VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
L Ê V Ă N T R Ư Ờ N G
LÊ VĂN TRƯỜNG
KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
N G À N H
:
I
L U Ậ T K N H T Ế
…,, năm
K H Ó A X
I
Đ Ợ T 1 N Ă M 2 0 1 8
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN TRƯỜNG KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 83 80 107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn đề tài “Kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của
bản thân tôi. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều đã được trích dẫn
rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày
trong luận văn là hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính chính xác và tin cậy, nếu sai
sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Học viên
Lê Văn Trường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH
DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH
VỤ AN NINH TRẬT TỰ ......................................................................................... 8
1.1. Khái niệm về hoạt động kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự ..................... 8
1.2. Khái niệm và nội dung của pháp luật về điều kiện kinh doanh ............... 13
1.3. Điều kiện kinh doanh và điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự ... 25
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH
TRẬT TỰ TỪ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................... 37
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật
tự tại Việt Nam .......................................................................................................... 37
2.2. Các quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự .................... 38
2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự tại
Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................................ 53
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 59
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................ 61
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự 61
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự
.................................................................................................................................... 63
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kinh doanh dịch vụ
an ninh trật tự ........................................................................................................... 70
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 73
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, quan điểm về kinh tế thị trường đã xuất hiện từ Đại hội VI,
nhưng phải đến Đại hội IX (Tháng 4 năm 2011) thì khái niệm kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa mới được chính thức sử dụng trong các văn kiện của
Đảng. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội của cả
nước nói chung, của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, các cơ sở đầu tư kinh
doanh có điều kiện về an ninh trật tự, nhất là vũ trường, quán karaoke, dịch vụ
massage, dịch vụ cầm đồ, cho thuê lưu trú,… khá phát triển. Bên cạnh những mặt
tích cực về lợi ích kinh tế mang lại, các lĩnh vực này cũng phát sinh và tiềm ẩn
nhiều vấn đề phức tạp về an ninh trật tự, cụ thể nhu: thuê khách sạn, nhà nghỉ để
hoạt động mại dâm, sử dụng trái phép chất ma túy, tổ chức đánh bạc; sử dụng các
quán bar, vũ trường, quán karaoke để làm nơi ăn chơi thác loạn; lợi dụng hoạt động
kinh doanh dịch vụ cầm đồ để tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có, tình trạng cho
vay nặng lãi, đòi nợ thuê,… diễn ra khá phổ biến, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình
trật tự an toàn xã hội.
Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã xác định đây là nhiệm vụ
trọng tâm, thường xuyên, cấp bách và lâu dài, đòi hỏi phải có sự tham gia, phối
hợp triển khai mạnh mẽ giữa các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Ở nước ta hiện nay, pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh đã được xây
dựng và hoàn thiện dần theo thời gian, nó tác động trực tiếp đến quyền tự do kinh
doanh của công dân và quyền quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp nói
riêng, đối với chủ thể kinh doanh khác nói chung.
Điều kiện kinh doanh là những yêu cầu mà nhà nước đã đặt ra để buộc các
chủ thể kinh doanh phải thực hiện khi kinh doanh trong những ngành nghề kinh
doanh có điều kiện. Điều kiện kinh doanh được coi là một trong những công cụ
quản lý nền kinh tế. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy định cụ thể về
1
điều kiện kinh doanh để quản lý nền kinh tế của quốc gia mình. Việc tìm hiểu pháp
luật về điều kiện kinh doanh của các quốc gia trên thế giới nhằm rút ra bài học kinh
nghiệm trong quá trình hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành.
Điều kiện kinh doanh được nhà nước sử dụng để điều tiết, kiểm soát các
hoạt động kinh doanh, hướng đến bảo vệ quyền, lợi ích chung của cộng đồng và xã
hội. Căn cứ pháp lý của điều kiện kinh doanh đã được hình thành và chính thức ghi
nhận trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, đến nay, đã có nhiều thay đổi, góp phần
hình thành và phát triển kinh tế thị trường, đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước
trong các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện.
Với kết quả khả quan đạt được, pháp luật về điều kiện kinh doanh nói chung,
và pháp luật về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực an ninh trật tự nói riêng, cũng
bộc lộ không ít hạn chế trong thực tiễn áp dụng phát luật. Cụ thể là: những quy
định pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự còn nằm rải rác tại nhiều văn bản
khác nhau, cơ chế kiểm soát việc ban hành, thực thi các điều kiện kinh doanh chưa
được thực hiện thường xuyên. Với những hạn chế kể trên đã làm giảm đi phần nào
ý nghĩa của quy định về điều kiện kinh doanh trong quan lý nhà nước. Bên cạnh
đó, hạn chế quyền tự do kinh doanh của công dân và trong nhiều trường hợp gây
khó khăn cho doanh nghiệp trên cả nước nói chung và địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã và đang tạo ra sức ép cạnh tranh đối
với các doanh nghiệp Việt, vấn đề về mở cửa thị trường, nếu không có sự chuẩn bị
tốt, các doanh nghiệp Việt sẽ gặp không ít khó khăn, bất lợi trong thời gian sắp tới.
Xuất phát từ thực trạng của pháp luật về kinh doanh các ngành nghề có điều
kiện về an ninh trật tự hiện nay cũng như vai trò, ý nghĩa của nó, việc nghiên cứu,
đánh giá nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự là cần
thiết, ý nghĩa. Tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Kinh doanh dịch vụ an ninh
trật tự theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành Phố Hồ Chí Minh” làm đề
2
tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu, tác giả được biết, pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật
tự đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu luật học, cũng như những
người làm công tác thực tiễn áp dụng pháp luật. Có thể phân loại các công trình
nghiên cứu này thành hai nhóm lớn như sau:
Nhóm các khóa luận, luận văn: Các công trình nghiên cứu khoa học trong
nhóm này gồm có:
- Vũ Thị Hiền (2014), Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Hạnh (2016), Pháp luật kinh doanh có điều kiện về an ninh
trật tự và thực tiễn thi hành tại Tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội.
- Chu Thị Huyền Trang (2017), Pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh rượu
ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Các công trình nghiên cứu khoa học
trong nhóm này gồm có:
- Tiến sỹ Trần Huỳnh Thanh Nghị, “Thực trạng pháp luật về giấy phép kinh
doanh”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 04/2013. Công trình
nghiên cứu này được phát triển trên cơ sở công trình “Cải cách thủ tục thành lập
doanh nghiệp tại Việt Nam trong chặng đường 10 năm hội nhập kinh tế quốc tế”,
Tạp chí Luật học – Đại học Luật Hà Nội, số 08/2011 của chính tác giả. Đây là công
trình tiếp cận các quy định hiện hành về giấy phép kinh doanh với tư cách là một
trong những điều kiện kinh doanh quan trọng áp dụng sau thủ tục đăng kí thành lập
doanh nghiệp.
- Nguyễn Thị Yến, Tiến sỹ Trần Bảo Ánh, Pháp luật về ngành nghề kinh
doanh có điều kiện và kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Luật học - Trường Đại học Luật
3
Hà Nội, số 04/2013. Trong phạm vi bài tạp chí, các tác giả nghiên cứu đã một cách
tổng quan, tuy không đi sâu vào phân tích từng loại điều kiện kinh doanh, nhưng đã
nhấn mạnh một số các điều kiện kinh doanh tiêu biểu nhằm phục vụ cho mục đích
nghiên cứu về các ngành nghề kinh doanh có điều kiện của mình.
Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Các công trình nghiên cứu khoa học
trong nhóm này gồm có:
- Tiến sỹ Nguyễn Thị Dung, “Chế độ pháp lý về giấy phép kinh doanh”,
chương 8, Giáo Trình Luật Thương Mại tập 1, 2008. Tác giả đã trình bày một cách
khoa học những vấn đề lý luận chung về giấy phép kinh doanh với tư cách là một
công cụ quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại. Với công trình nghiên cứu
này của tác giả chỉ giải quyết một vấn đề nhỏ trong hệ thống điều kiện kinh doanh,
đó là giấy phép kinh doanh.
Một điểm chung của các nhóm công trình nghiên cứu kể trên là phần lớn chỉ
đề cập một cách khái quát về điều kiện kinh doanh nói chung. Một số công trình
nghiên cứu khoa học cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng pháp luật hiện
hành. Có thể nói, hiện nay, gần như chưa có một công trình nghiên cứu khoa học
về những vấn đề pháp lý và thực tiễn trong kinh doanh dịch vụ về an ninh trật tự.
Trong khi đó, đây là một quy định còn nhiều điểm chưa cụ thể, khiến cho quy định
pháp luật này khó áp dụng trong thực tiễn.
Xuất phát từ tình hình trên, tác giả mong muốn phân tích gắn với thực tiễn
áp dụng để tìm hiểu những điểm chưa phù hợp của quy định pháp luật hiện hành.
Từ đó, tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật kinh doanh dịch vụ về an
ninh trật tự, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu về những vấn đề lý luận và
thực tiễn của pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự. Bên cạnh đó, cũng phân
4
tích thêm về vai trò quan trọng của các điều kiện an ninh, trật tự đối với ngành nghề
kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự và chỉ ra những thành tựu đã đạt được cùng những
khó khăn trong việc áp dụng, thực hiện để từ đó đề xuất những giải pháp về mặt pháp
lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của lĩnh vực này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận về điều kiện kinh doanh, hoạt
động kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự; làm rõ các quy định của pháp luật
về các điều kiện an ninh trật tự áp dụng với các doanh nghiệp kinh doanh ngành
nghề có điều kiện.
- Thứ hai, phân tích sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động
kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực an ninh trật tự; và chỉ rõ những điều kiện
kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh trong việc kinh doanh các ngành
nghề có điều kiện về an ninh trật tự. Từ đó, đánh giá tình hình áp dụng các quy
định pháp luật trong lĩnh vực này của các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có
điều kiện trên địa bàn thành phố và phân tích được những thành tựu, những hạn
chế, tồn tại trong việc áp dụng các quy định của pháp luật tại Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Thứ ba, xây dựng định hướng và đưa ra giải pháp kiến nghị hoàn thiện các
quy định pháp luật hiện hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tác giả tập trung tìm hiểu và nghiên cứu
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các quy định pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới về pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự, phân tích
thực tiễn áp dụng quy định pháp luật trong cuộc sống. Sau đó, phân tích nguyên
nhân dẫn đến những điểm bất hợp lý của pháp luật hiện hành, đưa ra giải pháp
kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động
5
kinh doanh về an ninh trật tự cả nước nói chung và trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng trong những năm vừa qua. Vì đây là một lĩnh vực kinh doanh có
điều kiện nên bên cạnh những quy định về kinh doanh nói chung, mảng những quy
định về các điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực an ninh trật tự sẽ là những nội
dung độc đáo của Đề tài. Vì vậy, trong khuôn khổ của luận văn, đề tài có quan tâm
và khai thác nhiều đến khía cạnh điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực an ninh trật
tự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tác giả thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác –
Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh doanh
nói chung và pháp luật doanh nghiệp nói riêng.
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
(i) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lênin;
(ii) Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh.
Cụ thể:
Phương pháp phân tích: đây là một phương pháp phổ biến trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học pháp lý. Được sử dụng để giải thích, phân tích, đánh giá nội
dung của các quy phạm pháp luật. Vì đề tài này là phân tích pháp luật, đánh giá
thực trạng, từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật nên phương
pháp này là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong toàn luận văn.
Phương pháp so sánh: tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh các quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành với các quy định pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới về pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự. Phương
6
pháp này được sử dụng tập trung trong chương 1 của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc thực hiện đề tài luận văn này, tác giả mong muốn hệ thống hoá, kế
thừa và phát triển các luận cứ khoa học về cơ sở lý luận của pháp luật về kinh
doanh dịch vụ an ninh trật tự thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp
dụng tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh;
Thông qua đề tài, tác giả đã đưa ra những kết quả tích cực đạt được, những
mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện và chỉ ra những bất cập trong các quy
định hiện hành về pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh. Bên cạnh đó, đánh giá
những mặt tích cực và hạn chế của thực tiễn thi hành lĩnh vực pháp luật này tại địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ đó, đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kinh doanh dịch vụ an ninh trật
tự và pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự
Chương 2: Thực trạng về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự từ Thành phố
Hồ Chí Minh.
Chương 3: Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về điều kiện
7
kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ
AN NINH TRẬT TỰ VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ
1.1. Khái niệm về hoạt động kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự
1.1.1. Khái niệm về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
Trước khi tìm hiểu về hoạt động kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự, có thể
thấy “kinh doanh” là một thuật ngữ khá phổ biến được sử dụng trong đời sống kinh
tế. Khái niệm “kinh doanh” đã được pháp luật Việt Nam đề cập, sử dụng từ năm
1990 trong Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Đến năm 1999, khái niệm
“kinh doanh” được quy định cụ thể tại Điều 3 Khoản 2 Luật Doanh nghiệp năm
1999, cụ thể: “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” – căn cứ theo Điều 4 Khoản
16 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Dưới góc độ pháp lý, hoạt động đầu tư có thể có
tính chất thương mại hoặc phi thương mại – các dự án đầu tư công, sử dụng nguồn
ngân sách nhà nước. Căn cứ theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014, với phạm vi
điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, đã đưa ra định nghĩa tại
Điều 3 Khoản 5, cụ thể như sau: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu
tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu
tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức
hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”.
Như vậy, đối với việc thành lập doanh nghiệp mới, có thể hiểu một cách đơn
giản, đầu tư kinh doanh là giai đoạn phát sinh trước khi thành lập doanh nghiệp,
bao trùm lên hoạt động thành lập doanh nghiệp. Thành lập doanh nghiệp chỉ là một
8
trong những cách thức thực hiện hoạt động đầu tư, là bước cụ thể hóa ý định đầu
tư. Tuy nhiên, thành lập doanh nghiệp chỉ là một hình thức đầu tư trong các hình
thức đầu tư mà Luật Đầu tư năm 2014 quy định.
Bản chất của nền kinh tế thị trường là phải tự do kinh doanh. Tuy nhiên,
quyền tự do của một người thường luôn bị hạn chế bởi quyền tự do của một hay
nhiều người khác, vậy nên, trong một số trường hợp cụ thể, quyền tự do bị giám sát
bởi quyền lực nhà nước. Không có hoạt động đầu tư kinh doanh nào là không có
điều kiện. Tuy nhiên, mỗi loại hoạt động cần những điều kiện khác nhau và mức độ
can thiệp của nhà nước thông qua pháp luật vào hoạt động đó cũng khác nhau.
Theo nghĩa rộng, điều kiện kinh doanh có thể hiểu là mọi sự can thiệp của cơ
quan hành chính nhà nước vào quyền tự do kinh doanh của người dân, thường được
cụ thể hóa bằng hành vi của nhân viên hành chính, có quyền chấp nhận, hạn chế,
khước từ việc đăng ký kinh doanh, hoặc tổ chức những hoạt động kinh doanh cụ
thể.
Theo nghĩa hẹp, điều kiện kinh doanh được hiểu là những tiêu chuẩn phải
duy trì trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, được áp dụng
cho một ngành hàng hoặc lĩnh vực kinh doanh cụ thể, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giám sát theo cơ chế hậu kiểm.
Việc ban hành Luật Đầu tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các
văn bản hướng dẫn thi hành, khái niệm điều kiện kinh doanh đã được thống nhất,
đây là căn cứ để các bộ, ngành phải thực hiện soạn thảo các nghị định về điều kiện
đầu tư kinh doanh đối với một số ngành, nghề chưa có văn bản quy định về điều
kiện đầu tư, kinh doanh, phải sửa đổi các quy định về điều kiện về đầu tư kinh
doanh được ban hành không đúng thẩm quyền của Luật Đầu tư.
Theo quy định tại Điều 7 Khoản 1 Luật Đầu tư năm 2014, khái niệm về
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, được quy định cụ thể: “Ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh
9
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Với khái niệm trên, có thể nói, điều kiện để đầu tư, kinh doanh ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện là những điều kiện mà doanh nghiệp phải có hoặc phải
thực hiện khi kinh doanh một ngành, nghề cụ thể.
Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư đã có những quy định tách bạch giữa việc
yêu cầu thành lập doanh nghiệp và yêu cầu về điều kiện kinh doanh đối với ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện. Như vậy điều kiện kinh doanh có thể hiểu là điều
kiện mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ
thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng chỉ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu
về vốn pháp định hoặc một số yêu cầu khác. Đối với những ngành, nghề mà pháp
luật về kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự và pháp luật có liên quan quy
định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được thành lập và hoạt động khi có đáp
ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Căn cứ quy định tại Điều 2 Khoản 7 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP của
Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
năm 2014 thì “Điều kiện đầu tư kinh doanh là điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải
đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế về đầu tư
khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện”.
Theo quy định tại Điều 9 Khoản 2 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP thì các
điều kiện đầu tư kinh doanh được áp dụng theo các hình thức sau:
- Giấy phép;
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện;
- Chứng chỉ hành nghề;
- Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
10
- Văn bản xác nhận;
- Các hình thức văn bản khác theo quy định của pháp luật ngoài các hình
thức điều kiện trên;
- Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh mà không cần phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình
thức văn bản.
Như vậy, Luật Doanh nghiệp tiếp cận điều kiện đầu tư, kinh doanh, dưới góc
độ là những yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp khi kinh doanh ngành, nghề
trong mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
1.1.2. Khái niệm về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự
Hiện nay, các quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, các văn bản,
Nghị định, Thông tư… chưa có khái niệm cụ thể về ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện về an ninh, trật tự.
Kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự là thực hiện các hoạt động đầu tư kinh
doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định.
Vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe
cộng đồng.
Theo đó các danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định
cụ thể tại Phụ lục 4 của Luật Đầu tư 2014.
Điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề được quy định tại các luật, pháp
lệnh hay nghị định. Được quy định trong điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên. Theo đó bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không được ban hành quy
định về điều kiện đầu tư kinh doanh.
Điều kiện đầu tư kinh doanh phải phù hợp với mục tiêu của quy định và phải công
khai, minh bạch, khách quan.
Điều kiện kinh doanh chính là các yêu cầu từ phía cơ quan quyền lực nhà
11
nước buộc các doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện đều được thể hiện cụ thể
trên giấy phép kinh doanh, giấy chức nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ
hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp
định hoặc yêu cầu khác.
Một số định nghĩa về dịch vụ:
Adam Smith định nghĩa như sau: “Dịch vụ là những nghề hoang phí nhất
trong tất cả các nghề như cha đạo, luật sư, nhạc công, ca sĩ Opera, vũ công… Công
việc của tất cả bọn họ tàn lụi đúng lúc nó được sản xuất ra”. Từ định nghĩa trên, có
thể nhận thấy rằng Adam Smith có lẽ muốn nhấn mạnh đến khía cạnh “không tồn
trữ được” của sản phẩm dịch vụ, tức là được sản xuất và tiêu thu đồng thời.1
Ngày nay, vai trò quan trọng của dịch vụ trong nền kinh tế ngày càng được
nhận thức rõ ràng hơn. C.Mác cho rằng: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản
xuất hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông
thông suốt, trôi chảy, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao đó của con
người thì dịch vụ ngày càng phát triển”.2
Từ định nghĩa này, C.Mác chỉ ra được nguồn gốc và sự phát triển của dịch
vụ, kinh tế hàng hóa càng phát triển thì dịch vụ càng phát triển.
Căn cứ theo quy định tại Điều 4 Khoản 1 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của
Chính phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện, thuật ngữ “an ninh trật tự” được quy định như sau: “An
ninh, trật tự là cách viết gọn của cụm từ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Qua nghiên cứu các tài liệu khác nhau, danh mục ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện về an ninh, trật tự theo quy định của pháp luật, có thể khái quát khái niệm
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự như sau: Ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện về an ninh, trật tự là những ngành, nghề đòi hỏi chủ thể kinh
doanh phải đáp ứng các điều kiện về an ninh, trật tự trong quá trình thực hiện hoạt
động kinh doanh. Đây là những ngành, nghề khá phức tạp, vừa chịu sự quản lý về
12
1 Robert B. Ekelund, JR. Robert F. Hébert, 2004, Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Thống kê, tr. 118 2 C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, 1993, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.23, tr. 877
hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, vừa
chịu sự quản lý của lực lượng công an về an ninh, trật tự nhằm đảm bảo yêu cầu
hoạt động kinh doanh của các cơ sở, vừa chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm, các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội.
Theo quy định trong Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định
về điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện thì: Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự là những
ngành, nghề quy định tại Điều 3 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ,
trong quá trình hoạt động kinh doanh có yếu tố phức tạp liên quan đến an ninh, trật
tự dễ bị lợi dụng để hoạt động phạm tội và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật
khác.
1.2. Khái niệm và nội dung của pháp luật về điều kiện kinh doanh
1.2.1. Khái niệm pháp luật về điều kiện kinh doanh
Thực hiện công cuộc đổi mới, trên phương tiện kinh tế của Việt Nam 30 năm
trước đây (từ Đại hội VI, năm 1986) về bản chất đã từng bước dỡ bỏ các rào cản
kinh doanh. Từ đó, mọi quyền sản xuất kinh doanh đều tập trung vào nhà nước –
dưới các hình thức quốc doanh, hợp tác xã,…, được thay thế bằng việc tư nhân
được quyền tự tổ chức sản xuất, kinh doanh. Người dân, từ chỗ không có quyền
làm ăn kinh doanh, từng bước thay đổi, đã được làm những gì nhà nước cho phép,
tiến tới “được tự do kinh doanh trong những ngành nghề không bị cấm”. Từ thời
điểm này, pháp luật về đầu tư, kinh doanh mới được xây dựng và hoàn thiện qua
từng giai đoạn.
Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và Luật Công ty năm 1990 đều đề cập
đến những điều kiện đầu tư, kinh doanh cơ bản. Các văn bản quy phạm pháp luật
này chủ yếu tập trung quy định về điều kiện để thành lập doanh nghiệp tư nhân,
công ty. Theo đó, nhà đầu tư phải đáp ứng được yêu cầu về vốn pháp định; yêu cầu
13
về chuyên môn, nghiệp vụ đối với người quản lý hoặc người được thuê quản lý,
điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty; chủ thể kinh doanh phải xin giấy phép
thành lập ở Ủy ban Nhân dân cấp có thẩm quyền; đối với một số ngành, nghề, chủ
thể kinh doanh phải được sự cho phép của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, cụ thể
như: sản xuất và lưu thông thuốc nổ, thuốc đọc, hóa chất độc; khai thác các loại
khoáng sản quý; sản xuất và cung ứng điện, nước có quy mô lớn; sản xuất các
phương tiện phát sóng truyền tin; dịch vụ bưu chính viễn thông, truyền thanh,
truyền hình, xuất bản; vận tải viễn dương và vận tải hàng không; chuyên kinh
doanh xuất khẩu, nhập khẩu; Du lịch quốc tế.
Nhìn chung, trong thời kì này, các quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh
vẫn còn sơ sài và chỉ hướng đến việc thành lập doanh nghiệp, chưa chú trọng đến
việc thanh tra, kiểm soát các hoạt động của nhà đầu tư sau đăng ký đầu tư, kinh
doanh.
Luật Doanh nghiệp năm 1999 được ban hành ngày 12/06/1999 đã tạo ra
bước ngoặt lớn trong việc cải cách khung pháp luật về các loại hình doanh nghiệp ở
Việt Nam, trong đó bao gồm các quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh. Tại
Điều 17 Khoản 2 Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định: “Doanh nghiệp có quyền
hoạt động kinh doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được quyền
kinh doanh các ngành, nghề đó kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định”,
Nghị định số 03/2000/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Doanh
nghiệp năm 1999 đã khẳng định rõ điều kiện đầu tư, kinh doanh được thể hiện dưới
02 hình thức sau: giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
và các điều kiện đầu tư, kinh doanh không cần giấy phép: các quy định về tiêu
chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; quy định về phòng cháy,
chữa cháy, trật tự xã hội, an toàn giao thông và quy định về các yêu cầu khác đối
với hoạt động kinh doanh. Nhìn chung, xu hướng của pháp luật là đơn giản hóa
điều kiện thành lập doanh nghiệp, tăng cường việc kiểm soát hoạt động của doanh
14
nghiệp sau khi thực hiện thủ tục đăng kí kinh doanh. Tuy vậy, trên thực tế cho thấy,
quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong giai đoạn này vẫn tồn tại một số bất
cập nhất định, chưa đưa được ra cách hiểu thống nhất về điều kiện đầu tư, kinh
doanh, chỉ đưa ra quy định chung do vậy tạo đà cho hàng loạt các vấn nạn sách
nhiễu, gây phiền hà từ phía cơ quan công quyền đối với các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm
1999, vẫn tiếp tục duy trì những nội dung cơ bản về điều kiện đầu tư, kinh doanh.
Bên cạnh đó, điều kiện đầu tư, kinh doanh không chỉ bó hẹp trong phạm vi “cho
phép” và “không cần giấy phép” mà đã được mở rộng ra thành các “chấp thuận” và
“không cần sự chấp thuận” của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tập hợp, thống kê từ dữ liệu pháp luật Việt Nam, tính đến hết tháng 7 năm
2008 đã có 43 Luật và Pháp lệnh, 108 Nghị định, hơn 350 Thông tư và Quyết định
của các bộ có nội dung quy định về kinh doanh có điều kiện. Trong đó, bao gồm
khoảng 400 hoạt động kinh doanh có điều kiện, với hơn 300 giấy phép các loại3.
Để ngăn chặn tình trạng ban hành giấy phép tràn lan bất hợp lý, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 đã quy định cụ thể tại Điều 7 Khoản 4 Luật Doanh nghiệp năm
2005 như sau: “Chính phủ định kì rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần các
điều kiện kinh doanh; bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không
còn phù hợp; sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các điều kiện bất hợp lý; ban hành
hoặc kiến nghị ban hành điều kiện kinh doanh mới theo yêu cầu quản lý nhà nước”.
Với quy định này sẽ tạo được khung pháp lý, giao nhiệm vụ cho Chính phủ phải
thường xuyên giám sát và thay đổi kịp thời theo yêu cầu quản lý nhà nước trong lộ
trình hội nhập, phát triển.
Tuy nhiên, 10 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2005 đến trước khi ban
hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014, là một khoảng thời gian quá
dài, chính vì lẽ đó, điều kiện kinh doanh do các bộ, ngành và chính quyền địa
phương ban hành trái luật tăng vọt với con số lên đến khoảng 4.000 điều kiện kinh
3 CIEM-GTZ (2008): Rà soát hệ thống quy định về giấy phép kinh doanh: thực trạng và kiến nghị giải pháp 15
doanh trái luật. Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 được ban
hành, đối đầu trực diện với thực tế nêu trên.
Tóm lại, có thể hiểu, pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh là tổng thể
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, hoạt động kinh doanh các
ngành, nghề có điều kiện của các chủ thể kinh doanh.
Căn cứ quy định tại Luật Đầu tư thì ngày 01/7/2016 là thời điểm hết hiệu lực
của quy định về điều kiện kinh doanh do các bộ ban hành và 267 là con số cô định
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại Luật Đầu tư năm 2014. Tuy
nhiên, tại thời điểm này, đã có luật sửa đổi Phụ lục 4 về 267 ngành, nghề nêu trên.
Hiện nay, chỉ còn 243 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh
Với tư cách là một bộ phận của pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư kinh
doanh, pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh có nhiệm vụ là điều chỉnh một
cách đầy đủ, toàn diện các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thành lập, thực
hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi doanh nghiệp đó kinh doanh
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Nội dung của pháp luật về điều kiện đầu tư,
kinh doanh chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: tính chất và sự phát triển của
nền kinh tế, vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về định hướng phát triển nền kinh tế… Vì vậy, mỗi giai đoạn
khác nhau, pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh sẽ có những thay đổi phù hợp.
Nhìn chung, pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam có những
nội dung cơ bản sau:
- Định nghĩa về điều kiện đầu tư, kinh doanh và các hình thức của điều kiện
đầu tư, kinh doanh.
16
- Quy định về các ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện.
- Quy định cụ thể cách thức đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh, thời
điểm phải đáp ứng điều kiện đầu tư, kinh doanh.
- Quy định về quản lý nhà nước đối với điều kiện đầu tư, kinh doanh. Cụ thể
sẽ xác định thẩm quyền đặt ra các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh; thẩm
quyền, trách nhiệm cấp, hoặc xác nhận các điều kiện đầu tư, kinh doanh; thẩm
quyền xem xét, kiểm tra và xử lý các vi phạm điều kiện đầu tư kinh doanh.
1.2.3. Pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh của một số quốc gia
trên thế giới
1.2.3.1. Pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh ở Mỹ
Mỹ là một quốc gia cộng hòa lập hiến liên bang, bao gồm 50 bang và một
đặc khu liên bang. Hệ thống pháp luật của Mỹ bao gồm hệ thống pháp luật liên
bang và hệ thống pháp luật bang. Do đó, khi thực hiện các hoạt động kinh doanh tại
quốc gia này, doanh nghiệp phải tuân thủ một loạt các quy định của địa phương,
tiểu bang và của liên bang. Pháp luật doanh nghiệp Mỹ cũng có những quy định về
điều kiện đầu tư, kinh doanh gắn với từng loại hình doanh nghiệp hoặc một số loại
ngành, nghề nhất định.
Đa số các nhà nghiên cứu đều đánh giá rằng, việc bắt đầu một doanh nghiệp
ở Mỹ khá dễ dàng, bởi vì họ quy định rất đơn giản, tinh gọn các thủ tục về đăng kí
kinh doanh. Bên cạnh đó, hệ thống đăng kí kinh doanh, quốc gia này đã thiết lập cơ
chế xin giấy phép và chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền rất rõ ràng và cụ thể để
kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư, doanh nghiệp.
Tại Mỹ, có hai hệ thống cấp phép, cụ thể là: Giấy phép và sự chấp thuận của
tiểu bang (State Licenses & Permits) và Giấy phép và sự chấp thuận của Liên bang
(Federal Licenses & Permits). Hai hệ thống này tồn tại song song với nhau và chi
phối đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đầu tiên, doanh nghiệp đó phải đáp ứng được các yêu cầu để xin phép kinh
doanh tại địa phương, tiểu bang – nơi mà doanh nghiệp có trụ sở. Trường hợp
17
doanh nghiệp đó kinh doanh lĩnh vực, ngành nghề có sự kiểm soát của liên bang,
thì doanh nghiệp chỉ dược thực hiện hoạt động kinh doanh đó khi được chính
quyền liên bang chấp thuận hoặc cấp giấy phép kinh doanh. Có thể kể đến một số
ngành, nghề cơ bản tại Mỹ mà doanh nghiệp phải xin giấy phép của liên bang như:
+ Các doanh nghiệp sản xuất, thỏa thuận và nhập khẩu vũ khí, đạn dược, vật
liệu nổ phải tuân thủ các yêu cầu cấp phép của Đạo Luật kiểm soát vũ khí. Đạo luật
được quản lý bởi Cục quản lý Rượu, thuốc lá, súng và chất nổ (ATF)…
+ Nếu doanh nghiệp nhập hoặc vận chuyển động vận, sản phẩm động vận,
sinh học, công nghệ sinh học hoặc có nhà máy trên khắp các bang, doanh nghiệp sẽ
cần phải xin giấy phép từ Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA).
+ Doanh nghiệp sản xuất năng lượng hạt nhân cũng như các doanh nghiệp
tham gia vào việc phân phối và xử lý vật liệu hạt nhân phải xin giấy phép từ Ủy
ban điều tiết hạt nhân Mỹ.
+ Doanh nghiệp liên quan đến hoạt động của tàu bay; việc vận chuyển hàng
hóa, người qua đường hàng không sẽ cần phải áp dụng cho một hoặc nhiều giấy
phép từ Cục Hàng không Liên bang.
+ Trường hợp doanh nghiệp tham gia vào bất kì hoạt động liên quan đến
động vật hoang dã, gồm cả việc xuất nhập khẩu động vật hoang dã và các sản phẩm
phái sinh, phải có được một giấy phép thích hợp từ cơ quan quản lý Động vật
hoang dã Hoa Kỳ.
Bên cạnh đó, còn nhiều ngành, nghề khác mà khi tiến hành hoạt động kinh
doanh, doanh nghiệp bắt buộc phải xin phép cơ quan quản lý chuyên ngành liên
bang như: khai thác thủy sản, phát thanh truyền hình, khai thác mỏ, kinh doanh vận
tải hàng hải, giao thông vận tải và hậu cần… Đây đều là những ngành, nghề mà sức
ảnh hưởng từ bản chất của hoạt động kinh doanh hay quy mô của doanh nghiệp
không chỉ bó hẹp trong phạm vi một bang mà cần phải có sự kiểm soát của liên
bang để đảm bảo an toàn và an ninh cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, từng địa phương, tiểu bang lại có quy định khác nhau về việc
18
cấp giấy phép và cho phép kinh doanh đối với doanh nghiệp, tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế xã hội và chính sách của các nhà cầm quyền. Một số nơi đòi hỏi doanh
nghiệp phải có giấy phép chung, có nơi quy định giấy phép theo ngành, nghề kinh
doanh, lại có những nơi quy định giấy phép theo loại hình doanh nghiệp. Cụ thể: Ở
Columbia: Hầu hết các cá nhân và các công ty kinh doanh tại Quận Columbia phải
có giấy phép kinh doanh cơ bản của DCRA (viết tắt của The Department of
Consumer and Regulatory Affairs) cơ quan quản lý chung của Quận Columbia, bảo
đảm phúc lợi sức khỏe, an toàn và kinh tế của người dân thông qua chương trình
cấp phép, kiểm tra, tuân thủ và thực thi pháp luật. Bên cạnh đó, Sở Y tế (DHO)
phát hành giấy phép chuyên ngành nhất định, Bộ Giao thông vận tải Quận (DDOT)
quy định không gian công cộng và Văn phòng Phân vùng (DCOZ) kiểm soát sử
dụng đất.
Ngoài ra, giấy phép kinh doanh cấp cho doanh nghiệp, ở quốc gia này cũng
tồn tại cơ chế cấp phép cho cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến
năng lực, chuyên môn của cá nhân này nhằm bảo đảm lợi ích công cộng. Ở Mỹ, có
rất nhiều ngành, nghề chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý. Sự kiểm soát này
được thể hiện ở 03 hình thức:
+ Cấp phép: Đây là cơ chế bắt buộc đối với một số ngành, nghề (cụ thể như:
bác sĩ, luật sư, y tá) chỉ khi có được giấy phép hành nghề này, thì cá nhân mới được
phép hoạt động trên thực tế. Trường hợp không có mà vẫn thực hiện hoạt động
nghề nghiệp này, đồng nghĩa với việc họ đã vi phạm pháp luật. Để có được giấy
phép hành nghề này, cá nhân đó phải đáp ứng những quy định, tiêu chuẩn của các
cơ quan có thẩm quyền.
+ Cấp giấy chứng nhận: Việc cấp giấy chứng nhận được đặt ra khi hoạt động
đó không có trong giới hạn của ngành, nghề được cấp giấy phép, chủ thể kinh
doanh thực hiện có thể tự nguyện xin xác nhận là có chuyên môn liên quan đến lĩnh
vực này từ các cơ quan chức năng có thẩm quyền mà nhà nước chỉ định. Cụ thể
như: chứng nhận là nhà phân tích tài chính, chứng nhận bác sĩ có chuyên khoa hô
19
hấp…
+ Đăng ký: Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ lập một danh sách, cung
cấp những điều kiện nhất định để được có tên trong danh sách này, sau đó, các chủ
thể có nhu cầu đăng ký tên và địa chỉ, trình độ với các cơ quan quản lý. Chỉ cần có
khiếu nại của khách hàng (người tiêu dùng), hoặc việc thực hiện niêm yết công
khai thông tin chưa đúng thì chủ thể đó có thể bị loại ra khỏi danh sách này. Điều
đó đồng nghĩa với việc tiếp tục thực hiện kinh doanh sẽ là trái với quy định pháp
luật.
Ngoài những điều kiện đầu tư, kinh doanh này, ở mỗi một bang, tùy từng
giai đoạn khác nhau, doanh nghiệp sẽ phải đáp ứng các điều kiện khác nhau do cơ
quan quản lý đưa ra, cụ thể như: chứng minh vốn pháp định (tại Bang Delaware,
Bang New York,…); chứng minh khoản nợ của doanh nghiệp (ở Columbia)…
1.2.3.2. Pháp luật về điều kiệu đầu tư, kinh doanh ở Singapore
Singapore là một đảo quốc tại Đông Nam Á. Singapore là một trung tâm
thương mại, trung tâm tài chính lớn của thế giới. Pháp luật doanh nghiệp của
Singapore chịu ảnh hưởng nhiều của hệ thống pháp luật Anh (trừ những nội dung
mang tính địa phương) cũng được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ đem lại hiệu quả
điều chỉnh cao đối với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong và
ngoài nước. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, việc thành lập doanh nghiệp,
bắt đầu kinh doanh tại Singapore khá thuận tiện và dễ dàng hơn so với các quốc gia
khác trong khu vực Đông Nam Á. Chủ thể kinh doanh khi muốn thành lập doanh
nghiệp thì nộp hồ sơ thông báo đến cơ quan có thẩm quyền về đăng kí kinh doanh,
đó là cơ quan quản lý kế toán và doanh nghiệp của Singapore (ACRA). Thủ tục này
có thể được thực hiện hoàn toàn qua hệ thống đăng kí trực tuyến của ACRA. Giống
như nhiều nước trên thế giới, để thực hiện việc đảm bảo về lợi ích của nền kinh tế
và yêu cầu của quá trình quản lý nhà nước, bên cạnh cơ chế đăng kí thành lập,
Singapore cũng đặt ra quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh trong một số những
ngành nghề nhất định. Chẳng hạn như: dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giao thông vận
tải và lưu trữ, xuất nhập khẩu hàng hóa, kinh doanh khách sạn, nhà trọ, hoạt động
20
trong ngành giải trí… Theo quy định của pháp luật Singapore, để có thể đăng kí
kinh doanh hoặc thực hiện kinh doanh trong một số ngành, nghề cụ thể, doanh
nghiệp phải được cấp giấy phép hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm
quyền. Có ba loại giấy phép phổ biến ở Singapore, là:
- Giấy phép bắt buộc (Compulsory Licences)
Đây là loại giấy phép cấp cho doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, không
phải tất cả các doanh nghiệp mà chỉ một số doanh nghiệp nhất định đòi hỏi phải có
giấy phép đặc biệt này trước khi họ có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh. Ví
dụ: Trường tư thục, các công ty sản xuất video, công ty du lịch, các nhà phân phối
rượu, người cho vay, các ngân hàng và các trung tâm chăm sóc trẻ em… Với
những trường hợp này, chủ thể kinh doanh sẽ cần phải có giấy phép này khi đăng
kí kinh doanh với ACRA. Hay nói cách khá, doanh nghiệp phải có giấy phép này
thì mới được đăng kí kinh doanh. Trong trường hợp này, có thể mất từ 14 ngày đến
02 tháng để có được tất cả các giấy phép cần thiết, sự cho phép và phê duyệt để tạo
thành doanh nghiệp. Điều đặc biệt, pháp luật Singapore tạo điều kiện tiết kiệm thời
gian và tiền bạc cho các chủ thể kinh doanh bằng cách cho phép họ có thể đăng kí
kinh doanh và nộp đơn xin giấy phép bắt buộc phải cùng một lúc bằng cách sử
dụng dịch vụ cấp giấy phép kinh doanh trực tuyến.
- Giấy phép nghề nghiệp (Occipational Licences)
Trường hợp một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
chuyên nghiệp (dịch vụ khám chữa bệnh, dịch vụ pháp lý,…) thì cần phải có giấy
phép nghề nghiệp. Loại giấy phép này không cấp cho doanh nghiệp mà cấp cho cá
nhân, là những người quản lý doanh nghiệp hoặc các nhân viên của doanh nghiệp
đó. Những ngành, nghề phổ biến phải có giấy phép nghề nghiệp ở Singapore đó là:
bác sĩ, luật sự, kiến trúc sư, kế toán,… Giấy phép này sẽ được cấp bởi các tổ chức
nghề nghiệp hoặc cơ quan có thẩm quyền quản lý tương ứng.
- Giấy phép hoạt động kinh doanh (Business Activity Licences)
Sau khi được thành lập, đi vào hoạt động, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều
21
hoạt động kinh doanh như: cải tạo, dựng biển quảng cáo trên cơ sở của doanh
nghiệp, thuê lao động nước ngoài, xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm, buôn bán những
hàng hóa bị kiểm soát như rượu, thuốc lá,… Chủ thể kinh doanh chỉ được thực hiện
hoạt động đó khi được cấp giấy phép hoặc được sự chấp thuận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Cụ thể như sau: Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất nhập
khẩu, bắt buộc phải xin giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu qua – trang thông tin quản
lý của Hải quan Singapore. Họ sẽ phải kích hoạt tài khoản hải quan của mình trước
khi xuất, nhập khẩu hàng hóa. Khi đăng kí kinh doanh, doanh nghiệp sẽ được cấp
một trị số UEN, đối với doanh nghiệp UEN chính là số đăng kí kinh doanh cấp cho
doanh nghiệp. Chỉ khi có UEN, chủ thể kinh doanh đó mới kích hoạt được tài
khoản hải quan để xin phép nhập khẩu, xuất khẩu hàng hóa. Hoặc khi doanh nghiệp
muốn thực hiện hoạt động quảng cáo, nếu như là quảng cáo ngoài trời thì cần phải
xin giấy phép xây dựng của cơ quan quản lý xây dựng BCA; trường hợp là quảng
cáo các sản phẩm y tế thì cần phải xin giấy phép của cơ quan khoa học y tế HAS…
Đặc biệt, các điều kiện đầu tư, kinh doanh đều được Chính phủ Singapore
công khai trên các trang thông tin điện tử chính thức, các doanh nghiệp có thể sử
dụng dịch vụ cấp phép EnterpriseOne kinh doanh trực tuyến (OBLS), để thực hiện
việc xin những giấy phép cần thiết để thành lập và hoạt động. Điều này rất hữu ích,
các doanh nghiệp không phải mất thời gian để đến trực tiếp liên hệ các cơ quan
chức năng có thẩm quyền.
1.2.3.3. Pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh của Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc và người dân vẫn đang nỗ lực trong công cuộc xây
dựng và hoàn thiệt hệ thống pháp luật, nỗ lực xây dựng một xã hội pháp trị hiện đại
hóa. Tại Trung Quốc, pháp luật kinh doanh rất được chú trọng, các quy định về
điều kiện kinh doanh được nhà nước này đặc biệt quan tâm, đưa ra nhiều quy định
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong các đạo luật có hiệu lực cao như: Luật
Công ty năm 2005, Luật cấp phép kinh doanh năm 2004 và một số đạo luật chuyên
22
ngành khác. Nhìn chung, các điều kiện đầu tư, kinh doanh tại Trung Quốc được thể
hiện ở hình thức văn bản chấp thuận hay điều kiện đầu tư, kinh doanh không cần
văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các doanh nghiệp tại
Trung Quốc phải đáp ứng những điều kiện đầu tư, kinh doanh ngay trước khi đăng
kí thành lập doanh nghiệp và cả sau khi doanh nghiệp đã đi vào hoạt động. Khi tiến
hành thực hiện đăng kí thành lập doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh phải xin chấp
thuận của cơ quan chức năng về:
- Tên của doanh nghiệp: theo quy định của pháp luật Trung Quốc, bước đầu
tiên để bắt đầu một doanh nghiệp ở nước này, là việc chọn tên cho doanh nghiệp.
Chủ thể kinh doanh phải nộp đơn xin chấp thuận của Cục quản lý Công nghiệp và
Thương mại địa phương (AIC) về tên doanh nghiệp. Chỉ khi được cơ quan này có
văn bản chấp nhận tên doanh nghiệp thì chủ thể kinh doanh đó mới được tiến hành
các hành vi đăng kí kinh doanh tiếp theo.
- Về vốn pháp định: Tại Trung Quốc, pháp luật quốc gia này yêu cầu, doanh
nghiệp muốn được khai sinh và công nhận sự ra đời một cách hợp pháp thì phải
đáp ứng yêu cầu về vốn tối thiểu theo từng loại hình công ty. Theo Luật Công ty
năm 2005 của Trung Quốc, quy định như sau: để thành lập công ty trách nhiệm hữu
hạn 1 thành viên, doanh nghiệp phải có ít nhất 100.000 yuan; để thành lập công ty
trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên, doanh nghiệp phải có ít nhất 30.000 yuan và để
thành lập công ty cổ phần doanh nghiệp phải có ít nhất 5.000.000 yuan. Căn cứ quy
định này, doanh nghiệp sau khi được sự chấp thuận của AIC về tên doanh nghiệp,
sẽ chủ động mở tài khoản ngân hàng, nộp tiền góp vốn ban đầu vào tài khoản đó và
yêu cầu ngân hàng xác nhận. Nếu việc góp vốn ban đầu không bằng tiền mặt, mà
bằng tài sản thì chủ thể góp vốn phải thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản cho
công ty và giá trị tài sản phải được thẩm định một cách hợp pháp. Trong một số
trường hợp doanh nghiệp phảu có báo cáo thẩm tra vốn từ cơ quan kiểm toán. Đây
được xem như tài liệu không thể thiếu trong hồ sơ đăng kí doanh nghiệp. Vốn pháp
định ở Trung Quốc không nhất thiết phải góp đủ ở thời điểm đăng kí doanh nghiệp
23
mà có thời gian tối đa để thực hiện việc góp vốn này.
Khi thực hiện hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp trong một số trường hợp
nhất định phải xin phép hoạt động với cơ quan chuyên ngành quản lý lĩnh vực mà
doanh nghiệp đó kinh doanh. Đầu tiên phải kể đến hệ thống cấp phép, bao gồm:
- Giấy phép kinh doanh tạm thời (The temporary Business License): đây là
giấy phép do cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp trong thời gian doanh nghiệp
chờ đợi góp đầy đủ vốn pháp định. Khi vốn pháp định được góp đầy đủ theo quy
định của cơ quan có thẩm quyền, khi doanh nghiệp đã góp đủ vốn pháp định, thời
gian ở giấy phép kinh doanh sẽ được điều chỉnh theo thời gian hoạt động thực tế
của doanh nghiệp.
- Giấy phép kinh doanh bắt buộc: là yêu cầu bắt buộc phải có ở Trung Quốc
gắn liền với một số ngành, nghề cụ thể như là: xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh
doanh thuốc, khám chữa bệnh… Thông thường mục đích của việc cấp giấy phép
kinh doanh là để chứng nhận doanh nghiệp được thành lập hợp pháp, quy định thời
gian được phép kinh doanh, phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp. Theo đánh các
của các nhà nghiên cứu, việc cấp giấy phép kinh doanh ở Trung Quốc rất phức tạp,
cần đáp ứng rất nhiều yêu cầu và đối với các nhà đầu tư nước ngoài việc cấp giấy
phép kinh doanh sẽ khó khăn hơn nhà đầu tư trong nước. Ngoài ra, khi thực hiện
hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp ở Trung Quốc còn phải thông qua nhiều sự
chấp thuận khác của các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
1.2.3.4. Bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam về điều kiện đầu tư, kinh doanh
Về thủ tục hành chính,
Việc quy định thủ tục hành chính điểu chỉnh những điều kiện đầu tư, kinh
doanh cũng phải rõ ràng, thuận tiện, nhanh chóng cho nhà đầu tư. Từ kinh nghiệm
của các nước cho thấy, thủ tục hành chính càng khó khăn, phức tạp, kéo dài sẽ dẫn
tới việc các nhà đầu tư, kinh doanh thực hiện những “giao dịch ngầm” trái quy định
của pháp luật nhưng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp hơn là tuân thủ đúng quy
24
định pháp luật.
Về pháp luật,
Cần xây dựng hệ thống pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh một cách
minh bạch, rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tra cứu, áp dụng khi
tiến hành các hoạt động kinh doanh. Qua nghiên cứu các quốc gia đều thực hiện
khá tốt yêu cầu minh bạch này, tuy nhiên, ở Việt Nam, hệ thống quy định này còn
khá rắc rối, gây ra không ít trở ngại cho các nhà đầu tư.
Về cơ sở hạ tầng,
Phải bảo đảm đầy đủ các yếu tố cần thiết và tạo điều kiện thông thoáng cho
việc đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện theo đúng phương châm:
Chính phủ kiến tạo, liêm chính và phục vụ.
1.3. Điều kiện kinh doanh và điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh
trật tự
1.3.1. Điều kiện kinh doanh
Căn cứ quy định tại Điều 2 Khoản 7 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
năm 2014 thì “Điều kiện đầu tư kinh doanh là điều kiện mà cá nhân, tổ chức phải
đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế về đầu tư
khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện”. Như vậy, điều kiện đầu tư có thể được hiểu là điều kiện mà
pháp luật quy định chủ thể kinh doanh phải đáp ứng khi kinh doanh trong một số
ngành, nghề nhất định.
Điều kiện kinh doanh được thực hiện dưới 02 hình thức sau:
1) Giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
2) Các điều kiện quy định về tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn
thực phẩm, quy định về phòng cháy chữa cháy, trật tự xã hội, an toàn giao thông và
quy định về các yêu cầu khác đối với hoạt động kinh doanh (gọi tắt là điều kiện
25
kinh doanh không cần giấy phép).
Những quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được ban hành bởi
cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ. Các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành hoặc chính quyền địa
phương ban hành mà không căn cứ trên quy định của Luật, Pháp lệnh, Nghị định
quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh các
ngành, nghề đó đều không có hiệu lực thi hành.
Đặc biệt, đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì chủ thể chỉ có
quyền kinh doanh ngành, nghề đó kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định
của pháp luật.
Điều kiện đầu tư có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
(1) Chủ thể ban hành các quy định về điều kiện kinh doanh
Căn cứ theo Điều 33 Hiến pháp năm 2013 thì “Mọi người có quyền tự do
kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”.
Nhằm mục đích bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân, Điều 7
Khoản 3 Luật đầu tư năm 2014 có quy định: “Điều kiện đầu tư kinh doanh đối với
ngành, nghề quy định tại Khoản 2 điều này được quy định tại các luật, pháp lệnh,
nghị định và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên. Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư
kinh doanh”. Với quy định này, thì Bộ, các cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân các cấp không được ban hành các loại giấy phép hoặc các điều
kiện đầu tư, kinh doanh.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 thì Quốc hội có thẩm quyền ban hành Hiến pháp, Bộ Luật, Luật và Nghị
quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền ban hành Pháp lệnh và Nghị
quyết. Nghĩa là, Luật Đầu tư năm 2014 đã loại trừ khả năng ngành, nghề kinh
26
doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh được quy định tại Nghị quyết của Quốc
hội và Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Việc này phù hợp với bản chất
của điều kiện kinh doanh.
Việc đặt ra những quy định về điều kiện kinh doanh, không chỉ tác động trực
tiếp đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nó còn liên quan đến sự
tăng trưởng của cả nền kinh tế. Vì vậy, cần thiết phải có những quy định thống
nhất, mang tính bao quát, bảo đảm hài hòa lợi ích chung và lợi ích riêng, tránh
hướng tới lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ. Ngoài ra, quy định như vậy cũng tạo ra nhận
thức xã hội tốt hơn về quyền tự do kinh doanh của người dân và khơi gợi tư duy
hạn chế quyền lực nhà nước, nhất là hạn chế thẩm quyền của địa phương và của các
bộ trong việc ban hành điều kiện đầu tư, kinh doanh bằng những văn bản chính
thức có hiệu lực pháp lý thấp hơn.
(2) Về phạm vi và đối tượng áp dụng của điều kiện kinh doanh
Về lý thuyết, điều kiện kinh doanh phải luôn gắn với ngành, nghề kinh doanh
cụ thể. Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, có rất nhiều ngành, nghề kinh
doanh thuộc các lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy, điều kiện kinh doanh chỉ được áp
dụng đối với những ngành, nghề có tính chất đặc biệt – khoa học pháp lý gọi đây là
những ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện. Về cơ bản, những ngành, nghề
này tồn tại, phát triển sẽ có tác động đến môi trường, con người, an ninh trật tự, trật
tự an toàn xã hội… Mặc dù, pháp luật không cấm, nhưng cần thiết phải có sự kiểm
soát một cách chặt chẽ, nhằm bảo đảm tối đa lợi ích công cộng trong những vấn đề
này.
Hiện nay, danh mục các ngành, nghề được quy định trong Phụ lục 4 Luật số
03/2016/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu
tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư năm 2014. Tùy từng thời kì, tùy từng
giai đoạn phát triển kinh tế cụ thể mà Quốc hội sẽ đưa ra danh sách những ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện sao cho phù hợp với chính sách của Nhà nước và yêu
27
cầu, đòi hỏi của nền kinh tế.
Chủ thể kinh doanh bao gồm các cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, và hộ gia
đình có đăng ký kinh doanh, khi hoạt động trong những ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện được quy định trong pháp luật hiện hành thì sẽ là đối tượng chịu sự điều
chỉnh của pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh. Trường hợp chủ thể kinh
doanh là doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, công ty hợp danh), thì có những điều kiện kinh doanh chỉ áp dụng đối
với doanh nghiệp (cụ thể như: giấy phép kinh doanh, xác nhận vốn pháp định,…).
Ngoài ra, cũng có những điều kiện đầu tư kinh doanh áp dụng đối với cá nhân,
pháp nhân là chủ đầu tư thành lập, tham gia thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp
đó (chứng chỉ hành nghề).
(3) Về hình thức của điều kiện kinh doanh
Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP v/v hướng
dẫn thi hành Luật Đầu tư năm 2014, thì hình thức của điều kiện kinh doanh, bao
gồm:
- Giấy phép;
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện;
- Chứng chỉ hành nghề;
- Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
- Văn bản xác nhận;
- Các hình thức văn bản khác trên cơ sở quy định của pháp luật ngoài các
hình thức điều kiện trên;
- Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh mà không cần phải có xác nhận, chấp thuận dưới hình thức
văn bản.
Mỗi hình thức trên có giá trị pháp lý khác nhau, được áp dụng tùy từng
28
trường hợp cụ thể. Có điều kiện phải được áp dụng trước khi thực hiện thủ tục đăng
ký kinh doanh, có điều kiện phải đáp ứng sau khi đã đăng kí kinh doanh. Ngoài ra,
cũng có những điều kiện phải đáp ứng cả trước và sau khi đã đăng kí kinh doanh.
Mỗi hình thức trên có giá trị pháp lý khác nhau, được áp dụng tùy từng
trường hợp cụ thể. Có điều kiện phải được áp dụng trước khi thực hiện thủ tục đăng
ký kinh doanh, có điều kiện phải đáp ứng sau khi đã đăng kí kinh doanh. Ngoài ra,
cũng có những điều kiện phải đáp ứng cả trước và sau khi đã đăng kí kinh doanh.
(4) Về mục đích của điều kiện kinh doanh
Việc quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh đối với một số lĩnh vực kinh
doanh là cần thiết, nó quy định phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, chứ không chỉ
riêng có ở Việt Nam. Với mục đích cơ bản của quy định về điều kiện kinh doanh là
nhằm đảm bảo chủ thể kinh doanh ngành, nghề đó sẽ không gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại đến những lợi ích mà nhà nước bảo vệ, đó là an ninh quốc phòng,
trật tự an toàn xã hội, sức khỏe của cộng đồng, đạo đức xã hội,… Ngoài ra, điều
kiện đầu tư, kinh doanh giống như một công cụ pháp lý để nhà nước kiểm soát,
điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, nhằm định hướng sự phát triển của nền
kinh tế theo quan điểm chủ trương, chính sách của mỗi một quốc gia khác nhau.
Điều kiện kinh doanh có một vai trò nhất định trong việc quản lý nền kinh tế:
Hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong bất kì thời kì nào, việc quản lý của
nhà nước đối với nền kinh tế là luôn luôn cần thiết. Nhà nước cần phải giám sát,
can thiệp vào các hoạt động của thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau, ở
những mức độ khác nhau nhằm làm cho thị trường vận hành trơn tru, hiệu quả hơn.
Điều đặc biệt quan trọng là, phải tạo ra một môi trường pháp lý nhất định, trong đó,
các quy tắc ứng xử phù hợp với các nguyên tắc thị trường được thiết lập.
Một trong những công cụ hữu hiệu để nhà nước thực hiện sự quản lý nền
kinh tế là quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh.
Vai trò quan trọng của điều kiện đầu tư, kinh doanh là giúp cho nhà nước
thực hiện việc điều tiết thị trường. Từ đó, khi bước vào nền kinh tế thị trường, với
29
xu hướng hội nhập phát triển, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến xa so với
thời kinh tế tập trung, bao cấp. Biểu hiện cụ thể nhất chính là sự mở rộng ngành,
nghề kinh doanh. Trong từng lĩnh vực đều tồn tại những ngành, nghề kinh doanh
phong phú và đa dạng. Trong đó, những ngành, nghề kinh doanh khi thực hiện sẽ
có tác động trực tiếp đến các vấn đề an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, thuần phong mỹ tục,… nhưng sự có mặt của các ngành, nghề này trên
thị trường vẫn rất cần thiết, đáp ứng được nhu cầu nhất định của xã hội, nên nhà
nước không thể cấm các hoạt động kinh doanh đối với các ngành, nghề này. Vì vậy
nên, điều kiện kinh doanh được đặt ra, có vai trò dung để điều tiết số lượng ngành,
nghề đó, không để nó phát triển một cách tràn lan.
Ngoài ra, xét về phía các doanh nghiệp tham gia vào thị trường, mục tiêu
quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp luôn luôn là lợi nhuận. Chính vì vậy, đôi khi
vì lợi nhuận mà họ sẵn sang bỏ qua lợi ích công cộng, lợi ích của các cá nhân, các
tổ chức trong xã hội. Điều này đặc biệt nguy hiểm hơn khi họ tham gia kinh doanh
những ngành, nghề đặc biệt đã nói ở trên. Lúc này, quy định về điều kiện đầu tư,
kinh doanh sẽ có vai trò định hướng và thanh lọc doanh nghiệp muốn kinh doanh
trên thị trường. Để được thành lập, để được kinh doanh những ngành, nghề mà nhà
nước hạn chế, thì bản thân doanh nghiệp đó phải đáp ứng được một số điều kiện
nhất định. Đây là những điều kiện quan trọng, nhằm mục đích chủ thể kinh doanh
có thể thực hiện tốt hoạt động kinh doanh của mình, như yêu cầu về vốn, yêu cầu
về chuyên môn nghiệp vụ, từ đó, giảm thiểu được rủi ro cho chính doanh nghiệp
thực hiện các hoạt động kinh doanh nói riêng, mà còn giảm thiểu rủi ro cho cả nền
kinh tế nói chung.
Bên cạnh đó, trong nội dung của quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh,
không chỉ đề cập đến vấn đề thành lập, vấn đề hoạt động về mặt pháp lý mà còn
liên quan đến quá trình, nội dung thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Cụ thể, là những quy định như: tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa, dịch vụ,
điều kiện về nhân lực, yêu cầu về vệ sinh, an ninh trật tự, yêu cầu về phòng cháy
chữa cháy, phòng ngừa ô nhiễm môi trường… Những vấn đề này có vai trò quan
30
trọng trong việc nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với chất lượng
hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất nói riêng và sự an toàn của nền kinh tế
xã hội nói chung. Từ đó, quyền lợi của người tiêu dung sẽ được đảm bảo, vấn đề
bảo vệ môi trường, lợi ích công cộng cộng cũng như những lợi ích của các chủ thể
kinh doanh khác.
Điều kiện kinh doanh là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức
năng quản lý doanh nghiệp, tạo ra sự ổn định của nền kinh tế.
Việc quản lý các doanh nghiệp không phải được thực hiện dựa trên ý chí của
từng cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà phải dựa trên các cơ sở pháp lý nhất
định. Và trong đó, có các quy định về điều kiện kinh doanh. Căn cứ vào nội dung
các điều kiện đầu tư, kinh doanh được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ:
- Hướng dẫn doanh nghiệp phải chấp hành hoặc cam kết thực hiện đúng và
đầy đủ các điều kiện kinh doanh đó;
- Tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các doanh
nghiệp và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về điều kiện đầu tư, kinh doanh.
Việc làm này sẽ đưa hoạt động của doanh nghiệp vào khuôn khổ, và nền
kinh tế nước ta cũng vì vậy mà ổn định hơn.
Điều kiện đầu tư, kinh doanh thể hiện quan điểm của nhà quản lý, góp phần
quyết định đến cơ cấu ngành, nghề kinh doanh.
Điều kiện đầu tư, kinh doanh là những điều kiện do nhà nước quy định nhằm
điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh cần sự kiểm
soát. Vì vậy nên, nội dung của điều kiện đầu, kinh doanh cũng sẽ thay đổi tùy theo
từng thời kì, tùy thuộc vào quan điểm, tư duy quản lý của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Trường hợp muốn hạn chế số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động
trong nền kinh tế, nhà nước chỉ cần tang “độ khó” của điều kiện đầu tư, kinh doanh.
Ngược lại, nếu muốn thu hút nhiều nhà đầu tư, kinh doanh vào tham gia hoạt động
kinh doanh thì rõ ràng, cần quy định theo hướng tạo sự thông thoáng về điều kiện
31
kinh doanh. Việc nhà nước đặt ra những điều kiện đầu tư thống nhất, áp dụng
chung cho mọi nhà đầu tư, hay là có những quy định khác biệt đối với mỗi loại nhà
đầu tư, cụ thể như, đối với nhà đầu tư trong nước phải đáp ứng một hệ thống điều
kiện kinh doanh này, trong khi đối với nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều
kiện kinh doanh khác, sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh và
môi trường đầu tư trong nước.
1.3.2. Điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự
Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự là một trong những
ngành, nghề khá phổ biến, phức tạp và có những điều kiện, phương tiện các đối
tượng có thể thực hiện hành vi phạm tội và hành vi phạm pháp khác. Ngoài việc
chịu sự quản lý về hoạt động kinh doanh, sản xuất của cơ quan chức năng có thẩm
quyền trong quá trình hoạt động kinh doanh còn chịu sự quản lý của về an ninh, trật
tự của lực lượng công an, để đảm bảo yêu cầu hoạt động kinh doanh của các cơ sở,
vừa chủ động quản lý, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời,
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện được quy định tại Phụ
lục số 4 Luật Đầu tư. Tuy nhiên, căn cứ theo Luật Đầu tư năm 2014, có tất cả 267
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, nhưng đến Tờ trình sửa đổi, bổ sung
Luật Đầu tư đã bãi bỏ 27 ngành, nghề không cần thiết phải quy định là ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện. Bởi vì, không đáp ứng được các tiêu chí và mục
đích quy định tại Điều 7 Khoản 1 Luật Đầu tư năm 2014 hoặc do thiếu tính khả thi,
không phù hợp với thực tiễn hoạt động đầu tư kinh doanh, cũng như yêu cầu quản
lý của nhà nước. Đồng thời, bổ sung thêm 15 ngành, nghề đã được quy định tại các
Luật hiện hành hoặc ngành, nghề mới phát sinh cần áp dụng điều kiện đầu tư, kinh
doanh phù hợp với các tiêu chí, mục đích quy định tại Điều 7 Khoản 1 Luật Đầu tư
2014.
Hiện nay, căn cứ vào Phụ lục 4 Luật số 03/2016/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều
6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật
32
Đầu tư năm 2014, có tất cả là 243 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
thuộc các lĩnh vực: an ninh, quốc phòng, tư pháp, công thương, lao động, thương
binh và xã hội, giao thông vận tải, thông tin và truyền thông, giáo dục và đào tạo,
nông nghiệp và phát triển nông thôn, kế hoạch và đầu tư, y tế khoa học và công
nghệ,… trong đó có các ngành, nghề đầu tư kinh doanh dịch vụ kế toán, kiểm toán,
kinh doanh xăng dầu, kinh doanh bảo hiểm, dịch vụ giám định thương mại, phân
bón chất hữu cơ, hành nghề công chứng…
Đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự, căn cứ cơ sở
pháp lý tại Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/7/2016 quy định
điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện.
1.3.2.1 Điều kiện về giấy phép kinh doanh
Giấy phép kinh doanh đôi khi còn được gọi là “Giấy phép con”. Được hiểu
là loại giấy tờ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép các doanh nghiệp, chủ
thể kinh doanh tiến hành một hoặc một số hoạt động kinh doanh trong một số lĩnh
vực.
Giấy phép kinh doanh là loại giấy tờ có tính chất thông hành mà có nó thì
các cá nhân, các tổ chức kinh doanh được hoạt động một cách hợp pháp. Doanh
nghiệp buộc phải có các giấy phép này khi hoạt động những lĩnh vực thuộc “Danh
mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện” theo quy định của Luật Đầu tư.
Giấy phép kinh doanh còn được sử dụng như một hình thức hạn chế kinh
doanh đối với những ngành, nghề, lĩnh vực nhất định…
Các lĩnh vực quản lý nhà nước quy định nhiều loại Giấy phép là: Công
thương, Giao thông vận tải, Nông nghiệp, Thông tin và Truyền thông.
1.3.2.2 Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
Thông thường, đây là các điều kiện liên quan đến cơ sở vật chất hoặc con
33
người của cơ sở đó. Khi chủ thể kinh doanh đã đáp ứng được những điều kiện đó
thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ cấp cho họ Giấy chứng nhận đủ điều kiện
kinh doanh.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chủ thể kinh
doanh mới được phép kinh doanh trong ngành nghề, lĩnh vực đó.
Những loại giấy chứng nhận phổ biến hiện nay có thể kể đến như giấy chứng
nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng
cháy chữa cháy, an ninh trật tự…
1.3.2.3. Điều kiện về chứng chỉ hành nghề
Chứng chỉ hành nghề là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp được nhà nước ủy quyền cấp cho cá nhân có
đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm về một ngành, nghề nhất định.
Đối với những ngành nghề có điều kiện này, doanh nghiệp phải có người
hoạt động trong ngành nghề đó có chứng chỉ hành nghề.
Tùy vào từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau được quy định trong pháp luật
chuyên ngành mà yêu cầu số lượng cá nhân có giấy chứng nhận hành nghề và vị trí
của người có giấy chứng nhận hành nghề trong doanh nghiệp cũng khác nhau.
Chẳng hạn như:
– Yêu cầu Giám đốc doanh nghiệp hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh
phải có chứng chỉ hành nghề: Giám đốc của doanh nghiệp. Hoặc người đứng đầu
cơ sở kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề.
– Yêu cầu giám đốc và người khác phải có chứng chỉ hành nghề: Giám đốc
của doanh nghiệp. Và ít nhất một cán bộ chuyên môn theo quy định của pháp luật
chuyên ngành trong doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề.
– Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật không yêu cầu
Giám đốc hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề. Ít
nhất một cán bộ chuyên môn theo quy định của pháp luật chuyên ngành trong
34
doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề.
1.3.2.4. Điều kiện về vốn pháp định
Yêu cầu về vốn pháp định thường được đặt ra đối với các ngành, lĩnh vực
đòi hỏi trách nhiệm tài sản cao của doanh nghiệp hoặc các ngành, nghề có yêu cầu
có cơ sở vật chất lớn.
Ví dụ, Luật kinh doanh bất động sản quy định doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh bất động sản phải có vốn pháp định là 20 tỷ đồng. Doanh nghiệp phải có vốn
điều lệ 20 tỷ đồng mới được hoạt động lĩnh vực này.
Mục đích của yêu cầu về mức vốn tối thiểu này nhằm xác định năng lực hoạt
động trong ngành, lĩnh vực đó của doanh nghiệp. Và góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể có giao dịch với doanh nghiệp đó.
1.3.2.5. Một số điều kiện khác
– Văn bản xác nhận kinh nghiệm làm việc;
– Phải lập dự án và được phê duyệt chủ trương đầu tư, thực hiện thủ tục cấp
giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trước khi thành lập công ty để bắt đầu kinh doanh;
– Các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh mà không cần phải có xác nhận, chấp thuận dưới các hình
35
thức văn bản quy định.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự có ý nghĩa hết sức quan trọng
không chỉ đối với cơ quan nhà nước, mà còn có ý nghĩa đối với chính chủ thể tiến
hành hoạt động đầu tư, kinh doanh. Những quy định của pháp luật chỉ thực sự phát
huy hiệu quả khi được tuân thủ trong thực tiễn. Doanh nghiệp giống như một tế bào
trong nền kinh tế và doanh nghiệp bị chi phối bởi nhiều yếu tố khá nhau, trong đó,
pháp luật là yếu tố đóng vai trò tạo nên khuôn khổ pháp lý nhất định. Điều này, dẫn
đến việc doanh nghiệp và cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật về điều
kiện đầu tư, kinh doanh một cách chặt chẽ, đúng trình tự, thủ tục, bảo đảm quyền
và nghĩa vụ của các bên, đảm bảo ổn định trật tự của nền kinh tế.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 khi quy định về ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện đã có rất nhiều điểm mới, quy định chi tiết và phù hợp với thực tiễn. Sự
thay đổi các quy định của pháp luật không chỉ là sự kế thừa những quy định cũ như
phát triển theo hướng mở rộng, mà còn là nhận thức đúng đắn, kịp thời của nhà làm
luật về quy định bất cập tồn tại trên thực tế. Pháp luật về ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện là một phần không thể thiếu tạo nên sự kết nối giữa doanh nghiệp với
các chủ thể khác trong xã hội. Hơn thế nữa, những quy định này cũng góp phần
trang bị kiến thức cho doanh nghiệp, nâng cao hiểu biết pháp luật về doanh nghiệp,
là cơ sở tạo nên nền văn hóa pháp luật và hình thành thói quen tuân thủ pháp luật
đối với mọi chủ thể khi thực hiện hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh
36
nghiệp.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ
AN NINH TRẬT TỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật kinh doanh dịch vụ an
ninh trật tự tại Việt Nam
2.1.1. Giai đoạn trước năm 1999
Từ năm 1986, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp
luật thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế tư nhân và là cơ sở cho sự hình thành của
doanh nghiệp tư nhân và các loại hình công ty. Đặc biệt, đối với điều kiện kinh
doanh về an ninh trật tự - một trong những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện,
pháp luật bắt đầu có những quy định để tạo hành lang pháp lý nhằm mục đích điều
chỉnh riêng đối với nhóm ngành nghề này.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2005
Luật Doanh nghiệp năm 1999 được ban hành đã tạo bước ngoặt lớn trong
việc cải cách hệ thống pháp luật về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam.
Những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự thì không cần giấy
phép, tuy vậy, vẫn phải đáp ứng một số điều kiện và thủ tục quy định tại Nghị
định số 08/2001/NĐ-CP ngày 22/02/2001 về điều kiện an ninh, trật tự đối với một
số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Nhìn chung, so với thời kì trước, pháp
luật giai đoạn này đã mở rộng về phạm vi các ngành nghề kinh doanh có điều
kiện về an ninh, trật tự.
2.1.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2014
Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999.
Đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiều về an ninh trật tự, các
văn bản mới được ban hành. Mặc dù vẫn còn tồn tại hạn chế cần tiếp tục được
37
nghiên cứu, khắc phục, nhưng phần nào đã tạo được hành lang pháp lý nhằm đáp
ứng yêu cầu bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân và yêu cầu hội nhập
của đất nước.
2.1.4. Giai đoạn từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm
2014 có hiệu lực đến nay:
Nhằm khắc phục những hạn chế của Luật doanh nghiệp năm 2005 và đáp
ứng yêu cầu cải cách để hội nhập quốc tế, Luật doanh nghiệp năm 2014 đã ra đời.
Cùng với Luật Đầu tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 vừa tiếp tục kế
thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào thực tiễn cuộc sống.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật kinh doanh dịch vụ an ninh
trật tự tại Việt Nam đã mang lại:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, cũng như hiệu quả việc thu hút các nguồn
lực đầu tư trong và ngoài nước, phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển
ngành, lĩnh vực, địa bàn trên cơ sở bảo đảm an ninh, quốc phòng, phát triển bền
vững và bảo vệ môi trường sống.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện các quy định về ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh, đồng thời cắt giảm một số
ngành, nghề không cần thiết, bất hợp lý nhằm tiếp tục đảm bảo thực hiện đầy đủ,
nhất quán quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh trong những ngành,
nghề mà Luật không cấm hoặc quy định kinh doanh phải có điều kiện.
Thứ ba, tạo những điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt đồng đăng kí đầu
tư, cắt giảm chi phí và thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý giữa các cơ quan trung ương và cơ quan địa
phương trên cơ sở bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động đầu tư, kinh doanh.
2.2. Các quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự
Các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự là những yêu
38
cầu từ phía cơ quan quyền lực nhà nước, ràng buộc các doanh nghiệp phải đáp ứng
hoặc phải thực hiện được thể hiện cụ thể trên giấy phép kinh doanh, giấy chứng
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định, và các yêu cầu khác được
pháp luật quy định.
2.2.1 Quy định về điều kiện an ninh, trật tự đối với doanh nghiệp khi kinh
doanh ngành, nghề có điều kiện
Ngày 01/7/2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2016/NĐ-CP quy
định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện. Theo đó, Nghị định này quy định điều kiện về an ninh, trật tự, công tác
quản lý nhà nước, trách nhiệm của cá nhân và tổ chức khi thực hiện hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực an ninh, trật tự trên lãnh thổ Việt Nam.
Căn cứ quy định tại Điều 7 Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy
định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện:
“1. Được đăng ký, cấp phép hoặc thành lập theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
2. Người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của cơ sở kinh doanh phải
không thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với người Việt Nam:
Đã bị khởi tố hình sự mà các cơ quan tố tụng của Việt Nam hoặc của nước
ngoài đang tiến hành điều tra, truy tố, xét xử.
Có tiền án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác do lỗi cố
ý bị kết án từ trên 03 năm tù trở lên chưa được xóa án tích; đang trong thời gian
được tạm hoãn chấp hành hình phạt tù; đang chấp hành hình phạt cải tạo không
giam giữ; đang bị quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm kinh doanh
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự theo quyết định của
39
Tòa án.
Đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; có quyết định
áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian chờ thi hành quyết định; đang
nghiện ma túy; đang được tạm hoãn, tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đã bị áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa đủ thời hạn để được coi là chưa bị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính;
b) Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hộ chiếu nước ngoài
và người nước ngoài:
Chưa được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp phép cư trú.
3. Đủ điều kiện về an toàn phòng cháy và chữa cháy theo quy định của pháp
luật về phòng cháy và chữa cháy.”
Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định rõ 13 ngành, nghề
phải có điều kiện về phương án bảo đảm an ninh, trật tự bao gồm: kinh doanh dịch
vụ công cụ hỗ trợ; kinh doanh các loại pháo; kinh doanh súng bắn sơn; kinh doanh
trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài; kinh doanh casino; kinh
doanh dịch vụ đặt cược; kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp; kinh doanh tiền chất
thuốc nổ; kinh doanh ngành, nghề có sử dụng vật liệu nổ công nghiệp và tiền chất
thuốc nổ; kinh doanh dịch vụ vũ trường; kinh doanh dịch vụ lưu trú (đối với cơ sở
kinh doanh là doanh nghiệp); kinh doanh súng quân dụng cầm tay hạng nhỏ và
kinh doanh dịch vụ bảo vệ.
Một số hành vi nghiêm cấm trong hoạt động kinh doanh ngành, nghề có điều
kiện theo quy định Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ:
- Hoạt động kinh doanh khi chưa được cấp hoặc bị thu hồi Giấy chứng nhận
đủ điều kiện về an ninh, trật tự.
- Lợi dụng hoạt động ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh,
trật tự để thực hiện hành vi xâm hại đến an ninh, trật tự, trái với đạo đức, thuần
40
phong, mỹ tục của dân tộc.
- Cho mượn, cho thuê, mua, bán Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh,
trật tự.
- Làm giả Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự; làm giả hồ sơ, tài
liệu để đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự; sửa chữa, tẩy
xóa nội dung ghi trong Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự.
- Sử dụng dịch vụ bảo vệ để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
- Hoạt động dịch vụ bảo vệ có sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực
nhằm mục đích đe dọa, cản trở, gây khó khăn cho hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân hoặc xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
- Tiến hành đòi nợ khi chưa có hợp đồng ủy quyền của chủ nợ; chưa có văn
bản thông báo cho Công an xã, phường, thị trấn nơi tiến hành đòi nợ trước khi thực
hiện đòi nợ.
- Cản trở hoặc không chấp hành công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm
của cơ quan Công an hoặc cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây khó khăn để không cấp hoặc cấp Giấy
chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự trái với quy định của Nghị định này;
cản trở, gây phiền hà, xâm phạm quyền tự do kinh doanh của tổ chức, cá nhân; bao
che các hành vi vi phạm pháp luật của người có liên quan đến hoạt động của cơ sở
kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự.
Trong hoạt động kinh doanh ngành, nghề có điều kiện, căn cứ các quy định
về phương án bảo đảm an ninh
Nghị định nêu rõ phương án bảo đảm an ninh, trật tự bao gồm: xác định khu
vực, địa bàn, mục tiêu cụ thể cần phải tăng cường để bảo đảm an ninh, trật tự; biện
pháp thực hiện; lực lượng phục vụ thường xuyên; phương tiện phục vụ; biện pháp
41
tổ chức, chỉ đạo; biện pháp phối hợp với chính quyền, cơ quan chức năng có liên
quan ở địa phương mà cơ sở kinh doanh hoạt động; tình huống giả định khi có vụ
việc liên quan đến an ninh, trật tự xảy ra; công tác huy động lực lượng, phương
tiện; biện pháp xử lý.
Người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của cơ sở kinh doanh phải chịu
trách nhiệm về việc đảm bảo các điều kiện về an ninh, trật tự; thực hiện đầy đủ các
quy định về an ninh, trật tự trong Nghị định này và các quy định khác của pháp luật
có liên quan.
Ngoài ra, người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của cơ sở kinh doanh
phải không thuộc một trong các trường hợp sau:
- Đối với người Việt Nam: Đã bị khởi tố hình sự mà các cơ quan tố tụng của
Việt Nam hoặc của nước ngoài đang tiến hành điều tra, truy tố, xét xử; có tiền án
về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác do lỗi cố ý bị kết án từ trên
3 năm tù trở lên chưa được xóa án tích; đang trong thời gian được tạm hoãn chấp
hành hình phạt tù; đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ; đang bị quản
chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện về an ninh, trật tự theo quyết định của Tòa án.
Đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; có quyết định
áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian chờ thi hành quyết định; đang
nghiện ma túy; đang được tạm hoãn, tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đã bị áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa đủ thời hạn để được coi là chưa bị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính.
- Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hộ chiếu nước ngoài
và người nước ngoài chưa được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp phép cư
trú.
Trước khi Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành, các
quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ an ninh, trật tự chưa được thống nhất,
42
còn nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, khiến cho việc áp
dụng và thực thi gặp không ít khó khăn. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2016; bãi bỏ Nghị định số 52/2008/NĐ-CP ngày 22/4/2008 về quản lý kinh
doanh dịch vụ bảo vệ và Nghị định số 72/2009/NĐ-CP ngày 03/9/2009 quy định
điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
2.2.2. Quy định về giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện
kinh doanh về an ninh, trật tự
Trên thế giới tồn tại hai cơ chế riêng biệt đối với việc hình thành và tồn tại của
doanh nghiệp, đó là: cơ chế đăng ký (Registration hoặc Notification), nghĩa là, Nhà
nước yêu cầu chủ thể kinh doanh phải cung cấp các thông tin cụ thể của họ để được
phép thành lập doanh nghiệp; và cơ chế thứ hai là: cơ chế cấp phép (License) nhằm
kiểm tra sự đáp ứng của các nhà đầu tư, doanh nghiệp đối với các điều kiện thực tế
và kiểm soát hoạt động đầu tư, kinh doanh của họ trong những trường hợp cụ thể.
Nói cách khác, doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh trong điều kiện kinh tế
thị trường thì bị chi phối bởi hai loại giấy phép, bao gồm: giấy phép thành lập (Entry
Licensing) và giấy phép hoạt động (Operation Licensing).
Tại Việt Nam cũng gần tương tự như vậy, khi gia nhập thị trường, các nhà đầu
tư phải lựa chọn hình thức doanh nghiệp phù hợp và tiến hành thủ tục đăng kí doanh
nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đăng kí kinh doanh, để thiết lập tư
cách pháp lý trên thị trường. Thông thường, các doanh nghiệp sẽ được thực hiện hoạt
động kinh doanh kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tuy
nhiên, trên thực tế, ở một số lĩnh vực thuộc những ngành, nghề nhất định, doanh
nghiệp sẽ không thể tiến hành hoạt động đầu tư, kinh doanh nếu không được sự
thông qua, cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Biểu hiện cao nhất của sự
cho phép ấy được thể hiện thông qua: giấy phép kinh doanh và Giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh là những văn bản xác nhận, cho phép chủ thể kinh doanh thực
43
hiện hoạt động kinh doanh những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp cho doanh nghiệp khi họ đáp ứng đầy đủ các điều kiện
kinh doanh cần thiết. Có thể nói, đối tượng áp dụng của 02 loại giấy tờ này là doanh
nghiệp chứ không phải là các nhà đầu tư đã góp vốn để thành lập nên doanh nghiệp
đó. Do đó, việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hay giấy phép kinh
doanh đều phải thực hiện sau khi chủ thể kinh doanh đó được thành lập một cách
hợp pháp (khi đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng
kí doanh nghiệp).
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh là một biểu thị cho mối quan hệ “đề
nghị - thông qua” giữa cơ quan chức năng với doanh nghiệp. Việc chứng nhận được
hiểu là: việc thừa nhận, công nhận là có tồn tại và đúng sự thật. Vì vậy mà, giấy
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh được xem như chứng thư xác nhận doanh
nghiệp đó đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đối với ngành, nghề kinh doanh cụ thể. Có
thể xem việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh như là một nghĩa vụ của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi doanh nghiệp đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu
theo luật định và họ có yêu cầu xác nhận, thì cơ quan chức năng có thẩm quyền xem
xét và cấp giấy chứng nhận cho họ. Nhìn chung, việc xác nhận này liên quan nhiều
đến các yếu tố kĩ thuật, chuyên môn, chuyên ngành, nên thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận phần lớn thuộc về các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, mà chủ
yếu là ở cấp tỉnh, thành. Chỉ có một số ít trường hợp là do Bộ chuyên ngành cấp.
Chẳng hạn như: Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh bán lẻ xăng dầu do Sở
Công thương cấp (Căn cứ theo quy định tại Điều 24 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP
ngày 03/9/2014 v/v kinh doanh xăng dầu), giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
thuốc do Sở y tế cấp (theo quy định tại Điều 11, Điều 13, Điều 24, Điều 25 Luật
Dược năm 2005; Điều 15, Điều 23 Nghị định số 79/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006
quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Dược) …
Giấy phép kinh doanh được xem là “đỉnh cao của sự can thiệp của Nhà nước
vào hoạt động sản xuất kinh doanh”4. Sự tồn tại của điều kiện kinh doanh là đặc
44
4 ThS. Trần Huỳnh Thanh Nghị, Thực trạng pháp luật về giấy phép kinh doanh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 04, Hà Nội, 2015
trưng của cơ chế “xin – cho” giữa doanh nghiệp với cơ quan quyền lực nhà nước.
Theo đó, một đặc quyền đã được trao cho cơ quan chức năng, họ có thể cấp phép hay
không cấp phép doanh nghiệp tiến hành một hoạt động kinh doanh cụ thể.
Nếu như giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh mang đặc trưng của việc
xem xét, kiểm tra, xác nhận, thì giấy phép kinh doanh lại thể hiện tính kiểm soát một
cách rõ nét hơn. Việc kiểm soát này là kiểm soát trên mọi phương diện, cả về mặt
chuyên môn nghiệp vụ, cả về địa phận hoạt động… Do đó, phạm vi chủ thể có thẩm
quyền cấp giấy phép kinh doanh sẽ rộng hơn, gồm có: cơ quan hành chính nhà nước
ở địa phương (bao gồm Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện, cấp tỉnh/thành), cơ quan
chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện và cấp tỉnh/thành, Bộ
chuyên ngành. Cụ thể như: việc cấp giấy phép kinh doanh bán lẻ (đại lý bán lẻ)
thuốc lá do Phòng kinh tế thuộc Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện cấp (theo quy định
Điều 26, Điều 27, Điều 28 Nghị định số 67/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 v/v quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phòng, chống tác hại của thuốc
lá về kinh doanh thuốc lá), việc cấp giấy phép kinh doanh bán lẻ sản phẩm rượu sẽ
do Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện cấp (quy định tại Nghị định số 94/2012/NĐ-CP
ngày 12/11/2012 v/v sản xuất, kinh doanh rượu) …
Không giống với giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, việc cấp giấy
phép kinh doanh không chỉ căn cứ vào việc doanh nghiệp đó đã thực hiện đầy đủ các
yêu cầu luật định hay chưa, mà còn phụ thuộc vào chủ chương, chính sách và ý chí
của nhà cầm quyền. Chính vì thế, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp tuy đã đáp
ứng đầy đủ các quy định về điều kiện kinh doanh nhưng vẫn không được cơ quan
chức năng cấp phép thực hiện hoạt động kinh doanh như mong muốn.
Có thể nói, giấy phép kinh doanh thể hiện sự can thiệp ý chí của cơ quan
quyền lực nhà nước vào hoạt động kinh doanh cao hơn giấy chứng nhận đủ điều kiện
kinh doanh. Giấy phép kinh doanh còn được sự dụng như một công cụ hạn chế kinh
doanh đối với những ngành, nghề nhất định. Trong từng trường hợp cụ thể, tùy theo
yêu cầu quản lý thực tế đối với mỗi một ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà các
45
nhà làm luật sẽ quy định việc sử dụng giấy phép kinh doanh hay giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh để quản lý đối với ngành nghề, hoạt động kinh doanh đó. Giấy
phép kinh doanh là loại giấy tờ có tính chất thông hành mà khi được cấp thì các cá
nhân, tổ chức kinh doanh được hoạt động một cách hợp pháp. Doanh nghiệp buộc
phải có các giấy phép này khi hoạt động trong các lĩnh vực thuộc “Danh mục ngành,
nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện” theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014.
Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự là giấy chứng nhận độc lập,
do cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp cho chủ thể kinh doanh khi đáp ứng đầy đủ
các điều kiện về an ninh, trật tự. Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về
an ninh, trật tự phải thực hiện sau khi doanh nghiệp được thành lập hợp pháp, nghĩa
là, sau khi đã được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp. Các yêu cầu về an ninh, trật
tự phải được duy trì trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự được phép
kinh doanh dịch vụ bảo vệ con người, tài sản, mục tiêu và các hoạt động hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2.2.3. Quy định về chứng chỉ hành nghề và chứng nhận bảo hiểm nghề
nghiệp
2.2.3.1. Về chứng chỉ hành nghề
Căn cứ quy định của pháp luật hiện hành, chứng chỉ hành nghề là văn bản do
cơ quan quyền lực nhà nước hoặc các hội nghề nghiệp cấp cho cá nhân có đủ trình
độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất
định.
Việt Nam cũng giống như nhiều nước trên thế giới đòi hỏi cá nhân hoạt động
kinh doanh phải đáp ứng chứng chỉ hành nghề đối với một số lĩnh vực đặc biệt.
Thông thường, là những lĩnh vực mà khi cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt động kinh
doanh phải có trình độ chuyên môn nhất định thì mới bảo đảm được hiệu quả hoạt
động, không gây ảnh hưởng đến người sử dụng dịch vụ nói riêng và tạo sự an toàn
cho xã hội nói chung. Với quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân phải có chứng
46
chỉ hành nghề khi thực hiện hoạt động kinh doanh trong các ngành nghề, như là: dịch
vụ thiết kế công trình, dịch vụ kiểm toán, kế toán, dịch vụ môi giới chứng khoán,
dịch vụ pháp lý, dịch vụ khám chữa bệnh và kinh doanh dược phẩm, dịch vụ thú y và
kinh doanh thuốc thú y, dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp, dịch vụ thẩm định
giá…
Thông thường, quy định của pháp luật chuyên ngành về chứng chỉ hành nghề
gồm một số nội dung cơ bản như: số lượng chứng chỉ hành nghề tối thiểu mà doanh
nghiệp cần phải có, chủ thể kinh doanh phải đáp ứng chứng chỉ hành nghề và những
điều kiện đi kèm với chứng chỉ hành nghề.
Theo những quy định hiện nay về đăng ký doanh nghiệp, như vậy, chứng chỉ
hành nghề là giấy tờ cần phải có khi doanh nghiệp chính thức thực hiện các hoạt
động kinh doanh đối với những ngành, nghề nhất định mà pháp luật đòi hỏi phải có
chứng chỉ hành nghề. Nhìn chung, chứng chỉ hành nghề chỉ mang tính chất là điều
kiện nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Sau thời điểm chủ thể
được cấp chứng chỉ hành nghề, chủ thể này mới được nhà nước cho phép hành nghề,
tuy nhiên, chưa thể thực hiện hoạt động kinh doanh trên cơ sở chứng chỉ hành nghề
đó mà phải thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh (doanh nghiệp, hộ kinh
doanh…). Đây là điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa chứng chỉ hành nghề với giấy
phép kinh doanh.
Những năm qua, nhìn chung, Việt Nam đã xây dựng khung pháp lý với những
quy định cụ thể về chứng chỉ hành nghề, làm cơ sở pháp lý để các chủ thể áp dụng
trên thực tế. Tuy nhiên, xét dưới góc độ coi chứng chỉ hành nghề là một điều kiện
kinh doanh thì vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập cần phải xem xét, đó là:
Thứ nhất, cơ sở pháp lý tuy đã có những quy định phù hợp hơn với thực tiễn,
tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số quy định chưa chặt chẽ khiến cho nhiều cá nhân, tổ
chức dễ dàng “biến” cái bất hợp pháp thành hợp pháp
Có thể nói, bản chất của chứng chỉ hành nghề là để chứng nhận một cá nhân
có đầy đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức chuyên ngành để có thể thực
47
hiện tốt ngành, nghề kinh doanh trong lĩnh vực đó. Trên thực tế, theo quy định bắt
buộc phải có chứng chỉ hành nghề nhưng nhiều chủ sở hữu doanh nghiệp “mượn”
chứng chỉ của người khác nhằm mục đích hợp pháp hóa về mặt thủ tục. Bởi vì,
những cá nhân có chứng chỉ hành nghề xét về mặt pháp lý chỉ là người lao động của
doanh nghiệp, hợp đồng lao động với doanh nghiệp có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào,
cơ quan đăng ký kinh doanh không thể kiểm soát được. Đây là một điểm chưa chặt
chẽ của pháp luật khiến cho nhiều chủ thể kinh doanh có cơ hội lách luật một cách
dễ dàng.
Điển hình, ngày 21/10/2019, Thanh tra Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đã
ra quyết định xử phạt bác sĩ Trần Thị Minh Chi với số tiền 35 triệu đồng vì hành vi
cho người khác thuê mướn chứng chỉ hành nghề hoạt động tại Phòng khám đa khoa
thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dịch vụ Y tế Đại Đông (461
Cộng Hòa, Phường 15, Quận Tân Bình). Bác sĩ Trần Thị Minh Chi được Sở Y tế
Thành phố Hồ Chí Minh cấp chứng chỉ hành nghề số 0023566/HCM-CCHN ngày
28/7/2014 với chuyên khoa nội tổng hợp. Bác sĩ Chi hành nghề tại Phòng khám đa
khoa DHA GOLD thuộc Công ty Cổ phần Y tế DHA (tầng 1 và tầng lửng Lô E23,
khu dân cư Phú Mỹ, Phường Phú Mỹ, Quận 7). Mới đây, qua kiểm tra, Sở Y phế
phát hiện bác sĩ Chi cho thuê mướn chứng chỉ hành nghề tại Công ty trách nhiệm
hữu hạn Một thành viên dịch vụ y tế Đại Đông.5
Không chỉ riêng lĩnh vực khám chữa bệnh, các lĩnh vực khác cũng tồn tại tình
trạng thuê chứng chỉ để thành lập doanh nghiệp, hoặc xin phép thực hiện hoạt động
kinh doanh. Đặc biệt, là trong ngành xây dựng, khi pháp luật không có những quy
định cụ thể, rõ ràng về việc sử dụng chứng chỉ hành nghề thì một cá nhân có thể sử
dụng chứng chỉ hành nghề của mình tại nhiều công ty khác nhau.
Thứ hai, quy định về chủ thể phải có chứng chỉ hành nghề trong doanh nghiệp
còn chưa hợp lý
Căn cứ quy định hiện hành, một số ngành, nghề đặt ra yêu cầu giám đốc (hoặc
người đứng đầu cơ sở kinh doanh) phải có chứng chỉ hành nghề; ngành, nghề khác
48
5 https://thanhnien.vn/suc-khoe/phat-hien-mot-bac-si-cho-muon-chung-chi-hanh-nghe-1145373.html
thì chỉ yêu cầu chứng chỉ của người trực tiếp hoặc phụ trách hoạt động đó. Quy định
này chưa phù hợp với thực tế, bởi lẽ, Giám đốc là người quản lý chung, điều hành
hoạt động kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp. Đối với hoạt động chuyên môn,
doanh nghiệp có thể kí hợp đồng thuê nhân viên quản lý có đủ trình độ phụ trách và
quản lý lĩnh vực kinh doanh tương ứng. Mặt khác, trong trường hợp công ty kinh
doanh nhiều lĩnh vực thì một Giám đốc không thể có nhiều chứng chỉ hành nghề.
2.2.3.2. Về chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp được hiểu là bảo hiểm trách nhiệm pháp lý
của người được bảo hiểm, phát sinh do việc vi phạm trách nhiệm nghề nghiệp. Các
doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm về mặt tài chính cho các cá nhân, tổ
chức, công ty hành nghề chuyên môn đối với trách nhiệm dân sự phát sinh từ việc
hành nghề chuyên môn - có thể phát sinh từ hành động hoặc thiếu sót của người chịu
trách nhiệm chuyên môn chính cũng như của nhân viên của họ.
Gắn với đặc tính của các lĩnh vực hoạt động chuyên môn khác nhau, các sản
phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp rất đa dạng như: bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp kiến trúc sư, kỹ sư trong xây dựng; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
môi giới bảo hiểm, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp môi giới chứng khoán, bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp kiểm toán, tư vấn tài chính,…
Nhìn chung, một số quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ đề
cập đến bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp như một nghĩa vụ của doanh nghiệp
trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp này có thể mua bảo
hiểm của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm trong nước hoặc nước ngoài tùy thuộc
vào quy định của pháp luật. Trong khi đó văn bản quy định về việc cung cấp bảo
hiểm (Luật kinh doanh bảo hiểm) thì lại không đề cập đến những gói bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp bắt buộc. Dẫn đến tình trạng nhiều ngành nghề bắt buộc phải
mua nhưng lại không mua được vì không có nguồn cung cấp. Chẳng hạn như bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho
49
bác sỹ…
Mặt khác, pháp luật chuyên ngành cũng không hề đề cập đến thời điểm phải
đáp ứng chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp và khi có được chứng nhận
này rồi thì có phải nộp lại cho cơ quan có thẩm quyền hay không và nếu nộp thì nộp
cho ai, nộp ở đâu? Tất cả những vấn đề này hiện nay còn quá sơ sài và mang tính
hình thức. Thực tế cho thấy rằng, các doanh nghiệp không có đủ cơ sở pháp lý để
mua bảo hiểm, các cơ quan có thẩm quyền thì không có cơ sở pháp lý để quản lý. Rõ
ràng, với thực trạng pháp luật như thế thì tính đến thời điểm này, việc có chứng nhận
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp không thể hiện rõ được tính chất của một điều
kiện kinh doanh.
2.2.4. Quy định về văn bản xác nhận
2.2.4.1. Quy định về xác nhận vốn pháp định
Đối với mỗi nhà đầu tư, khi bước vào ngưỡng cửa thương trường, để có thể
tồn tại và phát triển, họ phải cần rất nhiều yếu tố. Trong đó vốn được coi là yếu tố
quan trọng hàng đầu. Vốn quyết định đến hoạt động của chính doanh nghiệp, ảnh
hưởng đến quyền lợi của chủ nợ và liên quan cả đến sự phát triển của nền kinh tế. Do
đó, ở nhiều quốc gia để kiểm soát hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhà đầu tư, đặc
biệt là năng lực tài chính của họ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ấn định “ngưỡng”
tài chính mà doanh nghiệp phải đáp ứng khi đăng kí thành lập. Đó chính là vốn pháp
định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để
thành lập doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1999, vốn pháp định là
một trong những điều kiện cơ bản khi thành lập doanh nghiệp. Nghị định 221/HĐBT
của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 23/07/1991 đã công bố danh mục của gần
100 ngành nghề phải đáp ứng mức vốn pháp định.
Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 1999, đã đánh dấu nỗ lực, cố gắng từ
phía nhà nước, vốn pháp định lúc này chỉ còn được đặt ra đối với còn 4 ngành nghề
là kinh doanh tiền tệ - tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán và
50
kinh doanh vàng bạc. Đến nay, khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời thì vốn pháp
định cũng chỉ được coi là điều kiện kinh doanh đối với một số ngành nghề thuộc
danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chứ không áp dụng đại trà như trước
đây.
Nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng mức vốn pháp định chung hoặc theo loại
hình doanh nghiệp, chẳng hạn như ở Phần Lan, vốn pháp định để thành lập doanh
nghiệp mà quốc gia này quy định chung là 2.500 euro, ở Trung Quốc, để thành lập
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải có vốn pháp định là 100.000 yuan,
đối với công ty cổ phần là 5.000.000 yuan, còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên là 30.000 yuan, ở Anh Quốc, thành lập công ty cổ phần thì phải có tối
thiểu 50.000 euro [16].
Căn cứ vào thực tiễn áp dụng, các quy định về đăng ký đầu tu kinh doanh này
có một số điểm cần phải xem xét như sau:
(i) Thứ nhất, danh mục ngành nghề phải đáp ứng về vốn pháp định ngày một
có xu hướng tăng cao.
Luật Doanh nghiệp năm 1999 ra đời thì chỉ còn 4 ngành nghề là kinh doanh
tiền tệ - tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán và kinh doanh vàng
bạc là có quy định vốn pháp định (riêng ngành kinh doanh vàng bạc thì từ năm 2005
đã chính thức bị bãi bỏ). Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2000 đến ngày 30/06/2006
thực chất chỉ tồn tại 3 - 4 ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định.
Tuy nhiên, khi Luật Doanh nghiệp năm 2005 thay thế Luật Doanh nghiệp
1999, cùng với đó là nhiều đạo luật chuyên ngành khác cũng được ban hành như
Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Chứng khoán, Luật Điện ảnh… thì danh mục
các ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định lại được mở rộng. Theo đó nhiều
ngành nghề mới được đưa vào danh sách phải có vốn pháp định. Tính đến nay,
chúng ta có khoảng 16 ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi phải đáp ứng yêu
cầu về vốn pháp định, như vậy là tăng lên gấp 4 lần so với thời kì từ năm 1999 đến
51
năm 2005.
Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực, tại phụ lục
về nghành nghề kinh doanh có điều kiện, hiện nay có khoảng 20 ngành với cụ thể
gần 40 phân ngành có yêu cầu về vốn pháp định [34].
Nhiều quốc gia trên thế giới đang dần hạn chế, tiến tới xóa bỏ vốn pháp định
trong thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới (WB) thì Bulgaria, Đan Mạch, Kazakhstan, Thụy Điển, Syria, Ukraine,
Zambia là những quốc gia đi tiên phong trong việc bãi bỏ hoặc giảm yêu cầu về vốn
pháp định trong thành lập doanh nghiệp, trong số đó Zambia đã chính thức bãi bỏ
vốn pháp định đối với doanh nghiệp, còn Syria thì giảm bớt yêu cầu vốn pháp định
xuống gần 2/3 so với trước, Bulgaria đã giảm mức vốn pháp định từ 5.000 leva
(tương đương 3250 USD) xuống chỉ còn 2 leva (tương đương 1.30 USD)…
(ii) Thứ hai, thủ tục xác nhận vốn pháp định quy định không rõ ràng, chỉ mang
tính hình thức gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Việc xác nhận vốn pháp định không được đề cập đến trong một văn bản cụ
thể, thông thường nhà đầu tư có thể chứng minh năng lực tài chính của mình bằng
nhiều cách, như mở tài khoản tại một tổ chức mà Nhà nước quy định (thường là tại
ngân hàng) để lấy giấy xác nhận của của tổ chức này hoặc có kết quả kiểm toán của
tổ chức kiểm toán độc lập về hiện trạng tài sản của doanh nghiệp, hoặc chứng thư
định giá đối với tài sản bằng hiện vật của tổ chức định giá hoạt động hợp pháp tại
Việt Nam…
(iii) Thứ ba, cơ sở pháp lý về vốn pháp định không rõ ràng, dễ thay đổi gây
ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Ở nhiều nước trên thế giới, vốn pháp định thường được quy định trong các văn
bản pháp luật có hiệu lực cao do cơ quan lập pháp ban hành. Ở Trung Quốc, mức
vốn pháp định cho các doanh nghiệp được xác định cụ thể tại các Điều luật số 26, 59
và 81 của Luật Công ty 2005; ở Anh Quốc cũng vậy – Điều 768 Luật Công ty 2006
của họ quy định rõ mức vốn pháp định áp dụng đối với công ty cổ phần là 50.000
52
euro [16].
Ngược lại ở Việt Nam, sự điều chỉnh vốn pháp định trong các Nghị định của
Chính phủ lại diễn ra đơn giản, khiến cho doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh
vực này cũng hết sức lúng túng.
Ngoài ra, cơ sở để xác định mức vốn tối thiểu lại không có hoặc không rõ
ràng. Ví dụ: tại sao doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển hàng không nội địa nếu
khai thác đến 10 tàu bay thì mức vốn pháp định là: 300 tỷ; Khai thác từ 11 đến 30
tàu bay là: 600 tỷ; Nhưng trên 30 tàu bay lại chỉ quy định 700 tỷ?
2.2.4.2. Văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bên cạnh những hình thức đăng ký đầu tư kinh doanh cụ thể, pháp luật doanh
nghiệp đề cập đến những đăng ký đầu tư kinh doanh được thể hiện bằng các chấp
thuận khác của cơ quan có thẩm quyền mà không phải là: Giấy phép kinh doanh,
giấy chứng nhận đủ đăng ký kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp và xác nhận vốn pháp định. Thông thường các chấp thuận
khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ liên quan nhiều đến việc thực hiện hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp sau đăng kí thành lập.
Quy định này của pháp luật mang hướng mở, tạo ra sự chủ động cho các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khi thiết lập các công cụ quản lý đóng vai trò là đăng
ký đầu tư kinh doanh. Thực tế, chúng ta bắt gặp đăng ký đầu tu kinh doanh là các
chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: giấy chấp nhận phù hợp
với quy hoạch, chấp thuận biểu đồ chạy xe khi mở tuyến xe khách liên tỉnh, chấp
thuận danh sách tổ chức kiểm toán, chấp thuận đào tạo đại lý bảo hiểm của Bộ tài
chính…
Nhưng căn cứ vào thực tiễn hiện nay, việc pháp luật quy định theo hướng mở
cũng đồng nghĩa với việc trao quyền vào tay các cơ quan có thẩm quyền nhất là các
cơ quan ở địa phương. Điều này sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn đó là
sự lạm quyền của nhiều cơ quan chức trách, gây phiền hà, cản trở doanh nghiệp
trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh vì quá nhiều “chấp thuận” mà doanh
53
nghiệp phải đi xin.
Nhìn từ thực trạng pháp luật cho thấy, các “chấp thuận” khác của cơ quan có
thẩm quyền này thường không được quy định hoặc được quy định rất chung trong
các văn bản có hiệu lực cao như: Luật, pháp lệnh, Nghị định. Sau đó nó sẽ được
hướng dẫn cụ thể chi tiết ở những văn bản pháp luật như Thông tư, công văn…
Doanh nghiệp rất khó có thể nắm bắt được mình phải cần bao nhiêu chấp thuận, bởi
vì không có văn bản nào thống kê về vấn đề này. Chỉ khi nào bắt đầu hành trình nộp
hồ sơ thì họ mới biết được mình thiếu giấy tờ gì khi bị trả lại hồ sơ. Quy trình đi xin
chấp thuận của họ cũng gian nan không kém với việc đi xin cấp phép bởi lẽ cứ phải
xin hết chấp thuận này tiếp nối chấp thuận khác. Một ví dụ điển hình chính là việc
xin chấp thuận thực hiện quảng cáo trên bảng quảng cáo độc lập. Theo quy định mới
của Luật quảng cáo năm 2012 thì để thực hiện hoạt động quảng cáo trên bảng quảng
cáo, doanh nghiệp không phải xin giấy phép như trước đây, mà chỉ cần nộp hồ sơ
thông báo và xin chấp thuận của Sở Văn hóa – thể thao và du lịch. Tuy nhiên đối với
loại bảng quảng cáo độc lập, doanh nghiệp phải xin giấy phép xây dựng của cơ quan
quản lý xây dựng ở địa phương. Để có được giấy phép xây dựng này, doanh nghiệp
lại phải có được hàng loạt các chấp thuận khác: chấp thuận thiết kế, kết cấu công
trình của Sở xây dựng; chấp thuận phù hợp quy hoạch của sở quy hoạch kiến trúc;
chấp thuận của cơ quan quản lý đường bộ, cơ quan quản lý đường sắt có thẩm quyền
về việc sử dụng hành lang an toàn đường bộ, đường sắt (Bộ Giao thông vận tải chấp
thuận xây dựng biển quảng cáo đối với đường cấp I và đường bộ có quy chế quản lý
khai thác riêng, Tổng cục Đường bộ Việt Nam chấp thuận xây dựng biển quảng cáo
đối với hệ thống quốc lộ, trừ đường bộ); chấp thuận xây dựng của Ủy ban nhân dân
quản lý khu vực đặt bảng quảng cáo, chưa kể đến việc sau khi xây dựng xong doanh
nghiệp đó còn cần các chấp thuận khác liên quan đến việc thực hiện quảng cáo. Với
thực trạng như vậy, thì chính những đăng ký đầu tư kinh doanh này đã tạo ra rào cản
kinh doanh đối với các doanh nghiệp khiến họ mất nhiều thời gian và tiền bạc, ảnh
54
hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh.
2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về kinh doanh dịch vụ an ninh trật tự
tại Thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Những kết quả đạt được
(i) Thứ nhất, thay đổi về tư duy tiếp cận trong quy định của luật
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2014 đã quy định tách bạch giữa yêu cầu
thành lập doanh nghiệp và yêu cầu về điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện. Luật Doanh nghiệp năm 2005 dành riêng một điều
quy định về ngành, nghề và điều kiện kinh doanh (Điều 7). Theo đó, điều kiện kinh
doanh được hiểu là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh
doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác. Đối với ngành,
nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định phải có điều kiện thì
doanh nghiệp chỉ được thành lập và hoạt động kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ
các điều kiện theo quy định.
Có thể thấy, cùng với một số chế định khác quy định về đăng ký kinh doanh
thì những quy định về điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện chưa có sự tách biệt rõ giữa yêu cầu thành lập doanh nghiệp và yêu cầu về điều
kiện kinh doanh đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Đối với một số ngành
nghề kinh doanh có điều kiện, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã yêu cầu phải có một
số điều kiện như bản sao chứng chỉ hành nghề của người quản lý và xác nhận về vốn
pháp định tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp... Quy định nói trên đã tỏ ra
chưa hợp lý, ít có hiệu lực quản lý nhà nước, nhưng lại gây ra nhiều khó khăn, tốn
kém không cần thiết cho nhà đầu tư và thành lập doanh nghiệp mới. Để khắc phục
những hạn chế và bất cập đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã bỏ hẳn Điều 7 của
Luật Doanh nghiệp cũ. Việc phải đáp ứng đầy đủ điều kiện kinh doanh khi kinh
doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện được xem là một trong những
55
nghĩa vụ của doanh nghiệp và tuân thủ các quy định của Luật Đầu tư về vấn đề này.
Hơn nữa, doanh nghiệp phải đảm bảo duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó
trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh (khoản 1 Điều 8 Luật Doanh nghiệp năm
2014).
Trong hồ sơ đăng ký, đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp theo quy định
tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 đều bỏ hẳn các khoản yêu cầu văn bản xác nhận
vốn pháp định đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp
luật phải có vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề của giám đốc hoặc tổng giám đốc
và cá nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp
luật phải có chứng chỉ hành nghề. Có thể thấy, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy
định tách bạch giữa yêu cầu thành lập doanh nghiệp và yêu cầu về điều kiện kinh
doanh đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Các điều kiện kinh doanh khi
kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện được thực hiện theo quy
định của Luật Đầu tư. Các nhà đầu tư sắp tới đây cứ tiến hành thành lập doanh
nghiệp trước, chỉ khi nào kinh doanh những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì
mới phải yêu cầu thỏa mãn các điều kiện kinh doanh. Chừng nào doanh nghiệp chưa
cung cấp dịch vụ, hàng hóa trên thị trường thì chưa bắt buộc thỏa mãn các điều kiện
kinh doanh đối với những ngành, nghề tương ứng. Đây là tư duy lập pháp hoàn toàn
mới và phù hợp với xu thế quốc tế.
(ii) Thứ hai, đã có sự đổi mới căn bản trong việc xác định thẩm quyền ban
hành văn bản quy định điều kiện kinh doanh đối với những ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện.
Tại Điều 7 Luật Đầu tư năm 2014, bên cạnh quy định mục tiêu của việc quản
lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư kinh doanh những ngành, nghề có điều
kiện (khoản 1) và danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (khoản 2)
thì khoản 3 quy định rõ: “Điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành, nghề quy định
tại khoản 2 Điều này được quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bộ, cơ quan ngang
bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác
56
không được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh”. Chính phủ đang xây
dựng dự thảo văn bản quy định việc kiểm soát các điều kiện đầu tư, kinh doanh
nhằm tạo khung pháp lý thống nhất trong cả nước về điều kiện kinh doanh đối với
những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
(iii) Thứ ba, những điều kiện kinh doanh và số lượng ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện theo quy định của luật mới đã giảm rất nhiều
Theo quy định tại Phụ lục IV của Luật Đầu tư năm 2014, sửa đổi bổ sung
2016 thì chỉ còn 243 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Những văn bản quy định
về điều kiện kinh doanh và ngành, nghề kinh doanh có điều kiện không phù hợp sẽ
không còn hiệu lực. Hơn nữa, các điều kiện kinh doanh, những ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện đã được đăng tải trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc
gia, những điều kiện không được đăng tải tại Cổng thông tin này sẽ không có hiệu
lực. Quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình
thành lập, hoạt động kinh doanh, minh bạch hóa môi trường kinh doanh. Khi nghiên
cứu Danh mục những ngành, nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện chúng tôi cũng
thấy rằng số lượng 243 ngành, nghề đó vẫn có thể giảm thêm được nữa. Có những
ngành, nghề không nhất thiết phải là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, không
cần thiết phải đưa vào danh mục này.
2.3.2. Những hạn chế, nguyên nhân
(i) Thứ nhất, việc xét một ngành nghề nào là ngành nghề kinh doanh có điều
kiện hiện nay không dựa trên một tiêu chí đủ rõ ràng.
Luật Đầu tư quy định, ngành nghề kinh doanh có điều kiện là ngành nghề
“phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Các tiêu chí như an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội... quá rộng. Với những tiêu chí như vậy, không
một ngành, một hoạt động kinh doanh nào là không ảnh hưởng đến các vấn đề đó.
Như vậy đồng nghĩa, nếu muốn xếp ngành nào vào danh mục kinh doanh có điều
kiện, cơ quan quản lý không khó để có thể lập luận và biện giải phù hợp theo chủ ý
57
của mình.
(ii) Thứ hai, việc phân loại các ngành nghề đầu tư kinh doanh theo nhóm để
quản lý còn chưa chính xác.
Từ luật Doanh nghiệp năm 2005, và hiện tại là Luật Doanh nghiệp 2014, Luật
Đầu tư 2014, đã phân định quyền tự do kinh doanh theo ba mức độ. Thứ nhất là các
lĩnh vực kinh doanh bị cấm, theo đó, người dân, doanh nghiệp không được phép kinh
doanh trong các ngành nghề này. Ví dụ: sản xuất kinh doanh vũ khí, các chất ma túy,
động vật hoang dã nằm trong sách đỏ... Thứ hai là các ngành nghề không bị cấm,
nhưng cần phải đáp ứng các điều kiện bắt buộc trước khi tiến hành kinh doanh. Nếu
hiểu theo logic đó, sẽ có một nhóm thứ ba còn lại, là những ngành nghề còn lại được
tự do kinh doanh mà không phải tuân thủ điều kiện gì.
Tuy nhiên, trên thực tế, tiếp cận phân loại ngành nghề kinh doanh theo cách
cấm, có điều kiện và không có điều kiện như thế này không chính xác bởi:
- Không một ngành nghề nào là bị cấm tuyệt đối. Kể cả sản xuất kinh doanh
vũ khí, việc cấm chỉ giới hạn trong khu vực tư nhân. Đối với các chất gây nghiện,
một số chất vẫn cần thiết trong các dịch vụ y tế, và được kinh doanh, sử dụng dưới
một số điều kiện nhất định.
- Không có hoạt động kinh doanh nào, thuộc ngành nghề nào là “không có
điều kiện” - tức không phải đáp ứng yêu cầu hay quy định nào. Từ đơn giản như một
người bán hàng ăn trên đường phố, người đó vẫn phải đáp ứng các quy định về an
toàn vệ sinh thực phẩm; quy định về khu vực cho phép/không cho phép bán hàng của
chính quyền địa phương. Nghĩa là ngành nghề không có điều kiện, nhưng thực chất
cần tuân thủ các quy định hành chính khác.
Việc phân chia ngành nghề như hiện nay không phản ánh đúng bản chất hoạt
động kinh doanh, vừa phản ánh sai lệch hệ thống pháp luật hiện hành (vì các ngành
không có điều kiện nhưng thực chất vẫn bị điều chỉnh bởi quy định hành chính).
(iii) Thứ ba, việc lập danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện
không giúp Quốc hội kiểm soát được tốt hơn các điều kiện kinh doanh và giấy phép
58
con.
Khi một ngành được xếp loại kinh doanh có điều kiện là hợp lý, thì bản thân
việc xếp loại cho một ngành là quá rộng, tạo điều kiện để can thiệp hành chính bất
hợp lý vào các hoạt động sản xuất trong ngành. Ví dụ, kinh doanh mũ bảo hiểm được
xếp loại là ngành kinh doanh có điều kiện. Theo đó, cơ quan quản lý đã đưa ra cả
những quy định “điều kiện” về sản xuất, về phân phối, bán lẻ sản phẩm mũ bảo
hiểm. Nhưng việc cần Nhà nước can thiệp trong ngành này chỉ là mũ sản xuất ra có
đáp ứng tiêu chí an toàn hay không. Còn việc phân phối bán lẻ mũ hoàn toàn không
liên quan gì đến an toàn của người sử dụng. Tuy nhiên, trên thực tế, cơ quan quản lý
đã viện lý do “ngành sản xuất - kinh doanh” mũ bảo hiểm để đưa cả hoạt động bán lẻ
mũ vào, và đặt ra các điều kiện tạo ra gánh nặng tuân thủ không cần thiết cho người
kinh doanh.
Tiếp cận quản lý theo ngành nghề là hệ quả của quá trình chuyển đổi tư duy và
hệ thống pháp luật, từ cấm kinh doanh (tư nhân không được kinh doanh trong bất kỳ
ngành nghề nào) chuyển sang cho phép kinh doanh một cách hạn chế (Nhà nước cho
phép tư nhân được làm trong một số ngành nghề nhất định) và hiện nay là tự do kinh
doanh (theo nghĩa được kinh doanh trên tất cả mọi ngành nghề Nhà nước không
cấm).
Tuy nhiên, phân loại ngành nghề có điều kiện đã đặt bộ phận lớn các quy định
hành chính ra ngoài các chuẩn mực về quy trình ban hành văn bản pháp luật. Luật
quy định điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính không được ban hành bởi bộ
ngành, địa phương. Nhưng các quy định hành chính, gồm quy định về tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật ngành; quy hoạch ngành; quy định về giá cả hàng hóa... về bản
chất không phải là điều kiện kinh doanh. Hệ quả là chúng được ban hành tùy tiện,
tạo cơ hội cho lạm quyền hành chính và tham nhũng như hiện nay. Sự ngập ngừng
của tư duy “cởi trói”: trao quyền tự do cho người dân kinh doanh nhưng vẫn muốn
duy trì “quản lý nhà nước” bằng công cụ quản lý ngành nghề đã để lại di chứng tai
59
hại trên hệ thống pháp luật về kinh doanh.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Một là, pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp hiện nay đã
được đổi mới theo hướng tích cực, phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn của doanh
nghiệp. Các quy phạm về điều kiện, thủ tục của Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu
tư 2014, luật chuyên ngành và các văn bản đã có sự thống nhất với nhau đảm bảo
được tính đồng bộ tránh tình trạng sửa đổi pháp luật một cách rời rạc không có hệ
thống có thể dẫn đến tình trạng các quy định không có hiệu lực thi hành. Hơn thế
nữa, chất lượng của pháp luật cũng được nâng cao và đạt đủ tiêu chí hoàn thiện
pháp luât. Nếu để so sánh pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp
với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới thì có thể khẳng định pháp luật
nước ta có nhiều tiến bộ, mang bản sắc riêng nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ pháp
lý chung giống với các nước trên thế giới. Nhìn chung, Luật Doanh nghiệp 2014 đã
có sự thay đổi mạnh mẽ, thiết thực, phù hợp về cả hình thức và nội dung.
Hai là, thực tế hiện nay, áp dụng pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập
doanh nghiệp mới cùng với việc đạt được nhiều kết quả khả quan cũng gặp không
ít khó khăn, hạn chế. Bên cạnh kết quả đạt được thì không thể nói phải đã xóa bỏ
được hoàn toàn khó khăn, vướng mắc. Quy định mới đồng nghĩa với việc nảy sinh
những bất cập mới. Các nhà làm luật không thể lường trước hết được tất cả những
gì có thể sẽ xảy đến và việc áp dụng quy định mới luôn tạo nên sự bỡ ngỡ nên
không tránh khỏi tình trạng trục trặc trong khâu làm việc của cả hệ thống từ cơ
quan đăng ký kinh doanh đến doanh nghiệp. Pháp luật dù có đạt chất lượng tốt đến
mất mà đi vào thực tế cũng không thể trơn tru hoàn toàn. Những quy định cũ trong
Luật Doanh nghiệp 2005 đã tồn tại trong một thời gian dài và tạo thành thói quen,
lối mòn trong tư tưởng, phương thức vận hành của cơ quan đăng ký kinh doanh,
doanh nghiệp nên để có cần phải có thời gian để tạo lập thói quen mới. Tất cả các
chủ thể đều cần chủ động đón nhận tư tưởng pháp luật mới, thay đổi tư duy để
khuôn khổ pháp lý mới của doanh nghiệp được bền vững.
Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc các chủ thể đang phải đối mặt
60
là không ít và xuất phát từ nhiều phía. Cơ quan đăng ký kinh doanh là nơi tiếp xúc
sớm nhất, có đầy đủ điều kiện tiếp cận những quy định mới và được đào tạo, tập
huấn để triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp 2014 nhưng vì sức ép công việc,
nguồn nhân lực hạn chế, có quá nhiều tình huống mới phát sinh nên việc xử lý còn
mất nhiều thời gian, gây ra sự thiếu xót. Doanh nghiệp lại càng lúng túng hơn trong
việc áp dụng luật mới vì bản thân doanh nghiệp chỉ biết nội dung luật mới thay đổi
như thế nào còn việc thực hiện trong thực tế lại không đơn giản như vậy. Mặc dù
doanh nghiệp cũng là chủ thể đóng góp ý kiến cho việc sửa đổi luật nhưng không
phải vì thế mà sự hiểu biết pháp luật ngang bằng với các nhà làm luật chuyên trách.
Thêm vào đó là cơ sở kỹ thuật của nước ta còn chưa phát triển mạnh, sự phối hợp
giữa các cơ quan chưa cao dẫn đến tình trạng bất cập, vướng mắc vẫn còn tiếp diễn.
Dù việc đổi mới là cả một quá trình nghiên cứu, dự trù kết quả nhưng các nhà làm
luật cũng không thể lường trước được tất cả các vấn đề có thể nảy sinh trong thực
tiễn. Để giải quyết được khó khăn, tồn tại đòi hỏi phải có sự nhìn nhận đúng đắn
vấn đề đang gặp phải,chỉ ra được nguyên nhân của vấn đề, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải định hướng được cách giải quyết, đẩy mạnh sự phối hợp làm việc
giữa các cơ quan ban ngành và cộng đồng doanh nghiệp cũng cần chung tay góp
sức trong hoàn thiện pháp luật. Điều đó giúp cho pháp luật ngày càng hoàn thiện,
củng cố được vị trí thượng tôn, phát huy giá trị vốn có đồng thời thúc đẩy doanh
61
nghiệp phát triển và giúp cho nền kinh tế nước nhà luôn trong trạng thái đi lên.
CHƯƠNG 3
HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ AN NINH TRẬT TỰ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh
trật tự
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật điều kiện đầu tư kinh doanh phù hợp với điều
kiện và phương thức quản lý kinh tế
Về phương diện lý luận, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về đăng ký đầu
tư kinh doanh luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền
kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về đăng ký đầu
tư kinh doanh phải được xác định là một quá trình liên tục, lâu dài với những bước đi
và giải pháp thích hợp. Hiện nay, nước ta đang thực hiện phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một nền kinh tế có tính chất hai
mặt. Một mặt nó đem lại hiệu quả tích cực tác động đến môi trường kinh doanh, là
cơ sở tạo ra sự phong phú của các ngành nghề, thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp. Mặt khác, nó tạo ra tâm lý chạy theo lợi nhuận, cá nhân hóa lợi ích của bản
thân, khiến không ít doanh nghiệp phá rào pháp luật, xâm phạm đến những lợi ích
nhà nước cần bảo vệ. Do đó pháp luật về đăng ký đầu tư kinh doanh phải đảm bảo
cân bằng được hai lợi ích: lợi ích doanh nghiệp và lợi ích công cộng. Theo đó mỗi
quy định đưa ra phải có mục đích quản lý rõ ràng, phải xuất phát từ yêu cầu của thực
tế và hiệu lực pháp lý mang tính ổn định, tác động mạnh đến ý chí doanh nghiệp;
phải linh hoạt, nhạy bén và liên tục được rà soát để có những bước thay đổi hợp lý
bắt kịp với guồng quay của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, phải xây dựng những cơ sở pháp lý vững chắc để tạo nền tảng
62
thực thi quản lý. Việc xây dựng pháp luật phải phù hợp với yêu cầu cải cách hệ
thống pháp luật ở nước ta. Theo đó, các quy định về đăng ký kinh doanh phù hợp với
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; đảm bảo tính công khai,
minh bạch, hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật,
cần chú trọng đến tính khả thi khi ban hành văn bản. Đồng thời giảm bớt tình trạng
nhiều văn bản cùng quy định về một điều kiện đầu tư kinh doanh. Giảm thiểu tối đa
tình trạng các văn bản có hiệu lực cao quy định chung chung, mang tính nguyên tắc,
khó thực hiện hoặc giao lại cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ tiếp tục quy định cụ thể.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh ở Việt Nam
nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư và doanh nghiệp
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư và doanh nghiệp luôn là một
nội dung mà pháp luật về điều kiện kinh doanh phải quan tâm hướng đến. Do bản
thân sự tồn tại của điều kiện kinh doanh đã là rào cản đối với doanh nghiệp kinh
doanh trong các ngành nghề cần có sự kiểm soát của nhà nước nên nội dung của các
quy định cần thể hiện mục đích bảo vệ rõ ràng. Khi đưa ra một điều kiện kinh doanh
đối với doanh nghiệp, mục đích đầu tiên và quan trọng nhất mà các nhà lập pháp cần
hướng tới đó chính là bảo vệ lợi ích công cộng. Không nên đặt ra các điều kiện kinh
doanh mà chỉ để dễ quản lý, mặt khác để các doanh nghiệp được thực hiện quyền
kinh doanh của mình, các quy định về điều kiện kinh doanh phải được quy định rõ
ràng, cụ thể, công khai và minh bạch, phải được áp dụng một cách thống nhất và chỉ
đặt ra điều kiện kinh doanh đối với những ngành nghề thực sự cần thiết phải quản lý
bằng công cụ này. Điều quan trọng, việc ban hành điều kiện kinh doanh không nên
chỉ xuất phát từ phía quan điểm của Nhà nước, mà cần phải có cơ chế đồng thuận từ
nhiều phía, trong đó đề cao phản biện xã hội, nhất là từ phía các doanh nghiệp, để có
được nhận thức toàn diện và bước đi đúng đắn hơn.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh ở Việt Nam
nhằm thực hiện cải cách thủ tục đầu tư kinh doanh
Cải cách thủ tục đầu tư kinh doanh là yêu cầu quan trọng, không chỉ hướng tới
63
lợi ích của bản thân nhà đầu tư mà còn liên quan trực tiếp đến sự phát triển của nền
kinh tế. Với mục tiêu khuyến khích, kêu gọi, thu hút tối đa nguồn lực đầu tư vào nền
kinh tế như hiện nay ở nước ta, hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về điều kiện
kinh doanh nói riêng đều phải có những bước thay đổi so với trước đây. Trước hết
chúng ta phải xây dựng được cơ sở pháp lý quy định công khai về thủ tục nhà đầu tư
phải tiến hành. Thủ tục đó phải đảm bảo yêu cầu: doanh nghiệp có thể thực hiện
được, đơn giản, nhanh gọn, giảm thiểu khâu trung gian, có hướng dẫn cụ thể từ phía
cơ quan có thẩm quyền, tránh việc trả lại hồ sơ liên tục vì mỗi lần thiếu một loại giấy
tờ.
Bên cạnh đó, pháp luật về điều kiện kinh doanh cũng phải quy định rõ thẩm
quyền của các cơ quan quản lý. Giữa các cơ quan này vừa phải có sự phân công công
việc rõ ràng, lại vừa phải có cơ chế phối hợp cụ thể trong phạm vi cùng quản lý. Tiếp
tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng cơ chế liên thông giữa các sở, ban, ngành có
chức năng quản lý nhà nước và các cấp chính quyền trong vấn đề giải quyết thủ tục
cấp giấy phép cho các tổ chức và cá nhân thực hiện các dự án đầu tư sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ an ninh
trật tự
3.2.1. Rà soát tổng thể, toàn diện về điều kiện đầu tư kinh doanh
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã sẵn sàng bỏ ra nhiều năm để tiến hành việc rà
soát quy định pháp luật và cơ chế thực thi, để có những cải cách mang tính triệt để và
mang lại thành công lớn. Ví dụ điển hình đó là Hàn Quốc: sau cuộc khủng hoảng
kinh tế Châu Á năm 1997 – 1998, để thực hiện mục tiêu thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài, giải phóng nền kinh tế ra khỏi các thủ tục hành chính rườm rà, Hàn Quốc đã
thành lập một Ủy ban cải cách pháp luật có thẩm quyền rà soát, hủy bỏ các cơ chế
điều kiện kinh doanh hiện hành và giám sát việc ban hành các quy chế mới. Điều đặc
biệt là cuộc cải cách này được tiến hành đồng bộ từ trên xuống dưới, buộc các cơ
quan nhà nước phải tiến hành rà soát và phải chứng minh được sự cần thiết của quy
64
chế hành chính, nếu không văn bản, quy định đó sẽ bị bãi bỏ. Nhờ cuộc cải cách triệt
để như vậy, sau gần hai năm, Hàn Quốc đã hủy bỏ gần một nửa quy chế hành chính
từ 11.125 quy chế giảm xuống còn 6308 quy chế trong đó có 2411 quy chế được
điều chỉnh [5].
Từ bài học kinh nghiệm đó, Việt Nam cũng hoàn toàn có thể thực hiện một
cuộc rà soát mang tính toàn diện và triệt để như thế. Để thực hiện được, cần phải
thiết lập một cơ quan lâm thời tiến hành rà soát và có lộ trình cụ thể.
Để có thể hoạt động hiệu quả, Ủy ban nên trực thuộc Thủ tướng chính phủ.
Thành phần Ủy ban gồm lãnh đạo chính phủ, người đứng đầu các bộ: Kế hoạch Đầu
tư, bộ Tư Pháp, và bộ Nội vụ. Các thành viên chuyên trách là các chuyên gia từ trong
hệ thống hành pháp, thuộc Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, bộ Tư
pháp; kết hợp với các chuyên gia độc lập về phân tích chính sách; chuyên gia kinh
tế; các chuyên gia về lập pháp và cải cách pháp luật - là những thành phần không bị
chi phối về lợi ích. Ủy ban có những chức năng chính sau:
Ủy ban là đầu mối chịu trách nhiệm rà soát và kiến nghị Ủy ban thường vụ
Quốc hội bãi bỏ các giấy phép bất hợp pháp và vi hiến, đang có hiệu lực thi hành;
kiến nghị Thủ tướng bãi bỏ các quy định, thủ tục hành thực hiện giấy phép bất hợp
lý, không cần thiết.
Ủy ban tiếp nhận trực tiếp kiến nghị từ Hiệp hội Doanh nghiệp, doanh nghiệp
về các quy định hành chính, điều kiện kinh doanh bất hợp lý hoặc bất hợp pháp.
Ủy ban cũng là đầu mối nghiên cứu và thiết kế tổ chức lại mô hình các cơ
quan quản lý để điều tiết thị trường một cách độc lập (regulatory agency). Từ kết quả
nghiên cứu, Ủy ban có thể giúp Quốc hội để hiện thực hóa các thiết chế điều tiết thị
trường trên thực tế.
3.2.2. Cắt giảm bớt các ngành nghề đầu tư kinh doanh cần điều kiện được
quy định trong phụ lục của Luật Đầu tư
Với tiêu chí các điều kiện đầu tư kinh doanh “phải đáp ứng điều kiện vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
65
cộng đồng”, tác giả luận văn đã tiến hành phân tích danh mục 243 ngành nghề đầu
tư kinh doanh có điều kiện theo phụ lục được sửa đổi của Luật Đầu tư 2014, qua đó
nhận thấy một số vấn đề sau:
(i) Một số ngành, nghề có tác động không đáng kể nào tới lợi ích công cộng.
Hầu hết các ngành, nghề này đều mang “dáng dấp” của hoạt động kinh doanh
thông thường. Những rủi ro, nếu có, sẽ tác động đến các chủ thể tư và các chủ thể
này đã có hệ thống pháp luật tư bảo vệ. Các ngành, nghề được tìm thấy có tính chất
này gồm: Xuất khẩu gạo (Mục 55); Kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển (Mục 90);
Kinh doanh dịch vụ in, trừ in bao bì (Mục 128).
(ii) Các ngành, nghề không thấy rõ tính đặc thù so với các ngành, nghề kinh
doanh thông thường cùng loại, ít tác động tới lợi ích công, an ninh quốc gia, quốc
phòng…
Sở dĩ điều kiện kinh doanh áp dụng đối với một số ngành, nghề, bởi vì tính
chất đặc thù của ngành, nghề đó so những ngành, nghề kinh doanh thông thường
khác.
Tính chất đặc thù đó là những tác động tới lợi ích công cộng đến mức buộc
Nhà nước phải quản lý bằng các điều kiện trước khi hoạt động kinh doanh. Như đã
phản ánh ở trên, việc kiểm soát ngành, nghề kinh doanh bằng điều kiện chỉ nhằm
mục đích lợi ích công cộng, an ninh quốc gia, quốc phòng, sức khỏe cộng đồng, môi
trường. Do đó, đối với những ngành nghề có cùng tính chất, nhưng lại có sự khác
nhau về phương thức quản lý (một bên là ngành nghề kinh doanh thông thường, một
bên là ngành nghề kinh doanh có điều kiện) thì cần phải chứng minh được tính đặc
thù của ngành, nghề bị kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh (phải liên quan đến các
mục tiêu ở trên) so với các ngành, nghề còn lại.
Rà soát tổng thể Danh mục, không nhận thấy tính chất đặc thù của một số
ngành, nghề kinh doanh, cụ thể là ở các ngành, nghề: Kinh doanh tạm nhập, tái xuất
hàng thực phẩm đông lạnh (Mục 57); Kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng xe ô
tô (Mục 78); Kinh doanh dịch vụ quản lý, vận hành nhà chung cư (Mục 119); Kinh
66
doanh dịch vụ lữ hành (Mục 210);
(iii) Các ngành, nghề có thể quản lý bằng hình thức khác thay vì điều kiện
kinh doanh
Về mặt logic, điều kiện kinh doanh là điều kiện ràng buộc, hạn chế và kiểm
soát chủ thể kinh doanh. Vì thế công cụ “điều kiện kinh doanh” chỉ nên sử dụng
trong các trường hợp hoạt động sản xuất, kinh doanh của chủ thể kinh doanh có thể
tác động đến trật tự công (ví dụ: đối với hoạt động khám bệnh, chữa bệnh: yếu tố
trình độ của người khám bệnh là rất quan trọng, vì tác động trực tiếp đến sức khỏe,
tính mạng con người, do đó cần phải kiểm soát ngay từ đầu, trước khi các chủ thể
này thực hiện hoạt động khám bệnh, chữa bệnh).
Đối với những trường hợp mà bản thân quá trình sản xuất, kinh doanh của chủ
thể kinh doanh không tác động đến các lợi ích công cộng nhưng các sản phẩm, hàng
hóa là kết quả của quá trình đó lại có thể tác động đến trật tự công thì phương pháp
quản lý thích hợp (và đang áp dụng) là các giới hạn kỹ thuật tối thiểu đối với sản
phẩm, hàng hóa đó (thường thể hiện bằng các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ
thuật) buộc phải đáp ứng nếu muốn tiêu thụ tại thị trường. Hiện tại, trên thị trường
có các tổ chức chứng nhận sự phù hợp, đây là các tổ chức được cấp phép để thực
hiện các hoạt động chứng nhận sự phù hợp của sản phẩm, hàng hóa với các quy
chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật. Như vậy, với việc ban hành các quy chuẩn kỹ
thuật (kiểm soát những rủi ro của hàng hóa có thể tác động đến lợi ích công cộng) và
đảm bảo sự phù hợp của sản phẩm, hàng hóa thông qua sự xác nhận của các tổ chức
chứng nhận, Nhà nước có thể kiểm soát được những tác động tới lợi ích công cộng
của hoạt động kinh doanh thay vì ban hành các điều kiện kinh doanh đối với các chủ
thể.
Đối với những hàng hóa, dịch vụ không có quy chuẩn kỹ thuật/ tiêu chuẩn kỹ
thuật và các sản phẩm, hàng hóa này có những tác động nhất định đến trật tựcông,
trong một số trường hợp, yêu cầu về điều kiện của các chủ thể kinh doanh thường
không mang đến hiệu quả kiểm soát tốt hơn/ có ý nghĩa so với các biện pháp quản lý
khác như đặt ra các yêu cầu nhất định đối với các sản phẩm, hàng hóa trước khi lưu
67
thông thị trường; quy định các nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện trong quá
trình kinh doanh; quy định các chế tài đủ mạnh có tính răn đe đối với các hành vi vi
phạm…
Các ngành, nghề có thể kiểm soát bằng hình thức quản lý khác thay vì điều
kiện kinh doanh đó là: Sản xuất, sửa chữa chai chứa khí dầu mỏ hóa lỏng (chai LPG)
(Mục 43); Kinh doanh dịch vụ quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng (Mục 120); Sản xuất
mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe gắn máy (Mục 203); Kinh doanh dịch vụ sản
xuất, phát hành và phổ biến phim (Mục 206); Kinh doanh dịch vụ giới thiệu sản
phẩm quảng cáo đến công chúng (Mục 215).
(iv) Ngành, nghề trong Danh mục không phải là ngành, nghề kinh doanh
Về nguyên tắc, các ngành, nghề trong Danh mục là các ngành, nghề kinh
doanh – tức là có các đặc điểm: hoạt động phát sinh lợi nhuận; hoạt động có đặc
trưng chung của một lĩnh vực nào đó. Rà soát Danh mục lại nhận thấy có ngành,
nghề không phải là hoạt động kinh doanh; có ngành, nghề, xét về bản chất lại không
phải là ngành, nghề (ví dụ: kinh doanh dịch vụ logistics. Logistics bao gồm một hoặc
nhiều hoạt động như: vận tải, đóng gói, làm thủ tục thuế, hải quan… và mỗi hoạt
động đó lại là một ngành, nghề được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành. Do đó,
khó có thể xem logistics là một ngành và quy định điều kiện kinh doanh chung cho
tất cả các hoạt động).
Do đó, tác giả luận văn kiến nghị nên tiếp tục rà soát và loại bỏ các ngành
nghề sau trong danh mục:
- Hoạt động dịch vụ của tổ chức trọng tài thương mại (Mục 17);
- Sản xuất, sửa chữa chai chứa khí dầu mỏ hóa lỏng (chai LPG) (Mục 43);
- Xuất khẩu gạo (Mục 55);
- Kinh doanh tạm nhập, tái xuất hàng thực phẩm đông lạnh (Mục 57);
- Kinh doanh dịch vụ Logistics (Mục 60);
- Kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng xe ô tô (Mục 78);
68
- Kinh doanh dịch vụ đại lý tàu biển (Mục 90);
- Kinh doanh dịch vụ quản lý, vận hành nhà chung cư (Mục 119);
- Kinh doanh dịch vụ quản lý, vận hành cơ sở hỏa táng (Mục 120);
- Sản xuất mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe gắn máy (Mục 203);
- Kinh doanh dịch vụ sản xuất, phát hành và phổ biến phim (Mục 206);
- Kinh doanh dịch vụ biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, tổ chức thi
người đẹp, người mẫu (Mục 212);
- Kinh doanh dịch vụ giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến công chúng (Mục
215);
- Kinh doanh dịch vụ in, trừ in bao bì (Mục 128).
3.2.3. Giảm bớt thủ tục bắt buộc phải cấp phép, chấp thuận của cơ quan
nhà nước, chuyển sang điều kiện đầu tư kinh doanh không cần sự chấp thuận
Như đã phân tích ở trên, hiện nay số lượng điều kiện kinh doanh cần có sự
chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam còn quá lớn. Nhiều nhà
nghiên cứu đã đưa ra quan điểm cho rằng, Việt Nam phải thực hiện cải cách, tiến tới
xóa bỏ hệ thống giấy phép kinh doanh và cơ chế chấp thuận thay thế việc quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp bằng cơ chế giám sát khác. Tuy nhiên, theo quan
điểm của tác giả, việc xóa bỏ hoàn toàn các điều kiện kinh doanh này không phải là
một biện pháp thực sự tốt, bởi các điều kiện kinh doanh minh bạch, hợp lý chính là
công cụ để quản lý hiệu quả các chủ thể kinh doanh.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới, ngay cả những quốc gia phát triển như Mỹ,
Anh, Singapore, Nhật… họ vẫn duy trì cơ chế cấp giấy phép và xin chấp thuận trong
những ngành nghề nhất định, vì đó là những công cụ hữu hiệu để quản lý nền kinh
tế.
Những điều kiện kinh doanh cần sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền
vẫn nên được duy trì, nhưng chỉ duy trì những điều kiện kinh doanh thực sự cần
thiết. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý phải đưa ra được tiêu chí rõ ràng trong
69
việc quy định ngành nghề kinh doanh cần có giấy phép, chấp thuận của cơ quan có
thẩm quyền. Căn cứ vào đó, giảm số lượng các ngành nghề cần sự chấp thuận của cơ
quan nhà nước, chuyển sang áp dụng hệ thống đăng ký đầu tư kinh doanh không cần
sự chấp thuận. Ví dụ như bỏ quy định về giấy xác nhận đủ điều kiện về an toàn trật
tự do Bộ Công an cấp cho các đại lý bán lẻ xăng dầu vì cơ bản yêu cầu về an toàn
trật tự đã được xem xét đến khi doanh nghiệp xin cấp giấy chứng nhận đủ đăng ký
kinh doanh.
3.2.4. Xây dựng hệ thống giám sát thông tin để kiểm soát việc thực thi pháp
luật về điều kiện đầu tư kinh doanh.
Thực tế đã cho thấy hoạt động giám sát thực thi pháp luật về điệu kiện kinh
doanh ở nước ta còn yếu, nguyên nhân sâu xa là chúng ta chưa xây dựng được cơ
chế phù hợp, chưa phát huy được vai trò giám sát của các chủ thể khác trong xã hội.
Do vậy, cần thiết phải có những quy định, cơ sở pháp lý rõ ràng để thiết lập nên sự
kết hợp của nhiều bên trong việc giám sát thực thi pháp luật về điều kiện kinh doanh
và xây dựng kênh thông tin phản hồi để tiếp nhận kết quả từ quá trình giám sát đó.
Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, việc quản lý thực thi pháp luật về
điều kiện đầu tư kinh doanh nhất thiết phải có những kênh giám sát như sau:
- Giám sát của các cơ quan Nhà nước: Trong bất kì một giai đoạn nào, các cơ
quan nhà nước luôn có vai trò giám sát trực tiếp hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp thông qua tập trung kiểm tra và áp dụng các biện pháp để hạn chế, ngăn ngừa
một cách có hiệu quả các tác động tiêu cực lớn hoặc nguy hại có thể xảy ra đối với
xã hội, Nhà nước vừa là chủ thể trung tâm tạo điều kiện và thực hiện giám sát quá
trình các chủ thể khác tham gia giám sát các doanh nghiệp.
- Giám sát của doanh nghiệp: Đây là hoạt động giám sát của chính chủ thể
phải thực hiện thủ tục hành chính về điều kiện đầu tư kinh doanh. Đây là hình thức
giám sát hiệu quả vì các chủ thể này rất nhiều thông tin, am hiểu thực chất hoạt động
kinh doanh và phản hồi nhằm bảo vệ lợi ích của chính mình.
- Giám sát của các hiệp hội, cơ quan báo chí và truyền thông: Hiệp hội, cơ
70
quan báo chí và truyền thông được xem là kênh giám sát có sức ảnh hưởng lớn đến
hệ thống hành pháp. Bởi những thông tin liên quan tới điều kiện kinh doanh làm khó
cho doanh nghiệp sẽ nhanh chóng được đưa tới công chúng, các nhà quản lý… vì thế
nó tác động trực tiếp tới ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước. Thông qua tác động
tuyên truyền và định hướng công chúng, báo chí sẽ tạo nên một áp lực giám sát đối
với cơ quan nhà nước, bắt buộc cơ quan nhà nước phải hành động hợp lý, đúng pháp
luật, đúng đạo lý, tôn trọng lợi ích của toàn xã hội mỗi khi ban hành, sửa đổi các điều
kiện kinh doanh.
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kinh doanh
dịch vụ an ninh trật tự
Thứ nhất, tiếp tục triển khai, quán triệt thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả
Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định điều kiện về
an ninh trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện; Chỉ thị
số 08/CT-BCA ngày 19/9/2013 của Bộ trưởng Bộ Công an về tăng cường công tác
quản lý nhà nước về an ninh trật tự đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ cầm đồ,
dịch vụ đòi nợ. Quản lý các hoạt động đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh
trật tự phù hợp với thực tiễn, vừa bảo đảm quyền giao dịch dân sự, vừa đảm bảo
công tác quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh có điều kiện này.
Thứ hai, cần quan tâm công tác tổ chức thanh tra, kiểm tra định kỳ, chú trọng
kiểm tra đột xuất, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm liên quan
đến hoạt động của các cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự. Thông qua
công tác thanh kiểm tra để chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, những thiếu sót có thể
là điều kiện, khả năng để các đối tượng, phần tử xấu lợi dụng để vi phạm pháp luật.
Đối với kinh doanh dịch vụ cầm đồ, cần tập trung công tác kiểm tra quá trình
hoạt động, nắm biết được những người đang làm việc trong các cơ sở kinh doanh;
thống kê được chủng loại, số lượng, nguồn gốc, thủ tục, giấy tờ của các tài sản
được đem cầm cố; nơi cất giữ tài sản, đặc biệt là những tài sản không có giấy tờ,
giấy tờ có nghi vấn hoặc tài sản không xác định được chủ sở hữu. Đặc biệt cần chú
71
ý phát hiện những tài sản là vật chứng trong các vụ án hình sự.
Đối với loại hình kinh doanh dịch vụ Karaoke, dịch vụ Massage, cần tập
trung rà soát, kiểm tra các quy định về an ninh trật tự, các điều kiện liên quan đến
công tác phòng cháy chữa cháy. Trường hợp những cơ sở kinh doanh dịch vụ
karaoke, massage có dấu hiệu phức tạp về an ninh trật tự đã có vi phạm, nhất là tổ
chức, chứa chấp các hoạt động tệ nạn xã hội, cần chủ động phối hợp với các lực
lượng chức năng để có biện pháp đấu tranh xử lý kịp thời. Kiên quyết không để tồn
tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke, massage hoạt động không có giấy phép
của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.
Đối với loại hình kinh doanh dịch vụ lưu trú, cần tăng cường công tác kiểm
tra chấn chỉnh việc đăng ký, quản lý khách lưu trú. Nâng cao ý thức cảnh giác của
nhân viên lễ tân, nhân viên bảo vệ, chủ động trong việc phòng ngừa, phát hiện các
hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm, tệ nạn xã hội… lợi dụng các cơ sở kinh doanh
lưu trú để hoạt động.
Đối với hoạt động kinh doanh, sản xuất có sử dụng vật liệu nổ công nghiệp,
các đơn vị chức năng cần tập trung kiểm tra công tác bảo vệ, hệ thống hàng rào bảo
vệ kho, cửa kho, khóa kho; công tác nhập, xuất kho, việc niêm yết nội quy, biển
báo, biển cấm, thông báo thời gian nổ mìn tại khu vực bảo quản,…
Thứ ba, cần tập trung công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp
luật có liên quan đến việc quản lý các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
về an ninh trật tự; phương thức, thủ đoạn các loại tội phạm lợi dụng hoạt động
phạm tội để các cơ sở kinh doanh biết và nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động
phòng ngừa. Quan tâm, tuyên truyền sâu rộng, đa dạng về hình thức tuyên truyền
đến các chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật
tự.
Cuối cùng, tăng cường công tác quản lý cán bộ, rà soát, bố trí những cán bộ
có năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức tốt để quản lý cơ sở đầu tư
kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự. Tổ chức quán triện cho cán bộ, chiến sĩ
72
chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư kinh
doanh có điều kiện về an ninh trật tự. Quan tâm đến việc đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ thông qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, ý thức chấp hành quy chế làm việc, quy trình công tác, Điều lệnh Công an
nhân dân; kịp thời phát hiện những cán bộ, chiến sĩ có hành vi bao che các vi phạm
của cơ sở kinh doanh để có biện pháp ngăn chặn hoặc xử lý nghiêm theo quy định
73
của Ngành và quy định của pháp luật.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Một là, hoàn thiện pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp
luôn là yêu cầu chính đáng, cấp thiết. Sự hoàn thiện của pháp luật ảnh hưởng trực
tiếp đến các mối quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh và hơn thế nữa là hướng
tới một trật tự xã hội cao hơn. Vấn đề này xuất phát từ nhiều quan điểm khác nhau
nhưng quan trọng nhất vẫn là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên
cạnh đó, khi hoàn thiện pháp luật về điều kiện, thủ tục thành lập doanh nghiệp cũng
cần chú ý đến sự phù hợp với các luật chuyên ngành, tương đồng với luật quốc tế
và có khả năng thực thi cao trong thực tiễn. Hơn thế nữa pháp luật về điều kiện, thủ
tục thành lập doanh nghiệp có mối quan hệ ràng buộc với nhiều mặt của đời sống
xã hội như kinh tế, văn hóa, xã hội ,an ninh trật tự.. và chịu sự tác động lẫn nhau rất
mạnh mẽ vì vậy mà trước khi đặt ra vấn đề hoàn thiện của pháp luật cần đặt nó
trong chỉnh thể lớn, xem xét các yêu cầu cần thiết để khi pháp luật hoàn thiện sẽ
kéo theo các mối liên hệ xung quanh cũng được toàn diện hơn.
Hai là, phương hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập
doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng các quy định pháp
luật đối với doanh nghiệp. Trên thực tế, pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập
doanh nghiệp dù đã được sửa đổi nhưng vẫn phải có những định hướng hoàn thiện
hơn nữa. Các mối quan hệ trong xã hội luôn vận động phát triển không ngừng nhất
là các quan hệ kinh tế đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi để phù hợp với nhu cầu
cuộc sống. Tuy nhiên sự thay đổi của pháp luật không thể mang tính liên tục mà
phải là sự thay đổi tích cực, hiệu quả áp dụng lâu dài và bám sát định hướng đã
được đặt ra.Nhìn chung, để tăng hiệu quả thực hiện pháp luật về điều kiện và thủ
tục thành lập doanh nghiệp cần có những giải pháp thiết thực mang tính khả thi cao
74
hơn nữa.
KẾT LUẬN
Luật đầu tư 2014 được ban hành là một bước đột phá mạnh mẽ về các quy
định liên quan đến điều kiện kinh doanh. Lần đầu tiên, trong văn bản cấp luật, mục
tiêu khi quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh
doanh được xác định rõ ràng, đó là vì “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Những mục tiêu này đã thể hiện
quan điểm đúng đắn về cách hành xử của Nhà nước đối với các chủ thể kinh doanh,
chỉ kiểm soát các hoạt động tác động đến trật tự công.
Bên cạnh xác định mục tiêu, Luật đầu tư 2014 cũng đưa ra Danh mục ngành,
nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Danh mục này đã qua một lần sửa đổi năm
2016, điều chỉnh từ 267 xuống còn 243 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, trong
đó đã loại bỏ khá nhiều ngành, nghề kinh doanh; sửa đổi phạm vi của một số ngành,
nghề và bổ sung thêm mới một số ngành nghề. Nhìn tổng thể, Danh mục sửa đổi
năm 2016 đã thể hiện được tinh thần cải cách, thúc đẩy quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp, nhất quán với các chính sách tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, xây
dựng môi trường kinh doanh lành mạnh.
Mặc dù có những điểm tích cực trong lần sửa đổi vừa rồi, nhưng không thể
khẳng định Danh mục hiện tại đã hoàn hảo. Hoạt động rà soát, đánh giá các ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện cần được thực hiện thường xuyên để xác định chính
xác các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện phù hợp với mục tiêu quy định tại
khoản 1 Điều 7 Luật đầu tư 2014, vừa đảm bảo sự quản lý của Nhà nước vừa hiện
thực hóa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn cũng đã mạnh dạn đưa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về điều kiện đầu tư kinh
75
doanh ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Luật Doanh nghiệp 2014
2. Luật Dầu tư 2014
3. Nghị định 78/2015/NĐ-CP
4. Nghị định 118/2015/NĐ-CP
B. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
5. BMRC – Ban nghiên cứu của Chính Phủ, Giấy phép và điều kiện kinh
doanh ở Việt Nam – Thực trạng và con đường phía trước, Hà Nội, 2009
6. Bộ Công thương. Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam: Hiện trạng và dự
báo, Hà Nội, 2016
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo đánh giá tình hình thi hành luật Doanh
nghiệp, Hà Nội, 2016
8. PGS.TS Trần Thị Minh Châu, Chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014
9. CIEM, Ngành nghề kinh doanh có điều kiện: Một số kết quả rà soát ban
đầu, Hà Nội, 2010
10. TS. Bùi Ngọc Cường, Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong
pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2004
11. TS. Nguyễn Thị Dung, Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thương mại,
Chương VIII, Giáo trình Luật Thương Mại Việt Nam tập 1, Nxb CAND, Hà Nội
2015
12. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Đầu tư, Nxb CAND, Hà Nội, 2010
13. TS. Bùi Xuân Hải, Tự do kinh doanh – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
76
Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật số 05/2011, Hà Nội, 2011.
14. Trần Hữu Huỳnh, Cải cách hệ thống giấy phép kinh doanh ở Việt Nam
trong giai đoạn hậu WTO, Tạp chí khoa học pháp lý số 2 (39)/2007, Hà Nội, 2007.
15. Mutrap, Hội nhập kinh tế và sự phát triển ở Việt Nam: Báo cáo 2014, Hà
Nội
16. ThS. Trần Huỳnh Thanh Nghị, Quy định về vốn pháp định trong pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam dưới góc nhìn so sánh, Tạp chí Luật học số 10/2015, Hà
Nội, 2015
17. Ths. Trần Huỳnh Thanh Nghị, Quy định về vốn pháp định trong thành lập
và hoạt động của doanh nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Hà Nội, 2015
18. ThS. Trần Huỳnh Thanh Nghị, Thực trạng pháp luật về giấy phép kinh
doanh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 04, Hà Nội, 2015
19. PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Giấc mơ về nửa triệu Doanh nghiệp và một
đạo luật chung: Luật DN từ một góc nhìn so sánh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
7 (219), Hà Nội, 2006
20. TS. Vũ Thị Hoài Phương, Hoàn thiện pháp luật về thủ tục hành chính
trong đầu tư, Tạp chí Tổ chức Nhà Nước số 03/2010, Hà Nội, 2014
21. Vũ Xuân Tiền, Cần hiểu đúng về chứng chỉ hành nghề, Thời báo kinh tế
Sài Gòn số 37/2013.
22. TS. Trang Thị Tuyết, Một số giải pháp hoàn thiện quản lí nhà nước đối
với doanh nghiệp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012
C. TÀI LIỆU INTERNET
23. BusinessUsa, Start a business in usa, http://business.usa.gov/start-a-
business
24. Measuring Besiness Regulations, Doing business in China,
http://www.doingbusiness.org/law-library/china
25. Serving Singapore’s Business Community, starting your business,
77
http://www.enterpriseone.gov.sg/
26. The U.S. Small Business Administration, Obtain Business Licenses &
Permits,http://www.sba.gov/category/navigation-structure/startingmanaging-
business/starting-business/obtain-business-licenses-.
27.http://dangcongsan.vn/CPV/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=30
346&cn_id=245779.
28. http://ieit.edu.vn/vi/thu-vien-tap-chi/tap-chi-kinh-te-doi ngoai/item/216-
hoan-thien-moi-truong-the-che-kinh-te-o-viet-nam-trong-qua-trinh-hoi-nhap-kinh-te-
quoc-te
29.http://luathanguyen.com.vn/giai-phap-don-gian-hoa-dieu-kien-xac-nhan-
von-phap-dinh/262.html
30. http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/12625.
31.http://tratu.coviet.vn/hoc-tieng-anh/tu-dien/lac-viet/V-
V/%C4%91%E1%BA%A7u%20t%C6%B0.html
32. http://luatsu-vn.com/co-quan-nao-co-tham-quyen-quy-dinh-ve-nganh-
nghe-kinh-doanh-co-dieu-kien-va-dieu-kien-kinh-doanh/
33. http://www.baomoi.com/243-nganh-nghe-van-hon-3-400-giay-phep-kinh-
doanh-cac-loai/c/22609590.epi
34. https://danluat.thuvienphapluat.vn/danh-sach-cac-nganh-nghe-kinh-doanh-
can-co-von-phap-dinh-147604.aspx
35. http://www.baomoi.com/tphcm-thanh-tra-dot-xuat-phong-kham-bac-si-
78
ngoai-tron-chay-thoat-than/c/11822565.epi