BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH - THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Ngành: Luật Kinh tế

LÊ HOÀI NAM

Hà Nội - 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không lành mạnh -

thực tiễn áp dụng

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8380107

Học viên Cao học: LÊ HOÀI NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.HỒ THÚY NGỌC

Hà Nội - 2019

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .................................................................. 6

1.1. Khái quát về cạnh tranh ................................................................................. 6

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh ............................................................................... 6

1.1.2. Bản chất và vai trò của cạnh tranh .......................................................... 8

1.1.3. Phân loại các hình thức cạnh tranh ....................................................... 10

1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................................................ 10

1.2.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................. 10

1.2.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............................ 14

1.2.3. Phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................. 18

1.3. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................................. 21

1.3.1. Khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ............ 21

1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ...... 23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH - THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH

VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM .......................... 25

2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh ............................................................................................................. 25

2.1.1. Quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................ 25

2.1.2. Quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không

lành mạnh .......................................................................................................... 36

2.1.3. Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh .................... 41

2.2. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam ........................... 44

2.2.1. Hành vi bán giá thấp nhằm cạnh tranh không lành mạnh .................. 44

2.2.2. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ................................. 45

2.2.3. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ................................... 46

2.2.4. Gièm pha đối thủ cạnh tranh .................................................................. 48

2.2.5. Ép buộc khách hàng ................................................................................ 48

2.2.6. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác ........................ 49

2.2.7. Bán hàng đa cấp bất chính ..................................................................... 49

2.2.8. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp ..... 50

2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

tại Việt Nam .......................................................................................................... 51

2.3.1. Kết quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại

Việt Nam ............................................................................................................ 51

2.3.2. Những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh tại Việt Nam......................................................................... 53

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH

VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP

DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

................................................................................................................................... 57

3.1. Những kinh nghiệm các nước trên thế giới cho việc xây dựng pháp luật

về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................................................... 57

3.1.1. Kinh nghiệm của các nước Châu Âu ..................................................... 57

3.1.2. Kinh nghiệm của Liên bang Nga ............................................................ 58

3.1.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Đài Loan ............................................... 61

3.2. Định hướng trong việc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về

hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................................................ 63

3.3. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định pháp luật hiện

hành về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................................. 68

3.3.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh .............................. 68

3.3.2. Kiến nghị về giải quyết quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản

pháp luật chuyên ngành .................................................................................... 74

3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh.............................................................................. 77

3.4.1. Nâng cao năng lực của cơ quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt

động cạnh tranh và thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh................................................................................................................... 77

3.4.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và các chính sách của Nhà

nước nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể tham gia cạnh

tranh không lành mạnh .................................................................................... 79

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 83

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn, giúp

đỡ hết sức nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của PGS.Ts Hồ Thuý Ngọc, khoa

Đào tạo quốc tế, Trường Đại học Ngoại Thương.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và xin được gửi lời cảm ơn tới tập thể

cán bộ, giảng viên khoa Luật, khoa Đào tạo quốc tế, tập thể thầy, cô giáo trường

Đại học Ngoại Thương Hà Nội đã giảng dạy, truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tôi

trong suốt khoá học và thời gian nghiên cứu luận văn.

Tác giả luận văn

Lê Hoài Nam

DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

Hình 2.1. Số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do Cục Quản lý cạnh tranh tiếp

nhận qua các năm 2006 – 2017 ................................................................................. 51

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.

Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, kết quả

nghiên cứu là quá trình lao động trong thực tế của tôi.

Tác giả luận văn

Lê Hoài Nam

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ

Đề tại luận văn: “Pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh - thực tiễn áp dụng”.

1. Kết quả đạt được của Luận văn

- Luận văn đã phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy

định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: khái niệm và đặc

điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh; khái niệm và đặc điểm của pháp luật

về hành vi cạnh tranh không lành mạnh;

- Luận văn đã phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của pháp luật về

hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm: (i).Quy định về các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh; (ii).Quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh

tranh không lành mạnh; (iii).Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành

mạnh;

- Luận văn đã phân tích và làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam; chỉ ra những bất cập của pháp luật và

những vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh;

- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật

và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh ở Việt Nam.

2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn

- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức

trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về

hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.

- Luận văn là tài liệu có tính ứng dụng trong công tác điều tra, xử lý các hành

vi cạnh tranh không lành mạnh và cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan có

thẩm quyền trong việc nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý các vụ việc về

hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cạnh tranh là một quy luật và thuộc tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế. Cạnh tranh là một động lực để phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cạnh

tranh cũng tồn tại những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp đã xâm hại quyền tự do kinh doanh,

gây hậu quả xấu cho môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Cơ chế thị

trường cũng đặt ra nhu cầu thiết lập và duy trì một môi trường cạnh tranh công bằng

và bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh. Đây là một thách thức lớn đối với Việt

Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngày 03 tháng 12 năm 2004, Luật Cạnh tranh được Quốc hội nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm

2005. Luật Cạnh tranh và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã tạo

thành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, tạo điều kiện thuận

lợi trong hoạt động của cơ quan cạnh tranh đồng thời thể hiện sự rõ ràng và minh

bạch đối với cộng đồng doanh nghiệp. Các quy định trong hệ thống các văn bản này

đã tạo ra một hành lang và khuôn khổ pháp lý để các doanh nghiệp căn cứ vào đó

điều chỉnh các hành vi cạnh tranh trong kinh doanh tuân thủ đúng theo quy định của

pháp luật và qua đó thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong nhiều ngành, lĩnh vực của

nền kinh tế.

Trải qua hơn 13 năm áp dụng Luật Cạnh tranh 2004, pháp luật về cạnh tranh

không lành mạnh nói chung cũng như pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh

tranh không lành mạnh nói riêng cơ bản đã có nhiều tác động thực tế tới quá trình

phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của nền

kinh tế thị trường, sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế cùng với việc hội nhập sâu

rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh

đã phát sinh mà chưa có biện pháp đấu tranh có hiệu quả. Các chế tài trở nên chưa

đủ mạnh để kiểm soát, loại bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ

thể kinh doanh. Thực tế đã chứng minh việc điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh

2

do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành chiếm số lượng rất ít so với thực tiễn

xảy ra hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.

Vì thế, việc nghiên cứu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cùng với

các quy định về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết,

qua đó định hướng các giải pháp nhằm đảm bảo hoàn thiện pháp luật chống cạnh

tranh không lành mạnh theo hướng thiết lập các chế tài phù hợp, đầy đủ, thống nhất

và đủ tính nghiêm khắc để tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng và công bằng.

Đây cũng chính là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh - thực tiễn áp dụng” để nghiên cứu và làm đề tài

cho Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Lĩnh vực pháp Luật Cạnh tranh nói chung và pháp luật chống hành vi cạnh

tranh không lành mạnh nói riêng luôn nhận được sự quan tâm chú ý của các nhà

nghiên cứu Luật học cũng như giới kinh doanh. Có thể kể đến một số công trình

nhiên cứu tiêu biểu như sau:

Trong Luận án Tiến sĩ“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh

trong hoạt động ngân hàng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam”- Học Viện

Khoa học Xã hội, tác giả Viên Thế Giang (2014) đã phân tích những vấn đề lý luận

cơ bản về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng,

phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam.

Năm 2010, trong Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học Luật Hà Nội“Pháp luật

chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam”,

tác giả Trịnh Thị Liên Hương đã khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến pháp

luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, thực trạng và

giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực quảng cáo.

Tác giả Quách Thị Hương Giang (2011) trong Luận văn Thạc sĩ “Chế tài đối

với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam”- Khoa Luật Đại

3

học Quốc gia đã làm rõ các vấn đề lý luận về chế tài đối với hành vi cạnh tranh

không lành mạnh, thực trạng pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không

lành mạnh tại Việt Nam cũng như một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng

cao hiệu quả áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Một nghiên cứu khác cũng liên quan đến vấn đề này,tác giả Đinh Đức Minh

(2012) trong Luận văn Thạc sĩ“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và

việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam”- Trường Đại học

Luật Hà Nội đã phân tích cơ sở lý luận về pháp luật chống cạnh tranh không lành

mạnh ở Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh ở Việt Nam cũng như đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp

luật về chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Ngoài ra, có thể kể đến một số bài đăng trên các tạp chí như: bài viết “Xác

định hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan

đến quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam” của Th.S

Nguyễn Thị Như Quỳnh trên Tạp chí Luật học số 5/2009; bài viết “Bồi thường thiệt

hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra” của PGS.TS Đỗ Văn Đại,Th.S

Nguyễn Thị Hòa Trâm trên Tạp chí Khoa học pháp lý, trường Đại học Luật Thành

phố Hồ Chí Minh số 2/2012;….

Tuy nhiên, các công trình và bài viết chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát về khoa

học pháp lý đối với quan hệ cạnh tranh nói chung và chống cạnh tranh không lành

mạnh nói riêng hoặc nghiên cứu cạnh tranh trong từng lĩnh vực, dưới từng góc độ

khác nhau. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về

các quy phạm và các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp

Luật Cạnh tranh Việt Nam, đánh giá những bất cập của pháp luật Việt Nam về hành

vi cạnh tranh không lành mạnh và để đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật

nhằm ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

các quan hệ kinh tế diễn ra trong môi trường kinh doanh hiện nay.

4

3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật đối với những hành vi cạnh

tranh không lành mạnh và thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh tại Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2018. Đây là thời gian Luật

Cạnh tranh 2004 có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn thi hành được bổ sung. Đây

cũng là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam có nhiều sự biến động, nhất là từ sau khi gia

nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, điều này đặt ra nhiều thách thức đối với

pháp luật về cạnh tranh tại Việt Nam.

- Phạm vi về không gian: Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

tại Việt Nam.

- Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật đối với

những hành vi cạnh tranh không lành mạnh và chế tài đối với hành vi cạnh tranh

không lành mạnh.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp phân

tích, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, kết

hợp giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt, phương pháp

so sánh luật học được sử dụng để so sánh các quy định có liên quan đến hành vi

cạnh tranh không lành mạnh qua các thời kỳ ở việt Nam. Trong đó:

- Phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh

được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh và pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

- Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật

học được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực trạng

áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.

5

- Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải được sử dụng trong Chương

3 khi nghiên cứu để lập luận cho các giải pháp nâng cao hiệu quảáp dụng pháp luật

về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam.

6, Bố cục

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm

3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hành vi cạnh tranh không lành

mạnhvà pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và

thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh ở Việt Nam

6

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM

1.1. Khái quát về cạnh tranh

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh

Theo dòng phát triển của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển

xã hội loài người, có thể thấy, con người luôn đi tìm động lực phát triển trong các

hình thái kinh tế xã hội. Quy luật này dường như đã trở thành một quy luật tất yếu,

cho dù ở hình thái sơ khai nhất, như ở hình thái Cộng sản nguyên thủy (Công xã

nguyên thủy), khi cơ sở kinh tế chỉ dựa trên sở hữu chung về tư liệu sản xuất và

thậm chí xã hội chưa phân hóa giai cấp nên không có sự tồn tại của nhà nước và

pháp luật, hay cho dù xã hội phát triển đến hình thái cao nhất – Cộng sản chủ nghĩa,

với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng. Đã có thời kỳ, thị trường, cạnh

tranh và lợi nhuận được coi như là mặt trái gắn liền với chủ nghĩa tư bản và bị gạt ra

khỏi công cuộc xây dựng thể chế kinh tế thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Lúc đó, các

Nhà nước xã hội chủ nghĩa coi việc nắm giữ sức mạnh kinh tế kết hợp với yếu tố kế

hoạch tập trung như là những động lực cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã

hội, thực hiện công bằng, dân chủ và văn minh ( PGS.TS. Lê Danh Vĩnh, ThS.

Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Giáo trình luật cạnh tranh, NXB. Đại học Quốc Gia

thành phố Hồ Chí Minh ).

Nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau như kinh tế tự

nhiên, kinh tế tập trung và kinh tế thị trường, trong đó kinh tế thị trường là mô hình

được nhiều quốc gia lựa chọn cho quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế. Ở Việt Nam,

mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội lần thứ VI khi

xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên phải đến Đại

hội lần thứ IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

mới chính thức được sử dụng trong Văn kiện của Đảng. Đại hội Đảng XI đã đưa ra

quan điểm về việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

“Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải gắn với nhiều hình

thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức

7

phân phối” ( Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) , Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ

XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội ).

Mặc dù vẫn mang những đặc trưng của kinh tế thị trường nói chung nhưng

nền kinh tế thị trường ở Việt Nam có tính đặc thù riêng, là kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, khác biệt về bản chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ

nghĩa. Và như một hệ quả tất yếu, thị trường Việt Nam bị chi phối bởi quy luật cạnh

tranh, xuất phát từ chính quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa. Cạnh tranh đã đem

lại cho thị trường và cho đời sống xã hội một diện mạo mới, linh hoạt, đa dạng,

phong phú và ngày càng phát triển, đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội

mà trước đây chưa từng xuất hiện như phá sản, kinh doanh gian dối, cạnh tranh

không lành mạnh…

Qua hơn 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường, cạnh tranh trở thành một

khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Cạnh tranh được

hiểu là sự ganh đua giành ưu thế giữa những người hoạt động trong cùng một lĩnh

vực hoặc có chung một mục đích. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có một khái niệm

đầy đủ và thống nhất về cạnh tranh, bởi ở mỗi góc độ nghiên cứu, cạnh tranh lại có

những đặc điểm về chủ thể, hành vi và mục đích thực hiện khác nhau. Dưới góc độ

kinh tế, có thể hiểu cạnh tranh là hành vi do các doanh nghiệp, thương nhân hoạt

động trên thị trường thực hiện, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, thu được nhiều lợi

nhuận nhất trong phạm vi kinh doanh của mình. Khái niệm cạnh tranh theo một số

tài liệu nước ngoài cũng có sự khác biệt, từ điển kinh doanh xuất bản ở Anh năm

1992 định nghĩa cạnh tranh theo hướng quan tâm đến đối tượng của cạnh tranh, theo

đó, cạnh tranh là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường

nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng

về phía mình”.( Nguyễn Hưu Huyên (2004), Luật cạnh tranh của Pháp và Liên minh

châu Âu, NXB Tư Pháp, Hà Nội ). Tuy nhiên, cuốn Black’s law Dictionary lại diễn

tả cạnh tranh một cách khái quát và gắn với mục đích của cạnh tranh, đó là “sự nỗ

lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân, nhằm tranh giành những lợi ích

giống nhau từ chủ thể thứ ba”.( Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc

quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,

8

Hà Nội). Theo Từ điển tiếng Việt, cạnh tranh là việc cố gắng giành phần hơn, phần

thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như

nhau..( Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt (1997), Trung tâm từ điển học, NXB

Đà Nẵng ).

Tùy thuộc vào ý định và hướng tiếp cận của các nhà khoa học, cạnh tranh

được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy các lý thuyết

về kinh tế đều thống nhất rằng, cạnh tranh là hoạt động của các chủ thể kinh doanh

nhằm tranh giành thị trường, lôi kéo khách hàng về phía mình, cạnh tranh là sản

phẩm riêng có của kinh tế thị trường, là linh hồn và là động lực cho sự phát triển

của thị trường.

1.1.2. Bản chất và vai trò của cạnh tranh

Nếu nhìn khái quát trên quy mô toàn xã hội thì cạnh tranh là phương thức

phân bổ các nguồn lực, tài nguyên một cách tối ưu, vì vậy, nó là động lực phát triển

bên trong của nền kinh tế. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong điều kiện của nền kinh tế

thị trường, nơi mà cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh

hồn sống của thị trường (Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh (2001), Tiến tới

xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường

ở Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội ). Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã

chỉ ra rằng cạnh tranh có bản chất kinh tế - xã hội của nó. Bản chất kinh tế của cạnh

tranh thể hiện mục đích tạo lập cho chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh một ưu thế

chi phối thị trường gắn liền với lợi nhuận. Bản chất xã hội của cạnh tranh thể hiện ở

đạo đức kinh doanh và uy tín của mỗi chủ thể cạnh tranh trong mối quan hệ đối với

các chủ thể tạo ra tiềm lực cạnh tranh của doanh nghiệp, quan hệ với người tiêu

dùng và các đối thủ cạnh tranh khác. Dưới tác động điều tiết vĩ mô của nhà nước

đối với hoạt động cạnh tranh, cạnh tranh ở mỗi quốc gia còn có bản chất chính trị

khác nhau, phụ thuộc vào sự hoạch định và thực thi chính sách kinh tế và chính sách

xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển nhất định.

Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là lõi vật chất, giá cả là

diện mạo thì cạnh tranh chính là linh hồn của thị trường. Nhờ có cạnh tranh, cùng

9

với sự thay đổi liên tục về nhu cầu và bản tính tham lam của con người mà nền kinh

tế thị trường đã có những bước phát triển nhảy vọt chưa xuất hiện được trong các

hình thái kinh tế trước đó. Sự ham muốn không có điểm dừng đối với lợi nhuận của

nhà kinh doanh trở thành động lực thúc đẩy họ sáng tạo không mệt mỏi, vì vậy mà

cạnh tranh chính là động lực của sự phát triển. Theo đó, cạnh tranh có những vai trò

cơ bản sau đây: (Lê Danh Vĩnh, Giáo trình luật canh tranh (2010), Đại học Kinh tế -

Luật, Đại học quốc gia Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh ).

Thứ nhất, cạnh tranh điều chỉnh quan hệ cung cầu trên cơ sở quyền tự do lựa

chọn của người tiêu dùng. Người tiêu dùng có thể dễ dàng tìm thấy hàng hóa, dịch

vụ mà họ muốn với giá tốt nhất và chất lượng cao nhất. Trong môi trường cạnh

tranh, chủ thể kinh doanh khó có thể bóc lột người tiêu dùng vì luôn có rất nhiều đối

thủ khác sẵn sàng chào bán với giá cả và chất lượng tốt hơn.

Thứ hai, cạnh tranh tạo sức ép, buộc các chủ thể kinh doanh liên tục đổi mới,

theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đồng thời phải phân bổ nguồn lực một

cách hiệu quả để tạo ra sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh trên thị trường, từ đó

cạnh tranh trở thành động lực bên trong thức đẩy nền kinh tế phát triển.

Thứ ba, cạnh tranh tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất thích ứng vói hàng loạt sự

biến động của nhu cầu xã hội và đổi mới công nghệ, thúc đẩy việc ứng dụng các

tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong kinh doanh. Bởi chính sự khác biệt trong công nghệ

sản xuất, chế biến và quy trình vận hành là một trong những lợi thế cạnh tranh của

các doanh nghiệp trên thị trường.

Thứ tư, cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục

trong đời sống kinh tế. Chính vì vậy, cạnh tranh giúp tạo ra sự đổi mới chung,

thường xuyên và liên tục, vì vậy đem lại sự tăng trưởng kinh tế chung cho toàn xã

hội.

Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực nhất định, thể hiện ở xu

hướng phân hóa của các doanh nghiệp, gia tăng hiện tượng phân hóa giàu nghèo

trong xã hội. Đồng thời, chính sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường là nguyên nhân

khiến cho các doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém bị phá sản, kéo theo nhiều hệ

quả xấu như nạn thất nghiệp, tệ nạn, lừa đảo, trộm cắp… gây mất ổn định xã hội và

10

là sức ép đối với chính sách kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Ngoài ra, cạnh

tranh không lành mạnh cũng tạo ra những hệ lụy xấu đối với người tiêu dùng và các

chủ thể kinh doanh khác trên thị trường.

1.1.3. Phân loại các hình thức cạnh tranh

Cạnh tranh có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, vì vậy, việc

phân loại cạnh tranh cũng phụ thuộc vào những tiêu chí cụ thể của từng góc độ nhất

định. Trong kinh tế học và khoa học pháp lý, các nhà nghiên cứu có nhiều cách

phân loại cạnh tranh khác nhau dể phục vụ các nhiệm vụ nghiên cứu hoặc cho công

tác xây dựng chính sách pháp luật. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về cạnh tranh,

có thể thấy một số cách phân loại cạnh tranh như sau:

Thứ nhất, căn cứ vào tính chất, mức độ can thiệp của nhà nước vào đời sống

kinh tế, cạnh tranh được chia thành hai loại là cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự

điều tiết của nhà nước;

Thứ hai, căn cứ vào đặc tính, cấu trúc của thị trường (bao gồm số lượng

người mua và bán, loại hàng hóa được sản xuất, bẩn chất của rào cản gia nhập thị

trường), các nhà kinh tế học chia cạnh tranh được thành cạnh tranh hoàn hảo, cạnh

tranh không hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền;

Thứ ba, căn cứ vào tính chất của các phương thức cạnh tranh, các hành vi

cạnh tranh được chia làm hai loại là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành

mạnh;

Thứ tư, căn cứ vào tác động bất lợi của hành vi cạnh tranh gây ra đối với môi

trường cạnh tranh, pháp luật của một số nước chia cạnh tranh thành hành vi hạn chế

cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh

1.2.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Cạnh tranh là một trong những quy luật quan trọng của nền kinh tế thị trường,

nó là động lực thúc đẩy sự phát triển để đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng, người

tiêu dùng và được nhà nước bảo vệ. Hành vi cạnh tranh sẽ được coi là cạnh tranh

11

lành mạnh nếu doanh nghiệp cạnh tranh bằng cách thức phù hợp với các quy định

của pháp luật và các chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường. Tuy nhiên, thay

vì nỗ lực để nâng cao lợi nhuận và tìm kiếm khách hàng một cách chính đáng,

không ít doanh nghiệp đã lựa chọn những cách thức và phương pháp mà pháp luật

không cho phép, bằng cách tiến hành các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đi

ngược lại với các nguyên tắc trung thực, thiện chí, hoặc các thông lệ, tập quán được

chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong kinh doanh, nhằm tạo lợi thế cạnh tranh bất

chính cho mình. Các hành vi này được xem là có hại đối với môi trường cạnh tranh

và bị pháp luật cấm thực hiện.

Để đưa ra một định nghĩa chính xác, đầy đủ về cạnh tranh không lành mạnh

là một việc không dễ, bởi nội hàm của nó luôn có sự thay đổi tùy thuộc vào nhận

thức của từng giai đoạn lịch sử ở từng quốc gia khác nhau cũng như sự thay đổi,

tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Nguyên nhân khiến khái niệm cạnh tranh không lành

mạnh rất khó định nghĩa còn do hình thức biểu hiện của nó ngày càng trở nên tinh

vi, xảo quyệt và phức tạp hơn. Một cách khái quát nhất, có thể hiểu, cạnh tranh

không lành mạnh là những hành vi đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và

truyền thống kinh doanh, xâm phạm lợi ích của các nhà kinh doanh khác, lợi ích của

người tiêu dùng và lợi ích của xã hội.

Tại khoản 2 Điều 10 Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,

được bổ sung vào Công ước năm 1990 và sửa đổi lần cuối theo Văn bản Stockholm

1967 cho rằng bất kỳ hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thông lệ trung thực,

thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi cạnh tranh không

lành mạnh. Việc sử dụng các tiêu chí về tập quán, đạo đức hay như trong trường

hợp này là “các thông lệ trung thực, hợp lí” để xác định phạm vi một khái niệm

pháp lý sẽ đưa đến những điểm không rõ ràng. Thực tế Điều 10 Công ước Paris chỉ

mô tả một cách khái quát, mang tính định hướng và bỏ ngỏ khái niệm này cho pháp

luật quốc gia của các nước thành viên Công ước tự định đoạt. Tuy nhiên đến cấp độ

quốc gia, mọi nỗ lực nhằm bao quát trong một định nghĩa tất cả các hoạt động cạnh

tranh hiện tại và trong tương lai, đồng thời xác định mọi hành vi bị ngăn cấm đủ để

thích nghi với những thông lệ thị trường mới vẫn là một khó khăn. Mặc dù vậy,

12

không có nghĩa là không có phạm vi điều chỉnh đối với hành vi cạnh tranh không

lành mạnh. Điều 10 Công ước Paris đã đưa ra một danh sách khái quát bao gồm ba

hình thức cạnh tranh không lành mạnh đặc biệt bị cấm bao gồm:

- Mọi hành vi nhằm gây ra sự nhầm lẫn, bằng bất kỳ phương tiện nào, với cơ

sở, hàng hóa hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh;

- Những tuyên bố sai trái trong công việc nhằm làm mất uy tín của cơ sở, hàng

hóa hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh;

- Những chỉ dẫn hoặc tuyên bố sử dụng trong quá trình kinh doanh nhằm lừa

dối công chúng về bản chất, quy trình sản xuất, đặc điểm, sự phù hợp về mục

đích, hoặc số lượng của hàng hóa.

Phạm vi về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Công ước Paris tương

đối hẹp, chủ yếu hướng tới các hành vi mang tính chất gian dối trong hoạt động

thương mại. Vì vậy, nội dung Điều 10 Công ước Paris chỉ có thể coi là những ví dụ

điển hình về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Đối với mỗi quốc gia,

xuất phát từ sự khác biệt trong đặc trưng của nền kinh tế và mức độ phát triển của

công nghệ kỹ thuật, hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại có những biểu hiện

khác biệt, do vậy, trong quá trình xây dựng các chế định của pháp luật về cạnh tranh,

mỗi quốc gia trên thế giới đã đưa ra các khái niệm khác nhau về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh.

Luật cạnh tranh Bungary năm 1991 nêu ra định nghĩa tại Khoản 2 điều 12:

“Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi hoặc biểu hiện tiến hành các hoạt động

kinh tế trái với tiêu chuẩn thông thường về kinh doanh trung thực, gây hại hoặc có

thể gây hại tới những lợi ích của các đối thủ cạnh tranh khác trong mối quan hệ giữa

họ và người tiêu dùng”.

Luật cạnh tranh không lành mạnh Trung Quốc năm 1993 quy định: “Cạnh

tranh không lành mạnh là hoạt động của doanh nghiệp trái với quy định của luật này

gây thiệt hại cho quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp khác và làm rối loạn

trật tự kinh tế xã hội.”

13

Luật cạnh tranh Lào năm 2015 định nghĩa cạnh tranh không lành mạnh bằng

cách liệt kê cụ thể các hành vi đó. Theo đó, tại điều 8 quy định: “Cạnh tranh không

lành mạnh là hoạt động của một hoặc một nhóm doanh nghiệp, có hành vi được quy

định tại điều 9 của Luật này”. Tiếp đó, điều 9 quy định rõ một số loại hành vi được

coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí

mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp khác; gây rối

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh không

lành mạnh; khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh; hành vi phân biệt đối xử

của hiệp hội và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác mà được quy định

trong pháp luật và quy chế có liên quan.

Như vậy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được pháp luật của nhiều

quốc gia đề cập đến, mặc dù chưa có khái niệm nào mang tính triệt để, nhưng mỗi

khái niệm đều góp phần vẽ thêm một vài chi tiết để tạo ra một bức tranh hoàn thiện

về khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ở Việt Nam, trước khi Luật cạnh

tranh 2004 ra đời, cũng có một số văn bản pháp luật đề cập tới vấn đề cạnh tranh

không lành mạnh như: Điều 8 Luật thương mại 1997, Bộ luật hình sự 1999, Pháp

lệnh về quảng cáo 2001, Nghị định 24/2003/NĐ-CP ngày 13/03/2003. Tuy nhiên,

chưa có một văn bản nào đưa ra khái niệm về hành vi này mà phải cho tới khi Luật

cạnh tranh 2004 được xây dựng thì mới có một khái niệm về cạnh tranh không lành

mạnh được quy định tại khoản 4 Điều 3: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là

hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn

mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại

đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc

người tiêu dùng. Tiếp theo đó, điều 39 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định rõ một

số loại hành vi được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: chỉ dẫn gây

nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh

nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm

cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; phân

biệt đối xử của hiệp hội; bán hàng đa cấp bất chính và các hành vi cạnh tranh không

lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 do Chính phủ quy định.

14

Dù có những quan điểm khác nhau khi định nghĩa về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh giữa pháp luật các nước và điều ước quốc tế, nhưng vẫn có thể

thấy một điểm chung giữa các khái niệm này, đó là hành vi cạnh tranh giữa các

doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và đi ngược lại các

nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm hại hoặc có thể gây

hại tới lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người

tiêu dùng.

1.2.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh do các chủ thể kinh doanh

trên thị trường thực hiện.

Chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh

2004 là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây, phạm trù

“doanh nghiệp” theo quy định của Luật cạnh tranh có phạm vi rộng hơn so với quy

định tại Khoản 7 Điều 4 Luật doanh nghiệp. Cụ thể, theo Luật doanh nghiệp, doanh

nghiệp chỉ bao gồm các tổ chức kinh tế còn “doanh nghiệp” theo quan niệm của

Luật cạnh tranh thì không chỉ gồm tổ chức kinh tế mà còn hàm chứa cả các cá nhân

kinh doanh. Như vậy, hiểu một cách khái quát, hành vi cạnh tranh không lành mạnh

được thực hiện bởi tất cả các tổ chức kinh tế và cá nhân tham gia tìm kiếm lợi

nhuận trên thị trường một cách thường xuyên và chuyên nghiệp, có tư cách thương

nhân trên thị trường. Trong đó, tổ chức kinh tế được hiểu là các tổ chức được thành

lập dưới mô hình doanh nghiệp như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,

công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân hoặc mô hình hợp tác xã. Cá nhân kinh

doanh được hiểu là cá nhân có đăng kí kinh doanh và cá nhân không đăng kí kinh

doanh, cụ thể: cá nhân có đăng ký kinh doanh được pháp luật quy định là hộ kinh

doanh, còn cá nhân không đăng lý kinh doanh bao gồm những người buôn bán

rong; buôn bán vặt; buôn chuyến; thực hiện các dịch vụ như đánh giày, bán vé số,

chữa khóa… không có địa điểm cố định;…(theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số

39/2007/NĐ-CP về cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên

không phải đăng ký kinh doanh). Trên một phạm vi rộng hơn, các quy định về cạnh

15

tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi của nhóm doanh nghiệp

hoạt động có tổ chức là Hiệp hội doanh nghiệp.

Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải nhằm mục đích cạnh

tranh.

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là yếu tố sống còn của các doanh

nghiệp, quy luật cạnh tranh cũng giống như những quy luật tồn tại và đào thải của

tự nhiên: chiến thắng luôn thuộc về kẻ mạnh. Do vậy, mục đích của cạnh tranh là

một trong những yếu tố bắt buộc để xác định một hành vi của doanh nghiệp, hiệp

hội có phải là hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không. Mặt khác, phạm vi

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn được giới hạn bởi chức năng kinh

doanh của nó. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải do các chủ thể trên thực

hiện trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, các

hành vi khác nằm ngoài chức năng kinh doanh của những chủ thể không được coi là

hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra, mục đích của cạnh tranh cũng là yếu

tố bắt buộc để xác định một hành vi là cạnh tranh lành mạnh hay không. Nếu hành

vi của doanh nghiệp không nhằm mục đích cạnh tranh thì đó không phải là hành vi

cạnh tranh và do đó không thể là hành vi cạnh tranh không lành mạnh nên sẽ không

thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật cạnh tranh 2004.

Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi trái với các chuẩn

mực thông thường về đạo đức kinh doanh.

Đặc điểm này của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là căn cứ để xác định

bản chất không lành mạnh của hành vi cạnh tranh. Tuy nhiên, chuẩn mực thông

thường về đạo đức kinh doanh là một khái niệm mang tính trừu tượng, rất khó để

xác định, nó phụ thuộc vào quan niệm truyền thống kinh doanh của mỗi quốc gia

hay từng vùng, miền nhất định. Tuy nhiên, có thể hiểu thuật ngữ “chuẩn mực thông

thường của đạo đức kinh doanh” dựa vào hai căn cứ sau đây:

Một là, căn cứ luật định: là những tiêu chuẩn đã được định lượng, định hình

bằng pháp luật, một khi trái với các quy định của pháp luật sẽ được xem là không

16

lành mạnh. Trong trường hợp này, hành vi cạnh tranh không lành mạnh đồng nghĩa

với các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp. Theo đó, hành vi cạnh tranh không lành

mạnh có thể là hành vi của cá nhân, tổ chức kinh doanh vi phạm điều cấm của pháp

luật (bao gồm các quy định cấm của Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật có

liên quan khác như Luật thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về sở hữu

trí tuệ…) hoặc là hành vi vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh được pháp luật quy

định cũng là những nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự, thương mại như

nguyên tắc về tính trung thực, tự nguyện, thiện chí, hợp tác… được quy định tại các

văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp…

Hai là, căn cứ theo các tập quán kinh doanh thông thường: là những tập

quán đã được thừa nhận rộng rãi sẽ được áp dụng đối với những hành vi chưa được

pháp luật dự liệu là cạnh tranh không lành mạnh. Nói cách khác, căn cứ này là biện

pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một

hành vi cụ thể nhưng khi thực hiện hành vi này đã xâm hại đến quyền cạnh tranh

của các cá nhân, tổ chức kinh doanh khác, xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp

của người tiêu dùng và trái với tập quán kinh doanh. Căn cứ này đã mở rộng khả

năng điều chỉnh và khắc phục tình trạng “sớm” lạc hậu của pháp luật cạnh tranh.

Cho đến nay, Luật cạnh tranh chưa quy định những tập quán kinh doanh nào được

coi là các chuẩn mực đạo đức thông thường. Chính vì vậy, tính trái chuẩn mực đạo

đức thông thường trong kinh doanh của hành vi cạnh tranh không lành mạnh đòi hỏi

pháp luật cạnh tranh phải luôn được chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.

Thứ tư, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải gây thiệt hại hoặc có thể

gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp khác, hoặc của người

tiêu dùng.

Theo điều 4 Luật cạnh tranh 2004 thì doanh nghiệp được quyền tự do cạnh

tranh trong khuôn khổ của pháp luật, nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp

trong kinh doanh. Tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện quyền tự do

kinh doanh mà gây thiệt hại đến các chủ thể khác thì sẽ bị xếp vào nhóm hành vi

cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có đối tượng

17

xâm hại cụ thể tới lợi ích nhà nước (tác động xấu đến thị trường, làm đảo lộn trật tự

quản lý kinh tế…); lợi ích của các doanh nghiệp khác (bị mất uy tín, giảm thị phần,

giảm doanh thu) và lợi ích của người tiêu dùng (bị nhầm lẫn, mua hàng kém chất

lượng, bị giảm sút về sức khỏe, thậm chí thiệt hại về tính mạng…). Như vậy, hành

vi cạnh tranh không lành mạnh có thể tác động đến nhiều đối tượng khác nhau theo

Luật cạnh tranh Việt Nam, bao gồm các đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng và Nhà

nước. Theo nghiên cứu, phần lớn các quốc gia có quy định về vấn đề bảo vệ lợi ích

của Nhà nước trước hành vi cạnh tranh không lành mạnh thường là các quốc gia có

nền kinh tế mà ở đó, nhà nước tham gia sâu vào hoạt động kinh doanh và cạnh tranh

trực tiếp với các thành phần kinh tế khác trên thị trường.

Bên cạnh đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là hiện thực đã xảy ra nhưng

cũng có thể chỉ là tiềm năng, tức là có căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ

xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi. Do đó, một số hành vi cạnh tranh không lành

mạnh có cấu thành vật chất với thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc như gièm pha doanh

nghiệp khác; một số hành vi lại có cấu thành hình thức với thiệt hại không là dấu

hiệu bắt buộc mà có thể chỉ là sự suy đoán rằng nếu hành vi tiếp tục được thực hiện,

ví dụ như hành vi quảng cáo không trung thực.

Ngoài ra, đặc điểm về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng

là căn cứ để phân biệt giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế

cạnh tranh dưới góc độ lý thuyết. Hạn chế cạnh tranh là những xử sự của doanh

nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp làm thay đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh

tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối với thị trường. Hành vi hạn chế

cạnh tranh có ảnh hưởng xấu đến toàn bộ thị trường, thay đổi cấu trúc thị trường,

thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh

không lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân, kinh doanh khác hoặc

cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý cạnh tranh của nhà nước mà không

gây cản trở, sai lệch hay làm giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường. Vì vậy, cách

thức và mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này sẽ khác nhau.

18

1.2.3. Phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được Luật cạnh tranh liệt kê tại

Điều 39. Dựa vào tính chất của những hành vi này, có thể phân loại chúng thành 3

nhóm: các hành vi mang tính chất lợi dụng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp

khác; các hành vi mang tính chất công kích hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của

các doanh nghiệp khác và các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng của doanh

nghiệp khác.

1.2.3.1. Nhóm các hành vi mang tính chất lợi dụng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác

Đây là nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình được biết đến

dưới nhiều dạng thức khác nhau như: gây nhầm lẫn về nguồn gốc của hàng hóa,

dịch vụ; lợi dụng thành quả đầu tư của người khác; xâm phạm bí mật kinh doanh…

Bản chất của hành vi này là việc chiếm đoạt hay sử dụng trái phép lợi thế cạnh tranh

của doanh nghiệp khác. Đây là dạng hành vi rất dễ gây nhầm lẫn với các hành vi

xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và cạnh

tranh không lành mạnh thoạt nhìn có thể rất nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên, sự

khác nhau giữa hai loại hành vi này xuất phát từ chính bản chất pháp lý của mỗi loại

hành vi: về phạm vi áp dụng, yếu tố chủ thể và yếu tố lỗi.

Về phạm vi áp dụng: chỉ có thể hình thành một hành vi vi phạm quyền sở

hữu trí tuệ khi có một quyền sở hữu trí tuệ hợp pháp đang được bảo hộ bị xâm phạm.

Có nghĩa là chỉ khi đối tượng đã được chủ sở hữu xác lập quyền thông qua việc

đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ thì mới có thể căn cứ vào pháp luật sở hữu trí

tuệ để bảo vệ khi bị xâm phạm. Ví dụ như trường hợp một nhãn hiệu không đăng ký

bị xâm phạm thì hành vi xâm phạm đó không thể là hành vi xâm phạm quyền sở

hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệ bởi chưa phát sinh quyền sở hữu trí tuệ đối với

nhãn hiệu này. Trường hợp này có thể áp dụng luật cạnh tranh để điều chỉnh, theo

đó, hành vi sử dụng chỉ dẫn làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa,

dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh là một dạng của hành vi cạnh tranh không lành

mạnh, không phụ thuộc vào việc dấu hiệu chỉ dẫn đó đã được đăng ký hay chưa.

19

Về yếu tố chủ thể: chỉ có thể là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi các

chủ thể ở vị trí cạnh tranh với nhau. Trong khi đó, hành vi vi phạm quyền sở hữu trí

tuệ có thể do bất kỳ chủ thể nào vi phạm quyền của chủ sở hữu đã được pháp luật

quy định.

Về yếu tố lỗi: hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có lỗi cố ý.

Điều 40 Luật cạnh tranh quy định hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn phải “nhằm mục

đích cạnh tranh”. Do đó, một hành vi không thể là hành vi cạnh tranh không lành

mạnh nếu chủ thể thực hiện không biết mình đang vi phạm điều cấm. Nhưng đối

với lĩnh vực sở hữu trí tuệ, lỗi không phải là yếu tố bắt buộc cấu thành hành vi vi

phạm. Một khi các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã được đăng ký theo đúng

trình tự của pháp luật quy định thì các chủ thể khác được suy đoán là đã biết tới

quyền của chủ sở hữu. Do đó, sẽ cấu thành hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối

với mọi hành vi vi phạm quyền của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khi không được

sự cho phép của chủ sở hữu.

Về nguyên tắc, hành vi cạnh tranh có thể liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ,

tức là bao gồm cả quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, xuất phát

từ tính chất của các đối tượng quyền tác giả là quyền sở hữu công nghiệp thì hành vi

cạnh tranh chủ yếu liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp bởi vì đối tượng của

quyền sở hữu công nghiệp gắn liền với hoạt động thương mại, có giá trị thương mại

cao.

1.2.3.2. Nhóm các hành vi mang tính chất công kích hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

Đây là nhóm hành vi có chung bản chất là tấn công vào đối thủ cạnh tranh,

triệt tiêu hoặc làm suy giảm các lợi thế cạnh tranh của đối thủ. Các hành vi cụ thể

rất đa dạng, phụ thuộc vào cách thức, mục tiêu công kích. Theo quy định của Luật

cạnh tranh thì nhóm hành vi này bao gồm: hành vi ép buộc trong kinh doanh; hành

vi gièm pha doanh nghiệp khác và hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp khác.

20

Thứ nhất, hành vi ép buộc trong kinh doanh được quy định tại Điều 42 Luật

cạnh tranh. Theo đó, phương thức thực hiện hành vi là dùng áp lực để đe dọa hoặc

cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh doanh không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với

đối thủ cạnh tranh của mình khiến cho khách hàng hay đối tác kinh doanh đó mặc

dù không muốn nhưng vẫn phải thực hiện hành vi nêu trên, nếu không sẽ bị bất lợi

trong kinh doanh và ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Mục đích thực hiện hành vi là

nhằm lôi kéo khách hàng, đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh để từ đó buộc

họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó. Kết quả là làm giảm

lượng khách hàng hoặc đối tác làm ăn của đối thủ cạnh tranh với mình.

Thứ hai, hành vi gièm pha doanh nghiệp khác là một loại hành vi cạnh tranh

không lành mạnh và tương đối phổ biến trong hoạt động kinh doanh, nhằm loại bỏ

đối thủ cạnh tranh trong hoặc kìm hãm sự phát triển của đối thủ cạnh tranh thông

qua việc làm giảm uy tín của đối thủ. Hành vi này được biểu hiện dưới nhiều hình

thức khác nhau. Doanh nghiệp có thể trực tiếp cung cấp thông tin cho khách hàng

bằng lời nói, văn bản, hoặc cũng có thể cung cấp thông tin gián tiếp qua một bên

thứ ba đến khách hàng. Nội dung có thể là những thông tin tiêu cực, không có

nguồn gốc hoặc thậm chí sai lệch liên quan đến chất lượng sản phẩm, tình hình tài

chính, uy tín và đạo đức của người quản lý… Những thông tin này tác động đến

nhận thức và đánh giá của chính khách hàng, người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ

cũng như tình hình kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ, nhằm mục đích khiến

khách hàng ngừng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của đối thủ.

Thứ ba, hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác quy

định tại Điều 41 của Luật cạnh tranh. Đó là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

nhằm vào đối thủ cạnh tranh và xâm phạm trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh. Phương

thức thực hiện là gây rối, quấy phá hoạt động kinh doanh của đối thủ. Các hành vi

này có thể do doanh nghiệp trực tiếp thực hiện hoặc thông qua chủ thể thứ ba,

nhưng phải đảm bảo điều kiện về mối quan hệ nhân quả, tức là, chính các hành vi

gây rối là tác nhân trực tiếp ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của đối thủ

cạnh tranh. Mục đích của hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

khác là làm gián đoạn quá trình kinh doanh bình thường của doanh nghiệp, ảnh

21

hưởng đến hiệu quả, uy tín và khả năng cạnh tranh của đối thủ trên thương trường

cũng như khả năng cạnh tranh với chính doanh nghiệp có hành vi gây rối.

1.2.3.3. Nhóm các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng của doanh nghiệp khác

Bản chất của nhóm hành vi này là tạo ra một lợi thế cạnh tranh gian dối để

lôi kéo khách hàng, người tiêu dùng thông qua các hành vi như quảng cáo gian dối,

khuyến mãi không trung thực… Đối tượng chịu tác động trực tiếp của các hành vi

này là khách hàng và người tiêu dùng, còn các doanh nghiệp cạnh tranh khác chỉ

chịu ảnh hưởng gián tiếp từ hành vi này thông qua việc khách hàng mất niềm tin đối

với hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra, các hành vi này có tác động xấu đến thị trường

chung, khiến thị trường thiếu minh bạch, làm sai lệch tính chất giao dịch giữa các

chủ thể tham gia trên thị trường, vì vậy, ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh

chung của các doanh nghiệp. Theo quy định của Luật cạnh tranh 2004, những hành

vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mãi nhằm cạnh tranh

không lành mạnh và bán hàng đa cấp bất chính đều thuộc nhóm hành vi này.

1.3. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

1.3.1. Khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu, là động lực phát triển của

thị trường và đã có một thời kỳ nguyên tắc tự do cạnh tranh được tôn trọng tuyệt đối

nên nhà nước không can thiệp vào hoạt động cạnh tranh trên thị trường. Điều này lý

giải vì sao cạnh tranh xuất hiện cùng với sự ra đời của nền kinh tế thị trường nhưng

pháp luật để điều tiết cạnh tranh đã xuất hiện muộn hơn rất nhiều. Tuy nhiên, cùng

với sự phát triển của xã hội và xu hướng hội nhập toàn cầu, hành vi cạnh tranh dần

bị biến tướng theo chiều hướng tiêu cực, tác động xấu đến môi trường kinh doanh;

ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan. Do vậy, đòi

hỏi cần phải có sự can thiệp và điều tiết của nhà nước đối với môi trường cạnh tranh

và các hành vi cạnh tranh trên thị trường. Đó chính là lý do có sự xuất hiện của

pháp luật cạnh tranh với tư cách là công cụ chủ yếu và hữu hiệu của Nhà nước,

trước mắt quản lý các hành vi cạnh tranh, mà mở rộng ra là điều tiết sự phát triển

của nền kinh tế. (Nhà pháp luật Việt-Pháp và Cục quản lí cạnh tranh, tài liệu hội

22

thảo: “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Từ hai góc nhìn Á – Âu”, Hà Nội, ngày 27

– 28/9/2010).

Cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện và bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại là

các quy định về tự do kinh doanh và quyền được tồn tại bình đẳng của các doanh

nghiệp. Chỉ khi nào được tự do gia nhập thị trường, tự do giao kết và bảo đảm

quyền sở hữu thì lúc đó các chủ thể tham gia thị trường mới có đủ năng lực để quyết

định phương thức kinh doanh. Và chỉ khi đó, cạnh tranh mới có đất để tồn tại và

phát huy tác dụng. Với tư cách là lĩnh vực pháp luật đặc thù của nền kinh tế thị

trường, pháp luật cạnh tranh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh và loại bỏ mọi hạn chế cạnh tranh trên thị trường.

Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi

cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường, đồng thời bao gồm cả các

quy định đảm bảo thực thi luật cạnh tranh trên thực tế. Đó là các quy định về tổ

chức và hoạt động của cơ quan nhà nước thi hành luật cạnh tranh; trình tự thủ tục

xử lý vụ việc cạnh tranh; các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Ở

các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và có hệ thống pháp luật phát triển như

Anh, Pháp, Mỹ… thì nguồn của pháp luật cạnh tranh còn bao gồm cả thực tiễn xét

xử của Tòa án, của các cơ quan cạnh tranh và các báo cáo, luận chứng trong quá

trình xây dựng pháp luật, các lý thuyết trong lĩnh vực cạnh tranh được công nhận

rộng rãi (Nguyễn Thị Vân Anh, Giáo trình luật cạnh tranh (2016), Trường Đại học

Luật Hà Nội, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội).

Theo nghĩa kinh điển, pháp luật cạnh tranh chỉ bao hàm các quy định ngăn

cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Sở dĩ như vậy là vì trong thời kỳ

của chủ nghĩa tư bản tự do, con người chưa biết đến hiện tượng độc quyền và những

tác hại của nó. ( Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2001), Cạnh tranh và xây

dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội).

Đến cuối thế kỷ XIX, pháp luật cạnh tranh đã được mở rộng và có những thay đổi

rất cơ bản về nội dung cũng như phương pháp điều chỉnh. Đặc biệt, sự ra đời của

luật Batman năm 1890 đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của pháp luật

23

cạnh tranh. Theo đó, nội dung của pháp luật được mở rộng hơn, nhà nước đã thực

sự nhận thức và giành quyền quản lý thị trường, điều tiết cạnh tranh không chỉ bằng

cách loại bỏ các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh mà còn tạo ra các thiết chế

pháp lý ngăn chặn và loại bỏ các rào cản nhân tạo cũng như tự nhiên để bảo vệ cho

thị trường cạnh tranh.

Mặc dù cách làm luật và kỹ thuật điều chỉnh có khác nhau qua các thời kì

nhưng nhận thức về khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh về

cơ bản là thống nhất. Theo đó, có thể định nghĩa pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh là hệ thống các quy tắc xử sự, những nguyên tắc pháp luật do nhà

nước ban hành, nhằm đảm bảo quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh, bảo vệ lợi

ích của mọi chủ thể sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ tham gia cạnh tranh trên

thị trường, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của toàn xã hội. Mục đích

của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh là bảo đảm và lợi ích hợp

pháp cho chủ thể kinh doanh, người tiêu dùng mà cao hơn là nhằm răn đe, ngăn cấm

mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh có nguy cơ xâm hại và làm vẩn đục môi

trường cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế.

1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhiều quy định nằm tại các lĩnh

vực pháp luật khác nhau trong khuôn khổ hệ thống pháp luật điều chỉnh nền kinh tế

thị trường nói chung. Nhìn chung, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo

quy định của pháp luật Việt Nam chưa có sự hệ thống đầy đủ cũng như chưa thể

hiện được triết lý lập pháp rõ ràng, nhiều quy định còn chồng chéo, chịu sự điều

chỉnh của cả Luật cạnh tranh và Luật sở hữu trí tuệ. Một số quy định về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh được tiếp thu từ kinh nghiệm xây dựng pháp luật cạnh

tranh của các quốc gia phát triển tại các giai đoạn lịch sử khác nhau, một số khác

xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của công tác quản lý hoạt động thương mại trong

nước.

Ngoài nội dung các điều luật tại chương 3 Luật cạnh tranh, chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể về hành vi cạnh tranh không lành mạnh như hành vi hạn chế cạnh

24

tranh và tố tụng cạnh tranh. Ngoài ra, thẩm quyền thực thi pháp luật về cạnh tranh

không lành mạnh tại Việt Nam thuộc về cơ quan hành chính là Cục quản lý cạnh

tranh trực thuộc Bộ Công thương, mà không phải là Tòa án ( Trung tâm pháp luật

cạnh tranh – Khoa pháp luật kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, tài liệu hội thảo:

“Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, Hà Nội,

ngày 10/9/2010). Quy định này cũng sẽ hạn chế đáng kể khả năng các điều luật

được giải thích, cụ thể hóa thông quá các án lệ, vốn đóng một vai trò quan trọng

trong sự phát triển của lĩnh vực pháp luật này.

Nhìn chung, hiện nay, nguồn của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật quy định trực tiếp về cạnh tranh

không lành mạnh như sau:

- Bộ luật dân sự: Các chế định liên quan đến giao dịch dân sự (chương VIII),

bồi thường thiệt hại (chương XX)

- Luật cạnh tranh: bao gồm các quy định tại Khoản 4 Điều 3, các điều từ

điều 39 đến điều 48 (chương III), ngoài ra có thể kể đến các điều khoản tại chương

V liên quan đến trình tự, thủ tục điều tra, xử lý ccs hành vi cạnh tranh không lành

mạnh;

- Luật sở hữu trí tuệ, Khoản 3 Điều 130 và Điều 211;

- Nghị định của chính phủ số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 về việc quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh;

- Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/09/2005 về xử lý vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;

- Nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/08/2005 về quản lý

hoạt động bán hàng đa cấp: Riêng đối với văn bản này, có thể kể thêm cả Thông tư

số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005/NĐ-Chính phủ);

- Nghị định số 97/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/09/2010 về xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH - THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH

VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM

2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh

2.1.1. Quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh

2.1.1.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh đầu tiên được quy định tại Chương III

của Luật cạnh tranh 2004 là hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Đây có thể coi là hành vi

cạnh tranh không lành mạnh cơ bản, tạo nền tảng ra đời cho pháp luật về cạnh tranh

không lành mạnh và trải qua nhiều sự phát triển thay đổi với những học thuyết pháp

lý khác nhau. Đồng thời, đây là quy định phản ảnh rõ nét mối quan hệ bổ sung,

tương tác giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật sở hữu trí tuệ.

Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn bao gồm hai dạng vi phạm cụ thể: một là hành vi sử

dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh

doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý… làm sai lệch nhận thức của

khách hàng về hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh; và hai là hành vi kinh

doanh các sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

Luật Cạnh tranh không quy định khái niệm chỉ dẫn thương mại mà chỉ liệt kê

một số đối tượng được coi là chỉ dẫn thương mại, bao gồm: tên thương mại, khẩu

hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và những dấu hiệu

khác theo quy định của Chính phủ. thể nói, chỉ dẫn thương mại là cơ sở quan trọng

để khách hàng nhận biết sản phẩm của một doanh nghiệp cụ thể và là những dấu

hiệu để phân biệt chúng trong những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Về giá trị

kinh tế, các đối tượng nói trên là kết quả đầu tư của doanh nghiệp trong việc xây

dựng danh tiếng cho sản phẩm của mình. Do vậy, việc xâm phạm chỉ dẫn thương

mại của doanh nghiệp khác được coi là những hành vi không lành mạnh.

Đối với hành vi sử dụng các chỉ dẫn chứa đựng những thông tin gây nhầm

lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ

26

dẫn địa lý… làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá, dịch vụ nhằm mục

đích cạnh tranh, doanh nghiệp được giả định vi phạm đã sử dụng các chỉ dẫn

thương mại có nội dung trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn của doanh nghiệp khác để

gây nhầm lẫn cho khách hàng. Luật Cạnh tranh, khả năng gây nhầm lẫn được hiểu

là khả năng làm sai lệch nhận thức của khách hàng làm cho họ không phân biệt

được đâu là sản phẩm chính hiệu và đâu là sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm

lẫn. Về hình thức, doanh nghiệp vi phạm đã sử dụng các chỉ dẫn giống hệt hoặc

tương tự đến mức nhầm lẫn với chỉ dẫn của doanh nghiệp khác đang được bảo hộ.

Khi các chỉ dẫn giống hệt nhau thì việc xác định sự nhầm lẫn sẽ dễ dàng. Nhưng

nếu các chỉ dẫn thương mại không hoàn toàn giống nhau, có nghĩa là vẫn tồn tại

một mức độ khác biệt nhất định, thì pháp luật phải xác định sự khác biệt đến mức

độ nào có thể gây nhầm lẫn và có thể không tạo ra sự nhầm lẫn. Về vần đề này,

Luật cạnh tranh vẫn chưa định lượng mức độ sai số có trong các thông tin của chỉ

dẫn làm nên sự nhầm lẫn.

Đối với hành vi kinh doanh sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn thì

chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp tham gia vào việc phân phối các sản phẩm

có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

2.1.1.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh

Theo khoản 10 Điều 41 Luật Cạnh tranh, năm 2004 bí mật kinh doanh là

thông tin có đủ ba điều kiện là: không phải là hiểu biết thông thường; có khả năng

áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin

đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó;

được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết

lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

Bí mật kinh doanh không phải là kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích,

chỉ dẫn địa lý mà chỉ đơn thuần là những thông tin (không là hiểu biết thông

thường) phát sinh trong kinh doanh; có giá trị sử dụng trong thực tế và đem lại lợi

ích cho người nắm giữ hoặc người sử dụng; đang được chủ sở hữu bảo mật. Phần

lớn pháp luật các quốc gia đều không thể liệt kê những thông tin nào được coi là bí

27

mật kinh doanh và không có cơ chế đăng ký quyền sở hữu đối với bí mật kinh

doanh. Chính vì vậy, các thông tin về nguồn nguyên liệu, nguồn khách hàng tiềm

năng… đều có thể là bí mật kinh doanh của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, rất khó có thể liệt kê một cách đầy đủ các đối tượng của bí mật

kinh doanh, vì vậy mà việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến đối tượng này

khi xác định tính chất bí mật của thông tin, quyết định chính xác mức độ vi phạm

gặp rất nhiều khó khăn. Khi xây dựng Luật Cạnh tranh, đã có ý kiến cho rằng cần

đăng ký bí mật kinh doanh giống như đăng ký các đối tượng thuộc quyền sở hữu

công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ để được bảo hộ bởi luật cạnh tranh. Song, cơ chế

đăng ký bảo hộ đòi hỏi phải được công bố công khai, rộng rãi cho mọi chủ thể được

biết để không vi phạm. Do đó, nếu áp dụng cơ chế này đối với bí mật kinh doanh sẽ

làm cho bí mật của doanh nghiệp mau chóng trở thành không bí mật và sự bảo mật

trở thành vô nghĩa.

Về bản chất, đặc trưng của bí mật kinh doanh đều xoay quanh tính “bí mật”

của thông tin. Thông tin đó không phải là hiểu biết thông thường, có nghĩa là công

chúng nói chung không thể tiếp cận, tìm hiểu thông tin bằng các biện pháp, phương

tiện thông thường. Về giá trị kinh tế, giá trị của thông tin đem lại xuất phát từ yếu tố

bí mật, không phổ biến của nó. Một khi thông tin được bộc lộ, ai cũng biết thì giá trị

thương mại của thông tin và lợi thế cạnh tranh mà nó đem lại cho chủ sở hữu sẽ

không còn. Đặc điểm này cũng đòi hỏi thông tin phải có giá trị ứng dụng về mặt

kinh doanh nói chung, không nhất thiết phải gắn liền với tiến bộ khoa học, kỹ thuật,

công nghệ.

Về tính hợp pháp, chủ sở hữu phải nắm giữ bí mật kinh danh một cách hợp

pháp (thông qua hợp đồng, ủy quyền) và phải bảo mật thông tin bằng các biện pháp

cần thiết, nhằm ngăn cản công chúng và các đối tượng quan tâm tiếp cận, tìm hiểu,

thu thập và phố biến thông tin trên diện rộng. Điều đó có nghĩa là, nếu chủ sở hữu

không có ý thức bảo mật thông tin, vô ý do cẩu thả hoặc chủ động cung cấp thông

tin cho người khác thì cho dù bí mật kinh doanh đó có giá trị thực sự, pháp luật

cũng sẽ từ chối bảo hộ.

28

Luật cạnh tranh và Luật sở hữu trí tuệ gần như đồng nhất trong việc định

dạng các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh bao gồm các hành vi cụ thể sau:

Thứ nhất, hành vi tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng

cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh

đó. Đây là dạng hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh điển hình, khi bên vi phạm

chủ động tiếp cận, thu thập thông tin bằng cách phá vỡ các biện pháp bảo mật của

người có bí mật kinh doanh.

Thứ hai, hành vi tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không

được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh. Hành vi này hướng đến các đối tượng

khác, không trực tiếp chiếm đoạt bí mật kinh doanh từ chủ sở hữu hay người nắm

giữ hợp pháp bí mật. Dù bằng cách nào đó họ có được thông tin về bí mật kinh

doanh của doanh nghiệp, thậm chí trong trường hợp người này tiếp nhận thông tin

một cách ngay tình, pháp luật cũng không cho phép họ sử dụng và lưu truyền thông

tin cho người khác.

Thứ ba, hành vi vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin

của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí

mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó. Đây là dạng hành vi liên quan

đến vi phạm hợp đồng bảo mật, do đó trong nhiều trường hợp cần có sự kết hợp các

quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật dân sự về vi phạm hợp đồng để giải

quyết. Vấn đề cạnh tranh không lành mạnh sẽ được đặt ra trong trường hợp chủ thể

thực hiện hành vi không chỉ vi phạm nghĩa vụ bảo mật theo hợp đồng mà còn sử

dụng các thông tin bảo mật có được từ giao dịch dân sự đó để cạnh tranh, gây bất

lợi cho đối thủ.

Thứ tư, tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác

khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh,

làm thủ tục lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ

quan nhà nước. Việc áp dụng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong trường

hợp này có thể được xem xét kết hợp với việc áp dụng trách nhiệm hành chính và

29

trách nhiệm hình sự của đối tượng đã thực hiện hành vi “chống lại các biện pháp

bảo mật của cơ quan nhà nước”.

Như vậy, việc áp dụng pháp luật cạnh tranh đối với hành vi xâm phạm bí mật

kinh doanh đòi hỏi phải có sự kết hợp với cơ chế bồi thường thiệt hại. Bởi thông tin

khi đã bị bộc lỗ sẽ không bao giờ còn là bí mật nữa và mất đi giá trị của mình. Đối

với các hình thức tài sản trí tuệ khác, cơ chế bảo hộ sau khi xử lý sẽ giúp chủ sở hữu

khôi phục lại đầy đủ nguyên vẹn quyền khai thác, sử dụng của mình, nhưng trong

trường hợp bí mật kinh doanh, khó có thể ngăn chặn bên thứ ba và công chúng nói

chung tiếp nhận và sử dụng thông tin. Do đó, biện pháp khắc phục thiệt hại quan

trọng nhất cần thực hiện là giải quyết bồi thường thiệt hại một lần và toàn bộ giá trị

của bí mật kinh doanh đã bị bộc lộ.

2.1.1.3. Ép buộc trong kinh doanh

Hành vi ép buộc trong kinh doanh được quy định tại điều 42 Luật cạnh tranh:

“Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác

bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao

dịch với doanh nghiệp đó.”. Theo khái niệm trên, hành vi ép buộc trong kinh doanh

có cấu thành pháp lý bao gồm các yếu tố sau đây:

Một là, đối tượng của hành vi là khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của

doanh nghiệp khác. Từ dấu hiệu này, có thể thấy, bằng hành vi của mình doanh

nghiệp vi phạm đã không trực diện giao tiếp với doanh nghiệp khác (đối thủ), mà

tác động đến khách hàng hoặc đối tác của họ. Khách hàng, đối tác kinh doanh có thể

là các tổ chức, cá nhân đang giao dịch hoặc sẽ giao dịch (khách hàng tiềm năng) của

doanh nghiệp khác; có thể là người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân có giao dịch với

doanh nghiệp bị xâm phạm.

Hai là, hình thức của hành vi là doanh nghiệp vi phạm dùng thủ đoạn đe dọa

hoặc cưỡng ép những đối tượng trên để buộc họ không được giao dịch, ngừng giao

dịch với doanh nghiệp khác. Việc đe dọa hoặc cưỡng ép được thực hiện nhằm

khống chế ý chí của khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác. Doanh

30

nghiệp vi phạm có thể trực tiếp hoặc gián tiếp với vai trò tổ chức hoặc thuê mướn

người khác thực hiện các thủ đoạn đe dọa, cưỡng ép các đối tượng trên. Phương

thức đe dọa, cưỡng ép rất đa dạng và không giống nhau trong các vụ việc cụ thể.

Như vậy, hành vi ép buộc trong kinh doanh không bao gồm mục đích ép buộc

người khác phải giao dịch với mình.

Ba là, sự không lành mạnh của hành vi được chứng minh bằng các hậu quả

gây ra cho khách hàng (người tiêu dùng, đối tác của doanh nghiệp khác) và doanh

nghiệp bị xâm hại: Với khách hàng, quyền lựa chọn của họ bị xâm phạm do bị ngăn

trở, bị cưỡng ép mà không thể thiếp lập được giao dịch, không tiếp tục thực hiện

được giao dịch theo ý chí của mình. Quyền lựa chọn bị khống chế sẽ dẫn đến khả

năng khách hàng phải giao dịch với doanh nghiệp vi phạm hoặc người được chỉ

định. Dấu hiệu ép buộc khách hàng phải giao dịch với mình hoặc với người mà

mình chỉ định khi điều tra về hành vi ép buộc không được đặt ra. Hành vi này mang

bản chất côn đồ trong kinh doanh, có thể gây ra những xáo trộn trong xã hội, gây

ảnh hưởng lớn đến trật tự an ninh của cộng đồng, là những dấu hiệu không lành

mạnh trong đời sống kinh doanh đòi hỏi pháp luật và công quyền phải thẳng tay

trừng trị. Với các doanh nghiệp khác, việc không thiết lập, thực hiện được những

giao dịch của họ với khách hàng có thể làm cho tình hình kinh doanh bị ngăn trở,

rối loạn. Mặc dù đối tượng của hành vi ép buộc trong kinh doanh là đối thủ cạnh

tranh trực tiếp của doanh nghiệp vi phạm, song thủ đoạn cản trở khách hàng thiết

lập, thực hiện giao dịch cũng đã làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

khác bị cản trở hoặc bị hạn chế.

2.1.1.4. Gièm pha doanh nghiệp khác

Gièm pha doanh nghiệp khác là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông

tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Từ khái niệm trên, cấu thành pháp lý của

hành vi gièm pha doanh nghiệp khác bao gồm các yếu tố sau đây:

Thứ nhất, hình thức của hành vi là việc trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin

không trung thực về doanh nghiệp khác. Việc đưa thông tin có thể được thực hiện

31

một cách trực tiếp từ doanh nghiệp vi phạm, hoặc gián tiếp thông qua các phương

tiện truyền thông, báo chí. Doanh nghiệp vi phạm có thể thực hiện hành vi công

khai hoặc không công khai. Nội dung của thông tin về doanh nghiệp khác được đưa

ra rất đa dạng như các thông tin về chất lượng sản phẩm, tình hình tài chính, uy tín

và đạo đức của người quản lý, về cổ phiếu…. Những thông tin này tác động đến

nhận thức và đánh giá của khách hàng về sản phẩm, về tình hình kinh doanh của

doanh nghiệp khác. Qua đó, khách hàng sẽ quyết định có hay không việc giao dịch

hoặc tiếp tục giao dịch với doanh nghiệp bị gièm pha.

Doanh nghiệp vi phạm có thể là tác giả hoặc chỉ là người tuyên truyền những

thông tin mà họ thu thập được những thông tin về doanh nghiệp khác. Vấn đề mà

pháp luật quan tâm là tính trung thực (đúng hay sai so với thực tế) của thông tin.

Nếu những thông tin được đưa ra là thông tin trung thực thì không cấu thành hành

vi gièm pha bởi bằng hành vi của mình doanh nghiệp đã giúp cho người tiêu dùng,

các thành viên khác của thương trường có cơ sở để giám sát doanh nghiệp và lựa

chọn đúng đắn sản phẩm theo nhu cầu của họ. Ngược lại, sẽ là cạnh tranh không

lành mạnh nếu những thông tin được đưa ta là không trung thực về doanh nghiệp

khác. Trong trường hợp này, quyền được thông tin của khách hàng đã bị xâm phạm

để qua đó các quyết định không giao dịch hoặc không tiếp tục giao dịch với doanh

nghiệp bị gièm pha không còn đúng đắn.

Thứ hai, hậu quả của hành vi là gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài

chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị thông tin nói đến. Uy tín của

doanh nghiệp phản ảnh niềm tin và sự yêu thích của khách hàng đối với doanh

nghiệp hoặc sản phẩm. Sự giảm sút uy tín của doanh nghiệp bị xâm hại thể hiện ở

sự giảm sút một cách bất thường các giao dịch, doanh số bán ra, doanh thu của

doanh nghiệp, số lượng khách hàng so với trước đó. Những ảnh hưởng xấu của

hành vi gièm pha đối với tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh thể hiện ở các

số liệu kế toán thống kê, những biến động bất thường của tình hình tài chính, những

sự kiện làm rối loạn hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp…. Khi

điều tra về hành vi gièm pha doanh nghiệp khác, hậu quả phải được xác định là hiện

thực, tức là chúng phải xảy ra trong thực tế, doanh nghiệp bị gièm pha đã phải gánh

32

chịu những bất lợi về uy tín, về tài chính và về tình hình kinh doanh do thông tin

không trung thực gây ra. Đối với hành vi này, mọi sự suy đoán về hậu quả đều

không được coi là cơ sở để kết luận về sự vi phạm.

2.1.1.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là hành vi của doanh

nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp làm cản trở hoặc gián đoạn hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp khác.

Nếu so sánh với hành vi gièm pha trong kinh doanh hoặc ép buộc trong kinh

doanh thì hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác cũng là một

dạng biểu hiện trong chiến lược cản trở hoặc gây khó khăn cho hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp khác như hai hành vi nói trên. Chúng đều có thể do doanh

nghiệp vi phạm thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự khác nhau giữa các

hành vi chỉ là ở phương tiện, thủ đoạn được doanh nghiệp vi phạm sử dụng. Nếu

hành vi gièm pha sử dụng thông tin không trung thực về doanh nghiệp bằng cách

thức truyền miệng công khai, không công khai hoặc thông qua các phương tiện

truyền thông…; hành vi ép buộc trong kinh doanh sử dụng các thủ đoạn mang tính

côn đồ đối với khách hàng của doanh nghiệp khác, thì hành vi gây rối hoạt động

kinh doanh sử dụng bất kỳ thủ đoạn nào khác ngoài những thủ đoạn nói trên để làm

cản trở gián đoạn hoạt động kinh doanh của người khác. Như vậy, pháp luật không

quy định về hình thức cũng như những phương tiện, công cụ được sử dụng trong

hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Căn cứ pháp lý duy

nhất của hành vi này được quy định là: tình hình kinh doanh của họ bị gián đoạn

hoặc bị cản trở, và hậu quả này đã xảy ra trên thực tế.

2.1.1.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, tại Điều 45 Luật

cạnh tranh hiện hành có quy định những nhóm hành vi sau đây bị coi là quảng cáo

nhằm cạnh tranh không lành mạnh và bị cấm thực hiện:

33

- So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng

loại của doanh nghiệp khác;

- Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng;

- Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các

nội dung sau đây: Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại bao

bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá người sản xuất, nơi sản xuất,

người gia công, nơi gia công;

- Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;

- Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác và các hoạt động quảng cáo

khác mà pháp luật có quy định cấm.

Tuy nhiên, Luật cạnh tranh hiện hành không đưa ra khái niệm như thế nào là

Quảng cáo, cho nên thiếu cơ sở thống nhất chung trong cách hiểu thế nào là hành vi

quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh trong thực tiễn áp dụng. Như vậy, quá

trình thực thi pháp luật này rất áp lực đối với tất cả các bên, doanh nghiệp, người

tiêu dùng và cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền. Một số địa phương chỉ có thể

hiểu được khái niệm này qua việc vận dụng các quy định trong một số lĩnh vực khác

có liên quan, nhưng địa phương không có lợi thế nói trên thì rất lúng túng trong thi

hành.

Từ thời gian đó, nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật điều

chỉnh hành vi quảng cáo, trong đó có Luật quảng cáo năm 2012, văn bản này đã

đương nhiên thay thế pháp lệnh quảng cáo năm 2001 hay là Luật Thương mại năm

2005.

Theo quy định của nội dung Luật quảng cáo thì “Quảng cáo là việc sử dụng

các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có

mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân

kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách

xã hội; thông tin cá nhân”. Theo quy định tại Điều 102 Luật Thương mại năm 2005,

34

“Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới

thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình.”

Rõ ràng, cũng là một hành vi quảng cáo, song trong quy định của pháp luật

lại tồn tại hai khái niệm quảng cáo khác nhau, đó là quảng cáo và quảng cáo thương

mại. Tuy nhiên, theo các quy định của Luật cạnh tranh thì quảng cáo trong cạnh

tranh có chung cách hiểu theo hướng mà Luật thương mại đã đưa ra, đây là điều rất

cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế hội nhập của nước ta.

Nhìn nhận dưới góc độ khoa học pháp lý, quy định tại Điều 45 trong Luật

cạnh tranh hiện hành, ta có thể thấy, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành

- Hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho

mạnh có một số đặc điểm sau đây:

khách hàng;

- Hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp về hàng hóa, dịch vụ giữa doanh

nghiệp của mình với doanh nghiệp khác;

- Hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng;

2.1.1.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh được chia

thành 4 nhóm hành vi bị cấm trong Luật cạnh tranh cụ thể như sau:

Thứ nhất, tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng: Hành vi này xảy

ra khi doanh nghiệp thực hiện khuyến mại bằng hình thức tổ chức giải thưởng

nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng giải thưởng đã công bố trước

đó.

Thứ hai, khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch

vụ để lừa dối khách hàng: Trong trường hợp này, hoạt động khuyến mại được

doanh nghiệp sử dụng làm công cụ để làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về hàng hóa,

dịch vụ. Ví dụ, doanh nghiệp tặng hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với chất

lượng cao hơn so với hàng hóa đang được bán trên thị trường.

35

Thứ ba, phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ

chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại: Hành vi này

bị coi là cạnh tranh không lành mạnh bởi đã phân biệt đối xử với khách hàng. Về

nguyên tắc, khi khách hàng đáp ứng đủ những điều kiện mà doanh nghiệp đặt ra và

các điều kiện là như nhau thì họ có vị trí như nhau trước doanh nghiệp. Một khi

điều kiện giống nhau nhưng lợi ích được thụ hưởng khác nhau thì doanh nghiệp

thực hiện việc khuyến mại đã có thái độ đối xử không công bằng đối với khách

hàng. Việc quy định hành vi phân biệt đối xử với khách hàng là cạnh tranh không

lành mạnh cho thấy pháp luật cạnh tranh không chỉ bảo vệ tổ chức, cá nhân kinh

doanh mà còn việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

Thứ tư, tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách

hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang

sử dụng để dùng hàng hoá của mình. Như vậy, đối tượng được tham gia khuyến mại

chỉ là các khách hàng đang giao dịch, đang sử dụng hàng hóa của đối thủcạnh tranh.

Nói cách khác, doanh nghiệp đã trực diện lôi kéo khách hàng đang tiêu thụ sản

phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác bằng cách tặng hàng hóa cho họ dùng thử

với mong muốn khách hàng thay đổi thói quen tiêu dùng. Hành vi này bị coi là một

dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ một cách không chính

đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp khác.

2.1.1.8. Bán hàng đa cấp bất chính

Cụm từ "Bán hàng đa cấp" là một khái niệm rất mới và lần đầu tiên được

chính thức ghi nhận trong Luật cạnh tranh của Việt Nam. Theo quy định tại Điều 3

Luật cạnh tranh 2004 hiện hành, bán hàng đa cấp “là phương thức tiếp thị để bán lẻ

hàng hoá đáp ứng các điều kiện sau: 1. Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hoá được thực

hiện thông qua mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau; 2.

Hàng hoá được người tham gia tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi

làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ

thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia; 3. Người tham gia mạng

lưới Bán hàng đa cấp sẽ được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế

36

khác từ kết quả tiếp thị trực tiếp của mình và của người tham gia cấp dưới trong

mạng lưới do mình tổ chức ra và mạng lưới đó được doanh nghiệp Bán hàng đa cấp

chấp thuận”. Bên cạnh đó, Nghị định số 40/2018/NĐ-Chính phủ về quản lý hoạt

động kinh doanh theo phương thức đa cấp cũng quy định: “Kinh doanh theo phương

thức đa cấp là hoạt động kinh doanh sử dụng mạng lưới người tham gia gồm nhiều

cấp, nhiều nhánh, trong đó, người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và

lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của mình và của những người khác trong

mạng lưới.”

Với phương thức bán lẻ hàng hoá thông qua mạng lưới tiếp thị, doanh nghiệp

tổ chức bán hàng đa cấp thiết lập mối quan hệ mua bán sản phẩm trực tiếp với

người tiêu dùng cuối cùng mà không cần đầu tư thành lập, duy trì mạng lưới phân

phối dưới dạng cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các đại lý phân phối. Người tiêu dùng

có cơ hội mua được sản phẩm từ gốc sản xuất, tránh những rủi ro có thể phát sinh

trong quá trình phân phối (như nạn hàng giả, giá cả không trung thực). Doanh

nghiệp bán hàng đa cấp có thể là doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trực tiếp tiếp thị

và bán lẻ bằng phương thức đa cấp hoặc là các doanh nghiệp phân phối hàng hóa do

doanh nghiệp khác sản xuất.

Bên cạnh những quy định về bán hàng đa cấp bất chính được quy định tại

Luật Cạnh tranh năm 2004, còn được quy định tại Nghị định số 40/2018/NĐ-Chính

phủ về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp. Quy định này cấm

doanh nghiệp bán hàng đa cấp thực hiện một số hành vi như: cản trở người tham gia

trả lại hàng hoá phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, từ

chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay các lợi

ích kinh tế khác mà người tham gia có quyền hưởng.

2.1.2. Quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành

mạnh

Bước 1. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh và phân công xử lý

37

Văn phòng Cục Quản lý cạnh tranh tiếp nhận hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh

tranh, vào sổ lưu và trình lên Cục trưởng (hoặc Phó Cục trưởng được phân công)

ngay trong ngày.

Hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh bao gồm:

- Đơn khiếu nại theo mẫu MĐ-1 hoặc MĐ-2 Ban hành kèm theo Quyết định

số 17/QĐ-QLCT của Cục Quản lý cạnh tranh ngày 04/07/2006;

- Chứng cứ về hành vi vi phạm.

Văn phòng Cục nhận lại hồ sơ sau khi có ý kiến của Cục trưởng (hoặc Phó

Cục trưởng được phân công) và chuyển về cho Ban điều tra và xử lý hành vi cạnh

tranh không lành mạnh xử lý theo phân công của lãnh đạo Cục Quản lý cạnh tranh.

Bước 2. Thụ lý hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Cục Quản lý

cạnh tranh phải tiến hành kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ.

Trường hợp hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh chưa đáp ứng tính đầy đủ và

hợp pháp theo quy định, Cục Quản lý cạnh tranh sẽ thông báo cho bên khiếu nại bổ

sung. Thời hạn bổ sung hồ sơ khiếu nại là không quá 30 ngày; trong trường hợp đặc

biệt, Cục Quản lý cạnh tranh có thể gia hạn 1 lần không quá 15 ngày theo đề nghị

của bên khiếu nại.

Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đầy đủ, hợp lệ, Cục

Quản lý cạnh tranhphải thông báo ngay cho bên khiếu nại nộp tiền tạm ứng chi phí

xử lý vụ việc cạnh tranh trừ trường hợp bên khiếu nại thuộc trường hợp được miễn

nộp một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh, phí xử lý

vụ việc cạnh tranh.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Cục Quản lý

cạnh tranh, bên khiếu nại phải nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh.

Ngoại trừ các trường hợp được miễn nộp một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng chi

phí xử lý vụ việc cạnh tranh, phí xử lý vụ việc cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh

38

chỉ thụ lý hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh sau khi nhận được biên lai nộp tiền tạm

ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh.

Người tiêu dùng có thu nhập thấp được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

(sau đây gọi là cấp xã) hoặc cơ quan, tổ chức xã hội, nơi người đó cư trú hoặc làm

việc, chứng nhận thì có thể được Cục Quản lý cạnh tranh cho miễn nộp một phần

hoặc toàn bộ tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh, phí xử lý vụ việc cạnh

tranh.

Mức tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc khiếu nại về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh là 03 triệu đồng.

Bước 3. Điều tra vụ việc cạnh tranh

Sau khi hồ sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được thụ lý, Cục trưởng Cục

Quản lý cạnh tranh ra quyết định điều tra sơ bộ. Thời hạn điều tra sơ bộ là 30 ngày,

kể từ ngày có quyết định điều tra sơ bộ.

Căn cứ vào kết quả điều tra sơ bộ và kiến nghị của điều tra viên, Cục trưởng

Cục Quản lý cạnh tranh ra một trong các quyết định sau đây:

- Đình chỉ điều tra nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy không có hành vi vi

phạm quy định của Luật Cạnh tranh;

- Điều tra chính thức nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có dấu hiệu vi phạm

quy định của Luật Cạnh tranh.

Thời hạn điều tra chính thức vụ việc cạnh tranh không lành mạnh là 90 ngày,

kể từ ngày có quyết định điều tra; trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được

Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh gia hạn, nhưng không quá 60 ngày.

Việc gia hạn thời hạn điều tra phải được điều tra viên thông báo đến tất cả các

bên liên quan trong thời hạn chậm nhất là 07 ngày làm việc trước ngày hết hạn điều

tra. Trong quá trình tiến hành điều tra, nếu phát hiện vụ việc cạnh tranh có dấu hiệu

tội phạm, điều tra viên phải kiến nghị ngay với Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh

xem xét chuyển hồ sơ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.

Bước 4. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh

39

Sau khi kết thúc điều travụ việc cạnh tranh không lành mạnh, Cục trưởng Cục

Quản lý cạnh tranh ra quyết định xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Sau khi nhận được báo cáo điều tra và toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh tranh, Chủ

tịch Hội đồng cạnh tranh quyết định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ việc cạnh tranh, Hội đồng

xử lý vụ việc cạnh tranh phải ra một trong các quyết định sau:

- Mở phiên điều trần;

- Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

- Đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh.

Trường hợp Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra quyết định trả hồ sơ để điều

tra bổ sung, trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày có yêu cầu điều tra bổ sung bằng

văn bản của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh phải hoàn

thành điều tra bổ sung và chuyển báo cáo điều tra cùng toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh

tranh đến Hội đồng cạnh tranh.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Hội đồng xử lý vụ việc

cạnh tranh phải ra một trong ba quyết định nêu trên.

Trường hợp Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra quyết định mở phiên điều

trần, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh

tranh phải mở phiên điều trần. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra quyết định xử

lý vụ việc cạnh tranh thông qua phiên điều trần. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh

phải được gửi cho các bên liên quan trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày ký.

Bước 5. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh

Trường hợp không nhất trí một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý

vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên có quyền khiếu

nại lên Hội đồng cạnh tranh.

Trường hợp không nhất trí một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý

vụ việc cạnh tranh của Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh, các bên có quyền khiếu

40

nại lên Bộ trưởng Bộ Công Thương.

Sau khi nhận đơn khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, cơ quan đã

ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn

khiếu nại theo quy định tại Điều 108 của Luật Cạnh tranh trong thời hạn 05 ngày

làm việc.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đơn khiếu nại, cơ quan thụ lý đơn

khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có trách nhiệm xem xét đơn khiếu nại,

chuyển đơn khiếu nại kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh tranh và kiến nghị của

mình đối với đơn khiếu nại lên Hội đồng cạnh tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Công

Thương.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ khiếu nại, Hội đồng cạnh

tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Công Thương có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo

thẩm quyền; trường hợp đặc biệt phức tạp, thời hạn giải quyết khiếu nại có thể được

gia hạn, nhưng không quá 30 ngày.

Khi xem xét, giải quyết khiếu nại Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của

Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh có các quyền sau đây:

- Giữ nguyên quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu xét thấy việc khiếu nại

là không đủ căn cứ;

- Sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu quyết

định này không đúng pháp luật;

- Hủy quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và chuyển hồ sơ vụ việc cạnh tranh

cho Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh giải quyết lại trong các trường hợp sau đây:

Chứng cứ chưa được thu thập và xác minh đầy đủ;

Thành phần Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh không đúng quy định của Luật

Cạnh tranh hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về tố tụng cạnh tranh.

Khi xem xét, giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Cục

Quản lý cạnh tranh, Bộ trưởng Bộ Công Thương có các quyền sau đây:

41

- Giữ nguyên quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu xét thấy việc khiếu nại

là không đủ căn cứ;

- Sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh nếu quyết

định này không đúng pháp luật;

- Hủy quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và yêu cầu Cục Quản lý cạnh tranh

giải quyết lại theo thủ tục quy định tại Luật Cạnh tranh trong trường hợp chứng cứ

chưa được thu thập và xác minh đầy đủ.

Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu

lực pháp luật kể từ ngày ký.

Trường hợp không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định

xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối

với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại ra Toà án

Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền.

2.1.3. Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

2.1.3.1. Chế tài hành chính

Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, các hình thức chế tài xử lý vi

phạm về cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là các chế tài hành chính, được quy

định trong các quy phạm pháp luật mang tính xử phạt và khắc phục hậu quả do hành

vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các hình thức xử lý đó đã được Nghị định

120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết, bao gồm:

- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 100 triệu đồng.

- Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử

dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu

được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

So với Luật cạnh tranh 2004, thì với Luật cạnh tranh 2018, mức phạt tiền tối

đa đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh là

2.000.000.000. Mức phạt tiền này áp dụng với hành vi vi phạm của tổ chức, đối với

42

cá nhân có cùng hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, mức phạt tiền tối đa bằng

một phần hai mức phạt tiền tối đa đối với tổ chức.

Ngoài các hình thức xử phạt nêu trên, đối tượng vi phạm còn có thể bị áp

dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc cải chính công khai.

Đối với pháp luật của một số nước, việc xử lý các hành vi vi phạm về cạnh

tranh, chủ yếu quy định hình thức phạt tiền. Có thể thấy những quy định đó trong

pháp Luật Cạnh tranh của một số nước như: Luật Thương mại lành mạnh và những

quy định về độc quyền của Hàn Quốc năm 1980 (phạt tiền với mức không quá 2%

mức doanh thu của doanh nghiệp; trong trường hợp doanh thu không tồn tại thì mức

tiền phạt không quá 500 triệu won); Luật Cạnh tranh thương mại của Thái Lan năm

1999 (phạt tiền không quá 6 triệu baht đối với thương nhân có hành vi cạnh tranh

không tự do và không bình đẳng, gây thiệt hại, cản trở hoặc hạn chế hoạt động của

những thương nhân khác, ngăn chặn thương nhân khác hoạt động kinh doanh hoặc

buộc thương nhân khác phải kết thúc hoạt động kinh doanh; các trường hợp vi

phạm nhiều lần sẽ bị phạt gấp đôi; phạt tiền không quá 100.000 baht đối với người

thực hiện hành vi tiết lộ thông tin số liệu liên quan đến thương nhân hoặc hoạt động

của thương nhân). Quy định phạt tiền còn tìm thấy ở nhiều quy phạm pháp luật của

Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hoà liên bang Đức.

Ngoài hình thức phạt tiền, một số biện pháp chế tài khác cũng được áp dụng

với người vi phạm như: phải tạm hoãn, đình chỉ hoặc điều chỉnh lại các hoạt động

(trong Luật Cạnh tranh thương mại của Thái Lan); chấm dứt hành vi vi phạm, khôi

phục lại tình trạng như khi chưa có hành vi vi phạm (trong Luật Cạnh tranh của Thổ

Nhĩ Kỳ); đình chỉ hành vi, bỏ những điều khoản có liên quan đến hành vi cạnh tranh

không lành mạnh khỏi hợp đồng, đưa ra thông báo điều chỉnh hoạt về hoạt động

quảng cáo vi phạm, công bố công khai đã có hành vi vi phạm (trong Luật Thương

mại lành mạnh và những quy định về độc quyền của Hàn Quốc).

Có thể thấy, các biện pháp chế tài hành chính xử lý các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh của pháp luật Việt Nam cũng có những nét tương đồng với pháp

Luật Cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới. Các biện pháp chế tài đó đã tác động

43

trực tiếp vào lợi ích và uy tín của các doanh nghiệp, góp phần răn đe, phòng ngừa

các chủ thể kinh doanh có ý định thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh để

thu lợi bất chính. Tuy nhiên, hình thức, mức độ áp dụng cụ thể đối với từng hành vi

vi phạm là có sự khác nhau trong các pháp luật của mỗi nước.

2.1.3.2. Chế tài hình sự

Mặc dù các quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm được quy định trong Luật

Cạnh tranh năm 2004 không có chế tài hình sự. Tuy nhiên, nếu hành vi cạnh tranh

không lành mạnh có cấu thành tội phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật

Hình sự.

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật đối với các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh được quy định tại Chương VIII "Các tội xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017. Các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh được biểu hiện dưới các tội danh như: Tội sản xuất,

buôn bán hàng giả (Điều 192); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực

phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 193); tội sản xuất, buôn bán hàng

giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,

giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195); Tội lừa dối khách hàng (Điều 198); Tội vi

phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217);…

Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo

không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất

nặng như tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp

tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định. Qua đó cho thấy, pháp Luật Cạnh tranh được sự hỗ

trợ của các quy phạm pháp luật thuộc một số ngành liên quan đến việc áp dụng chế

tài như pháp luật hành chính, dân sự, hình sự và các quy phạm về tố tụng.

2.1.3.3. Chế tài dân sự

Luật Cạnh tranh năm 2004 có quy định việc xử lý vi phạm pháp luật về cạnh

tranh, bao gồm cả xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Mục 8, Chương

V. Nhưng các quy định đó chủ yếu được điều chỉnh bằng mệnh lệnh hành chính.

44

Vấn đề bồi thường dân sự không được quy định cụ thể mà chỉ viện dẫn: "Tổ chức,

cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường

thiệt hại theo quy định của pháp luật" (Điều 117). Như vậy, khi áp dụng chế tài bồi

thường thiệt hại, phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự.

Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không

lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

ngoài hợp đồng, tại Chương XXI của Bộ luật Dân sự năm 2015 và pháp luật có liên

quan. Một trong những đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là luôn

gây thiệt hại nhất định cho đối thủ cạnh tranh. Do đó, bên bị thiệt hại luôn có quyền

được đòi bồi thường nếu có đủ căn cứ để chứng minh lỗi của bên kia và thiệt hại do

họ gây ra. Căn cứ của việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại cũng chính là các

căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhưng lưu ý

việc xác định thiệt hại. Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được

pháp luật thừa nhận, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh.

Vì vậy, chế tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác.

2.2. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam

Dưới đây xét thực trạng một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh phổ

biến tại Việt Nam trong những năm gần đây:

2.2.1. Hành vi bán giá thấp nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Ở các nước phát triển, hành vi bán giá thấp nhằm cạnh tranh không lành

mạnh nhằm phá giá thị trường hay lôi kéo khách hàng có xu hướng giảm dần hoặc

chuyển sang các hình thức khác tinh vi hơn. Trong những năm gần đây, hành vi này

vẫn tồn tại công khai, phổ biến tại Việt Nam và trở thành công cụ phổ hữu hiệu của

các hãng nước ngoài để thâu tóm thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp nước

ngoài khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam họ có lợi thế hơn về tài chính, kinh

nghiệm, cơ sở khoa học kỹ thuật, do đó, việc bán phá giá giúp họ giành dược những

lợi thế lớn trên thị trường. Có thể kể đến những cuộc chiến về giá trong ngành nước

giải khát như Coca-Cola và Pepsi với Mekofood hay Tribeco của Việt Nam.

45

Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam hiện nay đang tồn tại tình trạng hàng

Trung Quốc ồ ạt. Theo báo cáo của Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS)

năm 2016, Trung Quốc chiếm 31,8% tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam. Hàng

Trung Quốc có giá rẻ, đa dạng về mẫu mã sản phẩm hơn nhiều so với hàng hóa sản

xuất trong nước, gây ra nhiều khó khăn cho các nhà sản xuất Việt Nam. Thậm chí

có nhiều ngành hàng của Việt Nam như ngành may mặc, hàng Trung Quốc chiếm

đến gần 60% thị phần. Đây là một vấn đề đáng kể tác động xấu đến sự ổn định và

tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua và tạo ra thách thức trong

việc điều hành chính sách ( Bùi Thị Minh Nguyệt, Trần Văn Hùng, Lê Thị Mai

Hương (2016), Thương mại Việt Nam – Trung Quốc thực trạng và giải pháp, Tạp

chí Khoa học và công nghệ lâm nghiệp số 02/2016).

Trong cơ chế kinh tế thị trường, cung – cầu hàng hóa trên thị trường quyết

định mức giá của sản phẩm. Khi thị trường có nhiều hàng hóa nhập khẩu hay liên

doanh sản xuất bán với giá thấp làm điêu đứng các nhà sản xuất trong nước, người

ta bắt đầu lên tiếng về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh. Trọng tâm của khái

niệm bán giá thấp là khi giá xuất khẩu thấp hơn giá của hàng hóa đó trong thị

trường nội địa nước xuất khẩu. Có thể kể đến trường hợp của Coca-Cola, một lon

Coca-Cola ở thị trường Mỹ có giá là 75 cent (tương đương với 13.000đ), một lon

Coca-Cola bán tại thị trường Việt Nam có giá 7.000đ (tương đương với 38 cent),

thấp hơn 37 cent tại thị trường Mỹ.

2.2.2. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Bên cạnh hình thức bán giá thấp, khuyến mại cũng là một chiến lược cạnh

tranh được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Đây là một hình thức thu hút khách hàng

và đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam vẫn tồn tại

nhiều hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

Hành vi khuyến mại gian dối về giải thưởng là hành vi cạnh tranh không

lành mạnh xuất hiện khá nhiều ở Việt Nam. Một ví dụ cụ thể là chương trình

khuyến mại “Uống bia Tiger có cơ hội trung một trong năm chuyến du lịch Thái

Lan hay một trong mười tivi Samsung”, song nhà sản xuất lại không hề công bố

thông tin người trúng giải. Năm 2006, LG tung ra chương trình khuyến mại “Đầu

46

năm thắng lớn với LG” với những giải thưởng vô cùng giá trị. Tuy nhiên tại buổi lễ

bốc thăm trúng thưởng, doanh nghiệp này bị phát hiện gian dối trong các thùng

phiếu, trong các thùng phiếu chỉ có số từ 1 trở xuống, trong khi rất nhiều người có

phiếu từ 200 trở lên. Đây cũng là hành vi phân biệt đối xử giữa các khách hàng,

không đảm bảo sự bình đẳng và cơ hội hưởng lợi ích kinh tế dành cho mọi người

tham gia trong cùng một chương trình khuyến mại. ( Hùng Sơn (2006), LG gian dối

trong khuyến mãi rút thăm trúng thưởng, https://dantri.com.vn/xa-hoi/lg-gian-doi-

trong-khuyen-mai-rut-tham-trung-thuong-1144412924.htm. )

Hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách

hàng đổi hàng hóa cùng loại mà doanh nghiệp khác đang sản xuất mà khách hàng

đang sử dụng có thể kể đến chương trình quảng cáo nhãn hiệu nước tương Tam thái

tử năm 2008 “đổi chai nước tương dở của bất kỳ nhãn hiệu nào khác lấy chai nước

tương Tam thái tử chất lượng cao”. Ngoài ra, quảng cáo này cũng vi phạm Điều 3

của Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp

khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây

ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp đó.

Một số trường hợp khác, sản phẩm được khuyến mại có chất lượng kém hơn

so với ban đầu hoặc giá trị sản phẩm đã được phóng đại lên. Có nhiều trường hợp

đã phát hiện, doanh nghiệp tự tăng giá sản phẩm lên rồi đưa ra các chương trình

khuyến mại giảm giá 50 – 70% nhằm thu hút khách hàng. Thực chất khách hàng

chẳng được hưởng lợi từ những chương trình khuyến mại như vậy mà nhiều trường

hợp còn phải bỏ tiền ra mua một sản phẩm khác bởi thực chất những mặt hàng miễn

phí không phải những thứ cho không mà chất lượng cũng chưa chắc đảm bảo.

2.2.3. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Các hành vi quảng cáo gian dối, quảng cáo quá lố về quy cách, phẩm chất

của sản phẩm diễn ra khá phổ biến tại Việt Nam. Năm 2011, về công dụng sản

phẩm. Đó là quảng cáo dòng máy giặt cửa trên T-Drive của Electrolux được quảng

cáo quá lố như: “Hiệu suất cao nhất có thể đạt được”, “Hiệu suất giặt sạch hơn

35%”, “Chương trình xả tiết kiệm 50%”, “Chống để lại các nếp nhăn trên quần áo”,

47

“Chống để lại các vết cặn bẩn trên quần áo khi khô”. Những quảng cáo khôn trung

thực, không kiểm chứng về chức năng của các loại dược phẩm khá phổ biến như

thực phẩm chức năng Mega-T giúp giảm cân, chống béo phì trong vòng một tháng

mà không gây bất kỳ tác dụng phụ nào,…( Đất Việt (2011), Electrolux VN bị phạt

vì quảng cáo “lố”, http://baomoi.com/electrolux-vn-bi-phat-vi-quang-cao-

lo/c/7181452.epi. )

Quảng cáo so sánh nhằm hạ thấp danh tiếng sản phẩm, dịch vụ của đối thủ

cạnh tranh để nâng cao sản phẩm, dịch vụ của mình thường xảy ra với những sản

phẩm có thương hiệu. Nhà mạng Viettel không ít lần bị tố giác vì đăng tin quảng

cáo cho dịch vụ viễn thông của mình trong đó có bảng so sánh với giá cước dịch vụ

của VNPT để khách hàng thấy được ưu điểm dịch vụ của mình.Năm 2011, quảng

cáo mì gói Tiến Vua bò cải chua của Công ty Masan đã đưa thông tin về màu của

sản phẩm để so sánh gây nhầm lẫn cho khách hàng. Đoạn quảng cáo này ngầm cho

rằng, những sản phẩm mì gói có vắt mì sậm màu là có chứa chất độc hại. Quảng cáo

này đã làm cho nhiều sản phẩm mì gói khác có vắt mì màu sạm bị tẩy chay vì hiểu

lầm là những sản phẩm gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng ( Như Bình

(2011), Acecook khiếu nại quảng cáo mì gói Tiến Vua gây nhầm lẫn,

http://giaoduc.net.vn/Kinh-te/Thi-truong/Acecook-khieu-nai-quang-cao-mi-goi-

Tien-Vua-gay-nham-lan-post6028.gd. )

Một hình thức khác là người quảng cáo cố tình đưa những thông tin gây

nhầm lẫn về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm. Tập đoàn Sunhouse sử dụng slogan

"Thương hiệu gia dụng hàng đầu đến từ Hàn Quốc" hoặc "Đồ gia dụng hàng đầu

đến từ Hàn Quốc" để quảng cáo cho các sản phẩm đồ gia dụng mang nhãn hiệu

Sunhouse. Điều này gây nhầm lẫn cho người tiêu ùng về sản phẩm Sunhouse được

sản xuất tại Hàn Quốc, song thực tế các sản phẩm này đa phần đều được sản xuất tại

Việt Nam. Hay trường hợp nhãn hiệu trà xanh O0 của Tân Hiệp Phát đã được đăng

ký nhưng trên thị trường lại xuất hiện những quảng cáo sản phẩm trà xanh O2 làm

khách hàng dễ nhầm lẫn đây là sản phẩm của Tân Hiệp Phát.

48

2.2.4. Gièm pha đối thủ cạnh tranh

Hành vi này được thực hiện bằng cách tung ra các thông tin không có thật

nhằm hạ thấp uy tín của đối thủ cạnh tranh. Năm 2012, Công ty Cổ phần ắc quy

Miền Nam (PINACO) đã có văn bản gửi nhà phân phối/đại lý ắc quy PINACO với

nội dung gièm pha đối thủ cạnh tranh của mình là Công ty TNHH Eni-Florence Việt

Nam. Theo Công ty TNHH Eni-Florence Việt Nam, trong công văn 92 của

PINACO có những nội dung xuyên tạc, nói xấu về hoạt động kinh doanh của Công

ty TNHH Eni-Florence Việt Nam và ngăn cản các nhà phân phối, các đại lý tiếp cận

với sản phẩm ắc quy Enimac (VOV online (2013), PINACO phản hồi về cáo buộc

vi phạm Luật cạnh tranh, http://vietbao.vn/Kinh-te/PINACO-phan-hoi-ve-cao-buoc-

vi-pham-Luat-canh-tranh/181249937/87. )

Chuyện các nhân viên bán hàng hay tiếp thị nói xấu sản phẩm khác để lấy

lòng khách hàng khi đi chào hàng cũng được xem là hành vi cạnh tranh không lành

mạnh. Kiểu nói xấu này phổ biến đến mức nó trở thành công cụ của các nhân viên

kinh doanh. Tuy nhiên để xử lý những trường hợp này tại Việt Nam gặp rất nhiều

khó khăn bởi việc tìm ra chứng cứ việc nói xấu, bôi nhọ gây tổn hại đến việc kinh

doanh của công ty bị nói xấu không hề dễ dàng. Hơn nữa việc theo đuổi khiếu kiện

rất mất thời gian, công sức do đó các công ty rất ngại theo đuổi các vụ kiện này.

2.2.5. Ép buộc khách hàng

Đây là hành vi mà doanh nghiệp dồn khách hàng tình thế bắt buộc phải mua

hoặc mua mà không có sự lựa chọn nào khác. Năm 2009, rất nhiều khách hàng sử

dụng mạng Sphone cảm thấy rất phiền toái vì chiêu “khuyến mại” để ép khách hàng

sử dụng dịch vụ giá trị gia tăng. Những thuê bao hai chiều của Sphone nhận được

tin nhắn “bạn có 7 ngày dùng thử dịch vụ CLR” hay “bạn có 7 ngày dùng miễn phí

dịch vụ CK” trong khi khách hàng không hề có nhu cầu sử dụng dịch vụ này. Nếu

muốn hủy dịch vụ phải nhắn tin hủy và mất 300đ/tin. Vậy nếu tính mỗi khách hàng

mất 600đ/2 tin nhắn hủy, với số lượng hàng triệu khách hàng thì số tiền Sphone thu

về không hề nhỏ. Và nếu khách hàng không nhắn tin hủy thì sau 7 ngày dùng thử

dịch vụ này sẽ tự động gia hạn.

49

Năm 2007, Tập đoàn điện lực Việt Nam thành lập Công ty viễn thông EVN

Telecom. Sau đó không lâu, Tập đoàn này ra công văn yêu cầu tất cả các nhân viên

của mình đang sử dụng dịch vụ viễn thông của đơn vị khác phải chuyển sang sử

dụng dịch vụ của tập đoàn và đây là cơ sở trong xem xét, đề bạt, khen thưởng cán

bộ. Không sử dụng dịch vụ viễn thông này thì nhân viên bị đánh giá là thiếu tinh

thần trách nhiệm. Đây là hình thức ép buộc khách hàng và đem lại những hệ quả

không tốt cho doanh nghiệp. Thực tế là sau 5 năm hoạt động không hiệu quả, đến

năm 2012 thì Công ty này đã sáp nhập vào Viettel ( Khánh Hưng (2007), EVN cải

chính việc “ép” dùng điện thoại “cây nhà lá vườn”, http://congnghe.tuoitre.vn/evn-

cai-chinh-viec-ep-dung-dien-thoai-cay-nha-la-vuon-152606.htm. )

2.2.6. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

Doanh nghiệp, cá nhân có hành vi trực tiếp, gián tiếp làm gián đoạn hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp khác được gọi là hành vi gây rối hoạt động của

doanh nghiệp khác, Hoạt động này khá phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh thương

mại – bắt đầu triển khai rộng rãi vào thị trường Việt Nam từ năm 2006. Các phương

thức được coi là tội phạm công nghệ cao như lừa đảo trong các giao dịch trực tuyến,

ỉa mạo thẻ ATM, phát tán virus, phát tán thư rác, ăn cắp mật khẩu,… Các hành vi

phá hoại này đã làm gián đoạn hoặc phá hủy hoàn toàn cấu trúc dữ liệu của website,

dẫn đến thiệt hại vật chất và uy tín của doanh nghiệp.

Một vụ việc cạnh tranh không lành mạnh bằng cách gây rối loạn hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp khác là vụ của hãng taxi Tân Hoàng Minh. Công ty

này bị đối tượng sử dụng thiết bị thu phát sóng cùng tần số làm nhiễu tín hiệu liên

lạc tổng đài của hãng này trong giờ cao điểm, gây thiệt hại lớn cho hãng này.

Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh sử dụng công nghệ cao thường rất tinh

vi và khó phát hiện. Những hành vi này không chỉ gây thiệt hại kinh tế cho các công

ty mà còn mất nhiều thời gian để tìm ra và khắc phục hậu quả của nó.

2.2.7. Bán hàng đa cấp bất chính

Bán hàng đa cấp hay tiếp thị đa cấp là hình thức bán lẻ đã xuất hiện ở Việt

Nam vào đầu những năm 2000 và có tốc độ phát triển rất nhanh. Theo Cục Cạnh

tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, năm 2017 cả nước có 34 doanh nghiệp có giấy

50

chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, 707.330 người tham gia bán hàng

đa cấp, tổng doanh thu bán hàng đa cấp đạt khoảng 8.000 tỷ đồng. Doanh thu bán

hàng đa cấp chủ yếu đến từ thực phẩm chức năng (71%), và mỹ phẩm (23%).

Doanh thu từ đồ gia dụng, quần áo thời trang, thiết bị và mặt hàng khác chiếm

khoảng 6%.

Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp bán hàng đa cấp kinh doanh hợp

pháp, minh bạch thì thị trường Việt Nam hiện nay xuất hiện rất nhiều các tổ chức,

cá nhân có hoạt động kinh doanh đa cấp bất chính. Kinh doanh đa cấp bất chính là

một mô hình gồm nhiều tầng, trong đó người tham gia có quyền tuyển dụng thêm

người mới vào mạng lưới và được hưởng hoa hồng. Tuy nhiên, hoa hồng được nhận

không phải do doanh số của việc bán hàng mà chủ yếu là từ việc tuyển người mới

tham gia vào mạng lưới và lấy tiền của người mới tham gia đóng vào để chi trả hoa

hồng cho những người ở tầng trên. Rất nhiều công ty kinh doanh đa cấp bất chính ở

Việt Nam đã bị phát hiện, cá biệt có những vụ công ty đa cấp bất chính lừa đảo số

tiền lên tới 1.000 tỷ đồng như Công ty CP Liên Kết sản xuất thương mại Việt Nam -

Liên Kết Việt mới xét xử năm 2018.

2.2.8. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp

Đây là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khá phổ biến tại Việt Nam nhất

là khi thực hiện mở cửa nền kinh tế. Cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp

tồn tại dưới nhiều hình thức như hàng giả, hàng nhái, chỉ dẫn thương mại gây nhầm

lẫn. Nhãn hiệu là một tài sản vô cùng giá trị của doanh nghiệp, bởi vì khi nhắc đến

nhãn hiệu thì người tiêu dùng sẽ nhớ đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Việc

làm hàng giả, hàng nhái lấy nhãn hiệu của các thương hiệu nổi tiếng ở Việt Nam đã

tồn tại nhiều năm nhưng chưa được giải quyết dứt điểm. Điều này kiến các doanh

nghiệp chịu những tổn thất về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến uy tín của doanh

nghiệp lâu dài. Theo Tổng cục Quản lý thị trường năm 2017 và 9 tháng năm 2018,

lực lượng Quản lý thị trường đã phát hiện 34.733 vụ vi phạm, xử phạt vi phạm hành

chính trên 121,3 tỷ đồng, trị giá hàng vi phạm hơn 907 tỷ đồng. Trong đó, hàng hóa

giả về chất lượng, công dụng 458 vụ vi phạm; hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý,

nhãn hiệu, bao bì 6.154 vụ; 690 vụ vi phạm tem nhãn, bao bì hang hoá giả; 1.064 vụ

51

vi phạm về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; 26.367 vụ vi phạm về nhãn hiệu ( Tổng

cục quản lý thị trường – Bộ Công thương (2018), Hội thảo “thực trạng hàng giả,

hàng nhái tại Việt Nam – Nguy cơ, thách thức và giải pháp, Hà Nội ).

2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại

Việt Nam

2.3.1. Kết quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt

Nam

Cục Quản lý cạnh tranh

Trong những năm gần đây, mỗi năm Cục Quản lý cạnh tranh đã tiến hành

điều tra và xử lý nhiều vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh

với sự gia tăng mạnh trong các năm 2010 - 2013. Trong số các vụ việc cạnh tranh

không lành mạnh đã được Cục Quản lý cạnh tranh xử lý có các vụ việc liên quan

đến vi phạm về bán hàng đa cấp bất chính chiếm, các vụ việc liên quan đến hành vi

quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, các vụ việc liên quan đến hành vi gây

rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, các vụ việc về gièm pha doanh

100

89

90

80

68

70

60

45

50

43

40

30

22

19

18

16

15

20

14

8

10

2

0

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Vụ việc

nghiệp khác và các vụ việc liên quan đến hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

Hình 2.1. Số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do Cục Quản lý cạnh tranh

tiếp nhận qua các năm 2006 – 2017

Nguồn: Báo cáo thường niên Cục Quản lý cạnh tranh năm 2017

52

Bên cạnh các vụ việc được xử lý thông qua tố tụng cạnh tranh, Cục còn tiếp

nhận, xem xét và cho ý kiến hướng dẫn, tư vấn về pháp luật chống cạnh tranh không

lành mạnh cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thông qua các thủ tục hành

chính thông thường.

Các cơ quan khác

Trong năm 2017, theo thống kê của Cục Quản lý cạnh tranh từ thông tin các

cơ quan hữu quan cung cấp, thực tiễn xử lý các vụ việc liên quan như sau:

- Trong năm 2017, theo thông tin từ Cục Sở hữu trí tuệ, cơ quan này đã đánh

giá và cho ý kiến chuyên môn về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến

quyền sở hữu trí tuệ căn cứ theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức liên quan. Cần lưu

ý, Cục Sở hữu trí tuệ là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tuy

nhiên cơ quan này không có chức năng xử lý vi phạm. Do đó, căn cứ vào kết luận

về chuyên môn của Cục Sở hữu trí tuệ, các bên liên quan có thể thực hiện khiếu nại

theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện ra toà án để bảo vệ quyền lợi của mình.

- Thanh tra khoa học công nghệ: Theo thông tin từ phía Thanh tra Bộ Khoa

học Công nghệ, hoạt động của cơ quan này trong thời gian vừa qua tập trung vào

các hành vi xâm phạm quyền, số lượng vụ việc cạnh tranh không lành mạnh không

nhiều. Một trong những nguyên nhân dẫn đến số lượng vụ việc hạn chế là do thủ tục

khiếu nại theo pháp luật về sở hữu trí tuệ có nhiều điểm phức tạp khiến việc thực

hiện gặp khó khăn. Cụ thể trong năm 2017, Thanh tra Bộ KHCN mới chỉ tiếp nhận

03 vụ việc khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh. Thanh tra các Sở Khoa học

Công nghệ tại địa phương cũng có tiếp nhận và xem xét một số vụ việc khiếu nại về

cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên do quy định về thủ tục giải quyết còn chưa

rõ ràng nên chưa xử lý vụ việc nào trong thực tiễn.

- Lực lượng Quản lý thị trường: Đây là lực lượng chịu trách nhiệm chính

trong việc kiểm tra và xử lý gian lận thương mại và các vi phạm khác trong hoạt

động thương mại trên thị trường. Trong năm 2017, số lượng vụ việc do lực lượng

quản lý thị trường xử lý rất lớn, tuy nhiên chủ yếu tập trung vào các vi phạm về

53

hàng giả, hàng lậu và một số ít vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành

mạnh.

2.3.2. Những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh tại Việt Nam

Thứ nhất, chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn lỏng lẻo,

mức xử phạt đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn thấp, chưa đủ sức

răn đe.

Theo quy định của Nghị định 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực cạnh tranh, mức phạt tiền cao nhất đối với các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh cũng chỉ là 100 triệu đồng. Ngoài ra, có thể áp dụng một số hình

thức phạt bổ sung khác hoặc biện pháp khắc phục hậu quả.

Như vậy, so với những khoản thu được từ thực hiện hành vi cạnh tranh

không lành mạnh thì mức phạt đó không đáng kể. Nhiều doanh nghiệp vẫn sẵn sàng

chịu phạt để thực hiện hành vi chơi xấu đối thủ cạnh tranh. Nếu so sánh giữa mức

tiền phạt mà doanh nghiệp phải chịu so với những thiệt hại mà doanh nghiệp đó gây

ra cho các doanh nghiệp khác, cho người tiêu dùng và xã hội thì vẫn chưa thỏa đáng.

Những năm gần đây, tình trạng sản xuất và lưu thông hàng giả, vi phạm bản

quyền, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, nguồn gốc xuất xứ… có

xu hướng tăng, đặc biệt là tình trạng hàng giả nhập từ nước ngoài vào Việt Nam.

Vấn nạn hàng giả, hàng nhái đó khó có thể giải quyết được vì sự chồng chéo, thiếu

đồng bộ từ chính sách phòng chống và các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo.

Pháp luật quy định làm hàng giả thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng

định nghĩa thế nào là hàng giả cũng chưa hoàn toàn thống nhất. Chế tài xử lý thiếu

nghiêm khắc đã vô hình hậu thuẫn cho các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

cạnh tranh.

Tại Mỹ, các vi phạm nhãn hiệu hàng hoá có thể bị phạt tới 2 triệu USD và

phạt tù từ 5 đến 10 năm, ăn cắp bí mật thương mại có thể bị phạt tới 5 triệu USD và

10 năm tù… Trong khi tại Việt Nam, các vi phạm chỉ mới dừng lại ở mức phạt hành

54

chính, chế tài chưa đủ sức răn đe, vấn đề bồi thường thiệt hại và các khía cạnh hình

sự, dân sự khác cũng rất khó xử lý. Tình trạng hành chính hoá các vi phạm về cạnh

tranh đã làm giảm hiệu quả phòng chống tội phạm trong lĩnh vực này.

Thứ hai, hiệu quả thực thi pháp Luật Cạnh tranh còn thấp.

Luật Cạnh tranh có nhiều quy định thiếu rõ ràng cả về đối tượng, phạm vi áp

dụng, đến việc chứng minh yếu tố lỗi, xác định thiệt hại, phân định ranh giới với

các lĩnh vực pháp luật khác, có nhiều quy định chưa định lượng được nên còn gặp

phải khó khăn cho các cơ quan chức năng trong quá trình xử lý. Sự trùng lặp các

quy định về cạnh tranh không lành mạnh ở những lĩnh vực pháp luật khác nhau,

tình trạng chồng lấn thẩm quyền, thiếu khả năng hợp tác hiệu quả của các cơ quan

thực thi trong khi luật nội dung chưa rõ ràng, cụ thể đã gây khó khăn cho quá trình

triển khai thực hiện pháp luật.

Cách thức giải quyết đối với các hành vi vi phạm chưa thật sự kiên quyết và

triệt để. Thực tế, cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên thị trường Việt Nam

không phải là ít, nhưng hầu hết các vụ việc đều được giải quyết bằng con đường

thương lượng, hoà giải. Nếu quan hệ cạnh tranh không lành mạnh xảy ra giữa một

bên là doanh nghiệp lớn hay một tập đoàn kinh tế với bên kia là người tiêu dùng còn

có sự hạn chế về hiểu biết pháp luật, kinh doanh thì rõ ràng người tiêu dùng luôn ở

vào vị trí yếu thế. Cách thức xử lý chưa kiên quyết và triệt để đó đã không động

viên, khích lệ được người tiêu dùng và các doanh nghiệp có quyền lợi bị xâm hại

quyết tâm đấu tranh để bảo vệ công lý. Cơ chế giải quyết bằng thương lượng, hoà

giải đã khiến cho nhiều doanh nghiệp bị xâm hại và người tiêu dùng nản chí, thậm

chí thờ ơ và có tâm lý ngại tìm đến cơ quan có thẩm quyền khi có cạnh tranh không

lành mạnh xảy ra.

Mặc dù, Luật Cạnh tranh vẫn quy định quyền khiếu nại của các tổ chức, cá

nhân: Nếu cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại do hành vi vi

phạm quy định của Luật Cạnh tranh thì có quyền khiếu nại đến cơ quan quản lý

cạnh tranh (Khoản 1, Điều 58), nhưng pháp luật lại chưa có cơ chế đảm bảo cho

người khiếu nại thực hiện quyền này một cách đầy đủ. Nếu người bị xâm hại là cá

55

nhân thì việc khiếu nại, khiếu kiện rất ít khi đượcthực hiện, nhất là sự khó khăn về

kinh phí. Nếu thất bại trong vụ kiện, người khiếu nại sẽ phải chịu mức phí là

10.000.000 đồng (Điểm a, khoản 1, Điều 53 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP). Vì

vậy, dù có thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các doanh nghiệp vẫn có

cơ hội không bị truy cứu trước pháp luật, do tâm lý không kiên quyết đấu tranh của

người tiêu dùng.

Thứ ba, sự hiểu biết Luật Cạnh tranh trong cộng đồng vẫn còn hạn chế đã

làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống cạnh tranh không lành

mạnh

Luật Cạnh tranh đã ra đời và được áp dụng trong thực tế 13 năm, song không

phải doanh nghiệp nào cũng quan tâm tìm hiểu và nắm vững những quy định của

đạo luật này. Bản chất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh trên

thương trường để tồn tại và phát triển, thường xuyên thực hiện các hành vi khuyến

mại, quảng cáo, gia nhập các hiệp hội ngành nghề…, nhưng bản chất của các hành

vi đó như thế nào, những thủ tục về mặt pháp lý cần phải thực hiện ra sao thì không

ít doanh nghiệp còn lúng túng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Khi quyền lợi của doanh nghiệp bị xâm hại do các hành vi cạnh tranh không

lành mạnh của doanh nghiệp khác gây ra, không phải doanh nghiệp nào cũng nhận

thức đúng để tự bảo vệ mình hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp, hoặc

nếu có tìm đến cơ quan chức năng thì các doanh nghiệp vẫn còn thiếu hiểu biết về

thủ tục, trình tự khiếu nại, khởi kiện. Thực tế đó cho thấy, công tác tuyên truyền,

phổ biến, giải thích pháp luật vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn kinh

doanh trên thị trường Việt Nam hiện nay.

Người tiêu dùng cũng là đối tượng bị xâm hại bởi các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh của các doanh nghiệp, nhưng họ thường có tâm lý ngại đấu tranh,

thờ ơ và chấp nhận thị trường. Tâm lý đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, mà trước

hết là nhận thức chưa đầy đủ về pháp Luật Cạnh tranhvà vị trí yếu thế của người

tiêu dùng trước các doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế. Trong khi đó, Hiệp hội bảo vệ

người tiêu dùng vẫn chưa phát huy hết vai trò của mình trong việc đấu tranh chống

56

lại những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trực tiếp gây nguy hại cho người tiêu

dùng. Vì chức năng bảo vệ người tiêu dùng của Hội chủ yếu được thực hiện thông

qua sự tác động đến đường lối, chính sách, thúc đẩy các cơ quan có thẩm quyền

hoặc khuyến khích người tiêu dùng có ý thức tự bảo vệ mình, mà không có thẩm

quyền về mặt Nhà nước, do đó chưa có những tác động mạnh mẽ đến tình trạng

cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp.

57

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH

VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP

DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

3.1. Những kinh nghiệm các nước trên thế giới cho việc xây dựng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Để tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài, tác giả lựa chọn các nước Châu Âu,

Liên bang Nga, Nhật Bản và Đài Loan. Lý do lựa chọn các nước Châu Âu vì Liên

minh Châu Âu là khởi nguồn của pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trên thế giới. Việc lựa chọn Liên bang Nga, Nhật Bản và Đài Loan vì đây là

những nước cùng thuộc khu vực Châu Á, có nền kinh tế phát triển nên pháp luật về

hành vi cạnh tranh không lành mạnh được xây dựng bài bản và có hệ thống. Vì vậy,

những kinh nghiệm này là rất cần thiết cho Việt Nam.

3.1.1. Kinh nghiệm của các nước Châu Âu

Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thế giới xuất phát

từ các quốc gia trong khối Liên minh Châu Âu. Với đặc thù nền kinh tế đang phát

triển của nước ta, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội lột xác với sự hợp

tác kinh doanh với các tổ chức kinh tế nước ngoài đầu tư vào nước tangày càng gia

tăng cả số lượng và chất lượng dự án đầu tư. Việc học tập kinh nghiệm để xây dựng

một bộ quy chuẩn điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh choViệt Nam là

điều kiện cần phải tiếp cận.

Một là, điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần dựa trên nguyên

tắc chung hướng đến trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng và cụ thể hóa trách

nhiệm. Vấn đề đặt ra ở đây là, một chủ thể có hành vi cạnh tranh không lành mạnh

sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng vật chất sát với giá thịtrường, tương ứng

với mức độ gây thiệt hại đối với người tiêu dùng. Trong các quy định của pháp Luật

Cạnh tranh hiện hành, chế tài xử lý khi doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh không

lành mạnh còn mang tính hình thức, mức phạt kinh tế rất nhẹ, chưa phù với tính

chất, mức độ vi phạm của hành vi mà chính doanh nghiệp gây ra với người tiêu

dùng. Điều này dẫn đến pháp Luật Cạnh tranh chưa thật sự góp phần bảo vệ người

58

bị hại, xử lý chưa triệt để những tác hại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh

diễn ra mà người tiêu dùng phải gánh chịu.

Hai là, xác định vi phạm liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh

ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng, doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước đó

là “Gây nhầm lẫn; mạo nhận về nhãn hiệu và xâm phạm bí mật kinh doanh” trong

quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh hiện hành của nước

ta. Quy định tại Điều của Luật Cạnh tranh năm 2004, có 10 hành vi cạnh tranh

không lành mạnh của doanh nghiệp được liệt kê chưa khoa học. Do đó, kinh nghiệm

cho Việt Nam trong việc xác định hành vi cạnh tranh phải gắn liền với phạm vi điều

chỉnh để quy định khoa học hơn hợp với thực tiễn áp dụng thuận lợi hơn cho các

chủ thể tham gia kinh doanh, hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lời.

Ba là, xây dựng một luật riêng điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành

mạnh để luật hóa những hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình dựa trên quy

định bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, bảo vệ người tiêu dùng, làm cơ sở cho việc

thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh hiệu quả, đồng bộ hơn

trong thực tiễn ( Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật Cạnh tranh của Pháp và lien

minh châu Âu, NXB Tư pháp, Hà Nội ).

3.1.2. Kinh nghiệm của Liên bang Nga

Thứ nhất, trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật hiện

hành của Việt Nam, so sánh với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp

luật Liên bang Nga, có thể thấy các hành vi như bán hàng đa cấp bất chính hay phân

biệt đối xử của hiệp hội về bản chất những quy định này không thực sự đáp ứng các

dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và có thể được xem xét bỏ các

hành vi này khi tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Cạnh tranh.

Thứ hai, chế định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh vừa là công cụ

bổ sung vừa là công cụ độc lập nhằm khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp bị

xâm hại bởi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chủ thể có quyền, lợi ích hợp

pháp bị xâm hại có quyền lựa chọn phương thức khôi phục theo quy định của pháp

luật về bảo vệ cạnh tranh hoặc theo quy định của các văn bản pháp luật trong từng

59

lĩnh vực chuyên ngành cụ thể nếu hành vi xâm phạm được điều chỉnh trong cả loại

hình pháp luật này. Cũng như ở Liên bang Nga, hiện tại, trong pháp luật Việt Nam

về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đang có sự giao thoa giữa quy định liên

quan trong pháp Luật Cạnh tranh và pháp luật khác như pháp luật về giá, pháp luật

về quảng cáo, pháp luật về sở hữu trí tuệ. Có thể thấy trên thực tế, các chủ thể kinh

doanh rất khó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo các văn bản pháp

luật chuyên ngành, vì pháp luật trong từng lĩnh vực kinh doanh chưa quy định về

hành vi này nên chủ thể bị xâm hại thường có thể sử dụng quy định về cạnh tranh

không lành mạnh theo pháp Luật Cạnh tranh. Vấn đề cần giải quyết là có thể bổ

sung vào pháp Luật Cạnh tranh các quy định về hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng

hóa, kiểu dáng công nghiệp mang tính cạnh tranh vào nhóm hành vi vi phạm chỉ

dẫn gây nhầm lẫn; làm rõ các dấu hiệu nhận dạng đối với biểu tượng kinh doanh,

khẩu hiệu kinh doanh. Việc đưa ra một nguyên tắc chung, rõ ràng về cách áp dụng

pháp luật như kinh nghiệm của Liên bang Nga quy định về hành vi quảng cáo nhằm

cạnh tranh không lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh trong quảng cáo hợp

nhất hóa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong một văn bản sẽ tạo điều

kiện thuận lợi hơn cho việc áp dụng, điều chỉnh trongthực tiễn.

Ngoài ra, có thể quy định cụ thể các yếu tố nhận dạng của hành vi gièm pha

doanh nghiệp khác để từ đó có cơ sở phân định rõ ranh giới giữa quyền tự do ngôn

luận, tự do phê bình với hành vi gièm pha doanh nghiệp khác và có thể bổ sung quy

định về bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm cạnh

tranh không lành mạnh vào nhóm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm

theo pháp Luật Cạnh tranh.

Thứ ba, trong tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh, mặc dù Luật Cạnh tranh

năm 2004 đã xây dựng về cơ bản cơ chế và hệ thống cơ quan thực thi nhưng việc tổ

chức và vận hành chúng trong thực tiễn còn nhiều vấn đề cần giải quyết, cơ chế

phân chia thẩm quyền giữa Hội đồng cạnh tranh và Cơ quan quản lý cạnh tranh còn

nhiều điểm bất hợp lý. Trong một vụ việc về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị

trường, cơ quan có thẩm quyền xử lý là Hội đồng cạnh tranh song gần như tất cả

các hoạt động tố tụng đều do Cơ quan quản lý cạnh tranh tiến hành. Theo Điều 3

60

Nghị định 05/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006, Hội đồng cạnh tranh có thẩm quyền tổ

chức xử lý vụviệc cạnh tranh, ra quyết định xử lý vụ việc, giải quyết khiếu nại đối

với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh. Như vậy, dù là

cơ quan có thẩm quyền cao nhất nhưng kết quả xử lý vụ việc của Hội đồng cạnh

tranh gần như lệ thuộc vào kết quả hoạt động tố tụng trước đó của cơ quan quản lý

cạnh tranh. Rõ ràng cách thiết kế phân quyền theo quy định hiện hành đảm bảo sự

chuyên môn hoá cao độnhưng có thể làm mờ nhạt vai trò của Hội đồng cạnh tranh

là cơ quan xử lý vụ việc ( Phạm Trí Hùng (2012), Pháp luật cạnh tranh Liên bang

Nga và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Đề tài NCKH cấp trường,

Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh ).

Từ các phân tích về quy định của pháp Luật Cạnh tranh Liên bang Nga về cơ

quan quản lý cạnh tranh nêu trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt

Nam:

- Lĩnh vực quản lý cạnh tranh rất rộng, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực

hoạt động kinh tế của một quốc gia: từ sản xuất cho đến cung cấp các dịch vụ, tài

chính,… Việc tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh cần tính hết đặc thù của các lĩnh

vực để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động của cơ quan này, nhất là tránh việc thay

đổi cơ cấu, tổ chức nhiều lần làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động. Đồng thời, cơ

quan quản lý cạnh tranh không nhất thiết phải quản lý trực tiếp mọi hoạt động cạnh

tranh trong nền kinh tế.

- Cần xem xét thấu đáo các lĩnh vực đặc thù mà sự độc quyền ở đó có tính tự

nhiên, mặc dù bản chất thực của vấn đề chỉ tồn tại trong một giai đoạn nhất định

nhưng nếu thận trọng nghiên cứu để thực hiện việc quản lý cạnh tranh cho phù hợp

thì hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh sẽ được nâng cao hơn bao

giờ hết.

- Cạnh tranh và độc quyền là vấn đề mang tính liên ngành, có quan hệ với

hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Việc thực hiện quản lý lĩnh vực

này ở một Bộ sẽ có nhiều điểm hạn chế. Chính vì vậy, cần tính đến khả năng xây

61

dựng một cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền hạn cao, đủ để thực hiện chức năng

của mình, ví dụ như thiết lập cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Chính phủ.

- Hoạt động quản lý cạnh tranh đòi hỏi sự quản lý thống nhất từ trung ương

đến cơ sở để có sự hoạt động chặt chẽ, tránh sự tác động thái quá từ phía các cơ

quan quản lý chung ở địa phương. Để đảm bảo điều này, có thể trao quyền tối đa

cho người đứng đầu cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc được bổ nhiệm cấp

trưởng và cấp phó của cơ quan quản lý cạnh tranh ở địa phương.

- Cần có sự nghiên cứu sâu sắc và toàn diện các thị trường ở Việt Nam, xác

định các thị trường có tính ưu tiên nhằm xây dựng bộ máy hoạt động và các hướng

hoạt động ưu tiên nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu

phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam.

- Để đảm bảo thực hiện tốt chức năng của mình, cơ quan quản lý cạnh tranh

phải đặc biệt chú trọng nghiên cứu các vấn đề phát sinh từ hoạt động cạnh tranh,

nhất là khả năng thành lập các đơn vị nghiên cứu trực thuộc, ví dụ như Ủy ban phân

tích các thị trường hàng hóa hoạt động trên cơ sở thường xuyên của Cơ quan quản

lý cạnh tranh Liên bang Nga.

- Hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh cần được tổ chức sao cho có đủ

năng lực đấu tranh được với các hoạt động can thiệp có thể có của các cơ quan

quyền lực Nhà nước làm hạn chế hoặc loại bỏ cạnh tranh lành mạnh, chứ không chỉ

dừng lại ở hoạt động của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế.

3.1.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Đài Loan

Thứ nhất, hiện nay trong Luật Cạnh tranh hiện hành và các văn bản luật

chuyên ngành khác của Việt Nam chưa có khái niệm hành vi thương mại cạnh tranh

không lành mạnh. Thực tế hoạt động thương mại, các thương nhân có hành vi

thương mại khônglành mạnh làm ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển chung của thị

trường. Cần bổ sung và làm rõ khái niệm hành vi thương mại không lành mạnh

trong pháp Luật Cạnh tranh.

Thứ hai,ở Nhật Bản các văn bản luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không

lành mạnh phải căn cứ theo quy định của văn bản luật gốc của quốc gia là Luật

62

Cạnh tranh quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việt Nam nên học tập

kinh nghiệm của Nhật Bản hoàn thiện hơn hệ thống quy định về cạnh tranh không

lành mạnh tách nội dung hành vi không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh thành luật

chống cạnh tranh không lành mạnh và cần xây dựng một luật riêng về điều chỉnh

hành vi bán hàng đa cấp nhằm bảo vệ tốt hơn người tiêu dùng.

Thứ ba, loại bỏ hành vi bán hàng đa cấp bất chính trong quy định về cạnh

tranh không lành mạnh của pháp Luật Cạnh tranh của Việt Nam. Theo quy định của

pháp luật Đài Loan hành vi này là của doanh nghiệp với người tham gia, nó thể hiện

giao dịch bằng hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên không thuộc đối tượng, phạm vi

điều chỉnh của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. So sánh với những hành vi bán

hàng đa cấp bất chính quy định trong Luật Cạnh tranh của Việt Nam, tác giả nhận

thấy nó không thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh của hành vi cạnh tranh không

lành mạnh.

Thứ tư, xác định rõ thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh chuyên trách

xử lý chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh để quản lý Nhà nước có hiệu quả

hơn. Trong quy định của pháp Luật Cạnh tranh hiện hành của nước ta có quy định

Cục Quản lý cạnh tranh với rất nhiều chức năng, thẩm quyền giải quyết hành vi hạn

chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Quy định như vậy chưa thể hiện và

khó phát huy tác dụng giải quyết triệt để hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn

ra trên thương trường của cơ quan rất quan trọng này. Trong pháp luật của Đài Loan

việc quản lý Nhà nước về hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc về cơ quan

chuyên trách chỉ có chức năng riêng biệt quản lý xử lý những doanh nghiệp vi phạm

về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó là Ủy ban Thương mại lành mạnh ( Thực

thi Luật Thương mại lành mạnh ở Đài Loan, các vụ điển hình, NXB Sự thật năm

2009 ).

Tóm lại, với đặc điểm nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế thị trường nhiều

thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chủ thể tham gia hoạt động kinh

doanh, thương mại là những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc hoàn thiện hệ thống

pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong điều kiện nước ta

đang tiến hành hội nhập toàn cầu hóa là hết sức cần thiết. Trong đó việc học tập

63

kinh nghiệm lập pháp điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ

quyền lợi ích của Nhà nước, các doanh nghiệp và người tiêu dùng của các nước có

nền kinh tế phát triển là điều cần thiết đối với các nhà lập pháp của Việt Nam.

3.2. Định hướng trong việc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về hành

vi cạnh tranh không lành mạnh

Việc hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh là nhu cầu

tất yếu của quá trình thực thi pháp luật, phát triển kinh tế thị trường nhiều thành

phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Với đối tượng điều chỉnh chủ

yếu của các hành vi này là các quan hệ cạnh tranh trên thị trường, nó có đặc điểm

cơ bản là những quan hệ có sự vận động, sáng tạo không ngừng, Luật Cạnh tranh là

lĩnh vực pháp luật có khả năng bị lạc hậu nhanh so với thực tiễn khách quan. Bởi

vậy, nhu cầu hoàn thiện, bổ sung không ngừng các quy định của pháp Luật Cạnh

tranh nhất là cạnh tranh không lành mạnh luôn đặt ra đối với các quốc gia đã thừa

nhận pháp Luật Cạnh tranh là bộ phận không thể thiếu trong hành lang pháp luật

kinh doanh, trong đó Việt Nam cũng không nằm ngoài những ngoại lệ đó.

Thực chất, nhu cầu này không phản ánh năng lực xây dựng pháp luật mà đơn

giản chỉ là do sự đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển thị trường. Ngay cả khi các

quy định của pháp Luật Cạnh tranh chưa từng được áp dụng thì vấn để sửa đổi hay

hoàn thiện, bổ sung pháp luật hoàn toàn vẫn có thể được đặt ra. Trong điều kiện giai

đoạn phát triển hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh cần thiết phải được thực hiện dựa trên những nguyên tắc chủ đạo như sau:

Nguyên tắc thứ nhất, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh vẫn

cần duy trì trong trạng thái mở và liên kết với các lĩnh vực pháp luật quản lý kinh tế

chuyên sâu. Nguyên tắc này được hình thành từ thực tiễn thị trường và từ kinh

nghiệm lập pháp của các nước trên thế giới và khu vực.

Một là, thực tiễn thị trường đã và đang chứng minh rằng hành vi cạnh tranh

không lành mạnh luôn phát triển và xuất hiện kèm theo nhữngdạng mới. Cùng một

hành vi và cùng mục đích cạnh tranh không lành mạnh, các doanh nghiệp có thể tạo

nên rất nhiều biểu hiện khác nhau làm cho sự mô tả chặt chẽ cấu thành pháp lý

64

trong các quy định nhanh chóng trở nên lạc hậu. Mặt khác, đặc thù của từng lĩnh

vực kinh doanh của các chủ thể có ảnh hưởng đáng kể đến biểu hiện về hình thức và

tính chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các lĩnh vực kinh tế khác nhau

có thể có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác nhau. Ví dụ trong lĩnh

vực sở hữu trí tuệ có những hành vi đặc trưng như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, cạnh tranh

không lành mạnh trong sở hữu tên miền…; lĩnh vực quảng cáo có những hành vi

đặc thù như quảng cáo so sánh, quảng cáo gian dối…. Đặc thù của từng lĩnh vực

kinh doanh đòi hỏi phương thức nhận dạng hành vi khác nhau và cách thức đánh giá

mức độ gây hại, mức độ bất chính của các hành vi hoàn toàn không đồng nhất, bởi

chúng không thể giống nhau.

Hai là, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các quốc gia

khác cũng theo xu hướng kết hợp giữa những quy định của Luật Cạnh tranh và các

lĩnh vực pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực kinh doanh, hoạt động thương mại. Tuy

rằng có sự khác nhau về cách thức xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong

đó có quốc gia sử dụng các chế tài dân sự để giải quyết xung đột giữa các chủ thể có

liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh; có quốc gia sử dụng chế tài phạt

hành chính đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi, nhưng về hình thức, gần như

hầu hết các quốc gia có pháp Luật Cạnh tranh đều không coi Luật Cạnh tranh là

nguồn duy nhất của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chế định

pháp luật này được hình thành từ Luật Cạnh tranh cũng như nhiều văn bản pháp luật

khác nhau thuộc nhiều lĩnh vực quản lý kinh tế.

Khi thừa nhận nguyên tắc này, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh có ngoại diên rất rộng, bao gồm các quy định trong Luật Cạnh tranh và các

quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan và phương thức xử lý hành vi

cạnh tranh không lành mạnh là khác nhau phụ thuộc vào lĩnh vực quản lý kinh tế.

Như vậy, điều kiện pháp Luật Cạnh tranh đảm bảo được những yêu cầu cơ bản sau

đây:

- Tính linh hoạt cao để tương hợp với sự vận động không ngừng của thị

trường. Khi doanh nghiệp không ngừng sáng tạo trong các chiến lược cạnh tranh thì

pháp luật phải thể hiện được chức năng vừa bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tự do

65

cạnh tranh song cũng cần có cơ chế phù hợp để khắc phục, hạn chế những hành vi

cạnh tranh không lành mạnh. Để khắc chế hành vi đa dạng về hình thức và biến hóa

về chiến thuật, pháp luật cần xây dựng một cơ chế linh hoạt cho phù hợp. Một trong

những cách thức để bảo đảm sự linh hoạt và thích ứng với thực thế là xây dựng một

chế định có tính linh hoạt cao bằng cơ chế liên kết điều chỉnh giữa nhiều lĩnh vực

pháp luật khác nhau. Tức là việc xây dựng này thể hiện tính bền vững của quy định

pháp luật, không cứng nhắc và không bị lỗi thời trong quá trình triển khai thực hiện.

- Đảm bảo tính đặc thù trong các lĩnh vực pháp luật chuyên ngàn. Mặc dù có

chung tính chất là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các hành vi thuộc những

lĩnh vực kinh doanh khác nhau sẽ có tính chất và biểu hiện khác nhau. Tính chất và

biểu hiện của hành vi được thể hiện rõ qua đối tượng mà hành vi khai thác để thực

hiện hành vi hoặc phương thức thực hiện hành vi. Việc đánh giá tính chất và mức

độ không lành mạnh của một hành vi hoặc một chiến lược cạnh tranh của chủ thể

cần phải được xem xét từ các nguyên tắc cơ bản của từng lĩnh vực cụ thể. Các nhà

lập pháp không thể xây dựng và ban hành một hoặc một bộ chuẩn mực chung về

đạo đức kinh doanh của tất cả các lĩnh vực của thị trường. Bởi mỗi lĩnh vực kinh

doanh sẽ có những chuẩn mực riêng và có những nguyên tắc quản lý Nhà nước

riêng biệt tùy theo đối tượng của hoạt động kinh doanh và các yêu cầu kỹ thuật

chuyên ngành. Do đó, để đảm bảo nhận dạng hành vi một cách đúng đắn và đầy đủ

nhất, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần được xây dựng theo

hướng Luật Cạnh tranh đặt ra các nguyên tắc cơ bản trong việc xử lý hành vi, việc

nhận dạng cụ thể giao cho các văn bản pháp luật về quản lý các lĩnh vực kinh tế cụ

thể.

Nguyên tắc thứ hai, cần tôn trọng nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật

chuyên ngành khi có sự khác biệt trong các quy định giữa Luật Cạnh tranh và các

văn bản pháp luật khác quy định về quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế

cụ thể. Một khi chấp nhận pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh có

nguồn rất rộng bao gồm các quy định trong Luật Cạnh tranhvà các quy định trong

các văn bản pháp luật về quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực,các hoạt động kinh

doanh cụ thể tất yếu sẽ phát sinh đòi hỏi phải xây dựng cơ chế phối hợp trong việc

66

nhận dạng và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các văn bản pháp luật

có liên quan. Có như vậy, tính thống nhất và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật được

đảm bảo trên thực tế. Khi thiết lập cơ chế phối hợp điều chỉnh, nguyên tắc này được

thể hiện ở những khía cạnh sau:

Một là, các văn bản pháp luật chuyên ngành nên quy định các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong phạm vi điều chỉnh trên cơ sở các nguyên tắc được

Luật Cạnh tranh ghi nhận, không nên có đặc cách riêng, thiếu thống nhất. Phải thể

hiện được mối liên quan mật thiết giữa các quy định về hành vi trong Luật Cạnh

tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành. Như vậy, với những hành vi đã được

quy định trong Luật Cạnh tranh, pháp luật chuyên ngành chỉ nên lặp lại cấu thành

pháp lý đã được mô tả trong Luật Cạnh tranh. Ngoài ra, luật chuyên ngành có thể

mở rộng phạm vi của pháp Luật Cạnh tranh không lành mạnh bằng cách quy định

thêm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thuộc

phạm vi điều chỉnh mà chưa được quy định trong Luật Cạnh tranh. Tức là pháp luật

chuyên ngành có vai trò bổ trợ cho Luật Cạnh tranh trong việc nhận dạng chi tiết

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, Pháp luật chuyên ngành có thể

thiết kế các biện pháp và mức độ xử lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh thuộc phạm vi điều chỉnh. Tùy thuộc vào mức độ bất chính, khả năng gây hại

cũng như đối tượng bị xâm phạm mà pháp luật chuyên ngành sẽ thiết kế các biện

pháp xử lý cho phù hợp để vừa chấm dứt hành vi cạnh tranh không lành mạnh và

vẫn có thể khôi phục sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Có như vậy, biện

pháp xử lý sẽ được áp dụng phù hợp với thực tiễn của vụ việc, phù hợp với đặc

trưng của thị trường.

Hai là, cần phải thống nhất quy trình và nguyên tắc xử lý đối với các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh cho dù thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Mặc dù

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được quy định trong nhiều lĩnh vực

pháp luật khác nhau, song một khi đã khẳng định chúng là cạnh tranh không lành

mạnh thì cần thiết phải áp dụng chung một quy trình xử lý và các nguyên tắc xử lý.

Chúng ta không thể xé lẻ việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo lĩnh

vực quản lý Nhà nước khác nhau. Mặc dù mỗi lĩnh vực quản lý kinh tế có phương

67

tiện và công cụ khác nhau song việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì

quy trình xử lý không đơn giản là một bộ phận quản lý chuyên ngành mà là một yếu

tố cấu thành cơ bản của việc quản lý cạnh tranh trên thị trường, nhất là hành vi cạnh

tranhkhông lành mạnh.

Dưới góc nhìn của khoa học pháp lý, trước tiên, chúng ta cần xác định rõ bản

chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh để quyết định sử dụng công

cụ pháp lý tương ứng trong việc xử lý doanh nghiệp thực hiện hành vi. Trên cơ sở

đó, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải được xử lý theo cùng một nguyên

tắc pháp lý và quy trình xử lý luôn phải thống nhất.

Ba là, trong trường hợp có sự khác biệt giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản

pháp luật chuyên ngành về các quy định nhận dạng hành vi cạnh tranh không lành

mạnh, quy định về xử lý doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm, pháp luật được

ưu tiên áp dụng sẽ là pháp luật chuyên ngành. Nếu tuân thủ triệt để hai nội dung

trên, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ thống nhất về cơ bản

trong quy trình xử lý và các quy định về nhận dạng hành vi. Tuy nhiên, vẫn có thể

tồn tại những khác biệt trong các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

và việc xử lý hành vi do sự phát triển của pháp luật và do những thay đổi trong nhận

thức pháp lý về hành vi cho phù hợp với thực tiễn sinh động của thị trường. Sự tồn

tại những khác biệt, những xung đột giữa các văn bản pháp luật khác nhau quy định

về cùng một hành vi cạnh tranh không lành mạnh là tất yếu nên nhu cầu phải có

nguyên tắc xác định hiệu lực ưu tiên giữa các văn bản pháp luật là đòi hỏi khách

quan. Do đó, nếu đã xác định Luật Cạnh tranh đặt ra những nguyên tắc cơ bản cho

việc xử lý hành vi và nhận diện những dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh

điển hình, tiêu biểu cho một số lĩnh vực kinh doanh cụ thể thì tính trừu tượng trong

các quy định của đạo luật này đương nhiên sẽ cao hơn so với các quy định trong

những văn bản pháp luật điều chỉnh những hoạt động cạnh tranh theo từng lĩnh vực

cụ thể. Vì vậy, tính ưu tiên áp dụng phải dành cho các pháp luật chuyên ngành.

Nói tóm lại, với nguyên tắc này, quá trình xây dựng pháp luật luôn đòi hỏi cơ

quan lập pháp là Quốc hội phải đặt ra những nguyên tắc tiếp cận việc xử lý hành vi

cạnh tranh không lành mạnh được thống nhất về quy trình và nguyên tắc xử lý để

68

tránh sự phân tán thẩm quyền và thủ tục xử lý khác nhau, thiếu thống nhất và kém

khoa học theo nhóm hành vi. Các văn bản pháp luật chuyên ngành chỉ nên nhận

dạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phát sinh trong lĩnh vực mà chúng

điều chỉnh. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành chỉ được áp dụng

khi có sự khác biệt trong cấu thành pháp lý hoặc trong cách thức xử lý cùng một

hành vi giữa văn bản pháp luật chuyên ngành và Luật Cạnh tranh, với tư cách là luật

chung điều chỉnh hoạt động quản lý Nhà nước về cạnh tranh nói chung và hành vi

cạnh tranh không lành mạnh nói riêng.

3.3. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành

về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

3.3.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh

Nhìn chung, Luật Cạnh tranh của nước ta đã tiếp cận tương đối đúng hướng.

Bởi trong Luật Cạnh tranh chỉ quy định những hành vi cạnh tranh không lành mạnh

phổ biến, tiêu biểu trong một số lĩnh vực nhất định và liên kết điều chỉnh với các

lĩnh vực pháp luật khác để đảm bảo xử lý ở mức tốt nhất, hiệu quả nhất đối với diễn

biến về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn

đề sau đây cần giải quyết trên cơ sở có chọn lọc kinh nghiệm của pháp luật một số

nước tiêu biểu trên thế giới:

Thứ nhất, với những kết quả nghiên cứu này, nếu chúng ta không áp dụng

tình huống loại bỏ hành vi bán hàng đa cấp bất chính ra khỏi quy định của pháp luật

hiện hành thì cần xem lại các quy định về hành vi này để quy định này thật sự phù

hợp với thực tiễn, vì những lý do sau đây:

- Nếu phân tích từ góc độ của các quan hệ phát sinh hành vi bán hàng đa cấp

bất chính, có thể thấy rằng các hành vi được liệt kê tại điều 48 Luật Cạnh tranh chủ

yếu xảy ra trong quan hệ đơn nhất giữa doanh nghiệp bán hàng đa cấp với người

tham gia mạng lưới bán hàng.

- Các hành vi này khi được thực hiện đã tạo ra những hợp đồng bất cân xứng

về quyền và nghĩa vụ hoặc bị thiếu chính xác về sự trung thực, công bằng giữa các

69

bên tham gia. Trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện hành vi nhằm trục lợi từ

việc đặt ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho người tham gia bán hàng thì mục đích

bất chính chỉ giới hạn trong quan hệ giữa doanh nghiệp tổ chức bán hàng và người

tham gia mà thôi. Rõ ràng chỉ có yếu tố trục lợi do trái quy định của pháp luật. Yếu

tố cạnh tranh không thể hiện rõ trong từng hành vi đã được quy định trong điều 48

Luật Cạnh tranh hiện hành “Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm

thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp: 1.

Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban

đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa

cấp; 2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho

người tham gia để bán lại; 3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng,

lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng

đa cấp; 4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán

hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người

khác tham gia.”

Việc định danh hành vi rất có ý nghĩa trong việc quyết định đến hiệu quả

điều chỉnh của pháp luật. Để có thể xử lý hiệu quả một hành vi hoặc một quan hệ cụ

thể xảy ra trên thị trường hoặc trong đời sống xã hội, Nhà nước cần xác định rõ tính

pháp lý hành vi để áp dụng các công cụ, các biện pháp xử lý phù hợp. Với Luật

Cạnh tranh, bán hàng đa cấp phải mang bản chất cạnh tranh. Các hành vi có thể

ngăn cản đền sự công bằng trên thị trường nhưng không mang bản chất cạnh tranh

thì không thể sử dụng các công cụ của Luật Cạnh tranh để xử lý được. Tức là cần

phải xây dựng nội dung quy định chuẩn, xác định rõ hành vi cạnh tranh trong bán

hang đa cấp để thực sự thuyết phục. Có nghĩa là các quy định phải hướng tới mục

tiêu xác định rõ được giới hạn vi phạm và Nhà nước sẽ sử dụng các biện pháp phù

hợp theo tính chất của hành vi. Với quan điểm khoa học này, chúng ta không thể

quy kết các hành vi được quy định tại điều 48 Luật Cạnh tranh là hành vi cạnh tranh

không lành mạnh. Những hành vi này nếu bị xử lý là không khoa học, vì nó bị xếp

vào nhóm hành vi bán hàng đa cấp vi phạm pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp

với bản chất là tạo nên các giao dịch bất cân xứng và trục lợi từ quan hệ bất cân

70

xứng với người tham gia bán hàng đa cấp chứ không thể xử lí theo hành vi cạnh

tranh không lành mạnh.

Thứ hai, so sánh nội dung quy định của một số nước tiêu biểu trên thế giới

với Luật Cạnh tranh, cần sửa đồi và làm rõ thêm một số quy định cụ thể trong các

hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại chương III Luật Cạnh tranh

năm 2004:

Một là, với hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, với cách mô tả hiện nay, chúng ta

sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau, giới hạn của quy định này chỉ là doanh nghiệp đã

sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn với chỉ dẫn của doanh nghiệp khác, có thể hiểu đó là

gây nhầm lẫn về hình thức. Tuy nhiên, từ khái niệm chỉ dẫn thương mại được quy

định trong Luật Sở hữu trí tuệ chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm

hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, gồm nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại,

biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của

hàng hóa, nhãn hàng hóa thì chỉ dẫn thương mại luôn có hai ý nghĩa là chỉ dẫn về

nội dung và chỉ dẫn về hình thức của sản phẩm. Với ý nghĩa chỉ dẫn về nội dung,

các yếu tố như nhãn hiệu, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh

doanh có thể sẽ cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cơ bản như công

dụng, thành phần để nhận biết về sản phẩm. Với ý nghĩa chỉ dẫn về hình thức, các

yếu tố cấu thành chỉ dẫn thương mại là cơ sở về hình thức để người tiêu dùng phân

biệt sản phẩm cụ thể nào đó với các sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Do

đó, chỉ dẫn gây nhầm lẫn không thể hiểu hạn hẹp trong phạm vi hành vi tạo ra sự

nhầm lẫn giữa các sản phẩm mà còn bao gồm việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại

gây nhầm lẫn về nội dung của sản phẩm. Trên thực tế, đã có những loại chỉ dẫn gây

nhầm lẫn cho khách hàng như chỉ dẫn về sữa tươi. Các doanh nghiệp sản xuất sữa

tươi đã sử dụng cụm từ trên bao bì sản phẩm sữa tươi tiệt trùng, sữa tươi nguyên

nhất, sữa tươi nguyên kem. Tuy nhiên, thực tế sản xuất lại cho thấy sản phẩm sữa

tươi do các doanh nghiệp sản xuất lại là sữa sản xuất từ bột sữa gầy sau khi đã pha

chế thêm chật béo mà không hoàn toàn từ sữa tươi nguyên chất (gọi chung là sữa

hoàn nguyên). Do đó, chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp làm vô hiệu hóa ý

71

nghĩa của chỉ dẫn thương mại bao gồm làm sai lệch nhận thức của khách hàng về

sản phẩm và làm mất khả năng phân biệt sản phẩm trong số các sản phẩm cùng loại.

Hai là, cần lãm rõ cấu thành pháp lý của hành vi bắt chước một sản phẩm

quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng.

Vấn đề cần được làm rõ khi xây dựng các quy định của pháp luật trong

trường hợp này là

- Xác định rõ tính không lành mạnh của hành vi;

- Xây dựng cấu thành pháp lý của hành vi.

Nếu dựa vào quy định hiện hành tại Khoản 2 điều 45 Luật Cạnh tranh, tính

không lành mạnh của hành vi chủ yếu được xác định từ mục đích gây nhầm lẫn cho

khách hàng. Thế nhưng Luật Cạnh tranh không phân biệt được đối tượng bị nhầm

lẫn là nhầm lẫn giữa các sản phẩm quảng cáo có liên quan hay là nhầm lẫn giữa các

sản phẩm được quảng cáo có trong các sản phẩm quảng cáo liên quan. Từ đó dẫn

đến quy định của pháp luật còn mơ hồ, không rõ ràng và áp dụng trên thực tế thiếu

tính thống nhất và hiệu quả không cao. Ngoài ra, Khoản 2 Điều 45 cũng chưa làm

rõ nội dung nhầm lẫn của hành vi là như thế nào. Tức là nội dung luật chỉ quy định

một cách đơn giản là bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho

khách hàng. Tuy nhiên, đối với hành vi này, tính không lành mạnh của hành vi nên

xác định từ việc bắt chước sản phẩm quảng cáo khác, vụ việc mà hành vi có mục

đích gây nhầm lẫn cho khách hàng và vụ việc có ảnh hưởng gây nhầm lẫn. Chúng ta

không nên đặt nặng mục đích gây nhầm lẫn và coi chúng như một yếu tố không thể

thiếu trong cấu thành pháp lý của hành vi. Mặt khác, nếu hành vi không thật sư ảnh

hưởng gây nhầm lẫn cho khách hàng, thì sẽ quá nghiêm khắc nếu coi đó là vi phạm.

Với cách tiếp cận này, vấn đề cần giải quyết trong quy định trên là cấm vụ việc bắt

chước sản phẩm quảng cáo gây nhầm lẫn cho khách hàng mà không cần phải chứng

minh mục đích gây nhầm lẫn của hành vi là khoa học nhất và phù hợp với yêu cầu

phát triển kinh tế thị trường.

72

Ba là, cần đánh giá lại về tính không lành mạnh của hành vi phân biệt đối xử

đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau

trong cùng một chương trình khuyến mại. Tại Khoản 3 Điều 46 Luật Cạnh tranh,

quy định về hành vi phân biệt đối xử trong khuyến mại có thể hiểu là việc doanh

nghiệp tổ chức khuyến mại trên nhiều địa bàn khác nhau, khách hàng đã có những

giao dịch như nhau nhưng doanh nghiệp áp dụng các mức, các loại, các hình thức

khuyến mại khác nhau cho khách hàng thuộc những địa bàn khác nhau.

Trong hành vi này, cần lưu ý những nội dung sau:

- Doanh nghiệp không có sự phân biệt đối xử với khách hàng trong giao dịch

mua bán hàng hóa dịch vụ mà họ đang kinh doanh. Việc phân biệt đối xử chỉ giới

hạn trong lợi ích khuyến mại mà doanh nghiệp dành cho khách hàng. Giao dịch mua

bán hàng hóa, dịch vụ được diễn ra bình đẳng và công bằng giữa các khách hàng.

- Lợi ích khuyến mại là phần vật chất mà doanh nghiệp chấp nhận mất đi để

thực hiện kế hoạch xúc tiến thương mại, còn được gọi là phần cộng thêm cho khách

hàng. Về cơ bản, việc phân biệt đối xử trong khuyến mại không phải là hành vi trục

lợi hoặc đối xử bất công cho khách hàng trong các giao dịch mua bán chính thức mà

đơn giản chỉ là áp dụng các chính sách khuyến mại khác nhau cho khách hàng có

thể nhằm đảm bảo hiệu quả của chiến lược khuyến mại theo các khu vực khác nhau.

Sự công bằng giữa doanh nghiệp và khách hàng về cơ bản phải xét trong giao dịch

mua bán sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh. Phần lợi ích tăng thêm do hoạt

động khuyến mại cho dù có áp dụng khác nhau giữa các khách hàng vẫn không phá

vỡ quan hệ công bằng trong mua bán nếu chúng không phải là công cụ để doanh

nghiệp xâm hại đến quyền lợi của khách hàng.

- Về mặt kinh tế, một chiến lược khuyến mại hiệu quả là chiến lược áp dụng

lợi ích khuyến mại ở mức thấp nhất có thể mà vẫn kích thích được nhu cầu tiêu

dùng của xã hội. Với những địa bàn có nhu cầu tiêu dùng khác nhau và mức sống

khác nhau thì việc áp dụng các mức khuyến mại khác nhau đôi khi lại là giải pháp

tối ưu để phát huy ở mức tối đa giá trị khuyến mại của doanh nghiệp. Từ kết quả

đánh giá mức độ tiêu dùng và khả năng tiêu dùng, doanh nghiệp có thể xây dựng

73

những chiến lược khuyến mại để vừa tiết kiệm giá trị khuyến mại, tức là giảm thiểu

phần mất đi cho doanh nghiệp, tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng một cách phù

hợp mà vẫn xúc tiến thương mại. Do đó, nhìn dưới góc độ kinh tế, việc áp dụng các

mức độ khuyến mại khác nhau theo địa bàn có khi là chiến lược kinh doanh hiệu

quả và tích cực.

- Dưới góc độ pháp lý, tổng giá trị khuyến mại là phần vật chất thuộc sở hữu

của doanh nghiệp mà họ chấp nhận dành thêm cho khách hàng để xúc tiến thương

mại. Với quyền sở hữu, doanh nghiệp được toàn quyền định đoạt về việc phân phối

và mức độ phân phối cho khách hàng nên không thể quy kết đó là hành vi khuyến

mại đó là bất chính.

- Về cấu thành pháp lý, quy định tại Khoản 3 điều 46 Luật Cạnh tranh đã tạo

nên cấu thành khá phức tạp và rất khó áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Với cách

quy định hiện nay, vô hình trung tạo cho doanh nghiệp lách luật để thực hiện những

hành vi có mục đích tương tự mà vẫn không thể quy kết là vi phạm Luật Cạnh tranh.

Theo đó, doanh nghiệp chỉ cần phân chia chương trình khuyến mại thành hai

chương rình nhỏ tổ chức ở hai địa bàn khác nhau với cùng một thời gian, cùng một

điều kiện áp dụng cho khách hàng nhưng doanh nghiệp tiến hành hai thủ tục đăng

ký khuyến mại khác nhau thì sẽ không vi phạm Luật Cạnh tranh vì không thỏa mãn

điều kiện vi phạm là trong cùng một chương trình khuyến mại. Với những phân tích

trên, tác giả cho rằng hành vi áp dụng các lợi ích khuyến mại khác nhau cho các

khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một

chương trình khuyến mại không mang bản chất của một hành vi cạnh tranh không

lành mạnh nên cần đưa quy định này về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ra

khỏi Luật Cạnh tranh.

Bốn là, về hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu

khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng

đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình. Cách thức quy định này đã chưa bao

quát hết những dạng vi phạm thuộc nhóm này diễn ra trong thực tiễn và dễ bị lạc

hậu so với quá trình phát triển sinh động, sự phân khúc của thị trường.

74

Về bản chất, hành vi này mang bản chất không lành mạnh bởi hoạt động

khuyến mại chỉ thực hiện dành cho những người đang sử dụng hàng hóa của doanh

nghiệp khác, nên nó cản trở thương mại giữa người dân và doanh nghiệp khác. Mặt

khách, với cách định dạng theo Khoản 4 Điều 46 Luật Cạnh tranh, chỉ khi nào

doanh nghiệp đặt ra điều kiện để hưởng khuyến mại là yêu cầu khách hàng dùng

hàng hóa của mình đổi hàng hóa cùng loại thì mới là sự vi phạm đã làm cho quy

định này trở nên hẹp hơn so với tính chất không lành mạnh của hành vi diễn ra trên

thương trường. Hay nói cách khác, dựa và quy định hiện hành, trong vụ việc mà yêu

cầu của người thực hiện hành vi không rõ hoặc không tồn tại sẽ không có vi phạm.

Mặt khác, việc xử lý vụ việc mà hành vi không có ảnh hưởng thực sự làm khách

hàng đổi hàng hóa thì quá nặng. Cho nên, thay bằng việc yêu cầu khách hàng dùng

hàng hóa của mình đổi trong điều khoản hiện nay, cần xem xét sửa đổi điều khoản

này theo hướng thêm vào chế tài mạnh để ngăn cản thương mại giữa khách hàng và

các doanh nghiệp khác sản xuất cùng loại hàng hóa đang được khách hàng sử dụng.

Làm được như vậy thì nội dung quy định sẽ toàn diện hơn và phù hợp với phạm vi

điều chỉnh hành vi vi phạm trong thực tiễn.

3.3.2. Kiến nghị về giải quyết quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp

luật chuyên ngành

Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm các quy định

trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật quản lý Nhà nước trong các lĩnh

vực kinh tế cụ thể thì vấn đề then chốt cần phải giải quyết là xử lý mối quan hệ giữa

các lĩnh vực pháp luật này một cách khoa học. Theo đó, các vấn đề cần giải quyết

hiện nay để xử lý mối quan hệ này sẽ là:

Một là, phải xác định rõ rằng mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các văn

bản pháp luật quản lý Nhà nước, các lĩnh vực kinh tế cụ thể là quan hệ pháp luật

chung và pháp luật chuyên ngành. Trong đó, Luật Cạnh tranh đặt ra những nguyên

tắc cơ bản cho việc nhận dạng hành vi và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Các văn bản pháp luật khác khi quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực điều chỉnh phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc này như là cách

lập pháp về hành vi này của nước Anh, Đức và Nhật Bản. Các văn bản pháp luật

75

khác quy định chi tiết và bổ sung cho Luật Cạnh tranh về các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực điều chỉnh. Tuy nhiên cần có sự phân biệt giữa các

hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi đơn thuần chỉ vi phạm pháp luật

chuyên ngành . Ví dụ, trong lĩnh vực quảng cáo, cần phân biệt rõ các hành vi quảng

cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo gian dối, quảng cáo so sánh

với các hành vi vi phạm về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo như dùng

hình ảnh lãnh tụ để quảng cáo, quảng cáo những loại sản phẩm bị cấm quảng cáo.

Để làm được điều này, cần có những nghiên cứu nghiêm túc về các loại hành vi và

bản chất cạnh tranh không lành mạnh của chúng trong từng lĩnh vực để có những

quy định phù hợp.

Hai là, cần thống nhất trong các quy định của pháp luật về các hành vi đã

được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành và

thống nhất về quan điểm xử lý. Với các quy định về hành vi, chúng ta có thể thấy có

nhiều hành vi cùng được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật

khác nhưng có nội dung khác nhau, thiếu tính thống nhất. Ví dụ, quy định về chỉ

dẫn gây nhầm lẫn được quy định trong Luật Cạnh tranh có nội hàm hẹp hơn so với

quy định trong pháp luật về sở hữu trí tuệ; các quy định về xâm phạm bí mật kinh

doanh trong hai văn bản pháp luật trên cũng có sự khác nhau đáng kể về các dạng vi

phạm; các quy định về quảng cáo không trung thực trong pháp luật quảng cáo và

quảng cáo gian dối, gây nhầm lẫn quy định trong Luật Cạnh tranh. Để đảm bảo tính

thống nhất của pháp luật thì cùng một hành vi nên chỉ có một khái niệm mô tả hành

vi, tránh việc có khái niệm không đồng nhất sẽ nguy hiểm trong quá trình thực thi

pháp luật. Có như vậy, việc thực thi pháp luật vừa đảm bảo được hiệu quả, vừa đảm

bảo tính minh bạch, rõ ràng của pháp luật. Do đó, việc rà soát sự khác biệt trong các

quy định của pháp luật về cùng một hành vi cạnh tranh không lành mạnh là cần thiết

để có thể có kế hoạch sửa đổi một cách đồng bộ các quy định tương ứng trong nhiều

văn bản phápluật.

Ba là, cần thống nhất mức xử lý vi phạm đối với các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh và trong các văn bản pháp

luật điều chỉnh các lĩnh vực pháp luật cụ thể như giữa Luật Cạnh tranh và các luật

76

chuyên ngành với Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh.

Với tình trạng hiện nay, khi hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định

đồng thời trong nhiều văn bản pháp luật thì đã xảy ra tình trạng cùng một hành vi

nhưng lại áp dụng các mức xử lý khác nhau. Ví dụ, cùng xử lý hành vi chỉ dẫn gây

nhầm lẫn nhưng Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 09 năm

2005 quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh áp dụng biện

pháp phạt tiền với mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, nhưng theo

Nghị định 97/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 09 năm 2010 quy định về

xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp lại áp dụng mức phạt có thể

tối đa lên đến 500.000.000 đồng. Sự khác biệt quá lớn về khung xử phạt và mức

phạt có thể tạo nên sự thiếu công bằng khi áp dụng các văn bản pháp luật khác nhau

để xử lý cùng một hành vi có mức độ như nhau. Do đó, vấn đề cần giải quyết là có

sự phối hợp giữa các lĩnh vực pháp luật khác nhau khi xử lý hành vi cạnh tranh

không lành mạnh và cần có những sửa đối cần thiết khi có sự thay đổi trong việc áp

dụng các biện pháp xử lý. Mà điều cơ bản nhất đó là sửa đổi điều chỉnh hợp lí kịp

thời văn bản chế tài này nó phụ thuộc vào hành động của cơ quan hành pháp theo

quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (cơ quan thuộc Chính phủ).

Bốn là, về thủ tục xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Sự tồn tại

nhiềuvăn bản pháp luật quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể gây

ra một hệ lụy khó lường là cùng một hành vi có nhiều cơ quan có thẩm quyền và áp

dụng các thủ tục khác nhau để xử lý. Luật Cạnh tranh đã xây dựng tố tụng cạnh

tranh để xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh với

quy định điều tra, xử lý đặc thù cho các vụ việc cạnh tranh. Trong các lĩnh vực pháp

luật khác như pháp luật quảng cáo, pháp luật về khuyến mại, pháp luật về quản lý

bán hàng đa cấp, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được nhìn nhận như một

dạng vi phạm về quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực này nên thủ tục áp dụng để

xứ lý là thủ tục xử lý vi phạm hành chính thông thường. Tương ứng với các thủ tục

này là thẩm quyền xử lý sẽ thuộc các cơ quan quản lý chuyên ngành. Sự đa dạng về

thủ tục và cơ quan có thẩm quyền xử lý có thể tạo nhiều khả năng lựa chọn cho

những chủ thể có liên quan bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước những

77

hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Song mặt khác, tình trạng này lại gây ra

những hệ quả khó lường trước:

- Khả năng các cơ quan khác nhau có những quan điểm xử lý khác nhau cho

cùng một hành vi nếu chúng được quy định trong nhiều lĩnh vực pháp luật có liên

quan.

- Thủ tục điều tra xác định hành vi khác nhau có thể dẫn đến cách thức đánh

giá bản chất cạnh tranh không lành mạnh và tác động của hành vi cũng không giống

nhau làm ảnh hưởng đến kết luận và các biện pháp xử lý.

- Khả năng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau giữa các cơ quan thực thi pháp

luật trước những vụ việc có nhiều khó khăn trong điều tra và xử lý hành vi dẫn đến

tình trạng xử lý không nghiêm, không tương xứng với mức độ vi phạm của chủ thể

vi phạm. Những hệ quả trên đều có ảnh hưởng không tốt đối với tính thống nhất của

pháp luật, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi pháp luật trong thực tiễn và đặc biệt

nguy hiểm hơn đó là đến lòng tin của cộng đồng xã hội đối với khả năng quản lý thị

trường của cơ quan Nhà nước. Tác giả cho rằng, với đặc thù của lĩnh vực cạnh tranh,

cho dù hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định ở lĩnh vực pháp luật nào

đi chăng nữa thì việc xử lý chúng cần phải được thực hiện một cách thống nhất.

3.4. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh

3.4.1. Nâng cao năng lực của cơ quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt động

cạnh tranh và thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Thứ nhất, Chính phủ cần có cơ chế giám sát hoạt động của Ủy ban Cạnh

tranh quốc gia

Một trong những điểm mới đáng chú ý của Luật Cạnh tranh 2018 là việc

thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc gia trực thuộc Bộ Công thương trên cơ sở hợp

nhất Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Theo Khoản 2 Điều 46 của

Luật Cạnh tranh 2018 thì Ủy ban Cạnh tranh quốc gia vừa có chức năng tham mưu

giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về cạnh

78

tranh vừa tiến hành tố tụng cạnh tranh; kiểm soát tập trung kinh tế; quyết định việc

miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm và giải quyết khiếu nại quyết

định xử lý vụ việc cạnh tranh. Việc giao quá nhiều quyền cho Ủy ban Cạnh tranh

quốc gia có thể tạo ra cơ chế "xin-cho" và có nguy cơ xảy ra tham nhũng về chính

sách. Để tránh điều này, Chính phủ cần ban hành những cơ chế giám sát hoạt động

của cơ quan này và cần rà soát kiểm tra kỹ hơn về quy định thành viên của Ủy ban

Cạnh tranh quốc gia do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, tránh xảy ra

việc chồng chéo xung đột với Luật Tổ chức Chính phủ.

Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo cán bộ chuyên trách giải quyết các vụ

việc cạnh tranh không lành mạnh, nhất là các điều tra viên để bổ sung lực lượng cho

cơ quan quản lý cạnh tranh

Vấn đề cạnh tranh là vấn đề phức tạp, đòi hỏi các điều tra viên khi tiến hành

tố tụng phải có kiến thức chuyên sâu không chỉ về pháp lý mà còn bao gồm cả

những kiến thức về kinh tế. Phân tích kinh tế đóng vai trò quan trọng, không thể

thiếu khi áp dụng các Luật Cạnh tranh trong các vụ việc cụ thể. Để xây dựng đội

ngũ điều tra viên, Ủy ban Cạnh tranh quốc gia cần phải tổ chức thực hiện các công

việc:

- Xây dựng chương trình đào tạo toàn diện cho các điều tra viên cạnh tranh.

Phối hợp với các tổ chức quốc tế, các cơ quan cạnh tranh nước ngoài tổ chức các

khóa học đào tạo ngắn hạn về kỹ năng điều tra cho các điều tra viên của Việt Nam;

- Tích cực và tạo điều kiện cử các cán bộ ra nước ngoài tham gia các khóa

đào tạo ngắn và dài hạn;

- Phối hợp với các cơ quan đào tạo nghiệp vụ điều tra trong nước như: Bộ

Công an, Viện kiểm sát cũng như các Trường Đại học kinh tế, Học viện Tài chính,

Đại học Luật để bồi dưỡng nâng cao các kiến thức về kinh tế, tài chính, luật và kỹ

năng điều tra cho các điều tra viên;

- Tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ cho các điều tra viên. Xây

dựng và triển khai hoạt động của Trung tâm đào tạo điều tra viên. Trung tâm này

79

không chỉ tập trung đào tạo các kỹ năng, kiến thức cho các điều tra viên mà còn có

nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho các cánbộ của các cơ quan có liên quan như: Cán

bộ làm công tác bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương, lực lượng quản lý thị trường

tại các Tỉnh, Thành phố.

3.4.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và các chính sách của Nhà nước

nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể tham gia cạnh tranh không

lành mạnh

Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật hiện nay vẫn chưa được quan tâm

một cách đúng mức trong xã hội nhất là trong giới doanh nghiệp, là chủ thể và đối

tượng áp dụng chính của Luật Cạnh tranh. Do đó để nâng cao hiểu biết của người

dân, cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề về Luật Cạnh tranh có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng để đảm bảo thực thi một cách có hiệu quả Luật Cạnh

tranh trong thực tế. Khi các chủ thể cạnh tranh có kiến thức thì họ nhận biết được

hành vi của mình để từ đó có những sự điều chỉnh hành vido ứng xử kinh doanh đã

có sự định hướng của pháp luật. Từ kinh nghiệm thực tiễn các nước, các cơ quan

nhà nước nên:

- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, hội thảo tìm hiểu về kiến thức

pháp luật nói chung, kiến thức về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh nói riêng,

trong đó phải xác định đối tượng chính là các doanh nghiệp.

- Phổ biến, tuyên truyền nội dung của Luật Cạnh tranh trên các phương tiện

thông tin đại chúng dưới các hình thức như các cuộc thi, tìm hiểu về Luật Cạnh

tranh, diễn đàn đối thoại trực tiếp mời các chuyên gia nghiên cứu và có lĩnh vực

trong Luật Cạnh tranh, phổ biến pháp luật trên truyền hình, đài phát thanh, sách, báo

chuyên ngành.

- Giáo dục đạo đức kinh doanh cho các doanh nghiệp, phải cho họ hiểu

những hậu quả xấu cũng như chế tài xử lý đối với việc kinh doanh bất chính, cùng

lợi ích lâu dài từ việc cạnh tranh trung thực. Khi một doanh nghiệp nhận thức được

hành vi cũng như hiểu biết về pháp luật thì những hành vi cạnh tranh không lành

80

mạnh sẽ được giảm bớt, môi trường kinh doanh sẽ đảm bảo tính công bằng và

nghiêm minh.

- Tạo lập, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng, bình đẳng,

minh bạch.

- Thúc đẩy cạnh tranh, bảo đảm quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh của

doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

- Tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc

lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

- Tạo điều kiện để xã hội, người tiêu dùng tham gia quá trình giám sát việc

thực hiện pháp luật về cạnh tranh.

81

KẾT LUẬN

Cạnh tranh trong kinh doanh là quyền cơ bản của các chủ thể kinh doanh trên

thị trường và được pháp luật các nước bảo hộ. Các chủ thể kinh doanh có thể sử

dụng nhiều phương thức để cạnh tranh với nhau, trong đó có phương thức cạnh

tranh lành mạnh và phương thức cạnh tranh không lành mạnh. Chống hành vi cạnh

trong không lành mạnh từ lâu vẫn là một thách thức lớn đồi với hệ thống pháp luật

và các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam.

Luận văn đã xây dựng một số các khái niệm cơ bản để làm cơ sở cho việc

nghiên cứu pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Các khái

niệm được nghiên cứu trên cơ sở các quy định pháp luật và các quan điểm về cạnh

tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hệ thống pháp luật về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh như quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh,

quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và

các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhìn chung đang ngày càng

hoàn thiện, đáp ứng những đòi hỏi thực tế.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt

Nam trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số bất cập. Điều này xuất phát từ

những nguyên nhân chủ yếu như: quy định về các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh chưa đầy đủ, quy trình, thủ tục khiếu nại, điều tra, xử lý hành vi cạnh tranh

không lành mạnh vẫn còn rườm rà, năng lực của các cơ quan điều tra, xử lý còn

hạn chế và các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn chưa đủ tính

răn đe.

Luận văn đã đưa ra định hướng và các giải pháp trong đó có các giải pháp

hoàn thiện pháp luật, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Về hoàn thiện pháp luật, cần thống nhất trong

các quy định của pháp luật về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, mức xử lý

vi phạm đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thủ tục xử lý hành vi

cạnh tranh không lành mạnh đã được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn

bản pháp luật chuyên ngành. Về thực thi pháp luật, cần nâng cao năng lực của cơ

82

quan Nhà nước trong việc quản lý hoạt động cạnh tranh và đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ thể tham gia cạnh

tranh không lành mạnh.

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Các văn bản qui phạm pháp luật

1. Chính phủ , Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh,

Hà Nội (2005)

2. Chính phủ , Nghị định số 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực cạnh tranh, Hà Nội (2005)

3. Chính phủ, Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp,

Hà Nội (2005)

4. Chính phủ, Nghị định số 97/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội (2010)

5. Cục Quản lý cạnh tranh, Báo cáo thường niên năm 2017, Hà Nội (2017)

6. Quốc hội, Luật Cạnh tranh năm 2004, Hà Nội (2004)

7. Quốc hội, Bộ Luật Dân sự năm 2015, Hà Nội (2015)

8. Quốc hội, Bộ Luật Hình sự năm 2015, Hà Nội (2015)

9. Quốc hội, Luật Quảng cáo năm 2012, Hà Nội (2012)

10. Quốc hội, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Hà Nội (2010)

11. Quốc hội, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi một số điều năm 2009, Hà Nội

(2005)

II. Các sách tham hảo, luận án, bài viết

12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội. (2011)

13. Tổng cục Quản lý thị trường - Bộ Công Thương, Hội thảo "Thực trạng hàng giả,

hàng nhái tại Việt Nam - Nguy cơ, thách thức và giải pháp, Hà Nội. (2018)

14. Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Cạnh tranh và xây dựng pháp Luật

Cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, NXB Công an nhân dân Hà Nội (2001)

84

15. Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng,

Đà Nẵng. (1997)

16. Nguyễn Thị Vân Anh, Giáo trình Luật Cạnh tranh; NXB Trường Đại học Luật

Hà Nội (2016)

17. Viên Thế Giang, Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt

động ngân hàng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Học

Viện Khoa học Xã hội. (2014)

18. Quách Thị Hương Giang, Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

theo pháp luật Việt Nam, Khoa Luật Đại học Quốc gia (2011)

19. Đặng Vũ Huân, “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không

lành mạnh ở Việt Nam” NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. (2004)

20. Nguyễn Hữu Huyên, Luật Cạnh tranh của Pháp và liên minh châu Âu, NXB Tư

Pháp, Hà Nội. (2004)

21. Trịnh Thị Liên Hương, Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học Luật Hà

Nội (2010)

22. Phạm Trí Hùng, Pháp Luật Cạnh tranh Liên bang Nga và những bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam, Đề tài NCKH cấp trường, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí

Minh. (2012)

23. Đinh Đức Minh, Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội

(2012)

24. Bùi Thị Minh Nguyệt, Trần Văn Hùng, Lê Thị Mai Hương, Thương mại Việt

Nam Trung Quốc thực trạng và giải pháp, Tạp chí Khoa học và công nghệ lâm

nghiệp số 02/2016. (2016)

25. Nguyễn Thị Như Quỳnh, Xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh và

hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp theo quy định

của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học số 5/2009 (2009)

85

26. Nguyễn Thị Hòa Trâm, Bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành

mạnh gây ra, Tạp chí Khoa học pháp lý, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí

Minh số 2/2012 (2012)

27. Lê Danh Vĩnh, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB Đại học Kinh tế - Luật, Đại

học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. (2010)

28. PGS.TS. Lê Danh Vĩnh, ThS. Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Giáo

trình Luật Cạnh tranh, NXB Đại Học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh. (2010)

III. Tài liệu từ các website

29. Như Bình (2011), Acecook khiếu nại quảng cáo mì gói Tiến Vua gây nhầm lẫn,

http://giaoduc.net.vn/Kinh-te/Thi-truong/Acecook-khieu-nai-quang-cao-mi-goi-

Tien-Vua-gay-nham-lan-post6028.gd truy cập ngày 28/06/2011

30. Khánh Hưng (2007), EVN cải chính việc "ép" dùng điện thoại "cây nhà lá

vườn", https://congnghe.tuoitre.vn/evn-cai-chinh-viec-ep-dung-dien-thoai-cay-nha-

la-vuon-152606.htm. Truy cập ngày 27/07/2006

31. Hùng Sơn (2006), LG gian dối trong khuyến mãi rút thăm trúng thưởng,

https://dantri.com.vn/xa-hoi/lg-gian-doi-trong-khuyen-mai-rut-tham-trung-thuong-

1144412924.htm truy cập ngày 07/04/2006

32. Đất Việt (2011), Electrolux VN bị phạt vì quảng cáo "lố",

https://baomoi.com/electrolux-vn-bi-phat-vi-quang-cao-lo/c/7181452.epi truy cập

ngày 17/10/2011

33. VOV online (2013), PINACO phản hồi về cáo buộc vi phạm Luật cạnh tranh,

http://vietbao.vn/Kinh-te/PINACO-phan-hoi-ve-cao-buoc-vi-pham-Luat-canh-

tranh/181249937/87 truy cập ngày 28/02/2013