa làng quê Việt, bởi màu Kinh Bắc diễm tình được dệt bởi những sông Cầu, sông Đuống trong mây ráng Thiên Thai, trong nắng gấm Ba Vì, bởi làng Quan họ chập chùng tiếng hát những trai thanh gái lịch. Thơ Hoàng Cầm, một miền Quan họ tràn vào, ngọt ngào, tha thiết, tình tứ, vang lên trong tiếng thơ gần gũi, duyên dáng, trong hồn thơ hồn nhiên, trong cánh thơ bay bổng. Có thể nói đất trời và con người Kinh Bắc đã đọng sâu trong hồn, lẫn sâu trong tim, hòa quyện trong tiếng thơ Hoàng Cầm để rồi vang mãi, vọng mãi trong đời một tiếng thơ đậm chất quê hương, đậm tình đất nước.
1.3. Hoàng Cầm – Người chép thơ từ cõi vô hình “Thơ, từ những khát vọng, từ vùng u huyền, bí ẩn nhất, bật ra như một điệu đàn, như một hình bóng bất chợt, như tiếng nói các thần linh không biết tự thuở nào. Thơ nối yêu thương vào khát vọng, lại nhân lên đến hệ số vô cùng. Thơ cho ta được yêu, biết yêu, biết đau và chịu đau. Thơ cho ta cái thật trong cuộc đời, cho ta cái sáng láng trong lành của bầu trời tịnh khí, cho ta màu sắc và âm thanh đẹp nhất. Thơ cho ta cả một đời sống giàu có và sang trọng, cho ta bao nhiêu bức tranh diễm ảo, bao nhiêu bản nhạc huyền diệu, dẫn dắt ta đi trên mặt đất này, dẫu qua đá nhọn gai sắc, vẫn là ta đang bay nhè nhẹ, dìu dặt trong một cõi như không phải của ta mà chính thực là ta, là Người đang khao khát sống, yêu, say mê và hy vọng” [101, tr.89-90]. Ở Hoàng Cầm, nếu cho rằng “Cái may mắn lớn nhất trong đời thơ ông là được hút nhụy ngọt từ vườn hoa thơ diễm tình Kinh Bắc” [66, tr.24], thì nét độc đáo riêng của hồn thơ ấy chính là màu siêu thực. Giới nghiên cứu đã bàn đến đặc điểm này của thơ Hoàng Cầm như một nét đẹp lạ của thơ ông. Nguyễn Đăng Mạnh gọi đó là “phạm trù siêu thơ” [66, tr.29], Đỗ Lai Thúy cho rằng “có thể Hoàng Cầm không có lý luận, không có tuyên ngôn như nhóm siêu thực của Bréton, nhưng trên thực tế, ông đã sáng tạo như họ” [66, tr.56], còn Nguyễn Đăng Điệp thì khẳng định Hoàng Cầm là “Người dệt thơ từ những giấc mơ” [66, tr.43].
Hoàng Cầm cho biết ông ít tiếp xúc với trường phái thơ siêu thực Pháp, ít chịu ảnh hưởng và càng không quan tâm đến tuyên ngôn của lối thơ này. Tuy vậy, thơ ông, nhất là những sáng tác được viết từ năm 1959 trở đi, lại hội đủ các yếu tố của thơ siêu thực: Thơ của tiềm thức, của những giấc mơ, của lối viết tự động. Đặc điểm ấy thể hiện rõ nhất trong hai tập thơ: Mưa Thuận Thành và Về Kinh Bắc.
“Mưa Thuận Thành mở ra thế giới siêu Thuận Thành, siêu Kinh Bắc, siêu mưa” [66, tr.30], một thế giới huê tình nhuốm màu huyền thoại và bảng lảng trong
màu sương khói dân ca. Thế giới ấy lung linh, vời vợi, vừa thực, vừa hư, mơ hồ khó hiểu hết. “Tôi nghĩ có lẽ đây là dòng thơ Lá Diêu Bông được mở rộng ra ngoài không gian và thời gian Kinh Bắc” [66, tr.26]. Và “Về Kinh Bắc là một giấc mơ dài qua tám nhịp tuần du dạ khúc để thể hiện một thế giới ảo, siêu tự nhiên, thế giới tâm linh của Hoàng Cầm về vùng quê Quan họ thơ mộng, trữ tình mà ông đã siêu thực hóa thành cỏ Bồng Thi, cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa, Lá Diêu Bông và những người con gái diễm ảo mơ hồ, những mối tình hư ảo, vời vợi” [66, tr.22]. Vùng quê Kinh Bắc lắng đọng sâu trong hồn thi nhân thành tiềm thức để khi có dịp sẽ bật ra thành thơ. Khoảnh khắc ấy, như được thần linh mách bảo, tiếng thơ từ đâu vọng lại, khơi dậy mạch nguồn cảm xúc trong hồn nhà thơ. “Như một tia nước trong vắt phun lên từ ruột đất khi chúng ta thăm dò mạch nước ngầm để đào giếng, khi đã có đôi ba câu vẳng lên bên tai, tôi ghi ngay, bắt lấy ngay và từ đó là tình cảm, suy tư cuồn cuộn trong người, tôi thường tiếp được mạch khởi xướng ấy và nối luôn các đợt sóng tuôn trào cho đến khi thấy trong người yên ắng, nhẹ nhõm là bài thơ cũng hoàn tất” [6, tr.200].
Những câu thơ được xem như lời mách bảo thần linh ấy thực ra là tiếng nói dội lên từ tiềm thức thi nhân, là cái thực tại nằm sâu trong hồn ông. Và “Những câu thơ gần như hoàn chỉnh mà Hoàng Cầm nghe được trong đêm, tưởng như không mất công chút nào, sẽ không có nếu không có bao đêm nhà thơ thao thức không ngủ” [66, tr.58]. Thật vậy, nếu chẳng có bao đêm thao thức không ngủ được vì chiếc lá Diêu Bông của mối tình thơ dại đầu đời thì 25 năm sau, cuộc đời sẽ chẳng có Lá Diêu Bông.
Lá Diêu Bông có thể xem là bài thơ siêu thực tiêu biểu nhất và kỳ diệu nhất của Hoàng Cầm. Tác phẩm hoàn toàn là lời của thần linh và tác giả chỉ như là một người học trò viết chính tả, ghi lại những gì đã nghe bên tai, “một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về” [6, tr.202]:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng Chị thẩn thơ đi tìm Đồng chiều Cuống rạ Chị bảo Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông Từ nay ta gọi là chồng… [Lá Diêu Bông, 6, tr.150]
Những vần thơ cứ ngân nga, ám ảnh hoài tâm trí người đọc, gợi lên nỗi xót xa, thương nhớ khôn nguôi. Nỗi niềm ấy, cảm xúc ấy là có thực mà sao khó giải thích và nói cho rành mạch cái hay, cái đẹp của thi phẩm. Lá Diêu Bông là gì? Nào đâu chiếc lá ấy giữa cuộc đời? Cậu bé đa cảm Hoàng Cầm bởi say mê vẻ đẹp tình tứ của người con gái Kinh Bắc, đã lao vào cuộc đuổi bắt gian khổ để tìm kiếm vẻ đẹp Nàng thơ là điều có thể hiểu. Song, nếu cứ mãi đi tìm ngọn nguồn Lá Diêu Bông hay lý giải cho tường tận nghĩa đen, nghĩa bóng trong lời lẽ, chữ nghĩa, hình ảnh của thi phẩm, xem ra, chỉ là hoài công. Bởi chính cái nghĩa bóng của nó cũng thật mơ hồ, khó nắm bắt. Tuy nhiên, sự mơ hồ ấy lại khiến cho tiếng gọi trên đồng chiều bạt gió càng thêm thiết tha, xa vắng, càng thêm da diết, não nùng.
Dẫu biết trên đời chẳng có lá Diêu Bông: Dẫu anh biết Diêu Bông không thực, chàng thi sĩ vẫn cầm chiếc lá đi đầu non cuối bể và hơn thế, còn để Diêu Bông Cứ chập chờn ẩn hiện tháng năm trong đời. Thi nhân với Trang văn tốc độ siêu hình thà chịu gánh tội tình nhân gian cũng muốn hái cho kì được Diêu Bông diệu kỳ. Cả đến khi Diêu Bông – anh áng chừng mệt mỏi, vẫn mơ hồ, thổn thức:
Rằng… xưa… ai biết vì sao Lá gì lại gọi thế nào… Diêu Bông…! [Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông, 6, tr.248] Thế nhưng, ảo ảnh hay siêu thực thì hình ảnh lá Diêu Bông vẫn gợi về một tình yêu tuổi thơ buồn mà rất đẹp trên Kinh Bắc. Trên cánh đồng chiều đông quạnh quẽ, hình ảnh cậu trai cầm chiếc lá và tiếng gọi thiết tha, đưa nỗi buồn mênh mông vọng trong sương khói thấm vào không gian, thấm vào lòng người. Cảm được nỗi niềm ấy, Đỗ Đức Hiểu viết: “Lá Diêu Bông, cái lá ấy, cái lá mê hương, cái lá ám ảnh bao cuộc đời, cái lá chìm đắm Hoàng Cầm và nhiều người đàn ông yêu đương” [66, tr.30]. Để nỗi buồn rơi vào hư không, nhà thơ kéo dài đến vô tận nỗi đau tình yêu không trọn của mình và làm ám ảnh hoài tâm tư người đọc. Tất cả, theo Nguyễn Đăng Điệp, “đều xuất phát từ một tình yêu đắm đuối nhiều khi chới với như một tiếng gọi đầy khắc khoải giữa vi vút gió đời” [66, tr.53].
“Trong nghệ thuật, không có thứ tư tưởng ngụy tạo mà phải là thứ tư tưởng xuất phát từ khả năng thấu thị thế giới của nhà thơ, phải được nung trong cảm xúc mãnh liệt. Nó khiến nhà thơ mất ăn, mất ngủ, khiến họ biết can đảm trong cô đơn sáng tạo, cô đơn chữ nghĩa để nghe được sự cựa quậy của ngôn từ, của ý, của nghĩa, của âm. Cao hơn, phải nghe được sự thức đập mạch đời” [66 ,tr.46]. Phải chăng,
chính điều này tạo nên màu sắc tượng trưng, siêu thực của thơ Hoàng Cầm? Phủ đầy trang thơ ông là những cơn mưa, những chiều vàng nhạt nắng, một thoáng nghiêng nghiêng đầy nữ tính của dòng sông… Và nói chung, cả vùng cỏ cây, sông hồ trên quê hương Kinh Bắc được siêu thực hóa thành cỏ Bồng Thi, cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa và Lá Diêu Bông hay những người con gái diễm tình, những mối tình xa xăm, hư ảo,… “Xuyên qua các biểu tượng ấy, Hoàng Cầm đưa ta trôi vào những giấc mơ đầy tình yêu dành cho Kinh Bắc, dành cho em, cho cái đẹp và dành cho thơ, cố nhiên!” [66, tr.46]. Giữa nguồn thơ trong trẻo, thi nhân đưa hồn phiêu lãng qua những bến mơ, bến mộng. để từ đó, ông tạo nên những vần thơ lung linh ngũ sắc.
Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm đích thực là một giấc mơ – “Giấc mơ với những liên tưởng đứt đoạn, những hình ảnh rời rạc và rất nhiều các khoảng trắng, các dấu lặng… Tất cả trôi đi trong một nhịp điệu thôi miên” [66, tr.56]. Trong giấc mơ ấy, lời lẽ, chữ nghĩa, hình ảnh dường như phi lý, vô nghĩa. Đó đều là những hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ hay mang màu huyền thoại. “Đó là thứ thơ hướng nội ở độ sâu thẳm nhất. Nó đi hẳn vào cõi tiềm thức, vô thức và diễn tả bằng chính ngôn ngữ mỗng lung vô thức” [66, tr.28]. Về Kinh Bắc, có thể nói, hội đủ những yếu tố của thơ siêu thực. Đương nhiên, đó không phải là siêu thực kiểu phương Tây của Bréton mà là siêu thực kiểu phương Đông của hoàng Cầm, của vùng thơ quan họ diễm tình.
Thơ Hoàng Cầm cuốn hút lòng người vì nhiều lẽ, nhưng có thể nói “cái yếu tố sâu xa nhất tạo nên ma lực thơ Hoàng Cầm nằm ở chỗ ông đã biết đánh thức hồn quê Kinh Bắc trong cõi sâu vô thức” [66, tr.51]. Thơ Hoàng Cầm mang màu siêu thực nhưng theo lối viết tự động riêng của ông. Nhiều người tỏ ra hoài nghi về chuyện trong đêm thi nhân được thần linh đọc cho những câu thơ kỳ diệu. Sự thực là đã có “sự xuất hiện của những câu thơ đột xuất, thần tình, khó giải thích, ở sự khởi đầu linh diệu của nhiều bài thơ, ở sự chập chờn trong những cơn mê không dứt” [66, tr.92]. Điều này giải thích vì sao ở Hoàng Cầm nhiều lúc câu chữ không theo kịp được ý thơ, tứ thơ.
Giấc mơ, theo lời A.Bretông, chính ở đó “bản chất thế giới thật hơn khi ta thức” [Dẫn theo 66, tr.51]. Nhà tiểu thuyết lừng danh M.Kunđơra cũng từng cho rằng: “Một trong những nguyên lý quan trọng nhất mà nhà tiểu thuyết cần ý thức được là tiếng gọi của những giấc mơ” [Dẫn theo 66, tr.52]. Ở Hoàng cầm, “chính hồn vía Kinh Bắc, chính niềm khát khao cháy bỏng về một tình yêu lớn dành cho
quê hương, cho cái đẹp một khi sâu sắc đến tràn bờ liền cất thành thơ. Đó là tiếng vọng của cõi mơ, là sự siêu thăng của vô thức” [66, tr.52]. Kinh Bắc nằm sâu trong đời sống tâm linh Hoàng Cầm và hiện hình trong cõi mơ, trong niềm yêu thương cháy bỏng của thi nhân. Thế nên, theo nỗi nhớ thương khắc khoải, theo tình yêu mê dắm dành cho Kinh Bắc, những câu thơ chập chờn ảo mộng ngân lên như một phép màu.
Từ Bên kia sông Đuống, ta đã thấy có hiện tượng này. Theo nhà thơ, ba dòng thơ đầu bài thơ là do một giọng nữ trong trẻo, như hát, như ru, mà như than thở, như từ một thôn xóm nào xa xôi, vang vọng bên tai ông. Thế rồi, “như người đào đất thăm dò mạch nước ngầm, chợt có đôi ba tia nước trong vắt phun lên, thế là tôi viết tiếp ngay những lời đang tuôn ra, bật ra, tung tóe ra từ trong lòng mình” [66, tr.78]:
Em ơi buôn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì… [Bên kia sông Đuống, 6, tr23] Sau ba dòng thơ ngân lên như từ trời xanh vọng xuống ấy, mạch cảm xúc cuồn cuộn chảy trong suốt thi phẩm. Khi tác giả thấy trong người vợi đi là lúc bài thơ đã hoàn tất. Bài thơ có nhiều câu thơ hay vào loại “khả giải bất khả giải chi gian” [66, tr.92] và cả thi phẩm lắm khi bồng bềnh nơi biên giới giữa thực và ảo.
Giai đoạn từ 1959 về sau, những tác phẩm: Cây Tam Cúc, Quả Vườn Ổi, Cỏ Bồng Thi, Chùa Hương, Về với ta…, bao giờ cũng ta đời trong đêm và cũng đều được thần linh mách bảo cho vài ba câu đầu. Mặc dù vậy, dù cùng là lời thần linh mách bảo nhưng Bên kia sông Đuống và Lá Diêu Bông lại có những điểm khác nhau xuất phát từ hai lối thơ khác nhau. Và chỗ khác nhau đó, theo Nguyễn Đăng Mạnh: “Ở Bên kia sông Đuống thơ có say mà vẫn có tỉnh, có màu tối, nhưng cũng có màu sáng, thậm chí tươi tắn nữa. Còn ở Lá Diêu Bông thì say triền miên và chỉ có một thứ ánh sáng buổi chiều đông chiếu trên một canh đồng vắng, có bóng ai đó đang ngẩn ngơ tìm kiếm một cái gì..” [66, tr.26].
Và Mưa Thuận Thành, cả tập thơ trên 30 bài là một sắc thơ mưa, một giọng thơ mưa. Mưa rơi ở bài này, mưa rơi sang bài khác, mưa thấm từng trang trong tập thơ. Mưa hiện ra với trăm nghìn dáng vẻ, sắc màu: mưa long lanh ánh mắt, mưa trong tóc xõa, mưa trên vai trần Ỷ Lan, mưa chiều nắng chếch, mưa trắng ngang đầu, mưa ngâu, mưa nhung… Mưa giăng kín trời Kinh Bắc và phủ kín lòng người:
- Mặt đường mưa lạnh rêu trơn Mặt trăng héo úa chập chờn mặt sông [Kỷ niệm, 6, tr.236]
- Ấp môi bỏng cõi mưa dài Khát thêm từng trận khát hoài tuổi xưa [Gọi đôi, 6, tr232] Không chỉ ở trong nỗi niềm, tâm trạng, mưa có khi thành nhân vật biết đứng,
biết ngồi, đi lại và mang tâm trạng có hình hài cụ thể:
Nhớ mưa Thuận Thành Long lanh mắt ướt Là mưa ái phi Tơ tằm óng chuốt (…) Mưa chạm ngõ ngoài Chùm cau tóc xõa Miệng cười kẽ lá Mưa nhòa soi gương (…) Mưa còn khép nép Nhẹ rung tơ đàn (…) Ơi đêm đợi chờ Mưa ngồi cổng vắng Mưa nằm lẳng lặng(…) Sồi non yếm tơ [Mưa Thuận Thành, 6, tr.182] Mưa long lanh giọt lệ, mưa réo rắt tiếng đàn, mưa biệt ly, mưa thương nhớ… Mưa phủ đầy đất trời Kinh Bắc, phủ kín trang thơ Hoàng Cầm, mưa thấm đẫm cả những giấc mơ. Có thể nói, ở Mưa Thuận Thành, yếu tố siêu thực thể hiện rất rõ. Mưa Thuận Thành, mưa Kinh Bắc mà đúng hơn là mưa trong lòng người, mưa trong tâm trạng. Quang Huy, vì thế, đã nói: “Âm điệu thơ Hoàng Cầm cứ làm ta chếnh choáng say. Đó là âm điệu của đất trời Kinh Bắc được phổ vào ngòi bút tài hoa của ông” [151, tr.227].
“Những cơn mưa trong thơ Hoàng Cầm thường đảm trách hai chức năng thẩm mỹ. Trước hết, tạo nên màu huyền thoại. Sau nữa, tạo nên chiều sâu trữ tình” [66, tr.44-45]. Phủ lên thế giới Thuận Thành, Kinh Bắc những cơn mưa huyền sử,
Hoàng Cầm làm sống lại những nét son xưa Kinh Bắc, thổi vào trong ấy những mối u tình, những khát khao thầm kín:
Mắt úa nắng đừng lẻ loi rạn vỡ Về mắt anh thành chan chứa mưa rơi [Nhiều chớp mắt vô tình, 6, tr.230] Cùng sắc thơ mưa là những chiều vàng nhạt nắng, cả hai tạo nên gam màu chủ đạo trong thơ Hoàng Cầm – màu Kinh Bắc, màu buồn dịu dàng xen cài ảo – thực:
- Nắng động bên giường lay tỉnh giấc Lại rơi vào quạnh quẽ đêm qua (…) Em đi vỡ vụn bao nhiên nắng Về cõi nào đây chắp kiếp người [Xa, 6, tr.222-223]
- Mưa chiều nắng chếch Về phía không em Tội tình đi chệch Về phía trăng lên Chân mây xô lệch Những mùa không tên [Mưa chiều nắng chếch, 6, tr.230] Thơ Hoàng Cầm nhập nhòe giữa hai nguồn thi cảm, giữa hai nẻo đường: nẻo về quá khứ đầy mộng mơ, nẻo tới tương lai từ thực tại chất đầy mộng ảo. Thực và mộng trong nhiều bài thơ ông khó có thể chia tách rạch ròi. Thực vậy, nhà thơ ấy sống với nội tâm nhiều hơn ngoại giới, tiếng thơ do vậy mà xa xôi, hư huyền, nửa hư, nửa thực. Cảnh vật, con người, mọi thứ qua hồn thơ Hoàng Cầm bỗng trở nên mờ ảo, nhạt nhòa, lúc ẩn, lúc hiện, không rõ ràng. Nhiều tác phẩm của ông đưa người đọc vào một thế giới mộng mơ, chìm trong nỗi nhớ thương với bao vẻ đẹp huyền hồ, hư ảo:
- Thế nghĩa là em thực hóa mơ Tưởng như em chẳng có bao giờ Em đâu ai xé hồn muôn mảnh Tiếng mối tường bên xé tiếng mưa [Xa, 6, tr.222]
- Hư vô tràn hơi ấm Cõi thực lạnh trăm chiều Mê lộ khép đìu hiu Khi nửa mình vắng bóng [Vào đường mê, 6, tr.274] Hòa điệu hồn mình cùng ngoại giới, thi nhân nhìn ngắm cuộc đời bằng ánh
nhìn mê mải, ngẩn ngơ:
Nằm trên bãi cát thư tâm Sông nước sinh thuyền Em đẩy tới Có gió có buồm có dòng có lái Trách gí ai xô giạt đến bờ hoang Em mười hai tuổi tìm theo Chị Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa Đi… Ngày tháng lụi tìm không thấy Giải yếm lòng trai mải phất cờ [Quả Vườn Ổi, 6, tr.151] Chính điều này làm nên sức quyến rũ của tiếng thơ Hoàng Cầm. Trên nền nhạc buồn, những dòng thơ sáng trong cứ êm đềm trôi, để lại bao vấn vương trong lòng người đọc. Những bến cô Mưa, cầu bà Sấm, những đêm tiền sử… tạo nên bức tranh thơ nhập nhòa, vô định về không gian và thời gian. Bởi lẽ, chúng được vẽ bằng sự tưởng tượng, bằng nỗi nhớ, bằng một tiềm thức giàu chất sống, trong tâm trạng lâng lâng, phiêu bồng giữa thực và mộng:
- Anh nói ly xa em òa vỡ sấm Anh hé môi gần mắt xuân suối tắm (…) Mười hai xa xưa… mười hai bây giờ Phải chăng anh ơi anh là em thơ? [Vào đường mê, 6, tr.273]
- Để tôi vào cuộc huyễn du Cái hôn mía rượu giót từ cơn đau Bầm môi ứa máu nụ đầu Nụ hồng ư? – Cứ giãi màu ly thương (…) Thả thuyền đi – Thả bâng quơ
Tưởng nghe biển bão không ngờ gió êm Giạt bèo vào đáy xanh đêm Vào mê biển gió… Vào em một đời [Gửi vào gió biển, 6, tr.259] Thi nhân nói về nguồn gốc nguồn xúc cảm và những hình ảnh trong thơ mình: “Ở tôi thì luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi đã huy động tất cả các lực của mình: cả thế lực, trí lực, tâm lực và đương nhiên ở tôi thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều những lời thơ, lắm khi tưởng như vô nghĩa, mà ngay chính bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ mình viết ra mang ý nghĩa gì cụ thể. Ai hỏi tôi lá Diêu Bông, cỏ Bồng Thi là lá gì, cỏ gì, ở đâu? Tôi chịu không giải thích được…” [6, tr.211].
“Nghệ thuật thuộc loại tư duy mơ hồ tự giác, chủ động” [116, tr.32]. Tính mơ hồ, đó là cái dư vị của văn, cái ý ngoài lời của thơ, cái tiếng ngoài tiếng, cảnh ngoài cảnh mà trước nay người ta thường nói. Nhà triết học Đổng Trọng Thư đời Tây Hán đã khẳng định: “Thi vô đạt hổ”, “nghĩa là thơ, kinh thi, thơ ca không thể giải thích được rõ ràng” [Dẫn theo 116, tr.32]. Tính mơ hồ, đa nghĩa, theo Trần Đình Sử, “không chỉ là đặc trưng mà còn là số phận của văn học. Nó là sự mê hoặc hấp dẫn của nghệ thuật. Nó thu hút người đọc đi vào cuộc tìm tòi bất tận về ý nghĩa, và chỉ có tác phẩm nghệ thuật đích thực, phong phú mới giữ được sức quyến rũ lâu bền” [116, tr.35]. Thi phẩm Hoàng Cầm, thật tuyệt diệu, mang đậm tố chất ấy.
Hình ảnh thơ Hoàng Cầm thấm đẫm nỗi buồn sầu và bàng bạc trong màn sương khói mộng mơ. Sống giữa thực tại nhưng hồn người thi sĩ này cứ mộng tưởng đến những chốn xa xăm nào. Thoạt nhìn, thi nhân như ngươì khách lạ ngơ ngác đi giữa đường đời đầy mộng mơ. Hồn mở rộng, Người thơ đón đợi, lắng nghe và thổn thức với những âm thanh xa xăm, mơ hồ của thế giới xung quanh mình, với tiềm thức rất sâu trong hồn mình.
Tiểu kết: Thơ, suy cho cùng, là một điệu hồn đi tìm các hồn đồng điệu. Nhà văn Nga K.Paustovski vì thế cho rằng: “Người nghệ sĩ luôn luôn muốn truyền đạt một cách hào phóng nhất tất cả những cái phong phú của tư tưởng và tình cảm đang tràn ngập trong tâm hồn mình” [107, tr.28].
Hồn thơ giúp tạo nên nét riêng nghệ sĩ, khẳng định cá tính sáng tạo của một tài thơ. Hồn thơ, đó là cái tinh túy của thơ, là linh hồn, cốt tủy của bài thơ. Tác
phẩm ngôn từ không thể thiếu đi phần quan trọng này, bởi như thế, nó sẽ chẳng thành thơ. Hồn thơ toát lên qua lớp ngôn từ nghệ thuật, qua hệ thống hình ảnh, nhịp điệu, âm thanh. Tuy có lúc, cái phần được xem là cốt, là hương, là hồn ấy của thơ chỉ gắn với một câu, một chữ nhưng thực chất nó luôn bao phủ toàn bài thơ, tạo ấn tượng chung cho tác phẩm. Đó là toàn bộ thế giới bên trong của nhà thơ chuyển hóa trong thi phẩm và được ẩn giấu sau câu chữ. Hồn thơ có khi hiện lên rất rõ, có khi kín đáo khó nhận ra. Phải thực sự rung động và xúc cảm cùng thi nhân, phải biết lắng nghe và nghiền ngẫm, hơn nữa phải sử dụng một siêu giác quan để cảm và hiểu thơ, mới thấy được. Nói chung, hồn thơ là yếu tố không rõ hình hài song lại có sức lay động lòng người rất lớn. Bắt được hồn thơ, nắm được thần sắc của tác phẩm mới mong hiểu trọn cái hay, vẻ đẹp và điểm riêng của một phong cách thơ.
Thâm nhập vào thi giới Hoàng Cầm, hòa điệu hồn mình cùng hồn thơ ấy, người đọc như đang đi giữa nguồn thơ trong trẻo, ngọt ngào, được nghe những giai điệu tiêu tao, sâu lắng vọng lên từ sâu thẳm tâm hồn người thi sĩ luôn khát khao được sống, được yêu thương, được sẻ chia và dâng hiến.
Nhờ hấp thu hơi thở nồng nàn, đắm say của đất trời Kinh Bắc nên hồn thơ Hoàng Cầm đi vào trái tim người đọc nhẹ nhàng và êm dịu như giai âm của một làn quan họ. Hồn thơ ấy cất lên từ cội nguồn Kinh Bắc, qua bao thăng trầm chìm nổi, bao buồn đau, đắng xót… cuối cùng lại tìm về đất mẹ bình yên. Thế giới Kinh Bắc với Hoàng Cầm tựa như hai con người có mối duyên tiền kiếp, như hai tâm hồn đồng điệu không thể cách xa, không thể thiếu nhau. Và hồn thơ Kinh Bắc Hoàng Cầm là sự hòa hợp cộng hưởng của hai mảnh hồn ấy. Sự xe kết tuyệt diệu ấy tạo nên một thế giới thơ ca lấp lánh sắc màu, đồng thời giúp Người thơ Hoàng Cầm “đẩy chiếc xe thơ Về Kinh Bắc đi trọn đoạn đường thiên mệnh của nó” [6, tr.194].
Thơ Hoàng Cầm dẫu có lúc thoát ly vào cõi mộng, cõi tiên, cõi tình… suy cho cùng, đó là sự chìm sâu vào chính mình, tâm sự với mình, nhận ra những trạng thái cảm xúc, suy nghĩ của mình. Ở ta, sau thời kỳ lãng mạn, các nhà thơ hướng tới tìm hiểu, khám phá những bí ẩn nằm trong chiều sâu tâm linh huyền bí với những dạng thức khác nhau của thế giới, con người. Bên cạnh Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…, Hoàng Cầm là một trong số những nhà thơ tạo được dấu ấn đặc biệt cho tiếng thơ mình. Có lẽ, thi nhân ý thức rất rõ về hiệu quả nghệ thuật của lời, chữ, nhạc và nhịp điệu của thơ.
Thoát li thực tại nhưng tiếng thơ Hoàng Cầm không chông chênh, hư huyền. Thơ ông giàu chất mộng nhưng vẫn đời và rất thực. Hồn thơ ấy cứ đi về giữa hai
miền thực và ảo. Nói đến sự xuất hiện của Hoàng Cầm và tiếng thơ ông trên thi đàn, Đỗ Lai Thúy viết: “Hoàng Cầm là người kế tục Thơ Mới không phải như một sự kéo dài, mà như là sự phát triển, sau một đứt đoạn. Chỗ đứt đoạn một cách tuyệt vời ấy là Bên kia sông Đuống. Về Kinh Bắc lại nối mạch vào Thơ Mới và đi xa hơn về phía hiện thực. Đó là thơ siêu thực” [66, tr.55]. Đó là thơ siêu thực kiểu phương Đông, bay lên từ một vùng quê Quan họ diễm tình, thơ mộng. Chính điều này làm nên phong cách riêng, vẻ đẹp riêng cho thơ Hoàng Cầm – lối thơ siêu thực – hiện đại – dân gian rất lạ và độc đáo.
Chương 2 TÌNH CẢM TRONG THƠ HOÀNG CẦM
2.1. Thơ ca là tiếng lòng của người nghệ sĩ Thơ, sinh ra từ nhu cầu bộc lộ tình cảm, tự sự thôi thúc bên trong, nó là hiện thân của tình cảm, khi mạch cảm xúc trào dâng, không nén được, không giữ được. Lamactin, nhà thơ lãng mạn Pháp, cho rằng: “Thơ là sự hiện thân cho những gì thầm kín nhất của con tim và tâm hồn con người và cho những hình ảnh tươi đẹp nhất, âm thanh huyền diệu nhất trong thiên nhiên” [Dẫn theo 72, tr.7-8]. Viên Mai (1716- 1798), người Tiền Đường, Trung Quốc, chủ trương: Thơ ca phải thể hiện “Tính linh” của con người, tức phải bộc lộ được tình cảm chân thực, ý tứ sâu kín của cá nhân. Trong bài Đáp Hà Thủy Bộ, ông viết: “Thơ là tiếng của lòng người, là sự bộc lộ của tính tình” [Dẫn theo 56, tr.54]. Và trong “ Tùy Viên thi thoại”, quyển 10, ông lại nói: “Tôi thích nhất những sáng tác nói lên tình cảm, đọc nó lên như thể Hoàn Tử Dã nghe ca, ngạc nhiên thích thú làm sao! [Dẫn theo 56, tr.54]”. Coi trọng yếu tố tình cảm trong thơ, Viên Mai dũng cảm đề cao những sáng tác “ngôn tình”, công khai chống lại quan niệm tiết liệt phong kiến, chống lại thói sùng cổ, phục cổ, chống lại những cách luật trói buộc hồn thơ. Theo đó, ông phản đối mạnh mẽ thi luận của Thẩm Đức Tiềm khi nhà thơ, nhà nghiên cứu này coi trọng tác dụng xã hội và ý nghĩa xã hội của thơ ca, trong đó có việc phục vụ cho đạo đức và chính trị phong kiến một cách hẹp hòi.
Lê Quý Đôn nói đến bản chất, đặc thù của thơ ca: “Một là tình, hai là cảnh, ba là sự” [Dẫn theo 2, tr.36], và “Sự phát khởi của thơ là lòng người” [Dẫn theo 21, tr.171]. Rõ ràng, làm thơ gốc phải là ở tình cảm. Khác với tác phẩm tự sự hường đến tái hiện, trần thuật các sự kiện, miêu tả các hành vi trong đời sống con người, tác phẩm trữ tình nắm bắt một cách tinh tế thế giới bên trong con người và mô tả bằng hình ảnh, bằng hệ thống ngôn từ giàu cảm xúc và rất cá thể. Suy cho cùng, nói tới thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung “là nói quy luật riêng của tình cảm, nghệ thuật vận dụng quy luật riêng của tình cảm” [146, tr.46]. Quy luật đó thể hiện ở chỗ “có tình cảm trong sáng tác thì mới có ảnh hưởng về mặt tình cảm đối với người đọc” [146, tr.47]. Tình cảm chính là nguồn động lực bên trong, trực tiếp và mạnh nhất, thôi thúc nhà văn đến với sáng tạo nghệ thuật.
Tình cảm có ý nghĩa thật sự to lớn trong đời sống con người. Tình cảm bộc lộ qua những trạng thái yêu thương, buồn, vui, căm giận… Tình cảm giúp con người sống và làm việc có mục đích, có ý nghĩa. Đối với người nghệ sĩ, bên cạnh năng lực quan sát và trí nhớ, năng lực thẩm mĩ, năng lực tưởng tượng, biểu hiện nghệ thuật, yếu tố tình cảm đặc biệt cần thiết cho quá trình sáng tác. Nhà văn phải biết cười và khóc cùng với nhân vật mà họ yêu mến và gần gũi. Chỉ có như thế họ mới có thể tạo ra được một tác phẩm chân chính có chất nghệ thuật thực sự, không một chút giả tạo. Có thể nói tình cảm là điều kiện quan trọng để nhà văn phản ánh, miêu tả thành công chiều sâu thực tại cuộc sống và chiều sâu thế giới tâm hồn con người.
Thực vậy, một người nghệ sĩ giàu tình cảm sẽ dễ dàng rung động trước mọi sự kiện, biến cố của cuộc sống từ quá khứ đến hiện tại. Anh ta có thể xúc cảm trước những sự kiện lớn lao của đất nước, dân tộc nhưng cũng có thể cảm thông, chia sẽ những niềm vui, nỗi buồn của mọi hiện tượng đời sống và những số phận nhỏ bé, bình dị. Phẩm chất ấy chính là động cơ, là cội nguồn sáng tạo của người sáng tác. Lẽ thường, khi tình cảm dâng trào mãnh liệt, nồng nàn, những trang văn, những dòng thơ đầy xúc cảm sẽ được ra đời. Nguyễn Du viết Truyện Kiều, lời văn tả ra như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột… Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cỏi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy. Không có một tâm hồn nhạy cảm tinh tế trước cuộc sống và không có một trái tim đầy yêu thương, người nghệ sĩ không thể sáng tác và cuộc đời sẽ chẳng có nghệ thuật và văn chương đích thực. Viết về nội dung gì, về bất cứ điều gì của đời sống, nhà văn bằng cách này hay cách khác, cũng thể hiện cảm xúc, thái độ, sự đánh giá của mình theo một thiên hướng tình cảm và lý tưởng thẩm mỹ nhất định.
Tình cảm mà nhà văn, nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm vốn không phải là thứ tình cảm tầm thường của một người mau nước mắt mà là tình cảm đã được ý thức, toát ra từ trái tim giàu yêu thương, biết vui cùng niềm vui mọi người và đau nỗi đau nhân thế. Nghệ sĩ không phải là người thương vay khóc mướn, họ là người có năng lực đặc biệt, có thể nếm thử những đắng cay, mặn nhạt của cuộc đời. Niềm xúc cảm của họ là chung cho cả mọi người nhưng trước hết là cho chính mình.
Tác phẩm văn học từ chỗ mang đến sự hưởng thụ thẩm mỹ, khơi gợi khoái cảm, mở mang trí tuệ cho con người, hướng đến thức tỉnh lương tri, tâm hồn con người, dạy họ biết yêu thương, căm giận. Trong ý nghĩ đó, văn học là phương tiện
hữu hiệu giúp hình thành nhân cách con người, cuộc sống nhờ đó sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp hơn. Chính yếu tố tình cảm mang lại khả năng to lớn ấy của văn học. Cho nên, từ kim – cổ, Đông –Tây, chức năng hướng thiện của văn học bao giờ cũng được coi trọng. Nhà văn, nhà thơ khi xây dựng hình tượng văn học, luôn gửi vào trong ấy những tâm tư, tình cảm, ước mơ, khát vọng của mình và bằng cách nào đó, họ khiến người đọc cũng quan tâm đến điều mình trăn trở, để rồi cùng vui, buồn, hạnh phúc hay đau khổ với họ. Làm được điều đó, xem như anh ta đã tìm được sự đồng điệu, sự sẻ chia, sự thấu hiểu và ý nghĩa sâu kín được gói ghém trong tác phẩm có thể nói đã được chiếm lĩnh.
Văn học khơi sâu lòng đồng cảm, những rung động đẹp, giúp ta biết yêu, ghét, biết bất bình hay khinh bỉ trước những sự phản trắc, bất công, những thói tầm thường, vị kỉ của con người. Văn học cũng tạo cho người ta niềm tin vào những điều tốt đẹp của cuộc sống, dám sống và dám hi sinh vì nghĩa lớn và khát khao dâng hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. Muốn vậy, trong quá trình sáng tác, người nghệ sĩ không chỉ kể, tả lại các sự vật, hiện tượng trong đời sống mà quan trọng hơn là phải làm sao cho người đọc phải ngẫm, đồng cảm và bày tỏ thái độ trước điều được quan tâm và phản ánh. Chỉ bằng tình cảm, người viết mới khơi gợi được mạch tình cảm trong người đọc, khiến họ không thể dửng dưng, thờ ơ trước điều được đề cập đến.
Nghệ thuật nói chung và văn học bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự bộc lộ, giãi bày và gửi gắm tâm tư. Đến với nghệ thuật nói chung và đặc biệt là sáng tác thơ văn, nhiều nghệ sĩ có nhu cầu muốn thổ lộ những nỗi niềm chôn giấu trong lòng mình, về nhiều hạnh phúc hay nỗi đau khổ của mình để tìm sự cảm thông, chia sẻ của người đời. Nhà văn Nga V.Raxpuchin nói về điều này: “Nếu tôi viết, ấy là vì tôi cảm thấy đau ở đâu đấy trong người, tôi cảm thấy một sự thiếu thốn nào đó. Phải tin rằng văn học cần phải cố gắng phô diễn cái gì đòi được viết ra, đặc biệt là các hiện tượng mà chỉ văn học mới có thể khai thác và nói rõ” [Dẫn theo 140, tr.9].
Cái mà V.Raxpuchin gọi là “nỗi đau”, “sự thiếu thốn” ấy, cái nguyện vọng muốn bộc lộ, giãi bày ấy chính là động lực thôi thúc con người sáng tạo. Với người nghệ sĩ thực thụ, quá trình ấy dẫn đến sự ra đời của nhiều tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Bởi lẽ, nghệ thuật bắt nguồn từ sự khát khao được bộc lộ, được nói ra những chất chứa trong lòng. Người ta làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc trước hết là để cho mình để làm vơi đi những tâm sự sâu kín trong hồn mình. Sản phẩm nghệ thuật mà họ tạo
ra ấy hiện ra như người bạn tâm tình, cùng họ chuyện trò, sẻ chia và an ủi. Và cũng từ đó, người ta nảy sinh nhu cầu nhận được sự sẻ chia, thông cảm của mọi người. Nghệ thuật thành “tiếng gọi đàn, tiếng kèn tập hợp”, nó “không còn chỉ là hành động sáng tạo của cá nhân mà đã trở thành một hành động xã hội, mang các chức năng xã hội” [140, tr.10].
Bởi thơ thực chất là cuộc đời, là xúc cảm về cuộc đời, từ cuộc đời mà có, và làm thơ, là tái tạo cuộc đời, tâm trạng, cảm xúc bằng hình ảnh, ngôn từ thi ca. “Lời thơ tạo nên nhạc, vẽ ra hình. Đằng sau hình và nhạc là tình và ý. Ý - tình - hình - nhạc là bốn yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc văn bản ngôn từ và hình tượng thơ” [98, tr.16]. Hiện tượng muôn hình muôn vẻ của đời sống xã hội, bằng cách này, cách khác, trực tiếp hay gián tiếp đi vào tác phẩm văn học, thể hiện những điều nhà văn, nhà thơ quan tâm, nghiền ngẫm, suy tưởng. Tố Hữu viết: “Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học” [55, tr.1]. Thơ văn hoàn toàn không phải chỉ là điều mơn man, óng ả, bề ngoài, nó phải là tình cảm chân thành, mãnh liệt, thốt ra từ trái tim biết rung theo nhịp của cuộc sống, của tâm hồn con người.
Thơ cổ điển nặng từ chương, biền ngẫu, bằng trắc, chải chuốt, trang nghiêm thì thơ mới chú trọng diễn đạt được tinh tế vóc dáng và tâm hồn, cảnh vật và con người với những cảm nhận riêng độc đáo, giàu cảm xúc và giọng điệu. Phương thức thâm nhập trực tiếp đời sống và thế giới bên trong mênh mông, sâu thẳm của con người cho phép tác phẩm thơ diễn tả được những rung đa dạng và đặc biệt tinh tế của tâm hồn con người, vẻ đẹp thiên nhiên và những biến thiên xã hội.
Trần Đình Sử, trong công trình Thi pháp thơ Tố Hữu, có viết: “Hình thức của thơ bao giờ cũng là một quan hệ đối với đời sống. Quan hệ ấy biểu hiện tập trung qua một kiểu tác giả trữ tình, là người mang một tư thế cảm thụ, một kiểu giao tiếp, một loại giọng điệu trữ tình” [96, tr.34]. Trữ tình chính là sự thể hiện trực tiếp những cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống. Trong Mỹ học, Hêghen nói về bản chất của thơ trữ tình: “Nguồn gốc và điểm tựa của nó – thơ trữ tình – là ở chủ thể, và chủ thể là người duy nhất, độc nhất mang nội dung” [51, tr. 194]. Bêlinski cũng cho rằng: “Toàn bộ hiện thực đều có thể là nội dung của thơ trữ tình, nhưng vời điều kiện là nó phải trở thành sở hữu máu thịt của chủ thể, là bộ phận cảm giác của chủ thể, gắn liền vời sự hoàn chỉnh bản chất của chủ thể” [Dẫn theo 2, tr.36].
Khi nhà viết kịch câm lặng và nhà tiểu thuyết dường như phải bó tay, thi sĩ chính là người mang thiên chức nói về nỗi đau của bản thân họ, nói về nỗi đau của chúng ta. Sáng tác là nơi nhà thơ bộc lộ nỗi niềm riêng tư về hạnh phúc lứa đôi, tình yêu tan vỡ, là cảm xúc, suy tư về người nhân tình thế thái, về số phận con người, những thăng trầm của xã hội, dân tộc… Trong tác phẩm trữ tình, câu từ, âm thanh, vần điệu, việc ngắt hơi, đổi nhịp… theo đó, trở thành những phương tiện bộc lộ tư tưởng, tình cảm một cách độc đáo. Nếu làm thơ chỉ đơn thuần làm cái nghề mài chữ, chuốt câu, người nghệ sĩ làm sao nói được lòng mình, thể hiện được hồn mình cho đúng, cho hết, cho hay, huống chi phải cảm được lòng người, lay động được hồn người.
Văn học là lĩnh vực của tư tưởng, là tiếng nói tình cảm của con người, có tác dụng sâu rộng và lâu bền trong đời sống con người. Thực vậy, văn học, trong khả năng đặc biệt to lớn của mình, phản ánh hiện thực khách quan nhưng lại cũng có thế mạnh trong việc phản ánh đời sống bên trong của con người. Văn học thực chất là sự nhập cuộc, là quá trình thâm nhập một cách sâu sắc đời sống xã hội và thế giới tâm hồn con người. Bởi, văn học là lĩnh vực nhận thức nhưng cũng là lĩnh vực của tư tưởng. Đối tượng của văn học không chỉ là thế giới bên ngoài, mà quan trọng hơn, đó là thế giới cảm xúc bên trong con người. Văn học nghệ thuật, bằng cách riêng của mình, tác động mạnh mẽ vào nhận thức, tình cảm của người đọc, làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, tư duy của họ. Dụng công của những người nghệ sĩ khi tạo dựng nên thi phẩm không nhằm thuyết phục người đọc bằng lý lẽ tuyên truyền, bằng những lập luận, lý giải, mà quan trọng và trên hết, là bằng cách gợi lên những cảm xúc, lay động tâm hồn, xúc cảm của họ.
Người nghệ sĩ ngoài yếu tố tài năng, năng khiếu nghệ thuật, cần thiết phải có một sự trải nghiệm nhất định, phải có kinh nghiệm nghệ thuật, lòng yêu cuộc sống, sự tâm huyết, niềm đam mê nghệ thuật và cả lòng chân thành nữa. Để cho, tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo nên qua chủ ý của anh ta, sẽ là nơi anh ta bộc lộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm của cá nhân mình. Quá sáng tác văn học hoàn toàn không đơn giản như chỉ có thể nói rằng : hiện thực cuộc sống qua lăng kính chủ quan của nhà văn trở thành ảo ảnh cuộc sống. Đúng hơn nó là thế giới ảo ảnh do nhà văn sáng tạo ra nhằm thể hiện tình cảm, cảm xúc, tâm tư của mình. Đó là quá trình nhà văn bằng sự nhào nặn công phu, lựa chọn, chỉnh sửa, sắp xếp lại hiện thực trong những cách riêng của mình, gửi gắm vào trong tác phẩm bằng những phương tiện nghệ thuật cũng do mình sáng tạo ra. Việc làm ấy bắt đầu từ lúc nhà văn thai
nghén, ấp ủ điều mình muốn viết, muốn thể hiện, trải dài trong cả quá trình kiến tạo tác phẩm, quá trình tu sửa, hoàn chỉnh tác phẩm. Rõ ràng, nhà văn không phải là tấm gương soi chiếu hai lần vào hiện thực và tác phẩm, trong ý đồ nghệ thuật của mình, ngay từ đầu, anh ta đã cố tình dựng nên một thế giới khác.
Văn học ngoài chức năng thông tin về nội dung nhận thức, ngoài mục đích trao đổi sự hiểu biết của con người về thế giới, nó thực hiện sứ mệnh lớn lao, điều mà không một phương tiện giao tiếp nào vượt qua được: trao đổi tình cảm, cảm xúc giữa con người với nhau. Chính thế giới cảm xúc, đời sống tình cảm của người nghệ sĩ đã làm cho toàn bộ hiện thực phức tạp trở nên phong phú hơn, có màu sắc hơn trong tác phẩm nghệ thuật. Theo Ch. Caudwell, nhà mỹ học Mác xít người Anh, sự khác biệt cơ bản của văn học và khoa học chính là ở cái tôi của nhà văn - điều khoa học không có được. Trong bài viết Ảo ảnh và hiện thực, Caudwell đề cao yếu tố cảm xúc và cái tôi cá nhân của người nhgệ sĩ trong sự phản ánh, thể hiện. Thế giới bên trong là từ Caudwell dùng để chỉ tư tưởng, tình cảm, thái độ nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
Nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với cảm xúc, với sự rung động tinh tế, chân thành nhất trong tâm hồn con người. Cảm xúc nghệ thuật, theo Lê Ngọc Trà, “là một trạng thái đặc biệt nhất của tâm hồn” [140, tr.10]. Ông khẳng định: “Tác phẩm nghệ thuật là một mảng đời của nghệ sĩ trong đó nghệ sĩ nói lên những gì sâu xa, máu thịt nhất… Tác phẩm phải được viết ra với tất cả sự từng trải, sự nung nấu và rung động của tâm hồn. Khi rung động càng mãnh liệt, cảm xúc càng dào dạt thì sáng tạo mới trở thành niềm vui và tác phẩm mới thực sự đi vào lòng người, mới có sự tác động mạnh mẽ. Nghệ thuật là tình cảm, là sự thôi thúc bên trong. Không có cái đó sẽ không có nghệ thuật” [140, tr.10-11].
Tác phẩm nghệ thuật nếu thiếu đi phần cảm xúc, nếu được viết một cách vội vã hoặc nếu chỉ quan tâm đến cái chung mà ít chú ý đến cái riêng và những tình cảm tự nhiên sẽ khó lay động đi cảm xúc, tình cảm của người đọc. Tác phẩm nghệ thuật tuân thủ những quy luật của tình cảm và nhờ đó mà phong phú, đa dạng trong nội dung và hình thức biểu hiện. Sức mạnh của nghệ thuật chính là ở chỗ bằng tình cảm mà thể hiện được tư tưởng với những quan niệm sâu sắc về tự nhiên, xã hội và con người. Nghệ thuật do vậy không phải chỉ là những lời thì thầm, nhắn gửi riêng tư mà là “tiếng nói của những tình cảm lớn, những tư tưởng lớn, những quan niệm về cuộc sống, về con người ” [140, tr.13]. Những nhà văn lớn đồng thời là những nhà tư tưởng lớn. Tác phẩm của họ, tình cảm luôn chứa đựng tư tưởng và ngược lại,
tư tưởng bao giờ cũng thấm đượm tình cảm. Tư tưởng của tác phẩm ấy không phải là thứ tư tưởng khô khan, thuần lý mà trở thành khát vọng, thành cảm hứng.
Tư tưởng trong tác phẩm nghệ thuật bắt nguồn từ sự nung nấu, trăn trở, từ tình cảm sâu kín trong lòng người nghệ sĩ. Một tác phẩm mang tư tưởng nhân đạo khi chất chứa trong nó sự day dứt khôn nguôi của nhà văn về số phận và nỗi đau của con người, sự cảm thông sâu sắc và lòng tin về giá trị nhân phẩm tốt đẹp của họ. Tư tưởng nếu chưa trở thành cảm xúc dạt dào, mãnh liệt để tuôn chảy thành câu chữ, mọi tư tưởng dù đúng đắn và đẹp đẽ đến đâu cũng sẽ kém sức thuyết phục và sự hấp dẫn vốn là thế mạnh của nó. Lưu Hiệp đánh giá sáng tác của Khuất Nguyên, Tống Ngọc: “Bộc lộ tình cảm và niềm oán thán thhì dồi dào, lưu loát mà dễ làm người xúc cảm; khi nói điều li biệt thì đau xót khôn cầm; khi tả núi sông thì nghe theo thanh âm có thể hình dung được điều miêu tả; khi nói đến mùa màng, thời tiết thì xem văn có thể thấy thời tiết biến đổi” [113, tr.135].
Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có những mảng đề tài, những nguồn cảm hứng riêng, những vùng thẩm mĩ riêng. Ở đó, họ đi sâu vào đời sống nội tâm, thế giới tinh thần của cộng đồng, của dân tộc, và của chính mình. Nói đến Hồ Xuân Hương hay Nguyễn Du, người ta chợt thấy cảm thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh và nghĩ nhiều đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thơ tình Xuân Diệu dâng lên trong lòng người đọc cảm giác say mê, rạo rực bởi những kỳ vọng tình yêu cháy bỏng. Tiếng thơ Lê Anh Xuân, qua giọng điệu trữ tình đặc sắc, là tình yêu thắm thiết cùng niềm tự hào đối với quê hương, đất nước… Thi sĩ Hoàng Cầm và thơ của ông thật sự là thi sĩ của Kinh Bắc và thơ thuộc về Kinh Bắc quê hương ông. Để có được vinh danh ấy, nhà thơ “đã đánh đổi bằng cả cuộc đời mình với tất cả niềm vui, nỗi buồn, với bao nếm trải mưa nắng, thăng trầm” [66, tr.121]. Nghiệm về điều này, M. Gorki đã nói: “Nghệ sĩ thật sự vĩ đại trước hết phải là nghệ sĩ của một dân tộc, một quê hương cụ thể” [66, tr.121].
Trong sáng tác thơ, có một điều vùa tự nhiên vừa kỳ diệu, mỗi nhà thơ, ít hay nhiều đều có những bài thơ viết về quê hương, viết về nguồn cội. Quê hương là nơi để họ ký thác tâm tình, để họ nhớ, thương và hoài niệm mãi trong đời. Và quê hương, ngược lai, như cũng muốn tìm và gửi trao hồn vía của mình cho một vài thi nhân nào đó. Quê hương là nơi chất đầy kỉ niệm và tình yêu tuổi thơ trong cuộc đời mỗi con người, là nơi mỗi người được sinh ra và lớn lên, nơi mãi mãi là tình yêu, là niềm tự hào trong lòng mỗi người. Nên mỗi khi viết về quê hương, người ta mang bao suy tư, tâm trạng mà gửi vào quê hương, ngợi ca, tự hào, tôn vinh hình tượng
quê hương, để rồi vùng quê ấy, trong sự thăng hoa, lắng đọng cảm xúc thơ, qua những hình tượng thơ, đã tạo nên gương mặt thi nhân trong phong cách và sắc điệu. Thơ chỉ tràn trong tim ta khi cuộc sống đã thực đầy. Cảm xúc thơ ca chỉ thực sự dâng lên, tỏa ra khi trong lòng người thi sĩ, nỗi nhớ nhung, niềm yêu thương hay căm giận, lên tới đỉnh điểm. Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống bằng tình cảm bật ra từ trái tim yêu quê hương đất nước mặn nồng, tha thiết, một tình cảm lắng đọng, dâng trào mãnh liệt. Tình cảm ấy đan cài, quyện lẫn trong nó quá khứ và hiện tại, nhớ nhung và tiếc nuối, yêu thương và căm giận, quê hương và kẻ thù. Bài thơ lưu danh tài thơ Hoàng Cầm và trở thành một kiệt tác trong nền thơ hiện đại cũng nhờ nhà thơ đã có sự chín muồi về cảm xúc, có sự hiểu biết sâu sắc về quê hương, có tâm hồn đặc biệt tinh tế, nhạy cảm trước cuộc sống và đặc biệt có tình yêu quê hương tha thiết.
Văn học nghệ thuật vốn dĩ là chuyện đời sống, là chuyện tâm hồn. Mỗi con người ít nhiều đều tiềm tàng trong mình khả năng rung cảm, xúc động trước tự nhiên, cuộc sống và nghệ thuật. Nếu thiếu đi tố chất ấy, nghệ sĩ không có trên đời và hiển nhiên cũng sẽ không có sự đồng điệu từ người đọc đối với tác phẩm nghệ thuật. Nghệ sĩ chính là người có tâm hồn phong phú, biết say mê cái đẹp muôn hình muôn vẻ của cuộc sống. Và họ không phải chỉ biết chuyên tâm quan sát con người và đời sống bên ngoài mà còn hướng sự quan sát vào chính bản thân mình. Bởi sáng tác văn học phản ánh đời sống bên ngoài nhưng luôn luôn và bao giờ cũng thông qua thế giới bên trong, bao giờ cũng có phần gửi gắm riêng tư của nhà văn trong ấy. Từ chỗ hiểu đời, hiểu người, nhà văn càng thêm hiểu mình và ngược lại.
Là tiếng nói của tình cảm, văn thơ đòi hỏi phải có ngôn ngữ riêng của nó. Văn học, đặc biệt là thơ trữ tình, từ ngữ được sử dụng không chỉ cần sát đúng về mặt ngữ nghĩa mà còn ở khả năng truyền cảm mà nó có thể đóng góp vào ngữ điệu và tình điệu chung. Vậy nên, trong thơ ca, giá trị của ngôn từ không chỉ ở ý nghĩa vốn có của nó mà còn ở sắc thái biểu cảm mà người nghệ sĩ trao cho nó. Cảm xúc hay tâm trạng vốn là riêng của mỗi người và ngay ở mỗi người, tình cảm mỗi lúc cũng có thể khác nhau.
Người làm thơ, theo đó, phải sáng tạo nên một hệ thống ngôn từ riêng, thích hợp để tái hiện đời sống một cách trọn vẹn và hơn thế, tái hiện tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước mơ của mình qua tác phẩm. Nghĩa là phải bằng một hệ lời rất riêng, phản ánh cuộc sống, bộc lộ những tình cảm, những rung động trong hồn người, sao cho thật đúng, thật hay.
2.2. Tình cảm trong thơ Hoàng Cầm Sự nghiệp thơ ca trải dài hơn nửa thế kỷ đủ để chứng minh cho một tấm lòng son sắt và các tình đầy mê đắm với đời và với thơ của thi nhân Hoàng Cầm. Niềm mê đắm ấy nhờ bắt rễ sâu từ vùng đất Kinh Bắc huê tình, diễm ảo, từ truyền thống văn hóa dân tộc nghìn đời tươi đẹp nên tiếng thơ ông, sức ngân vang thật dài, thật sâu và khả năng lay động lòng người thật mạnh mẽ.
Cũng là tâm sự yêu nước thương nhà đến cháy lòng, tình cảm quê hương thiết tha, nồng hậu, cũng là tình bạn, tình yêu trong những cung bậc, những sắc thái đa dạng của nó, những điều tưởng đâu đã quá quen thuộc, tưởng đã mòn nhẵn trong thi ca, song sáng tác Hoàng Cầm quả đem đến cho người đọc một cảm nhận riêng, một hơi hướng, âm vang riêng. Tiếng thơ ấy lúc như là lời tâm sự nhỏ nhẹ, thầm thì, lúc là trạng thái ngây ngất say sưa đến chệnh choạng, khi lại sôi sục căm thù, đằm thắm thiết tha, bâng khuâng, man mác, ngọt ngào tươi xanh… Thơ Hoàng Cầm là thơ của người say mê cuộc sống, say mê tình yêu. Mảng đề tài đặc sắc mà Hoàng Cầm đã trút vào đó nhiều tâm huyết và nước mắt, chính là mảng thơ viết về Kinh Bắc quê hương ông. Mang trong mình tình yêu cực kỳ sâu đậm với quê hương, thi nhân đã phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng, của trí tuệ, tình cảm để tái hiện lại một cách tài hoa dáng hình quê hương trong cái hồn sâu thẳm của nó.
2.2.1. Khúc nhạc đậm tình quê hương Quê hương là cội nguồn, là nơi đọng lại trong tâm trí mỗi người những gì đẹp đẽ, thiêng liêng nhất. Nơi chất đầy kỷ niệm tuổi thơ ấy cũng chính là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn và tài năng người nghệ sĩ. Quê hương vốn đẹp trong hồn mỗi người, sẽ càng đẹp và ý vị hơn trong tác phẩm nghệ thuật.
Người đọc nhớ mãi hình ảnh Núi Đôi trong thơ Vũ Cao, thôn Vĩ Dạ mộng mơ trong thơ Hàn Mặc Tử, ấn tượng với vùng đất Tây Bắc kiêu hùng, bất khuất trong thơ Chế Lan Viên… Kinh Bắc với Sông Đuống, sông Cầu, hội Gióng, hội Lim và biết bao địa danh trên mảnh đất trữ tình ấy tỏa sáng trên trang thơ Hoàng Cầm. Đọc thơ ông, ta như thấy những giọt máu hồng nhỏ từ trái tim yêu thương đến mê đắm quê hương, thấy anh ôm ghì lấy những cảnh, những người của Kinh Bắc cổ kính: “Ơi những con sông, triền núi, những gò cao đồi thấp, những bến, những thuyền, những chùa chiền miếu mạo, đền đài, lăng tạ của đất Kinh Bắc cổ kính và thanh tao, một dáng nây về sớm, một con chim lẻ bạn sang chiều, đến cả một sợi cỏ may, một búp tre còn ứ đọng tinh hoa của nền văn hóa văn minh đồng bằng Bắc Bộ”… [151, tr.47].
Ai cũng có một quê hương để nhớ, để thương, để khi đi xa mong muốn, khát khao được trở về, và sống lại trong niềm ký ức tuổi thơ ngọt ngào, êm ả. Nỗi nhớ quê hương vốn đơn giản và cụ thể, là nỗi nhớ dòng sông, giếng nước, gốc tre, bờ giậu, ruộng đồng… Thật thân quen và bình dị nhưng hết thảy những gì thuộc về quê hương dường như có hồn, có khả năng gợi nhớ kỳ lạ, có thể kéo những tâm hồn xa quê trở về nguồn cội.
Quê hương là đề tài muôn thưở không chỉ riêng đối với thơ ca. Viết về quê hương, chắc hẳn, mỗi nhà thơ không chỉ muốn bày tỏ tình cảm của mình đối với nơi chôn rau cắt rốn mà hơn thế, là mở rộng ý nghĩa “quê hương” đối với tình cảm chúng ta. Nguyễn Bính, trong hồn thơ chân quê, mộc mạc, đưa vào thơ mình mảnh đất Nam Hà nghèo khổ nhưng thanh sơ bình dị. Tế Hanh với lòng chân thành và tình yêu nồng thắm, đã để chảy mãi trong đời và trong thơ con sông quê êm đềm, xanh mộng. Thơ Trần Hữu Thung đậm chất ví dặm mộc mạc của xứ Nghệ quê mình.Tố Hữu đượm thắm tình quê vào mỗi dòng thơ bằng chất dân ca ngọt ngào và những điệu hò mái nhì, mái đẩy. Tất cả, đâu chỉ để làm tỏa hương cho vùng quê của riêng mình, mà rộng ra, khơi dậy tình yêu quê hương, xứ sở thiêng liêng đọng sâu trong tâm hồn mỗi người dân đất Việt.
Hoàng Cầm viết về Kinh Bắc, đưa vào thơ mình cả một vùng quê tráng lệ, nên thơ, với nền văn hóa lâu đời, là cội nguồn văn hóa của dân tộc. Đọc thơ ông, người đọc có dịp nhìn lại thành Cổ Luy Lâu – nơi Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Tô Định, được ghé thăm chùa Dâu, chùa Bút Tháp, tranh làng Hồ… và nghe những câu Quan họ mượt mà của các liền chị, liền anh trong ngày Hội Lim. Tìm hiểu thi giới Hoàng Cầm , có thể thấy “Có sự hòa hợp cộng hưởng giữa thế giới Kinh Bắc với hồn thơ Hoàng Cầm để làm nên một gương mặt thi nhân, một người thơ Kinh Bắc quen mà lạ, với phong cách và sắc điệu riêng, chỉ riêng ông mới có” [66, tr.15].
Đất Kinh Bắc huê tình, diễm lệ ắp đầy huyền thoại và bảng lảng trong màu sương khói dân ca là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, tinh lực của Hoàng Cầm, là cội nguồn thi cảm của nhà thơ. Tình yêu Kinh Bắc thành kính là nguồn mạch chủ đạo trong thơ Hoàng Cầm. Là thi sĩ tài hoa, am hiểu sâu rộng nền văn hóa dân tộc, cuộc sống và con người trên đất quê hương, Hoàng Cầm đã làm sống dậy trong thơ mình cả một vùng quê bằng tấm lòng nâng niu, trân trọng.
Hoàng Cầm viết về Kinh Bắc bằng tình yêu thiết tha như nỗi niềm đứa con sau bao thăng trầm, bao dâu bể của đời người được trở về đất mẹ. Ông tâm sự: “Từ khi chiếc lá bàng trước cửa nhà rụng xuống báo tin thu, hồn tôi cứ chìm dần, chìm
sâu, chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, màu sắc, hương vị đã quá xa, đã không còn nữa” [6, tr.194]. Hình ảnh quê hương hiện lên trong thơ Hoàng Cầm có khi rất gần gũi, rõ ràng, khi lại hoá xa xăm, mờ ảo. Quê hương với bao kỷ niệm, gắn bó từ thuở ấu thơ đọng sâu trong hồn người thi sĩ đa tình, đa cảm mà chẳng điều gì có thể làm phai mờ được. Cuộc sống có thăng trầm đến mấy và thời gian có nghiệt ngã thế nào, ký ức về quê hương trong lòng thi nhân cũng vẫn nguyên vẹn, tràn đầy. Có thể nói, quê hương như “dòng sữa ngọt ngào thấm vào máu thịt, chảy trong huyết quản để làm nên hồn thơ Kinh Bắc Hoàng Cầm ” [66, tr.15]:
- Em ơi thử đếm mấy giêng hai Đêm hội Lim về đê quai rảo bước Đuổi tà lụa nhạt ánh giăng đầm thấm đường sương [Theo đuổi, 6, tr.159] - Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc [Bên kia sông Đuống, 6, tr.24] Quê hương theo nỗi nhớ rất đậm và rất sâu đi vào trang thơ Hoàng Cầm đẹp lung linh như chính vẻ diễm tình, thơ mộng của đất trời Kinh Bắc. Hoàng Cầm nhìn và miêu tả quê hương không chỉ bằng mắt, bằng tai mà bằng cả tâm hồn ngập đầy tình yêu dành cho Kinh Bắc. Kinh Bắc thời Hoàng Cầm còn thơ trẻ cứ chập chờn ẩn hiện trong tâm trí nhà thơ, ngày đêm thầm thì nói chuyện với ông về quê hương, về tình yêu, về niềm vui, nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách… Tất cả “cứ tầng tầng lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền – diệu – dĩ - vãng” [6, tr.194]. Bơi, chìm trong da thịt quê hương, hồn phách quê hương để rồi mang tất cả vào trong thơ mình, từ những chuyện thực diễn ra hôm qua và hôm nay, đến cả những câu chuyện nhuốm màu huyền tích, huyền thoại.
Những năm đầu kháng chiến, ta bắt gặp một Hoàng Cầm qua những bài thơ tràn đầy sức trẻ với cảm hứng yêu nước nồng nàn. Sau Đêm liên hoan (10/1947),
Tiếng hát sông Lô (12/1947), Bên kia sông Đuống (4/1948) ra đời, tạo nên một mạch tình cảm về quê hương đất nước dạt dào, tha thiết, lắng sâu trong thơ Hoàng Cầm.
Ai đã từng một lần đọc thơ Hoàng Cầm hẳn khó mà quên được những dòng thơ anh viết về quê hương. Bởi quê hương đã nằm sâu trong lòng nhà thơ, từ thuở người mẹ mẹ sớm chiều kể cho ông nghe những chuyện về gia đình, thôn xóm, về cảnh chợ núi, chợ sông, rồi chuyện người – người gốc quê, người ngụ cư, người cấy cày, người đi lính… Để rồi ai đã một lần xa quê lại chẳng nhớ, chẳng buồn và ước mong được một lần trở lại. Thôi Hiệu, một nhà thơ nổi tiếng đời Đường, đi qua lầu Hoàng Hạc, nhìn thấy cảnh đẹp nơi đây mà động lòng sầu xứ:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị ? Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Chiều trông nào chốn quê hương nhỉ? Khói sóng sông mờ dạ ngổn ngang) (Thôi Hiệu, Hoàng Hạc Lâu) Một nhà thơ khác khi đi xa đã Ngoảnh đầu nhìn trăng sáng - Cuối đầu nhớ cố hương. Ai đã xa quê hương, ít nhiều rồi cũng mang tâm trạng ấy. Càng đi xa, nỗi nhớ sẽ càng đậm càng sâu. Nhớ quê hương, nhớ cảnh, nhớ người, nhớ những ngày đã qua không bao giờ trở lại, nhớ tuổi thơ lắm ngọt ngào mà cũng nhiều khổ lụy. Hoàng Cầm – cuộc đời ấy tuy đã qua nhiều chặng, nhiều bước thăng trầm nhưng tất cả không sao xóa được, làm đổi thay được một thế giới tâm hồn được tạo dựng nên bằng nhiều lớp kỷ niệm của tuổi trẻ gắn với một vùng đất quê hương đẹp, giàu có và thơ mộng
Trong thơ, Hoàng Cầm chú ý nhiều đến cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và nghệ thuật. Kinh Bắc quê hương ông vốn đẹp lại càng đẹp hơn dưới ngòi bút tài hoa, và lòng yêu say tha thiết của thi nhân. Từ những dòng sông diễm lệ, những núi đồi thần tiên, hùng vĩ, những chùa chiền thanh tịnh đến những con người tình tứ, hào hoa trên quê hương, đến cả những con đường quanh co nơi những làng quê nghèo, vắng hút… .tất cả đều đẹp, vẻ đẹp huyền hồ, hư ảo trong thơ Hoàng Cầm.
Hình ảnh quê hương trong thơ Hoàng Cầm sau nét vẻ đơn thuần bao giờ cũng có hồn, vì thế mà rung động tâm hồn người đọc. Sông Cầu cẻ đẹp hồng hoang lộng lẫy màu áo gấm, sông Thương đôi bờ lệ chảy, sông Đuống hồng như dải lụa… không chỉ là cảnh thực quê hương mà là cái nền để nhà thơ bày tỏ cảm xúc, tình yêu quê hương của mình. Và những hình ảnh ấy, dù ít hay nhiều, đã khơi dậy cái tình
quê trong hồn mỗi người và níu lòng họ về với quê cha đất tổ. Những thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, giàn trầu, hàng cau hay giậu mồng tơi của làng quê mộc mạc ăn sâu trong tâm hồn Nguyễn Bính, khiến nhà thơ cứ muốn giữ mãi vẻ đẹp chân quê trong đời:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh Thầy u mình với chúng mình chân quê (Nguyễn Bính, Chân quê). Thì Hoàng Cầm, những núi Thiên Thai, chùa Bút Tháp, phường Lim, Phường Nội, sông Đuống, sông Cầu của Kinh Bắc yêu thương đã khiến đứa con lãng tử sau nhiều năm phiêu bạt lại tìm về đất mẹ trong nhớ thương, khắc khoải:
- Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc Chiều xưa giẻ quạt voi lồng Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông [Đêm Thổ, 6, tr.105]
- Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc Con không cười Con thoảng nhớ thoảng quên [Đêm Kim, 6, tr.106]
- Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng Khế chua vôi bột lòng tay Tràng pháo ròng thân cau mới bói Tênh tênh chở đá Ba Vì [Đêm Mộc, 6, tr.107] Cái hồn dân tộc, hồn quê hương thấm sâu trong tâm hồn và làm thành chất men nồng nàn trong thơ ông. Đọc thơ Hoàng Cầm, người đọc như được sống lại một thời tuổi mộng đã thành kỷ niệm, đã là tiềm thức xa xôi. Với Hoàng Cầm, hồn quê đất Việt thiêng liêng và dung dị từ bao đời nay luôn nằm sâu trong ký ức mỗi người bỗng hiện ra trong phong vị quê hương đậm đà hơn bao giờ hết.
Huy Cận với với Tràng giang, Hàn Mặc Tử với Đây thôn Vĩ Dạ, Tế Hanh nói với Quê hương cùng những sáng tác của Bàng Bá Lân, Anh thơ, Đoàn văn Cừ, Nguyễn Bính và Hoàng Cầm, đã tạo ra một mảng thơ về quê hương đậm màu dân tộc và có giá trị. Bên cạnh Nguyễn Bính – thi sĩ của đồng quê, Hoàng Cầm là nhà thơ viết về quê hương tiêu biểu hơn cả. Thơ Hoàng Cầm đánh thức và gọi về cái
hồn quê luôn ẩn sâu trong mỗi người. Ta tưởng như đang được đắm mình trong dòng sông quê xanh mát, nhìn làng quê Quan họ trong nắng sớm mưa chiều, trong những điệu dân ca ngọt ngào, mê đắm tình quê:
Cơm vừa chín tới Má xuân hồng lồng khói tím lịm sang thu Bãi mía sông Cầu reo đáy bát Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa [Thi ăn mía thổi cơm, 6, tr.164] Cảnh sắc quê hương trong thơ Hoàng Cầm là cảnh sắc của tình yêu và thơ mộng. Thơ Hoàng Cầm không thiên về tả cảnh quê, phong tục như Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân mà hướng đến tình yêu – tình yêu nơi thôn xóm, tình yêu những đêm hội làng, người ta đi hội và hò hẹn, đợi chờ:
- Tơ xanh ngây ngây đêm sông Cầu Em anh giờ lẩn trốn bụi bờ đâu (…) Sân đình Lại Thị Mầu í a tung tình rung rinh chờ [Hội chen Nga Hoàng, 6, tr.167]
- Mẫu đơn một nhành rơi Ngọc lan mười búp chắp Nến tắt sao không tắt Giải Ngân hà giải chiếu nâng hoa [Hội Long Khám, 6, tr.169] Những đêm hội làng là dịp tụ họp, giao lưu của những trai thanh, gái lịch.
Những mối tình quê chớm nở với bao vui buồn, ước mơ, mong nhớ, đau khổ…
- Ai luồn kim giải áo dở dang mơ Chàng Lưu ứa nước mắt Bước ra thềm hong mưa [Thi thêu gấm, 6, tr166]
- Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp Không giờ không Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng
[Hội chen Nga Hoàng, 6, tr.167]
Chính những nỗi niềm, những tâm tình ấy đã khiến cho cảnh quê vượt ra khỏi sự yên lặng cố hữu của quê hương, trở nên xao xuyến, bâng khuâng, đầy khơi gợi. Nó không chỉ đánh thức trong tâm hồn ta những kỷ niệm về một miền quê có thực mà cả miền quê chỉ có trong hoài niệm.
Tình yêu Kinh Bắc, yêu quê hương sâu sắc đã khiến cho thơ Hoàng Cầm, cả khi nói đến những điều bình thường nhất vẫn có sức lôi cuốn, vẫn làm xao động lòng người. Dường như cái giọng ấy vừa cất lên, bóng dáng quê hương đã hiện ra trước mắt mọi người. Phải nói, trước nay ít ai có thể làm được điều như Hoàng Cầm – quyện chặt hồn ta vào hồn quê hương, đất nước. Dưới ngòi bút tài hoa ấy, những cảnh bình thường nhất, trong nhều lời lẽ giản dị nhất cũng gợi cảm và dễ dàng đi vào tâm tình người đọc, khiến họ nhớ, yêu và cứ mãi xúc động, bồi hồi.
Nỗi nhớ quê hương, ấy là một tình cảm đẹp. Hình ảnh quê hương trong tình yêu và nỗi nhớ của Hoàng Cầm luôn ẩn hiện bóng dáng người cha, người mẹ, người chị, người em… như một điểm sáng trong tấm lòng người thi sĩ:
- Tôi mơ Tiếng quê quan họ Cất cao thành núi khổng lồ Ném xuống biển cồn sóng gió Vòng nhỏ Vòng to (…) Lòng Mẹ bao la con về theo nhịp múa Bài ca vỗ sóng ngàn xưa [Tìm đến chân trời, 6, tr.95]
- Ước sao sáng Mẹ bừng công chúa Chớp mắt nghiêng buồn… kiếp ảo sinh Ước sao soi Chị lim dim hát Tay gió đàn lơi
yếm trắng trinh Ví chăng Em cứ bơ vơ nhớ Nắng hiện cồn mây lá hiện hình [Ước nguyện, 6, tr.190] Quê hương Hoàng Cầm, quê hương Kinh Bắc vốn dĩ rất đẹp, và con người của vùng đất này tuy quê mùa, chất phác mà thiên về có trước có sau, ít sự đảo điên suy tệ, phần nhiều ngay thẳng trung thực. Hoàng Cầm viết về mảnh đất và con người quê hương mình bằng cảm hứng ngợi ca, tự hào:
- Thử hẹn mười năm nữa nhớ về Nơi nào muối đổ xát lòng quê Tây Hồ hai tiếng nghe thăm thẳm Tiền kiếp xa mù thuở Hậu Lê [Tây Hồ, 6, tr.332] - Đẹp nhất chiều hôm ấy
Ta nén lòng chia xa Em cười về tuổi dại Anh cười lên mây qua [Tìm cái đẹp, 6, tr304] Từ làng quê Kinh Bắc chất chứa ân tình, người Kinh Bắc hiện lên đẹp sáng ngời trong đạo lý, lý tưởng và trong tâm hồn. Đó là những con người mang trong mình cả một nền văn hóa có giá trị to lớn. Trước bão giông, sóng gió của cuộc đời, giữa bao nhiêu gian nan, vất vả, những con người ấy vẫn hiên ngang, kiêu hãnh đến lạ thường:
- Trai gái trong xã Rút ống chân khỏi vại mực đen ngòm Chạy ra bến sông khỏa ánh trăng mát rượi Tiếng hát cất lên nhuộm mùi hoa bưởi… [Chân trời tua tủa mảnh chai, 6, tr.83]
- Tiếng hát theo em đi vớt bèo Em vớt được mấy chùm sao sáng Vớt đôi con mắt nhìn theo [Khi mùa xuân trở về, 6, tr.75]
Quê hương trong thơ Hoàng Cầm là vùng quê của tình người, tình nghĩa và của tình yêu lứa đôi. Thơ Hoàng Cầm không có nhiều những bức tranh quê cụ thể và tỉ mỉ với những cảnh, người nhưng khơi gợi nhiều ở thế giới nội tâm, ở tình đời, tình người. Hoài Thanh đã có sự so sánh khá tinh tế về các nhà thơ làng quê: “Đồng quê xứ Bắc đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm một cách riêng. Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê. Anh Thơ là nột ngừoi thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê... Và Hoàng Cầm, trong nhiều thi phẩm của mình, có thể nói, đã làm sống dậy một Kinh Bắc đa chiều, lộng lẫy, đẹp không đâu sánh bằng.
Hoàng Cầm viết về quê hương bằng niềm tự hào của người con quê hương. Quê hương trên trang thơ ông không chỉ đẹp trong cuộc đời bình lặng mà cả trong khói lửa chiến tranh, kẻ mất người còn với bao đau thương, tủi cực:
Từ trên nguồn thơ dại Em chải tóc rừng xanh Em quấn khăn lá biếc Áo em sớm thì xanh Chiều về đỏ như huyết Em muốn cảnh bình yên… [Tiếng hát sông Lô, 6, tr.19-20] Nhà thơ kể chuyện đất nước qua hình ảnh những vùng miền khác nhau, bằng
truyền thống chống ngoại xâm kiên cường, bất khuất của cha ông:
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống Bộ đội bên sông đã trở về Con bắt đầu xuất kích Trại giặc bắt đầu run trong sương Dao lóe giữa chợ Gậy lùa cuối thôn Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn [Bên kia sông Đuống, 6, tr.27] Gắn bó máu thịt với vùng đất cổ tích ấy, thơ Hoàng Cầm hiện rõ từng cảnh vật, con người cùng bao giá trị văn hóa tinh thần hàng nghìn đời mà cha ông để lại. Tình yêu Kinh Bắc thiết tha như tiềm tàng, chất chứa từ lâu trong hồn ông, để trong một hoàn ảnh nào đấy sẽ bùng lên mạnh mẽ thành những dòng cảm xúc bất tận.
Hoàn cảnh tạo nên cảm hứng thi ca ấy là khi nghe tin giặc đánh phá quê hương mình. Nhưng quan trọng hơn là tình yêu mảnh đất quê hương từ lâu đã ngút đầy trong lòng người thi sĩ chỉ chực chờ đươc bộc bày, thổ lộ.
Giữa một đêm tháng 4 – 1948, hay tin quê hương bị giặc chiếm đóng, tàn phá, trong tâm trạng “cực kỳ xao xuyến, tâm tư chồng chất những nhớ thương, tiếc nuối, xót xa với cảnh và người nơi quê bị tàn phá, giết hại cùng với một niềm căm giận sâu lắng” [66, tr.105], nhà thơ viết Bên kia sông Đuống. Bài thơ có thể nói là “những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm dành cho quê hương yêu dấu của mình” [66, tr.113].
Quê hương ấy đẹp rạng ngời, lấp lánh bởi hình ảnh con sông quê cát trắng
phẳng lì, với những bãi mía, nương dâu từ miền quá khứ xa xôi chảy về hiện tại:
Sông Đuống trôi đi Một dònglấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì [Bên kia sông Đuống, 6, tr.23] Theo dòng hoài niệm ấy, hình ảnh quê hương trở về mang theo hương lúa nếp thơm nồng và màu dân tộc sáng ngời từ những bức tranh làng Hồ: Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Hình ảnh quê hương còn được gợi lên với những đền, chùa cổ kính, những hội hé đình đám nhộn nhịp, náo nức, cảnh lao động buôn bán đông vui, tấp nập và hình ảnh những cô gái Kinh Bắc xinh đẹp, duyên dáng và rất đỗi tình tứ:
Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng [Bên kia sông Đuống, 6, tr.25] Quyện lẫn trong tình yêu, nỗi nhớ, niềm tự hào sâu sắc dành cho quê hương là nỗi đau, sự tiếc nuối, xót xa và căm giận khôn nguôi trong lòng tác giả. Tâm trạng ấy, nỗi đau xót vô hạn: Sao xót xa như rụng bàn tay giúp nhà thơ trong một đêm thức trắng đã tái hiện một cách đặc sắc hình ảnh quê hương đau thương mà dũng cảm, kiên cường. Cảnh tượng quê hương ngập chìm trong khói lửa chiến tranh được miêu tả bằng những hình ảnh nhập nhòa giữa thực và ảo:
Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu? [Bên kia sông Đuống, 6, tr.24] Điều đó, không những không làm nguôi đi nỗi đau của quê hương mà trái lại lay động càng sâu tình cảm trong những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa nghìn đời của quê hương Kinh Bắc.
Trong nỗi thương tiếc khôn nguôi những người, những cảnh của quê hương, Hoàng Cầm dành tình cảm sâu sắc nhất cho người Me và những đứa em thơ. Hình ảnh Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong – Bước cao thấp bên bờ tre hun hút; Mẹ ta lòng đói dạ sầu – Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ; và cảnh những đứa trẻ trong đói khát, dưới đạn bom: Ngày tranh nhau một bát cháo ngô – Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn quặn thắt lòng người bao tháng năm. Nỗi đau dâng lên tột đỉnh và niềm uất hận, căm giận cũng bùng lên dữ dội: Đã có đất này chép tội – Chúng ta không biết guôi hờn…
Có thể nói tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ Bên kia sông Đuống là “cảm xúc vừa nuối tiếc, xót thương, vừa uất ức, căm giận cuồn cuộn tuôn trào và cái hồn của quê hương, của dân tộc phảng phất trong suốt bài thơ [66, tr.111]. Chính dòng cảm xúc ấy đã khiến hình ảnh quê hương trong tâm hồn nhà thơ chưa bao giờ lại cụ thể, máu thịt xót xa dường ấy. “Những hình ảnh, âm thanh, màu sắc dệt nên quê hương thân yêu giờ như chìm trong lửa cháy, nước mắt… máu loang chiều mùa đông [66, tr.111].
Đọc Bên kia sông Đuống nói riêng và những vần thơ viết về Kinh Bắc nói chung của Hoàng Cầm, ở đâu, và bất cứ lúc nào, lòng ta cũng lại bồi hồi nghĩ đến quê hương. Thi sĩ nói lên tâm trạng, nỗi niềm của mình ông mà sao ta thấy trong ấy tâm tư, tình cảm của chính mình đối với quê hương.
Hoàng Cầm viết về quê hương bằng tình yêu mãnh liệt, bằng tình cảm dồn nén bấy lâu cứ vỡ ra thành những câu thơ nghẹn ngào xúc động. Thấm đẫm trong ấy là bao nhiêu yêu thương, trân trọng, nâng niu, bao nhiêu nhớ nhung, nuối tiếc, xót xa, căm giận. Cảm hứng về quê hương Kinh Bắc dường như lúc nào cũng tuôn chảy dào dạt trong mạch nguồn tình cảm và mạch thơ Hoàng Cầm. Chính từ nguồn cảm hứng bất tận ấy mà Hoàng Cầm có những dòng thơ dễ làm lay động lòng người và dễ làm ta chảy nước mắt. Tóm lại có thể nói, thơ Hoàng Cầm là hình ảnh quê hương được khúc xạ qua tình yêu tha thiết, mê say đối với quê hương. Chất Kinh Bắc, tình quê hương thấm trong câu chữ, giọng điệu, in đậm trong trang thơ Hoàng Cầm. Đọc
thơ ông, nhất là những tuyệt tác về quê hương, thiết nghĩ, bao yêu thương có được trên đời, nếu đem trao hết, dành hết cả cho quê hương, có lẽ, cũng là chưa đủ.
2.2.2. Tình yêu – Nguồn cảm hứng bất tận trong thơ Hoàng Cầm Cả một thời gian dài, quan niệm “Thi dĩ ngôn chí”, “Văn dĩ tải đạo” ảnh hưởng sâu sắc đến cách cảm, cách nghĩ và quá trình sáng tác của người làm thơ, viết văn. Cho đến mãi về sau, quan niệm đó mới dần được thay đổi. Trong Mỹ học, Hêghen viết: “Vì vậy cho nên nhiệm vụ chính của thơ là gợi lên cho ý thức nhận thấy những sức mạnh của cuộc sống tinh thần và tất cả những gì lay động ta, làm ta xúc cảm trong các dục vọng và các tình cảm nhân tính” [51, tập1, tr.29]. Theo Hêghen, “nhiệm vụ chính của thơ” là hướng đến miêu tả, thể hiện đời sống tinh thần, tình cảm, tình yêu của con người. Quả vậy, trong khả năng đặc biệt của mình, thơ đi sâu vào đời sống tinh thần con người, phản ánh những ước mơ, khát vọng, niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn, nỗi nhớ nhung… của con người.
Thơ ca muôn đời vẫn vậy, mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, mỗi dân tộc đều có những nhà thơ nổi tiếng viết về tình yêu: A.Puskin. A.Lamactin, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính…
Đọc thơ tình Xuân Diệu, Trần Đình Sử viết: “Ông đòi hỏi một tình cảm được biểu hiện tuyệt đối nồng cháy, cao độ tối đa” [115, tr.30]. Cái ông gọi là “tuyệt đối nồng cháy, cao độ tối đa” ở đây chính là tình yêu, là mạch nguồn, là bản chất của thơ ca. Với đặc trưng bản chất của thể loại, thơ là tiếng nói nhạy cảm nhất của tình cảm, của trái tim con người cũng như tình yêu vốn là đề tài muôn thuở của văn chương nói chung và thơ nói riêng.
Hoàng Cầm sống giữa cuộc đời, hòa mình vào mọi người, nhưng tiếng thơ ông, đặc biệt là những thi phẩm về tình yêu, mang sắc điệu riêng, cung bậc riêng. Ông là nhà thơ tình đặc biệt và tiêu biểu của nền thơ Việt Nam sau 1945. Với ông, thơ ca đích thực là mảnh đất của tình yêu:
Thuở ấy Chị chưa về thơ Anh Áo tơ dính chặt bó khuôn hình Đến khi xé lụa bừng da thịt Ngửa mặt phù du khép gió xanh [Dáng thơ, 6, tr220] Thời gian và cuộc sống với bao biến hóa thăng trầm đã làm nhòa đi, xóa dần đi bao điều quý giá, trong đó có tình yêu và cái đẹp. Dù vậy, nghệ thuật và thơ ca vẫn đủ sức lưu lại và tái tạo lại một cách độc đáo những gì đã nất, đã đi qua, đã
không còn nữa. Thơ hoàng Cầm, những Cây Tam Cúc, những Lá Diêu Bông hay Quả Vườn Ổi… chính là phép nhiệm màu kỳ diệu ấy.
Tình yêu mang sức mạnh thầm kín mà mạnh mẽ, đưa con người vào trạng thái yêu đương xao xuyến, đuổi theo nhưng cuộc tình nồng cháy và nhiều lúc dang dở, đắng cay, phiền muộn… Hoàng Cầm bằng cặp mắt đa tình và nét bút tài hoa, đã miêu tả chân tình, xúc động những mối tình tha thiết ấy. Từ cuộc sống lao động cần mẫn, từ những ngày hội tưng bừng, náo nhiệt…, trong những khoảnh khắc bất chợt nào đó, tình yêu lên tiếng, có khi là lời thì thầm, kín đáo, lúc là những rung động nhẹ nhàng, có lúc mãnh liệt, dâng trào: - Cả hồn thơ dại si ngây Còn chăng một nét chữ gầy mong manh Chỉ còn thật chuyện riêng anh Hao hao cổ tích mờ xanh tuyệt cùng [Liệu còn gì nữa, 6, tr.288]
- Hái một nụ thơm em Là biết đầu biết khổ Hái thêm em lá mở Đau suốt đời ngẩn ngơ [Duyên kiếp, 6, tr.279] Hoàng Cầm được sinh ra trên đời là để làm thơ, để dệt nên những cung bậc thiết tha về tình yêu nam nữ, tình cảm lứa đôi. Có lẽ, chất men say tình yêu từ vùng đất Kinh Bắc diễm tình đã ngấm vào máu thịt ông từ thời thơ bé. Thơ tình Hoàng Cầm do vậy luôn ẩn hiện hình ảnh một vùng quê và mang đậm hồn quê Kinh Bắc:
- Thôi đợi sang sương chiều rủ khói Lơ thơ che mặt thẹn sông Cầu Một lời quan họ bay lên dốc Anh chớ dìm em đêm nén đau [Một lời Quan họ, 12, tr.85 ]
- Mưa đi về anh mưa đi lưu ly Kinh Bắc hồng môi gái xưa kinh kỳ Kinh Bắc lên men đằm hương vương phi Hỡi mưa phương Nam bao giờ mưa đi
[Giọt mưa phương Nam, 12, tr.112]
Tình yêu trong thơ Hoàng Cầm bao giờ cũng mãnh liệt và đầy mê đắm. Tình
yêu ấy chảy tràn trong tim ông, trong thơ ông và phủ kín cả không gian Kinh Bắc:
Tháng giêng ơi vút vút nhanh Như mây từ biển liệng vành Thiên Thai Như dòng sông Đuống cuốn trôi Như Tiêu Tương liễu buông dài Bách Môn [Tháng giêng đi chậm, 6, tr.283] Tình yêu ấy – nỗi băn khoăn trong sáng, mối buồn sầu lửng lơ mà vô hạn phủ đầy trang thơ Hoàng cầm, giăng mắc khắp núi sông làng mạc, khắp đất trời Kinh Bắc. và nỗi cô đơn theo đó cũng tan trong hun hút phương trời:
Đêm giao thừa ai đưa mưa sa Từ Thức tìm đâu một mái nhà Có phải chính em cầm gió bấc Quất ngang sông đuống buốt phù sa [Bơ vơ, 6, tr.266] Nét đẹp nhất trong những bài thơ tình của Hoàng Cầm là sự chân thành, là tình yêu sáng trong nguyên khôi của một tâm hồn đa tình, nhạy cảm. Tình yêu đầu với chị Vinh, người chị hơn ông tám tuổi đã để lại trong đời ông và thơ ông niềm hạnh phúc và nỗi nuối tiếc, xót xa khôn nguôi. Nỗi đau tình yêu đơn phương cứ ám ảnh hoài đời thơ ấy và tạo thành giọng điệu riêng, nét đặc sắc riêng của thơ tình Hoàng Cầm.
Tình yêu bởi trinh nguyên, sáng trong và rất mãnh liệt nên nỗi nhớ mới thành sâu thẳm, mênh mông. Từ đó mà có những dòng thơ thần diệu như “tiếng một con suối thần vang động từ đáy thẳm sâu của kỷ niệm” [151, tr.265]. Đó là những lúc thi nhân sống hết mình với tình yêu và kỷ niệm một thời tuổi mộng.
Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ nhung, chờ đợi. Tâm trạng ấy có khi chỉ từ một phía. Hoàng Cầm diễn tả trạng thái tình cảm ấy một cách chân thực, không màu vẻ sang trọng và nghệ thuật hóa như Xuân Diệu, cũng không tài hoa, khắc khoải và có phần huyền bí như Hàn Mặc Tử… Thơ tình Xuân Diệu mới cả về tứ, về ngôn ngữ, âm điệu và phương thức biểu hiện. Người đọc mê thơ ông bởi cái đắm say, hối hả, nồng nàn, tha thiết, không có chút gì ẩn khúc. Bằng lớp ngôn từ tinh vi, giàu chất say, Hoàng Cầm nói đến mọi trạng thái của tình yêu: Tình yêu trong trắng, ngây thơ, tình yêu đắm say, ngây ngất, sự đợi chờ, nhớ nhung, giận hờn, sầu tủi, ghen tuông, tuyệt vọng…
Hoàng Cầm là thi sĩ của tình yêu thầm kín nhưng chẳng bao giờ dám thổ lộ, bộc bày. Cho đến một ngày, tình yêu như con tàu tách bến, người yêu vắng xa, đành thở than nuối tiếc nuốt cả vào lòng nỗi đau tình yêu không trọn vẹn:
Liệu còn gì nữa của anh Bài thơ mê đã hóa thành viễn vông Dẫu em đọc lại đôi dòng Sẽ ngơ ngác hỏi nỗi lòng ai đây? [Liệu còn gì nữa, 6, tr.288] Thơ tình Hoàng Cầm là thơ của tình yêu sâu kín: diễn tả được sắc thái,cung bậc của tình cảm: những rung động nhẹ nhàng, nỗi nhớ thương khắc khoải, sự mong chờ, hy vọng, xót xa… Thơ Hoàng Cầm là tiếng nói chân thành thốt lên từ đáy sâu tâm trạng, dội lên từ đáy lòng luôn mong muốn được giãi bày chia sẻ. Hồn thơ ấy vì thế nhanh chóng nhận được sự đồng điệu nơi tâm hồn người đọc.
Hoàng Cầm đứng giữa Nguyễn Bính, Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử nhưng ông có cốt cách riêng, lối thơ riêng của mình. Nói như Quang Huy: “Ông đa tình, kiêu sang và ẩn ức. Nhưng thoảng hoặc ông làm sang không đúng lúc và cố tình bưng kín ý tứ khiến bài thơ không dễ đọc một lần” [151, tr.227].
Thơ Hoàng nói chung và thơ tình nói riêng mang âm điệu buồn, đôi khi pha chút đắng cay. Bút danh Hoàng Cầm – tên một vị thuốc Bắc rất đắng phải đâu cũng là nghiệp dĩ của đời ông?
Tình cảm trong thơ Hoàng Cầm dù gồm nhiều mảng khác nhau nhưng nói chung “nhiều xót xa, phiền muộn, yểu điệu, yếu ớt, nhiều mặc cảm, nhiều nữ tính” [151, tr.253]. Mảng thơ về tình yêu, điều đó càng thể hiện rõ. Hình ảnh cậu bé cầm chiếc lá Diêu Bông đi suốt vòng thân phận, đi suốt cuộc đời, đi mãi trong thơ với niềm hy vọng mong manh, hư ảo hay niềm hạnh phúc bé nhỏ nhưng không dễ tan của cậu bé được ngồi đánh tam cúc bên người chị trong tổ rơm xưa… sao quá nhẹ nhàng, êm dịu. Nói: “Thơ Hoàng Cầm chỉ diệu êm một lẽ chấp nhận thoáng chút xót xa” [151, tr.254] là vì vậy.
Tình yêu như phép nhiệm màu làm hồi sinh, sống lại bao tâm hồn khô héo. Thơ Hoàng Cầm dù nồng nàn men say tình yêu nhưng cũng không ít những đau khổ. Theo giấc mơ, đó là những đợi chờ khắc khoải, những khát khao thầm kín… Không gian thơ Hoàng Cầm là không gian của nỗi nhớ nhung, của sự chờ đợi, hy vọng mà nhiều khi chỉ là tuỵêt vọng. Dường như, niềm vui, niềm hạnh phúc đi liền nỗi buồn, sự thất vọng:
- Phía mây anh chẳng mịn màng nắng lụa Tuổi hoen màu ố sắc bốn mùa không Lá hoài niệm cứ phật phờ rãnh nhớ Quên có em và nhớ có vô cùng [Nhớ… quên, 6, tr.439]
- Quả vậy khi đô thành biến đổi Anh vào em đã quá xa xôi Đêm trăng quỳnh nở y như hẹn Sao một lòng hai phía lẻ loi [Ngũ cung- gặp, 6, tr.418] Cái duyên kiếp nghẹn ngào Em đứng nhìn theo em gọi đôi ám ảnh hoài tâm
tư, cuộc đời ông khiến câu thơ nặng nỗi buồn sầu:
- Thương xót toát mình ôm Ngát hoa uất hận Nuốt em chăng Sao vẫn còn giờ ầy nghẹn ngào chia [Về cõi thật em]
- Bên kia tối mịt hố mờ Bên này loáng sáng bếb bờ mê ly Em lại đi… Sao cứ đi? Ngẩn ngơ vũ trụ còn gì trong tay? [Tinh anh thể phách, 12, tr.58] Chính sự đối lập giữa tâm hồn đầy nữ tính vốn ấp ủ những niềm riêng với nỗi khát khao vô tận tạo nên nỗi nghẹn ngào ấy. Và thêm nữa, tạo nên màu sắc, phong vị riêng cho tiếng thơ Hoàng Cầm.
Sinh ra trên miền đất diễm tình, thơ mộng, nơi cái đẹp, cái tình dệt nên tuổi thơ đầy mộng tưởng, Hoàng Cầm đã viết nên những trang thơ tình nhiều cung bậc, màu sắc. Tình yêu trong thơ ông khi thâm trầm sâu lắng, lúc mãnh liệt, dữ dội, đầy khát khao. Tựu trung, “thơ tình Hoàng Cầm vẫn đằm thắm, nồng nhiệt, thậm chí mê cuồng nhưng không kém phần quằn quại đau thương. Có lúc ông yêu như chẻ tre, như lũ lụt, hỏa hoạn: Ôm em đỉnh núi sao buông thấp - Hai ngực hòa tan một tiếng chuông. Có lúc ông lại yêu như mưa bụi không ướt đất, yêu như con chim chìa vôi yêu gió: Chìa vôi quệt gió hững hờ ” [109, tr.114].
Tình yêu gắn với nỗi nhớ nhung, đợi chờ. Xuân Diệu diễn tả trạng thái ấy
bằng hai câu thơ rất hay:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi [Nhị hồ, 152, tr.113] Cũng như nhiều nhà thơ tình khác, Hoàng Cầm hay nói đến mối tình đơn phương, một phía. Suy cho cùng, đó là tiếng lòng khát khao yêu thương, khát khao hạnh phúc. Vậy nên, chiếm phần nhiều trong bầu cảm xúc Hoàng Cầm chính là tình yêu.
Tình yêu vốn đẹp nhưng để có được niềm hạnh phúc trọn vẹn trong tình yêu quả là không dễ. Người đang yêu, đặc biệt nếu phải yêu đơn phương lại thường mộng mơ và tình yêu thường mãnh liệt. Hơn ai hết, họ hiểu được giá trị niềm hạnh phúc trong tình yêu nên dù biết là không thực, là xa vời vẫn cố mơ hoài về một tình yêu không tưởng, một hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn:
- Khóa kín hồn nhau bằng nước mắt Vòng tay bốn cánh xiết đêm thâu Ngày im tháng lặng vòng mê ấy Tuổi ngập dòng men… đứng bóng cầu [Cắt cánh thời gian, 12, tr.88]
- Em đi liền bên anh Vào chiều nay sương xuống Vào chiều mai nắng hanh Vào xa sau trầm tưởng [Gặp, 12, tr.47] Hoàng Cầm suốt đời lấy thơ làm cứu cánh, làm lẽ sống cũng như luôn khát
khao tìm thấy hạnh phúc – niềm hạnh phúc đời thường, đơn sơ mà rất đẹp:
Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay Hồn trong Em chuốc Chị chìm say Là Em cưới Chị xanh thiêm thiếp Sinh một đàn con Mây trắng bay… [Chị Em xanh, 12, tr18]
Thơ Hoàng Cầm nói chung, thơ tình của ông nói riêng, ít thấy mang giai điệu vui. Hoàng Cầm nhìn cuộc đời bằng ánh nhìn buồn, nỗi thâm thía về lẽ xót thương, chia lìa, dâu bể:
- Em cầm lấy cõi mưa nhung Miên miên tơ óng xuôi vùng khe sâu Em ngồi đâu Chị đứng đâu Bỗng dưng hai đứa hai đầu hư không [Gội đôi, 12, tr.26] - Ta lại về đây lại gặp mình
Cõi đời nghiêng ngửa giấc u minh Níu tay cười xuống hoàng hôn cũ Vớt mắt em về bến hóa sinh [Lại gặp, 12, tr.173] Dẫu sao, thơ Hoàng Cầm vẫn là thơ của người say mê cuộc sống, say mê tình yêu. Tình yêu với Hoàng Cầm đầy chất mộng, đẹp lung linh, có khi đó chỉ là mối tình đơn phương của chàng thi sĩ đa tình, lắm mộng. Dẫu vậy, tình yêu ấy hết sức mãnh liệt, tuy mộng nhưng lại rất thực.
Niềm đam mê ấy bộc lộ giữa đời thường, lúc tỉnh, đã đành: Khát em đầy miệng, bập bồng phun mưa [Mưa chiều nắng chếch, 12, tr.117]. Nhưng cả khi đã ngủ, vẫn đầy khát khao, mãnh liệt:
Em không đến. Thế là anh đã ngủ Ngậm hình em lá ngọt tím môi chì [ngẩn ngơ,12, tr.116 ] Hơn thế, tình yêu mãnh liệt ấy, nỗi khát khao không cùng ấy còn len vào tận
cửa Thiền:
Lời tình chùa vắng trắng xem đêm Nghìn mắt lâm râm nghé động thiền Mảnh lá run xanh khe suối nép Nghìn tay đâu nỡ thắt y xiêm [Hiếu sinh, 12, tr.151]
Hoàng cầm có lần đã tiết lộ: “Trong bất cứ chàng thi sĩ nào cũng sống một người đàn bà. Người đàn bà ấy là hiện thân của vẻ đẹp ám ảnh suốt cả đời thơ anh ta. Nàng là cái đẹp mang linh hồn” [151, tr.286]. Nhìn lại đời thơ ông, sẽ thấy, toàn bộ thi phẩm ông đều xoay quanh Nàng thơ của mình. Nào Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng; nào Xòe tay phủ mặt chị không nhìn; hay Chị gọi đôi cây trầu cay má đỏ…
Hoàng Cầm không những không muốn che giấu chuyện tình cảm đầu đời của mình với người Chị lớn hơn tuổi mà xem đó như một cơ duyên, một sự may mắn, một niềm hạnh phúc lớn lao trong đời. Nhà thơ đã sống rất thật, yêu thương và nhớ nhung bằng cả tâm hồn mình với tình yêu ấy.
Thơ tình Hoàng Cầm là những tình duyên lỡ dỡ của bản thân ông, được diễn tả một cách chân thật, xúc động. Thơ ông, do vậy mang giọng điệu buồn – cái buồn của nỗi tương tư đơn phương, của sự biệt ly, đau khổ… Nhưng trong cuộc đời mỗi con người, ai chẳng từng yêu, được yêu và trách sao được những cuộc tình tan vỡ. Tiếng thơ Hoàng Cầm theo đó không chỉ là tiếng lòng của riêng mình mà như nói hộ cho nhiều người khác:
… Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận Anh lụy đời quên bến khói sương Năm tháng… năm cung mờ cách biệt Bao giờ em hết nợ Tầm dương? [Nếu anh còn trẻ, 12, tr.175] Đọc thơ Hoàng Cầm, ta như đang nghe tiếng thổn thức, ngậm ngùi buồn của trái tim đang lỡ nhịp yêu đương. Giọng thơ ấy, nỗi niềm ấy, dẫu có đến tận cùng niềm đau, vẫn nhẹ nhàng, sâu lắng như hình ảnh cô gái quê e ấp, dịu dàng, duyên dáng.
Thơ Hoàng cầm, sau nỗi lòng buồn thương, đầy u uẩn ấy là một khát vọng sống mãnh liệt, nồng nàn. Sắc thái tình cảm này ta đã gặp trong nhiều thi phẩm của Xuân Diệu. Ở Hoàng Cầm, tình yêu gắn liền với nỗi khát khao tận cùng, nỗi khát khao đã được dồn nén từ lâu:
- Và dai dẳng em ơi
Là cơn say khát lá Cứ thon mềm xanh lả Trong men quê bồi hồi [Nhớ, 6, tr.174]
- Mình muốn em từ thuở ngọt ngào Một thời ngô nõn lúa xanh xao Có hôm em đứt diều nghiêng phận Mình nối dây điều xoắn khát khao [Nỗi đẹp xa xôi, 6, tr.393] Đọc thơ ông, nhiều lúc ta có cảm giác: “Có một cái gì đó thật khó chịu, bị bó buộc, bị nhấn chìm, bị đè ngang trong câu chữ, cố thoát lên nhưng không sao thoát được, cứ nghẹn ngào, u uất, tức tưởi” [151, tr.285]. Căn nguyên tạo nên cảm giác ấy chính là nỗi ẩn ức của khối tình không được đáp lại, của nỗi thất tình. Tình cảm này ta đã thấy trong thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu hay Hàn Mặc Tử nhưng ở Hoàng Cầm lại là một lẽ riêng. Suốt đời mỉnh, Hoàng Cầm đã sống, đã yêu, hạnh phúc và đau khổ có thể nói đã đi đến tận cùng nhưng rốt cuộc, vẫn chưa thoát ra khỏi những phong trần lận đận của nỗi nghẹn ngào đó. Chính đặc điểm này làm nên điệu thơ riêng của Hoàng Cầm, một điệu thơ đặc biệt, khó lẫn với bất kỳ ai. Chu Văn Sơn nhận xét về điệu thơ ấy: “Có cảm giác điệu thơ Hoàng Cầm như con hạc đầu đình muốn bay không cất nổi mình mà bay, nó là những sải cánh, đập cánh chới với, chơi vơi” [151, tr.289].
Và phải đâu chính cảm giác cô đơn, mặc cảm ấy mà Hoàng Cầm cố thu mình, cố lặn sâu vào bản thể của mình trước cuộc sống bộn bề phức tạp. Tình yêu vốn là kết quả của một quá trình dồn nén, khát khao. Nó trở thành nỗi ám ảnh vừa rất thực vừa mang màu sắc mộng mơ trong thơ Hoàng Cầm:
Anh mê em không bao giờ có Có bao giờ em nở tròn đêm Biết ai vẽ nổi hư huyền Cho anh ôm chặt mấy miền tịnh không [Mê không em, 12, tr.160] Nó vừa gần gũi vừa như tiếng vọng từ nơi xa xôi nhuốm màu huyền sử:
Kiếp hướng dương sầu xế hướng tây Quẩn quanh hồn đọng cóng lòng tay Đường tim em vấp nhiều thiên thạch Heo hút dài theo ngọn gió may [Tương biệt hành, 12, tr.143] Vì thế, đọc thơ ông, người đọc nhận ra “Còn một cái bóng khác đang lặn lội tìm về quá khứ, điềm tĩnh hơn, trầm lắng hơn, sâu sắc hơn nhưng lại là tiếng lòng
riêng muốn giải tỏa những ẩn ức kiểu Men đá vàng: lớp men tráng lên những đau thương của cuộc đời tan vỡ” [151, tr.16].
Chính tâm trạng bơ vơ, cô đơn ấy tạo nên độ sâu lắng của thơ tình Hoàng Cầm. Đọc thơ ông, nếu chỉ cố tìm hiểu những ý nghĩa từ bề mặt câu chữ hẳn khó có được sự đồng cảm thực sự với nhà thơ. Phải có sự lắng nghe bằng cả tâm hồn mớ mong hiểu và cảm được sâu sắc tình ý sâu kín ccủa thơ ông.Viết về tình yêu, Hoàng Cầm thương viết về những tan vỡ. Và tình cảm chủ yếu trong thơ tình của ông chính là nỗi nhớ thương, tiếc nuối. Nỗi nhớ, niềm thương, tâm tư ấy cứ mãi theo ông cho đến hết đời.
Nhưng, dù rất cô đơn, rất buồn bã, tình yêu trong trái tim ấy vẫn nồng nàn,
vẫn tuôn trào nguồn sống:
Nguồn sống tuôn thơm nhựa ứ đầy Một chiều hoảng sợ mấy chiều say Đã phanh yếm mỏng thì quăng hết Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây [Hội yếm bay, 6, tr.292] Là bởi nhà thơ ấy cố nén tình cảm, cảm xúc của mình vào lòng và vào mỗi dòng thơ. Thấu hiểu điều này mà Phạm Thị Hoài đã viết: “Ở Hoàng Cầm, trí thông minh không được huy động để đối phó với những nỗi buồn. Bản năng cũng được kìm nén. Chỉ êm dịu một lẽ chấp nhận thoáng chút xót xa. Thế giới ấy khó chia sẻ” [151, tr.254].
Tình yêu đẹp là mối tình thủy chung, son sắt, trọn vẹn, là sự gắn bó suốt đời trong niềm hạnh phúc. Thơ Hoàng Cầm dẫu vui ít buồn nhiều, dẫu nước mắt, đau khổ nhiều hơn niềm hạnh phúc đoàn viên nhưng trong mọi sắc thái, ta nhận ra niềm khát khao, mơ ước, cố gắng hướng đến tình yêu đẹp, sự viên mãn trong hạnh phúc. Đó là một tình cảm nhân bản, một nét đẹp đáng trân trọng trongthơ Hoàng Cầm. niềm hạnh phúc dù có mong manh, tâm thức tình yêu với những xúc cảm trong hồn ông, một mạch riệng xúc động và sâu sắc ân tình, vẫn đủ sức chiếm trọn tâm tư người đọc. Đọc thơ tình Hoàng Cầm, ta tưởng như đang nghe tiếng lòng của chính mình. Từ đó mà thấy yêu thơ ông, và thương cho con người ấy, nhân cách ấy.
Tình yêu mê say, mãnh liệt khiến cậu bé ấy dẫu biết không thể vượt qua ranh giới tình Chị - Em cũng như không thể thay đổi sự thật: người chị hơn mình tám tuổi nhưng vẫn thiết tha hy vọng:
Chị gọi đôi cây trầu cay má đỏ Kết xe hồng đưa Chị đến quê Em Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm Em đừng lớn nữa Chị đừng đi [Cây tam Cúc, 6, tr.149] Chị đánh tam cúc, em thì mơ mãi chuyện lứa đôi. Để có được niềm hạnh phúc dù chỉ là chóng vánh thoảng qua ấy, dù chỉ là phù du ấy, Em sẵn sàng đánh đổi, hy sinh tất cả: Rút trộm rơm nhà đi trải ổ - Đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em.
Hình ảnh Chị lúc nhạt nhòa mong manh như ảo ảnh, lúc hiện hình qua những cây, lá, hoa, trong cơn mưa, làn gió, trong sương lạnh. Nhà thơ tâm sự: “Tôi vốn bị thần si tình chắp cho đôi cánh quá sớm… Lên tám tuổi tôi đã ngẩn ngơ đắm đuối bước vào ngưỡng cửa của tình yêu” [151, tr261]. Cho nên, chỉ một lần gặp gỡ với chị Vinh, người con gái đẹp có đôi mắt đen láy, sâu thẳm, miệng cười ngây ngất, răng đen rưng rức hạt na, cậu bé tám tuổi Hoàng Cầm đã đem lòng si ngây, say mê và nhớ nhung mãi đến cả một đời. Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc…, đã ra đời từ trái tim yêu sáng trong đầy mộng mơ ấy.
Người Chị ấy chẳng biết tự lúc nào đã thành thế giới mê say trong hồn em. Ngồi trong ổ rơm ấm, bên cạnh người Chị yêu, trong em dậy lên niềm khát khao trong trẻo thời niên thiếu, niềm mong muốn thật dễ thương mà ngớ ngẩn đến tội nghiệp: muốn cuộc đời thật nhưng đọng trong cái ngọt ngào thơ trẻ của canh bạc trẻ con. Những cây tam cúc xòe nở trên tay Chị đẹp như những nan quạt hồng của của niềm luyến ái thơ dại ấp ủ trong em. Tình cảm ấy cơ hồ chỉ một mình mình biết, một mình mình hay nhưng với Em, đẹp và ý nghĩa hơn mọi thứ trên đời. Vì thế mà mãi về già, mỗi khi nhớ lai, cảm giác ngậm ngùi, nghèn nghẹn cũng vẫn còn nguyên trong lòng. Nhà thơ đã ký thác mối tình nghẹn của mỉnh vào từng chữ, từng câu trong ý thơ.
Tình yêu thật đẹp, dẫu vui ít buồn nhiều. Niềm hạnh phúc được gặp gỡ, được yêu, được nhớ, được đau khổ và buồn sầu với tình yêu ấy dường như mang đến nguồn vui sống trọn đời cho nhà thơ. Thiết nghĩ, nếu thời gian có quay trở lại để được sống lại một lần nữa trong đời, hẳn người thi sĩ ấy cũng sẽ lại sống như thế mà chẳng khác đi bao giờ. Gửi được tình cảm vào thơ đã khó, tiết chế tình cảm của mình, nén chìm tính biểu cảm vào câu chữ để nỗi nghẹn ngào chìm trong câu chữ đặng ký thác trọn vẹn tâm tư của mình quả là không đơn giản.
Tình yêu trong thơ Hoàng Cầm là tình yêu mang màu Quan họ: một thứ tình yêu giàu chất nhân bản và hết sức lý tưởng. Tình yêu ấy góp phần tạo nên nét đẹp của thi giới Hoàng Cầm. Tình yêu ấy, những bài thơ ấy được viết bằng sự rung động mãnh liệt của một hồn thơ đầy mê đắm, là sự thăng hoa của những khát vọng về cái đẹp. Chính nhờ đó mà bao từ thô lậu, đời thường như: yếm, giải yếm, váy, áo… được nói đến trong thơ ông lại trở nên đẹp lung linh, đầy gợi cảm:
Những dòng thơ trong Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc mang vẻ đẹp thánh thiện của tình yêu đầu trong trẻo, vừa đem lại cho người đọc cảm xúc bâng khuâng, thú vị, vừa khơi sâu miền trắc ẩn trong lòng họ. Quả Vườn Ổi chứa đựng một triết lý sâu sắc mà càng đọc ta càng thấm thía:
Em mười hai tuổi tìm theo Chị Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa Đi… Ngày tháng lụi tìm không thấy Giải yếm lòng trai mãi phất cờ (…) Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng [Quả vườn ổi, 6, tr.151] Lời thơ giản dị mà thật thâm thúy, sâu xa. Ý thơ khẳng định tình yêu đích thực sẽ vượt qua năm thàng và không gian, qua những thăng trầm của số phận để đi dến tận cùng hạnh phúc. Trên con đường ấy, dẫu có lúc cũng buồn đau, đắng xót, đau khổ và tuyệt vọng nhưng rốt cuộc tình yêu vẫn còn, bởi khát vọng về tình yêu là mãi mãi. Bài thơ theo đó mang ý nghĩa nhân văn cao cả, làm cháy sáng trong hồn mỗi chúng ta niềm ước vọng thiết tha niềm hạnh phúc. Nhiều người yêu thơ ông cũng bởi vẻ đẹp của nét hồn nhiên và sự trắc ẩn ấy.
Miêu tả những rung động, những khát khao yêu đương trong lòng những chàng trai, cô gái Kinh Bắc, Hoàng Cầm mang lại nỗi bâng khuâng, xao xuyến trong lòng người đọc. Những mối tình nảy sinh ở chốn làng quê ấy như lắng đọng với thời gian và gợi những bồi hồi, rung cảm với cuộc đời hôm nay.
Thơ Hoàng cầm, ranh giới thực và mơ, hiện tại và ảo ảnh mong manh, nhạt nhòa, khó xác định. Hoàng Cầm mơ trong lúc ngủ và cả khi rất tỉnh táo. Khi cõi mơ từ tiềm thức tràn về, thi nhân để mặc tâm hồn mình chơi vơi trên dòng sông cảm xúc, ý thơ cứ thế chảy tràn:
Hỡi em khua guốc ưu phiền Chìm trong mặt đá nét hiền dáng quê Trăng đêm qua chẳng nhớ về Áo mong manh cởi chiều mê mải sầu Em đi chân lạnh từ đâu Chắt chiu quấn lụa càng đau ruột tằm [Đi bên em, 6, tr.216] Có lúc hồn thơ ấy lặng chìm hẳn vào giấc mơ để mặc tiềm thức vọng về lời
thổn thức:
Vốn biết em về ao bèo nhìn theo tăm cá Tìm hỏi người xưa trong xóm xác xơ vàng Em sa lầy vào một chuyến đò ngang Mấp mé nước vẫn bồng bênh duyên phận [Cầu Ghênh xanh, 6, tr.434] Có lúc lại chập chờn giữa mê và thực, không và có:
Đêm nào em cũng sao sa Đêm nào sao cũng vỡ òa trong anh Nhẹ thôi em! Nỗi riêng mình Nặng lòng anh nỗi song hành… rơi chung [Ánh sao sa, 6, tr.403] Thơ tình Hoàng Cầm đã vượt khỏi giới hạn tình yêu trai gái, thông thường để vươn tới vẻ đẹp cao quý hơn của tình người và cuộc sống. Chính vì thế, đọc thơ ông, Ngô Thảo nhận xét: “Để làm ra vị ngọt, cây mía cần có 6 tháng. Nhưng để tận cùng đắng với vị thuốc Hoàng Cầm – mà ông tự nguyện hóa thân – cần cả đến trăm năm… Kẻ tầm thường tìm thấy ở tình khúc Hoàng Cầm những cung bậc khác nhau của tình yêu trai gái. Người đọc rộng rãi yêu, kính ông bởi đằng sau những câu chữ ấy là một tình yêu lớn rộng, đằm sâu với quê hương, nguồn cội, với lý tuởng về cái đẹp của cuộc đời trần thế” [66, tr.71-72].
Hình ảnh cô đọng nhất sắc màu tình yêu trong thơ Hoàng Cầm là chiếc Lá – Lá Diêu Bông – cái lá định mệnh, cái lá của niềm hy vọng và tuyệt vọng. Đây là một hình tượng đẹp - cái đẹp của tình đời, tình người với ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Nó là biểu tượng của cái đẹp lý tưởng mà con người suốt đời khát khao tìm kiếm, hướng tới.
Không phải cho đến bây giờ, trong thơ Hoàng Cầm mới có những câu thơ
mang màu dục tính như thế. Trước đó, trong ca dao, người ta đã nói nhiều:
Ước gì sông rộng một gang Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi Hay:
Mấy cô yếm thắm bỏ bùa cho sư… Váy, yếm vốn tượng trưng cho cái đẹp, cho sức trẻ và tình yêu, là niềm xúc cảm thẩm mỹ trong sáng tạo nghệ thuật. Hình ảnh ấy hiện lên trong thơ Hoàng Cầm không còn vẻ trần tục mà bồng bềnh gợi cảm:
- Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng… [Lá Diêu Bông, 6, tr.150]
- Xuân hương thương xuân chồi yếm mỏng Phập phồng biển động sóng nao lòng Hai đường nhật nguyệt tròn nông nỗi Rưng rức vòm sao rẽ lối cong [Tương biệt hành, 6, tr.295] Tính dục trong thơ ông kì thực là giấc mơ về tình yêu, là sự thăng hoa của một hồn thơ nhạy cảm và nhiều khát vọng, là niềm u uẩn của những dồn nén. Thơ tình Hoàng Cầm không hướng đến những khoái cảm nhục dục tầm thường. Tiếng thơ ấy thực chất là những trải nhiệm của cuộc đời. Tình yêu một thời tuổi mộng trong thơ ông dồn nén, đầy ẩn ức. Trong mơ hồ mộng mị, nó thoát ra khắc khoải, đớn đau. Cần phân biệt những dục vọng trong tình yêu và chủ nghĩa khoái lạc. Yếu tố dục tính xuất hiện trong thơ Hoàng cầm như một tất yếu trên con đường đi tới cái đẹp. Phân tích quá trình ấy, có thể nhận ra, đó là sự rung động mãnh liệt của một hồn thơ đầy mê đắm, sự thăng hoa của những khát vọng về cái đẹp.
Tiểu kết: Tình cảm vốn thiên hình vạn trạng: có cái tình say đắm, có cái tình thoảng qua trong phút giây, có cái tình ảo mộng, lại có cái tình ngàn thu... Thơ Hoàng Cầm hội đủ những cung điệu ấy, những sắc thái tình cảm ấy.
Ở Hoàng Cầm, tình yêu quê hương xứ sở, tình yêu Kinh Bắc vốn đã ngấm vào máu thịt thi nhân từ thưở còn ấu thơ. Thơ Hoàng Cầm theo đó là dòng sông cảm xúc chảy giữa nguồn mạch Kinh Bắc, là men say nồng nàn của đất trời Kinh Bắc huyền thoại và ảo ảnh. Tác phẩm của ông “dìu chúng ta qua những chùa chiền, lăng miếu, những cầu, những bến, những cây lá, hội hè, qua những cặp mắt đa tình
của những người gái xứ quê” [151, tr.227]. Từ đó, người đọc nhận ra một Kinh Bắc huê tình, đa chiều, lộng lẫy, một Kinh Bắc cội nguồn được nâng lên tầm cao thẩm mỹ bằng lòng tự hào và tình yêu quê hương cháy bỏng, nồng nàn. Nếu xem thơ Hoàng Cầm là niềm u hoài, là tiếng vọng từ một vùng quê của một thời vang bóng, chúng ta sẽ có được nhiều bài thơ hay, giữ lại và truyền đi những tình hay, ý đẹp về quê hương, đất nước.
Tình yêu lứa đôi làm nên mảng thơ độc đáo nhất của đời thơ Hoàng Cầm, giúp ông trở thành một trong những nhà thơ tình lớn của văn học Việt Nam, giành được một chỗ đứng vinh quang bên cạnh các tên tuổi nguyễn Bính, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh… Nếu thơ Nguyễn Bính là tiếng nói đậm chất dân dã, chân quê, thơ Xuân Diệu mang cái sôi nổi, vồ vập, mãnh liệt thì ở Hoàng Cầm, thơ tình vừa huyền hồ, hư ảo, vừa đằm thắm, dịu dàng, lắng sâu. Tình yêu trong thơ Hoàng Cầm cũng mang cái hồn mê đắm của sắc màu lãng mạn song tình yêu ấy còn là những trải nghiệm của cuộc đời. Tình yêu ấy gần như được dồn nén, thoát ra trong đau đớn, vật vã, một cách mơ hồ. Nó được thăng hoa trên mảnh đất diệu kỳ, bởi hồn thơ lung linh ngời sáng.
Chương 3 HÌNH ẢNH – NHẠC ĐIỆU TRONG THƠ HOÀNG CẦM
Khác với ngôn ngữ giao tiếp thường nhật, ngôn ngữ thơ, theo quy luật rất riêng của nó, qua tài nghệ điêu luyện của người nghệ sỹ ngôn từ, hệ thống ngôn ngữ được lựa chọn rất công phu, được nhào nặn, chỉnh sửa, sắp xếp một cách có tổ chức và đầy dụng ý. Đó là hình thức ngôn ngữ mang chức năng thi ca, tính văn học theo Roman Jakobson, một thứ ngôn từ nghệ thuật in đậm cá tính sáng tạo của nhà thơ. Đó luôn luôn phải là lớp ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc, đa âm, đa nghĩa, có vần – nhịp, niêm – luật, có trọng âm, trường độ, có tiết tấu… Vượt lên trên những giới hạn của ngôn ngữ giao tiếp thường nhật, ngôn ngữ thơ chuyển tải những điều mà thứ ngôn ngữ hàng ngày, văn xuôi, không thể hiện được, không với tới được. Và đặc biệt hơn thế, nó khiến người tiếp nhận “phải nhớ, phải cảm xúc, và phải suy nghĩ về chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này” [94, tr.18].
Quả vậy, văn học thực chất là một hoạt động sáng tạo – sự sáng tạo làm nên cái hay, tính độc đáo, sự hấp dẫn kỳ lạ mà chỉ văn học mới có được. Và nếu không có điều ấy, tính văn học, tác phẩm văn chương sẽ không còn và người cầm bút xem như đã làm một công việc vô ích. Sáng tạo ở đây chính là sáng tạo nên một hệ thống ngôn từ mang tính nghệ thuật, sáng tạo nên một hình thức ngôn ngữ với một thủ pháp nghệ thuật in dấu ấn phong cách của người sáng tác. Muốn vậy, ngoài yếu tố tài năng, năng khiếu nghệ thuật, người nghệ sỹ cần thiết phải có một sự trải nghiệm nhất định về đời, về nghề, phải có lòng yêu cuộc sống, sự tâm huyết, niềm đam mê nghệ thuật, và cả lòng chân thành nữa. Để cho, sự giao tiếp trong văn học – một sự giao tiếp đặc biệt – diễn ra đúng nghĩa của nó. Nếu trong văn xuôi, tức trong giao tiếp hằng ngày, người bình thường trượt qua ngôn ngữ, bỏ qua cái biểu đạt để hướng đến nắm bắt cái được biểu đạt phía sau; thì trong văn học, cả người sáng tạo và người thưởng thức đều dừng lại một cách có chủ ý ở yếu tố hình thức. Người sáng tạo lựa chọn, trau chuốt, tỉa tót, gọt giũa; người thưởng thức soi ngắm, ngẫm nghĩ, bình giá, nhận định. Suy cho cùng, có thể nói: Văn học không phải là tấm gương soi chiếu hai lần vào hiện thực và tác phẩm. Người nghệ sĩ, trong ý đồ nghệ thuật của mình, ngay từ đầu, anh ta đã cố tình kiến tạo nên trong tác phẩm một nên một thế giới khác – thế giới hình tượng, thế giới của cảm xúc, thế giới bên trong của tác giả.
Ngôn ngữ thơ - ngôn ngữ nghệ thuật – mang trong nó cái thẩm mỹ, cái đẹp gợi cảm về nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ quy tụ trong nó những yếu tố của cái đẹp – hài hòa, gợi cảm, giàu hình ảnh, màu sắc, âm thanh. Thơ là ngôn ngữ đặc thù, ở đó tính nhạc tác động vào người đọc, người nghe bằng những dao động của âm thanh, tạo nên những cảm hứng lâng lâng khó tả. Yếu tố âm nhạc toát ra từ vần, điệu, từ câu từ, ý tứ… tạo ra một mạch âm hưởng, gây ra nơi người đọc một niềm xúc động với những rung cảm âm nhạc đặc biệt khi sâu lắng, dịu dàng, êm ái, khi sôi nổi, mãnh liệt, dồn dập, dâng trào.
Có những câu thơ đẹp vẻ đẹp mộc mạc, giản dị, lại có những câu sáng lên qua sự gọt giũa, tô điểm của những người thợ thiên tài. Dù ở hình thức nào, ngôn ngữ Việt cũng rất dồi dào tình cảm, phong phú hình ảnh, màu sắc, âm điệu. Nhiều câu thơ vừa là họa vừa là nhạc. Ví như: Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo hay Cỏ non xanh rợn chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Nguyễn Du, Truyện Kiều).
Tiếng Việt giàu và đẹp bởi nó là tiếng nói của quần chúng nhân dân, chất chứa tình cảm, giàu hình ảnh, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và lại đầy ý nghĩa. Ngôn ngữ ấy còn là ngôn ngữ của văn học, văn nghệ được những nhà văn, nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… nâng lên trình độ cao về nghệ thuật, khiến nó trở nên trong sáng, đẹp đẽ lạ thường. Làm nên vẻ đẹp kỳ diệu vô ngần của Tiếng Việt, bên cạnh nét bản sắc đầy giá trị, chất tinh hoa lung linh vi diệu, phải kể đến sự đóng góp vô cùng quý báu của biết bao công sức dồi mài qua nhiều thế hệ.
Nói về sự đẹp đẽ, sáng trong, giàu sang, sự tinh vi linh diệu của ngôn ngữ Việt, lẽ cố nhiên, mỗi chúng ta đều thấy, hiểu và biết ơn khôn cùng đối với những con người đã bằng máu huyết, xương tủy, sự tâm huyết nghìn đời mà kết dệt nên. Hòa trong những thanh âm, từ điệu tưởng như trơn tru, êm ái, dịu ngọt ấy là lịch sử đời đời từ thuở ông bà tiên tổ khai rừng, vỡ ruộng, dựng nước, chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương đất tổ; là những đau thương bất tận, những hy sinh mất mát vô bờ của biết bao thế hệ cha anh bằng thân mình mài dựng nên non sông gấm vóc.
“Lời thơ tạo nên nhạc, vẽ ra hình. Đằng sau hình và nhạc là tình và ý. Ý – tình – hình – nhạc là bốn yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc văn bản ngôn từ và văn bản hình tượng thơ” [98, tr.16]. Nếu thơ cổ điển lấy ý là điểm tựa là cơ sở xây dựng, phát triển văn bản nghệ thuật. Nó tạo nên logic ngữ nghĩa của tác phẩm và vì thế, nó chi phối cách gợi tả của hình tượng, thì thơ lãng mạn lấy cảnh làm điểm tựa cấu trúc. Tự nó biểu hiện tư tưởng, tình cảm, cái tôi tính tình của nhà thơ. Bài thơ hay
bởi sự độc đáo của tứ thơ, bởi có những hình tượng đẹp với hệ thống ngôn ngữ điêu luyện, khả năng liên tưởng phong phú, nhịp điệu mới mẻ và bởi được viết ra bằng tình cảm chân thành, bằng trái tim yêu thơ và yêu cuộc sống cuồng nhiệt của nhà thơ.
3.1. Hình ảnh trong thơ Hoàng Cầm 3.1.1. Hình ảnh thơ Cuộc sống vốn muôn màu, phức tạp, luôn vận động, biến đổi. Cuộc sống trong tác phẩm văn học là hình ảnh của thế giới bên ngoài thông qua cái nhìn, sự sáng tạo của nhà văn. Trước cuộc sống, mỗi nhà văn bằng sự trải nghiệm của cá nhân mình, luôn phải suy ngẫm, trăn trở để tìm ra con đường nghệ thuật cho riêng mình. Tác phẩm văn học phản ánh hiện thực, nó là bức tranh đời sống, về nhiều mặt. Nhưng sự phản ánh trong văn học là sự phản ánh sáng tạo, phản ánh thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ.
Nghệ thuật là tiếng nói tình cảm tư tưởng của con người, dựa trên nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Có biết bao nhiêu cách để người nghệ sĩ nói với đời. Người ta có thể bộc lộ cảm xúc, niềm suy tư của mình qua những câu ca, điệu hát hoặc qua những câu văn, dòng thơ. Trong văn học, nhà văn có thể trực tiếp phát biểu tư tưởng, tình cảm của mình qua những bài chính luận song nơi thể hiện độc đáo nhất tâm tư, tài nghệ của họ chính là hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật mà nhà văn công phu, tâm huyết nhào lặn lên không phải chỉ mang bóng dáng của hình ảnh đời sống mà còn chứa đựng quan niệm và những nghĩ suy của nhà văn về nó. Theo Lê Ngọc Trà: “Đó là sự tổng hợp của khách quan và chủ quan, của cái được phản ánh và cái được biểu hiện, của cuộc sống và nghệ thuật. Không chú ý tới tiếng nói của con người, của tác giả đằng sau những hình ảnh ấy sẽ dẫn đến việc hiểu tác phẩm một cách nông cạn, chỉ thấy được cái lớp nội dung trực tiếp, nội dung bên ngoài của tác phẩm, và từ đó mà sẽ từ chối những hình thức đa dạng của nghệ thuật cho phép phá vỡ hình dáng và tỷ lệ bề ngoài của sự vật, từ chối các thủ pháp ước lệ, khuếch đại, tượng trưng” [140, tr.17-18].S
Khái niệm hình tượng vốn đã hình thành từ rất lâu. Trong kinh Thư, một bộ sách có từ thời cổ đại Trung Quốc, có chỗ đã viết: “Thẩm sơ mộng chi nhân, khắc kỳ hình tượng, dĩ tứ phương bàng cứu chi ư dân gian” [14, tr.97]. Hình tượng theo đó được dùng để chỉ hình ảnh, dung mạo một người nào đó. Trong bộ sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, hình tượng được dùng chủ yếu như là khái niệm về địa lý và thiên văn học, nói đến sự hiện hình có thể quan sát được của những sự vật hay
bản chất trừu tượng đó. Trong lý luận văn học, bàn về hình tượng, bản chất của văn học, Phan Kế Bính cho rằng: “Văn chương tức là một bức tranh vẽ cái cảnh tượng của tạo hóa cùng là tính tình và tư tưởng của loài người bằng nhời nói vậy” [14, tr.98]. Và Hải Triều – nhà lý luận theo quan điểm Mác – Lênin thì viết: “Nghệ thuật là một cái sản vật của sự sinh hoạt xã hội (…). Những trạng thái sinh hoạt giữa xã hội phản chiếu trong tâm trí người ta, sinh vui, sinh buồn (…). Nghệ thuật sắp đặt những tình cảm ấy cho có hệ thống rồi diễn ra thành những hình ảnh thiết thực, hoặc bằng lời nói hoặc bằng câu văn, bằng âm điệu, bằng vận động…” [14, tr.98- 99]. Về sau, nhà lý luận Đặng Thai Mai luận giải về khái niệm này: “Một áng văn giá trị bao giờ cũng đầy đủ lực lượng những hình tượng cụ thể, chứa chan những khí sắc sinh hoạt, những tâm tình của tính người thì mới có thể cảm động người đọc” [14, tr.99]. Càng về sau thuật ngữ hình tượng càng được dùng phổ biến và trở thành phạm trù trung tâm trong lý luận khi bàn về đặc trưng của văn học nghệ thuật. Hình tượng văn học là một phương thức tái tạo một đối tượng nào đó bằng phương tiện ngôn ngữ, dưới một dạng tổng hợp tương đồng với đối tượng, có thể giúp cho người ta hình dung lại đối tượng đó một cách cụ thể, bằng cảm tính trực tiếp. Trong tiếng Nga và tiếng Pháp, khái niệm hình tượng đều có nghĩa gốc là hình ảnh. Trong lý luận mỹ học Phương Đông, người ta thường nói: “Thi trung hữu họa”, “Tức cảnh sinh tình”… Họa và Cảnh được nói đến ở đây chính là hình ảnh của đời sống. Lẽ đương nhiên, đó không phải là sự sao chép nguyên xi những hiện tượng của đời sống bởi khi đi vào tác phẩm, chúng biểu hiện cảm xúc, tình cảm, quan niệm thẩm mỹ nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Cuộc sống được tái hiện lại bằng những bức tranh sinh động, những hình ảnh độc đáo khiến cho ta khi thưởng thức, cảm thấy dường như là đang chứng kiến cảnh đời thực vậy.
Ngôn ngữ văn học như một phương tiện thể hiện màu nhiệm, có khả năng chuyên chở hình tượng văn học xuyên qua không gian và thời gian, đi vào tâm hồn người đọc. Hình tượng trong các ngành nghệ thuật khác, có khả năng truyền cảm một cách trực tiếp đến các giác quan của người thưởng thức. Hình tượng trong tác phẩm văn học không trực tiếp được nhìn thấy hay nghe thấy mà chỉ được tái hiện trong trí tưởng tượng của người đọc sau khi chiếm lĩnh tác phẩm. Hình tượng văn học khi được tái hiện lại trong tâm trí người tiếp nhận có khả năng rung động mọi giác quan của con người.
Để sáng tạo hình tượng, nhà văn phải huy động vốn sống, ký ức về các hiện tượng đời sống, các biểu tượng. Muốn vậy, người viết phải có khả năng thâm nhập
thật sâu đời sống xã hội và thế giới tâm hồn con người. Thiếu năng lực này, người nghệ sĩ không thể tạo được một hình thức có sự sống, tức một hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh và tác phẩm cũng không hình thành. Đó là một năng lực tổng hợp: lựa chọn đề tài, sáng tạo hình ảnh, lựa chọn chi tiết, tổ chức, kết cấu, điều chỉnh giọng điệu, sàng lọc ngôn từ, phối hợp màu sắc… để tạo nên bức tranh văn học. Về phương diện này, Hêghen nói: “Năng lực cấu tạo nên hình tượng của nhà nghệ sĩ không chỉ là một năng lực tưởng tượng hư cấu, cảm giác có tính nhận thức, mà còn là một năng lực cảm giác thực tiễn, tức là năng lực tạo thành tác phẩm trong thực tế. Hai phương diện này đã kết hợp nhuần nhuyễn ở nhà nghệ sĩ đích thực” [Dẫn theo 51, tr.363].
Nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp - đẹp trong nội dung tư tưởng và trong hình thức có ý vị. Vì thế, việc trau dồi, rèn luyện năng lực biểu hiện là một yêu cầu không thể thiếu đối với người nghệ sĩ, một phương diện thể hiện tài năng của họ. Theo M.Gorki, người nghệ sĩ ngôn từ “Cần học cách thể hiện có hình khối, có góc cạnh với những hình tượng” [Dẫn theo 113, tr.135].
Hình tượng trong văn học được tạo dựng bằng chất liệu ngôn từ và các chi tiết nghệ thuật. Hình tượng văn học “không chỉ mang đến cho người đọc khoái cảm trước vẻ đẹp đời sống mà còn gợi dậy những khoái cảm trước vẻ đẹp của chất liệu, vẻ đẹp của các phương thức, phương tiện nghệ thuật tổ chức các chất liệu ấy” [113, tr.204]. Rõ ràng, hình tượng trong tác phẩm văn học không phải là phép cộng giản đơn của những câu chữ và các chi tiết. Bằng khả năng đặc biệt, nhà văn giải phóng hình tượng của mình ra khỏi lối diễn đạt thông thường của chữ nghĩa để tạo lên một hình tượng chỉnh thể, mang trong nó ý nghĩa vượt ngoài khung ngôn từ. Trong sự thống nhất cao độ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật, hình tượng mang lại khoái cảm thẩm mỹ cho người đọc, lay động thật sâu tâm hồn, tình cảm của họ.
Mọi hình tượng văn học đều là sản phẩm sáng tạo của sự tưởng tượng, hư cấu của nhà văn, nhà thơ. Trong thế giới ấy, thế giới nghệ thuật theo những quy luật rất riêng, chúng vừa là hình ảnh của hiện thực cuộc sống vừa gói trong đó ước mơ, khát vọng của nhà văn về cuộc đời, về con người. Tác phẩm văn học là nơi người nghệ sĩ ngôn từ bộc bày tất cả tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước mơ của mình, nơi anh ta được tự do tưởng tượng và hư cấu, tự do lựa chọn ngôn từ, lựa chọn các phương thức, phương tiện nghệ thuật, tự do nhào nặn chất liệu đời sống…để vừa nhận thức khám phá hiện thực, vừa thể hiện ước mơ lý tưởng của mình. Thông qua thế giới hình tượng, người ta nhận ra tài năng và sức sáng tạo kỳ diệu của nhà văn.
Hình tượng văn học vốn là hiện tượng tinh thần. Trước vẻ đẹp của nó, tim ta thấy rung động, xốn xang, lòng dâng lên những cảm xúc. Những giây phút sống với tác phẩm văn học là lúc tâm hồn ta thấy trong sáng vô ngần, ta như quên đi sự hiện diện của chính mình mà chỉ thấy vui sướng hay đau khổ cho số phận con người, cho vận mệnh quê hương. Iu. Bôvev, nhà mỹ học người Nga thật có lý khi nói rằng: “Sẽ rất thiếu sót và sai lầm nếu không nhận ra nghệ thuật đã sử dụng hình thức trò diễn đầy tính ước lệ, hết sức vô tư, không gắn với bất kì một mục đích vụ lợi trực tiếp nào để mô hình hóa tất cả các yếu tố cơ bản trong hoạt động của con người” [Dẫn theo 113, tr.206]. Thế giới hình tượng trong văn học theo đó đem đến cho người đọc cảm giác như đang đi trên đường bỗng lạc vào một khu rừng hay một cánh đồng đầy hoa, được ngửi thấy hương thơm của cỏ hoa, được nghe gió mát và tận hưởng không khí trong lành.
Hình tượng văn học giúp ta nhận thức được các giá trị tinh thần kết tinh trong thế giới đối tượng, từ đó khơi gợi khả năng nhận thức thế giới khách quan đa chiều và đặc biệt là quá trình tự nhận thức về bản thân mình. Một nhà văn có tài luôn biết cách để đưa khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm vào bản thân hình tượng để không biến hình tượng thành một kẻ phát ngôn vụng về, thậm chí thô thiển cho tư tưởng tình cảm của mình. Đọc những tác phẩm ấy, ta như được tiếp xúc với cuộc đời và những con người thực, những cảm xúc, nỗi niềm trong ta theo đó trỗi dậy một cách tự nhiên, mạnh mẽ, không ngăn được. Hình tượng nghệ thuật rõ ràng không chỉ gợi lên sự đồng cảm mà còn có khả năng cuốn hút sự quan tâm, yêu thích của ta vào đối tượng, vào điều được nhà văn đề cập đến. Rộng ra, có thế khẳng định hình tượng văn học là tấm gương để con người tự soi mình tự nhìn nhận, phán xét về người khác và về chính bản thân mình.
Theo Bùi Công Hùng, việc xây dựng hình tượng của nhà thơ không tách rời với việc cấu tạo tứ thơ, nó đi song song hoặc có khi đi trước nhưng chỉ trở nên hoàn chỉnh khi đã có một tứ thơ. Nghĩa là từ một hình ảnh ban đầu, nhà thơ xác lập một tứ thơ, rồi từ đó anh ta dựng lên một hình tượng hoàn chỉnh. Khác với hình tượng trong văn xuôi thường gắn với những chi tiết phức tạp, bề bộn, trong thơ, hình tượng gắn với những chi tiết được lựa chọn kỹ lưỡng, nhằm làm xúc động tâm hồn người đọc, khơi mạnh vào cảm xúc, vào tư duy người đọc và nổi rõ chủ đề bài thơ, tứ thơ.
Hình tượng trong thơ, về góc độ và chừng mực nào đó có những điểm tương đồng với hội họa. Người nghệ sĩ ngôn từ do đó cũng chỉ chú ý đến việc tạo đường
nét, hình dáng, màu sắc, tạo sự hài hòa, cân đối cho bức tranh thơ của mình. Nói đến hình tượng là nói đến quan hệ giữa ẩn dụ, so sánh và hình ảnh. Đọc những câu thơ trong Mặt Sông của Thanh Tùng, ta nhận ra điều đó: Mặt sông của tôi- Như tấm lưng người khuân vác- Những con sóng- Cuộn vòng gân bắp. Về quê mẹ của Vân Đài cũng thể hiện tố chất ấy: Gánh thóc em về xóm giếng ra - Đường mai nón lá trắngmàu hoa - Đôi bên bờ ruộng ngô xanh bắp - Một bến đâu sông nụ tím cà…
Để xây dựng hình tượng người nghệ sĩ cần thiết phải tuân thủ nguyên tắc về sự cân đối. Theo Tagore, trước hết đó là sự cách biệt giữa những hình thức, tiếp đến là những tỉ lệ - tức mối quan hệ giữa các hình thức, nguyên tắc về sự cân đối. Ngôn ngữ thơ vốn cô đọng, xúc tích. Hình tượng thơ theo đó cũng cô đọng, xúc tích. Phải đảm bảo sự cân đối trong việc tạo dựng hình tượng, để cho, bằng dung lượng từ ngữ ít nhất, miêu tả được một cách hay nhất những cảnh, sự, tình, ý. Chính sự cân đối hài hòa ấy đem lại cho thơ nét đặc trưng riêng, sự độc đáo, nói ít gợi nhiều, tả ít liên tưởng nhiều. Hiện tượng thơ cũng từ đó mà giàu tính tưởng tưởng. Có những bài thơ nhiều khi đọng lại trong lòng độc giả chỉ là một câu thơ, một hình ảnh thậm chí chỉ là một từ
Nhà văn là người có khả năng tư duy, nghiền ngẫm, hình dung những việc diễn ra trong đời sống bằng trí tưởng tượng của mình, bằng những biểu tượng, bằng hình ảnh sống động và suốt quá trình sáng tác phải sống trong thế giới hình tượng, cảm xúc và ấn tượng cụ thể. Và ngôn ngữ văn học – Ngôn từ thơ ca là “ngôn ngữ mang tính hình thể, mang trong nó hình ảnh cảm xúc và cá tính sáng tạo” [121, tr.44]. Đó là hình thức ngôn ngữ có khả năng “kéo thế giới lại gần ta và làm cho nó trở nên thân mật” [121, tr.44]. Hình tượng thơ vùa là công cụ tư duy của nhà thơ vừa là mục đích của thơ.
3.1.2. Hình ảnh trong thơ Hoàng Cầm 3.1.2.1. Quê hương Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm Thơ Hoàng Cầm hiện rõ một không gian Kinh Bắc sống động, diệu kỳ. Đương nhiên, đó “không phải là thứ không gian tĩnh của một bức tranh phong tục, lịch sử, mà là không gian của sự vĩnh cửu, nằm ngoài mọi thời gian lịch sử, thể hiện một Kinh Bắc bất tử trong tâm tưởng ông và cũng sẽ bất tử trong thơ ông” [66, tr.54-55]. Trên nền không gian ấy, hình ảnh dòng sông Kinh Bắc, núi đồi Kinh Bắc, chùa chiền, lăng miếu, hội hè Kinh Bắc… hiện ra trong ánh nhìn và trong nét vẽ tài hoa, đầy sáng tạo. Cũng trên nền không gian ấy, người đọc cứ thấy thấp thoáng bóng dáng cô gái quê Kinh Bắc thuở nào, duyên dáng, tình tứ, đẹp đến say người.
Từ những làng mạc xanh tươi, trù phú, những dòng sông Kinh Bắc: sông Thương, sông Đuống, sông Cầu… chảy qua trang thơ Hoàng Cầm, bỗng trở nên có hồn, có tâm trạng và chất chứa nỗi niềm. Từ tên gọi, mỗi dòng sông như đã mang hồn quan họ, được chuyển hóa tuyệt diệu trong ý thơ, những dòng sông thơ đẫm màu Kinh Bắc cứ lặng lờ, quanh co trôi để rồi thấm mãi trong lòng người bao nỗi nhớ, niềm thương, bao suy tư, trăn trở… Trong thơ Hoàng Cầm, mỗi dòng sông, mỗi khúc sông đều hằn rõ một tâm trạng, đều gắn với những kỉ niệm và mang một ẩn ức nào đó.
Trở đi trở lại nhiều nhất trong thơ Hoàng Cầm và nhiều áng thi ca khác là hình ảnh dòng sông Cầu trữ tình, thơ mộng. Sông Cầu hay còn gọi là Nguyệt Đức hoặc Phú Lương, một dòng sông rộng và sâu, chảy êm đềm qua những cánh đồng bằng phẳng, xóm làng đông đúc. Trước khi hòa vào sông Đại Than ở Gia Lương, dòng sông này chảy qua một vùng quan họ rộng lớn: Hiệp Hòa, Yên Phong, thị xã Bắc Ninh, Quế Võ. Mang theo sắc màu Kinh Bắc trong lời quan họ, dòng sông thơ có vắng lạnh vẫn đầy hứa hẹn khi đôi mảnh hồn thơ cứ mãi đuổi tìm nhau trong cơn mê khát cháy và nỗi nhớ nhung cứ thẳm đầy trong ánh mắt dõi tìm nhau:
Có mấy dòng sông vòng chảy ngược Mà em xuôi mãi xuống Tào Khê Đến đâu là cõi không đầy ải Đôi mảnh hồn thơ lạc lối về (…)
Thôi đợi sang chiều sương rủ khói Lơ thơ che mặt thẹn sông Cầu Một lời Quan họ bay lên dốc Anh biết ngồi đâu, em đứng đâu [Một lời Quan họ, 6, tr.283]. Lần tìm về Kinh Bắc, tìm về những ngày xưa chất đầy kỉ niệm để được hội ngộ và để thỏa lòng ước mong được dệt cuộc đời bằng những trang thơ, dẫu là thực hay là những cơn mơ u huyền. Về Kinh Bắc còn để không lỗi hẹn, lời hẹn thề rất đỗi thiêng liêng: Em hẹn anh cuối tháng giêng – Em về Kinh Bắc quê thiêng thơ mình [Tháng giêng đi chậm, 6, tr.283]; và để thấm thía cái tình quê sâu lắng, thiết tha:
Thờ ơ lắng đọng quê nhà Những sương buông khói mờ xa sông Cầu [Thờ ơ, 6, tr.294]
Vẻ đẹp con sông Cầu cứ thoảng nhớ thoảng quên, chập chờn ẩn hiện trong tiềm thức Hoàng Cầm để mặc bao nỗi niềm như những con sóng cứ xô đẩy nhau, mãi hoài, không dứt: Thơ xô sóng đẩy xạt bờ xót thương. Dòng sông thơ giờ là dòng sông tâm trạng ngả nghiêng nỗi nhớ, niềm thương, khoảnh vui, khoảnh buồn lặng giữa những giọt đau. Dẫu thế nào, bóng sông Cầu hiện lên vẫn rất đẹp.
Con sông quê hương đẹp đâu chỉ nhờ những tính ngữ, người thi sĩ tài hoa còn khéo léo khoác lên nó tấm áo huyền sử với những dòng ký ức xa xôi: Gấm sông Cầu khoác lại áo ngày xưa. Ý thơ thật đẹp nhưng có lẽ còn đẹp và hấp dẫn hơn khi dập dờn trong nó những điệu lý huê tình quan họ:
Lý cây đa… Lý huê tình Nguyệt cầm ngại gẩy… Dỗ dành ai ca Người ơi người ở… Hay là… [Thể phách tinh anh, 6, tr.281]. Lời quan họ quen thuộc: Người ơi, người ở… đừng về thổn thức lòng người bao tháng năm giờ được khép lại bằng một từ lấp lửng trong câu thơ Hoàng Cầm: Người ơi, người ở … Hay là. Câu thơ lại được buông bằng dấu ba chấm đã tạo nên một khoảng lặng đầy sức gợi không dễ bằng lời mà nói hết; và cái tình ý lặn sâu trong ấy hẳn là lời trái tim, là nhịp tâm hồn của những đôi lứa lúc hẹn hò, yêu thương. Những câu ca như thế sẽ còn ngân lên mãi, vang xa mãi dưới ánh trăng lung linh, bên dòng sông hữu tình, bởi bờ sông, bến sông chẳng bao giờ thôi là nơi hò hẹn của lứa đôi:
Trăng khuya các bờ sông Chụm sao mai soi hai mái đầu [Thi hát đúm, 6, tr.165]. Điều ấy, xét ra cũng bình thường mà sao nghe đẹp như là cổ tích – một cổ
tích dịu êm được ru trong miền Quan họ:
Lông ngỗng trải bờ lau Sông Cầu xuôi bến Hát [Gió ông ngỗng, 6, tr.114] Nhuốm màu cổ tích, như tuổi thơ Hoàng Cầm ở đó, ngòi Đa Mai lượn quanh đồi Như Thiết rồi rót vào dòng sông Thương. Sông Thương nước chảy đôi dòng, bên đục bên trong là do nước ngòi Đa Mai phù sa lúc nào cũng đỏ mà dòng chảy
sông Thương thì mạnh nên sớm đã chẳng hòa. Dòng sông mang tên chữ Nhật Đức ấy chẳng hiểu sao lại giống với cõi lòng u uẩn của thi nhân. Nhà thơ vì thế có cách cảm và viết về sông Thương rất lạ: Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương. Nét giản dị, hiền hòa đượm nỗi buồn man mác của dòng sông quê trong thi phẩm Bàng Bá Lân: Non nước sông Thương kỳ thú lạ - Một trời hiu hắt gió đưa chân (Trên đường quê một ngày tất niên) ; hay Anh Thơ : Nắng hè đỏ hoa gạo - Nước sông Thương trôi nhanh (Tiếng chim tu hú) rõ ràng ít thấy trong thơ Hoàng Cầm.
Con sông Thương trước nay để thương, để nhớ cho biết bao người. Bên bờ sông này, bao cuộc chia ly, tiễn biệt đã diễn ra, người đi kẻ ở lòng đầy quyến luyến, xót xa, ngậm ngùi. Những nỗi niềm ấy người xưa gửi lại trong nhiều câu ca dao để mong nhận được sự cảm thông, thấu hiểu của người đời. Đến lượt mình, Hoàng Cầm đã chẳng giấu niềm xúc cảm dâng trào khi lặng nhìn dòng sông:
Song song có gặp bao giờ Hai dòng lệ chảy, hai bờ sông trôi [Gọi đôi, 6, tr.233] Thả hồn mình dọc theo con nước, thi nhân thấy lòng ấm lại, tưởng như đang
cùng người thương đi giữa chiều ngát hương thơ mộng:
Đi dọc chiều sông Thương Ngập ngừng sương khói lạnh Nỗi ai xa quê quạnh Càng gần nhau càng thương [Sông Thương…thương, 6, tr.395] Dòng sông trữ tình hóa thành em nghe dễ thương và đáng yêu đến lạ: Chảy em về biển nhớ - Trôi anh vào hư không (…); Em lẽo đẽo mờ xanh - Xa dần anh mỗi bước… Yêu con sông quê là thế nên thi nhân luôn viết về dòng sông bằng tình cảm thiết tha, sâu đậm và bằng những tứ thơ độc đáo:
Chợt nghe sông cạn bao giờ Đắng cay đứng sững mấy bờ nhân duyên … Thôi em! Cỏ mịn chân đê Anh đưa em nhẹ gót về xanh xưa [Xanh xưa, 6, tr.242] Trước những câu thơ như thế, người đọc không còn nhận ra đâu là dòng sông thực, đâu là dòng sông tâm tưởng nữa. Lẽ đương nhiên, ý thơ chỉ được cảm thụ trọn
vẹn trong sự hòa quyện, gắn bó sâu sắc ấy. Sự phân tích nếu đem tách bạch rành rẽ cảnh và tình ở đây sẽ làm vỡ đi tứ thơ và cái hồn của thi phẩm cũng theo đó tan biến mất. Dòng sông thơ Hoàng Cầm đâu chỉ sóng sánh thuyền tình, nặng nợ nhân duyên mà còn lấp lánh màu sáng tạo.
Sông Lục Nam – một chi lưu của sông Thái Bình, có tên chữ Minh Đức, là một trong những dòng sông Kinh Bắc đẹp nhất nước ta. Dưới ngòi bút người thi sĩ tài hoa Hoàng Cầm, hình ảnh dòng sông hiện lên rất đẹp, đọng lại ấn tượng và tình cảm sâu đậm trong lòng người đọc:
Mắt em đi suốt vòng thân phận Có được về đâu lúc lệ rơi Hồn em thả hết nghìn tâm sự Có được vào trang sử kiếp người?
Thì ngã ba sông ba hướng thuyền Hướng nào khôn dại hướng nào điên Liệu còn một hướng ta bơi đứng Vớt cánh mai vàng sập bóng đen [Ngã ba sông, 6, tr308] Bằng trường liên tưởng độc đáo, nhà thơ nhờ dòng sông mang hộ mình cái nỗi lòng trắc ẩn không thể tự giãi bày, san sẻ. Nhưng cũng nhờ dòng sông có tính khí thất thường lại lắm quanh co, nhiều ngả rẽ có nhiều điều phù hợp với những xao động phức tạp trong cõi lòng thi nhân. Chẳng thế mà người đã sớm có được sự đồng điệu, tìm thấy sự vỗ về, an ủi:
Nghe em ru Âm vang con suối nguyện cầu Mắt thời gian càng miên man xanh [Mắt thời gian, 6, tr.298] Gắn liền với tên tuổi Hoàng Cầm và làm rạng danh tài thơ ông là dòng sông Đuống. Nối liền sông Hồng và sông Thái Bình, con sông Đuống chở nặng phù sa và mang trong mình nhiều tầng di tích lịch sử, di tích văn hóa, chảy qua những làn Quan họ, những chùa Dâu, núi Dạm, núi Chè, làng tranh Đông Hồ… Và trong thơ Hoàng Cầm, dòng sông Đuống tái hiện cả một miền quê Kinh Bắc cổ kính với bao
huyền tích, huyền sử:
Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống Dựng tre làng Cháy sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu Chuột thành than đen xạm dọc sông Hồng Kẻ cướp run dưới Rạng – đông – thần – thoại [Nắng phù sa, 6, tr.113] Thơ Hoàng Cầm vốn đậm chất dân gian, thể hiện qua đối tượng miêu tả và lớp ngôn từ giản dị mà rất mực đa tình. Với sắc thái ấy, Bên kia sông Đuống đưa người đọc trở về thế giới Kinh Bắc để gặp hồn xưa đất nước:
Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp [Bên kia sông Đuống, 6, tr.24] Giọng thơ ấm nồng xúc động, rưng rưng cảm xúc và niềm tự hào của tác giả về màu dân tộc luôn sáng bừng trên miền đất quê hương đẹp tươi, trù phú. Thực vậy, đọc Bên kia sông Đuống, người đọc dễ dàng nhận thấy cái hồn dân tộc phảng phất trong mỗi dòng thơ. Nói cách khác, con sông Đuống chính là mạch nguồn quan trọng tạo nên thanh sắc cho quê hương Hoàng Cầm và cho thơ ông. Vì thế, nhà thơ Phạm Tiến Duật, trong một bài viết năm 1988 đã nhận định: “Trong thơ ca ta, kể từ xưa đến nay, chưa có bài thơ nào viết về quê hương Quan họ mà màu sắc văn hóa đông kết một cách xuất sắc như bài thơ này của Hoàng Cầm… Sông Đuống trôi trong bài thơ của Hoàng Cầm như một dòng sông ngũ sắc, chảy chìm mà khỏe, mà bền” [66, tr.101-103]. Sông Đuống hôm nay và ngày xưa cũng thế, cát trắng phẳng lì, Xanh xanh bãi mía bờ dâu – Ngô khoai biêng biếc. Bên dòng sông Đuống, những con người của xứ Kinh Bắc bước ra từ những bức tranh làng Hồ thật đẹp:
Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng [Bên kia sông Đuống, 6, tr.25]
Viết về Sông Đuống, có lẽ, những câu thơ thể hện rõ nhất cốt cách đa tình,
văn chương lãng mạn của Hoàng Cầm là:
Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì Sông đống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ [Bên kia sông Đuống, 6, tr.23-24] Trong tưởng tượng, cảm nhận của nhà thơ, Sông Đuống thật trữ tình và thơ mộng. Dáng vẻ nghiêng nghiêng tuình tứ rất phương Đông gợi hình ảnh dòng sông quê hiền hòa, êm đềm trôi giữa lòng Kinh Bắc. Đây còn là một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm.Từ “nghiêng nghiêng” nói lên “một sông Đuống trăn trở, vật vã, thao thức trong tâm hồn nhà thơ.... Thi sĩ đã và đang ngụp lặn vật vã trong chính dòng sông tâm hồn mình” [132, tr.120].
Dòng sông Kinh Bắc gắn liền với những di tích lịch sử, với cội nguồn văn hóa, gắn liền với ký ức tuổi thơ và mảnh hồn in sâu dáng hình Kinh Bắc của thi nhân Hoàng Cầm. Trong thơ ông, dòng sông quê hiện ra qua hình tượng nghệ thuật thật hấp dẫn và cuốn hút. Người đọc qua đó có thể hiểu được một cách sâu sắc sự gắn bó máu thịt, lòng yêu say tha thiết của Hoàng Cầm đối với quê hương mình. Tình cảm thiêng liêng ấy vốn tiềm tàng, chất chứa từ rất lâu trong hồn ông để rồi mạnh mẽ dâng trào như dòng sông Kinh Bắc dòng cảm xúc bất tận trong những giây phút bất chợt nào đó. Dòng sông Kinh Bắc nhờ vậy càng trở nên mơ màng, kỳ ảo và những trang thơ giàu thi vị của Hoàng Cầm thì sống mãi và chảy mãi trong lòng người đọc.
Tạo nên vẻ phong trình diễm lệ cho vùng quê Quan họ còn nhờ những dãy núi hùng vĩ chạy dài trên đất Kinh Bắc. Dưới nét bút tài hoa Hoàng Cầm, núi Kinh Bắc hiện ra trong sắc diện độc đáo, mở ra một không gian Kinh Bắc tráng lệ, hùng vĩ:
Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc Dịch sườn thông sang xúm xít quanh hàng mi nắng đọng hồ trong [Đèn nhang 2, 6, tr.121]
Là ngọn núi đẹp nhất, thơ mộng, quyến rũ nhất của đất Kinh Bắc, núi Thiên Thai đi vào tiềm thức người Kinh Bắc từ rất lâu và từng gợi cảm hứng sáng tác cho nhiều thi sĩ. Thiên thai gợi lên nét đẹp kỳ thú, hấp dẫn của chốn bồng lai, tiên cảnh. Trong thơ Thế Lữ, Thiên Thai hiện ra như một điển tích:
Khi cao vút tận mây mờ Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh Êm như lọt tiếng tơ tình Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không Thiên Thai thoảng gió mơ mòng Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng bay xa (Thế lữ, Tiếng sáo Thiên Thai) Với Hoàng Cầm, Thiên Thai gắn với cội nguồn, với những ngày xưa rất xa,
xa lắm:
Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ Thoắt chìm Gấu đẩy đá Thiên thai [Đêm Thổ, 6, tr.105] Thiên Thai là chốn đi, về thủy chung của lòng người, của tình yêu đầy hứa
hẹn nhưng nhiều trăn trở, lắm nỗi niềm :
- Anh dìu em tới Thiên Thai Sầu xanh hơn tóc mộng dài hơn đêm [Đêm tạm biệt, 6, tr.341]
- Chờ em cung bắc đi về Thiên Thai đẹp thế mà nghe đọa đầy Gửi thư xưa… gọi đêm nay Như bâng khuâng ngẫm kiếp này xót thương [Ca trù hoài cảm, 6, tr.368] Theo đó, Hoàng Cầm đã tạo được sắc màu Thiên Thai riêng cho thi phẩm mình, một Thiên Thai vừa mang màu cổ tích diệu kỳ vừa đong đầy tâm trạng. Hình ảnh ấy gieo vào lòng người đọc sự bồi hồi, xúc động với tình cảm tha thiết khôn nguôi.
Hoàng Cầm quả là rất giỏi tạo nên sắc riêng cho thơ và gửi hồn vào trong ấy. Núi đồi Kinh Bắc dù được nhìn từ góc độ nào, được miêu tả ra sao và ẩn dấu tâm trạng gì thì người đọc vẫn nhận ra qua đó, rất rõ và rất sâu, hồn người Kinh Bắc
quyện hòa trong đất trời Kinh Bắc.
Dãy Cai Kinh hùng vĩ là thế mà được nhìn và được miêu tả bằng một tứ thơ
đầy gợi cảm - núi như những ngón tay búp măng của cô gái yểu điệu xứ kinh kỳ:
Tay búp măng người yểu điệu Thăng Long Nâng một dãy Cai Kinh chạy tắp đến cao Bằng [Đi xa, 6, tr.144]. Núi rừng Yên Thế thì hiện ra trong hình tượng thật tráng lệ: Ngựa Ô – truy lao cầu vồng Yên Thế Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay Ngựa Ô – truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề [Khói Yên Thế, 6, tr116]. Hình ảnh thơ vừa thể hiện sức mạnh người trai hùng Yên Thế vừa ẩn chứa niềm tự hào của nhà thơ về vẻ đẹp non sông. Núi đồi Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm rõ ràng không chỉ mở ra một không gian Kinh Bắc mà còn làm hiện về cả hồn quê Kinh Bắc nữa.
Phía Nam sông Cầu núi Nguyệt Hằng hay còn gọi là núi Chè, núi Con Tiên, dãy núi có dáng hình rất đẹp, là quê hương của bà Chúa Chè - Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Viết về mảnh đất này, Hoàng Cầm chẳng giấu niềm tự hào về nơi đã sinh ra người con gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành này:
Chấp chới lá chè non Cầu Lim Nội Duệ The Hà Đông đón kiệu bỏ quê Xim [Sương Cầu Lim, 6, tr.115] Hình ảnh núi Tam Sơn ở Từ Sơn từ ký ức nhà thơ hiện về trong sắc màu tím
biếc, trong nỗi buồn li biệt:
Tôi bỏ lại phía bên kia núi tím Cả miệng cười si – biếc – em trắng lịm [Hai phía núi, 6, tr.259] Hàng chữ cuối thư em viết – Con chữ võ vàng, run run, quyết liệt – Tím sẫm đến đen trời mực tím bút bi dội lên trong lòng nhà thơ nỗi xót xa, tiếc nhớ khôn cùng về những chiều xanh xưa. “Nhuộm tím” hồn mình nên tím cả “hai phía núi” và tím cả trang thơ.
Nhuốm màu huyến tích, huyền thoại là núi Lạn Kha hay còn có tên là núi Tiên Du ở Phật Tích. Qua bao năm tháng, đời người, nhiều câu chuyện tình yêu vương màu cổ tích thần tiên đọng lắng trong tâm hồn nhà thơ để rồi thăng hoa thành những câu thơ rất đẹp:
Thu đừng tạnh phía hoa ngâu Quanh năm Chức Nữ gối đầu tay anh Triền mưa gội bất ngờ xanh Hỏi ngâu nối mấy sông thành đêm em [Bất ngờ, 6, tr401] Những biến hóa của câu từ, chữ nghĩa, những hình ảnh mới mẻ đầy sáng tạo, những liên tưởng có thể rất rộng, ta vẫn nhận ra qua ý thơ cái hồn Kinh Bắc cổ kính:
Cả dãy Trường Sơn là dấu phẩy Ngắt dòng thơ trang sử u tình [Em có về không, 6, tr.315] Nhưng cũng như những dòng sông quan họ lấp lánh phù sa và óng màu Kinh Bắc trôi mãi giữa cuộc đời và chảy mãi trong thơ, Hoàng Cầm cũng cố giữ lại hình ảnh rất thực về những ngọn núi quê hương:
- Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát cô gái điên ôm xác chồng lội đồng chiêm [Gái Hậu Lê, 6, tr.138]
- Riêng một đứa gánh đôi bồ xiêm áo
tìm ẩn nẻo Chí Linh gặp mũi tên lạc gió chết trong xó núi vợ không kịp chôn chồng [Trai đời Trần, 6, tr.137] Gắn với những mảnh đời, những kiếp người, gắn với số phận Kinh Bắc một thời chìm trong khói lửa đau thương, núi đồi nơi đây càng trở nên thiêng liêng, hùng vĩ và càng ấn tượng hơn trong thơ Hoàng Cầm.
Tái hiện thế giới Kinh Bắc trong thơ mình, Hoàng Cầm không chỉ nói nhiều đến những dòng sông Kinh Bắc, núi đồi Kinh Bắc mà giành nhiều tâm sức, giấy mực để viết về hội hè Kinh Bắc, miêu tả chùa chiền trên đất Kinh Bắc. Chùa chiền,
lễ hội vốn cũng là một nét văn hóa đặc sắc và là niềm tự hào của người Kinh Bắc. Cũng vì thế mà chỉ trong tập Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm đã có hơn 10 bài thơ nói về hội hè Kinh Bắc. Người đọc qua đó mặc sức mà ngắm nhìn, thưởng thức và rồi yêu thích thực sự nét văn hóa đặc sắc, độc đáo của vùng quê Quan họ này.
Thi thổi cơm, thi dệt vải, thi hát đúm hay thi đánh đu…, hết thảy đều là những hội thi lớn và đầy ý nghĩa trên đất Kinh Bắc. Với bài Thi ăn mía thổi cơm, tác giả qua việc gợi lại câu chuyện dân gian xưa đã vẽ ra cảnh vật trù phú của một vùng quê đồng thời ngợi ca sự thông minh, tài hoa của người Kinh Bắc:
Thi ăn mía thổi cơm Bụng đâu chứa hết những bãi sông xanh ngắt Lửa đâu xém cánh tay bột nặn Cháy phù sa ngọt sắc Yên Viên Cơm vừa chín tới Má xuân hồng lồng khói tím lịm sang thu [Thi ăn mía thổi cơm, 6, tr.163-164] Hội Lim, là dịp các cô gái Kinh Bắc biểu lộ nét tài hoa, sự khéo léo của mình qua hội thi dệt vải. Trai thanh gái lịch náo nức đi xem hội vừa để được chiêm ngưỡng tài nghệ của người thi vừa để thưởng thức những khúc hát Quan họ trữ tình, tha thiết của quê hương. Hấp dẫn hồn thơ Hoàng Cầm là tấm lòng trong trắng, sự cần mẫn và chút ngậm ngùi thoáng sau nét môi xinh của các cô gái:
Lòng Em phau phau tìm đâu mấu sợi Một tấm trường giang đèn rọi võ vàng Thoi chim khách đếm năm đi vút Vải gột hồ hai má gột môi hoang [Thi dệt vải, 6, tr.165] Viết về Hội Gióng, bằng sự liên tưởng độc đáo, sự sáng tạo đầy chất nhân văn, ý thơ Hoàng Cầm thực sự làm lay động lòng người. Từ dòng thơ ông, truyền thống bất khuất của tổ tiên, những câu chuyện thắm đượm nghĩa tình dân tộc cứ như đang sống lại, đang hiện ra:
Chú bé lên ba là tướng võ nhà Giời Ai ngờ đã bốn nghìn năm manh mối Xuân đến lụa the Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hòang Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây [Hội Gióng, 6, tr.168] Thi đánh đu, thi thêu gấm, thi hát đúm,… hội thi nào cũng thể hiện nét đẹp của bản sắc văn hóa quê hương. Kinh Bắc vốn nhiều hội hè, dường như làng nào cũng có hội. Đi hội, chơi hội là nếp sinh lành mạnh, quen thuộc, là nhu cầu không thể thiếu của người Kinh Băc xưa. Lễ hội Kinh Bắc tô đẹp và làm sáng ngời văn hóa tinh thần dân tộc, hun đúc tâm hồn con người và đem đến môi sinh dồi dào cho thi ca, nhạc họa. Người Kinh Bắc vốn rất tự hào về những lễ hội trên quê mình. Hội làng là dịp để mọi người biểu lộ lòng tôn kính, biết ơn đối với tổ tiên và để tâm hồn được thăng hoa trong niềm khát khao, mơ ước về cuộc sống tươi đẹp. Hoàng Cầm thật tài tình đã dựng lại hết sức sinh và đặc sắc màu của những ngày hội quê hương trong thơ mình. Mọi lễ hội lớn nhỏ đều được nhà thơ khắc họa, miêu tả bằng nét bút tinh xảo, điêu luyện, bằng niềm yêu thích trân trọng.
Thực vậy, nếu Hội Vân Hà toát lên lòng tự hào của tác giả về sự giàu có của vật chất cũng như nét đẹp văn hóa của người làng Vân; thì Hội đền tám vua triều Lý ẩn dấu sau nó nỗi hoài nhớ, ngưỡng vọng về một thời lịch sử đã qua. Đặc biệt, với Hội chen Nga Hoàng, câu từ như tuôn chảy theo dòng cảm xúc dạt dào và hồn thơ bay bổng:
Chen Nga Hoàng len chèn nguyệt tận Phụt nửa đêm đèn nến lặn Ba hồi trống giãi dầm dề lim dim bao dong ba nghìn mắt phật Tóc tung tình bờ xôi ruộng mật Quanh co tỏa bốn hướng đình [Hội chen Nga Hoàng, 6, tr.166] Làm sống lại không khí ngày hội đặc biệt chỉ riêng Kinh Bắc mới có này chắc hẳn không phải chỉ có Hoàng Cầm nhưng đưa được khoảnh khắc “thần tiên” nhất, giây phút mong đợi ý nghĩa nhất vào lời thơ có lẽ chỉ có Hoàng Cầm. Đây chính là phong thái, là cốt cách và biệt tài của Người thơ này.
Lấy tình yêu soi chiếu bản chất hội hè, đình đám, thi nhân không làm mờ đi bản sắc văn hóa quê hương mà trái lại, chính tình cảm trong trẻo và những khát vọng đẹp ấy càng làm ngời sáng và phong phú thêm nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Trong không khí tưng bừng xốn xang của những ngày hội, người đọc thường thấy thấy thấp thoáng hình ảnh các ngôi chùa Kinh Bắc cổ kính. Đó vốn là những công trình kiến trúc vừa có giá trị vật chất vừa mang giá trị tinh thần to lớn, góp phần tôn vinh sự thông minh, tài hoa của người Kinh Bắc. Biết bao thi sĩ, văn nhân đã say sưa ngợi ca vẻ đẹp của vùng non nước này:
Bóng chiều vương thác, bóng chùa xa Bốn nhịp cầu soi, sông giát trắng ngà (Nguyễn Ức – Thế kỉ XIV) Cũng như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Hoàng Cầm viết về các di tích lịch sử, văn hóa ở Kinh Bắc bằng niềm tự hào, trân trọng sâu sắc. Dù vậy, hình ảnh và ý thơ Hoàng Cầm mang vẻ đẹp rất lạ. Nhà thơ miêu tả chùa Phật Tích - công trình kiến trúc tuyệt đẹp của Kinh Bắc bằng hình ảnh:
Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch Tượng Quan Âm má ửng bồ quân Chuông chiều cởi yếm Chuông sớm đội khăn Câu kinh tê mê mười ngón tay măng [ Đêm Thủy, 6, tr.108] Chùa chiền là chốn linh thiêng, trong cách tả của nhà thơ nghe sao, gần gũi như cuộc sống giữa đời thường, như là trần thế. Bởi lẽ, Hoàng Cầm viết về cửa Phật nhưng không nhằm điểm tô cho nó màu thoát tục, siêu nhiên mà kéo nó về giữa đời thường và thổi vào trong ấy âm vị tuyệt vời của cuộc sống - đó là tình yêu. Màu Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm rất đậm mà rất riêng cũng là vì thế.
Hiểu được điều này người đọc mới mong cảm thấu hết được ý vị sâu kín mà
nhà thơ gửi trong nhiều tác phẩm, điển hình như thể phách tinh anh:
Chùa Dâu – Phật Tích cheo leo Mắt em không chớp ai theo mình về Chiêu Hoàng giận núi hờn khe Trầu têm cánh phượng… lỡ thề tử sinh [Thể phách tinh anh, 6, tr.281]
Hay Mưa Thuận Thành: Nhớ mưa Thuận Thành Long lanh mắt ướt Là mưa ái phi Tơ tằm óng chuốt Ngón tay trắng nuột Nâng bồng Thiên Thai [Mưa Thuận Thành, 6, tr.182] Chốn tu hành thanh tịnh mà nặng nỗi nhân duyên, mà choán ngợp trong tình yêu nam nữ, cái nhìn quả mạnh mẽ và đầy táo bạo. Hình ảnh trầu têm cánh phượng và lời thề tử sinh đong đầy ý nghĩa, đặc sánh màu văn hóa Kinh Bắc được gói trong chỉ một dòng thơ đủ để cho thấy tài nghệ điêu luyện của nhà thơ này.
Đọng lại trong ký ức để rồi thành nỗi buồn rưng rưng nhớ tiếc khi Hoàng Cầm có dịp trở về thăm lại là ngôi chùa Trăm gian ở Tam Sơn. Dù không miêu tả chùa như một tuyệt tác kiến trúc, nơi chứa đựng cả một tầng sâu văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc, song tác giả vẫn giúp người đọc hình dung được những giá trị to lớn của nó:
Em giờ lạc giữa Quan Âm … Em giờ cứ nhớ lang thang Rằng ai rằng ấy rằng đang thế rồi Chùa trăm gian cửa mồ côi [Vô phương, 6, tr.239] Lời thơ ẩn chứa nỗi đau xót khôn nguôi của tác giả trong sự mất mát những di sản văn hóa quý giá của dân tộc. Ý thơ biểu lộ một tâm hồn đẹp với lòng yêu quê hương thiết tha, mãnh liệt, lòng yêu quý, trân trọng những nét văn hóa truyền thống lâu đời của tổ tiên.
Khắc họa chùa chiền Kinh Bắc trong mình, Hoàng Cầm muốn thổi khí thiêng Kinh Bắc vào trong thơ với ước mong làm ấm lại, làm gần nhau những trái tim nhân thế. Vậy nên, nhà thơ tuy nhắc nhiều đến xứ “Quan âm” , cõi “Niết bàn”,… nhưng đó chẳng phải là chốn xa xôi nào mà chính là nơi khi yêu, người ta lại tìm đến:
Lại thương muốn rủ nhau về Xứ Quan Âm ấy bốn bề tịnh huơng Đã xa chưa? Có không vương Hồn mây trắng lắm còn buông không chiều [Thư cuối năm của người yêu xưa, 6, tr.321]
Thơ Hoàng Cầm đầm đìa chất sống của cuộc đời thực ngay cả ở những thi phẩm viết về chốn Thiền môn linh thống nhất. Phải là người mang tình yêu cực kỳ sâu đậm đối với quê hương, đối với cuộc sống và hơn nữa phải sở hữu một tài thơ đặc biệt, nhà thơ mới có được những dòng thơ như thế.
Nhìn chung, với mảng thơ về hội hè, chùa chiền Kinh Bắc, Hoàng Cầm góp phần đượm thắm tinh thần nhân văn cho bản sắc văn hóa của một vùng quê. Bằng lời hay ý đẹp và bằng lòng yêu tha thiết hết thảy những gì thuộc về quê hương mình, thi nhân đã giúp giữ lại và truyền đi theo ngọn bút tài hoa “cái chất Kinh Bắc huê tình” kỳ diệu. Cảm nhận rất rõ và rất sâu điều đó, đọc thơ ông, Phạm Thị Hoài đã viết: “Bất kỳ câu nào của ông cũng tiêu tao yểu điệu, có vẻ như một liên hệ dễ dãi với quê hương Kinh Bắc, với những chùa chiền dân ca huyền thoại và những hiền anh liền chị”.
3.1.2.2. Hình ảnh con người Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm Mang cả thế giới Kinh Bắc vào trong thơ mình, Hoàng Cầm làm thơ hóa và bất tử hóa một vùng quê – vùng quê Kinh Bắc. Chẳng vậy mà khi nhắc đến Hoàng Cầm, người ta nhớ ngay đến Kinh Bắc và ngược lại. Song, để tái sinh một Kinh Bắc trong thơ mình, nhà thơ đâu chỉ đưa vào trang viết những tên đất, tên sông, tên núi, những di tích lịch sử văn hóa, những lễ hội đình đám, ông còn làm hiện về rất sinh động những con người Kinh Bắc trong nhiều thế hệ khác nhau.
Bên cạnh những trai tài, gái sắc Kinh Bắc, đó là những con người đã hóa thân trong huyền thoại, những con người bất tử và rất đỗi thiêng liêng trong lòng mỗi người dân Đất Việt. Bằng những hình ảnh đẹp, giàu tính thẩm mỹ và bằng tấm lòng thành kính, Hoàng Cầm viết về những con người mà lịch sử Kinh Bắc nói riêng và lịch sử dân tộc nghìn đời còn lưu nhắc mãi. Đó là An Dương Vương – vị vua anh minh, sáng suốt với mối oan tình Mị Châu- Trọng Thủy và bài học cay đắng về việc giữ nước của cha ông. Đó là Thánh Gióng – hình tượng nhân vật kỳ vĩ, lừng danh trong lịch sử dân tộc; là Hai Bà Trưng – những con người đã dệt nên trang sử vàng và là niềm tự hào muôn thuở của nhân dân.
Để con sông Cầu bao đời thương nhớ rập rềnh câu ca Quan họ, Hoàng Cầm như muốn đọng lại mãi trong đời nỗi nuối tiếc, ngậm ngùi về câu chuyện tình đau lòng và nỗi oan thảm khốc của người ra đi:
Lông ngỗng trải bờ lau Sông Cầu xuôi bến Hát Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn
… An Dương Vương ôi Bọt bể bồ hòn [Gió lông ngỗng, 6, tr.114] Người anh hùng Thánh Gióng lại được hiện lên trong hình ảnh thơ giản dị,
cụ thể, tự nhiên, mà hết sức sinh động:
Thiên Vương chẳng nói Lúc gật đầu vó ngựa đào ao hồ liên tiếp mãi Đông Anh Thiên Vương chẳng nói Lúc nghiêng tai cò chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà Hoa gạo các triền sông giải lối Sóc Sơn bay [Nắng phù sa, 6, tr.113] Tứ thơ độc đáo gợi rất sâu phẩm chất đáng quý của người Việt nam: thâm
trầm,kín đáo, tinh tế và sâu sắc.
Người Kinh Bắc từ rất xưa đã có câu “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu cũng về hội Gióng”. Về với hội Gióng, với Hoàng Cầm và với người Kinh Bắc, như được trở về và sống lại trong miền thơ hạnh phúc, được ướm vết chân trên đê mê cát mịn bãi phù sa sông Đuống và ngắm màu Quan họ dọc các triền sông. Trong nắng hồng hoang, sông dài, cát bỏng, hoa gạo đỏ, tre làng cháy..., người anh hùng kỳ vĩ này trở về với vẻ đẹp rất Quan họ, gần gũi, thân thương đến lạ kỳ.
Về đất Luy Lâu, nơi Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Tô Định, Hoàng Cầm
càng thấy tự hào và càng yêu sao những trang vàng diễm sử của dân tộc:
Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử Áo Hai Bà dăng mắc rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương [Đèn nhang 1, 6, tr.119] Lần tìm về quá khứ vẻ vang ấy, nhà thơ kể lại lịch sử chiến đấu và chiến
thắng oai hùng của cha ông:
Cụ tổ mười đời lăn đá Chi Lăng chẹn ngõ Đông Quan cứu viện gõ ba hồi trống tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng Cụ tổ chín đời mở trang Bình Ngô Đại Cáo [Đèn nhang 1, 6, tr.119] Trong đau thương, mất mát con người Kinh Bắc nói riêng và người dân kiêu hùng Đất Việt càng đẹp hơn trong tư thế, trong sức mạnh ghê gớm, lạ thường – sức mạnh của lòng yêu nước, của tinh thần bất khuất kiên cường. Lời thơ trong trạng thái tỏ rõ thái độ thành kính, lòng khâm phục, niềm tự hào sâu sắc của tác giả trẻ.
Đâu chỉ có Hoàng Cầm, mỗi người dân Kinh Bắc đều rất đỗi tự hào về mảnh đất địa linh nhân kiệt của quê hương mình. Có lẽ, nhờ mạch đất tốt tụ vào đấy, nên sinh ra nhiều danh thần và nhiều người trai tài, gái sắc cho vùng non nước này. Hoang Cầm thật vinh dự có quê hương là nơi sinh ra ông vua đầu tiên của triều Lý- Lý Công Uẩn; trạng nguyên đầu tiên của nước ta – thái sư Lê Văn Thịnh; nhiều nhà khoa bảng và nhiều trai tài khác.
Trong thơ Hoàng Cầm, hình ảnh người trai Kinh Bắc hiện lên trong tư thế
hào hùng, dáng dấp kỳ vĩ:
Ngựa Ô – truy lao cầu vồng Yên Thế Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay Ngựa Ô – truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề Bờm nhả khói Đuôi dựng mây Hí lửa dài Vó chồm nghiêng soái phủ [Khói Yên Thế, 6, tr.116] Mượn uy danh lừng lẫy của một vị tướng thời xưa, nhà thơ dựng lên hình tượng rất đẹp về người trai Kinh Bắc. Họ, những người trai Cầu Vồng, Yên Thế, những người trai hùng của đất Kinh Bắc, từ mảnh đất nghìn năm văn hiến, theo điệu hát, câu ca, đến với mọi người. Đẹp trong phong thái và đẹp trong cốt cách, tinh thần, những hình tượng ấy đủ sức chinh phục lòng người bao tháng năm:
- Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ hai hang tăm tắp võ hoàng môn Lệ ba năm nức lòng dòng võ tướng Vua kén người giỏi tiên phong vật núi núi lăn ngáng sông sông gãy [Hội vật, 6, tr.127] - Tài dung phép “Chiếc yêu điểm huyệt” Cò bợ tháng tư mổ rút ruột voi già [Hội vật, 6, tr.129]
- Vươn tay chạm giời Tóc hất sao mai [Hội vật, 6, tr.132] Thanh âm rộn rã của tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng hoa vừa tạo nên không khí hừng hực của hội đua tài, vừa như mở ra không gian dài rộng của đất nước, đưa người đọc đến những vùng khác nhau trên đất Kinh Bắc để chiếm ngưỡng tài nghệ của các đồ vật nổi tiếng.Từ Bá Ngạc (Tiên Du), Tư Đang (Yên Dũng), Tổng Dong (Võ Giàng) đến bảy kình khét tiếng Yên Phong, rồi Ba Ngư (Thuận Thành)... tất cả họ đều là những nhân tài, có sở trường, có biệt tài riêng làm nên uy danh cho trai làng Kinh Bắc. Ca ngợi tài năng những con người ấy, Hoàng Cầm thật tài tình khi gắn liền tên tuổi của họ với nhiều địa danh KB, Và nhờ vậy, họ đã làm rạng danh vùng đất quê hương mình.
Nam nhân Kinh Bắc ngoài nét hùng tráng, tinh thần thượng võ hào hùng còn nổi tiếng phong lưu quân tử. Rượu uống tàn đêm Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn, vẫn hiên ngang:
Áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn Dường nắng bay từng đám hỏa hoàng san sát rừng gươm Gia Bình Bạch Hạc tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc [Ngựa 2, 6, tr.125] Chân dung người trai tài Kinh Bắc, sự hùng tráng và nét thượng võ của họ
chính là kết tinh của dân tộc mình qua đó.
Thơ Hoàng Cầm dìu chúng ta qua những chùa chiền, lăng miếu, những cầu, những bến, những hội hè và qua những cặp mắt đa tình của người con gái xứ quê. Cùng với người trai tài Kinh Bắc, những con người gái quê Kinh Bắc luôn ẩn hiện, thấp thoáng trong thơ Hoàng Cầm. Chẳng phải ngẫu nhiên khi đọc thơ Hoàng Cầm, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã viết: “Trên cái nền thời gian, khong gian ấy, cứ thấy thấp thoáng một cô gái quê Kinh Bắc của một thuở nào, có vẻ đẹp duyên dáng tình tứ Cười như mùa thu tỏa nắng” [66, tr.26]. Có thể nói Hoàng Cầm đã dành cho người phụ nữ nói chung và nhất là người phụ nữ Kinh Bắc một sự ân ưu đặc biệt. Bóng dáng của họ, dấu chân của họ hằn in trên khắp những trang thơ của ông, từ ngày xưa và cả ngày nay vẫn thế. Từ hoàng hậu, ái phi công chúa hay tiên nữ cho đến những người gái quê chân chất, dịu dàng ...Nhưng có lẽ, hình tượng nổi bật nhất được nói đến nhiều nhất trong thơ ông là hình tượng người Chị Quan họ.
Viết về người gái quê Kinh Bắc, Hoàng Câm dường như đã dành cho họ những tình cảm đẹp nhất, sự thương yêu tha thiết nhất. Trong thơ ông, những người con gái đất quan họ ấy, dù là ai, là hoàng hậu cao quý, sang trọng hay là người mẹ, người chị giữa đời thường, vẫn toát lên sự dịu dàng, nét duyên dáng, tình tứ của người Kinh Bắc.
Vẻ đẹp, nét duyên của người gái quê Kinh Bắc đã đi vào nhiều câu ca, điệu lí thắm thiết, nồng nàn, níu kéo không chỉ người làng quan họ. Theo cách riêng mà độc đáo, Hoàng Cầm làm hiện rõ trong thơ mình hình ảnh cô gái Kinh Bắc nhan sắc óng ả, kiều diễm, có đôi mắt lung liếng tình tứ, đôi mắt màu Quan họ, với dáng đi đài các, uyển chuyển thanh tao... Đó vốn là nét đẹp truyền thống của người con gái xứ Kinh Bắc và trong thơ mình, Hoàng Cầm lại còn dành nhiều thời gian và công sức để tạo dáng cho họ. Khuôn mặt búp sen, làn môi cắn chỉ quết trầu, răng đen rưng rức hạt na, tóc đuôi gà, khăn mỏ quạ, nón ba tầm quai thao cùng bao nhiêu là váy, yếm, thắt lưng... tất cả đều thể hiện cảm xúc tỷ mĩ,cái nhìn văn hóa đầy xúc động của nhà thơ.
Hiện về từ trang thơ Hoàng Cầm là những người con gái xinh đẹp, tình tứ và rất mực giỏi giang. Từ cô Tấm thưở xưa đến Nguyên Phi Ỷ Lan đời Lý, bà chúa chè Đặng Thị Huệ thời vua Lê Chúa Trịnh, rồi những người Mẹ, người Chị... Họ đã gửi lại trong hồn ông và trong thơ ông nỗi khắc khoải, nuối tiếc đến dai dẳng, như là định mệnh, như là duyên kiếp. Cả tập thơ Về Kinh Bắc, nhà thơ viết về quê hương, về cảnh ngộ gia đình mình, về số phận mỗi người thân yêu nhưng nhiều nhất vẫn là về số phận, những người gái quê Kinh Bắc. Có thể nói, họ là hiện thân trọn vẹn
nhất, sinh động nhất của quê hương Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm.
Hình ảnh người con gái mắc váy lụa kiểu Đình Bảng, mép váy buông chùng cửa võng tưởng như đang đi trên sóng rập rờn, đẹp lồng lộng và đầy quyến rũ. Vẻ đẹp ấy có thể nói đủ sức che lấp cả những mái đình, nóc miếu và làm mê mẩn cậu trai quê đến cả một đời. Để rồi, từ cánh đồng chiều làng Như Thiết năm ấy, cậu bé si tình cứ cầm chiếc lá Diêu Bông trong tay đi xuyên thời gian, xuyên suốt vùng quê đa tình, diểm ào, đi mãi, tìm mãi và yêu mãi dù biết rằng hạnh phúc thật xa xôi, xa xôi. Dễ hiểu vì sao những dòng thơ về người gái quê Kinh Bắc của Hoàng Cầm thường thấm đẫm nỗi đau, nỗi khát khao trong nghẹn ngào luyến tiếc, tuyệt vọng. Gái Cầu Lim- Nội Duệ nổi tiếng có nhan sắc. Từ góc nhìn riêng, Hoàng Cầm vừa khắc họa nét đẹp kiều diễm của họ, lại vừa cho thấy số phận đáng thương của họ. Trong bài sương cầu Lim thi nhân viết:
Chấp chới lá chè non Cầu Lim Nội Duệ The Hà Đông đón kiệu bỏ quê Xim [Sương cầu Lim, 6, tr.115]
Chuyện người con gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành bỏ quê, theo chúa về Thăng Long để lại nỗi hụt hẫng, xa xa cho bao nhiêu người, cho cả quê hương.Câu thơ Hoàng Cầm vì thế mà nghe thiết tha da diết: Gái cầu Lim Nội Duệ đã đi. Rõ ràng, thơ Hoàng Cầm đâu chỉ có những khuôn mặt búp sen, những khóe mắt, miệng cười tình tứ, sâu trong câu chữ của thi phẩm của ông là cả cuộc đời, là số phận người con gái quê Kinh Bắc. Tiếng thơ lúc nhỏ nhẹ, thâm trầm, khi mạnh mẽ, quyết liệt và chẳng bao giờ nhà thơ thôi không thấy đau xót cho nỗi nhục nhằn, hờn tủi mà họ phải gánh chịu. Thơ ông theo đó có sức lay động rất sâu, rất mạnh tâm hồn người đọc:
- Em gánh gạo về dinh phú hộ Nứt vai thành sẹo lá lan đao Em chở nứa sang bờ duyên phận Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh Tuổi đã rách vá gì cho kịp Da mở đông tuốt sẹo ngang thân (…)
Cành tre trải áo nép thân mình Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi [Tắm đêm, 6, tr.155]
Một cuộc đời, một thuở sắc xuân chẳng có niềm vui, hạnh phúc, chỉ có mồ hôi, nước mắt hòa trong nỗi vất vả, sự tảo tần. Thời gian vô hình làm sao xóa được những vết sẹo dọc ngang đã hằn sâu trên thân thể, khắc sâu trong tâm hồn và trở thành nỗi ám ảnh trong cuộc đời họ. Có biết bao tác phẩm thơ văn viết về nỗi đau ấy và có biết bao cách để người viết bày tỏ niềm cảm thông, chia sẻ, tình yêu thương của mình đối với họ. Trong thơ Hoàng Cầm, hình tượng người con gái quê Kinh Bắc hiện lên vừa chân thực, vừa diễm ảo, mang đậm hồn cốt và tình người đất Việt. Quả vậy, trong thơ mình, Hoàng Cầm đã lưu giữ được không chỉ dáng hình và những nét đáng yêu của người con gái Kinh Bắc trong sinh hoạt hội hè hay trong cuộc sống cực nhọc, tần tảo mà cả những nếp cảm, nếp nghĩ, những tâm tư và số phận của họ.Trước nay, hiếm nhà thơ nào có thể khắc họa được một cách trọn vẹn hình ảnh trữ tình như thế trong nhà thơ mình.Hoàng Cầm thật may mắn từ thưở rất xa xưa đã được mẹ ru vào hồn những chuyện kể về Kinh Bắc, về cảnh quê, về con người và về những số phận… Sau hình ảnh người mẹ, bên cạnh cậu bé con với chiếc lá Diêu Bông trong tay, là người gái quê đa tình diễm ảo, như cánh mây trắng mỏng choán ngập tâm hồn và làm thành thế giới mê say của thơ ông. Thời gian vẫn làm nhòa đi tất cả trong mảnh hồn lả lướt xanh xao, trong tâm tư u buồn chạng vạng, kỷ niệm thật đẹp đã có với Chị từ rất lâu sẽ mãi còn đầy, mãi tươi tắn và nguyên vẹn như thưở nào. Bóng tình yêu niềm hạnh phúc và cả cuộc đời Chị mà rộng ra là người gái quê Kinh Bắc cứ vương vấn mãi khiến thi nhân nhớ mãi trong yêu thương, xót xa không chỉ một kiếp này.
Hồn thơ Hoàng Cầm nhờ lắng sâu vào lòng đất quê hương, chìm sâu trong niềm ký ức miên man xanh một màu huyền diệu vĩ vãng nên cái nghiệp thơ đầy đau khổ nhưng cũng lắm hào quang tỏa ra từ tâm linh và những câu chữ kỳ diệu ấy đã có những giờ phút say sưa, những rung động mãnh liệt về mảnh đất và đặc biệt là về con người Kinh Bắc. Bằng cách nhìn, cách cảm và tài năng sáng tạo ngôn ngữ riêng, Hoàng Cầm luôn có cách thể hiện rất độc đáo về con người Kinh Bắc. Ở đó, hình ảnh người gái quê Kinh Bắc hiện lên đẹp nhất, ấn tượng và có sức ám ảnh lòng người nhất. Những khuôn mặt búp sen với những nụ cười như mùa thu tỏa nắng chắc sẽ còn mãi bên đời như cuộc đời đã có những gái quê Kinh Bắc.
Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm thực sự đã được trở về và sống với những tâm tư sâu kín của riêng mình, về với quê hương Kinh Bắc vừa rất thực vừa như là ảo ảnh, vừa gần gũi lại rất đời xa xôi chập chờn, bảng lảng…, và về với những người đã khuất bóng ở nhân gian vẫn còn mãi trong hồn ông. Mang trong hồn “nỗi đau của
những thuyền tình không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mỹ nhân đã khép, những tiếng hát nguời yêu đã tắt, những làn da mịn màng người quê Kinh Bắc đã nhăn nheo, những sợi tóc xưa óng ả nay đã úa bạc” [6, tr.195], hòa thực tại vào quá khứ, Hoàng Cầm viết nên những dòng thơ đầy ẩn ức, đầy bi kịch. Hình tượng con người Kinh Bắc trong sáng tác của ông, trong sự biến hóa khá đa dạng, hiện lên thật sôi động với nhiều vẻ. Người Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm tuy chịu nhiều đau thương, mất mát vẫn lạc quan, tin yêu cuộc sống. Đó là những con người đã mang trong mình nét đẹp truyền thống của Kinh Bắc nói riêng và dân tộc nói chung. Chính cảm xúc thơ ca và tình yêu với Kinh Bắc đã giúp Hoàng Cầm có được những giai điệu đẹp.
3.1.2.3. Hệ thống hình ảnh tượng trưng trong thơ Hoàng Cầm Thế giới nội tâm của con người vốn sâu thẳm, lại mong manh, mơ hồ. Để thấu hiểu và thể hiện được hết thế giới ấy, nhà thơ phải tạo đuợc một hệ thống ngôn từ vượt qua ngữ nghĩa thông thường của câu chữ để hướng tới một sự biểu đạt mới, một lớp nghĩa mới. Trong những kết hợp mới, lạ, độc đáo, những trường liên tưởng bất ngờ, thú vị, Hoàng Cầm có lẽ là một trong không nhiều lắm những nhà thơ có khả năng làm được điều này. Thật khó để có thể hình dung được bằng cách nào, nhà thơ có thể sáng tạo nên hệ thống hình ảnh rất đặc biệt trong thơ mình:
- Chìa vôi quệt gió hững hờ Bờ ao sáo tắm bao giờ… …hở Em [Theo đuổi, 6, tr.160]
- Chuông chùa cởi yếm Chuông sớm đội khăn Câu kinh tê mê mười ngón tay măng Mõ đêm hè cuốc lội Ao mưa dằng rịt lá trường sinh [Đêm Thủy, 6, tr.108]
- Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông [Đêm Thổ, 6, tr.105] Hình ảnh trong thơ Hoàng Cầm là kết quả của những sự liên tưởng bất ngờ, những hình ảnh tượng trưng tưởng chừng như phi lý. Dường như có một sợi dây
liên kết vô hình và đặc biệt giữa những hình ảnh cụ thể trong đời thực với những hình ảnh có tính siêu nghiệm ở đây:
- Ta con phù du ao trời chật chội Đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao [Về với ta, 6, tr.188]
- Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa Ném xuống cầu em cởi áo chiều xưa [Gái Hậu Lê, 6, tr.138] Không phải là một phu chữ và không chủ trương tìm tòi, khám phá những bí ẩn bên trong con chữ nhưng bằng tài nghệ điêu luyện của mình, Hoàng Cầm đã tạo nên những hình ảnh thơ độc đáo, đầy sáng tạo:
- Đón Chị hồn chênh lệch bóng đêm Chân không dìu dặt cánh tay mềm Tóc buông đổ thác về vô tận Bát ngát mùa đương độ tuổi Em [Chị em xanh, 6, tr.241]
- Anh sẽ đến. Tơ tưởng em đến thế… Anh đến rồi. Em tưởng thực hay mơ Thật anh đấy. Em nói gì se sẽ: - Vào em đi ngoài ấy hững mưa hờ [Tơ tưởng, 6, tr.311] Hoàng Cầm sáng tác thơ bằng lòng yêu say tha thiết, bằng ý thức, tiềm thức và cả vô thức nữa. Nhà thơ bộc lộ: “Ở tôi thì luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi đã huy động tất cả nội lực của mình: cả thể lực, trí lực, tâm lực và đương nhiên, ở tôi, thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều lời thơ lắm khi tưởng như vô nghĩa, mà ngay bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ chính mình viết ra mang ý nghĩa gì cụ thể…” [6, tr.211].
Thơ Hoàng Cầm mang dáng dấp tượng trưng, ở đó, “những từ ngữ không ngờ có thể đặt cạnh nhau, những hình ảnh không ngờ có thể nối tiếp nhau để xuất hiện những thi tứ không ngờ và một nhạc điệu không ngờ” [151, tr.255]. Và ở đó, “những mạch liên tưởng khó nắm bắt, tinh vi, lắt léo, đột ngột nhảy cóc, đột ngộ mất hút, đột ngột trở về như không có gì cần giải thích” [151, tr.256]. Quả vậy, thơ
Hoàng Cầm đi từ tư duy lãng mạn đến tư duy tượng trưng. Dù rằng, yếu tố tượng trưng trong thơ ông không thoát rời những đặc trưng của thi ca dân tộc.
Thơ tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở phương Tây. Về tư duy tượng trưng, trong Mỹ học, Hêghen viết: “Hình tượng tượng trưng giống như là một câu đố đòi hỏi chúng ta đi tìm kiếm cái ý nghĩa nội tại đằng sau hình tượng” [Dẫn theo 115, tr.65]. Lại Nguyên Ân khẳng định: “Chủ nghĩa tượng trưng là đem thuộc tính tinh thần ở con người sáp lại với tôn giáo, coi vô thức, trực giác là cái chủ yếu trong sáng tác nghệ thuật” [7, tr.108].
Tượng trưng, theo cách hiểu thông thường “là một loại hình tượng tạo ra nhiều liên tưởng xa xôi, bất ngờ, có sức ám gợi những hàm nghĩa xâu xa, ám gợi tâm trạng” [47, tr.269]. Được sáng tạo trong sự siêu nghiệm, nội dung thơ tượng trưng thường trở nên huyền bí. Baudelaire cho rằng: “Trong một số trạng thái tâm hốn hầu như có tính chất siêu nhiên, chiều sâu của cuộc sống bộc lộ toàn vẹn trong một cảnh tượng bày ra trước mắt con người, có thể là hết sức tầm thường. Cảnh tượng này là tượng trưng của sự sống” [47, tr.269]. Theo đó, có thể thấy tác phẩm mang tính tượng trưng là tác phẩm hướng đến khám phá những bí ẩn của thế giới cảm giác, vô thức, siêu nghiệm bằng những hình tượng có sức gợi cảm và có chiều sâu suy tưởng. Nói cách khác, thơ tượng trưng, siêu thực là thơ của tiềm thức, của giấc mơ, hư ảo, của sự đan cài giữa thực và ảo. Ở đó, nhà thơ không miêu tả mà chỉ gợi, nhằm phát huy tối đa sự tưởng tượng của người đọc, mang lại cho họ một siêu cảm về thế giới, sự vật, hiện tượng.
Những người theo khuynh hướng tượng trưng cho rằng Thế giới vốn “không rõ ràng” và người nghệ sĩ không chỉ cảm, hiểu được thế giới bên ngoài mà còn nhận biết được thế giới bên trong, không chỉ nắm bắt được cái hiện hữu mà còn có thể nghe được, cảm được cái vô hình, bí ẩn, mơ hồ trong thiên nhiên, cuộc sống và trong sâu thẳm tâm hồn con người.
Nếu trường phái lãng mạn thiên nhiên về cảm xúc, tính trữ tình thì tường phái tượng trưng thiên về cảm giác, tính biểu tượng. Chủ nghĩa tượng trưng hướng đến khai thác giấc mơ vô thức, đi sâu thế giới tâm hồn con người, không chỉ biểu lộ cảm xúc hiện hữu mà còn khám phá chiều sâu thế giới tiềm thức, vô thức.
Ngôn ngữ văn học vốn không bao giờ chỉ dừng lại ở một nghĩa cố định, cụ thể hay chỉ dựa vào ý nghĩa logic đúng, sai mà nó còn tìm đến trạng thái lấp lửng, mơ hồ, không sai, không đúng để đạt tới cái gọi là nhịp điệu xao động. Ngôn ngữ văn học là tiếng nói con người mải mê tìm kiếm, vì thế mà ngày càng sáng trong,
lảnh lót hơn so với thứ âm thanh của cuộc sống đời thường. Nếu ngôn ngữ thơ lãng mạn là thứ ngôn ngữ diễn cảm, thì ngôn ngữ thơ tượng trưng siêu thực là ngôn ngữ mang tính biểu tượng, vẻ như vô nghĩa, phi lý, ngôn ngữ của chiều sâu không cùng của tiềm thức, vô thức.
Chủ nghĩa tượng trưng với quan niệm mới về nghệ thuật, đã mở ra một thế giới cho tư tưởng duy thơ, giúp ta đi sâu vào cõi vô tận, khám phá những điều mơ hồ, huyền bí trong thiên nhiên, cuộc sống và trong lòng người. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng phong trào thơ mới ở giai đọan cuối thực chất là một cuộc hôn phối siêu đẳng giữa tinh hoa thơ tượng trưng Pháp, tinh hoa thơ Đường và tinh hoa của thơ cổ điển Việt Nam.
Người nghệ sĩ, theo Rimbaud, phải đến với thơ ca bằng con đường thấu thị của một kẻ có thiên nhãn. Xuân Diệu tìm thấy nơi trường phái tượng trưng một bản nhạc huyền diệu giữa ánh sáng, hương thơm và màu sắc. Vũ Hoàng Chương và Bích Khê nhận ra ở đó một thế giới âm nhạc mông mênh, hư ảo, huyền hồ. Hàn Mặc Tử tìm trong thế giới vô thức, siêu thực, bí ẩn sự siêu thẳng của tâm hồn…
Bằng linh nhãn riêng của mình, Hàn Mặc Tử đã có thể nhìn thấy được bi kịch chiều sâu của cuộc sống và lòng người. Cảnh tượng trăng vỡ chìm sâu giữa lòng giếng lạnh trong Trăng tự tử là một hình ảnh tượng trưng có sức ám gợi mạnh mẽ tâm hồn người đọc. Những hình ảnh như con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư hay con hổ sa cơ của Thế Lữ thực chất là hình ảnh ảo. Đó là phương tiện để biểu hiện tình cảm, để thể hiện cái tôi trữ tình của nhà thơ.
Hoàng Cầm viết về quá trình sáng tạo của mình: “Tôi chìm vào một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà gần như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh màu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thẳm của say mê, não nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy suyển đến một sợi mi cong…” [151, tr.201]. Trong trạng thái tâm hồn như tỉnh, như mê, vừa thực vừa ảo ấy, tiếng thơ ông như lời hồi vọng từ cõi mông lung vô thức: “Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về” [151, tr.196]. Điều ấy dù chưa đủ để khẳng định thơ Hoàng Cầm là thơ tượng trưng song cũng phần nào mở ra thế giới nội cảm khó hiểu và cảm quan nghệ thuật của thi nhân.
Đọc thơ Hoàng Cầm, về điểm này, Nguyễn Đăng Mạnh có lời nhận xét: “Trong tình hình thơ hiện nay hình như không riêng gì Hoàng Cầm, nhiều cây bút khác cũng muốn đi theo hướng thơ phi lý hay gọi là siêu thơ nói trên” [66, tr.29]. Phạm Thị Hoài thì cho rằng: “Hoàng Cầm đẹp và xa cách. Thật lạ lùng, là thực ra hầu hết những gì tạm gọi là chất liệu làm nên thế giới thơ ông đều còn nguyên cả đấy, thực ra không xa vời, không siêu nhiên hoang đường gì hết, mà hồn thơ ông vẫn là một người khách xa” [151, tr.250]. Sự “cách xa” đến khó hiểu ấy, Đỗ Đức Hiểu ghi nhận: “Thơ Hoàng Cầm âm u, lóe sáng, rồi mịt mù, xa lắc, như những huyền thoại thuở hoang sơ [151, tr.283]…
Thơ Hoàng Cầm, ngoài chất say triền miên là cái mịt mờ, chập chờn của những ảo ảnh. Đọc thơ ông, người đọc nhận ra có sự đan xen, hoà lẫn nhập nhoè giữa cái mơ hồ, ảo ảnh và hiện thực, sự chập chờn giữa hiện đại và quá khứ. Bởi, tiếng thơ ấy không phải là sự trở về của con người mà là sự trở về của ký ức, một ký ức vừa rất rõ ràng, vừa mong lung, hư huyền.
Đêm Mộc là một trong những thi phẩm tiêu biểu thể hiện điều đặc biệt ấy:
Ngủ lại giấc mơ dang dở Chũm cau căng nứt mạch tằm [Đêm Mộc, 6, tr.107] Hiện tại, quá khứ và những liên tưởng đứt đoạn, bài thơ như là niềm hoài
vọng xa xôi…
Hay Lá Diêu Bông:
Từ thuở ấy Em cầm chiếc lá đi đầu non cuối bể Gió quê vi vút gọi Diêu Bông hời… …ới Diêu Bông…! [Lá Diêu Bông, 6, tr.151] Lá Diêu Bông là giấc mơ, là ảo ảnh về hạnh phúc mà suốt đời con người cứ mãi tìm kiếm. Hạnh phúc thật đẹp mà sao cứ mãi xa vời, nên lá Diêu Bông mới hoá thành chiếc lá của huyền thoại về tình yêu. Âm vang tiếng vọng bài thơ níu quá khứ xa xôi chập vào hiện tại, rồi lại toả ra, nhạt nhoà, mờ ảo...
Thơ Hoàng Cầm, đến những tác phẩm như Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi, Cỏ Bồng Thi hay Cây Tam Cúc… thì hoàn toàn rơi vào cõi siêu thực, hư vô, người đọc
khó tìm được mã để giải nghĩa văn bản. Nhà thơ sáng tạo trong một trạng thái vô thức, siêu thăng. Câu chữ, hình ảnh vì thế khó nắm bắt được.
Nhà thơ biết lắng nghe sự cộng hưởng của những âm thanh trong cuộc sống, quan sát, miêu tả thế giới bằng tất cả các giác quan của mình. Đi giữa trang thơ, nhà thơ như bồng bềnh trôi trong cõi mong manh, hư ảo. Tiếng thơ ông vì thế như bản nhạc mà ở đó, các âm thanh cứ xô đẩy, hô ứng nhau để tạo thành một tiếng huyền diệu.
Để sáng tạo nên những tác phẩm hấp dẫn mạnh mẽ người đọc, có được vẻ đẹp độc đáo, kỳ diệu, người làm thơ phải “vượt lên cái đã biết, cái đã quen, cái đã thấy, nhà thơ cần cấu tạo nên những hình tượng độc đáo, những vần thơ vi diệu, có màu sắc, có âm thanh… nơi mà suy lý logic không phát hiện được” [153, tr.79]. Muốn vậy, theo Chế Lan Viên, đừng viết những câu thơ khuôn hình văn phạm, như những cây thẳng quá chim không về. Đọc thơ, đôi khi ta bắt gặp những hình ảnh kỳ lạ, khó hiểu, khó giải thích được, song cứ thấy rất hay, rất đẹp. Đó là kết quả của trí tưởng tượng, sự mẫn cảm, một thoáng trực cảm kỳ diệu của nhà thơ. Trí tưởng tượng của nhà thơ càng phong phú, trực giác càng nhạy bén thì càng sáng tạo nên tứ thơ lạ và nhiều hình ảnh đẹp. Những hình ảnh như thế cuốn hút người đọc không phải chỉ bởi phần sâu tâm trạng ẩn khuất sau mỗi hình ảnh mà còn ở sự độc đáo, bất ngờ, ở tính phi logic kỳ lạ của chúng. Và có khi, chính sự phi lí, phi thực tế trong thơ lại tạo nên vẻ đẹp, sự độc đáo cho hình ảnh thơ, cho tác phẩm. Một trời quan tái của Nguyễn Bính hay Biển vắng của Thanh Sơn là những thi phẩm như thế:
- Chiều nay… thương nhớ nhất chiều nay Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy Tôi uống cả em và uống cả Một trời quan tái, mấy cho say! [Một trời quan tái, 7, tr.119]
- Một cộng với một thành đôi Anh cộng cô đơn thành biển Nắng tắt mà người không đến Anh ngồi rót biển vào chai [Biển vắng, 163, tr.363] Uống bóng người yêu đã lạ, rót biển vào chai phải nói càng đặc biệt hơn. Hình ảnh thơ, cảm nhận tinh tế của thi nhân mang đến cảm giác rất lạ cho người đọc. Nó mở ra trong hồn người đọc cái muôn trùng của biển, sự mênh mông của nỗi
buồn và thêm nữa, nỗi cô đơn dằng dặc trong lòng người. Những câu thơ, những hình ảnh thơ như thế quả không nhiều và không phải ai cũng làm được.
Chỉ trong một khoảnh khắc thần diệu nào đó, người làm thơ mới tượng hình nên được những hình ảnh đẹp và độc đáo như thế. Và người đọc, trước sự diễn đạt mơ hồ, kỳ lạ ấy, khi nhận ra vẻ đẹp, sự độc đáo của ý thơ, của hình ảnh thơ sẽ thấy hết sức thú vị, sẽ nhớ lâu, nhớ mãi, có khi là cả một đời.
Chính tố chất tài hoa tài tử đã giúp thi nhân tạo nên những hình ảnh thơ độc đáo, mới lạ như thế. Những vần thơ như thế không phải người làm thơ nào cũng có thể tạo nên được, cũng như không phải cứ mang hạt gieo xuống đất là sẽ nảy mầm và thành cây. Khi nguồn cảm xúc tuôn trào bất tận, hình ảnh thơ bật ra như tiếng nói từ tiềm thức bất chợt dội lên, nghe mơ hồ mà rất rõ ràng, vừa như rất đơn giản mà khó hiểu đến lạ kỳ. Bùi Giáng, Hàn Mặc Tử hay Hoàng Cầm là những nhà thơ mà sáng tác của họ mang nhiều những hình ảnh như thế.
Thật vậy, thơ Hàn Mặc Tử, những dòng tuyệt bút của ông, là những hình ảnh
siêu thực:
- Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? (…) Áo em trắng quá nhìn không ra [Đây thôn Vĩ Dạ, 163, tr.854].
- Gió rít vầng trăng cao ngã ngửa Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra [Say trăng, 73, tr.161] Những hình ảnh như thế nếu dùng tư duy logic mà chiêm nghiệm, phân tích thì thật hoài công. Phải lắng nghe và cảm nhận bằng cả tâm hồn để nhận biết được những xung thẩm mỹ rất nhẹ, rất tinh mà dào dạt trong lòng nhà thơ mới mong hiểu được, thấy được vẻ đẹp những hình ảnh thơ trong sáng tác của họ.
Đọc những câu thơ sau đây, người được tưởng như đang bước đi trong không
gian kỳ ảo, mơ mộng:
- Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con [Mắt buồn, 40, tr.160]
- Màu con mắt bên màu xuân siêu đổ Ở bên kia nhìn trở lại bên này [Người đi đâu, 40, tr.41] Hình ảnh thơ lung linh, hư ảo nhưng đẹp và đầy sức cuốn hút. Chỉ có ngôn ngữ thơ với khả năng thần diệu của nó mới tạo nên được những hình ảnh độc đáo như thế. Thật khó lý giải cho tận, cho hay và thuyết phục vì sao sông Đuống quê hương lại nằm nghiêng nghiêng. Và có lẽ, càng chẳng nên thắc mắc: miếu Hai Cô là ở đâu, Hai Cô nào? Hay cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa là gì? Ở đâu?... Đó hẳn là những dòng chữ được viết ra từ tiềm thức, tâm thức và cả vô thức nữa. Đó là những giây phút mà “thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều lời thơ lắm khi tưởng như vô nghĩa”, nhà thơ viết [6, tr.211]. Trước những hình ảnh dẫu khó hiểu nhưng ấn tượng như thế, đọc phải bằng cảm giác, kinh nghiệm sống, khả năng nghệ thuật của mình để giải mã chúng, để cảm thụ và chiếm lĩnh vẻ đẹp, sự tuyệt diệu của nó.
Hình ảnh tượng trưng có khi đến với tình cảm, lí trí, có khi đến trực tiếp và rất nhanh với trực giác. Điều đó khiến bài thơ nhiều khi chỉ đọng lại trong người đọc một câu thơ hay một hình ảnh rất nhỏ, thậm chí chỉ một từ. Dù vậy, câu thơ ấy, hình ảnh, từ ngữ ấy sẽ lưu lại mãi mãi mà không bao giờ biến mất trong tâm tư người đọc, Với nhà thơ, khoảng khắc hình ảnh ấy xuất hiện, có khi đột ngột, bất chợt song ấn tượng và bền vững, cũng giống như cách nó đến và ghi nét trong hồn người đọc.
Quả là, cuộc đời thực dẫu bao la, rộng lớn đến vô cùng vẫn không đủ sức lấp đầy tâm tư, tình cảm con người. Thế giới ảo, dù mơ hồ, mông lung vẫn cuốn hút mạnh mẽ tâm hồn con người. Trong thế giới nội tâm của con người, có một không gian bí hiểm và vô cùng mờ ảo, đó chính là nguồn tiềm thức – thế giới của những giấc mơ và mộng mị. Có những tiếng nói, những âm thanh, những hình ảnh như đã nằm đâu đó sâu trong thế giới nội tâm của chúng ta. Với người nghệ sĩ, thế giới ấy tạo nên khả năng, cá tính đặc biệt của họ. Cuộc sống thực tại bộn bề, phức tạp nhiều khi che khuất đi thế giới tiềm thức vốn mờ nhạt, mơ hồ, lặn sâu trong hồn mỗi người.
3.2. Nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm 3.2.1. Nhạc tính trong thơ Người xưa nói: Trong thơ có họa và có nhạc. Thực vậy, thi ca, nhờ khả năng kỳ diệu của ngôn từ, đã không vấp phải những trở ngại, những hạn chế trong sự miêu tả đời sống và thế giới bên trong con người. Nó có thể khêu gợi trí tưởng
tượng của người đọc, người nghe bằng mọi hình thức: nhìn, nghe, cảm ,nghĩ… Biêlinxky vì thế đã viết : “Thơ ca là một loại nghệ thuật cao. Bất cứ một loại nghệ thuật nào khác, trong sự sáng tạo của nó, cũng đều bị hạn chế bởi thứ vật liệu trong đó nó biểu hiện… Còn thơ ca thì diễn tả bằng ngôn ngữ tự do của con người, mà ngôn ngữ thì vừa là bản nhạc vừa là bức tranh, vùa là một quan niệm rõ rệt. Cho nên, thơ ca bao hàm mọi yếu tố của các nghệ thuật khác, nó tựa hồ như bao trùm tất cả mọi phương tiện cấp riêng cho mỗi nghệ thuật khác” [79, tr.61].
Quả vậy, thơ là cuộc đời, là hiện thực nhưng trước hết, thơ là thơ. Đó là một thể loại ngắn gọn, xúc tích, có vần điệu, có sự phối hợp âm thanh, kết cấu, có những hình tượng nghệ thuật độc đáo.
Suy nghĩ về đặc trưng ngôn ngữ thơ, nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: “Ngôn ngữ thơ đến từ nơi ngọn nguồn của nó, như tia lửa bay lên từ tâm hồn con người đang xúc động, như chiếc lá non vừa từ chồi nụ nở ra. Mỗi từ như một viên ngọc nguyên thủy, mỗi giọt ánh sáng, và câu thơ như dòng nước nguồn trong suốt. Tiếng nói trong thơ là tiếng nói đầy âm nhạc, tiếng nói có nhịp điệu – nhịp điệu những âm thanh vật chất của tiếng nói con người, và nhịp điệu của những ý nghĩ, cảm xúc, hòa quyện nối tiếp nhau” [127, tr.9].
Voltaire có lần nói: “Thơ là nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn quãng đại và đa cảm” [Dẫn theo 52, tr.190]. Lê Đình Diên khi nói về mối quan hệ giữa thơ và nhạc đã khẳng định: “Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là sự hỗ trợ của thơ” [52, tr.194].
Theo Chế Lan Viên: “Thơ là bước đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thơ dễ làm say đắm lòng người song lại dễ nông cạn… Nhà thơ nếu giữ được thế bình quân giữa hai phương diện ấy, thơ sẽ đọng sâu trong hồn người” [Dẫn theo 52, tr.199]. Mối quan hệ giữa ý và nhạc, theo Chế Lan Viên, là mối quan hệ tương hỗ, cái này thúc đẩy cái kia và ngược lại.
Thơ tức là nhạc điệu và âm thanh vốn có năng lực diễn tả tình ý. “Thiếu nhạc điệu, thơ như là thứ văn xuôi trá hình, cũng như không hương không sắc, hoa nào còn gọi là hoa?” [78, tr.93]. Người xưa thường nói: “Cầm kỳ thi họa”, “thơ ca” hay “thơ nhạc”… Giữa thơ và nhạc rõ ràng có mối quan hệ, hay nói cách khác trong thơ có nhạc, lời thơ có chứa nhạc tính. Cũng bởi có mối quan hệ ấy mà trong lĩnh vực sáng tác, người ta thường phổ nhạc vào thơ hay phổ thơ vào nhạc. Nhạc tính trong thơ biểu hiện qua nhiều khía cạnh: thanh điệu, vần điệu, nhịp điệu…
Bàn về mối quan hệ giữa yếu tố âm nhạc trong thơ ca với âm nhạc trong âm nhạc, Lâm Vinh viết: “Nhạc điệu trong thơ ca và trong âm nhạc có cùng một người gốc âm thanh trong ngôn ngữ con người. Chúng có sự tuơng đồng ở sự truyền cảm trực tiếp, mạnh mẽ, tác động trước hết vào cảm giác, gây ra những phản ứng rất nhanh, rất nhạy trong tâm sinh lý con người, một cơ cấu truyền cảm gồm những yếu tố như độ cao, độ dài, độ mạnh, màu âm… Tính nhạc ấy là phần quan trọng làm lên cái hồn dân tộc trong thơ” [149, tr.58-59].
Thực vậy, yếu tố nhạc trong thơ có vai trò đặc biệt quan trong trong việc thể hiện tiếng nói tâm hồn thi nhân. Từ xưa, người ta đã ý thức được tính biểu cảm của ngôn ngữ, vì thế họ có lối nói có vần, có nhịp, ngâm thơ, ngâm vịnh. Người nghệ sĩ nếu biết pha trộn hài hòa các thanh bằng trắc sẽ thu được chất nhạc trong thơ mình. Đó là một phương diện đặc biệt trong nghệ thuật sáng tạo của thơ ca.
Tiếng Việt vốn rất giàu nhạc điệu, ở đó, “các thanh bằng và trắc với các dấu huyền, hỏi, ngã, nặng, sắc tạo cho ngôn ngữ một nhạc điệu uyển chuyển, thanh thoát. Nhạc trong thơ cổ được tổ chức trong khuôn khổ của cấu trúc thơ cách luật. Trong thơ tư do, nhạc điệu liên kết từ nhiều yếu tố, âm thanh của từ, tiết tấu, cú pháp thi ca” [54, tr.6]. Một trong những yếu tố tạo cho tiếng việt có tính nghệ thuật là nhờ yếu tố nhạc tính của ngôn ngữ. Tiếng Việt thường có vần điệu, nhịp điệu, tiết tấu, âm thanh. Xuất phát từ đặc điểm đó mà tiếng việt được xem là “tiếng chim ca”, “tiếng dân ca”. Thực vậy, “Tiếng Việt là một thứ tiếng chứa rất nhiều âm hưởng và đủ năng lực diễn tả được tất cả những tình cảm phức tạp trong lòng người” [78, tr.95].
Trong thơ cũ, ý nghĩa của thơ được tạo từ những nghĩa hầu hết có sẵn ở các từ còn tính nhạc của thơ được tạo ra bằng âm thanh những từ được lựa chọn, sắp đặt cốt sao khuôn theo những thi điệu có sẵn. Âm thanh và ý nghĩa trong thơ cũ, do vậy bị tách ra hai hướng khác nhau. Nội dung thơ vì thế mà “tầm thường” và nhạc điệu thơ thì “trống rỗng” – theo Hoài Thanh. Trong thơ mới, bằng phép dùng từ mới, bằng phép đặt câu riêng, mới và đặc biệt là bằng nhạc điệu thơ, nhà thơ tạo ra những hàm nghĩa cho từ, cho thơ. Ở đó, âm thanh của từ được đưa vào tiết tấu nhằm biểu hiện nhạc điệu tâm hồn của nhà thơ. Nội dung thơ vì thế mà tinh tế và độc đáo. Sự quan tâm đến yếu tố nhạc điệu trong thơ khiến thi phẩm càng giàu tính thẩm mĩ và và xích lại gần nhau nhiều tâm hồn đồng điệu. Dễ hiểu vì sao những tuyệt tác thơ ca thường là những thi phẩm mang tính nhạc cảm. Tiêu biểu như Nhị hồ, Nguyệt cầm của Xuân Diệu, Buồn đêm mưa của Huy Cận, Sưong rơi của Nguyễn Vỹ, Tiếng
sáo Thiên Thai của Thế Lữ hay Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi… của Hoàng Cầm…
Bài thơ thực chất là một kết cấu âm nhạc. Mỗi thể thơ có một mô hình âm luật với vần điệu, nhịp điệu riêng. Nói về tính nhạc trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên viết: “Phong cách dân tộc của Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất vững các âm điệu, vần điệu của dân tộc” [Dẫn theo 149, tr.60]. Xuân Diệu thì nói về thơ của Nguyễn Du: “thơ Nguyễn Du tập trung vào tâm tình, tạo ra hình tượng và rất chú ý đến nhạc, đến điệu” [Dẫn theo 149, tr.60].
Cũng một đề tài nhưng mỗi thời đại thơ ca có cách nói, giọng nói riêng. Và mỗi nhà thơ trong bản hòa tấu chung của thời đại lại tạo cho mình một sắc điệu riêng, giọng điệu riêng. Từ xưa, các nhà thơ cổ điển đã nhận ra: thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc. Bấy giờ, khái niệm thanh văn đã được chú trọng như các khái niệm hình văn và tình văn. Bởi ý thức được tầm quan trọng của “thanh văn” mà người làm thơ luật Đường đã tuân thủ những yêu cầu rất chặt chẽ về thanh vận. Dù vậy, trong thơ cổ điển, việc tổ chức bài thơ theo sự dìu dắt của âm nhạc vẫn chưa được đặt ra. Phải đến thơ mới, tố âm nhạc mới thực sự trở thành chuẩn mực cao nhất của cái đẹp trong thơ. Nếu cho rằng quá trình sáng tác của người nghệ sĩ là cuộc hành trình đi tìm cái đẹp thì cái đẹp đó thể hiện ở sự hội tụ thế giới âm nhạc trong thơ ca. Theo đó, âm nhạc trở thành đặc trưng nỗi bật, là nhịp mạnh của thơ mới.
Nói đến tính nhạc trong thơ phải kể đến những tài thơ như: Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy Cận và Hoàng Cầm. Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, âm hưởng mới nhẹ nhàng, thanh thoát làm sao. Như bản nhạc tuyệt diệu, tác phẩm của ông được xem là nhà “thẩm âm” bậc nhất trên thi đàn. Buồn đêm mưa của Huy Cận thì đem lại cảm giác nặng nặng, buồn buồn mà lẻ loi, hiu hắt… Tiếng mưa đều đều thanh thoát từng giọt trong lòng thi nhân khiến ta cảm nhận được sự chán nản, u hoài trong hồn ông:
- Đêm mưa làm nhớ không gian Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la. Tai nương nước giọt mái nhà Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn. Nghe đi rời rạc trong hồn Những đêm xa vắng dặm mòn lẻ loi. Rơi rơi… dìu dịu, rơi rơi… (Huy Cận, Buồn đêm mưa)
- Tiếng địch thổi đâu đây,
Cớ sao nghe réo rắt? Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt. Mây bay… gió quyến… mây bay, Tiếng v…i v…út như khuyên van như dì…u dặt. Như h…ắt h…iu cùng h…ơi gi…ó h…eo may. (Thế Lữ, Tiếng trúc tuyệt vời) Thế Lữ bằng ngòi bút tài tình và một tâm hồn rộng mở, đã đem đến cho đời một tiếng thơ êm ái đến lạ lùng, đọc lên như thấy mát mẻ, êm dịu cả tâm hồn. Những Tiếng sáo Thiên Thai, Tiếng trúc tuyệt vời của thi nhân khiến ta tưởng như nghe thấy, “trông thấy” được những âm thanh diều dặt, trầm bổng khi lên khi xuống, khi theo con hạc trắng vút lên tận từng mây, khi uốn mình nhảy múa trong không như người ngọc nữ, khi lại là là trên ngọn cây hay lướt bên bờ suối” [78, tr.105]. Ý nghĩa vẻ đẹp của những bài thơ không chỉ biểu hiện qua hình ảnh, từ ngữ, mà toát lên từ thanh âm của tiếng lòng thổn thức.
Nghiên cứu những dòng thơ lục bát của Tố Hữu và Nguyễn Du hay những câu lục bát trong văn học dân gian, ta nhận ra những quy luật về hòa âm và hòa thanh trong việc xây dựng một hệ thống hòa âm và hòa thanh đồng dạng, có tính kế thừa, tính truyền thống và có tính cách tân. Đó chính là hệ thống các âm bằng, trắc trong dòng sáu chữ và dòng tám chữ trong tương quan với dòng sáu.
Tản Đà mơ mộng, đa tình với những câu thơ của từ khúc, ca trù, phong thi, những thể điệu dân gian. Trong những thể điệu ấy, ngôn ngữ thơ của ông cổ điển và tài hoa song cũng in đậm dấu vết ngôn ngữ dân gian. Cũng vậy, Thơ Nguyễn Bính say lòng độc giả bởi những bài thơ mang thể điệu dân gian, theo lối dân ca, ca dao, giao duyên, tình tứ, mà giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói chốn thôn quê...
Hình ảnh và âm thanh nếu được kết hợp một cách tài tình, tiếng thơ sẽ trở nên độc đáo, đặc sắc. Trong câu thơ Đoàn Thị Điểm, tiếng trống và ánh trăng như hòa lẫn vào nhau: Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt; câu thơ Hồ Chủ tịch, tiếng suối và ánh trăng cũng như hòa làm một: Tiếng suối trong như tiếng hát xa - Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Tính nhạc trong văn học không chỉ thể hiện ở sự miêu tả âm thanh, mà còn tồn tại ngay trong bản thân ngôn ngữ. Nguyễn Phúc vì thế đã viết: “Mỹ cảm về tính nhạc qua cái trầm bổng của thanh điệu, cái khoan nhặt của tiết tấu trong ngôn ngữ là điều dễ nhận thấy trong thể loại thơ ca” [78, tr.147]. Một câu thơ được gọi là dịu
dàng, dồn dập, vang dội hay bay bổng… chỉ khi nào cách tổ chức âm thanh phù hợp với nội dung được biểu dạt cũng dịu dàng, dồn dập, vang dội, bay bổng. Khi ấy, thơ được xem là có tính nhạc.
Thơ vốn bắt nguồn từ cuộc sống, là ngôn ngữ bình thường trong cuộc sống nhưng từ một góc độ nào đó nó mang tính âm nhạc. Việc nghiên cứu nhịp điệu, ngữ điệu của thơ, theo đó rất cần thiết. Dù vậy, lâu nay, trong nghiên cứu thơ, người ta chưa chú ý nhiều đến tính nhạc của thơ. Tuy nhiên, nghiên cứu thơ nếu chỉ chú ý đến mặt âm thanh mà không quan tâm đến yếu tố ngữ nghĩa thì sự nghiên cứu cũng không trọn vẹn, đúng đắn.
Trước đây, những người trong nhóm Xuân Thu nhã tập đã có xu hướng tuyệt đối hóa vai trò của tính nhạc trong thơ: “Một bài thơ là do sự phối hợp những âm thanh, chữ, hình ảnh biểu hiện, theo những niêm luật rõ rệt hay tiềm tàng để khơi nguồn lưu thông cái run rẩy huyền dịu của thơ” [Dẫn theo 53, tr.155]. Họ nhấn mạnh: “Rung động có lan trên cánh nhạc mới thực hiện Thơ. Và hồn thơ có lưu thông trên khí nhạc mới bắt kịp Đạo, cái đệ nhất nguyên lý, cái lẽ phải cuối cùng” [53, tr.155]. Chính quan niệm ấy khiến họ viết nên nhiều câu có những nét âm thanh kỳ lạ và nội dung mờ mịt.
Theo Viên Mai, trong Tùy viên thi thoại, từ xưa người ta đã chú ý đến vai trò của nhạc điệu trong thơ. Trong bốn điều Ngu Thuấn nói về cách làm thơ: “thơ ngôn chí”, “ca vĩnh ngôn”, “thanh y vĩnh” và “luật hòa thanh” thì hai điều sau là thuộc về nhạc điệu trong thơ. “Luật hòa thanh” gồm nhiều điều nhưng trong đó việc tổ chức nhịp điệu, vần và ngữ điệu trong thơ là tất yếu. Sự hài hòa về âm thanh làm hiện ra tứ thơ trong khi sử dụng từ ngữ, hình ảnh, là kết quả của “luật hòa thanh”.
Phân tích yếu tố nhạc điệu trong thơ, nhà thơ Lê Đức Thọ cho rằng: Cần chú ý đến nhạc bên ngoài và nhạc bên trong, trong đó, nhạc bên trong là rất quan trọng. Thực vậy, chính nhờ có nhịp diệu bên trong tâm hồn nhà thơ mà tiếng thơ không trở nên sáo rỗng và đọng lại sâu trong lòng người đọc. Nhạc trong thơ tạo độ súc tích, tạo sinh khí cho thơ. Nhạc bên ngoài biểu hiện qua yếu tố ngôn từ, ở cách tổ chức nhịp điệu, vần điệu, ngữ điệu trong thơ. Còn nhạc bên trong thuộc về tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ, là niềm vui, nỗi buồn, sự bâng khuâng xúc động…, là nhịp tim, nhịp thở của người làm thơ. Nhạc bên ngoài là hình thức, là sự thể hiện nhạc điệu tâm hồn nhà thơ bằng hệ thống tín hiệu ngôn ngữ, qua cách dùng từ, đặt câu, tổ chức nhịp điệu, vần và ngữ điệu. Đoạn thơ dưới đây trích trong Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Đưa người/ ta/ không đưa qua sông Sao/ có tiếng sóng/ ở trong lòng Nắng chiều/ không thắm/ không vàng vọt Sao/ đầy hoàng hôn/ trong mắt trong (Thâm Tâm,Tống biệt hành) Nhạc bên ngoài biểu hiện ở cách gieo vần (vần ong, ông, ăng) và ở nhịp điệu câu thơ. Và nhạc ở bên trong toát lên từ tiếng sóng ở trong lòng, hoàng hôn trong mắt trong, ở những tình ý sâu kín gửi trong lời thơ. Sự hòa điệu hai chất nhạc ấy tạo nên giai điệu da diết buồn thuơng, sự bâng khuâng, lưu luyến, nỗi băn khoăn, trăn trở... Nhạc bên ngoài và bên trong giống như nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ vậy. Từ nhạc bên ngoài ta có thể thâm nhập tìm ra nhạc bên trong của bài thơ.
Tóm lại, không phải là âm nhạc, mà bằng cách riêng của mình, văn học mô tả được vẻ đẹp của âm thanh. Ngôn ngữ thơ ca và ngôn ngữ âm nhạc có những nét tương đồng, và hiển nhiên, cũng có những điểm khác biệt. Chúng đều có sự hòa âm, có quãng cách giữa các nhịp, độ dài ngắn của các âm. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ thơ, quãng cách ấy không xác định rõ ràng như trong âm nhạc. Một câu thơ có thể ngắt nhịp theo nhiều cách khác nhau, biểu hiện những khía cạnh nội dung và giá trị thẩm mỹ khác nhau. Trong thơ, sự phân bố độ dài ngắn của các âm trong từ cũng không có sự chính xác cố định như trong âm nhạc. Việc nghiên cứu ngôn ngữ thơ cần chú ý đến tính âm nhạc trong nó, chú ý đến sự đan chéo của ngôn ngữ và âm nhạc trong thơ, và chú ý cách khai thác, đánh giá chất nhạc trong thơ khác với chất nhạc trong nhạc phẩm.
Nghiên cứu, tìm hiểu, phát hiện cái hay, nét đẹp của một tác phẩm thơ, không thể không bàn đến chất nhạc tiềm ẩn trong nó. Khi ấy, thi phẩm mới được chiếm lĩnh một cách trọn vẹn cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Đó là điều mà người nghệ sĩ, trong quá trình tạo dựng tác phẩm đã dày công vun đắp nên.
3.2.2. Nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm Trong lĩnh vực thơ ca, đôi khi có những bài thơ, câu thơ hay nhưng lại rất khó giảng, khó bình, khó nói hết cái hay của nó mà chỉ cảm thấy được thôi. Theo Hoàng Cầm: “Ngoài ý nghĩa cụ thể của từng câu, từng chữ, thơ lại còn nhạc điệu, mà theo tôi hiểu, nhạc điệu của một bài thơ lại chính là chiếc xe chở cái hồn của bài thơ đi để nhập, để hòa với hồn người đọc” [6, tr.211]. Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm mang đầy nhạc điệu, bởi “nó phát huy cao độ tính nhạc của ngôn ngữ và chất say
của thơ” [109, tr.102]. Nhạc điệu trong thơ ông là nhạc điệu của tâm hồn, của cảm xúc thăng hoa, miên man bất tận chảy vào hồn người đọc.
Thơ ca và âm nhạc trong chừng mức nào đó, gần gũi nhau về nhiều phương diện. Thơ Hoàng Cầm, âm thanh và chữ nghĩa, giai điệu của cuộc sống và cảm hứng sáng tạo của nhà thơ có sự giao thoa, cộng hưởng đặc biệt, tạo nên những vần thơ đầy nhạc tính, hấp dẫn, cuốn hút người đọc. Quả vậy, người thi sĩ tài hoa luôn biết cách đưa nỗi niềm tâm trạng vào câu chữ, tạo vần điệu, nhịp điệu, chất nhạc cho lời thơ. Thơ Hoàng Cầm theo đó, mang đến cho người đọc một thế giới âm nhạc mơ màng, quyến rũ.
3.2.2.1. Thanh điệu Tiếng Việt thuộc ngôn ngữ đơn âm tiết và có hàm chứa âm điệu thể hiện qua sáu thanh điệu. Thanh điệu tạo nên những giai điệu, những cung bậc trầm bỗng, du dương cho ngôn ngữ. Phân tích tính nhạc trong thơ không thể không bàn đến yếu tố thanh điệu – yếu tố làm nên giai điệu, tính nhạc cho bài thơ.
Trong văn xuôi, thanh điệu có thể có mối quan hệ đến ý nghĩa không nhiều, nhưng với thơ, thanh điệu chính là phương tiện biểu hiện dựa vào các phụ âm, nguyên âm có quan hệ đến độ cao, độ vang, độ dài của âm thanh. Âm điệu trong một bài thơ thường sẽ biến đổi theo nội dung nghĩa mà lời thơ biểu hiện. Sự biến đổi âm điệu không ngoài mục đích thẩm mỹ của bài thơ nhất định sẽ đem lại tiếng thơ hay, độc đáo.
Bên cạnh cách gieo vần đầy sáng tạo, Hoàng cầm tạo nhịp cho thơ bằng việc khai thác các yếu tố về thanh điệu. Đọc thơ ông, người đọc tưởng như đang được thưởng thức những giai âm nhẹ nhàng, sâu lắng miên man vọng về từ sâu thẳm tâm hồn ông. Tiếng thơ Hoàng Cầm nhẹ nhàng, thâm u, trầm mặc như âm vang từ cõi mông lung nào vọng lại. Nhạc thơ ấy như xóa nhòa ranh giới giữa thực và mơ, giữa hiện tại và quá khứ. Chính việc sử dụng nhiều thanh bằng đã đem lại điều này cho thơ ông:
- Mà mê lộ mờ xanh Chuông lưng chừng tan nhanh Hoàng hôn mời anh ngồi Bẽ bàng chưa lên ngôi [Đường vào mê, 6, tr.275]
- Từ trinh trắng nào tròn trăng quanh năm Sao hôm nay ai xui bơ vơ em về xa mê câm [Tương biệt hành, 6, tr.295]
Những dòng thơ nhiều thanh bằng đem lại cảm giác êm đêm, nhẹ nhàng trong hồn người đọc. Những câu thơ như thế vốn rung lên từ cảm xúc rất tinh tế trong hồn thi nhân. Âm điệu thanh bằng với âm vực thấp khiến giai điệu lời thơ nghe êm ái, mênh mang, sâu lắng. Không gian và thời gian trong thơ theo đó như mở rộng ra, dài rộng hơn.
Thi sĩ như người nhạc công có cây đàn muôn điệu để ngợi ca vẻ đẹp – vẻ đẹp u trầm đắm đuối hay ngây thơ, vẻ đẹp cao siêu hùng tráng của non nước, của thi văn tư tưởng. Những điệu thơ mới du dương, êm ái làm sao:
- Đi lên đi lên đây mây hồng Hãy ngừng cả lại tiếng chuông rung Mõ ngừng hết những lời cầu nguyện Mắt nhắm đi… Đếm một đến vô cùng [Võng thiên không, 6, tr.419] - Đọc thiên thư sang trang mây trắng Thấy nét chim đàn phác thảo một dòng thơ (…) Bìa đen dày đêm nay chẳng hỏi Mấy ngôi sao mờ minh họa chuyện tương tư [Sách trời, 6, tr.421] Thơ Hoàng Cầm không thuộc trường thơ âm vực cao, hơi thơ, khí thơ không mạnh mẽ, réo rắt, dồn dập. Thơ ông âm vực thấp, giọng điệu trầm buồn, sâu lắng. Nỗi ngậm ngùi man mác hay u uẩn, nghẹn ngào ấy nhiều khi được biểu hiện không phải bằng yếu tố ngữ nghĩa mà chính bằng nhữngdấu lặng, những chỗ lặng im, không nói trong câu thơ:
- Vẫn từ bến ấy em đi Gặp anh sóng sánh mê ly chẳng ngờ Trăng trắng nõn mắt mê mờ Thân hồng phấn vậy… đâu chờ… ngỡ không [Điệu lý cuối đời, 6, tr.421] - Sang xuân ai biết nhỡ khi Hoa mai trắng phải đến thì mẹ không Nhỡ khi mẹ bước theo chồng Má lùi hết nằng …cầu vồng… cơn mưa Tiếng con sao mẹ không thưa Con vừa lên tám... [Má lùi hết nắng, 6, tr.437]
Biệp pháp trùng điệp đuợc Hoàng Cầm sử dụng rất nhiều trong thơ mình. Nếu các thể bốn tiếng, năm tiếng, bảy tiếng và lục bát, tác giả dùng nhiều phương tiện điệp cụm từ và câu thì những bài thơ tám tiếng, thơ tự do và hợp thể, nhà thơ sử dụng nhiều các hình thức trùng điệp âm, thanh và từ:
- Lắm loài sung sính sinh đôi [Thua một không, 6, tr.286] - Buồm pha lê thiên không nức nở [Hội yếm bay, 6, tr.291] - Nắng em nắng đến siêu hình Như môi như mắt như mình như không [Nghĩ thương, 6, tr.261]. - Nhớ về mắt Em Ới thương là thương Động gót mưa xuân Cưới mặt trời hè Ới thương là thương Gà con nhớ mẹ Cỏ vàng rung chân Ới thương là thương [Đếm nắng, 6, tr.157] Các phương tiện trùng điệp về âm thanh mang lại tính nhạc cho thơ Hoàng Cầm. Việc sử dụng khá nhiều thanh bằng khiến điệu thơ ông nhẹ nhàng, êm ru như ánh nắng chiều trên quê hương Kinh Bắc. Âm điệu trong thơ Hoàng Cầm, theo đó, ngọt ngào và đầy quyến rũ:
Về nguồn em tắm mát Hương cau đầu câu ru Sữa mẹ Ngân Hà ngát Nghe đâu từ muôn xưa [Về nguồn, 6, tr.348] - Chuông sớm có nghiêng về mộng cũ Nhường em vướng tóc sợi mây xa? Bàn tay chắp cánh chưa nguôi nhớ Có buộc làn hương thoảng lướt qua? [Chùa Hương, 6, tr.237-238]
Nhạc điệu như thấm vào trong từng vần thơ, làm ngân dài niềm cảm xúc miên man, bất tận. Đọc thơ Hoàng Cầm, ta cảm nhận được trong sáng tác ông nỗi cô đơn, buồn bã, sự u uất, dằn vặt, khắc khoải đầy suy tư. Điều đó toát lên từ giọng điệu thấm đẫm nỗi buồn thương tha thiết. Thật vậy, hiều bài thơ Hoàng Cầm, nỗi buồn, sự xót xa như thấm trong câu chữ, vần điệu, nhạc điệu của lời thơ. Sắc điệu hắt hiu, man mác, ngậm ngùi là cung điệu tâm hồn ông. Theo ý thơ, điệu thơ, nỗi ngậm ngùi như kéo dài, như trải ra man mác, trong không gian, thời gian và thấm sâu vào trong lòng người.
Điệu thơ Hoàng cầm tự nhiên như lời thì thầm thốt ra từ đáy lòng thi nhân khiến người đọc cảm thấy gần gũi, thân thiết như thể đang đọc chính mình, đang nghe chính mình:
- Chỉ một phương một lòng
Vỗ yên nguôi sóng gió Miệng em cười lấp ló Trong ửng hồng bên sông [Một phương, 6, tr.240] - Hỏi gió – nghe lời than thoảng nhẹ
Chưa mờ phác thảo vết đau xưa Như cười – cay đắng – thời con gái Lá nguyện vùi sâu đáy mắt thơ [Ngỏ với gió biển, 6, tr.258] Nhịp thơ, hơi thơ, giọng thơ và hồn thơ sao da diết, buồn thương. Âm điệu, tiết tấu và lời thơ có vai trò quan trong trong việc thể hiện nỗi niềm ấy. Những dòng thơ nhiều cung bậc, sắc thái điệu cảm được viết ra từ ngón bút tài hoa càng làm đẹp hơn tiếng thơ đầy chất nhạc ấy:
Chao ôi bất chợt thương em Chợt yêu chợt nhớ về đêm rãi rầu Sao em mắt sáng soi đau Hàng mi rủ xuống bến sầu nào đây Như tê gượng nét cười này Như nghe nước mắt ứ đầy chẳng rơi [Bất chợt vĩnh hằng, 6, tr.417] Sự phối hợp nhiều âm tiết mang thanh điệu khác nhau trong một dòng hay một đọan thơ không làm mất đi chất thơ trái lại tạo nên cảm giác dễ chịu cho người
đọc. Ta tưởng như đang nghe bằng tâm linh điệu hồn của thi nhân hay những lời tâm tình rứt từ gan ruột. Những dấu huyền bùi ngùi, dấu sắc vắng xa, tâm tình thi nhân lan tỏa ngoài sức biểu đạt của lời thơ.
Cũng như nhịp, âm điệu thơ cũng có khả năng mô phỏng, hình tương hóa đối tượng được miêu tả. Nhà thơ bằng tài nghệ đặc biệt của mình, biến nhạc điệu vốn phong phú của tiếng Việt thành sức mạnh, thành những đặc sắc riêng của thơ mình.
3.2.2.2. Vần điệu Lời thơ Hoàng Cầm là một lời thơ đầy nhạc điệu. Chất nhạc ấy được tạo ra trước hết từ các kết hợp vần trong thơ ông. Không phải ngẫu nhiên mà Hoàng Cầm rất chú ý đến việc sử dụng và phối hợp vần trong thơ mình. Thi nhân không chỉ hiểu rõ tầm quan trọng của yếu tố nhạc tính trong thơ mà quan trọng hơn, đã thấy rõ vai trò to lớn của vần trong việc tạo nhạc cho thơ.
Lời thơ hàm chứa nhạc tính nên giữa lời thơ và làn điệu, rộng ra là âm nhạc, có mối quan hệ hữu cơ và tương tác với nhau. Lời thơ, có thể nói, vừa là nguyên liệu của âm nhạc, vừa là điều kiện để hình thành ca từ. Trong giao tiếp hằng ngày, ngôn ngữ được sử dụng chỉ đòi hỏi diễn đạt đúng từ pháp, cú pháp mà không cần có tính nghệ thuật như: vần, nhịp, đối… Trong thơ, sự hòa phối những yếu tố hình thức: vần, luật, nhịp điệu, trọng âm, trường độ theo những nguyên tắc nhất định sẽ làm tăng sức biểu cảm và khả năng biểu nghĩa cho lời thơ, tạo nên một ma lực kỳ diệu cho việc biểu đạt.
Những yếu tố hình thức như vần, nhịp kỳ thực đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự biểu đạt nội dung thơ. Vần thơ giúp làm nổi rõ mặt ngữ âm của bài thơ và biểu hiện sắc độ cảm xúc của hồn thơ. Thực vậy, việc xây dựng âm thanh theo những nguyên tắc nhất định phản ánh được một cách hiệu quả chiều sâu suy tưởng, thế giới nội tâm, tâm hồn, độ cảm xúc của thi sĩ.
Theo Tố Hữu, “Vần là điểm huyệt của thơ. Vần dừng lại để hội tụ ý và nhạc. Vần là sáng tạo kỳ diệu của thơ. Thơ của dân tộc nào cũng chú ý đến vần. Bỏ vần là không khôn ngoan. Vần là một yếu tố của nhạc” [54, tr.6]. Vì thế, người làm thơ, theo ông, “phải tạo cho các chữ trong một câu thơ nhiều khả năng hiệp vần, âm thanh bắt lấy nhau, dựa vào nhau” [54, tr.6-7]. Để cho, những vần nối tiếp ấy sẽ tạo âm hưởng đặc biệt cho thơ. Vần thơ nếu được gieo ở những vị trí thích hợp, bởi những từ mang lượng thông tin cao trên nền nhịp nhất định, câu thơ, bài thơ sẽ có sức biểu cảm cao.
Song, điệu và vần, theo Lưu Trọng Lư, không phải là chuyện hình thức. Trước một cảm xúc nào đó, chọn một thể loại, một điệu thơ cho thích hợp để nói được tâm tư, tình cảm của mình quả là điều thần diệu của tâm hồn và nghệ thuật thơ.
Vần là sự lặp lại những khuôn âm giống nhau hoặc tương tự nhau ở giữa hoặc cuối dòng thơ nhằm tạo nên sự hòa âm cho ngôn ngữ tho ca. Không chỉ vậy, vần làm tăng sự liên tưởng, sức mạnh biểu đạt của câu thơ, bài thơ. Vần tạo sự liên kết các dòng thơ và cùng với nhịp, nó tạo điểm nhấn nghệ thuật, hiệu ứng thẩm mỹ trong dụng ý của nhà thơ. Vần thơ được tạo nên nhờ sự lặp lại các khuôn vần giữa các âm tiết trong các dòng thơ theo những quy luật phối âm nhất định. Vần lại thường được gieo ở các tiếng cuối nhịp, tiếng mang âm lượng nặng nhất và có trường độ dài nhất trong dòng thơ. Câu thơ nhờ có vần điệu mà khi đọc lên, người đọc có được cảm giác như đang hát, như được hòa diệu cảm xúc của mình cùng chất thơ bay bổng. Ý thức được điều này mà mỗi nhà thơ thường tạo sự linh hoạt trong cách gieo vần để tạo âm hưởng riêng cho thi phẩm mình.
Thơ Hoàng Cầm gần gũi với thơ cổ điển, đặc biệt là những bài thơ ở thể bảy tiếng. Đa số các bài thơ đều được chia khổ, mỗi khổ thông thường là bốn dòng. Những bài thơ như: Lá nhớ, Khi em đi xa, Chùa Hương hay Thơ gởi đến người… đều là những bài thơ như thế. Đọc thơ ông, có cảm giác âm vận cứ đuổi nhau, nhạc điệu cứ kéo dài mãi ra để rồi tạo nên một hồn thơ say mê ngất lịm.
Cách gieo vần trong thơ bảy tiếng của ông thường là vần ôm, gián cách hoặc ba vần, còn ở thể lục bát là vần lưng và vần chân. Có thể dẫn ra một vài trường hợp như:
- Buồm mở hay chìm ơi biển xanh Bàn chân dò dẫm chậm hay nhanh Khói mây tan hợp mưa hay nắng Ru vỗ bồ câu có mỏng manh? [Thơ gửi đến người, 6, tr.251] - Kiếp trước ríu ran em Vệ nữ
Chiều lên đỉnh núi bế thương yêu Kiếp này trả giá vào cơn lốc Dìm thủy tinh cung những mắt kiều [Trả giá, 6, tr.293]
- Bật sáng chân mây một điệu đàn Biển Đông bừng chớp mắt Kiều Loan Mắt điên mắt sóng đêm huyền diệu Xanh thẳm hang mi bến hợp tan [Em có về không, 6, tr.314] Nhạc điệu trong thơ Hoàng Cầm được tạo ra trước hết từ những cách kết hợp
vần rất lạ, tạo nên những chuỗi âm thanh hết sức độc đáo:
- Tình cờ đâu triệu triệu năm Bỗng nằm bỗng thắm bỗng chằm hai thân [Giọt mưa phương Nam, 6, tr.269]
- Luồn tay ôm say giấc bay lay đỉnh núi [Thi đánh đu, 6, tr.164]
- Thơ rằng: Mừng nay đức chính cao minh Bốn phương hòa thuận, thái bình muôn dân Hỡi ôi Thơ diễn đủ vần [Chân trời tua tủa mảnh chai, 6, tr.82] Những dòng thơ như thế, dòng nhạc ngân dài bất tận, đưa mảnh hồn say sưa, ngất lịm của thi nhân hòa điệu cùng tâm hồn người đọc. Sức gợi cảm của thơ ông cũng bắt nuồn từ đây.
Thơ Hoàng Cầm, đặc biệt những bài thơ hợp thể, bài nào cũng gieo vần,
thậm chí gieo vần dày đặc:
- Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi kén được một người nụ cười chếch đôi mắt lạ vồn vã đến thong dong thua rồi lửng lơ đi [Hội vật, 6, tr.132]
- Tôi bỏ lại phía bên kia núi tím Nhức nhối ngực trần căng – xe tim chìm lịm Bến sông chiều le lói gọi xanh xưa [Hai phía núi, 6, tr.260] Việc gieo vần như thế tạo sự liên kết cần thiết cho bài thơ, và nhạc điệu cũng toát ra từ đó. Khác với thơ cổ điển, thơ tự do và hợp thể, khi niêm luật đã không còn, người làm thơ chú trọng đến phương thức liên kết khác cho bài thơ – sự liên kết bằng nhạc điệu. Những vần chân, vần lưng được nhà thơ sử dụng rất linh hoạt, mềm mại, uyển chuyển thơ nhờ đó mà lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc.
Việc tổ chức thanh điệu trong lời thơ theo luật bằng trắc để tạo vần điệu góp phần hình thành làn điệu cho thơ. Những thanh có âm điệu bằng phẳng như thanh ngang, thanh huyền thuộc vần bằng; các thanh có âm điệu cao hoặc thấp như sắc, hỏi, ngã, nặng thuộc vần trắc. Tùy vào mỗi thể thơ, các câu trong bài thơ hiệp vần bằng hoặc vần trắc. Thơ lục bát chủ yếu hiệp theo vần bằng:
Sao anh ghìm bước chân anh Ngăn sông chảy tới lối quanh vườn thiền Sao em không phút nào yên Loay hoay chống đỡ hồn nghiêng bão tình [Tập Kiều, 6, tr.290] Thơ Hoàng Cầm sử dụng nhiều vần chính, vần chân. Nhiều bài thơ của ông,
ta thấy có sự kết hợp nhịp nhàng, nhuần nhuyễn hai loại vần này:
Chưa bán được một đồng Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp bên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu… Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ [Bên kia sông Đuống, 6, tr.26] Sự kết hợp ấy tạo độ hòa âm sâu sắc cho bài thơ, nhạc thơ theo đó càng hiện
rõ, điệu thơ càng hay, ý càng sâu.
Mở đầu bài thơ Tiếng hát sông Hương, Tố Hữu viết:
Trên dòng Hương Giang Em buông mái chèo
Trời trong veo Nước trong veo Em buông mái chèo Trên dòng Hương Giang (Tố Hữu, Tiếng hát sông Hương) Bốn âm tiết mang vần eo có tác dụng tô đậm sự cô đơn lẻ loi, buồn bã, quẩn
quanh không lối thoát của người con gái sống kiếp giang hồ trong xã hội cũ.
Vần rõ ràng giúp tạo sắc thái ý nghĩa cho thơ. Chẳng phải ngẫu nhiên thiên Truyện Kiều của Nguyễn Du được xem là kiệt tác bất hủ được người đọc bao thế hệ yêu thích, trân trọng. Bằng biệt tài gieo vần, phổ nhịp độc đáo, nhà thơ đã tạo được âm hưởng riêng cho thơ mình để giá trị nội dung tư tưởng và thẩm mỹ của tác phẩm in sâu mãi trong hồn người đọc.
Những câu thơ sau trong Đồng Chí của Chính Hữu có cách gieo vần rất lạ và
rất hay:
Anh với tôi đôi người xa lạ Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn mình thành đôi tri kỷ (Chính Hữu, Đồng Chí) Nhịp thơ như co lại và vần thì khá linh hoạt khiến đoạn thơ mang âm điệu
nhẹ nhàng, sâu lắng, lay động hồn người mạnh mẽ.
Vần trong thơ Hoàng Cầm cũng vậy, liên kết chặt chẽ, mật thiết, xoắn xuýt với ý, với lời khiến âm hưởng bài thơ cứ vọng mãi, làm đọng lại nỗi thổn thức khôn nguôi trong lòng người đọc:
-Anh hứa rất nhiều Anh cho em cả trời mây trái đất Bệnh em cần một giọt nước mắt Anh vội vàng đi hái thuốc tiên Lên rừng xuống biển Mặt lo toan nắng võ ưu phiền Bơ phờ tóc héo… [Hứa, 6, tr.36]
- Em đâu biết khi lá vàng kêu xáo xác Dẫu còn treo lay lắt ngọn cây bàng
Chỉ loáng thoáng lời thở than phận bạc Là đủ thẫm hai vầng thâm ngơ ngác Với nét nhăn dài bạc má đến nghìn năm [Số phận, 6, tr.371] Các âm tiết được hiệp vần trong đoạn thơ ngân lên như những nốt nhạc trữ
tình, tha thiết, sâu lắng.
Thơ Hoàng Cầm, có những tác phẩm, các yếu tố âm thanh tương đối xa nhau về cấu âm khiến thơ khó đọc. Hiện tượng này tạo độ sâu lắng của cảm xúc, sự dồn nén của tâm trạng:
- Đi đâu Tràng mày xếch vòng cung bắn nát chiều mai ráng đỏ Châu chấu ma vờn cổ yếm xây Không gặp người quen hờ ngõ cũ Đêm xuống làm lầu hoang [Đêm Thổ, 6, tr.105] Có những bài thơ, đọan thơ, vần chưa thật chỉnh song cũng không ép, không gượng bởi thi nhân đã giữ được hơi thơ, khí thơ và bắt được nhịp thơ của cuộc sống:
Khi lửa khói tàn đêm dòng sông êm ái Tôi lại gặp em tưởng tháng năm dài chững lại Em vẫn thế… thon cây mềm trái tóc hong chiều còn óng tuổi mơ xanh Sao mắt em cứ nhìn mê mải về một phương trời… [Nguyên hình ảo vọng, 6, tr.381] Vần và ý trong bài thơ hòa điệu, gọi nhau, hô ứng lẫn nhau tạo nên trường liên tưởng bền chặt cho tác phẩm. Sự lặp lại hai, ba lần một vần trong khổ thơ tạo sự dìu dặt, du dương cho lời thơ. Bên cạnh đó, âm hiệp vần lại nằm ở cuối nhịp thơ
nên lời thơ càng trở nên nhịp nhàng và âm hưởng càng vang xa.
Vần trong thơ ngày càng phong phú, đa dạng, không bắt buộc tuân theo khuôn khổ nào. Số tiếng trong câu thơ tự do nên vần thơ cũng theo đó tự do. Nhưng “thơ ca muốn được như dàn nhạc không phải chỉ nhờ ở vận mà ở cả âm. Âm có thích hợp thời thơ mới có ảnh hưởng, đọc lên mới có thể thành điệu ngâm” [71, tr.33]. Âm hay còn gọi là âm điệu, là sự phối hợp luân phiên các thanh điệu của âm tiết về đường nét để tạo độ trầm bổng, du dương cho lời thơ.
Những vần thơ có độ vang: a, ơi, ôi, an, ang, anh… cùng những thanh bằng (thanh ngang và thanh huyền) giàu sức tỏa đưa lời thơ ông miên man chảy vào hồn người đọc:
Lắc đầu hoa tím rụng Ngó rừng xanh em hỏi ngọn nguồn Biết rồi Thôi nghe hoa tiếng hát… [Cỏ Bồng Thi, 6, tr.152] Những âm khép: iu, oắt, ép, ấp, ắp, ắt… và thanh trắc (thanh sắc, hỏi, ngã và nặng) tạo ấn tượng về sự u uẩn, khuất tất. Nỗi đau xót, nghẹn ngào, trong lòng thi nhân được nhận ra qua đó:
Về cõi thật em Hay lại huyền vi duyên phận để chập chờn vòng tay mắt giếng Mỵ Châu hố ngọc tan lìa Thương xót toát mình ôm ngát hoa uất hận Nuốt em chăng Sao vẫn còn giờ ấy nghẹn ngào chia [Về cõi thật em, 6, tr.277] Tiếng Việt có khả năng tạo ra một số lượng lớn các vần làm tiền đề cho việc tạo ra vần thơ. Sự phong phú về nguyên âm và thanh điệu giúp tiếng Việt có tiềm năng to lớn trong việc tạo ra khả năng hiệp vần đa dạng của thơ ca. Ngôn ngữ tiếng Việt vốn là thứ ngôn ngữ đơn âm nhưng đa thanh. Vần trong ttiếng Việt không đơn thuần mang ý nghĩa mà trong nhiều trường hợp, còn có tác dụng gợi hình. Chính
điều này tạo nên sự phong phú và đa dạng cho phương thức tạo hình trong thơ Việt Nam. Thơ Hoàng Cầm cô đọng và giàu nhạc điệu cũng nhờ đặc điểm này của tiếng ta.
3.2.2.3. Nhịp điệu Trước nay, người ta thường cho rằng: nhịp điệu chính là sự khác biệt chủ yếu của thơ với văn xuôi. Maiacốpxki, trong bài Làm thơ như thế nào, đã viết: “Nhịp điệu là sức mạnh chủ yếu, là năng lượng chủ yếu của câu thơ” [Dẫn theo 74, tr.24]. Thực ra, văn xuôi cũng có nhịp điệu song nhịp điệu trong văn xuôi không quá gò bó mà tương đối tự do. Cơ sở để phân biệt nhịp điệu của thơ với nhịp điệu của văn xuôi chính là nhịp điệu bên trong, nhịp điệu tâm hồn nhà thơ cộng hưởng cùng từ ngữ. Các nhà thơ xem nhịp điệu như là sự rung động của tâm hồn, thoát khỏi sự đều đặn, cân đối, sự lặp lại mà có xu hướng giao hòa và lan tỏa.
Trong bài Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi viết: “Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên bổng, xuống trầm của tiếng đàn bên tai (…). Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn” [Dẫn theo 74, tr.29]. Theo đó, nhịp điệu tự nó có thể tạo ra những yếu tố phù hợp với sự rung động tâm hồn. Nhịp điệu không nên và không thể là những khuôn mẫu buồn tẻ mà trước hết là cảm xúc, tình cảm.
Nhịp điệu trong thơ nói riêng và trong nghệ thuật nói chung, không chỉ là sự biểu hiện mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo nên một hình thức để cảm thụ và để tái hiện. Tạo nên những tác động và những ấn tượng đối với cảm giác, âm thanh trong thi phẩm có quan hệ với yếu tố nhạc điệu sâu sắc nhất. Nhạc điệu tạo sự chia cắt dòng âm thanh để khi đọc người đọc có thể cảm thụ một cách trực tiếp. Nhạc điệu theo một số nhà nghiên cứu, là sự phân đoạn câu thơ, dòng thơ. Nhờ chỗ ngắt dòng âm thanh ấy, người đọc nhanh chóng cảm được nhạc điệu của tác phẩm, độ thẩm mỹ của tác phẩm.
Ngôn ngữ thơ bao giờ cũng mang nhịp điệu và nhịp điệu thơ luôn biến hóa linh hoạt theo cảm xúc, giọng điệu nhà thơ. Chắc chắn là nhịp điệu thơ có quan hệ mật thiết với ngữ nghĩa. Có thể, nhịp điệu trùng với ngữ nghĩa, đó là lúc việc ngắt nhịp vừa tạo được tính nhạc vừa biểu đạt nội dung thơ:
Con hỏi vì sao chúng nó tim Tìm ai, con hỏi, mẹ rằng: Im! (Tố Hữu, Quê Mẹ)
Nhịp điệu không trùng với ngữ nghĩa, nhịp thơ khác đi, ngữ nghĩa cũng sẽ
khác:
Non cao/ tuổi/ vẫn chưa già Non thời nhớ nước/ nước mà quên non (Tản Đà, Thề non nước) Đối tượng của ngôn ngữ thơ là sự tổ chức âm thanh một cách hài hòa và mang tính quy luật. Ở đó, các đơn vị ngôn từ được tổ chức với sự luân phiên bằng trắc, cao độ, trường độ của âm thanh và làm xuất hiện một nền nhịp. Vần trong thơ có chức năng nối kết các từ với nhau nhưng nếu có sự nâng đỡ của những chỗ ngắt nhịp, các yếu tố mang vần nhiều khi nhòe đi, mờ đi.
Vần, nhịp và mối quan hệ khắng khít giữa chúng tạo nên tính nhạc, sự quyến rũ của một hồn thơ, làm rung lên các sợi tơ mong manh của ý tưởng, cảm xúc. Những câu thơ nhiều tính nhạc là nhờ âm thanh được phân lập theo chu kỳ những nốt tiếng vọng, nhiều vần liên tục và xâu chuỗi.
Mỗi thể thơ có nhiều quy định riêng về nhịp song quan trọng hơn chính là nhịp cảm xúc của người nghệ sĩ. Thơ vốn là lĩnh vực thể hiện tình cảm. Nhịp điệu trong thơ xuất hiện trên cơ sở nhịp điệu của cuộc sống lao động, nhịp điệu của hơi thở con người. Những trạng thái rung cảm, cảm xúc của người viết đều ít nhiều ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhịp của câu thơ, bài thơ. Ý thức được ý sức mạnh, ý nghĩa quan trọng của nhịp thơ, người làm thơ sẽ qua đó bộc bày, thổ lộ được thật sâu, thật trọn vẹn tâm tư, tình cảm của mình.
Nhịp thơ, bởi là sự hòa điệu nhịp cuộc sống với nhịp tâm hồn của người sáng tác nên tính tương đối ổn định của nó trong từng thể loại dễ bị phá vỡ. Nhịp điệu của thơ và nhịp điệu của âm nhạc có sự khác nhau rõ rệt. Nhịp điệu thơ xuất hiện trong bản chất của ngôn ngữ có tính nhịp điệu. Sự chia nhỏ âm thanh thơ có giới hạn là âm vị nhưng âm thanh của âm nhạc có thể chia nhỏ đến vô tận.
Trong thơ mình, Tố Hữu không chỉ chú ý đến nhạc mà cả đến nhịp nữa.
Những câu thơ sau trong Nước non ngàn dặm có cách ngắt nhịp hết sức linh hoạt:
Chập chùng thác Lửa thác Chông Thác Dài thác Khó thác Ông thác Bà Thác, bao nhiêu thác cũng qua Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời (Tố Hữu, Nước non ngàn dặm)
Trong Vội vàng, Xuân Diệu thay đổi dồn dập nhịp điệu các câu thơ tạo cảm giác hối hả, gấp gáp, bồn chồn để sống hết mình, để tận hưởng cuộc sống thiên đường trên mặt đất:
Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si… (Xuân Diệu, Vội vàng) Nhịp điệu trong thơ truyền thống vốn ăn sâu trong tâm thức người đọc: thơ 4 chữ sẽ là 2/2; thơ 5 chữ là 3/2, hay 2/3; thơ 7 chữ là 2/2/3 hay 4/3; thơ lục bát là 2/2/2. Thơ truyền thống, nhịp điệu bị hạn chế bởi sự tác động lẫn nhau giữa các thành phần cú pháp và đơn vị ngữ nghĩa. Trong thơ mới, nhịp điệu câu thơ bị chi phối bởi giọng điệu, điểm dừng ngữ nghĩa của câu thơ. Ở đó, có những câu thơ tưởng như không có nhạc điệu nhưng kỳ thực, nhịp điệu của chúng được ẩn giấu trong giọng điệu thơ.
Cũng như thơ Đường cổ điển và thơ mới, ở thể 7 tiếng, thơ Hoàng Cầm chủ
yếu vẫn và nhịp 4/3 bên cạnh những dòng thơ nhịp 2/5:
- Anh giải oan em/ chẳng hết oan Suối khuya cắt xé/ tiếng kêu than Hỏi em xứ Phật/ nào yên tĩnh? Em gượng cười soi/ bóng đá vàng [Chùa Hương, 6, tr.238 ] - Chiều nay/ gió biển hỡi chia đôi Một nửa/ tôi theo đến cuối trời Một nửa/ em về trang giấy lạnh Cho mình/ gọi ấm gió xa khơi… [Ngỏ với gió biển, 6, tr.257] Mang khuôn hình thơ cổ điển nhưng thơ Hoàng Cầm, biên độ dường như được mở rộng, nhịp điệu phát triển theo mạch cảm xúc. Điều đó bắt nguồn từ sự phát triển trong mạch tư duy nghệ thuật của nhà thơ. Đọc thơ Hoàng Cầm, người đọc nhận ra rất rõ độ rung động của cảm xúc trong thơ ông, sức lan tỏa, âm vang
của tiếng thơ ấy khi mỗi bài thơ khép lại. Chị em xanh hay Thơ gởi đến người là những trường hợp tiêu biểu:
- Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay Hồn trong Em chuốc Chị chìm say Là Em cưới Chị xanh thiên thiếp Sinh một đàn con mây trắng bay [Chị em xanh, 6, tr.241] - Mấy kiếp hồn trăng đắng lạ thườn Vì mê ảo vọng đắm tà dương Mọc lên đầu núi cơn cô quạnh Không nói Ai nào biết xót thương [Thơ gửi đến người, 6, tr.252] Bài thơ tuy đã kết thúc mà âm điệu cứ ngân lên, mãi cứ vang xa. Thông thường, thơ thất ngôn hay thơ mới thể 7 tiếng, âm hưởng của chúng dứt hẳn ở câu kết. Thơ Hoàng Cầm không dừng lại mà mở ra một thế giới khác, huyền hồ, hư ảo, khiến cho ta cứ băn khoăn, nghĩ ngợi mãi. Nói như Mai Thục: “Càng đọc thơ Hoàng Cầm, càng thấy âm vang tiếng vọng của ngàn xưa, thân thương gần gũi mà xa xôi vời vợi…” [151, tr.260]. Chính điều này tạo nên dư ba, sức vọng trong hồn thơ Hoàng Cầm.
Cách ngắt nhịp trong câu thơ góp phần tạo tính nhạc cho bài thơ. Cũng như thơ 7 tiếng, thơ lục bát của Hoàng Cầm nhìn chung vẫn giống cách ngắt nhịp trước nay, chủ yếu là nhịp chẵn:
Em đi/ một loáng/ trăm năm Nơi đâu em ngủ/ tôi nằm lênh đênh Đầu nghiêng/ gối nặng/ tay mình Chợt rung mắc áo/ dáng hình cheo leo Về khuya/ mê bóng/ bóng theo Nhìn chênh thế kỷ/ bóng vèo qua mi [Ngày giỗ, 6 tr.236] Nhịp thơ chẵn cùng nhiều thanh bằng được sử dụng tạo âm điệu nhẹ nhàng, lắng sâu cho bài thơ. Đây là nét đặc trưng của thơ mới mà tiêu biểu là sáng tác của Hoàng Cầm.
Trong thơ lục bát, thi điệu dường như cố định và trở thành “khuôn sáo thi điệu”. Trong câu lục, khuôn điệu sẽ là 3/3 hay 2/2/2; câu bát có khuôn điệu 2/2/2.2 hoặc 4/4. Những sự thay đổi trong cách ngắt nhịp có thể làm thay đổi dáng dấp, thần thái câu thơ. Thơ lục bát Hoàng Cầm nhịp điệu cân đối, đều đặn, dìu dặt, nhịp nhàng, lôi cuốn mạnh mẽ sự yêu thích của người đọc. Chính chất nhạc sâu lắng trong thơ hồn nhà thơ đem lại cảm xúc dạt dào, say sưa trong lòng người đọc.
Áp dụng phương thức ngắt nhịp ấy với những tác phẩm thuộc thể 8 tiếng, Hoàng Cầm tạo được âm hưởng nhẹ nhàng, thanh thoát cho thơ mình. Trước nay, thơ 8 tiếng thường theo khuôn nhịp 3/3/2 hoặc 3/2/3. Thơ 8 tiếng Hoàng Cầm với nhịp chẳn 4/4, nhạc điệu theo đó cũng khác so với những tác phẩm cùng thể. Sự thay đổi ấy khiến nhiều bài thơ ông mang âm hưởng gần hơn với thơ lục bát và mang lại âm vang riêng cho thơ mình.
Thực vậy, thơ 8 tiếng của Hoàng Cầm thường ngắt nhịp chẵn, điệp thanh
bằng và sử dụng vần, tạo nên một nhạc điệu êm dịu, miên man:
- Mưa đi về anh/ mưa dềnh nước mắt Rung rinh ôm sao/ khi nào sao tắt Mưa đi về anh/ mưa đi về nguồn Cháy dòng hạnh xanh/ trôi nhanh cát buồn [Giọt mưa Phương Nam, 6, tr.269] Đặc biệt, ở những bài thơ hợp thể, Hoàng Cầm thực sự đã đưa được nhịp của cuộc sống, nhịp của tâm hồn mình vào mỗi dòng thơ. Phải có sự giao cảm đặc biệt giữa hồn thơ ấy và âm thanh cuộc sống, mới có được những vần thơ đầy chất nhạc như thế. Những tác phẩm này, nhịp thơ lúc nhanh lúc chậm, lúc dìu dặt, thiết tha, sâu lắng, khi mãnh liệt dâng trào, bay bổng.... Những tác phẩm như: Bên kia sông Đuống, Hội vật, Đợi mùa hay Gái Hậu Lê.... là những tác phẩm như thế:
Em bước vào đình/ ôm cột/ mấy người ôm Em rẽ sang chùa/ lay chân/ hộ pháp Sau chùa tát đêm/ một chạp Gầu giai ai vớt/ Chị ơi/ lòa lõa/ thân trăng Chi lỡ xe hồng/ Mẹ đi lấy chồng/
Cỗ cưới chênh vênh/ khoai luộc Mật vàng mọng/ rách vỏ nâu non [Đợi mùa, 6, tr.176] Việc đặt dòng thơ của Hoàng Cầm nhiều khi theo những chuỗi nhịp điệu nào đó. Thơ Hoàng Cầm có dòng gồm hai câu nhưng đa số các câu gồm nhiều dòng, có khi cả khổ thơ và bài thơ.
Bên cạnh những thể thơ ấy, Hoàng Cầm có nhiều thi phẩm sáng tác theo thể thơ bậc thang. Đây là một thể thơ đặc biệt, nó giúp nhà thơ biểu đạt được trọn vẹn, sâu sắc cảm xúc, suy tưởng của mình. Từ năm 1945, trên thi đàn xuất hiện nhiều bài thơ bậc thang hay và ấn tượng bởi những tiết tấu, nhịp điệu mới lạ, bởi sự cô đọng và lan tỏa của cảm xúc:
- Vò võ chân trời khẩu súng Mỗi đêm từ biệt một quê hương (Trần Dần, Bài thơ Việt Bắc)
- Gần hai mươi năm trời Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng Dạy tôi làm thơ ước mơ hi vọng (Lê Đạt, Cha tôi) Trong Thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, Nguyễn Bá Thành nhận xét về thể thơ này: “Những dòng thơ bậc thang tạo nên ấn tượng mạnh về tiết tấu, về nhịp điệu, về sự êm dịu giữa dòng” [126, tr.324].
Với Hoàng Cầm, thơ bậc thang là những khoảng lặng của tâm hồn, là tiếng vọng của tâm tư, là chiều sâu của suy tưởng. Ở đó, trong những giấc mơ dang dở, tiếng vọng từ miền xa xôi, hư ảo của những nỗi đau chất đầy, nén chặt... cứ ùa về, trong thổn thức, mê man:
Vừa khi vuốt tóc nhìn chênh bến Chợt lóe đài xanh ngất nước mây Hoa khô xây bậc trăm thềm ngọc Một phím đàn đôi bốn cánh bay [Ngã ba sông, 6, tr.308] Hiện tượng dòng thơ bị phá vỡ để tạo thơ bậc thang nhằm phát triển cảm xúc và nhịp điệu cho thơ rất phổ biến trong thơ Hoàng Cầm. Câu thơ Hoàng Cầm, ở giới hạn nào đó, cũng có thể xem là câu thơ của điệu nói nhưng kỳ thực mang đầy nhạc điệu. Hoàng Cầm làm thơ vốn không nhằm mục đích đi tìm sự trọn vẹn, hoàn chỉnh về ngữ nghĩa cho lời thơ. Ông làm thơ cốt để đưa được âm vang cuộc đời cùng điệu hồn mình vào thi phẩm. Thơ ông vì thế là những dòng thơ rung lên từ nhịp điệu của cảm xúc, từ những âm thanh của cuộc sống và từ tâm hồn ông.
Cho nên, sẽ thật sai lầm nếu đọc thơ Hoàng Cầm bằng tư duy logic thông thường. Bởi lẽ, thơ ông hướng đến cảm giác, cảm xúc hơn là ngữ nghĩa. Điều này ít nhiều chi phối sự hình thành câu thơ, dòng thơ, cách sử dụng âm thanh, tạo vần và ngắt nhịp trong thơ ông. Và nghỉ lại, tình cảm, cảm xúc trong thơ Hoàng Cầm có khi phát triển theo độ ngắn của dòng thơ và nhịp điệu trong câu thơ:
- Ly cà phê nữa tỉnh mê Từng đôi sớm biết đi về có nhau Còn em lãng đãng đi đâu Anh về so sẫm đũa màu gỗ mun [Viết trong quán cà phê, 6, tr.267]
- Chị đưa em đến bên này cheo leo mõm đá Trước vực Sau khe [Cỏ Bồng Thi, 6, tr.152] Thơ hiện đại, theo Trần Đình Sử, có xu hướng chuyển từ “thơ trữ tình điệu ngâm” sang “thơ trữ tình điệu nói”. Song, thơ điệu nói của Hoàng Cầm có đặc điểm riêng, đó là những câu thơ có vần, có nhạc:
- Con đấy ư Con đã về Kinh Bắc Những cỏ Bồng thi với dế đầu si Những lá Diêu Bông với đôi xe hồng [Luân hồi, 6, tr.175 ] Nhạc thơ ở đây như thiên về nhịp điệu. Cấu trúc khác nhau về độ dài, ngắn, kích thước dòng thơ cùng sự kết hợp linh hoạt các thanh bằng trắc trong câu thơ tạo ấn tượng về nhịp rất rõ. Thơ Hoàng Cầm, số tiếng trong câu và số câu trong bài dài ngắn đan xen, không theo khuôn khổ, cách gieo vần cũng tự do theo đó song lời thơ vẫn hết sức uyển chuyển, nhẹ nhàng, cuốn hút hồn người. Cách ngắt nhịp, tạo nhịp trong thơ Hoàng Cầm quả rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu, nhiều dạng. Với bản năng linh diệu ấy, thi nhân tạo được những âm điệu phong phú trong thơ mình.
Bên kia sông Đuống, nhịp điệu đứt quãng, rời rạc thể hiện đưọc nỗi đau
thương, tan tác trước cảnh quê hương bị giạc tàn phá:
Bên kia sông Đuống Ta có đàn con thơ Ngày tranh nhau một bát cháo ngô Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn Lấy mẹt quây tròn Tưởng làm tổ ấm Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm Ú ớ cơn mê Thon thót giật mình Bóng giặc dày vò những nét môi xinh [Bên kia sông Đuống, 6, tr.26]
Miền quê thân yêu theo nhịp điệu tha thiết, dạt dào yêu thương trở về trong
tim người con xa xứ:
[Bên kia sông Đuống, 6, tr.26]
Ai về bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai… Nhịp điệu bài thơ như tăng dần, mạnh dần, tác động mạnh tâm hồn người đọc. Sự biến nhịp tạo hiệu ứng thẩm mỹ mới lạ, bất ngờ và đầy thú vị cho bài thơ. Sự sáng tạo, phá cách về nhịp điệu như thế tạo nên sức lôi cuốn cho tiếng thơ ông:
Bỗng thấy em úp mặt xuống lòng tay Như đêm giông úp chùm biển lớn Rồi trừng mắt nhìn lên như giận hờn như đắng cay như xót xa như đau đớn Em nói âm vang nhịp sấm vô thường [Những dòng lang bạt, 6, tr.333] Thơ hiện đại, tư duy trùng điệp được sử dụng ngày càng nhiều, nó một mặt là nhịp điệu của cuộc sống, mặt khác chính là nhịp điệu tâm hồn của bài thơ. Mưa Thuận Thành của Hoàng Cầm có đến 29/46 câu/148 tiếng của bài thơ là mưa, nào mưa rơi, mưa nhòa, mưa hoa nhài, mưa chèo bẻo, mưa sành sứ, mưa chuông chùa… Thi phẩm trở thành bản hợp ca thấm đầm mưa rơi, miền tâm trạng miên man, nhạt nhòa, sâu thẳm. Sử dụng phương tiện trùng điệp một cách có chủ ý như thế, nhà thơ tạo nên một hiệu ứng thẩm mĩ độc đáo cho thơ mình. Trước hết, nó tạo sự liên kết trong thơ ông, làm cho mạch tư duy của bài thơ liền lạc, chặt chẽ và thống nhất. Thơ Hoàng Cầm vốn phát triển theo nhiều chiều, nhiều mạch, sự trùng điệp theo đó giúp liên kết âm thanh nội tại của thi phẩm. Sự trùng điệp, có thể nói, chính là chất liệu liên kết bài thơ.
Nhịp điệu trong thơ chính là nhịp cuộc sống hòa điệu với nhịp tâm hồn của người nghệ sĩ. Đó là những tổ chức âm thanh đều đặn, cân đối, nhịp nhàng, uyển chuyển được tạo ra từ những cách kết hợp từ đặc biệt, cách ngắt nhịp, phối âm, phối thanh… Nhịp thơ chính là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên tiết tấu, giai điệu, âm hưởng cho câu thơ, bài thơ. Nhịp thơ theo đó có ý nghĩa to lớn trong việc biểu hiện và cảm thụ thơ, là nền tảng tạo chất nhạc cho thơ, tạo hiệu ứng cho tác phẩm. Nhịp điệu không chỉ là một biện pháp tu từ nghệ thuật để nhà thơ xây dựng tác phẩm, thể hiện tâm tư, tình cảm của mình mà còn tạo nên giai âm độc đáo tác động đến tình cảm, cảm xúc người đọc.
Hiện nay, xu hướng thơ tự do và thơ văn xuôi ngày càng lấn át thơ đều chữ, đẩy vần xuống vị trí sau và đưa nhịp lên phía trước. Trong thực chất, bất kì loại thơ nào, nhịp điệu cũng là yếu tố quan trọng tạo nên nhạc tính, sức hấp dẫn cho thơ. Thực vậy, cách ngắt nhịp trong câu thơ hay còn gọi là tiết tấu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tác phẩm thơ ca. Nó đưa được cái trật tự vào tình trạng không có trật tự, một cách có chủ ý, qua việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ. Nó giống người ta trong giây lát thoát khỏi sự trôi chảy đều đều của thời gian. Đó là sự độc đáo của nghệ thuật ngôn từ vậy.
Tiểu kết: “Nhà văn khi sáng tạo nên tác phẩm, bên cạnh sáng tạo ra hệ thống nhân vật, hệ thống hình tượng, thế giới nghệ thuật... thì cũng đồng thời sáng tạo hệ thống lời văn, lời thơ” [22, tr.139]. Tác phẩm nghệ thuật theo đó không chỉ là phương tiện phản ánh, miêu tả, thể hiện các mặt khác nhau của cuộc sống và thế giới tâm hồn con người mà quan trọng và trước hết, nó là một chỉnh thể thẩm mỹ, là kết quả của quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ.
Thơ Hoàng Cầm, sau hệ thống hình ảnh lung linh vi diệu là suối nguồn nhạc điệu tuôn trào miên man, bất tận khiến thế giới ấy trở thành một thế giới đầy nhạc điệu. Từ cách chọn thể loại, hiệp vần, cách phối âm, điệp từ, điệp ngữ, điệp thanh… đến những dòng thơ đầy khoảng lặng, tất cả đều hướng đến tạo chất nhạc cho mỗi bài thơ. Nhạc thơ Hoàng Cầm, ấy là nhạc điệu toát ra từ sâu thẳm tâm hồn ông cộng hưởng, giao hòa với âm vang của cuộc đời mà lúc nào thi nhân cũng mở hồn đón đợi, lắng nghe và nắm bắt.
Tìm hiểu cặn kẽ cái hay, đẹp trong ngôn từ thơ Hoàng Cầm, quả có những câu thơ chạm đến đỉnh cao thẩm mỹ của sự sáng tạo. Đó phải nói là những dòng thơ thần diệu với sự tinh luyện về hình tượng và sự tài tình khéo léo đến chuẩn mực về
từ âm. Trước những câu thơ như thế, càng đọc, người ta càng cảm thấy ngỡ ngàng hứng thú, say mê, cái cảm giác lâng lâng, sảng khoái như lướt qua mà kỳ thực còn đọng mãi trong hồn những ai biết yêu thơ, yêu cuộc sống, dù chỉ một lần đọc thơ Hoàng Cầm. Đâu chỉ hay về lời, sâu về ý, những dòng thơ ấy còn rất độc đáo ở cách phối âm, hòa nhịp và sáng tạo hình ảnh.
KẾT LUẬN
Thơ, ở đâu và cho đến bao giờ, cũng phải là sự thể hiện những rung động chân thành và mãnh liệt nhất trong trái tim người nghệ sĩ. Lẽ cố nhiên, trái tim ấy phải luôn luôn rộng mở để đón nhận hết mọi âm ba của cuộc đời, để trăn trở và thổn thức cùng lòng người theo năm tháng. Đời thơ, Người thơ Hoàng Cầm – chàng thi sĩ tài hoa, đa tình của đất Kinh Bắc – sở hữu hết thảy những điều như thế. Con người này dường như được sinh ra để làm thơ. Sự nghiệp sáng tác của ông dù được mở đầu bằng những vở kịch thơ nổi tiếng, dù những trang văn xuôi ông để lại cho đời cũng đầy giá trị, thì Hoàng Cầm trước hết vẫn là một hồn thơ – hồn thơ lung linh, vi diệu của miền quan họ ngàn năm.
Giữa những biến động hết sức nhạy cảm của lịch sử, bao lớp nhà thơ vẫn không thôi trăn trở tìm tòi để có một lối đi, Hoàng Cầm đã tạo được một dòng thơ mang âm hưởng và sắc điệu riêng. Dù chỉ thành công ở những mức độ nhất định nhưng với những gì đã có, hồn thơ ấy, tiếng thơ của lòng khát sống, của trái tim giàu yêu thương, khát khao sáng tạo và dâng hiến ấy đã và sẽ mãi mãi nhận được sự nâng niu, trân trọng của người đọc.
Thực vậy, trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Hoàng Cầm – người nghệ sĩ đích thực, tài thơ độc đáo của dân tộc, giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Tiếng thơ ấy tự nó tỏa ra một hương sắc riêng, lạ và rất đẹp, mang đến cho đời những giá trị bất hủ và góp phần làm rạng danh cho nền thơ nước nhà. Dù vậy, vì nhiều lý do, thơ Hoàng Cầm vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Thiết nghĩ, đề tài nghiên cứu: Hồn – Tình – Hình – Nhạc trong thơ Hoàng Cầm sẽ mang đến cho người đọc những nhận thức đúng đắn, đầy đủ về di sản thơ Hoàng Cầm, thấy được nét văn phong riêng, sự sáng tạo đặc sắc và độc đáo của người nghệ sĩ tài hoa này.
Trước hết, có thể thấy, thơ Hoàng Cầm là thơ của một tâm hồn đặc biệt tinh nhạy, của một cái tôi khát khao giao cảm, khát khao dâng hiến. Trong cuộc chơi có tên Trần Thế, Hoàng cầm đã sống và chơi hết mình, với tấm lòng chân thành, tha thiết nhất. Hoàng Cầm yêu như đang làm thơ và làm thơ như đang yêu vậy. Giữa cuộc đời đầy sóng gió ngả nghiêng, buồn đau, đắng xót, Người thơ ấy vẫn gượng dậy được và tiếp tục nằm nghiêng nghiêng trong dáng nằm hết sức chông chênh của định mệnh thơ mình. Níu giữ chân chàng thi sĩ đa cảm, ưa sầu và giàu lòng yêu
cuộc sống ấy, hẳn chỉ có Suối tình và Nàng thơ.
Hoàng Cầm dường như lúc nào cũng muốn đào thật sâu vào mạch nguồn thi ca bất tận trong hồn mình, khơi thật mạnh vào trường cảm xúc ngập đầy men say nơi trái tim mình. Hồn thơ ấy vì thế mà có sức ám ảnh rất lớn đối với người đọc. Chu Văn Sơn bày tỏ cảm giác của mình khi đọc thơ Hoàng Cầm: “Có một cái gì thật khó chịu, bị bó buộc, bị nhấn chìm, bị đè ngang trong câu chữ, cố thoát lên nhưng không sao thoát được, cứ nghẹn ngào, u uất, tức tưởi” [151, tr.285]. Cảm giác ấy, Chu Văn Sơn nói hộ cho nhiều người khi lạc vào vườn thơ Hoàng Cầm. Tác giả hẳn cũng đồng tình với quan niệm cho rằng: “Thơ là cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao siêu, cái hình ảnh bất diệt của cõi vô cùng” [170, tr.37] Thơ Hoàng Cầm đặc biệt hội đủ những yếu tố ấy. Và như thế, sẽ hoài công cho những ai muốn đi đến tận cùng tầng sâu những lớp nghĩa chìm ẩn trong thơ Hoàng Cầm.
Viết về một hồn thơ, sẽ không thể biết được nhiều điều thuộc về nhà thơ và tiếng thơ của anh ta khi không đưa con người ấy trở về với quê hương, với cội nguồn dân tộc. Huống chi, Người thơ mang tên vị thuốc đắng Hoàng Cầm lại được sinh ra giữa vùng đất thơ ngọt ngào, được sống trong không khí dân ca quan họ. Có thể nói, “Cái không khí đẫm chất huê tình, bảng lảng khói sương văn hóa dân gian đã ăn sâu vào tuổi thơ Hoàng Cầm, tạo thành một phần máu thịt trong bản thể thơ ông” [66, tr.43]. Những trang thơ viết về quê hương của Hoàng Cầm vì thế “mang đậm âm hưởng của vùng đất Kinh Bắc huê tình, diễm lệ, đầy ắp huyền thoại và bảng lảng một làn sương khói dân ca” [151, tr.227]. Âm điệu trong thơ ông cũng là âm điệu của đất trời Kinh Bắc, miên man vọng vào lòng người, say đắm, thiết tha. Nguồn thơ ấy chảy giữa đất trời Kinh Bắc, một Kinh Bắc vừa thực vừa mơ, vừa sáng trong, vừa nhuốm màu huyền thoại. Nhưng, thơ Hoàng Cầm còn mang một điệu hồn khác, “một cái bóng khác đang lặn lội tìm về quá khứ” để “giải tỏa những ẩn ức” [151, tr.16]. Quê hương Kinh Bắc được nhìn, được miêu tả bằng hoài vọng, bằng nỗi nhớ và những ẩn ức của một thời đã qua, đã rất xa xôi… Chính điểm này làm cho thơ Hoàng Cầm vượt ra ngoài vùng tư duy lãng mạn để hướng tới thế giới bí ẩn trong tâm hồn.
Cả đời mình, Hoàng Cầm lấy thơ làm cứu cánh, làm lẽ sống, thì đổi lại, thơ đã đem đến cho ông sức mạnh để mãi sống yêu đời, và hơn nữa, thơ cho ông cả một thế giới để bù đắp – thế giới của riêng mình. Thế giới ấy ngập tràn hạnh phúc, tình yêu, được dệt bằng tâm tư, tình cảm, bằng niềm tin yêu trọn vẹn mà thi nhân dành cả cho đời. Nếu Về Kinh Bắc “dìu chúng ta qua những chùa chiền, lăng miếu, những
cầu, những bến, những cây lá, hội hè, qua những cặp mắt đa tình của những người gái xứ quê” [151, tr.227]; thì Mưa Thuận Thành – “Cả tập hai mươi bài là một sắc thơ mưa, là một giọng thơ mưa: mưa chiều nắng chếch, mưa trắng ngang đầu, mưa ao nhòe nắng, mưa ngâu gõ nhịp trên thềm vắng, mưa nhung tung cánh trắng ngần v.v… Nhưng chính thực là mưa trong lòng người, mưa trong tâm tình, trong tâm trạng” [66, tr27]. Dòng sông cảm xúc trong hồn ông chảy giữa nguồn mạch Kinh Bắc trên đôi bờ đầy ắp giá trị văn hóa, nối liền quá khứ với hiện tại và tương lai. Đằng sau những dòng sông diễm lệ, núi đồi thần tiên, chùa chiền thanh tịnh, những quê nghèo vắng hút đế những con người tình tứ hào hoa trên đất quê hương… là cả một tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà thơ.
Đứng giữa làng thơ tình cùng những thi nhân nổi tiếng như Nguyễn Bính, Xuân Diệu nhưng thơ Hoàng Cầm mang sắc thái và tình điệu riêng. Nói như Quang Huy: “Ông đa tình, kiêu sang và ẩn ức… Thơ Hoàng Cầm buồn. Đôi khi pha chút cay đắng” [151, tr.227-228]. Vị thơ Hoàng Cầm – vị đắng thấm đẫm tình đời, tình người, được sắc lại từ lòng yêu cuộc sống, yêu nghệ thuật và cái đẹp thiết tha của thi nhân. Tình khúc Hoàng Cầm đâu chỉ có những cung bậc khác nhau của tình yêu nam nữ, đằng sau nó “là một tình yêu lớn rộng, đằm sâu với quê hương, nguồn cội, với lý tưởng về cái đẹp của cuộc đời trần thế” [151, tr.299].
Hoàng Cầm là thi sĩ của tình yêu, một tình yêu đam mê và khát cháy. Tình yêu ấy phủ đầy 99 tình khúc cùng nhiều thi phẩm khác của nhà thơ với bao khát khao, say mê, bao nỗi nhớ thương, giận hờn, trách móc. Đọc thơ tình Hoàng Cầm, người đọc như được bước vào một mê hồn trận của cảm xúc ái ân, một lâu đài bí hiểm và cổ kính có tên là lâu đài tình ái. Nơi ấy, không chỉ những vật thể của người tình được thanh cao hóa, tượng trưng hóa mà cả những âu yếm, ái ân cũng in đậm màu sắc những lễ nghi huyền thoại… tất cả những hành vi tình yêu đều diễn ra trong không gian tôn giáo đầy tính chất siêu hình, hư ảo, sắc sắc, không không…
Hoàng Cầm quả xứng danh là thi sĩ của tình yêu, thi sĩ của hồn quê, của những tác phẩm mang linh hồn của vùng quê đất Việt. Tình yêu quê hương xứ sở chính là nền tảng của tình yêu Tổ quốc. Là một thi sĩ tài hoa, Hoàng Cầm đã làm sống dậy trong thơ mình những giá trị văn hóa dân tộc mang tính nhân văn cao cả.
Những chặng đường đời và những chặng đường thơ, chất người và chất thơ, khái quát mà rất cụ thể, Hoàng Cầm và sự nghiệp thơ ca của ông được nói đến bằng tất cả lòng yêu mến, sự trân trọng. Đọc, phân tích và lý giải thơ Hoàng Cầm theo sự cảm nhận của riêng mình, Nguyễn Đăng Mạnh cũng nói: “Những vần thơ cứ ngân
nga, cứ ám ảnh hoài và nhói lên trong ta một nỗi xót xa, môt niềm thương nhớ không nguôi” [66, tr.25]. Đâu dễ gì tạo được những vần thơ như thế nên cũng khó để hiểu và lý giải cho tường tận và rành rẽ cái hay ẩn chứa trong nó. Hơn nữa, ở Hoàng Cầm, có những điều chỉ có thể cảm nhận mà không sao nói cho rành mạch, cụ thể được. Và điều đó, thật tuyệt diệu, lại góp phần tạo nên sự lung linh, hư ảo cho thế giới thơ ông.
Thế giới ấy vốn không dễ nói hết, bởi nó “không tuân theo logic thông thường, không nói năng bằng cú pháp thông thường. Lời lẽ, chữ nghĩa, hình ảnh như là phi lí, vô nghĩa” [66, tr.28]. Thế giới ấy lại còn có nhiều khoảng trắng, nhiều dấu lặng – nơi chỉ có thể lắng nghe bằng cảm xúc, bằng cả tâm linh những rung động trong tâm hồn thi nhân, nơi chất thơ dạt dào lan tỏa. Thơ, vì có được những đặc điểm ấy mà có khả năng truyền cảm mạnh mẽ, thấm sâu vào lòng người có khi chỉ bằng những khoảng trống hay từ những điều tưởng như vô nghĩa. Thơ Hoàng Cầm, vô tình mà đầy hữu ý, mang đậm những nét đặc trưng, những điểm ưu trội của thi ca và hiện ra trong một sắc thái riêng, lạ - sắc thái Hoàng Cầm. Nguyễn Xuân Lạc xem đó là “thơ siêu thực kiểu Phương Đông bay lên từ một vùng quê quan họ thơ mộng trữ tình”, là “lối thơ siêu thực – hiện đại – dân gian Hoàng Cầm” [66, tr.23].
Hoàng cầm không phải là một thi sĩ thời thế và những trang thơ ông không đơn giản chỉ có những nỗi đau đời. Ông làm nghệ thuật bằng tất cả tài năng, tâm huyết và lòng say mê bất tận của mình, nhưng trong cuộc đời sáng tạo, Hoàng Cầm không bàn về lý luận, cũng không có tuyên ngôn nào, chỉ vì ông không muốn như thế. Suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp cho đời và cho thơ nhưng ông cũng không chỉ bảo cho ai, rằng thực ra cái đẹp trốn ở đâu. Chỉ biết rằng, cái đẹp trong thơ ông, dù không dễ nhận ra, cũng không thể nói hết.
Hoàng Cầm và thi phẩm ông đã và đang tỏa sáng trên thi đàn, tỏa sáng trong tâm hồn người Việt. Thi nhân trở thành một trong những tên tuổi thơ ca lớn, là tinh hoa của văn hóa Kinh Bắc, tinh hoa của dân tộc. Người nghệ sĩ tài hoa vĩ đại là người có những đóng góp không thể thay thế trong lịch sử văn học nước nhà. Thì Hoàng Cầm, người con ưu tú của xứ Kinh Bắc huê tình ngàn năm sẽ là một trong số những nghệ sĩ ấy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2001), Tìm hoa quá bước (tiểu luận phê bình), NXB Văn học,
Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (1996), “Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca”,
Tạp chí văn học, (1).
3. Aristotle (2007), Nghệ thuật thơ ca, NXB Lao động, Hà Nội. 4. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2004), Hoàng Cầm – Tác phẩm, Văn xuôi, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội.
5. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), Hoàng Cầm – Tác phẩm, Truyện thơ, Kịch,
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
6. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn), Hoàng Cầm – Tác phẩm, Thơ, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 8. Nguyễn Bính (1992), Thơ Nguyễn Bính chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội. 9. B.Brếch (1976), Nhật ký 1920, 1922, NXB Bá Linh và Vaima, Hà Nội. 10. M. M. Bakhtin (2006), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân
gian Trung cổ và Phục hưng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ Thơ, NXB Văn hóa – Thông tin, hà Nội. 12. Hoàng Cầm (1996), 99 Tình khúc, NXB Văn học, Hà Nội. 13. Hoàng Cầm kể, Lưu Khánh Thơ ghi (1991), “Chuyện về Lá Diêu Bông và bài
thơ Bên kia sông Đuống”, Tạp chí Văn học.
14. Mai Ngọc Chừ (1986), “Bước đầu tìm hiểu những biện pháp làm tăng thêm sức mạnh biểu đạt ý nghĩa của vần thơ Việt Nam”, Tạp chí văn học, (2). 15. Mai Ngọc Chừ (1991), “Những đặc điểm của âm tiết Tiếng Việt và vai trò của
nó trong thơ ca”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3).
16. Nguyễn Dương Côn (1994), “Phác thảo về quan hệ giữa ảo và phi lý trong thơ”,
Tạp chí Sông Hương, (8).
17. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học. 18. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, NXB Văn học, Hà Nội. 19. Xuân Diệu (1978), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy, NXB Tác phẩm
mới, Hà Nội.
20. Xuân Diệu (1978), “Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống”, Tạp chí
văn học, (1).
21. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình Lý luận văn học, phần Tác phẩm văn học,
NXB Đại học Quốc gia, TP. HCM.
22. Dovsdilskj S. (1961), “Nhiệm vụ của nhà thơ”, Tạp chí Văn nghệ, (49). 23. Hữu Đạt (1996), “Đặc điểm phong cách ngôn ngữ của thơ ca và ca dao”, Tạp
chí Ngôn ngữ, (4).
24. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 25. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, NXB Văn học,
Hà Nội.
26. Phan Cự Đệ, Phan Cự Đệ tuyển tập (tập 3), Văn học lãng mạn Việt Nam (1932 - 1945), Phê bình và Tiểu luận, (Lý Hoài Thu tuyển chọn), NXB Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội. 28. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ (tiểu luận phê bình), NXB Văn
học, Hà Nội.
29. Nguyễn Đăng Điệp – Văn Giá – Lê Quang Hưng – Nguyễn Phượng – Chu Văn Sơn (2005-2006), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại (tập 1, 2), NXB Giáo dục, Hà Nội.
30. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, NXB Văn học, Hà Nội. 31. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 32. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 33. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
34. Hà Minh Đức, Hà Minh Đức tuyển tập (tập 1, LLVH và BC), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
35. Hà Minh Đức, Hà Minh Đức tuyển tập (tập 2, NCVH Việt Nam hiện đại – Trào lưu – Tác giả - Tác phẩm), (Trần khánh Thành tuyển chọn), NXB Giáo dục, Hà Nội.
36. Hà Minh Đức, Hà Minh Đức tuyển tập (tập 3, Phê bình và Tiểu luận văn học),
(Trần Khánh Thành tuyển chọn), NXB Giáo dục, Hà Nội.
37. Nguyễn Hoàng Đức (tuyển dịch), Cẩm nang Mỹ học – Nghệ thuật – Thi ca –
Phê bình, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
38. Trinh Đường (2001), Trăm năm thơ, Tạp chí Nhà văn (1).
39. Bằng Giang, Từ thơ mới đến thơ tự do, Phù Sa, Hà Nội. 40. Bùi Giáng (2006), Mưa nguồn, NXB Văn nghệ, TP. HCM. 41. Phạm Thị Hà, Nguyễn Thị Thìn (2002), “Câu hỏi trong thơ trữ tình”, Tạp chí
Ngôn ngữ, (10).
42. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, Hà Nội. 43. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hóa, vấn đề và suy nghĩ, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận và văn học, Vấn đề và
suy nghĩ, NXB Giáo dục, TP. HCM.
45. Đinh Thị Minh Hằng (2005), “Mấy vấn đề thơ qua những quan niệm văn học
trong lịch sử”, Tạp chí nghiên cứu lý luận và lịch sử văn học, (9).
46. Hoàng Ngọc Hiến (2004), “Năng khiếu cảm nhận tiết tấu”, Tạp chí Văn học và
Tuổi trẻ (1).
47. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, NXB Văn học, Hà Nội. 48. Lê Anh Hiền (2002), Thơ ca – Ngôn ngữ, Tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
49. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, NXB Lao động, Hà Nội. 50. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 51. Hêghen G.F (1973), Mỹ học, (tập 1, 4) (Nhữ Thành dịch), Viện Văn học.
Hà Nội.
52. Bùi Công Hùng (2000), Quá trình sáng tạo thơ ca, NXB Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
53. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
54. Tố Hữu (1998), “Tiếng Việt giàu và đẹp - Phải biết khơi nguồn sáng tạo thơ từ
đó”, Tạp chí Văn học (12).
55. Tố Hữu (1980), “Văn học là cuộc đời”, Tạp chí văn học, (6). 56. Vương Vận Hy – Cố Dinh Sinh (2003), “Viên Mai bàn về thơ”, Tạp chí văn
học, (4).
57. H. R. Jauss (2002), “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học
văn học”, (Trương Đăng Dung dịch), Tạp chí văn học nước ngoài, (1).
58. Nguyễn Trọng Khanh, Bình luận văn chương – Văn học trong nhà trường,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Dư Khánh (1996), Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong
nhà trường, NXB Giáo dục. Hà Nội.
60. K.Marx (1962), Bản thảo Kinh tế - Triết học năm 1844, NXB Sự thật, Hà Nội. 61. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 62. Lê Đình Kỵ, Lê Đình Kỵ tuyển tập, (Huỳnh Như Phương sưu tầm, tuyển chọn
và giới thiệu), NXB Giáo dục, TP. HCM.
63. M.B. Khravchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch), NXB Tác phẩm mới, Hà Nội. 64. M.B. Khravchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học (Lại Nguyên Ân dịch), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
65. Đông La (2001), Biên độ của trí tưởng tượng, NXB Văn học, Hà Nội. 66. Nguyễn Xuân Lạc (biên soạn) (2004), Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc –
Văn học trong nhà trường, NXB Trẻ, Hà Nội.
67. Đinh Lan (2001), “Không gian nghiêng – Một nét độc đáo trong thơ Hoàng
Cầm”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, (3).
68. Lê Hồng Lâm, Xem chữ, đọc hình (Đối thoại với những người nổi tiếng), NXB
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
69. Mã Giang Lân (1996), “Sự hình thành các bài thơ”, Tạp chí Văn học (10). 70. Mã Giang Lân (1997), Tìm hiểu thơ, NXB Thanh niên, Hà Nội. 71. Mã Giang Lân (2004), “Tản Đà - Từ quan niệm nghệ thuật đến sáng tạo hình
thức thơ ca”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8).
72. Mã Giang Lân, Thơ – Hình thành và tiếp nhận, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
73. Mã Giang Lân tuyển chọn và giới thiệu (2001), Thơ Hàn Mặc Tử, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
74. Mã Giang Lân (2007), “Nhịp điệu thơ hôm nay”, Tạp chí nghiên cứu lý luận,
phê bình và lịch sử văn học, (3).
75. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại – Nghĩ tiếp…, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Thế Lịch (2000), “Ngữ pháp của thơ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11) và (12). 77. Nguyễn Thế Lịch (2004), “Nhịp thơ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1). 78. Vũ Bội Liêu, Những sự gặp gỡ của Đông phương và Tây phương trong ngôn
ngữ và văn chương, NXB văn học, Hà Nội.
79. Lưu Trọng Lư (1981), “Vài cảm nghĩ và kinh nghiệm về thơ”, Tạp chí văn
học (6).
80. Lưu Trọng Lư (1961), “Một vài cảm nghĩ về thơ”, Tạp chí Văn nghệ, (48). 81. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 82. Phương Lựu (2005), Phương Lựu tuyển tập (tập 1, 2, 3), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
83. IU. M Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (nhiều người dịch), NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
84. Đặng Thai Mai (1997), Đặng Thai Mai toàn tập (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội. 85. Hoàng Như Mai, Chân dung và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 86. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng (2006), Văn học 12 (tập 1), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
87. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
88. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Để dạy tốt văn học Việt Nam lớp 12, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
89. Nguyễn Đặng Mạnh (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Chân dung và phong
cách, NXB Trẻ, TP.HCM.
90. Trần Đồng Minh, Văn học từ những góc nhìn riêng, NXB Trẻ, TP.HCM. 91. Nguyễn Thị Thanh Minh (2005), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong
sáng tạo nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội.
92. E. M. Meletinsky, Thi pháp của huyền thoại, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 93. Anh Ngọc (2000), Từ thơ đến thơ (Tiểu luận, phê bình, hồi ức), NXB Thanh
Niên, Hà Nội.
94. Phan Ngọc (1991), “Thơ là gì?”, Tạp chí văn học, (1). 95. Bàng Sĩ Nguyên (1978), “Thơ của đời sống”, Tạp chí văn học, (1). 96. Hoàng Sĩ Nguyên (2007), “Kiểu nhà thơ và quan niệm của các nhà thơ mới về
thơ mới”, Tạp chí văn học, (3)
97. Triều Nguyên (2006), Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
98. Lã Nguyên (1998), “Tiếp cận tác phẩm thơ từ góc độ Văn hóa nghệ thuật”, Tạp
chí văn học, (3).
99. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ, Tp.HCM.
100. G. Ni – cô – lai – ê – va (1997), Văn nghệ là gì?, NXB Sự Thật, Hà Nội. 101. Lê Lưu Oanh (tuyển chọn và biên soạn), Nguyễn Đình Thi – Hoàng cầm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
102. Như Phong (1977), Bình luận văn học, NXB Văn học, Hà Nội. 103. Ngô Văn Phú (2002), Duyên nợ văn chương (Chân dung văn học và tạp luận),
NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
104. Vũ Đức Phúc (2001), Bàn về văn học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 105. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 106. Vũ Quần Phương (1992), “Vài ý nghĩ về thơ hôm nay”, Tạp chí Tác phẩm
mới, (3).
107. Pauxtovskj K. (2001), Bông hồng vàng (Kim Ân dịch), NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
108. Pospelov G. N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch), NXB Giáo dục, Hà Nội.
109. Vũ Tiến Quỳnh, Hồng Nguyên – Chính Hữu – Trần Hữu Thung – Hoàng Cầm
– Quang Dũng – Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình luận văn học của các nhà văn và các nhà nghiên cứu Việt Nam, NXB Văn nghệ Tp. HCM.
110. Ranicki M. R. (1994), “Một lời biện hộ cho thơ”, (Trương Hồng Quang dịch),
Tạp chí văn học, (3).
111. Nguyễn Khắc Sính (2006), Phong cách thời đại nhìn từ một thể loại văn học,
NXB Văn học, Hà Nội.
112. Trịnh Thanh Sơn (2002), Dọc cánh đồng thơ (Tiểu luận, phê bình - Chân dung
văn học), NXB Lao động, Hà Nội.
113. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, NXB Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
114. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 115. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội. 116. Trần Đình Sử (1996), “Tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học”, Tạp chí văn học (1). 117. Sartre J. P. (1999), Văn học là gì (Nguyên Ngọc dịch), NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
118. Ferdinand De Saussure (2005), Giáo trình ngôn ngữ học Đại cương (Cao
Xuân Hạo dịch), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
119. Trần Hữu Tá (nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn) (2000), Nhìn lại một chặng
đường văn học, NXB TP. HCM.
120. Hà Công Tài (1997), “Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ”, Tạp chí văn học, (5). 121. Hà Công Tài (1996), “Đặc trưng hình thể của ngôn từ thơ ca”, Tạp chí văn học (3). 122. Nguyễn Minh Tấn (biên soạn) (1981), Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới,
Hà Nội.
123. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội. 124. Đào Thản (1990), “Nhịp chẵn, nhịp lẻ trong thơ lục bát”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3). 125. Hoài Thanh – Vũ Ngọc Phan – Hải Triều – Đặng Thai Mai (1999), Nhà văn và
tác phẩm trong nhà trường, NXB Giáo dục, Hà Nội.
126. Nguyễn Bá Thành (1991), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiên đại, NXB
Văn học, Hà Nội.
127. Nguyễn Đình Thi (1998), “Viết từ ngôn ngữ của cuộc sống tâm hồn mình”,
Tạp chí văn học, (12).
128. Bùi Công Thìn (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
129. Vũ Duy Thông (biên soạn) (2003), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam
1945 – 1975, NXB Giáo dục, Hà Nội.
130. Trúc Thông (1995), “Một ngả đường đến với thơ”, Tạp chí Tác phẩm mới, (11). 131. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
132. Nguyễn Bích Thuận (sưu tầm và giới thiệu), Hoàng cầm – Tác giả, tác phẩm,
tư liệu, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
133. Đoàn Thiện Thuật (1980), Ngữ âm Tiếng Việt, NXB Đại học và trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
134. Đỗ Lai Thúy (dịch) (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp – Lý thuyết Chủ nghĩa
hình thức Nga, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
135. Đỗ Lai Thúy (1998), “Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và…”, Tạp chí Văn học, (5) . 136. Nguyễn Thị Phương Thủy (2004), “Vần, thanh điệu, nhịp điệu trong câu thơ
mới bảy chữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11).
137. Nguyễn Vũ Tiềm (2006), Đi tìm mật mã của thơ, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 138. Phạm Văn Tình (2002), “Im lặng – một dạng tỉnh lược ngữ dụng”, Tạp chí
Ngôn ngữ, (5).
139. Bùi Quang Tịnh, Bùi Thị Tuyết Khanh (2001), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội
140. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP. HCM. 141. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, NXB
Thanh niên, Hà Nội.
142. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
143. Võ Gia Trị (2002), “Lý luận là nền tảng cho thơ ca vươn cao”, Tạp chí Nhà
văn, (11).
144. Võ Gia Trị (2003), Quy luật của văn chương, NXB Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
145. Võ Gia Trị (2000), Văn chương và nghệ sĩ (tiểu luận phê bình), NXB Văn
học, Hà Nội.
146. Hoàng Trinh (1974), “Tình cảm trong sáng tác văn học”, Tạp chí văn học, (3). 147. Hoàng Trinh (1996), “Giao tiếp trong văn học”, Tạp chí văn học, (4). 148. Hàn Anh Trúc, Chuyện văn – Lai lịch nhà thơ, lai lịch bài thơ, NXB Thanh
niên, Hà Nội.
149. Lâm Vinh (1980), “Từ câu thơ âm nhạc đến câu thơ văn học”, Tạp chí văn
học, (6).
150. Kiều Văn (2006), Những gương mặt tiêu biểu thơ ca Việt Nam, NXB Văn học. 151. Hoài Việt (sưu tầm, biên soạn) (1997), Hoàng Cầm – Thơ văn và cuộc đời,
NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
152. Vũ Thanh Việt (tuyển chọn và biên soạn) (1999), Thơ Nguyễn Bính – Những
lời bình, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
153. Hồ Sĩ Vịnh (2004), “Yếu tố phi lý tính trong thơ”, Tạp chí Nhà văn, (8). 154. V.V.Vi-nô-gờ-ra-đốp (1971), Về lý luận của ngôn ngữ nghệ thuật, NXB Cao
đẳng, Mạc Tư Khoa, Hà Nội.
155. Xâytlin (1968), Lao động nhà văn, NXB Văn học. 156. Bôrix Xuskôv (1980), Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, NXB Tác
phẩm mới, Hà Nội.
157. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1994), Từ điển thành ngữ Việt Nam, NXB Văn hóa
– Thông tin, Hà Nội.
158. Nhiều tác giả (Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh) (1976), Về văn hóa văn nghệ, NXB Văn hóa, Hà Nội.
159. Nhiều tác giả (1983), Nhà văn bàn về nghề văn, Hội văn học nghệ thuật
Đà Nẵng.
160. Nhiều tác giả (2003), Những vấn đề Ngữ văn, Thơ – Nghiên cứu, lý luận, phê
bình, NXB đại học Quốc gia, TP. HCM.
161. Nhiều tác giả (1990), Tình bạn, tình yêu, thơ…, NXB Giáo dục, Hà Nội. 162. Nhiều tác giả (1992), Thơ Việt Nam 1930 – 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 163. Nhiều tác giả (2006), Thơ hay Việt Nam thế kỉ XX, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
164. Nhiều tác giả (1994), Tuyển tập thơ lục bát Việt nam, NXB Văn hóa, Hà Nội. 165. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Lời hay ý đẹp, tập 2, NXB Thanh niên, Hà Nội. 166. Nhiều tác giả (1993), Từ điển Văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin,
Hà Nội.
167. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Văn học (bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội. 168. Nhiều tác giả (2006), Văn chương một thời để nhớ, NXB Văn học, Hà Nội. 169. Nhiều tác giả (1978), Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội. 170. Nhiều tác giả (1991), Xuân Thu nhã tập, NXB Văn học, Hà Nội.