BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH - THỰC TIỄN ÁP DỤNG
Ngành: Luật Kinh tế
LÊ HOÀI NAM
Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không lành mạnh -
thực tiễn áp dụng
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
Học viên Cao học: LÊ HOÀI NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.HỒ THÚY NGỌC
Hà Nội - 2019
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .................................................................. 6
1.1. Khái quát về cạnh tranh ................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh ............................................................................... 6
1.1.2. Bản chất và vai trò của cạnh tranh .......................................................... 8
1.1.3. Phân loại các hình thức cạnh tranh ....................................................... 10
1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................................................ 10
1.2.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................. 10
1.2.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............................ 14
1.2.3. Phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................. 18
1.3. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................. 21
1.3.1. Khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............ 21
1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ...... 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH - THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH
VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM .......................... 25
2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh ............................................................................................................. 25
2.1.1. Quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................ 25
2.1.2. Quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không
lành mạnh .......................................................................................................... 36
2.1.3. Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................... 41
2.2. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam ........................... 44
2.2.1. Hành vi bán giá thấp nhằm cạnh tranh không lành mạnh .................. 44
2.2.2. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ................................. 45
2.2.3. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ................................... 46
2.2.4. Gièm pha đối thủ cạnh tranh .................................................................. 48
2.2.5. Ép buộc khách hàng ................................................................................ 48
2.2.6. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác ........................ 49
2.2.7. Bán hàng đa cấp bất chính ..................................................................... 49
2.2.8. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp ..... 50
2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
tại Việt Nam .......................................................................................................... 51
2.3.1. Kết quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại
Việt Nam ............................................................................................................ 51
2.3.2. Những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam......................................................................... 53
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH
VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
................................................................................................................................... 57
3.1. Những kinh nghiệm các nước trên thế giới cho việc xây dựng pháp luật
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................................................... 57
3.1.1. Kinh nghiệm của các nước Châu Âu ..................................................... 57
3.1.2. Kinh nghiệm của Liên bang Nga ............................................................ 58
3.1.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Đài Loan ............................................... 61
3.2. Định hướng trong việc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................................................ 63
3.3. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định pháp luật hiện
hành về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................................. 68
3.3.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh .............................. 68
3.3.2. Kiến nghị về giải quyết quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản
pháp luật chuyên ngành .................................................................................... 74
3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh.............................................................................. 77
3.4.1. Nâng cao năng lực của cơ quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt
động cạnh tranh và thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh................................................................................................................... 77
3.4.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và các chính sách của Nhà
nước nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể tham gia cạnh
tranh không lành mạnh .................................................................................... 79
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 83
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn, giúp
đỡ hết sức nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của PGS.Ts Hồ Thuý Ngọc, khoa
Đào tạo quốc tế, Trường Đại học Ngoại Thương.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và xin được gửi lời cảm ơn tới tập thể
cán bộ, giảng viên khoa Luật, khoa Đào tạo quốc tế, tập thể thầy, cô giáo trường
Đại học Ngoại Thương Hà Nội đã giảng dạy, truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tôi
trong suốt khoá học và thời gian nghiên cứu luận văn.
Tác giả luận văn
Lê Hoài Nam
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Hình 2.1. Số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do Cục Quản lý cạnh tranh tiếp
nhận qua các năm 2006 – 2017 ................................................................................. 51
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, kết quả
nghiên cứu là quá trình lao động trong thực tế của tôi.
Tác giả luận văn
Lê Hoài Nam
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đề tại luận văn: “Pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh - thực tiễn áp dụng”.
1. Kết quả đạt được của Luận văn
- Luận văn đã phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy
định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: khái niệm và đặc
điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh; khái niệm và đặc điểm của pháp luật
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
- Luận văn đã phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm: (i).Quy định về các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh; (ii).Quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh; (iii).Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh;
- Luận văn đã phân tích và làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam; chỉ ra những bất cập của pháp luật và
những vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh;
- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam.
2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn
- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
- Luận văn là tài liệu có tính ứng dụng trong công tác điều tra, xử lý các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh và cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan có
thẩm quyền trong việc nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý các vụ việc về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh là một quy luật và thuộc tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Cạnh tranh là một động lực để phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cạnh
tranh cũng tồn tại những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp đã xâm hại quyền tự do kinh doanh,
gây hậu quả xấu cho môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Cơ chế thị
trường cũng đặt ra nhu cầu thiết lập và duy trì một môi trường cạnh tranh công bằng
và bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh. Đây là một thách thức lớn đối với Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngày 03 tháng 12 năm 2004, Luật Cạnh tranh được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm
2005. Luật Cạnh tranh và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã tạo
thành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, tạo điều kiện thuận
lợi trong hoạt động của cơ quan cạnh tranh đồng thời thể hiện sự rõ ràng và minh
bạch đối với cộng đồng doanh nghiệp. Các quy định trong hệ thống các văn bản này
đã tạo ra một hành lang và khuôn khổ pháp lý để các doanh nghiệp căn cứ vào đó
điều chỉnh các hành vi cạnh tranh trong kinh doanh tuân thủ đúng theo quy định của
pháp luật và qua đó thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong nhiều ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế.
Trải qua hơn 13 năm áp dụng Luật Cạnh tranh 2004, pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh nói chung cũng như pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nói riêng cơ bản đã có nhiều tác động thực tế tới quá trình
phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường, sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế cùng với việc hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh
đã phát sinh mà chưa có biện pháp đấu tranh có hiệu quả. Các chế tài trở nên chưa
đủ mạnh để kiểm soát, loại bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ
thể kinh doanh. Thực tế đã chứng minh việc điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh
2
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành chiếm số lượng rất ít so với thực tiễn
xảy ra hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.
Vì thế, việc nghiên cứu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cùng với
các quy định về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết,
qua đó định hướng các giải pháp nhằm đảm bảo hoàn thiện pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh theo hướng thiết lập các chế tài phù hợp, đầy đủ, thống nhất
và đủ tính nghiêm khắc để tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng và công bằng.
Đây cũng chính là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh - thực tiễn áp dụng” để nghiên cứu và làm đề tài
cho Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Lĩnh vực pháp Luật Cạnh tranh nói chung và pháp luật chống hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nói riêng luôn nhận được sự quan tâm chú ý của các nhà
nghiên cứu Luật học cũng như giới kinh doanh. Có thể kể đến một số công trình
nhiên cứu tiêu biểu như sau:
Trong Luận án Tiến sĩ“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam”- Học Viện
Khoa học Xã hội, tác giả Viên Thế Giang (2014) đã phân tích những vấn đề lý luận
cơ bản về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng,
phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.
Năm 2010, trong Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học Luật Hà Nội“Pháp luật
chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam”,
tác giả Trịnh Thị Liên Hương đã khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến pháp
luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, thực trạng và
giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo.
Tác giả Quách Thị Hương Giang (2011) trong Luận văn Thạc sĩ “Chế tài đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam”- Khoa Luật Đại
3
học Quốc gia đã làm rõ các vấn đề lý luận về chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, thực trạng pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh tại Việt Nam cũng như một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Một nghiên cứu khác cũng liên quan đến vấn đề này,tác giả Đinh Đức Minh
(2012) trong Luận văn Thạc sĩ“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và
việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam”- Trường Đại học
Luật Hà Nội đã phân tích cơ sở lý luận về pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh ở Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam cũng như đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Ngoài ra, có thể kể đến một số bài đăng trên các tạp chí như: bài viết “Xác
định hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan
đến quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam” của Th.S
Nguyễn Thị Như Quỳnh trên Tạp chí Luật học số 5/2009; bài viết “Bồi thường thiệt
hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra” của PGS.TS Đỗ Văn Đại,Th.S
Nguyễn Thị Hòa Trâm trên Tạp chí Khoa học pháp lý, trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh số 2/2012;….
Tuy nhiên, các công trình và bài viết chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát về khoa
học pháp lý đối với quan hệ cạnh tranh nói chung và chống cạnh tranh không lành
mạnh nói riêng hoặc nghiên cứu cạnh tranh trong từng lĩnh vực, dưới từng góc độ
khác nhau. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về
các quy phạm và các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp
Luật Cạnh tranh Việt Nam, đánh giá những bất cập của pháp luật Việt Nam về hành
vi cạnh tranh không lành mạnh và để đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật
nhằm ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
các quan hệ kinh tế diễn ra trong môi trường kinh doanh hiện nay.
4
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật đối với những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh tại Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2018. Đây là thời gian Luật
Cạnh tranh 2004 có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn thi hành được bổ sung. Đây
cũng là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam có nhiều sự biến động, nhất là từ sau khi gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, điều này đặt ra nhiều thách thức đối với
pháp luật về cạnh tranh tại Việt Nam.
- Phạm vi về không gian: Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
tại Việt Nam.
- Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật đối với
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh và chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp phân
tích, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt, phương pháp
so sánh luật học được sử dụng để so sánh các quy định có liên quan đến hành vi
cạnh tranh không lành mạnh qua các thời kỳ ở việt Nam. Trong đó:
- Phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh
được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật
học được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực trạng
áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
5
- Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải được sử dụng trong Chương
3 khi nghiên cứu để lập luận cho các giải pháp nâng cao hiệu quảáp dụng pháp luật
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
6, Bố cục
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hành vi cạnh tranh không lành
mạnhvà pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam
6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Theo dòng phát triển của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển
xã hội loài người, có thể thấy, con người luôn đi tìm động lực phát triển trong các
hình thái kinh tế xã hội. Quy luật này dường như đã trở thành một quy luật tất yếu,
cho dù ở hình thái sơ khai nhất, như ở hình thái Cộng sản nguyên thủy (Công xã
nguyên thủy), khi cơ sở kinh tế chỉ dựa trên sở hữu chung về tư liệu sản xuất và
thậm chí xã hội chưa phân hóa giai cấp nên không có sự tồn tại của nhà nước và
pháp luật, hay cho dù xã hội phát triển đến hình thái cao nhất – Cộng sản chủ nghĩa,
với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng. Đã có thời kỳ, thị trường, cạnh
tranh và lợi nhuận được coi như là mặt trái gắn liền với chủ nghĩa tư bản và bị gạt ra
khỏi công cuộc xây dựng thể chế kinh tế thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Lúc đó, các
Nhà nước xã hội chủ nghĩa coi việc nắm giữ sức mạnh kinh tế kết hợp với yếu tố kế
hoạch tập trung như là những động lực cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội, thực hiện công bằng, dân chủ và văn minh ( PGS.TS. Lê Danh Vĩnh, ThS.
Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Giáo trình luật cạnh tranh, NXB. Đại học Quốc Gia
thành phố Hồ Chí Minh ).
Nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau như kinh tế tự
nhiên, kinh tế tập trung và kinh tế thị trường, trong đó kinh tế thị trường là mô hình
được nhiều quốc gia lựa chọn cho quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế. Ở Việt Nam,
mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội lần thứ VI khi
xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên phải đến Đại
hội lần thứ IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
mới chính thức được sử dụng trong Văn kiện của Đảng. Đại hội Đảng XI đã đưa ra
quan điểm về việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
“Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải gắn với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
7
phân phối” ( Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) , Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội ).
Mặc dù vẫn mang những đặc trưng của kinh tế thị trường nói chung nhưng
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có tính đặc thù riêng, là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, khác biệt về bản chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Và như một hệ quả tất yếu, thị trường Việt Nam bị chi phối bởi quy luật cạnh
tranh, xuất phát từ chính quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa. Cạnh tranh đã đem
lại cho thị trường và cho đời sống xã hội một diện mạo mới, linh hoạt, đa dạng,
phong phú và ngày càng phát triển, đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội
mà trước đây chưa từng xuất hiện như phá sản, kinh doanh gian dối, cạnh tranh
không lành mạnh…
Qua hơn 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường, cạnh tranh trở thành một
khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Cạnh tranh được
hiểu là sự ganh đua giành ưu thế giữa những người hoạt động trong cùng một lĩnh
vực hoặc có chung một mục đích. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có một khái niệm
đầy đủ và thống nhất về cạnh tranh, bởi ở mỗi góc độ nghiên cứu, cạnh tranh lại có
những đặc điểm về chủ thể, hành vi và mục đích thực hiện khác nhau. Dưới góc độ
kinh tế, có thể hiểu cạnh tranh là hành vi do các doanh nghiệp, thương nhân hoạt
động trên thị trường thực hiện, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, thu được nhiều lợi
nhuận nhất trong phạm vi kinh doanh của mình. Khái niệm cạnh tranh theo một số
tài liệu nước ngoài cũng có sự khác biệt, từ điển kinh doanh xuất bản ở Anh năm
1992 định nghĩa cạnh tranh theo hướng quan tâm đến đối tượng của cạnh tranh, theo
đó, cạnh tranh là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường
nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng
về phía mình”.( Nguyễn Hưu Huyên (2004), Luật cạnh tranh của Pháp và Liên minh
châu Âu, NXB Tư Pháp, Hà Nội ). Tuy nhiên, cuốn Black’s law Dictionary lại diễn
tả cạnh tranh một cách khái quát và gắn với mục đích của cạnh tranh, đó là “sự nỗ
lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân, nhằm tranh giành những lợi ích
giống nhau từ chủ thể thứ ba”.( Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc
quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,
8
Hà Nội). Theo Từ điển tiếng Việt, cạnh tranh là việc cố gắng giành phần hơn, phần
thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như
nhau..( Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt (1997), Trung tâm từ điển học, NXB
Đà Nẵng ).
Tùy thuộc vào ý định và hướng tiếp cận của các nhà khoa học, cạnh tranh
được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy các lý thuyết
về kinh tế đều thống nhất rằng, cạnh tranh là hoạt động của các chủ thể kinh doanh
nhằm tranh giành thị trường, lôi kéo khách hàng về phía mình, cạnh tranh là sản
phẩm riêng có của kinh tế thị trường, là linh hồn và là động lực cho sự phát triển
của thị trường.
1.1.2. Bản chất và vai trò của cạnh tranh
Nếu nhìn khái quát trên quy mô toàn xã hội thì cạnh tranh là phương thức
phân bổ các nguồn lực, tài nguyên một cách tối ưu, vì vậy, nó là động lực phát triển
bên trong của nền kinh tế. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong điều kiện của nền kinh tế
thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh
hồn sống của thị trường (Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới
xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội ). Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã
chỉ ra rằng cạnh tranh có bản chất kinh tế - xã hội của nó. Bản chất kinh tế của cạnh
tranh thể hiện mục đích tạo lập cho chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh một ưu thế
chi phối thị trường gắn liền với lợi nhuận. Bản chất xã hội của cạnh tranh thể hiện ở
đạo đức kinh doanh và uy tín của mỗi chủ thể cạnh tranh trong mối quan hệ đối với
các chủ thể tạo ra tiềm lực cạnh tranh của doanh nghiệp, quan hệ với người tiêu
dùng và các đối thủ cạnh tranh khác. Dưới tác động điều tiết vĩ mô của nhà nước
đối với hoạt động cạnh tranh, cạnh tranh ở mỗi quốc gia còn có bản chất chính trị
khác nhau, phụ thuộc vào sự hoạch định và thực thi chính sách kinh tế và chính sách
xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là lõi vật chất, giá cả là
diện mạo thì cạnh tranh chính là linh hồn của thị trường. Nhờ có cạnh tranh, cùng
9
với sự thay đổi liên tục về nhu cầu và bản tính tham lam của con người mà nền kinh
tế thị trường đã có những bước phát triển nhảy vọt chưa xuất hiện được trong các
hình thái kinh tế trước đó. Sự ham muốn không có điểm dừng đối với lợi nhuận của
nhà kinh doanh trở thành động lực thúc đẩy họ sáng tạo không mệt mỏi, vì vậy mà
cạnh tranh chính là động lực của sự phát triển. Theo đó, cạnh tranh có những vai trò
cơ bản sau đây: (Lê Danh Vĩnh, Giáo trình luật canh tranh (2010), Đại học Kinh tế -
Luật, Đại học quốc gia Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh ).
Thứ nhất, cạnh tranh điều chỉnh quan hệ cung cầu trên cơ sở quyền tự do lựa
chọn của người tiêu dùng. Người tiêu dùng có thể dễ dàng tìm thấy hàng hóa, dịch
vụ mà họ muốn với giá tốt nhất và chất lượng cao nhất. Trong môi trường cạnh
tranh, chủ thể kinh doanh khó có thể bóc lột người tiêu dùng vì luôn có rất nhiều đối
thủ khác sẵn sàng chào bán với giá cả và chất lượng tốt hơn.
Thứ hai, cạnh tranh tạo sức ép, buộc các chủ thể kinh doanh liên tục đổi mới,
theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đồng thời phải phân bổ nguồn lực một
cách hiệu quả để tạo ra sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh trên thị trường, từ đó
cạnh tranh trở thành động lực bên trong thức đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ ba, cạnh tranh tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất thích ứng vói hàng loạt sự
biến động của nhu cầu xã hội và đổi mới công nghệ, thúc đẩy việc ứng dụng các
tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong kinh doanh. Bởi chính sự khác biệt trong công nghệ
sản xuất, chế biến và quy trình vận hành là một trong những lợi thế cạnh tranh của
các doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ tư, cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục
trong đời sống kinh tế. Chính vì vậy, cạnh tranh giúp tạo ra sự đổi mới chung,
thường xuyên và liên tục, vì vậy đem lại sự tăng trưởng kinh tế chung cho toàn xã
hội.
Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực nhất định, thể hiện ở xu
hướng phân hóa của các doanh nghiệp, gia tăng hiện tượng phân hóa giàu nghèo
trong xã hội. Đồng thời, chính sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường là nguyên nhân
khiến cho các doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém bị phá sản, kéo theo nhiều hệ
quả xấu như nạn thất nghiệp, tệ nạn, lừa đảo, trộm cắp… gây mất ổn định xã hội và
10
là sức ép đối với chính sách kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Ngoài ra, cạnh
tranh không lành mạnh cũng tạo ra những hệ lụy xấu đối với người tiêu dùng và các
chủ thể kinh doanh khác trên thị trường.
1.1.3. Phân loại các hình thức cạnh tranh
Cạnh tranh có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, vì vậy, việc
phân loại cạnh tranh cũng phụ thuộc vào những tiêu chí cụ thể của từng góc độ nhất
định. Trong kinh tế học và khoa học pháp lý, các nhà nghiên cứu có nhiều cách
phân loại cạnh tranh khác nhau dể phục vụ các nhiệm vụ nghiên cứu hoặc cho công
tác xây dựng chính sách pháp luật. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về cạnh tranh,
có thể thấy một số cách phân loại cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất, mức độ can thiệp của nhà nước vào đời sống
kinh tế, cạnh tranh được chia thành hai loại là cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự
điều tiết của nhà nước;
Thứ hai, căn cứ vào đặc tính, cấu trúc của thị trường (bao gồm số lượng
người mua và bán, loại hàng hóa được sản xuất, bẩn chất của rào cản gia nhập thị
trường), các nhà kinh tế học chia cạnh tranh được thành cạnh tranh hoàn hảo, cạnh
tranh không hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền;
Thứ ba, căn cứ vào tính chất của các phương thức cạnh tranh, các hành vi
cạnh tranh được chia làm hai loại là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành
mạnh;
Thứ tư, căn cứ vào tác động bất lợi của hành vi cạnh tranh gây ra đối với môi
trường cạnh tranh, pháp luật của một số nước chia cạnh tranh thành hành vi hạn chế
cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.2.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh là một trong những quy luật quan trọng của nền kinh tế thị trường,
nó là động lực thúc đẩy sự phát triển để đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng, người
tiêu dùng và được nhà nước bảo vệ. Hành vi cạnh tranh sẽ được coi là cạnh tranh
11
lành mạnh nếu doanh nghiệp cạnh tranh bằng cách thức phù hợp với các quy định
của pháp luật và các chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường. Tuy nhiên, thay
vì nỗ lực để nâng cao lợi nhuận và tìm kiếm khách hàng một cách chính đáng,
không ít doanh nghiệp đã lựa chọn những cách thức và phương pháp mà pháp luật
không cho phép, bằng cách tiến hành các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đi
ngược lại với các nguyên tắc trung thực, thiện chí, hoặc các thông lệ, tập quán được
chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong kinh doanh, nhằm tạo lợi thế cạnh tranh bất
chính cho mình. Các hành vi này được xem là có hại đối với môi trường cạnh tranh
và bị pháp luật cấm thực hiện.
Để đưa ra một định nghĩa chính xác, đầy đủ về cạnh tranh không lành mạnh
là một việc không dễ, bởi nội hàm của nó luôn có sự thay đổi tùy thuộc vào nhận
thức của từng giai đoạn lịch sử ở từng quốc gia khác nhau cũng như sự thay đổi,
tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Nguyên nhân khiến khái niệm cạnh tranh không lành
mạnh rất khó định nghĩa còn do hình thức biểu hiện của nó ngày càng trở nên tinh
vi, xảo quyệt và phức tạp hơn. Một cách khái quát nhất, có thể hiểu, cạnh tranh
không lành mạnh là những hành vi đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và
truyền thống kinh doanh, xâm phạm lợi ích của các nhà kinh doanh khác, lợi ích của
người tiêu dùng và lợi ích của xã hội.
Tại khoản 2 Điều 10 Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,
được bổ sung vào Công ước năm 1990 và sửa đổi lần cuối theo Văn bản Stockholm
1967 cho rằng bất kỳ hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thông lệ trung thực,
thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Việc sử dụng các tiêu chí về tập quán, đạo đức hay như trong trường
hợp này là “các thông lệ trung thực, hợp lí” để xác định phạm vi một khái niệm
pháp lý sẽ đưa đến những điểm không rõ ràng. Thực tế Điều 10 Công ước Paris chỉ
mô tả một cách khái quát, mang tính định hướng và bỏ ngỏ khái niệm này cho pháp
luật quốc gia của các nước thành viên Công ước tự định đoạt. Tuy nhiên đến cấp độ
quốc gia, mọi nỗ lực nhằm bao quát trong một định nghĩa tất cả các hoạt động cạnh
tranh hiện tại và trong tương lai, đồng thời xác định mọi hành vi bị ngăn cấm đủ để
thích nghi với những thông lệ thị trường mới vẫn là một khó khăn. Mặc dù vậy,
12
không có nghĩa là không có phạm vi điều chỉnh đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Điều 10 Công ước Paris đã đưa ra một danh sách khái quát bao gồm ba
hình thức cạnh tranh không lành mạnh đặc biệt bị cấm bao gồm:
- Mọi hành vi nhằm gây ra sự nhầm lẫn, bằng bất kỳ phương tiện nào, với cơ
sở, hàng hóa hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh;
- Những tuyên bố sai trái trong công việc nhằm làm mất uy tín của cơ sở, hàng
hóa hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh;
- Những chỉ dẫn hoặc tuyên bố sử dụng trong quá trình kinh doanh nhằm lừa
dối công chúng về bản chất, quy trình sản xuất, đặc điểm, sự phù hợp về mục
đích, hoặc số lượng của hàng hóa.
Phạm vi về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Công ước Paris tương
đối hẹp, chủ yếu hướng tới các hành vi mang tính chất gian dối trong hoạt động
thương mại. Vì vậy, nội dung Điều 10 Công ước Paris chỉ có thể coi là những ví dụ
điển hình về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Đối với mỗi quốc gia,
xuất phát từ sự khác biệt trong đặc trưng của nền kinh tế và mức độ phát triển của
công nghệ kỹ thuật, hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại có những biểu hiện
khác biệt, do vậy, trong quá trình xây dựng các chế định của pháp luật về cạnh tranh,
mỗi quốc gia trên thế giới đã đưa ra các khái niệm khác nhau về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
Luật cạnh tranh Bungary năm 1991 nêu ra định nghĩa tại Khoản 2 điều 12:
“Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi hoặc biểu hiện tiến hành các hoạt động
kinh tế trái với tiêu chuẩn thông thường về kinh doanh trung thực, gây hại hoặc có
thể gây hại tới những lợi ích của các đối thủ cạnh tranh khác trong mối quan hệ giữa
họ và người tiêu dùng”.
Luật cạnh tranh không lành mạnh Trung Quốc năm 1993 quy định: “Cạnh
tranh không lành mạnh là hoạt động của doanh nghiệp trái với quy định của luật này
gây thiệt hại cho quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp khác và làm rối loạn
trật tự kinh tế xã hội.”
13
Luật cạnh tranh Lào năm 2015 định nghĩa cạnh tranh không lành mạnh bằng
cách liệt kê cụ thể các hành vi đó. Theo đó, tại điều 8 quy định: “Cạnh tranh không
lành mạnh là hoạt động của một hoặc một nhóm doanh nghiệp, có hành vi được quy
định tại điều 9 của Luật này”. Tiếp đó, điều 9 quy định rõ một số loại hành vi được
coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí
mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp khác; gây rối
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh; khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh; hành vi phân biệt đối xử
của hiệp hội và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác mà được quy định
trong pháp luật và quy chế có liên quan.
Như vậy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được pháp luật của nhiều
quốc gia đề cập đến, mặc dù chưa có khái niệm nào mang tính triệt để, nhưng mỗi
khái niệm đều góp phần vẽ thêm một vài chi tiết để tạo ra một bức tranh hoàn thiện
về khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ở Việt Nam, trước khi Luật cạnh
tranh 2004 ra đời, cũng có một số văn bản pháp luật đề cập tới vấn đề cạnh tranh
không lành mạnh như: Điều 8 Luật thương mại 1997, Bộ luật hình sự 1999, Pháp
lệnh về quảng cáo 2001, Nghị định 24/2003/NĐ-CP ngày 13/03/2003. Tuy nhiên,
chưa có một văn bản nào đưa ra khái niệm về hành vi này mà phải cho tới khi Luật
cạnh tranh 2004 được xây dựng thì mới có một khái niệm về cạnh tranh không lành
mạnh được quy định tại khoản 4 Điều 3: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc
người tiêu dùng. Tiếp theo đó, điều 39 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định rõ một
số loại hành vi được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: chỉ dẫn gây
nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh
nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; phân
biệt đối xử của hiệp hội; bán hàng đa cấp bất chính và các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 do Chính phủ quy định.
14
Dù có những quan điểm khác nhau khi định nghĩa về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh giữa pháp luật các nước và điều ước quốc tế, nhưng vẫn có thể
thấy một điểm chung giữa các khái niệm này, đó là hành vi cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và đi ngược lại các
nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm hại hoặc có thể gây
hại tới lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người
tiêu dùng.
1.2.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh do các chủ thể kinh doanh
trên thị trường thực hiện.
Chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh
2004 là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây, phạm trù
“doanh nghiệp” theo quy định của Luật cạnh tranh có phạm vi rộng hơn so với quy
định tại Khoản 7 Điều 4 Luật doanh nghiệp. Cụ thể, theo Luật doanh nghiệp, doanh
nghiệp chỉ bao gồm các tổ chức kinh tế còn “doanh nghiệp” theo quan niệm của
Luật cạnh tranh thì không chỉ gồm tổ chức kinh tế mà còn hàm chứa cả các cá nhân
kinh doanh. Như vậy, hiểu một cách khái quát, hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được thực hiện bởi tất cả các tổ chức kinh tế và cá nhân tham gia tìm kiếm lợi
nhuận trên thị trường một cách thường xuyên và chuyên nghiệp, có tư cách thương
nhân trên thị trường. Trong đó, tổ chức kinh tế được hiểu là các tổ chức được thành
lập dưới mô hình doanh nghiệp như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân hoặc mô hình hợp tác xã. Cá nhân kinh
doanh được hiểu là cá nhân có đăng kí kinh doanh và cá nhân không đăng kí kinh
doanh, cụ thể: cá nhân có đăng ký kinh doanh được pháp luật quy định là hộ kinh
doanh, còn cá nhân không đăng lý kinh doanh bao gồm những người buôn bán
rong; buôn bán vặt; buôn chuyến; thực hiện các dịch vụ như đánh giày, bán vé số,
chữa khóa… không có địa điểm cố định;…(theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số
39/2007/NĐ-CP về cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên
không phải đăng ký kinh doanh). Trên một phạm vi rộng hơn, các quy định về cạnh
15
tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi của nhóm doanh nghiệp
hoạt động có tổ chức là Hiệp hội doanh nghiệp.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải nhằm mục đích cạnh
tranh.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là yếu tố sống còn của các doanh
nghiệp, quy luật cạnh tranh cũng giống như những quy luật tồn tại và đào thải của
tự nhiên: chiến thắng luôn thuộc về kẻ mạnh. Do vậy, mục đích của cạnh tranh là
một trong những yếu tố bắt buộc để xác định một hành vi của doanh nghiệp, hiệp
hội có phải là hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không. Mặt khác, phạm vi
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn được giới hạn bởi chức năng kinh
doanh của nó. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải do các chủ thể trên thực
hiện trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, các
hành vi khác nằm ngoài chức năng kinh doanh của những chủ thể không được coi là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra, mục đích của cạnh tranh cũng là yếu
tố bắt buộc để xác định một hành vi là cạnh tranh lành mạnh hay không. Nếu hành
vi của doanh nghiệp không nhằm mục đích cạnh tranh thì đó không phải là hành vi
cạnh tranh và do đó không thể là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nên sẽ không
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật cạnh tranh 2004.
Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi trái với các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh.
Đặc điểm này của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là căn cứ để xác định
bản chất không lành mạnh của hành vi cạnh tranh. Tuy nhiên, chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh là một khái niệm mang tính trừu tượng, rất khó để
xác định, nó phụ thuộc vào quan niệm truyền thống kinh doanh của mỗi quốc gia
hay từng vùng, miền nhất định. Tuy nhiên, có thể hiểu thuật ngữ “chuẩn mực thông
thường của đạo đức kinh doanh” dựa vào hai căn cứ sau đây:
Một là, căn cứ luật định: là những tiêu chuẩn đã được định lượng, định hình
bằng pháp luật, một khi trái với các quy định của pháp luật sẽ được xem là không
16
lành mạnh. Trong trường hợp này, hành vi cạnh tranh không lành mạnh đồng nghĩa
với các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp. Theo đó, hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có thể là hành vi của cá nhân, tổ chức kinh doanh vi phạm điều cấm của pháp
luật (bao gồm các quy định cấm của Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật có
liên quan khác như Luật thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về sở hữu
trí tuệ…) hoặc là hành vi vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh được pháp luật quy
định cũng là những nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự, thương mại như
nguyên tắc về tính trung thực, tự nguyện, thiện chí, hợp tác… được quy định tại các
văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp…
Hai là, căn cứ theo các tập quán kinh doanh thông thường: là những tập
quán đã được thừa nhận rộng rãi sẽ được áp dụng đối với những hành vi chưa được
pháp luật dự liệu là cạnh tranh không lành mạnh. Nói cách khác, căn cứ này là biện
pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một
hành vi cụ thể nhưng khi thực hiện hành vi này đã xâm hại đến quyền cạnh tranh
của các cá nhân, tổ chức kinh doanh khác, xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp
của người tiêu dùng và trái với tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng khả
năng điều chỉnh và khắc phục tình trạng “sớm” lạc hậu của pháp luật cạnh tranh.
Cho đến nay, Luật cạnh tranh chưa quy định những tập quán kinh doanh nào được
coi là các chuẩn mực đạo đức thông thường. Chính vì vậy, tính trái chuẩn mực đạo
đức thông thường trong kinh doanh của hành vi cạnh tranh không lành mạnh đòi hỏi
pháp luật cạnh tranh phải luôn được chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Thứ tư, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp khác, hoặc của người
tiêu dùng.
Theo điều 4 Luật cạnh tranh 2004 thì doanh nghiệp được quyền tự do cạnh
tranh trong khuôn khổ của pháp luật, nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp
trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện quyền tự do
kinh doanh mà gây thiệt hại đến các chủ thể khác thì sẽ bị xếp vào nhóm hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có đối tượng
17
xâm hại cụ thể tới lợi ích nhà nước (tác động xấu đến thị trường, làm đảo lộn trật tự
quản lý kinh tế…); lợi ích của các doanh nghiệp khác (bị mất uy tín, giảm thị phần,
giảm doanh thu) và lợi ích của người tiêu dùng (bị nhầm lẫn, mua hàng kém chất
lượng, bị giảm sút về sức khỏe, thậm chí thiệt hại về tính mạng…). Như vậy, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh có thể tác động đến nhiều đối tượng khác nhau theo
Luật cạnh tranh Việt Nam, bao gồm các đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng và Nhà
nước. Theo nghiên cứu, phần lớn các quốc gia có quy định về vấn đề bảo vệ lợi ích
của Nhà nước trước hành vi cạnh tranh không lành mạnh thường là các quốc gia có
nền kinh tế mà ở đó, nhà nước tham gia sâu vào hoạt động kinh doanh và cạnh tranh
trực tiếp với các thành phần kinh tế khác trên thị trường.
Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là hiện thực đã xảy ra nhưng
cũng có thể chỉ là tiềm năng, tức là có căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ
xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi. Do đó, một số hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có cấu thành vật chất với thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc như gièm pha doanh
nghiệp khác; một số hành vi lại có cấu thành hình thức với thiệt hại không là dấu
hiệu bắt buộc mà có thể chỉ là sự suy đoán rằng nếu hành vi tiếp tục được thực hiện,
ví dụ như hành vi quảng cáo không trung thực.
Ngoài ra, đặc điểm về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng
là căn cứ để phân biệt giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế
cạnh tranh dưới góc độ lý thuyết. Hạn chế cạnh tranh là những xử sự của doanh
nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp làm thay đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh
tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối với thị trường. Hành vi hạn chế
cạnh tranh có ảnh hưởng xấu đến toàn bộ thị trường, thay đổi cấu trúc thị trường,
thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân, kinh doanh khác hoặc
cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nước mà không
gây cản trở, sai lệch hay làm giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường. Vì vậy, cách
thức và mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này sẽ khác nhau.
18
1.2.3. Phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được Luật cạnh tranh liệt kê tại
Điều 39. Dựa vào tính chất của những hành vi này, có thể phân loại chúng thành 3
nhóm: các hành vi mang tính chất lợi dụng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
khác; các hành vi mang tính chất công kích hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp khác và các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng của doanh
nghiệp khác.
1.2.3.1. Nhóm các hành vi mang tính chất lợi dụng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác
Đây là nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình được biết đến
dưới nhiều dạng thức khác nhau như: gây nhầm lẫn về nguồn gốc của hàng hóa,
dịch vụ; lợi dụng thành quả đầu tư của người khác; xâm phạm bí mật kinh doanh…
Bản chất của hành vi này là việc chiếm đoạt hay sử dụng trái phép lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp khác. Đây là dạng hành vi rất dễ gây nhầm lẫn với các hành vi
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và cạnh
tranh không lành mạnh thoạt nhìn có thể rất nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên, sự
khác nhau giữa hai loại hành vi này xuất phát từ chính bản chất pháp lý của mỗi loại
hành vi: về phạm vi áp dụng, yếu tố chủ thể và yếu tố lỗi.
Về phạm vi áp dụng: chỉ có thể hình thành một hành vi vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ khi có một quyền sở hữu trí tuệ hợp pháp đang được bảo hộ bị xâm phạm.
Có nghĩa là chỉ khi đối tượng đã được chủ sở hữu xác lập quyền thông qua việc
đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ thì mới có thể căn cứ vào pháp luật sở hữu trí
tuệ để bảo vệ khi bị xâm phạm. Ví dụ như trường hợp một nhãn hiệu không đăng ký
bị xâm phạm thì hành vi xâm phạm đó không thể là hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệ bởi chưa phát sinh quyền sở hữu trí tuệ đối với
nhãn hiệu này. Trường hợp này có thể áp dụng luật cạnh tranh để điều chỉnh, theo
đó, hành vi sử dụng chỉ dẫn làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa,
dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh là một dạng của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, không phụ thuộc vào việc dấu hiệu chỉ dẫn đó đã được đăng ký hay chưa.
19
Về yếu tố chủ thể: chỉ có thể là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi các
chủ thể ở vị trí cạnh tranh với nhau. Trong khi đó, hành vi vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ có thể do bất kỳ chủ thể nào vi phạm quyền của chủ sở hữu đã được pháp luật
quy định.
Về yếu tố lỗi: hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có lỗi cố ý.
Điều 40 Luật cạnh tranh quy định hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn phải “nhằm mục
đích cạnh tranh”. Do đó, một hành vi không thể là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nếu chủ thể thực hiện không biết mình đang vi phạm điều cấm. Nhưng đối
với lĩnh vực sở hữu trí tuệ, lỗi không phải là yếu tố bắt buộc cấu thành hành vi vi
phạm. Một khi các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã được đăng ký theo đúng
trình tự của pháp luật quy định thì các chủ thể khác được suy đoán là đã biết tới
quyền của chủ sở hữu. Do đó, sẽ cấu thành hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối
với mọi hành vi vi phạm quyền của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khi không được
sự cho phép của chủ sở hữu.
Về nguyên tắc, hành vi cạnh tranh có thể liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ,
tức là bao gồm cả quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, xuất phát
từ tính chất của các đối tượng quyền tác giả là quyền sở hữu công nghiệp thì hành vi
cạnh tranh chủ yếu liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp bởi vì đối tượng của
quyền sở hữu công nghiệp gắn liền với hoạt động thương mại, có giá trị thương mại
cao.
1.2.3.2. Nhóm các hành vi mang tính chất công kích hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Đây là nhóm hành vi có chung bản chất là tấn công vào đối thủ cạnh tranh,
triệt tiêu hoặc làm suy giảm các lợi thế cạnh tranh của đối thủ. Các hành vi cụ thể
rất đa dạng, phụ thuộc vào cách thức, mục tiêu công kích. Theo quy định của Luật
cạnh tranh thì nhóm hành vi này bao gồm: hành vi ép buộc trong kinh doanh; hành
vi gièm pha doanh nghiệp khác và hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp khác.
20
Thứ nhất, hành vi ép buộc trong kinh doanh được quy định tại Điều 42 Luật
cạnh tranh. Theo đó, phương thức thực hiện hành vi là dùng áp lực để đe dọa hoặc
cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh doanh không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với
đối thủ cạnh tranh của mình khiến cho khách hàng hay đối tác kinh doanh đó mặc
dù không muốn nhưng vẫn phải thực hiện hành vi nêu trên, nếu không sẽ bị bất lợi
trong kinh doanh và ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Mục đích thực hiện hành vi là
nhằm lôi kéo khách hàng, đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh để từ đó buộc
họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó. Kết quả là làm giảm
lượng khách hàng hoặc đối tác làm ăn của đối thủ cạnh tranh với mình.
Thứ hai, hành vi gièm pha doanh nghiệp khác là một loại hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và tương đối phổ biến trong hoạt động kinh doanh, nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh trong hoặc kìm hãm sự phát triển của đối thủ cạnh tranh thông
qua việc làm giảm uy tín của đối thủ. Hành vi này được biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau. Doanh nghiệp có thể trực tiếp cung cấp thông tin cho khách hàng
bằng lời nói, văn bản, hoặc cũng có thể cung cấp thông tin gián tiếp qua một bên
thứ ba đến khách hàng. Nội dung có thể là những thông tin tiêu cực, không có
nguồn gốc hoặc thậm chí sai lệch liên quan đến chất lượng sản phẩm, tình hình tài
chính, uy tín và đạo đức của người quản lý… Những thông tin này tác động đến
nhận thức và đánh giá của chính khách hàng, người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ
cũng như tình hình kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ, nhằm mục đích khiến
khách hàng ngừng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của đối thủ.
Thứ ba, hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác quy
định tại Điều 41 của Luật cạnh tranh. Đó là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
nhằm vào đối thủ cạnh tranh và xâm phạm trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh. Phương
thức thực hiện là gây rối, quấy phá hoạt động kinh doanh của đối thủ. Các hành vi
này có thể do doanh nghiệp trực tiếp thực hiện hoặc thông qua chủ thể thứ ba,
nhưng phải đảm bảo điều kiện về mối quan hệ nhân quả, tức là, chính các hành vi
gây rối là tác nhân trực tiếp ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của đối thủ
cạnh tranh. Mục đích của hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác là làm gián đoạn quá trình kinh doanh bình thường của doanh nghiệp, ảnh
21
hưởng đến hiệu quả, uy tín và khả năng cạnh tranh của đối thủ trên thương trường
cũng như khả năng cạnh tranh với chính doanh nghiệp có hành vi gây rối.
1.2.3.3. Nhóm các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng của doanh nghiệp khác
Bản chất của nhóm hành vi này là tạo ra một lợi thế cạnh tranh gian dối để
lôi kéo khách hàng, người tiêu dùng thông qua các hành vi như quảng cáo gian dối,
khuyến mãi không trung thực… Đối tượng chịu tác động trực tiếp của các hành vi
này là khách hàng và người tiêu dùng, còn các doanh nghiệp cạnh tranh khác chỉ
chịu ảnh hưởng gián tiếp từ hành vi này thông qua việc khách hàng mất niềm tin đối
với hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra, các hành vi này có tác động xấu đến thị trường
chung, khiến thị trường thiếu minh bạch, làm sai lệch tính chất giao dịch giữa các
chủ thể tham gia trên thị trường, vì vậy, ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh
chung của các doanh nghiệp. Theo quy định của Luật cạnh tranh 2004, những hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mãi nhằm cạnh tranh
không lành mạnh và bán hàng đa cấp bất chính đều thuộc nhóm hành vi này.
1.3. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.3.1. Khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu, là động lực phát triển của
thị trường và đã có một thời kỳ nguyên tắc tự do cạnh tranh được tôn trọng tuyệt đối
nên nhà nước không can thiệp vào hoạt động cạnh tranh trên thị trường. Điều này lý
giải vì sao cạnh tranh xuất hiện cùng với sự ra đời của nền kinh tế thị trường nhưng
pháp luật để điều tiết cạnh tranh đã xuất hiện muộn hơn rất nhiều. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển của xã hội và xu hướng hội nhập toàn cầu, hành vi cạnh tranh dần
bị biến tướng theo chiều hướng tiêu cực, tác động xấu đến môi trường kinh doanh;
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan. Do vậy, đòi
hỏi cần phải có sự can thiệp và điều tiết của nhà nước đối với môi trường cạnh tranh
và các hành vi cạnh tranh trên thị trường. Đó chính là lý do có sự xuất hiện của
pháp luật cạnh tranh với tư cách là công cụ chủ yếu và hữu hiệu của Nhà nước,
trước mắt quản lý các hành vi cạnh tranh, mà mở rộng ra là điều tiết sự phát triển
của nền kinh tế. (Nhà pháp luật Việt-Pháp và Cục quản lí cạnh tranh, tài liệu hội
22
thảo: “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Từ hai góc nhìn Á – Âu”, Hà Nội, ngày 27
– 28/9/2010).
Cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện và bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại là
các quy định về tự do kinh doanh và quyền được tồn tại bình đẳng của các doanh
nghiệp. Chỉ khi nào được tự do gia nhập thị trường, tự do giao kết và bảo đảm
quyền sở hữu thì lúc đó các chủ thể tham gia thị trường mới có đủ năng lực để quyết
định phương thức kinh doanh. Và chỉ khi đó, cạnh tranh mới có đất để tồn tại và
phát huy tác dụng. Với tư cách là lĩnh vực pháp luật đặc thù của nền kinh tế thị
trường, pháp luật cạnh tranh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và loại bỏ mọi hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi
cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường, đồng thời bao gồm cả các
quy định đảm bảo thực thi luật cạnh tranh trên thực tế. Đó là các quy định về tổ
chức và hoạt động của cơ quan nhà nước thi hành luật cạnh tranh; trình tự thủ tục
xử lý vụ việc cạnh tranh; các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Ở
các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và có hệ thống pháp luật phát triển như
Anh, Pháp, Mỹ… thì nguồn của pháp luật cạnh tranh còn bao gồm cả thực tiễn xét
xử của Tòa án, của các cơ quan cạnh tranh và các báo cáo, luận chứng trong quá
trình xây dựng pháp luật, các lý thuyết trong lĩnh vực cạnh tranh được công nhận
rộng rãi (Nguyễn Thị Vân Anh, Giáo trình luật cạnh tranh (2016), Trường Đại học
Luật Hà Nội, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội).
Theo nghĩa kinh điển, pháp luật cạnh tranh chỉ bao hàm các quy định ngăn
cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Sở dĩ như vậy là vì trong thời kỳ
của chủ nghĩa tư bản tự do, con người chưa biết đến hiện tượng độc quyền và những
tác hại của nó. ( Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2001), Cạnh tranh và xây
dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội).
Đến cuối thế kỷ XIX, pháp luật cạnh tranh đã được mở rộng và có những thay đổi
rất cơ bản về nội dung cũng như phương pháp điều chỉnh. Đặc biệt, sự ra đời của
luật Batman năm 1890 đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của pháp luật
23
cạnh tranh. Theo đó, nội dung của pháp luật được mở rộng hơn, nhà nước đã thực
sự nhận thức và giành quyền quản lý thị trường, điều tiết cạnh tranh không chỉ bằng
cách loại bỏ các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh mà còn tạo ra các thiết chế
pháp lý ngăn chặn và loại bỏ các rào cản nhân tạo cũng như tự nhiên để bảo vệ cho
thị trường cạnh tranh.
Mặc dù cách làm luật và kỹ thuật điều chỉnh có khác nhau qua các thời kì
nhưng nhận thức về khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh về
cơ bản là thống nhất. Theo đó, có thể định nghĩa pháp luật về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là hệ thống các quy tắc xử sự, những nguyên tắc pháp luật do nhà
nước ban hành, nhằm đảm bảo quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh, bảo vệ lợi
ích của mọi chủ thể sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ tham gia cạnh tranh trên
thị trường, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của toàn xã hội. Mục đích
của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh là bảo đảm và lợi ích hợp
pháp cho chủ thể kinh doanh, người tiêu dùng mà cao hơn là nhằm răn đe, ngăn cấm
mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh có nguy cơ xâm hại và làm vẩn đục môi
trường cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế.
1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhiều quy định nằm tại các lĩnh
vực pháp luật khác nhau trong khuôn khổ hệ thống pháp luật điều chỉnh nền kinh tế
thị trường nói chung. Nhìn chung, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo
quy định của pháp luật Việt Nam chưa có sự hệ thống đầy đủ cũng như chưa thể
hiện được triết lý lập pháp rõ ràng, nhiều quy định còn chồng chéo, chịu sự điều
chỉnh của cả Luật cạnh tranh và Luật sở hữu trí tuệ. Một số quy định về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh được tiếp thu từ kinh nghiệm xây dựng pháp luật cạnh
tranh của các quốc gia phát triển tại các giai đoạn lịch sử khác nhau, một số khác
xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công tác quản lý hoạt động thương mại trong
nước.
Ngoài nội dung các điều luật tại chương 3 Luật cạnh tranh, chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể về hành vi cạnh tranh không lành mạnh như hành vi hạn chế cạnh
24
tranh và tố tụng cạnh tranh. Ngoài ra, thẩm quyền thực thi pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam thuộc về cơ quan hành chính là Cục quản lý cạnh
tranh trực thuộc Bộ Công thương, mà không phải là Tòa án ( Trung tâm pháp luật
cạnh tranh – Khoa pháp luật kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, tài liệu hội thảo:
“Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, Hà Nội,
ngày 10/9/2010). Quy định này cũng sẽ hạn chế đáng kể khả năng các điều luật
được giải thích, cụ thể hóa thông quá các án lệ, vốn đóng một vai trò quan trọng
trong sự phát triển của lĩnh vực pháp luật này.
Nhìn chung, hiện nay, nguồn của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật quy định trực tiếp về cạnh tranh
không lành mạnh như sau:
- Bộ luật dân sự: Các chế định liên quan đến giao dịch dân sự (chương VIII),
bồi thường thiệt hại (chương XX)
- Luật cạnh tranh: bao gồm các quy định tại Khoản 4 Điều 3, các điều từ
điều 39 đến điều 48 (chương III), ngoài ra có thể kể đến các điều khoản tại chương
V liên quan đến trình tự, thủ tục điều tra, xử lý ccs hành vi cạnh tranh không lành
mạnh;
- Luật sở hữu trí tuệ, Khoản 3 Điều 130 và Điều 211;
- Nghị định của chính phủ số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 về việc quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh;
- Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/09/2005 về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;
- Nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/08/2005 về quản lý
hoạt động bán hàng đa cấp: Riêng đối với văn bản này, có thể kể thêm cả Thông tư
số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005/NĐ-Chính phủ);
- Nghị định số 97/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/09/2010 về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH - THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH
VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
2.1.1. Quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2.1.1.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh đầu tiên được quy định tại Chương III
của Luật cạnh tranh 2004 là hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Đây có thể coi là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh cơ bản, tạo nền tảng ra đời cho pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh và trải qua nhiều sự phát triển thay đổi với những học thuyết pháp
lý khác nhau. Đồng thời, đây là quy định phản ảnh rõ nét mối quan hệ bổ sung,
tương tác giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật sở hữu trí tuệ.
Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn bao gồm hai dạng vi phạm cụ thể: một là hành vi sử
dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý… làm sai lệch nhận thức của
khách hàng về hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh; và hai là hành vi kinh
doanh các sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Luật Cạnh tranh không quy định khái niệm chỉ dẫn thương mại mà chỉ liệt kê
một số đối tượng được coi là chỉ dẫn thương mại, bao gồm: tên thương mại, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và những dấu hiệu
khác theo quy định của Chính phủ. thể nói, chỉ dẫn thương mại là cơ sở quan trọng
để khách hàng nhận biết sản phẩm của một doanh nghiệp cụ thể và là những dấu
hiệu để phân biệt chúng trong những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Về giá trị
kinh tế, các đối tượng nói trên là kết quả đầu tư của doanh nghiệp trong việc xây
dựng danh tiếng cho sản phẩm của mình. Do vậy, việc xâm phạm chỉ dẫn thương
mại của doanh nghiệp khác được coi là những hành vi không lành mạnh.
Đối với hành vi sử dụng các chỉ dẫn chứa đựng những thông tin gây nhầm
lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ
26
dẫn địa lý… làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá, dịch vụ nhằm mục
đích cạnh tranh, doanh nghiệp được giả định vi phạm đã sử dụng các chỉ dẫn
thương mại có nội dung trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn của doanh nghiệp khác để
gây nhầm lẫn cho khách hàng. Luật Cạnh tranh, khả năng gây nhầm lẫn được hiểu
là khả năng làm sai lệch nhận thức của khách hàng làm cho họ không phân biệt
được đâu là sản phẩm chính hiệu và đâu là sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm
lẫn. Về hình thức, doanh nghiệp vi phạm đã sử dụng các chỉ dẫn giống hệt hoặc
tương tự đến mức nhầm lẫn với chỉ dẫn của doanh nghiệp khác đang được bảo hộ.
Khi các chỉ dẫn giống hệt nhau thì việc xác định sự nhầm lẫn sẽ dễ dàng. Nhưng
nếu các chỉ dẫn thương mại không hoàn toàn giống nhau, có nghĩa là vẫn tồn tại
một mức độ khác biệt nhất định, thì pháp luật phải xác định sự khác biệt đến mức
độ nào có thể gây nhầm lẫn và có thể không tạo ra sự nhầm lẫn. Về vần đề này,
Luật cạnh tranh vẫn chưa định lượng mức độ sai số có trong các thông tin của chỉ
dẫn làm nên sự nhầm lẫn.
Đối với hành vi kinh doanh sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn thì
chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp tham gia vào việc phân phối các sản phẩm
có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
2.1.1.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh
Theo khoản 10 Điều 41 Luật Cạnh tranh, năm 2004 bí mật kinh doanh là
thông tin có đủ ba điều kiện là: không phải là hiểu biết thông thường; có khả năng
áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin
đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó;
được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết
lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Bí mật kinh doanh không phải là kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích,
chỉ dẫn địa lý mà chỉ đơn thuần là những thông tin (không là hiểu biết thông
thường) phát sinh trong kinh doanh; có giá trị sử dụng trong thực tế và đem lại lợi
ích cho người nắm giữ hoặc người sử dụng; đang được chủ sở hữu bảo mật. Phần
lớn pháp luật các quốc gia đều không thể liệt kê những thông tin nào được coi là bí
27
mật kinh doanh và không có cơ chế đăng ký quyền sở hữu đối với bí mật kinh
doanh. Chính vì vậy, các thông tin về nguồn nguyên liệu, nguồn khách hàng tiềm
năng… đều có thể là bí mật kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, rất khó có thể liệt kê một cách đầy đủ các đối tượng của bí mật
kinh doanh, vì vậy mà việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến đối tượng này
khi xác định tính chất bí mật của thông tin, quyết định chính xác mức độ vi phạm
gặp rất nhiều khó khăn. Khi xây dựng Luật Cạnh tranh, đã có ý kiến cho rằng cần
đăng ký bí mật kinh doanh giống như đăng ký các đối tượng thuộc quyền sở hữu
công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ để được bảo hộ bởi luật cạnh tranh. Song, cơ chế
đăng ký bảo hộ đòi hỏi phải được công bố công khai, rộng rãi cho mọi chủ thể được
biết để không vi phạm. Do đó, nếu áp dụng cơ chế này đối với bí mật kinh doanh sẽ
làm cho bí mật của doanh nghiệp mau chóng trở thành không bí mật và sự bảo mật
trở thành vô nghĩa.
Về bản chất, đặc trưng của bí mật kinh doanh đều xoay quanh tính “bí mật”
của thông tin. Thông tin đó không phải là hiểu biết thông thường, có nghĩa là công
chúng nói chung không thể tiếp cận, tìm hiểu thông tin bằng các biện pháp, phương
tiện thông thường. Về giá trị kinh tế, giá trị của thông tin đem lại xuất phát từ yếu tố
bí mật, không phổ biến của nó. Một khi thông tin được bộc lộ, ai cũng biết thì giá trị
thương mại của thông tin và lợi thế cạnh tranh mà nó đem lại cho chủ sở hữu sẽ
không còn. Đặc điểm này cũng đòi hỏi thông tin phải có giá trị ứng dụng về mặt
kinh doanh nói chung, không nhất thiết phải gắn liền với tiến bộ khoa học, kỹ thuật,
công nghệ.
Về tính hợp pháp, chủ sở hữu phải nắm giữ bí mật kinh danh một cách hợp
pháp (thông qua hợp đồng, ủy quyền) và phải bảo mật thông tin bằng các biện pháp
cần thiết, nhằm ngăn cản công chúng và các đối tượng quan tâm tiếp cận, tìm hiểu,
thu thập và phố biến thông tin trên diện rộng. Điều đó có nghĩa là, nếu chủ sở hữu
không có ý thức bảo mật thông tin, vô ý do cẩu thả hoặc chủ động cung cấp thông
tin cho người khác thì cho dù bí mật kinh doanh đó có giá trị thực sự, pháp luật
cũng sẽ từ chối bảo hộ.
28
Luật cạnh tranh và Luật sở hữu trí tuệ gần như đồng nhất trong việc định
dạng các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh bao gồm các hành vi cụ thể sau:
Thứ nhất, hành vi tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng
cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh
đó. Đây là dạng hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh điển hình, khi bên vi phạm
chủ động tiếp cận, thu thập thông tin bằng cách phá vỡ các biện pháp bảo mật của
người có bí mật kinh doanh.
Thứ hai, hành vi tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không
được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh. Hành vi này hướng đến các đối tượng
khác, không trực tiếp chiếm đoạt bí mật kinh doanh từ chủ sở hữu hay người nắm
giữ hợp pháp bí mật. Dù bằng cách nào đó họ có được thông tin về bí mật kinh
doanh của doanh nghiệp, thậm chí trong trường hợp người này tiếp nhận thông tin
một cách ngay tình, pháp luật cũng không cho phép họ sử dụng và lưu truyền thông
tin cho người khác.
Thứ ba, hành vi vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin
của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí
mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó. Đây là dạng hành vi liên quan
đến vi phạm hợp đồng bảo mật, do đó trong nhiều trường hợp cần có sự kết hợp các
quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật dân sự về vi phạm hợp đồng để giải
quyết. Vấn đề cạnh tranh không lành mạnh sẽ được đặt ra trong trường hợp chủ thể
thực hiện hành vi không chỉ vi phạm nghĩa vụ bảo mật theo hợp đồng mà còn sử
dụng các thông tin bảo mật có được từ giao dịch dân sự đó để cạnh tranh, gây bất
lợi cho đối thủ.
Thứ tư, tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác
khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh,
làm thủ tục lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ
quan nhà nước. Việc áp dụng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong trường
hợp này có thể được xem xét kết hợp với việc áp dụng trách nhiệm hành chính và
29
trách nhiệm hình sự của đối tượng đã thực hiện hành vi “chống lại các biện pháp
bảo mật của cơ quan nhà nước”.
Như vậy, việc áp dụng pháp luật cạnh tranh đối với hành vi xâm phạm bí mật
kinh doanh đòi hỏi phải có sự kết hợp với cơ chế bồi thường thiệt hại. Bởi thông tin
khi đã bị bộc lỗ sẽ không bao giờ còn là bí mật nữa và mất đi giá trị của mình. Đối
với các hình thức tài sản trí tuệ khác, cơ chế bảo hộ sau khi xử lý sẽ giúp chủ sở hữu
khôi phục lại đầy đủ nguyên vẹn quyền khai thác, sử dụng của mình, nhưng trong
trường hợp bí mật kinh doanh, khó có thể ngăn chặn bên thứ ba và công chúng nói
chung tiếp nhận và sử dụng thông tin. Do đó, biện pháp khắc phục thiệt hại quan
trọng nhất cần thực hiện là giải quyết bồi thường thiệt hại một lần và toàn bộ giá trị
của bí mật kinh doanh đã bị bộc lộ.
2.1.1.3. Ép buộc trong kinh doanh
Hành vi ép buộc trong kinh doanh được quy định tại điều 42 Luật cạnh tranh:
“Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác
bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao
dịch với doanh nghiệp đó.”. Theo khái niệm trên, hành vi ép buộc trong kinh doanh
có cấu thành pháp lý bao gồm các yếu tố sau đây:
Một là, đối tượng của hành vi là khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của
doanh nghiệp khác. Từ dấu hiệu này, có thể thấy, bằng hành vi của mình doanh
nghiệp vi phạm đã không trực diện giao tiếp với doanh nghiệp khác (đối thủ), mà
tác động đến khách hàng hoặc đối tác của họ. Khách hàng, đối tác kinh doanh có thể
là các tổ chức, cá nhân đang giao dịch hoặc sẽ giao dịch (khách hàng tiềm năng) của
doanh nghiệp khác; có thể là người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân có giao dịch với
doanh nghiệp bị xâm phạm.
Hai là, hình thức của hành vi là doanh nghiệp vi phạm dùng thủ đoạn đe dọa
hoặc cưỡng ép những đối tượng trên để buộc họ không được giao dịch, ngừng giao
dịch với doanh nghiệp khác. Việc đe dọa hoặc cưỡng ép được thực hiện nhằm
khống chế ý chí của khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác. Doanh
30
nghiệp vi phạm có thể trực tiếp hoặc gián tiếp với vai trò tổ chức hoặc thuê mướn
người khác thực hiện các thủ đoạn đe dọa, cưỡng ép các đối tượng trên. Phương
thức đe dọa, cưỡng ép rất đa dạng và không giống nhau trong các vụ việc cụ thể.
Như vậy, hành vi ép buộc trong kinh doanh không bao gồm mục đích ép buộc
người khác phải giao dịch với mình.
Ba là, sự không lành mạnh của hành vi được chứng minh bằng các hậu quả
gây ra cho khách hàng (người tiêu dùng, đối tác của doanh nghiệp khác) và doanh
nghiệp bị xâm hại: Với khách hàng, quyền lựa chọn của họ bị xâm phạm do bị ngăn
trở, bị cưỡng ép mà không thể thiếp lập được giao dịch, không tiếp tục thực hiện
được giao dịch theo ý chí của mình. Quyền lựa chọn bị khống chế sẽ dẫn đến khả
năng khách hàng phải giao dịch với doanh nghiệp vi phạm hoặc người được chỉ
định. Dấu hiệu ép buộc khách hàng phải giao dịch với mình hoặc với người mà
mình chỉ định khi điều tra về hành vi ép buộc không được đặt ra. Hành vi này mang
bản chất côn đồ trong kinh doanh, có thể gây ra những xáo trộn trong xã hội, gây
ảnh hưởng lớn đến trật tự an ninh của cộng đồng, là những dấu hiệu không lành
mạnh trong đời sống kinh doanh đòi hỏi pháp luật và công quyền phải thẳng tay
trừng trị. Với các doanh nghiệp khác, việc không thiết lập, thực hiện được những
giao dịch của họ với khách hàng có thể làm cho tình hình kinh doanh bị ngăn trở,
rối loạn. Mặc dù đối tượng của hành vi ép buộc trong kinh doanh là đối thủ cạnh
tranh trực tiếp của doanh nghiệp vi phạm, song thủ đoạn cản trở khách hàng thiết
lập, thực hiện giao dịch cũng đã làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác bị cản trở hoặc bị hạn chế.
2.1.1.4. Gièm pha doanh nghiệp khác
Gièm pha doanh nghiệp khác là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông
tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Từ khái niệm trên, cấu thành pháp lý của
hành vi gièm pha doanh nghiệp khác bao gồm các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, hình thức của hành vi là việc trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin
không trung thực về doanh nghiệp khác. Việc đưa thông tin có thể được thực hiện
31
một cách trực tiếp từ doanh nghiệp vi phạm, hoặc gián tiếp thông qua các phương
tiện truyền thông, báo chí. Doanh nghiệp vi phạm có thể thực hiện hành vi công
khai hoặc không công khai. Nội dung của thông tin về doanh nghiệp khác được đưa
ra rất đa dạng như các thông tin về chất lượng sản phẩm, tình hình tài chính, uy tín
và đạo đức của người quản lý, về cổ phiếu…. Những thông tin này tác động đến
nhận thức và đánh giá của khách hàng về sản phẩm, về tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp khác. Qua đó, khách hàng sẽ quyết định có hay không việc giao dịch
hoặc tiếp tục giao dịch với doanh nghiệp bị gièm pha.
Doanh nghiệp vi phạm có thể là tác giả hoặc chỉ là người tuyên truyền những
thông tin mà họ thu thập được những thông tin về doanh nghiệp khác. Vấn đề mà
pháp luật quan tâm là tính trung thực (đúng hay sai so với thực tế) của thông tin.
Nếu những thông tin được đưa ra là thông tin trung thực thì không cấu thành hành
vi gièm pha bởi bằng hành vi của mình doanh nghiệp đã giúp cho người tiêu dùng,
các thành viên khác của thương trường có cơ sở để giám sát doanh nghiệp và lựa
chọn đúng đắn sản phẩm theo nhu cầu của họ. Ngược lại, sẽ là cạnh tranh không
lành mạnh nếu những thông tin được đưa ta là không trung thực về doanh nghiệp
khác. Trong trường hợp này, quyền được thông tin của khách hàng đã bị xâm phạm
để qua đó các quyết định không giao dịch hoặc không tiếp tục giao dịch với doanh
nghiệp bị gièm pha không còn đúng đắn.
Thứ hai, hậu quả của hành vi là gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài
chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị thông tin nói đến. Uy tín của
doanh nghiệp phản ảnh niềm tin và sự yêu thích của khách hàng đối với doanh
nghiệp hoặc sản phẩm. Sự giảm sút uy tín của doanh nghiệp bị xâm hại thể hiện ở
sự giảm sút một cách bất thường các giao dịch, doanh số bán ra, doanh thu của
doanh nghiệp, số lượng khách hàng so với trước đó. Những ảnh hưởng xấu của
hành vi gièm pha đối với tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh thể hiện ở các
số liệu kế toán thống kê, những biến động bất thường của tình hình tài chính, những
sự kiện làm rối loạn hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp…. Khi
điều tra về hành vi gièm pha doanh nghiệp khác, hậu quả phải được xác định là hiện
thực, tức là chúng phải xảy ra trong thực tế, doanh nghiệp bị gièm pha đã phải gánh
32
chịu những bất lợi về uy tín, về tài chính và về tình hình kinh doanh do thông tin
không trung thực gây ra. Đối với hành vi này, mọi sự suy đoán về hậu quả đều
không được coi là cơ sở để kết luận về sự vi phạm.
2.1.1.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là hành vi của doanh
nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp làm cản trở hoặc gián đoạn hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp khác.
Nếu so sánh với hành vi gièm pha trong kinh doanh hoặc ép buộc trong kinh
doanh thì hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác cũng là một
dạng biểu hiện trong chiến lược cản trở hoặc gây khó khăn cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác như hai hành vi nói trên. Chúng đều có thể do doanh
nghiệp vi phạm thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự khác nhau giữa các
hành vi chỉ là ở phương tiện, thủ đoạn được doanh nghiệp vi phạm sử dụng. Nếu
hành vi gièm pha sử dụng thông tin không trung thực về doanh nghiệp bằng cách
thức truyền miệng công khai, không công khai hoặc thông qua các phương tiện
truyền thông…; hành vi ép buộc trong kinh doanh sử dụng các thủ đoạn mang tính
côn đồ đối với khách hàng của doanh nghiệp khác, thì hành vi gây rối hoạt động
kinh doanh sử dụng bất kỳ thủ đoạn nào khác ngoài những thủ đoạn nói trên để làm
cản trở gián đoạn hoạt động kinh doanh của người khác. Như vậy, pháp luật không
quy định về hình thức cũng như những phương tiện, công cụ được sử dụng trong
hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Căn cứ pháp lý duy
nhất của hành vi này được quy định là: tình hình kinh doanh của họ bị gián đoạn
hoặc bị cản trở, và hậu quả này đã xảy ra trên thực tế.
2.1.1.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, tại Điều 45 Luật
cạnh tranh hiện hành có quy định những nhóm hành vi sau đây bị coi là quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm thực hiện:
33
- So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng
loại của doanh nghiệp khác;
- Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;
- Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các
nội dung sau đây: Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại bao
bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá người sản xuất, nơi sản xuất,
người gia công, nơi gia công;
- Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;
- Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác và các hoạt động quảng cáo
khác mà pháp luật có quy định cấm.
Tuy nhiên, Luật cạnh tranh hiện hành không đưa ra khái niệm như thế nào là
Quảng cáo, cho nên thiếu cơ sở thống nhất chung trong cách hiểu thế nào là hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong thực tiễn áp dụng. Như vậy, quá
trình thực thi pháp luật này rất áp lực đối với tất cả các bên, doanh nghiệp, người
tiêu dùng và cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền. Một số địa phương chỉ có thể
hiểu được khái niệm này qua việc vận dụng các quy định trong một số lĩnh vực khác
có liên quan, nhưng địa phương không có lợi thế nói trên thì rất lúng túng trong thi
hành.
Từ thời gian đó, nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật điều
chỉnh hành vi quảng cáo, trong đó có Luật quảng cáo năm 2012, văn bản này đã
đương nhiên thay thế pháp lệnh quảng cáo năm 2001 hay là Luật Thương mại năm
2005.
Theo quy định của nội dung Luật quảng cáo thì “Quảng cáo là việc sử dụng
các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có
mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân
kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách
xã hội; thông tin cá nhân”. Theo quy định tại Điều 102 Luật Thương mại năm 2005,
34
“Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới
thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình.”
Rõ ràng, cũng là một hành vi quảng cáo, song trong quy định của pháp luật
lại tồn tại hai khái niệm quảng cáo khác nhau, đó là quảng cáo và quảng cáo thương
mại. Tuy nhiên, theo các quy định của Luật cạnh tranh thì quảng cáo trong cạnh
tranh có chung cách hiểu theo hướng mà Luật thương mại đã đưa ra, đây là điều rất
cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế hội nhập của nước ta.
Nhìn nhận dưới góc độ khoa học pháp lý, quy định tại Điều 45 trong Luật
cạnh tranh hiện hành, ta có thể thấy, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
- Hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho
mạnh có một số đặc điểm sau đây:
khách hàng;
- Hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp về hàng hóa, dịch vụ giữa doanh
nghiệp của mình với doanh nghiệp khác;
- Hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng;
2.1.1.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh được chia
thành 4 nhóm hành vi bị cấm trong Luật cạnh tranh cụ thể như sau:
Thứ nhất, tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng: Hành vi này xảy
ra khi doanh nghiệp thực hiện khuyến mại bằng hình thức tổ chức giải thưởng
nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng giải thưởng đã công bố trước
đó.
Thứ hai, khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch
vụ để lừa dối khách hàng: Trong trường hợp này, hoạt động khuyến mại được
doanh nghiệp sử dụng làm công cụ để làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về hàng hóa,
dịch vụ. Ví dụ, doanh nghiệp tặng hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với chất
lượng cao hơn so với hàng hóa đang được bán trên thị trường.
35
Thứ ba, phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ
chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại: Hành vi này
bị coi là cạnh tranh không lành mạnh bởi đã phân biệt đối xử với khách hàng. Về
nguyên tắc, khi khách hàng đáp ứng đủ những điều kiện mà doanh nghiệp đặt ra và
các điều kiện là như nhau thì họ có vị trí như nhau trước doanh nghiệp. Một khi
điều kiện giống nhau nhưng lợi ích được thụ hưởng khác nhau thì doanh nghiệp
thực hiện việc khuyến mại đã có thái độ đối xử không công bằng đối với khách
hàng. Việc quy định hành vi phân biệt đối xử với khách hàng là cạnh tranh không
lành mạnh cho thấy pháp luật cạnh tranh không chỉ bảo vệ tổ chức, cá nhân kinh
doanh mà còn việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Thứ tư, tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách
hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang
sử dụng để dùng hàng hoá của mình. Như vậy, đối tượng được tham gia khuyến mại
chỉ là các khách hàng đang giao dịch, đang sử dụng hàng hóa của đối thủcạnh tranh.
Nói cách khác, doanh nghiệp đã trực diện lôi kéo khách hàng đang tiêu thụ sản
phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác bằng cách tặng hàng hóa cho họ dùng thử
với mong muốn khách hàng thay đổi thói quen tiêu dùng. Hành vi này bị coi là một
dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ một cách không chính
đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp khác.
2.1.1.8. Bán hàng đa cấp bất chính
Cụm từ "Bán hàng đa cấp" là một khái niệm rất mới và lần đầu tiên được
chính thức ghi nhận trong Luật cạnh tranh của Việt Nam. Theo quy định tại Điều 3
Luật cạnh tranh 2004 hiện hành, bán hàng đa cấp “là phương thức tiếp thị để bán lẻ
hàng hoá đáp ứng các điều kiện sau: 1. Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hoá được thực
hiện thông qua mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau; 2.
Hàng hoá được người tham gia tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi
làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ
thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia; 3. Người tham gia mạng
lưới Bán hàng đa cấp sẽ được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế
36
khác từ kết quả tiếp thị trực tiếp của mình và của người tham gia cấp dưới trong
mạng lưới do mình tổ chức ra và mạng lưới đó được doanh nghiệp Bán hàng đa cấp
chấp thuận”. Bên cạnh đó, Nghị định số 40/2018/NĐ-Chính phủ về quản lý hoạt
động kinh doanh theo phương thức đa cấp cũng quy định: “Kinh doanh theo phương
thức đa cấp là hoạt động kinh doanh sử dụng mạng lưới người tham gia gồm nhiều
cấp, nhiều nhánh, trong đó, người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và
lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của mình và của những người khác trong
mạng lưới.”
Với phương thức bán lẻ hàng hoá thông qua mạng lưới tiếp thị, doanh nghiệp
tổ chức bán hàng đa cấp thiết lập mối quan hệ mua bán sản phẩm trực tiếp với
người tiêu dùng cuối cùng mà không cần đầu tư thành lập, duy trì mạng lưới phân
phối dưới dạng cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các đại lý phân phối. Người tiêu dùng
có cơ hội mua được sản phẩm từ gốc sản xuất, tránh những rủi ro có thể phát sinh
trong quá trình phân phối (như nạn hàng giả, giá cả không trung thực). Doanh
nghiệp bán hàng đa cấp có thể là doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trực tiếp tiếp thị
và bán lẻ bằng phương thức đa cấp hoặc là các doanh nghiệp phân phối hàng hóa do
doanh nghiệp khác sản xuất.
Bên cạnh những quy định về bán hàng đa cấp bất chính được quy định tại
Luật Cạnh tranh năm 2004, còn được quy định tại Nghị định số 40/2018/NĐ-Chính
phủ về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp. Quy định này cấm
doanh nghiệp bán hàng đa cấp thực hiện một số hành vi như: cản trở người tham gia
trả lại hàng hoá phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, từ
chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay các lợi
ích kinh tế khác mà người tham gia có quyền hưởng.
2.1.2. Quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh
Bước 1. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh và phân công xử lý
37
Văn phòng Cục Quản lý cạnh tranh tiếp nhận hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh
tranh, vào sổ lưu và trình lên Cục trưởng (hoặc Phó Cục trưởng được phân công)
ngay trong ngày.
Hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh bao gồm:
- Đơn khiếu nại theo mẫu MĐ-1 hoặc MĐ-2 Ban hành kèm theo Quyết định
số 17/QĐ-QLCT của Cục Quản lý cạnh tranh ngày 04/07/2006;
- Chứng cứ về hành vi vi phạm.
Văn phòng Cục nhận lại hồ sơ sau khi có ý kiến của Cục trưởng (hoặc Phó
Cục trưởng được phân công) và chuyển về cho Ban điều tra và xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh xử lý theo phân công của lãnh đạo Cục Quản lý cạnh tranh.
Bước 2. Thụ lý hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Quản lý
cạnh tranh phải tiến hành kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ.
Trường hợp hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh chưa đáp ứng tính đầy đủ và
hợp pháp theo quy định, Cục Quản lý cạnh tranh sẽ thông báo cho bên khiếu nại bổ
sung. Thời hạn bổ sung hồ sơ khiếu nại là không quá 30 ngày; trong trường hợp đặc
biệt, Cục Quản lý cạnh tranh có thể gia hạn 1 lần không quá 15 ngày theo đề nghị
của bên khiếu nại.
Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đầy đủ, hợp lệ, Cục
Quản lý cạnh tranhphải thông báo ngay cho bên khiếu nại nộp tiền tạm ứng chi phí
xử lý vụ việc cạnh tranh trừ trường hợp bên khiếu nại thuộc trường hợp được miễn
nộp một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh, phí xử lý
vụ việc cạnh tranh.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Cục Quản lý
cạnh tranh, bên khiếu nại phải nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh.
Ngoại trừ các trường hợp được miễn nộp một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng chi
phí xử lý vụ việc cạnh tranh, phí xử lý vụ việc cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh
38
chỉ thụ lý hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh sau khi nhận được biên lai nộp tiền tạm
ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh.
Người tiêu dùng có thu nhập thấp được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
(sau đây gọi là cấp xã) hoặc cơ quan, tổ chức xã hội, nơi người đó cư trú hoặc làm
việc, chứng nhận thì có thể được Cục Quản lý cạnh tranh cho miễn nộp một phần
hoặc toàn bộ tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh, phí xử lý vụ việc cạnh
tranh.
Mức tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc khiếu nại về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là 03 triệu đồng.
Bước 3. Điều tra vụ việc cạnh tranh
Sau khi hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được thụ lý, Cục trưởng Cục
Quản lý cạnh tranh ra quyết định điều tra sơ bộ. Thời hạn điều tra sơ bộ là 30 ngày,
kể từ ngày có quyết định điều tra sơ bộ.
Căn cứ vào kết quả điều tra sơ bộ và kiến nghị của điều tra viên, Cục trưởng
Cục Quản lý cạnh tranh ra một trong các quyết định sau đây:
- Đình chỉ điều tra nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy không có hành vi vi
phạm quy định của Luật Cạnh tranh;
- Điều tra chính thức nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có dấu hiệu vi phạm
quy định của Luật Cạnh tranh.
Thời hạn điều tra chính thức vụ việc cạnh tranh không lành mạnh là 90 ngày,
kể từ ngày có quyết định điều tra; trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được
Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh gia hạn, nhưng không quá 60 ngày.
Việc gia hạn thời hạn điều tra phải được điều tra viên thông báo đến tất cả các
bên liên quan trong thời hạn chậm nhất là 07 ngày làm việc trước ngày hết hạn điều
tra. Trong quá trình tiến hành điều tra, nếu phát hiện vụ việc cạnh tranh có dấu hiệu
tội phạm, điều tra viên phải kiến nghị ngay với Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh
xem xét chuyển hồ sơ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
Bước 4. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
39
Sau khi kết thúc điều travụ việc cạnh tranh không lành mạnh, Cục trưởng Cục
Quản lý cạnh tranh ra quyết định xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Sau khi nhận được báo cáo điều tra và toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh tranh, Chủ
tịch Hội đồng cạnh tranh quyết định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ việc cạnh tranh, Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh phải ra một trong các quyết định sau:
- Mở phiên điều trần;
- Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
- Đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Trường hợp Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung, trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày có yêu cầu điều tra bổ sung bằng
văn bản của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh phải hoàn
thành điều tra bổ sung và chuyển báo cáo điều tra cùng toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh
tranh đến Hội đồng cạnh tranh.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh phải ra một trong ba quyết định nêu trên.
Trường hợp Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra quyết định mở phiên điều
trần, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh phải mở phiên điều trần. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh thông qua phiên điều trần. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
phải được gửi cho các bên liên quan trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày ký.
Bước 5. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
Trường hợp không nhất trí một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên có quyền khiếu
nại lên Hội đồng cạnh tranh.
Trường hợp không nhất trí một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh của Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh, các bên có quyền khiếu
40
nại lên Bộ trưởng Bộ Công Thương.
Sau khi nhận đơn khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, cơ quan đã
ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn
khiếu nại theo quy định tại Điều 108 của Luật Cạnh tranh trong thời hạn 05 ngày
làm việc.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đơn khiếu nại, cơ quan thụ lý đơn
khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có trách nhiệm xem xét đơn khiếu nại,
chuyển đơn khiếu nại kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh tranh và kiến nghị của
mình đối với đơn khiếu nại lên Hội đồng cạnh tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Công
Thương.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ khiếu nại, Hội đồng cạnh
tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Công Thương có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo
thẩm quyền; trường hợp đặc biệt phức tạp, thời hạn giải quyết khiếu nại có thể được
gia hạn, nhưng không quá 30 ngày.
Khi xem xét, giải quyết khiếu nại Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh có các quyền sau đây:
- Giữ nguyên quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu xét thấy việc khiếu nại
là không đủ căn cứ;
- Sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu quyết
định này không đúng pháp luật;
- Hủy quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và chuyển hồ sơ vụ việc cạnh tranh
cho Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh giải quyết lại trong các trường hợp sau đây:
Chứng cứ chưa được thu thập và xác minh đầy đủ;
Thành phần Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh không đúng quy định của Luật
Cạnh tranh hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về tố tụng cạnh tranh.
Khi xem xét, giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Cục
Quản lý cạnh tranh, Bộ trưởng Bộ Công Thương có các quyền sau đây:
41
- Giữ nguyên quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu xét thấy việc khiếu nại
là không đủ căn cứ;
- Sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu quyết
định này không đúng pháp luật;
- Hủy quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và yêu cầu Cục Quản lý cạnh tranh
giải quyết lại theo thủ tục quy định tại Luật Cạnh tranh trong trường hợp chứng cứ
chưa được thu thập và xác minh đầy đủ.
Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày ký.
Trường hợp không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối
với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại ra Toà án
Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền.
2.1.3. Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2.1.3.1. Chế tài hành chính
Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, các hình thức chế tài xử lý vi
phạm về cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là các chế tài hành chính, được quy
định trong các quy phạm pháp luật mang tính xử phạt và khắc phục hậu quả do hành
vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các hình thức xử lý đó đã được Nghị định
120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết, bao gồm:
- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 100 triệu đồng.
- Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu
được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
So với Luật cạnh tranh 2004, thì với Luật cạnh tranh 2018, mức phạt tiền tối
đa đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh là
2.000.000.000. Mức phạt tiền này áp dụng với hành vi vi phạm của tổ chức, đối với
42
cá nhân có cùng hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, mức phạt tiền tối đa bằng
một phần hai mức phạt tiền tối đa đối với tổ chức.
Ngoài các hình thức xử phạt nêu trên, đối tượng vi phạm còn có thể bị áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc cải chính công khai.
Đối với pháp luật của một số nước, việc xử lý các hành vi vi phạm về cạnh
tranh, chủ yếu quy định hình thức phạt tiền. Có thể thấy những quy định đó trong
pháp Luật Cạnh tranh của một số nước như: Luật Thương mại lành mạnh và những
quy định về độc quyền của Hàn Quốc năm 1980 (phạt tiền với mức không quá 2%
mức doanh thu của doanh nghiệp; trong trường hợp doanh thu không tồn tại thì mức
tiền phạt không quá 500 triệu won); Luật Cạnh tranh thương mại của Thái Lan năm
1999 (phạt tiền không quá 6 triệu baht đối với thương nhân có hành vi cạnh tranh
không tự do và không bình đẳng, gây thiệt hại, cản trở hoặc hạn chế hoạt động của
những thương nhân khác, ngăn chặn thương nhân khác hoạt động kinh doanh hoặc
buộc thương nhân khác phải kết thúc hoạt động kinh doanh; các trường hợp vi
phạm nhiều lần sẽ bị phạt gấp đôi; phạt tiền không quá 100.000 baht đối với người
thực hiện hành vi tiết lộ thông tin số liệu liên quan đến thương nhân hoặc hoạt động
của thương nhân). Quy định phạt tiền còn tìm thấy ở nhiều quy phạm pháp luật của
Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hoà liên bang Đức.
Ngoài hình thức phạt tiền, một số biện pháp chế tài khác cũng được áp dụng
với người vi phạm như: phải tạm hoãn, đình chỉ hoặc điều chỉnh lại các hoạt động
(trong Luật Cạnh tranh thương mại của Thái Lan); chấm dứt hành vi vi phạm, khôi
phục lại tình trạng như khi chưa có hành vi vi phạm (trong Luật Cạnh tranh của Thổ
Nhĩ Kỳ); đình chỉ hành vi, bỏ những điều khoản có liên quan đến hành vi cạnh tranh
không lành mạnh khỏi hợp đồng, đưa ra thông báo điều chỉnh hoạt về hoạt động
quảng cáo vi phạm, công bố công khai đã có hành vi vi phạm (trong Luật Thương
mại lành mạnh và những quy định về độc quyền của Hàn Quốc).
Có thể thấy, các biện pháp chế tài hành chính xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh của pháp luật Việt Nam cũng có những nét tương đồng với pháp
Luật Cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới. Các biện pháp chế tài đó đã tác động
43
trực tiếp vào lợi ích và uy tín của các doanh nghiệp, góp phần răn đe, phòng ngừa
các chủ thể kinh doanh có ý định thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh để
thu lợi bất chính. Tuy nhiên, hình thức, mức độ áp dụng cụ thể đối với từng hành vi
vi phạm là có sự khác nhau trong các pháp luật của mỗi nước.
2.1.3.2. Chế tài hình sự
Mặc dù các quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm được quy định trong Luật
Cạnh tranh năm 2004 không có chế tài hình sự. Tuy nhiên, nếu hành vi cạnh tranh
không lành mạnh có cấu thành tội phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật
Hình sự.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật đối với các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh được quy định tại Chương VIII "Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017. Các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh được biểu hiện dưới các tội danh như: Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả (Điều 192); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 193); tội sản xuất, buôn bán hàng
giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195); Tội lừa dối khách hàng (Điều 198); Tội vi
phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217);…
Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo
không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất
nặng như tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp
tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định. Qua đó cho thấy, pháp Luật Cạnh tranh được sự hỗ
trợ của các quy phạm pháp luật thuộc một số ngành liên quan đến việc áp dụng chế
tài như pháp luật hành chính, dân sự, hình sự và các quy phạm về tố tụng.
2.1.3.3. Chế tài dân sự
Luật Cạnh tranh năm 2004 có quy định việc xử lý vi phạm pháp luật về cạnh
tranh, bao gồm cả xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Mục 8, Chương
V. Nhưng các quy định đó chủ yếu được điều chỉnh bằng mệnh lệnh hành chính.
44
Vấn đề bồi thường dân sự không được quy định cụ thể mà chỉ viện dẫn: "Tổ chức,
cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật" (Điều 117). Như vậy, khi áp dụng chế tài bồi
thường thiệt hại, phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự.
Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, tại Chương XXI của Bộ luật Dân sự năm 2015 và pháp luật có liên
quan. Một trong những đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là luôn
gây thiệt hại nhất định cho đối thủ cạnh tranh. Do đó, bên bị thiệt hại luôn có quyền
được đòi bồi thường nếu có đủ căn cứ để chứng minh lỗi của bên kia và thiệt hại do
họ gây ra. Căn cứ của việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại cũng chính là các
căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhưng lưu ý
việc xác định thiệt hại. Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được
pháp luật thừa nhận, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh.
Vì vậy, chế tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác.
2.2. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam
Dưới đây xét thực trạng một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh phổ
biến tại Việt Nam trong những năm gần đây:
2.2.1. Hành vi bán giá thấp nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Ở các nước phát triển, hành vi bán giá thấp nhằm cạnh tranh không lành
mạnh nhằm phá giá thị trường hay lôi kéo khách hàng có xu hướng giảm dần hoặc
chuyển sang các hình thức khác tinh vi hơn. Trong những năm gần đây, hành vi này
vẫn tồn tại công khai, phổ biến tại Việt Nam và trở thành công cụ phổ hữu hiệu của
các hãng nước ngoài để thâu tóm thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp nước
ngoài khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam họ có lợi thế hơn về tài chính, kinh
nghiệm, cơ sở khoa học kỹ thuật, do đó, việc bán phá giá giúp họ giành dược những
lợi thế lớn trên thị trường. Có thể kể đến những cuộc chiến về giá trong ngành nước
giải khát như Coca-Cola và Pepsi với Mekofood hay Tribeco của Việt Nam.
45
Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam hiện nay đang tồn tại tình trạng hàng
Trung Quốc ồ ạt. Theo báo cáo của Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS)
năm 2016, Trung Quốc chiếm 31,8% tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam. Hàng
Trung Quốc có giá rẻ, đa dạng về mẫu mã sản phẩm hơn nhiều so với hàng hóa sản
xuất trong nước, gây ra nhiều khó khăn cho các nhà sản xuất Việt Nam. Thậm chí
có nhiều ngành hàng của Việt Nam như ngành may mặc, hàng Trung Quốc chiếm
đến gần 60% thị phần. Đây là một vấn đề đáng kể tác động xấu đến sự ổn định và
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua và tạo ra thách thức trong
việc điều hành chính sách ( Bùi Thị Minh Nguyệt, Trần Văn Hùng, Lê Thị Mai
Hương (2016), Thương mại Việt Nam – Trung Quốc thực trạng và giải pháp, Tạp
chí Khoa học và công nghệ lâm nghiệp số 02/2016).
Trong cơ chế kinh tế thị trường, cung – cầu hàng hóa trên thị trường quyết
định mức giá của sản phẩm. Khi thị trường có nhiều hàng hóa nhập khẩu hay liên
doanh sản xuất bán với giá thấp làm điêu đứng các nhà sản xuất trong nước, người
ta bắt đầu lên tiếng về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh. Trọng tâm của khái
niệm bán giá thấp là khi giá xuất khẩu thấp hơn giá của hàng hóa đó trong thị
trường nội địa nước xuất khẩu. Có thể kể đến trường hợp của Coca-Cola, một lon
Coca-Cola ở thị trường Mỹ có giá là 75 cent (tương đương với 13.000đ), một lon
Coca-Cola bán tại thị trường Việt Nam có giá 7.000đ (tương đương với 38 cent),
thấp hơn 37 cent tại thị trường Mỹ.
2.2.2. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Bên cạnh hình thức bán giá thấp, khuyến mại cũng là một chiến lược cạnh
tranh được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Đây là một hình thức thu hút khách hàng
và đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam vẫn tồn tại
nhiều hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Hành vi khuyến mại gian dối về giải thưởng là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh xuất hiện khá nhiều ở Việt Nam. Một ví dụ cụ thể là chương trình
khuyến mại “Uống bia Tiger có cơ hội trung một trong năm chuyến du lịch Thái
Lan hay một trong mười tivi Samsung”, song nhà sản xuất lại không hề công bố
thông tin người trúng giải. Năm 2006, LG tung ra chương trình khuyến mại “Đầu
46
năm thắng lớn với LG” với những giải thưởng vô cùng giá trị. Tuy nhiên tại buổi lễ
bốc thăm trúng thưởng, doanh nghiệp này bị phát hiện gian dối trong các thùng
phiếu, trong các thùng phiếu chỉ có số từ 1 trở xuống, trong khi rất nhiều người có
phiếu từ 200 trở lên. Đây cũng là hành vi phân biệt đối xử giữa các khách hàng,
không đảm bảo sự bình đẳng và cơ hội hưởng lợi ích kinh tế dành cho mọi người
tham gia trong cùng một chương trình khuyến mại. ( Hùng Sơn (2006), LG gian dối
trong khuyến mãi rút thăm trúng thưởng, https://dantri.com.vn/xa-hoi/lg-gian-doi-
trong-khuyen-mai-rut-tham-trung-thuong-1144412924.htm. )
Hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách
hàng đổi hàng hóa cùng loại mà doanh nghiệp khác đang sản xuất mà khách hàng
đang sử dụng có thể kể đến chương trình quảng cáo nhãn hiệu nước tương Tam thái
tử năm 2008 “đổi chai nước tương dở của bất kỳ nhãn hiệu nào khác lấy chai nước
tương Tam thái tử chất lượng cao”. Ngoài ra, quảng cáo này cũng vi phạm Điều 3
của Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp
khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây
ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đó.
Một số trường hợp khác, sản phẩm được khuyến mại có chất lượng kém hơn
so với ban đầu hoặc giá trị sản phẩm đã được phóng đại lên. Có nhiều trường hợp
đã phát hiện, doanh nghiệp tự tăng giá sản phẩm lên rồi đưa ra các chương trình
khuyến mại giảm giá 50 – 70% nhằm thu hút khách hàng. Thực chất khách hàng
chẳng được hưởng lợi từ những chương trình khuyến mại như vậy mà nhiều trường
hợp còn phải bỏ tiền ra mua một sản phẩm khác bởi thực chất những mặt hàng miễn
phí không phải những thứ cho không mà chất lượng cũng chưa chắc đảm bảo.
2.2.3. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Các hành vi quảng cáo gian dối, quảng cáo quá lố về quy cách, phẩm chất
của sản phẩm diễn ra khá phổ biến tại Việt Nam. Năm 2011, về công dụng sản
phẩm. Đó là quảng cáo dòng máy giặt cửa trên T-Drive của Electrolux được quảng
cáo quá lố như: “Hiệu suất cao nhất có thể đạt được”, “Hiệu suất giặt sạch hơn
35%”, “Chương trình xả tiết kiệm 50%”, “Chống để lại các nếp nhăn trên quần áo”,
47
“Chống để lại các vết cặn bẩn trên quần áo khi khô”. Những quảng cáo khôn trung
thực, không kiểm chứng về chức năng của các loại dược phẩm khá phổ biến như
thực phẩm chức năng Mega-T giúp giảm cân, chống béo phì trong vòng một tháng
mà không gây bất kỳ tác dụng phụ nào,…( Đất Việt (2011), Electrolux VN bị phạt
vì quảng cáo “lố”, http://baomoi.com/electrolux-vn-bi-phat-vi-quang-cao-
lo/c/7181452.epi. )
Quảng cáo so sánh nhằm hạ thấp danh tiếng sản phẩm, dịch vụ của đối thủ
cạnh tranh để nâng cao sản phẩm, dịch vụ của mình thường xảy ra với những sản
phẩm có thương hiệu. Nhà mạng Viettel không ít lần bị tố giác vì đăng tin quảng
cáo cho dịch vụ viễn thông của mình trong đó có bảng so sánh với giá cước dịch vụ
của VNPT để khách hàng thấy được ưu điểm dịch vụ của mình.Năm 2011, quảng
cáo mì gói Tiến Vua bò cải chua của Công ty Masan đã đưa thông tin về màu của
sản phẩm để so sánh gây nhầm lẫn cho khách hàng. Đoạn quảng cáo này ngầm cho
rằng, những sản phẩm mì gói có vắt mì sậm màu là có chứa chất độc hại. Quảng cáo
này đã làm cho nhiều sản phẩm mì gói khác có vắt mì màu sạm bị tẩy chay vì hiểu
lầm là những sản phẩm gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng ( Như Bình
(2011), Acecook khiếu nại quảng cáo mì gói Tiến Vua gây nhầm lẫn,
http://giaoduc.net.vn/Kinh-te/Thi-truong/Acecook-khieu-nai-quang-cao-mi-goi-
Tien-Vua-gay-nham-lan-post6028.gd. )
Một hình thức khác là người quảng cáo cố tình đưa những thông tin gây
nhầm lẫn về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm. Tập đoàn Sunhouse sử dụng slogan
"Thương hiệu gia dụng hàng đầu đến từ Hàn Quốc" hoặc "Đồ gia dụng hàng đầu
đến từ Hàn Quốc" để quảng cáo cho các sản phẩm đồ gia dụng mang nhãn hiệu
Sunhouse. Điều này gây nhầm lẫn cho người tiêu ùng về sản phẩm Sunhouse được
sản xuất tại Hàn Quốc, song thực tế các sản phẩm này đa phần đều được sản xuất tại
Việt Nam. Hay trường hợp nhãn hiệu trà xanh O0 của Tân Hiệp Phát đã được đăng
ký nhưng trên thị trường lại xuất hiện những quảng cáo sản phẩm trà xanh O2 làm
khách hàng dễ nhầm lẫn đây là sản phẩm của Tân Hiệp Phát.
48
2.2.4. Gièm pha đối thủ cạnh tranh
Hành vi này được thực hiện bằng cách tung ra các thông tin không có thật
nhằm hạ thấp uy tín của đối thủ cạnh tranh. Năm 2012, Công ty Cổ phần ắc quy
Miền Nam (PINACO) đã có văn bản gửi nhà phân phối/đại lý ắc quy PINACO với
nội dung gièm pha đối thủ cạnh tranh của mình là Công ty TNHH Eni-Florence Việt
Nam. Theo Công ty TNHH Eni-Florence Việt Nam, trong công văn 92 của
PINACO có những nội dung xuyên tạc, nói xấu về hoạt động kinh doanh của Công
ty TNHH Eni-Florence Việt Nam và ngăn cản các nhà phân phối, các đại lý tiếp cận
với sản phẩm ắc quy Enimac (VOV online (2013), PINACO phản hồi về cáo buộc
vi phạm Luật cạnh tranh, http://vietbao.vn/Kinh-te/PINACO-phan-hoi-ve-cao-buoc-
vi-pham-Luat-canh-tranh/181249937/87. )
Chuyện các nhân viên bán hàng hay tiếp thị nói xấu sản phẩm khác để lấy
lòng khách hàng khi đi chào hàng cũng được xem là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Kiểu nói xấu này phổ biến đến mức nó trở thành công cụ của các nhân viên
kinh doanh. Tuy nhiên để xử lý những trường hợp này tại Việt Nam gặp rất nhiều
khó khăn bởi việc tìm ra chứng cứ việc nói xấu, bôi nhọ gây tổn hại đến việc kinh
doanh của công ty bị nói xấu không hề dễ dàng. Hơn nữa việc theo đuổi khiếu kiện
rất mất thời gian, công sức do đó các công ty rất ngại theo đuổi các vụ kiện này.
2.2.5. Ép buộc khách hàng
Đây là hành vi mà doanh nghiệp dồn khách hàng tình thế bắt buộc phải mua
hoặc mua mà không có sự lựa chọn nào khác. Năm 2009, rất nhiều khách hàng sử
dụng mạng Sphone cảm thấy rất phiền toái vì chiêu “khuyến mại” để ép khách hàng
sử dụng dịch vụ giá trị gia tăng. Những thuê bao hai chiều của Sphone nhận được
tin nhắn “bạn có 7 ngày dùng thử dịch vụ CLR” hay “bạn có 7 ngày dùng miễn phí
dịch vụ CK” trong khi khách hàng không hề có nhu cầu sử dụng dịch vụ này. Nếu
muốn hủy dịch vụ phải nhắn tin hủy và mất 300đ/tin. Vậy nếu tính mỗi khách hàng
mất 600đ/2 tin nhắn hủy, với số lượng hàng triệu khách hàng thì số tiền Sphone thu
về không hề nhỏ. Và nếu khách hàng không nhắn tin hủy thì sau 7 ngày dùng thử
dịch vụ này sẽ tự động gia hạn.
49
Năm 2007, Tập đoàn điện lực Việt Nam thành lập Công ty viễn thông EVN
Telecom. Sau đó không lâu, Tập đoàn này ra công văn yêu cầu tất cả các nhân viên
của mình đang sử dụng dịch vụ viễn thông của đơn vị khác phải chuyển sang sử
dụng dịch vụ của tập đoàn và đây là cơ sở trong xem xét, đề bạt, khen thưởng cán
bộ. Không sử dụng dịch vụ viễn thông này thì nhân viên bị đánh giá là thiếu tinh
thần trách nhiệm. Đây là hình thức ép buộc khách hàng và đem lại những hệ quả
không tốt cho doanh nghiệp. Thực tế là sau 5 năm hoạt động không hiệu quả, đến
năm 2012 thì Công ty này đã sáp nhập vào Viettel ( Khánh Hưng (2007), EVN cải
chính việc “ép” dùng điện thoại “cây nhà lá vườn”, http://congnghe.tuoitre.vn/evn-
cai-chinh-viec-ep-dung-dien-thoai-cay-nha-la-vuon-152606.htm. )
2.2.6. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Doanh nghiệp, cá nhân có hành vi trực tiếp, gián tiếp làm gián đoạn hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khác được gọi là hành vi gây rối hoạt động của
doanh nghiệp khác, Hoạt động này khá phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh thương
mại – bắt đầu triển khai rộng rãi vào thị trường Việt Nam từ năm 2006. Các phương
thức được coi là tội phạm công nghệ cao như lừa đảo trong các giao dịch trực tuyến,
ỉa mạo thẻ ATM, phát tán virus, phát tán thư rác, ăn cắp mật khẩu,… Các hành vi
phá hoại này đã làm gián đoạn hoặc phá hủy hoàn toàn cấu trúc dữ liệu của website,
dẫn đến thiệt hại vật chất và uy tín của doanh nghiệp.
Một vụ việc cạnh tranh không lành mạnh bằng cách gây rối loạn hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp khác là vụ của hãng taxi Tân Hoàng Minh. Công ty
này bị đối tượng sử dụng thiết bị thu phát sóng cùng tần số làm nhiễu tín hiệu liên
lạc tổng đài của hãng này trong giờ cao điểm, gây thiệt hại lớn cho hãng này.
Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh sử dụng công nghệ cao thường rất tinh
vi và khó phát hiện. Những hành vi này không chỉ gây thiệt hại kinh tế cho các công
ty mà còn mất nhiều thời gian để tìm ra và khắc phục hậu quả của nó.
2.2.7. Bán hàng đa cấp bất chính
Bán hàng đa cấp hay tiếp thị đa cấp là hình thức bán lẻ đã xuất hiện ở Việt
Nam vào đầu những năm 2000 và có tốc độ phát triển rất nhanh. Theo Cục Cạnh
tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, năm 2017 cả nước có 34 doanh nghiệp có giấy
50
chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, 707.330 người tham gia bán hàng
đa cấp, tổng doanh thu bán hàng đa cấp đạt khoảng 8.000 tỷ đồng. Doanh thu bán
hàng đa cấp chủ yếu đến từ thực phẩm chức năng (71%), và mỹ phẩm (23%).
Doanh thu từ đồ gia dụng, quần áo thời trang, thiết bị và mặt hàng khác chiếm
khoảng 6%.
Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp bán hàng đa cấp kinh doanh hợp
pháp, minh bạch thì thị trường Việt Nam hiện nay xuất hiện rất nhiều các tổ chức,
cá nhân có hoạt động kinh doanh đa cấp bất chính. Kinh doanh đa cấp bất chính là
một mô hình gồm nhiều tầng, trong đó người tham gia có quyền tuyển dụng thêm
người mới vào mạng lưới và được hưởng hoa hồng. Tuy nhiên, hoa hồng được nhận
không phải do doanh số của việc bán hàng mà chủ yếu là từ việc tuyển người mới
tham gia vào mạng lưới và lấy tiền của người mới tham gia đóng vào để chi trả hoa
hồng cho những người ở tầng trên. Rất nhiều công ty kinh doanh đa cấp bất chính ở
Việt Nam đã bị phát hiện, cá biệt có những vụ công ty đa cấp bất chính lừa đảo số
tiền lên tới 1.000 tỷ đồng như Công ty CP Liên Kết sản xuất thương mại Việt Nam -
Liên Kết Việt mới xét xử năm 2018.
2.2.8. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp
Đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khá phổ biến tại Việt Nam nhất
là khi thực hiện mở cửa nền kinh tế. Cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
tồn tại dưới nhiều hình thức như hàng giả, hàng nhái, chỉ dẫn thương mại gây nhầm
lẫn. Nhãn hiệu là một tài sản vô cùng giá trị của doanh nghiệp, bởi vì khi nhắc đến
nhãn hiệu thì người tiêu dùng sẽ nhớ đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Việc
làm hàng giả, hàng nhái lấy nhãn hiệu của các thương hiệu nổi tiếng ở Việt Nam đã
tồn tại nhiều năm nhưng chưa được giải quyết dứt điểm. Điều này kiến các doanh
nghiệp chịu những tổn thất về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến uy tín của doanh
nghiệp lâu dài. Theo Tổng cục Quản lý thị trường năm 2017 và 9 tháng năm 2018,
lực lượng Quản lý thị trường đã phát hiện 34.733 vụ vi phạm, xử phạt vi phạm hành
chính trên 121,3 tỷ đồng, trị giá hàng vi phạm hơn 907 tỷ đồng. Trong đó, hàng hóa
giả về chất lượng, công dụng 458 vụ vi phạm; hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý,
nhãn hiệu, bao bì 6.154 vụ; 690 vụ vi phạm tem nhãn, bao bì hang hoá giả; 1.064 vụ
51
vi phạm về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; 26.367 vụ vi phạm về nhãn hiệu ( Tổng
cục quản lý thị trường – Bộ Công thương (2018), Hội thảo “thực trạng hàng giả,
hàng nhái tại Việt Nam – Nguy cơ, thách thức và giải pháp, Hà Nội ).
2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại
Việt Nam
2.3.1. Kết quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt
Nam
Cục Quản lý cạnh tranh
Trong những năm gần đây, mỗi năm Cục Quản lý cạnh tranh đã tiến hành
điều tra và xử lý nhiều vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh
với sự gia tăng mạnh trong các năm 2010 - 2013. Trong số các vụ việc cạnh tranh
không lành mạnh đã được Cục Quản lý cạnh tranh xử lý có các vụ việc liên quan
đến vi phạm về bán hàng đa cấp bất chính chiếm, các vụ việc liên quan đến hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, các vụ việc liên quan đến hành vi gây
rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, các vụ việc về gièm pha doanh
100
89
90
80
68
70
60
45
50
43
40
30
22
19
18
16
15
20
14
8
10
2
0
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Vụ việc
nghiệp khác và các vụ việc liên quan đến hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Hình 2.1. Số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do Cục Quản lý cạnh tranh
tiếp nhận qua các năm 2006 – 2017
Nguồn: Báo cáo thường niên Cục Quản lý cạnh tranh năm 2017
52
Bên cạnh các vụ việc được xử lý thông qua tố tụng cạnh tranh, Cục còn tiếp
nhận, xem xét và cho ý kiến hướng dẫn, tư vấn về pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thông qua các thủ tục hành
chính thông thường.
Các cơ quan khác
Trong năm 2017, theo thống kê của Cục Quản lý cạnh tranh từ thông tin các
cơ quan hữu quan cung cấp, thực tiễn xử lý các vụ việc liên quan như sau:
- Trong năm 2017, theo thông tin từ Cục Sở hữu trí tuệ, cơ quan này đã đánh
giá và cho ý kiến chuyên môn về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ căn cứ theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức liên quan. Cần lưu
ý, Cục Sở hữu trí tuệ là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tuy
nhiên cơ quan này không có chức năng xử lý vi phạm. Do đó, căn cứ vào kết luận
về chuyên môn của Cục Sở hữu trí tuệ, các bên liên quan có thể thực hiện khiếu nại
theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện ra toà án để bảo vệ quyền lợi của mình.
- Thanh tra khoa học công nghệ: Theo thông tin từ phía Thanh tra Bộ Khoa
học Công nghệ, hoạt động của cơ quan này trong thời gian vừa qua tập trung vào
các hành vi xâm phạm quyền, số lượng vụ việc cạnh tranh không lành mạnh không
nhiều. Một trong những nguyên nhân dẫn đến số lượng vụ việc hạn chế là do thủ tục
khiếu nại theo pháp luật về sở hữu trí tuệ có nhiều điểm phức tạp khiến việc thực
hiện gặp khó khăn. Cụ thể trong năm 2017, Thanh tra Bộ KHCN mới chỉ tiếp nhận
03 vụ việc khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh. Thanh tra các Sở Khoa học
Công nghệ tại địa phương cũng có tiếp nhận và xem xét một số vụ việc khiếu nại về
cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên do quy định về thủ tục giải quyết còn chưa
rõ ràng nên chưa xử lý vụ việc nào trong thực tiễn.
- Lực lượng Quản lý thị trường: Đây là lực lượng chịu trách nhiệm chính
trong việc kiểm tra và xử lý gian lận thương mại và các vi phạm khác trong hoạt
động thương mại trên thị trường. Trong năm 2017, số lượng vụ việc do lực lượng
quản lý thị trường xử lý rất lớn, tuy nhiên chủ yếu tập trung vào các vi phạm về
53
hàng giả, hàng lậu và một số ít vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
2.3.2. Những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh tại Việt Nam
Thứ nhất, chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn lỏng lẻo,
mức xử phạt đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn thấp, chưa đủ sức
răn đe.
Theo quy định của Nghị định 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh, mức phạt tiền cao nhất đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh cũng chỉ là 100 triệu đồng. Ngoài ra, có thể áp dụng một số hình
thức phạt bổ sung khác hoặc biện pháp khắc phục hậu quả.
Như vậy, so với những khoản thu được từ thực hiện hành vi cạnh tranh
không lành mạnh thì mức phạt đó không đáng kể. Nhiều doanh nghiệp vẫn sẵn sàng
chịu phạt để thực hiện hành vi chơi xấu đối thủ cạnh tranh. Nếu so sánh giữa mức
tiền phạt mà doanh nghiệp phải chịu so với những thiệt hại mà doanh nghiệp đó gây
ra cho các doanh nghiệp khác, cho người tiêu dùng và xã hội thì vẫn chưa thỏa đáng.
Những năm gần đây, tình trạng sản xuất và lưu thông hàng giả, vi phạm bản
quyền, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, nguồn gốc xuất xứ… có
xu hướng tăng, đặc biệt là tình trạng hàng giả nhập từ nước ngoài vào Việt Nam.
Vấn nạn hàng giả, hàng nhái đó khó có thể giải quyết được vì sự chồng chéo, thiếu
đồng bộ từ chính sách phòng chống và các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo.
Pháp luật quy định làm hàng giả thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng
định nghĩa thế nào là hàng giả cũng chưa hoàn toàn thống nhất. Chế tài xử lý thiếu
nghiêm khắc đã vô hình hậu thuẫn cho các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
cạnh tranh.
Tại Mỹ, các vi phạm nhãn hiệu hàng hoá có thể bị phạt tới 2 triệu USD và
phạt tù từ 5 đến 10 năm, ăn cắp bí mật thương mại có thể bị phạt tới 5 triệu USD và
10 năm tù… Trong khi tại Việt Nam, các vi phạm chỉ mới dừng lại ở mức phạt hành
54
chính, chế tài chưa đủ sức răn đe, vấn đề bồi thường thiệt hại và các khía cạnh hình
sự, dân sự khác cũng rất khó xử lý. Tình trạng hành chính hoá các vi phạm về cạnh
tranh đã làm giảm hiệu quả phòng chống tội phạm trong lĩnh vực này.
Thứ hai, hiệu quả thực thi pháp Luật Cạnh tranh còn thấp.
Luật Cạnh tranh có nhiều quy định thiếu rõ ràng cả về đối tượng, phạm vi áp
dụng, đến việc chứng minh yếu tố lỗi, xác định thiệt hại, phân định ranh giới với
các lĩnh vực pháp luật khác, có nhiều quy định chưa định lượng được nên còn gặp
phải khó khăn cho các cơ quan chức năng trong quá trình xử lý. Sự trùng lặp các
quy định về cạnh tranh không lành mạnh ở những lĩnh vực pháp luật khác nhau,
tình trạng chồng lấn thẩm quyền, thiếu khả năng hợp tác hiệu quả của các cơ quan
thực thi trong khi luật nội dung chưa rõ ràng, cụ thể đã gây khó khăn cho quá trình
triển khai thực hiện pháp luật.
Cách thức giải quyết đối với các hành vi vi phạm chưa thật sự kiên quyết và
triệt để. Thực tế, cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên thị trường Việt Nam
không phải là ít, nhưng hầu hết các vụ việc đều được giải quyết bằng con đường
thương lượng, hoà giải. Nếu quan hệ cạnh tranh không lành mạnh xảy ra giữa một
bên là doanh nghiệp lớn hay một tập đoàn kinh tế với bên kia là người tiêu dùng còn
có sự hạn chế về hiểu biết pháp luật, kinh doanh thì rõ ràng người tiêu dùng luôn ở
vào vị trí yếu thế. Cách thức xử lý chưa kiên quyết và triệt để đó đã không động
viên, khích lệ được người tiêu dùng và các doanh nghiệp có quyền lợi bị xâm hại
quyết tâm đấu tranh để bảo vệ công lý. Cơ chế giải quyết bằng thương lượng, hoà
giải đã khiến cho nhiều doanh nghiệp bị xâm hại và người tiêu dùng nản chí, thậm
chí thờ ơ và có tâm lý ngại tìm đến cơ quan có thẩm quyền khi có cạnh tranh không
lành mạnh xảy ra.
Mặc dù, Luật Cạnh tranh vẫn quy định quyền khiếu nại của các tổ chức, cá
nhân: Nếu cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi
phạm quy định của Luật Cạnh tranh thì có quyền khiếu nại đến cơ quan quản lý
cạnh tranh (Khoản 1, Điều 58), nhưng pháp luật lại chưa có cơ chế đảm bảo cho
người khiếu nại thực hiện quyền này một cách đầy đủ. Nếu người bị xâm hại là cá
55
nhân thì việc khiếu nại, khiếu kiện rất ít khi đượcthực hiện, nhất là sự khó khăn về
kinh phí. Nếu thất bại trong vụ kiện, người khiếu nại sẽ phải chịu mức phí là
10.000.000 đồng (Điểm a, khoản 1, Điều 53 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP). Vì
vậy, dù có thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các doanh nghiệp vẫn có
cơ hội không bị truy cứu trước pháp luật, do tâm lý không kiên quyết đấu tranh của
người tiêu dùng.
Thứ ba, sự hiểu biết Luật Cạnh tranh trong cộng đồng vẫn còn hạn chế đã
làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống cạnh tranh không lành
mạnh
Luật Cạnh tranh đã ra đời và được áp dụng trong thực tế 13 năm, song không
phải doanh nghiệp nào cũng quan tâm tìm hiểu và nắm vững những quy định của
đạo luật này. Bản chất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh trên
thương trường để tồn tại và phát triển, thường xuyên thực hiện các hành vi khuyến
mại, quảng cáo, gia nhập các hiệp hội ngành nghề…, nhưng bản chất của các hành
vi đó như thế nào, những thủ tục về mặt pháp lý cần phải thực hiện ra sao thì không
ít doanh nghiệp còn lúng túng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi quyền lợi của doanh nghiệp bị xâm hại do các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh của doanh nghiệp khác gây ra, không phải doanh nghiệp nào cũng nhận
thức đúng để tự bảo vệ mình hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp, hoặc
nếu có tìm đến cơ quan chức năng thì các doanh nghiệp vẫn còn thiếu hiểu biết về
thủ tục, trình tự khiếu nại, khởi kiện. Thực tế đó cho thấy, công tác tuyên truyền,
phổ biến, giải thích pháp luật vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn kinh
doanh trên thị trường Việt Nam hiện nay.
Người tiêu dùng cũng là đối tượng bị xâm hại bởi các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh của các doanh nghiệp, nhưng họ thường có tâm lý ngại đấu tranh,
thờ ơ và chấp nhận thị trường. Tâm lý đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, mà trước
hết là nhận thức chưa đầy đủ về pháp Luật Cạnh tranhvà vị trí yếu thế của người
tiêu dùng trước các doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế. Trong khi đó, Hiệp hội bảo vệ
người tiêu dùng vẫn chưa phát huy hết vai trò của mình trong việc đấu tranh chống
56
lại những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trực tiếp gây nguy hại cho người tiêu
dùng. Vì chức năng bảo vệ người tiêu dùng của Hội chủ yếu được thực hiện thông
qua sự tác động đến đường lối, chính sách, thúc đẩy các cơ quan có thẩm quyền
hoặc khuyến khích người tiêu dùng có ý thức tự bảo vệ mình, mà không có thẩm
quyền về mặt Nhà nước, do đó chưa có những tác động mạnh mẽ đến tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp.
57
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH
VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
3.1. Những kinh nghiệm các nước trên thế giới cho việc xây dựng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Để tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài, tác giả lựa chọn các nước Châu Âu,
Liên bang Nga, Nhật Bản và Đài Loan. Lý do lựa chọn các nước Châu Âu vì Liên
minh Châu Âu là khởi nguồn của pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trên thế giới. Việc lựa chọn Liên bang Nga, Nhật Bản và Đài Loan vì đây là
những nước cùng thuộc khu vực Châu Á, có nền kinh tế phát triển nên pháp luật về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh được xây dựng bài bản và có hệ thống. Vì vậy,
những kinh nghiệm này là rất cần thiết cho Việt Nam.
3.1.1. Kinh nghiệm của các nước Châu Âu
Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thế giới xuất phát
từ các quốc gia trong khối Liên minh Châu Âu. Với đặc thù nền kinh tế đang phát
triển của nước ta, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội lột xác với sự hợp
tác kinh doanh với các tổ chức kinh tế nước ngoài đầu tư vào nước tangày càng gia
tăng cả số lượng và chất lượng dự án đầu tư. Việc học tập kinh nghiệm để xây dựng
một bộ quy chuẩn điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh choViệt Nam là
điều kiện cần phải tiếp cận.
Một là, điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần dựa trên nguyên
tắc chung hướng đến trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng và cụ thể hóa trách
nhiệm. Vấn đề đặt ra ở đây là, một chủ thể có hành vi cạnh tranh không lành mạnh
sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng vật chất sát với giá thịtrường, tương ứng
với mức độ gây thiệt hại đối với người tiêu dùng. Trong các quy định của pháp Luật
Cạnh tranh hiện hành, chế tài xử lý khi doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không
lành mạnh còn mang tính hình thức, mức phạt kinh tế rất nhẹ, chưa phù với tính
chất, mức độ vi phạm của hành vi mà chính doanh nghiệp gây ra với người tiêu
dùng. Điều này dẫn đến pháp Luật Cạnh tranh chưa thật sự góp phần bảo vệ người
58
bị hại, xử lý chưa triệt để những tác hại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
diễn ra mà người tiêu dùng phải gánh chịu.
Hai là, xác định vi phạm liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh
ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng, doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước đó
là “Gây nhầm lẫn; mạo nhận về nhãn hiệu và xâm phạm bí mật kinh doanh” trong
quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh hiện hành của nước
ta. Quy định tại Điều của Luật Cạnh tranh năm 2004, có 10 hành vi cạnh tranh
không lành mạnh của doanh nghiệp được liệt kê chưa khoa học. Do đó, kinh nghiệm
cho Việt Nam trong việc xác định hành vi cạnh tranh phải gắn liền với phạm vi điều
chỉnh để quy định khoa học hơn hợp với thực tiễn áp dụng thuận lợi hơn cho các
chủ thể tham gia kinh doanh, hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lời.
Ba là, xây dựng một luật riêng điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành
mạnh để luật hóa những hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình dựa trên quy
định bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, bảo vệ người tiêu dùng, làm cơ sở cho việc
thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh hiệu quả, đồng bộ hơn
trong thực tiễn ( Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật Cạnh tranh của Pháp và lien
minh châu Âu, NXB Tư pháp, Hà Nội ).
3.1.2. Kinh nghiệm của Liên bang Nga
Thứ nhất, trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật hiện
hành của Việt Nam, so sánh với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp
luật Liên bang Nga, có thể thấy các hành vi như bán hàng đa cấp bất chính hay phân
biệt đối xử của hiệp hội về bản chất những quy định này không thực sự đáp ứng các
dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và có thể được xem xét bỏ các
hành vi này khi tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Cạnh tranh.
Thứ hai, chế định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh vừa là công cụ
bổ sung vừa là công cụ độc lập nhằm khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm hại bởi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chủ thể có quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm hại có quyền lựa chọn phương thức khôi phục theo quy định của pháp
luật về bảo vệ cạnh tranh hoặc theo quy định của các văn bản pháp luật trong từng
59
lĩnh vực chuyên ngành cụ thể nếu hành vi xâm phạm được điều chỉnh trong cả loại
hình pháp luật này. Cũng như ở Liên bang Nga, hiện tại, trong pháp luật Việt Nam
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang có sự giao thoa giữa quy định liên
quan trong pháp Luật Cạnh tranh và pháp luật khác như pháp luật về giá, pháp luật
về quảng cáo, pháp luật về sở hữu trí tuệ. Có thể thấy trên thực tế, các chủ thể kinh
doanh rất khó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo các văn bản pháp
luật chuyên ngành, vì pháp luật trong từng lĩnh vực kinh doanh chưa quy định về
hành vi này nên chủ thể bị xâm hại thường có thể sử dụng quy định về cạnh tranh
không lành mạnh theo pháp Luật Cạnh tranh. Vấn đề cần giải quyết là có thể bổ
sung vào pháp Luật Cạnh tranh các quy định về hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng
hóa, kiểu dáng công nghiệp mang tính cạnh tranh vào nhóm hành vi vi phạm chỉ
dẫn gây nhầm lẫn; làm rõ các dấu hiệu nhận dạng đối với biểu tượng kinh doanh,
khẩu hiệu kinh doanh. Việc đưa ra một nguyên tắc chung, rõ ràng về cách áp dụng
pháp luật như kinh nghiệm của Liên bang Nga quy định về hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh trong quảng cáo hợp
nhất hóa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong một văn bản sẽ tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc áp dụng, điều chỉnh trongthực tiễn.
Ngoài ra, có thể quy định cụ thể các yếu tố nhận dạng của hành vi gièm pha
doanh nghiệp khác để từ đó có cơ sở phân định rõ ranh giới giữa quyền tự do ngôn
luận, tự do phê bình với hành vi gièm pha doanh nghiệp khác và có thể bổ sung quy
định về bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm cạnh
tranh không lành mạnh vào nhóm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm
theo pháp Luật Cạnh tranh.
Thứ ba, trong tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh, mặc dù Luật Cạnh tranh
năm 2004 đã xây dựng về cơ bản cơ chế và hệ thống cơ quan thực thi nhưng việc tổ
chức và vận hành chúng trong thực tiễn còn nhiều vấn đề cần giải quyết, cơ chế
phân chia thẩm quyền giữa Hội đồng cạnh tranh và Cơ quan quản lý cạnh tranh còn
nhiều điểm bất hợp lý. Trong một vụ việc về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, cơ quan có thẩm quyền xử lý là Hội đồng cạnh tranh song gần như tất cả
các hoạt động tố tụng đều do Cơ quan quản lý cạnh tranh tiến hành. Theo Điều 3
60
Nghị định 05/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006, Hội đồng cạnh tranh có thẩm quyền tổ
chức xử lý vụviệc cạnh tranh, ra quyết định xử lý vụ việc, giải quyết khiếu nại đối
với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh. Như vậy, dù là
cơ quan có thẩm quyền cao nhất nhưng kết quả xử lý vụ việc của Hội đồng cạnh
tranh gần như lệ thuộc vào kết quả hoạt động tố tụng trước đó của cơ quan quản lý
cạnh tranh. Rõ ràng cách thiết kế phân quyền theo quy định hiện hành đảm bảo sự
chuyên môn hoá cao độnhưng có thể làm mờ nhạt vai trò của Hội đồng cạnh tranh
là cơ quan xử lý vụ việc ( Phạm Trí Hùng (2012), Pháp luật cạnh tranh Liên bang
Nga và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Đề tài NCKH cấp trường,
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh ).
Từ các phân tích về quy định của pháp Luật Cạnh tranh Liên bang Nga về cơ
quan quản lý cạnh tranh nêu trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam:
- Lĩnh vực quản lý cạnh tranh rất rộng, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực
hoạt động kinh tế của một quốc gia: từ sản xuất cho đến cung cấp các dịch vụ, tài
chính,… Việc tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh cần tính hết đặc thù của các lĩnh
vực để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động của cơ quan này, nhất là tránh việc thay
đổi cơ cấu, tổ chức nhiều lần làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động. Đồng thời, cơ
quan quản lý cạnh tranh không nhất thiết phải quản lý trực tiếp mọi hoạt động cạnh
tranh trong nền kinh tế.
- Cần xem xét thấu đáo các lĩnh vực đặc thù mà sự độc quyền ở đó có tính tự
nhiên, mặc dù bản chất thực của vấn đề chỉ tồn tại trong một giai đoạn nhất định
nhưng nếu thận trọng nghiên cứu để thực hiện việc quản lý cạnh tranh cho phù hợp
thì hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh sẽ được nâng cao hơn bao
giờ hết.
- Cạnh tranh và độc quyền là vấn đề mang tính liên ngành, có quan hệ với
hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Việc thực hiện quản lý lĩnh vực
này ở một Bộ sẽ có nhiều điểm hạn chế. Chính vì vậy, cần tính đến khả năng xây
61
dựng một cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền hạn cao, đủ để thực hiện chức năng
của mình, ví dụ như thiết lập cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Chính phủ.
- Hoạt động quản lý cạnh tranh đòi hỏi sự quản lý thống nhất từ trung ương
đến cơ sở để có sự hoạt động chặt chẽ, tránh sự tác động thái quá từ phía các cơ
quan quản lý chung ở địa phương. Để đảm bảo điều này, có thể trao quyền tối đa
cho người đứng đầu cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc được bổ nhiệm cấp
trưởng và cấp phó của cơ quan quản lý cạnh tranh ở địa phương.
- Cần có sự nghiên cứu sâu sắc và toàn diện các thị trường ở Việt Nam, xác
định các thị trường có tính ưu tiên nhằm xây dựng bộ máy hoạt động và các hướng
hoạt động ưu tiên nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu
phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam.
- Để đảm bảo thực hiện tốt chức năng của mình, cơ quan quản lý cạnh tranh
phải đặc biệt chú trọng nghiên cứu các vấn đề phát sinh từ hoạt động cạnh tranh,
nhất là khả năng thành lập các đơn vị nghiên cứu trực thuộc, ví dụ như Ủy ban phân
tích các thị trường hàng hóa hoạt động trên cơ sở thường xuyên của Cơ quan quản
lý cạnh tranh Liên bang Nga.
- Hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh cần được tổ chức sao cho có đủ
năng lực đấu tranh được với các hoạt động can thiệp có thể có của các cơ quan
quyền lực Nhà nước làm hạn chế hoặc loại bỏ cạnh tranh lành mạnh, chứ không chỉ
dừng lại ở hoạt động của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế.
3.1.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Đài Loan
Thứ nhất, hiện nay trong Luật Cạnh tranh hiện hành và các văn bản luật
chuyên ngành khác của Việt Nam chưa có khái niệm hành vi thương mại cạnh tranh
không lành mạnh. Thực tế hoạt động thương mại, các thương nhân có hành vi
thương mại khônglành mạnh làm ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển chung của thị
trường. Cần bổ sung và làm rõ khái niệm hành vi thương mại không lành mạnh
trong pháp Luật Cạnh tranh.
Thứ hai,ở Nhật Bản các văn bản luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không
lành mạnh phải căn cứ theo quy định của văn bản luật gốc của quốc gia là Luật
62
Cạnh tranh quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việt Nam nên học tập
kinh nghiệm của Nhật Bản hoàn thiện hơn hệ thống quy định về cạnh tranh không
lành mạnh tách nội dung hành vi không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh thành luật
chống cạnh tranh không lành mạnh và cần xây dựng một luật riêng về điều chỉnh
hành vi bán hàng đa cấp nhằm bảo vệ tốt hơn người tiêu dùng.
Thứ ba, loại bỏ hành vi bán hàng đa cấp bất chính trong quy định về cạnh
tranh không lành mạnh của pháp Luật Cạnh tranh của Việt Nam. Theo quy định của
pháp luật Đài Loan hành vi này là của doanh nghiệp với người tham gia, nó thể hiện
giao dịch bằng hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên không thuộc đối tượng, phạm vi
điều chỉnh của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. So sánh với những hành vi bán
hàng đa cấp bất chính quy định trong Luật Cạnh tranh của Việt Nam, tác giả nhận
thấy nó không thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh.
Thứ tư, xác định rõ thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh chuyên trách
xử lý chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh để quản lý Nhà nước có hiệu quả
hơn. Trong quy định của pháp Luật Cạnh tranh hiện hành của nước ta có quy định
Cục Quản lý cạnh tranh với rất nhiều chức năng, thẩm quyền giải quyết hành vi hạn
chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Quy định như vậy chưa thể hiện và
khó phát huy tác dụng giải quyết triệt để hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn
ra trên thương trường của cơ quan rất quan trọng này. Trong pháp luật của Đài Loan
việc quản lý Nhà nước về hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc về cơ quan
chuyên trách chỉ có chức năng riêng biệt quản lý xử lý những doanh nghiệp vi phạm
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó là Ủy ban Thương mại lành mạnh ( Thực
thi Luật Thương mại lành mạnh ở Đài Loan, các vụ điển hình, NXB Sự thật năm
2009 ).
Tóm lại, với đặc điểm nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chủ thể tham gia hoạt động kinh
doanh, thương mại là những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong điều kiện nước ta
đang tiến hành hội nhập toàn cầu hóa là hết sức cần thiết. Trong đó việc học tập
63
kinh nghiệm lập pháp điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ
quyền lợi ích của Nhà nước, các doanh nghiệp và người tiêu dùng của các nước có
nền kinh tế phát triển là điều cần thiết đối với các nhà lập pháp của Việt Nam.
3.2. Định hướng trong việc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về hành
vi cạnh tranh không lành mạnh
Việc hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh là nhu cầu
tất yếu của quá trình thực thi pháp luật, phát triển kinh tế thị trường nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Với đối tượng điều chỉnh chủ
yếu của các hành vi này là các quan hệ cạnh tranh trên thị trường, nó có đặc điểm
cơ bản là những quan hệ có sự vận động, sáng tạo không ngừng, Luật Cạnh tranh là
lĩnh vực pháp luật có khả năng bị lạc hậu nhanh so với thực tiễn khách quan. Bởi
vậy, nhu cầu hoàn thiện, bổ sung không ngừng các quy định của pháp Luật Cạnh
tranh nhất là cạnh tranh không lành mạnh luôn đặt ra đối với các quốc gia đã thừa
nhận pháp Luật Cạnh tranh là bộ phận không thể thiếu trong hành lang pháp luật
kinh doanh, trong đó Việt Nam cũng không nằm ngoài những ngoại lệ đó.
Thực chất, nhu cầu này không phản ánh năng lực xây dựng pháp luật mà đơn
giản chỉ là do sự đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển thị trường. Ngay cả khi các
quy định của pháp Luật Cạnh tranh chưa từng được áp dụng thì vấn để sửa đổi hay
hoàn thiện, bổ sung pháp luật hoàn toàn vẫn có thể được đặt ra. Trong điều kiện giai
đoạn phát triển hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh cần thiết phải được thực hiện dựa trên những nguyên tắc chủ đạo như sau:
Nguyên tắc thứ nhất, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh vẫn
cần duy trì trong trạng thái mở và liên kết với các lĩnh vực pháp luật quản lý kinh tế
chuyên sâu. Nguyên tắc này được hình thành từ thực tiễn thị trường và từ kinh
nghiệm lập pháp của các nước trên thế giới và khu vực.
Một là, thực tiễn thị trường đã và đang chứng minh rằng hành vi cạnh tranh
không lành mạnh luôn phát triển và xuất hiện kèm theo nhữngdạng mới. Cùng một
hành vi và cùng mục đích cạnh tranh không lành mạnh, các doanh nghiệp có thể tạo
nên rất nhiều biểu hiện khác nhau làm cho sự mô tả chặt chẽ cấu thành pháp lý
64
trong các quy định nhanh chóng trở nên lạc hậu. Mặt khác, đặc thù của từng lĩnh
vực kinh doanh của các chủ thể có ảnh hưởng đáng kể đến biểu hiện về hình thức và
tính chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các lĩnh vực kinh tế khác nhau
có thể có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác nhau. Ví dụ trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ có những hành vi đặc trưng như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, cạnh tranh
không lành mạnh trong sở hữu tên miền…; lĩnh vực quảng cáo có những hành vi
đặc thù như quảng cáo so sánh, quảng cáo gian dối…. Đặc thù của từng lĩnh vực
kinh doanh đòi hỏi phương thức nhận dạng hành vi khác nhau và cách thức đánh giá
mức độ gây hại, mức độ bất chính của các hành vi hoàn toàn không đồng nhất, bởi
chúng không thể giống nhau.
Hai là, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các quốc gia
khác cũng theo xu hướng kết hợp giữa những quy định của Luật Cạnh tranh và các
lĩnh vực pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực kinh doanh, hoạt động thương mại. Tuy
rằng có sự khác nhau về cách thức xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong
đó có quốc gia sử dụng các chế tài dân sự để giải quyết xung đột giữa các chủ thể có
liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh; có quốc gia sử dụng chế tài phạt
hành chính đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi, nhưng về hình thức, gần như
hầu hết các quốc gia có pháp Luật Cạnh tranh đều không coi Luật Cạnh tranh là
nguồn duy nhất của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chế định
pháp luật này được hình thành từ Luật Cạnh tranh cũng như nhiều văn bản pháp luật
khác nhau thuộc nhiều lĩnh vực quản lý kinh tế.
Khi thừa nhận nguyên tắc này, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có ngoại diên rất rộng, bao gồm các quy định trong Luật Cạnh tranh và các
quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan và phương thức xử lý hành vi
cạnh tranh không lành mạnh là khác nhau phụ thuộc vào lĩnh vực quản lý kinh tế.
Như vậy, điều kiện pháp Luật Cạnh tranh đảm bảo được những yêu cầu cơ bản sau
đây:
- Tính linh hoạt cao để tương hợp với sự vận động không ngừng của thị
trường. Khi doanh nghiệp không ngừng sáng tạo trong các chiến lược cạnh tranh thì
pháp luật phải thể hiện được chức năng vừa bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tự do
65
cạnh tranh song cũng cần có cơ chế phù hợp để khắc phục, hạn chế những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Để khắc chế hành vi đa dạng về hình thức và biến hóa
về chiến thuật, pháp luật cần xây dựng một cơ chế linh hoạt cho phù hợp. Một trong
những cách thức để bảo đảm sự linh hoạt và thích ứng với thực thế là xây dựng một
chế định có tính linh hoạt cao bằng cơ chế liên kết điều chỉnh giữa nhiều lĩnh vực
pháp luật khác nhau. Tức là việc xây dựng này thể hiện tính bền vững của quy định
pháp luật, không cứng nhắc và không bị lỗi thời trong quá trình triển khai thực hiện.
- Đảm bảo tính đặc thù trong các lĩnh vực pháp luật chuyên ngàn. Mặc dù có
chung tính chất là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi thuộc những
lĩnh vực kinh doanh khác nhau sẽ có tính chất và biểu hiện khác nhau. Tính chất và
biểu hiện của hành vi được thể hiện rõ qua đối tượng mà hành vi khai thác để thực
hiện hành vi hoặc phương thức thực hiện hành vi. Việc đánh giá tính chất và mức
độ không lành mạnh của một hành vi hoặc một chiến lược cạnh tranh của chủ thể
cần phải được xem xét từ các nguyên tắc cơ bản của từng lĩnh vực cụ thể. Các nhà
lập pháp không thể xây dựng và ban hành một hoặc một bộ chuẩn mực chung về
đạo đức kinh doanh của tất cả các lĩnh vực của thị trường. Bởi mỗi lĩnh vực kinh
doanh sẽ có những chuẩn mực riêng và có những nguyên tắc quản lý Nhà nước
riêng biệt tùy theo đối tượng của hoạt động kinh doanh và các yêu cầu kỹ thuật
chuyên ngành. Do đó, để đảm bảo nhận dạng hành vi một cách đúng đắn và đầy đủ
nhất, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần được xây dựng theo
hướng Luật Cạnh tranh đặt ra các nguyên tắc cơ bản trong việc xử lý hành vi, việc
nhận dạng cụ thể giao cho các văn bản pháp luật về quản lý các lĩnh vực kinh tế cụ
thể.
Nguyên tắc thứ hai, cần tôn trọng nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật
chuyên ngành khi có sự khác biệt trong các quy định giữa Luật Cạnh tranh và các
văn bản pháp luật khác quy định về quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế
cụ thể. Một khi chấp nhận pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
nguồn rất rộng bao gồm các quy định trong Luật Cạnh tranhvà các quy định trong
các văn bản pháp luật về quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực,các hoạt động kinh
doanh cụ thể tất yếu sẽ phát sinh đòi hỏi phải xây dựng cơ chế phối hợp trong việc
66
nhận dạng và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các văn bản pháp luật
có liên quan. Có như vậy, tính thống nhất và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật được
đảm bảo trên thực tế. Khi thiết lập cơ chế phối hợp điều chỉnh, nguyên tắc này được
thể hiện ở những khía cạnh sau:
Một là, các văn bản pháp luật chuyên ngành nên quy định các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong phạm vi điều chỉnh trên cơ sở các nguyên tắc được
Luật Cạnh tranh ghi nhận, không nên có đặc cách riêng, thiếu thống nhất. Phải thể
hiện được mối liên quan mật thiết giữa các quy định về hành vi trong Luật Cạnh
tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành. Như vậy, với những hành vi đã được
quy định trong Luật Cạnh tranh, pháp luật chuyên ngành chỉ nên lặp lại cấu thành
pháp lý đã được mô tả trong Luật Cạnh tranh. Ngoài ra, luật chuyên ngành có thể
mở rộng phạm vi của pháp Luật Cạnh tranh không lành mạnh bằng cách quy định
thêm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thuộc
phạm vi điều chỉnh mà chưa được quy định trong Luật Cạnh tranh. Tức là pháp luật
chuyên ngành có vai trò bổ trợ cho Luật Cạnh tranh trong việc nhận dạng chi tiết
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, Pháp luật chuyên ngành có thể
thiết kế các biện pháp và mức độ xử lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh thuộc phạm vi điều chỉnh. Tùy thuộc vào mức độ bất chính, khả năng gây hại
cũng như đối tượng bị xâm phạm mà pháp luật chuyên ngành sẽ thiết kế các biện
pháp xử lý cho phù hợp để vừa chấm dứt hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
vẫn có thể khôi phục sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Có như vậy, biện
pháp xử lý sẽ được áp dụng phù hợp với thực tiễn của vụ việc, phù hợp với đặc
trưng của thị trường.
Hai là, cần phải thống nhất quy trình và nguyên tắc xử lý đối với các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh cho dù thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Mặc dù
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được quy định trong nhiều lĩnh vực
pháp luật khác nhau, song một khi đã khẳng định chúng là cạnh tranh không lành
mạnh thì cần thiết phải áp dụng chung một quy trình xử lý và các nguyên tắc xử lý.
Chúng ta không thể xé lẻ việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo lĩnh
vực quản lý Nhà nước khác nhau. Mặc dù mỗi lĩnh vực quản lý kinh tế có phương
67
tiện và công cụ khác nhau song việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì
quy trình xử lý không đơn giản là một bộ phận quản lý chuyên ngành mà là một yếu
tố cấu thành cơ bản của việc quản lý cạnh tranh trên thị trường, nhất là hành vi cạnh
tranhkhông lành mạnh.
Dưới góc nhìn của khoa học pháp lý, trước tiên, chúng ta cần xác định rõ bản
chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh để quyết định sử dụng công
cụ pháp lý tương ứng trong việc xử lý doanh nghiệp thực hiện hành vi. Trên cơ sở
đó, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải được xử lý theo cùng một nguyên
tắc pháp lý và quy trình xử lý luôn phải thống nhất.
Ba là, trong trường hợp có sự khác biệt giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản
pháp luật chuyên ngành về các quy định nhận dạng hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, quy định về xử lý doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm, pháp luật được
ưu tiên áp dụng sẽ là pháp luật chuyên ngành. Nếu tuân thủ triệt để hai nội dung
trên, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ thống nhất về cơ bản
trong quy trình xử lý và các quy định về nhận dạng hành vi. Tuy nhiên, vẫn có thể
tồn tại những khác biệt trong các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
và việc xử lý hành vi do sự phát triển của pháp luật và do những thay đổi trong nhận
thức pháp lý về hành vi cho phù hợp với thực tiễn sinh động của thị trường. Sự tồn
tại những khác biệt, những xung đột giữa các văn bản pháp luật khác nhau quy định
về cùng một hành vi cạnh tranh không lành mạnh là tất yếu nên nhu cầu phải có
nguyên tắc xác định hiệu lực ưu tiên giữa các văn bản pháp luật là đòi hỏi khách
quan. Do đó, nếu đã xác định Luật Cạnh tranh đặt ra những nguyên tắc cơ bản cho
việc xử lý hành vi và nhận diện những dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh
điển hình, tiêu biểu cho một số lĩnh vực kinh doanh cụ thể thì tính trừu tượng trong
các quy định của đạo luật này đương nhiên sẽ cao hơn so với các quy định trong
những văn bản pháp luật điều chỉnh những hoạt động cạnh tranh theo từng lĩnh vực
cụ thể. Vì vậy, tính ưu tiên áp dụng phải dành cho các pháp luật chuyên ngành.
Nói tóm lại, với nguyên tắc này, quá trình xây dựng pháp luật luôn đòi hỏi cơ
quan lập pháp là Quốc hội phải đặt ra những nguyên tắc tiếp cận việc xử lý hành vi
cạnh tranh không lành mạnh được thống nhất về quy trình và nguyên tắc xử lý để
68
tránh sự phân tán thẩm quyền và thủ tục xử lý khác nhau, thiếu thống nhất và kém
khoa học theo nhóm hành vi. Các văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ nên nhận
dạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phát sinh trong lĩnh vực mà chúng
điều chỉnh. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành chỉ được áp dụng
khi có sự khác biệt trong cấu thành pháp lý hoặc trong cách thức xử lý cùng một
hành vi giữa văn bản pháp luật chuyên ngành và Luật Cạnh tranh, với tư cách là luật
chung điều chỉnh hoạt động quản lý Nhà nước về cạnh tranh nói chung và hành vi
cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.
3.3. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
3.3.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh
Nhìn chung, Luật Cạnh tranh của nước ta đã tiếp cận tương đối đúng hướng.
Bởi trong Luật Cạnh tranh chỉ quy định những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
phổ biến, tiêu biểu trong một số lĩnh vực nhất định và liên kết điều chỉnh với các
lĩnh vực pháp luật khác để đảm bảo xử lý ở mức tốt nhất, hiệu quả nhất đối với diễn
biến về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn
đề sau đây cần giải quyết trên cơ sở có chọn lọc kinh nghiệm của pháp luật một số
nước tiêu biểu trên thế giới:
Thứ nhất, với những kết quả nghiên cứu này, nếu chúng ta không áp dụng
tình huống loại bỏ hành vi bán hàng đa cấp bất chính ra khỏi quy định của pháp luật
hiện hành thì cần xem lại các quy định về hành vi này để quy định này thật sự phù
hợp với thực tiễn, vì những lý do sau đây:
- Nếu phân tích từ góc độ của các quan hệ phát sinh hành vi bán hàng đa cấp
bất chính, có thể thấy rằng các hành vi được liệt kê tại điều 48 Luật Cạnh tranh chủ
yếu xảy ra trong quan hệ đơn nhất giữa doanh nghiệp bán hàng đa cấp với người
tham gia mạng lưới bán hàng.
- Các hành vi này khi được thực hiện đã tạo ra những hợp đồng bất cân xứng
về quyền và nghĩa vụ hoặc bị thiếu chính xác về sự trung thực, công bằng giữa các
69
bên tham gia. Trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi nhằm trục lợi từ
việc đặt ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho người tham gia bán hàng thì mục đích
bất chính chỉ giới hạn trong quan hệ giữa doanh nghiệp tổ chức bán hàng và người
tham gia mà thôi. Rõ ràng chỉ có yếu tố trục lợi do trái quy định của pháp luật. Yếu
tố cạnh tranh không thể hiện rõ trong từng hành vi đã được quy định trong điều 48
Luật Cạnh tranh hiện hành “Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm
thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp: 1.
Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban
đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp; 2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
người tham gia để bán lại; 3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng,
lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng
đa cấp; 4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán
hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người
khác tham gia.”
Việc định danh hành vi rất có ý nghĩa trong việc quyết định đến hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật. Để có thể xử lý hiệu quả một hành vi hoặc một quan hệ cụ
thể xảy ra trên thị trường hoặc trong đời sống xã hội, Nhà nước cần xác định rõ tính
pháp lý hành vi để áp dụng các công cụ, các biện pháp xử lý phù hợp. Với Luật
Cạnh tranh, bán hàng đa cấp phải mang bản chất cạnh tranh. Các hành vi có thể
ngăn cản đền sự công bằng trên thị trường nhưng không mang bản chất cạnh tranh
thì không thể sử dụng các công cụ của Luật Cạnh tranh để xử lý được. Tức là cần
phải xây dựng nội dung quy định chuẩn, xác định rõ hành vi cạnh tranh trong bán
hang đa cấp để thực sự thuyết phục. Có nghĩa là các quy định phải hướng tới mục
tiêu xác định rõ được giới hạn vi phạm và Nhà nước sẽ sử dụng các biện pháp phù
hợp theo tính chất của hành vi. Với quan điểm khoa học này, chúng ta không thể
quy kết các hành vi được quy định tại điều 48 Luật Cạnh tranh là hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Những hành vi này nếu bị xử lý là không khoa học, vì nó bị xếp
vào nhóm hành vi bán hàng đa cấp vi phạm pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp
với bản chất là tạo nên các giao dịch bất cân xứng và trục lợi từ quan hệ bất cân
70
xứng với người tham gia bán hàng đa cấp chứ không thể xử lí theo hành vi cạnh
tranh không lành mạnh.
Thứ hai, so sánh nội dung quy định của một số nước tiêu biểu trên thế giới
với Luật Cạnh tranh, cần sửa đồi và làm rõ thêm một số quy định cụ thể trong các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại chương III Luật Cạnh tranh
năm 2004:
Một là, với hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, với cách mô tả hiện nay, chúng ta
sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau, giới hạn của quy định này chỉ là doanh nghiệp đã
sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn với chỉ dẫn của doanh nghiệp khác, có thể hiểu đó là
gây nhầm lẫn về hình thức. Tuy nhiên, từ khái niệm chỉ dẫn thương mại được quy
định trong Luật Sở hữu trí tuệ chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm
hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, gồm nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại,
biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của
hàng hóa, nhãn hàng hóa thì chỉ dẫn thương mại luôn có hai ý nghĩa là chỉ dẫn về
nội dung và chỉ dẫn về hình thức của sản phẩm. Với ý nghĩa chỉ dẫn về nội dung,
các yếu tố như nhãn hiệu, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh có thể sẽ cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cơ bản như công
dụng, thành phần để nhận biết về sản phẩm. Với ý nghĩa chỉ dẫn về hình thức, các
yếu tố cấu thành chỉ dẫn thương mại là cơ sở về hình thức để người tiêu dùng phân
biệt sản phẩm cụ thể nào đó với các sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Do
đó, chỉ dẫn gây nhầm lẫn không thể hiểu hạn hẹp trong phạm vi hành vi tạo ra sự
nhầm lẫn giữa các sản phẩm mà còn bao gồm việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại
gây nhầm lẫn về nội dung của sản phẩm. Trên thực tế, đã có những loại chỉ dẫn gây
nhầm lẫn cho khách hàng như chỉ dẫn về sữa tươi. Các doanh nghiệp sản xuất sữa
tươi đã sử dụng cụm từ trên bao bì sản phẩm sữa tươi tiệt trùng, sữa tươi nguyên
nhất, sữa tươi nguyên kem. Tuy nhiên, thực tế sản xuất lại cho thấy sản phẩm sữa
tươi do các doanh nghiệp sản xuất lại là sữa sản xuất từ bột sữa gầy sau khi đã pha
chế thêm chật béo mà không hoàn toàn từ sữa tươi nguyên chất (gọi chung là sữa
hoàn nguyên). Do đó, chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp làm vô hiệu hóa ý
71
nghĩa của chỉ dẫn thương mại bao gồm làm sai lệch nhận thức của khách hàng về
sản phẩm và làm mất khả năng phân biệt sản phẩm trong số các sản phẩm cùng loại.
Hai là, cần lãm rõ cấu thành pháp lý của hành vi bắt chước một sản phẩm
quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Vấn đề cần được làm rõ khi xây dựng các quy định của pháp luật trong
trường hợp này là
- Xác định rõ tính không lành mạnh của hành vi;
- Xây dựng cấu thành pháp lý của hành vi.
Nếu dựa vào quy định hiện hành tại Khoản 2 điều 45 Luật Cạnh tranh, tính
không lành mạnh của hành vi chủ yếu được xác định từ mục đích gây nhầm lẫn cho
khách hàng. Thế nhưng Luật Cạnh tranh không phân biệt được đối tượng bị nhầm
lẫn là nhầm lẫn giữa các sản phẩm quảng cáo có liên quan hay là nhầm lẫn giữa các
sản phẩm được quảng cáo có trong các sản phẩm quảng cáo liên quan. Từ đó dẫn
đến quy định của pháp luật còn mơ hồ, không rõ ràng và áp dụng trên thực tế thiếu
tính thống nhất và hiệu quả không cao. Ngoài ra, Khoản 2 Điều 45 cũng chưa làm
rõ nội dung nhầm lẫn của hành vi là như thế nào. Tức là nội dung luật chỉ quy định
một cách đơn giản là bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho
khách hàng. Tuy nhiên, đối với hành vi này, tính không lành mạnh của hành vi nên
xác định từ việc bắt chước sản phẩm quảng cáo khác, vụ việc mà hành vi có mục
đích gây nhầm lẫn cho khách hàng và vụ việc có ảnh hưởng gây nhầm lẫn. Chúng ta
không nên đặt nặng mục đích gây nhầm lẫn và coi chúng như một yếu tố không thể
thiếu trong cấu thành pháp lý của hành vi. Mặt khác, nếu hành vi không thật sư ảnh
hưởng gây nhầm lẫn cho khách hàng, thì sẽ quá nghiêm khắc nếu coi đó là vi phạm.
Với cách tiếp cận này, vấn đề cần giải quyết trong quy định trên là cấm vụ việc bắt
chước sản phẩm quảng cáo gây nhầm lẫn cho khách hàng mà không cần phải chứng
minh mục đích gây nhầm lẫn của hành vi là khoa học nhất và phù hợp với yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường.
72
Ba là, cần đánh giá lại về tính không lành mạnh của hành vi phân biệt đối xử
đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau
trong cùng một chương trình khuyến mại. Tại Khoản 3 Điều 46 Luật Cạnh tranh,
quy định về hành vi phân biệt đối xử trong khuyến mại có thể hiểu là việc doanh
nghiệp tổ chức khuyến mại trên nhiều địa bàn khác nhau, khách hàng đã có những
giao dịch như nhau nhưng doanh nghiệp áp dụng các mức, các loại, các hình thức
khuyến mại khác nhau cho khách hàng thuộc những địa bàn khác nhau.
Trong hành vi này, cần lưu ý những nội dung sau:
- Doanh nghiệp không có sự phân biệt đối xử với khách hàng trong giao dịch
mua bán hàng hóa dịch vụ mà họ đang kinh doanh. Việc phân biệt đối xử chỉ giới
hạn trong lợi ích khuyến mại mà doanh nghiệp dành cho khách hàng. Giao dịch mua
bán hàng hóa, dịch vụ được diễn ra bình đẳng và công bằng giữa các khách hàng.
- Lợi ích khuyến mại là phần vật chất mà doanh nghiệp chấp nhận mất đi để
thực hiện kế hoạch xúc tiến thương mại, còn được gọi là phần cộng thêm cho khách
hàng. Về cơ bản, việc phân biệt đối xử trong khuyến mại không phải là hành vi trục
lợi hoặc đối xử bất công cho khách hàng trong các giao dịch mua bán chính thức mà
đơn giản chỉ là áp dụng các chính sách khuyến mại khác nhau cho khách hàng có
thể nhằm đảm bảo hiệu quả của chiến lược khuyến mại theo các khu vực khác nhau.
Sự công bằng giữa doanh nghiệp và khách hàng về cơ bản phải xét trong giao dịch
mua bán sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh. Phần lợi ích tăng thêm do hoạt
động khuyến mại cho dù có áp dụng khác nhau giữa các khách hàng vẫn không phá
vỡ quan hệ công bằng trong mua bán nếu chúng không phải là công cụ để doanh
nghiệp xâm hại đến quyền lợi của khách hàng.
- Về mặt kinh tế, một chiến lược khuyến mại hiệu quả là chiến lược áp dụng
lợi ích khuyến mại ở mức thấp nhất có thể mà vẫn kích thích được nhu cầu tiêu
dùng của xã hội. Với những địa bàn có nhu cầu tiêu dùng khác nhau và mức sống
khác nhau thì việc áp dụng các mức khuyến mại khác nhau đôi khi lại là giải pháp
tối ưu để phát huy ở mức tối đa giá trị khuyến mại của doanh nghiệp. Từ kết quả
đánh giá mức độ tiêu dùng và khả năng tiêu dùng, doanh nghiệp có thể xây dựng
73
những chiến lược khuyến mại để vừa tiết kiệm giá trị khuyến mại, tức là giảm thiểu
phần mất đi cho doanh nghiệp, tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng một cách phù
hợp mà vẫn xúc tiến thương mại. Do đó, nhìn dưới góc độ kinh tế, việc áp dụng các
mức độ khuyến mại khác nhau theo địa bàn có khi là chiến lược kinh doanh hiệu
quả và tích cực.
- Dưới góc độ pháp lý, tổng giá trị khuyến mại là phần vật chất thuộc sở hữu
của doanh nghiệp mà họ chấp nhận dành thêm cho khách hàng để xúc tiến thương
mại. Với quyền sở hữu, doanh nghiệp được toàn quyền định đoạt về việc phân phối
và mức độ phân phối cho khách hàng nên không thể quy kết đó là hành vi khuyến
mại đó là bất chính.
- Về cấu thành pháp lý, quy định tại Khoản 3 điều 46 Luật Cạnh tranh đã tạo
nên cấu thành khá phức tạp và rất khó áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Với cách
quy định hiện nay, vô hình trung tạo cho doanh nghiệp lách luật để thực hiện những
hành vi có mục đích tương tự mà vẫn không thể quy kết là vi phạm Luật Cạnh tranh.
Theo đó, doanh nghiệp chỉ cần phân chia chương trình khuyến mại thành hai
chương rình nhỏ tổ chức ở hai địa bàn khác nhau với cùng một thời gian, cùng một
điều kiện áp dụng cho khách hàng nhưng doanh nghiệp tiến hành hai thủ tục đăng
ký khuyến mại khác nhau thì sẽ không vi phạm Luật Cạnh tranh vì không thỏa mãn
điều kiện vi phạm là trong cùng một chương trình khuyến mại. Với những phân tích
trên, tác giả cho rằng hành vi áp dụng các lợi ích khuyến mại khác nhau cho các
khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một
chương trình khuyến mại không mang bản chất của một hành vi cạnh tranh không
lành mạnh nên cần đưa quy định này về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ra
khỏi Luật Cạnh tranh.
Bốn là, về hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu
khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng
đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình. Cách thức quy định này đã chưa bao
quát hết những dạng vi phạm thuộc nhóm này diễn ra trong thực tiễn và dễ bị lạc
hậu so với quá trình phát triển sinh động, sự phân khúc của thị trường.
74
Về bản chất, hành vi này mang bản chất không lành mạnh bởi hoạt động
khuyến mại chỉ thực hiện dành cho những người đang sử dụng hàng hóa của doanh
nghiệp khác, nên nó cản trở thương mại giữa người dân và doanh nghiệp khác. Mặt
khách, với cách định dạng theo Khoản 4 Điều 46 Luật Cạnh tranh, chỉ khi nào
doanh nghiệp đặt ra điều kiện để hưởng khuyến mại là yêu cầu khách hàng dùng
hàng hóa của mình đổi hàng hóa cùng loại thì mới là sự vi phạm đã làm cho quy
định này trở nên hẹp hơn so với tính chất không lành mạnh của hành vi diễn ra trên
thương trường. Hay nói cách khác, dựa và quy định hiện hành, trong vụ việc mà yêu
cầu của người thực hiện hành vi không rõ hoặc không tồn tại sẽ không có vi phạm.
Mặt khác, việc xử lý vụ việc mà hành vi không có ảnh hưởng thực sự làm khách
hàng đổi hàng hóa thì quá nặng. Cho nên, thay bằng việc yêu cầu khách hàng dùng
hàng hóa của mình đổi trong điều khoản hiện nay, cần xem xét sửa đổi điều khoản
này theo hướng thêm vào chế tài mạnh để ngăn cản thương mại giữa khách hàng và
các doanh nghiệp khác sản xuất cùng loại hàng hóa đang được khách hàng sử dụng.
Làm được như vậy thì nội dung quy định sẽ toàn diện hơn và phù hợp với phạm vi
điều chỉnh hành vi vi phạm trong thực tiễn.
3.3.2. Kiến nghị về giải quyết quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp
luật chuyên ngành
Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm các quy định
trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật quản lý Nhà nước trong các lĩnh
vực kinh tế cụ thể thì vấn đề then chốt cần phải giải quyết là xử lý mối quan hệ giữa
các lĩnh vực pháp luật này một cách khoa học. Theo đó, các vấn đề cần giải quyết
hiện nay để xử lý mối quan hệ này sẽ là:
Một là, phải xác định rõ rằng mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các văn
bản pháp luật quản lý Nhà nước, các lĩnh vực kinh tế cụ thể là quan hệ pháp luật
chung và pháp luật chuyên ngành. Trong đó, Luật Cạnh tranh đặt ra những nguyên
tắc cơ bản cho việc nhận dạng hành vi và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Các văn bản pháp luật khác khi quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực điều chỉnh phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc này như là cách
lập pháp về hành vi này của nước Anh, Đức và Nhật Bản. Các văn bản pháp luật
75
khác quy định chi tiết và bổ sung cho Luật Cạnh tranh về các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực điều chỉnh. Tuy nhiên cần có sự phân biệt giữa các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi đơn thuần chỉ vi phạm pháp luật
chuyên ngành . Ví dụ, trong lĩnh vực quảng cáo, cần phân biệt rõ các hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo gian dối, quảng cáo so sánh
với các hành vi vi phạm về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo như dùng
hình ảnh lãnh tụ để quảng cáo, quảng cáo những loại sản phẩm bị cấm quảng cáo.
Để làm được điều này, cần có những nghiên cứu nghiêm túc về các loại hành vi và
bản chất cạnh tranh không lành mạnh của chúng trong từng lĩnh vực để có những
quy định phù hợp.
Hai là, cần thống nhất trong các quy định của pháp luật về các hành vi đã
được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành và
thống nhất về quan điểm xử lý. Với các quy định về hành vi, chúng ta có thể thấy có
nhiều hành vi cùng được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật
khác nhưng có nội dung khác nhau, thiếu tính thống nhất. Ví dụ, quy định về chỉ
dẫn gây nhầm lẫn được quy định trong Luật Cạnh tranh có nội hàm hẹp hơn so với
quy định trong pháp luật về sở hữu trí tuệ; các quy định về xâm phạm bí mật kinh
doanh trong hai văn bản pháp luật trên cũng có sự khác nhau đáng kể về các dạng vi
phạm; các quy định về quảng cáo không trung thực trong pháp luật quảng cáo và
quảng cáo gian dối, gây nhầm lẫn quy định trong Luật Cạnh tranh. Để đảm bảo tính
thống nhất của pháp luật thì cùng một hành vi nên chỉ có một khái niệm mô tả hành
vi, tránh việc có khái niệm không đồng nhất sẽ nguy hiểm trong quá trình thực thi
pháp luật. Có như vậy, việc thực thi pháp luật vừa đảm bảo được hiệu quả, vừa đảm
bảo tính minh bạch, rõ ràng của pháp luật. Do đó, việc rà soát sự khác biệt trong các
quy định của pháp luật về cùng một hành vi cạnh tranh không lành mạnh là cần thiết
để có thể có kế hoạch sửa đổi một cách đồng bộ các quy định tương ứng trong nhiều
văn bản phápluật.
Ba là, cần thống nhất mức xử lý vi phạm đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh và trong các văn bản pháp
luật điều chỉnh các lĩnh vực pháp luật cụ thể như giữa Luật Cạnh tranh và các luật
76
chuyên ngành với Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh.
Với tình trạng hiện nay, khi hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định
đồng thời trong nhiều văn bản pháp luật thì đã xảy ra tình trạng cùng một hành vi
nhưng lại áp dụng các mức xử lý khác nhau. Ví dụ, cùng xử lý hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn nhưng Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 09 năm
2005 quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh áp dụng biện
pháp phạt tiền với mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, nhưng theo
Nghị định 97/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 09 năm 2010 quy định về
xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp lại áp dụng mức phạt có thể
tối đa lên đến 500.000.000 đồng. Sự khác biệt quá lớn về khung xử phạt và mức
phạt có thể tạo nên sự thiếu công bằng khi áp dụng các văn bản pháp luật khác nhau
để xử lý cùng một hành vi có mức độ như nhau. Do đó, vấn đề cần giải quyết là có
sự phối hợp giữa các lĩnh vực pháp luật khác nhau khi xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và cần có những sửa đối cần thiết khi có sự thay đổi trong việc áp
dụng các biện pháp xử lý. Mà điều cơ bản nhất đó là sửa đổi điều chỉnh hợp lí kịp
thời văn bản chế tài này nó phụ thuộc vào hành động của cơ quan hành pháp theo
quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (cơ quan thuộc Chính phủ).
Bốn là, về thủ tục xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Sự tồn tại
nhiềuvăn bản pháp luật quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể gây
ra một hệ lụy khó lường là cùng một hành vi có nhiều cơ quan có thẩm quyền và áp
dụng các thủ tục khác nhau để xử lý. Luật Cạnh tranh đã xây dựng tố tụng cạnh
tranh để xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh với
quy định điều tra, xử lý đặc thù cho các vụ việc cạnh tranh. Trong các lĩnh vực pháp
luật khác như pháp luật quảng cáo, pháp luật về khuyến mại, pháp luật về quản lý
bán hàng đa cấp, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được nhìn nhận như một
dạng vi phạm về quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực này nên thủ tục áp dụng để
xứ lý là thủ tục xử lý vi phạm hành chính thông thường. Tương ứng với các thủ tục
này là thẩm quyền xử lý sẽ thuộc các cơ quan quản lý chuyên ngành. Sự đa dạng về
thủ tục và cơ quan có thẩm quyền xử lý có thể tạo nhiều khả năng lựa chọn cho
những chủ thể có liên quan bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước những
77
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Song mặt khác, tình trạng này lại gây ra
những hệ quả khó lường trước:
- Khả năng các cơ quan khác nhau có những quan điểm xử lý khác nhau cho
cùng một hành vi nếu chúng được quy định trong nhiều lĩnh vực pháp luật có liên
quan.
- Thủ tục điều tra xác định hành vi khác nhau có thể dẫn đến cách thức đánh
giá bản chất cạnh tranh không lành mạnh và tác động của hành vi cũng không giống
nhau làm ảnh hưởng đến kết luận và các biện pháp xử lý.
- Khả năng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau giữa các cơ quan thực thi pháp
luật trước những vụ việc có nhiều khó khăn trong điều tra và xử lý hành vi dẫn đến
tình trạng xử lý không nghiêm, không tương xứng với mức độ vi phạm của chủ thể
vi phạm. Những hệ quả trên đều có ảnh hưởng không tốt đối với tính thống nhất của
pháp luật, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi pháp luật trong thực tiễn và đặc biệt
nguy hiểm hơn đó là đến lòng tin của cộng đồng xã hội đối với khả năng quản lý thị
trường của cơ quan Nhà nước. Tác giả cho rằng, với đặc thù của lĩnh vực cạnh tranh,
cho dù hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định ở lĩnh vực pháp luật nào
đi chăng nữa thì việc xử lý chúng cần phải được thực hiện một cách thống nhất.
3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh
3.4.1. Nâng cao năng lực của cơ quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt động
cạnh tranh và thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Thứ nhất, Chính phủ cần có cơ chế giám sát hoạt động của Ủy ban Cạnh
tranh quốc gia
Một trong những điểm mới đáng chú ý của Luật Cạnh tranh 2018 là việc
thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc gia trực thuộc Bộ Công thương trên cơ sở hợp
nhất Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Theo Khoản 2 Điều 46 của
Luật Cạnh tranh 2018 thì Ủy ban Cạnh tranh quốc gia vừa có chức năng tham mưu
giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về cạnh
78
tranh vừa tiến hành tố tụng cạnh tranh; kiểm soát tập trung kinh tế; quyết định việc
miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm và giải quyết khiếu nại quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh. Việc giao quá nhiều quyền cho Ủy ban Cạnh tranh
quốc gia có thể tạo ra cơ chế "xin-cho" và có nguy cơ xảy ra tham nhũng về chính
sách. Để tránh điều này, Chính phủ cần ban hành những cơ chế giám sát hoạt động
của cơ quan này và cần rà soát kiểm tra kỹ hơn về quy định thành viên của Ủy ban
Cạnh tranh quốc gia do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, tránh xảy ra
việc chồng chéo xung đột với Luật Tổ chức Chính phủ.
Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo cán bộ chuyên trách giải quyết các vụ
việc cạnh tranh không lành mạnh, nhất là các điều tra viên để bổ sung lực lượng cho
cơ quan quản lý cạnh tranh
Vấn đề cạnh tranh là vấn đề phức tạp, đòi hỏi các điều tra viên khi tiến hành
tố tụng phải có kiến thức chuyên sâu không chỉ về pháp lý mà còn bao gồm cả
những kiến thức về kinh tế. Phân tích kinh tế đóng vai trò quan trọng, không thể
thiếu khi áp dụng các Luật Cạnh tranh trong các vụ việc cụ thể. Để xây dựng đội
ngũ điều tra viên, Ủy ban Cạnh tranh quốc gia cần phải tổ chức thực hiện các công
việc:
- Xây dựng chương trình đào tạo toàn diện cho các điều tra viên cạnh tranh.
Phối hợp với các tổ chức quốc tế, các cơ quan cạnh tranh nước ngoài tổ chức các
khóa học đào tạo ngắn hạn về kỹ năng điều tra cho các điều tra viên của Việt Nam;
- Tích cực và tạo điều kiện cử các cán bộ ra nước ngoài tham gia các khóa
đào tạo ngắn và dài hạn;
- Phối hợp với các cơ quan đào tạo nghiệp vụ điều tra trong nước như: Bộ
Công an, Viện kiểm sát cũng như các Trường Đại học kinh tế, Học viện Tài chính,
Đại học Luật để bồi dưỡng nâng cao các kiến thức về kinh tế, tài chính, luật và kỹ
năng điều tra cho các điều tra viên;
- Tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ cho các điều tra viên. Xây
dựng và triển khai hoạt động của Trung tâm đào tạo điều tra viên. Trung tâm này
79
không chỉ tập trung đào tạo các kỹ năng, kiến thức cho các điều tra viên mà còn có
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho các cánbộ của các cơ quan có liên quan như: Cán
bộ làm công tác bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương, lực lượng quản lý thị trường
tại các Tỉnh, Thành phố.
3.4.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và các chính sách của Nhà nước
nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể tham gia cạnh tranh không
lành mạnh
Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật hiện nay vẫn chưa được quan tâm
một cách đúng mức trong xã hội nhất là trong giới doanh nghiệp, là chủ thể và đối
tượng áp dụng chính của Luật Cạnh tranh. Do đó để nâng cao hiểu biết của người
dân, cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề về Luật Cạnh tranh có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng để đảm bảo thực thi một cách có hiệu quả Luật Cạnh
tranh trong thực tế. Khi các chủ thể cạnh tranh có kiến thức thì họ nhận biết được
hành vi của mình để từ đó có những sự điều chỉnh hành vido ứng xử kinh doanh đã
có sự định hướng của pháp luật. Từ kinh nghiệm thực tiễn các nước, các cơ quan
nhà nước nên:
- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, hội thảo tìm hiểu về kiến thức
pháp luật nói chung, kiến thức về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh nói riêng,
trong đó phải xác định đối tượng chính là các doanh nghiệp.
- Phổ biến, tuyên truyền nội dung của Luật Cạnh tranh trên các phương tiện
thông tin đại chúng dưới các hình thức như các cuộc thi, tìm hiểu về Luật Cạnh
tranh, diễn đàn đối thoại trực tiếp mời các chuyên gia nghiên cứu và có lĩnh vực
trong Luật Cạnh tranh, phổ biến pháp luật trên truyền hình, đài phát thanh, sách, báo
chuyên ngành.
- Giáo dục đạo đức kinh doanh cho các doanh nghiệp, phải cho họ hiểu
những hậu quả xấu cũng như chế tài xử lý đối với việc kinh doanh bất chính, cùng
lợi ích lâu dài từ việc cạnh tranh trung thực. Khi một doanh nghiệp nhận thức được
hành vi cũng như hiểu biết về pháp luật thì những hành vi cạnh tranh không lành
80
mạnh sẽ được giảm bớt, môi trường kinh doanh sẽ đảm bảo tính công bằng và
nghiêm minh.
- Tạo lập, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, bình đẳng,
minh bạch.
- Thúc đẩy cạnh tranh, bảo đảm quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh của
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc
lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Tạo điều kiện để xã hội, người tiêu dùng tham gia quá trình giám sát việc
thực hiện pháp luật về cạnh tranh.
81
KẾT LUẬN
Cạnh tranh trong kinh doanh là quyền cơ bản của các chủ thể kinh doanh trên
thị trường và được pháp luật các nước bảo hộ. Các chủ thể kinh doanh có thể sử
dụng nhiều phương thức để cạnh tranh với nhau, trong đó có phương thức cạnh
tranh lành mạnh và phương thức cạnh tranh không lành mạnh. Chống hành vi cạnh
trong không lành mạnh từ lâu vẫn là một thách thức lớn đồi với hệ thống pháp luật
và các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam.
Luận văn đã xây dựng một số các khái niệm cơ bản để làm cơ sở cho việc
nghiên cứu pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Các khái
niệm được nghiên cứu trên cơ sở các quy định pháp luật và các quan điểm về cạnh
tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hệ thống pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh như quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhìn chung đang ngày càng
hoàn thiện, đáp ứng những đòi hỏi thực tế.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số bất cập. Điều này xuất phát từ
những nguyên nhân chủ yếu như: quy định về các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh chưa đầy đủ, quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh vẫn còn rườm rà, năng lực của các cơ quan điều tra, xử lý còn
hạn chế và các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn chưa đủ tính
răn đe.
Luận văn đã đưa ra định hướng và các giải pháp trong đó có các giải pháp
hoàn thiện pháp luật, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Về hoàn thiện pháp luật, cần thống nhất trong
các quy định của pháp luật về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, mức xử lý
vi phạm đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thủ tục xử lý hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đã được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn
bản pháp luật chuyên ngành. Về thực thi pháp luật, cần nâng cao năng lực của cơ
82
quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt động cạnh tranh và đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể tham gia cạnh
tranh không lành mạnh.
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Các văn bản qui phạm pháp luật
1. Chính phủ , Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh,
Hà Nội (2005)
2. Chính phủ , Nghị định số 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực cạnh tranh, Hà Nội (2005)
3. Chính phủ, Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp,
Hà Nội (2005)
4. Chính phủ, Nghị định số 97/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội (2010)
5. Cục Quản lý cạnh tranh, Báo cáo thường niên năm 2017, Hà Nội (2017)
6. Quốc hội, Luật Cạnh tranh năm 2004, Hà Nội (2004)
7. Quốc hội, Bộ Luật Dân sự năm 2015, Hà Nội (2015)
8. Quốc hội, Bộ Luật Hình sự năm 2015, Hà Nội (2015)
9. Quốc hội, Luật Quảng cáo năm 2012, Hà Nội (2012)
10. Quốc hội, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Hà Nội (2010)
11. Quốc hội, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi một số điều năm 2009, Hà Nội
(2005)
II. Các sách tham hảo, luận án, bài viết
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội. (2011)
13. Tổng cục Quản lý thị trường - Bộ Công Thương, Hội thảo "Thực trạng hàng giả,
hàng nhái tại Việt Nam - Nguy cơ, thách thức và giải pháp, Hà Nội. (2018)
14. Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Cạnh tranh và xây dựng pháp Luật
Cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, NXB Công an nhân dân Hà Nội (2001)
84
15. Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng,
Đà Nẵng. (1997)
16. Nguyễn Thị Vân Anh, Giáo trình Luật Cạnh tranh; NXB Trường Đại học Luật
Hà Nội (2016)
17. Viên Thế Giang, Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Học
Viện Khoa học Xã hội. (2014)
18. Quách Thị Hương Giang, Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
theo pháp luật Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc gia (2011)
19. Đặng Vũ Huân, “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam” NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. (2004)
20. Nguyễn Hữu Huyên, Luật Cạnh tranh của Pháp và liên minh châu Âu, NXB Tư
Pháp, Hà Nội. (2004)
21. Trịnh Thị Liên Hương, Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học Luật Hà
Nội (2010)
22. Phạm Trí Hùng, Pháp Luật Cạnh tranh Liên bang Nga và những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam, Đề tài NCKH cấp trường, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh. (2012)
23. Đinh Đức Minh, Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội
(2012)
24. Bùi Thị Minh Nguyệt, Trần Văn Hùng, Lê Thị Mai Hương, Thương mại Việt
Nam Trung Quốc thực trạng và giải pháp, Tạp chí Khoa học và công nghệ lâm
nghiệp số 02/2016. (2016)
25. Nguyễn Thị Như Quỳnh, Xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp theo quy định
của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học số 5/2009 (2009)
85
26. Nguyễn Thị Hòa Trâm, Bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành
mạnh gây ra, Tạp chí Khoa học pháp lý, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh số 2/2012 (2012)
27. Lê Danh Vĩnh, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB Đại học Kinh tế - Luật, Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. (2010)
28. PGS.TS. Lê Danh Vĩnh, ThS. Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Giáo
trình Luật Cạnh tranh, NXB Đại Học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh. (2010)
III. Tài liệu từ các website
29. Như Bình (2011), Acecook khiếu nại quảng cáo mì gói Tiến Vua gây nhầm lẫn,
http://giaoduc.net.vn/Kinh-te/Thi-truong/Acecook-khieu-nai-quang-cao-mi-goi-
Tien-Vua-gay-nham-lan-post6028.gd truy cập ngày 28/06/2011
30. Khánh Hưng (2007), EVN cải chính việc "ép" dùng điện thoại "cây nhà lá
vườn", https://congnghe.tuoitre.vn/evn-cai-chinh-viec-ep-dung-dien-thoai-cay-nha-
la-vuon-152606.htm. Truy cập ngày 27/07/2006
31. Hùng Sơn (2006), LG gian dối trong khuyến mãi rút thăm trúng thưởng,
https://dantri.com.vn/xa-hoi/lg-gian-doi-trong-khuyen-mai-rut-tham-trung-thuong-
1144412924.htm truy cập ngày 07/04/2006
32. Đất Việt (2011), Electrolux VN bị phạt vì quảng cáo "lố",
https://baomoi.com/electrolux-vn-bi-phat-vi-quang-cao-lo/c/7181452.epi truy cập
ngày 17/10/2011
33. VOV online (2013), PINACO phản hồi về cáo buộc vi phạm Luật cạnh tranh,
http://vietbao.vn/Kinh-te/PINACO-phan-hoi-ve-cao-buoc-vi-pham-Luat-canh-
tranh/181249937/87 truy cập ngày 28/02/2013