ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THANH TÂM
PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính qui
Khóa học: QH-2012_L
Hà Nội, năm 2016.
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THANH TÂM
PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính qui
Khóa học: QH-2012_L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: GV TH.S TRẦN ANH TÚ
Hà Nội, năm 2016
2
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình nghiên cứu và
học tập của em cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình từ thầy Trần Anh Tú. Mọi tham
khảo, trích dẫn đều có nguồn rõ ràng.
Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về bài khóa luận của mình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2016.
Sinh viên thực hiện
Phạm Thanh Tâm
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................................ 9
1.1. Khái quát chung về khuyến mại....................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm về khuyến mại ......................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khuyến mại ...................................................... 11
1.1.3. Các hình thức khuyến mại ....................................................................... 13
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động khuyến mại ......................................... 17
1.2. Khái quát chung về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............ 24
1.2.1. Khái niệm về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............... 24
1.2.2. Đặc trưng pháp lý của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh . 25
1.2.3. Tác động của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh .. 27
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM ............................................... 29
2.1. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh
tranh 2004 ................................................................................................................. 29
2.1.1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng .................................... 29
2.1.1. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ
để lừa dối khách hàng ........................................................................................... 35
2.1.2. Phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại ....................... 39
2.1.3. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng
đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử
dụng để dùng hàng hóa của mình ......................................................................... 41
2.2. Xử lý các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh .................. 45
2.2.1. Cơ quan có thẩm quyền xử lý ..................................................................... 45
2.2.2. Trình tự, thủ tục xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh...................................................................................................................... 48
2.2.3. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ... 49
4
CHƯƠNG 3. HƯỚNG GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................................... 53
3.1. Hướng giải quyết đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh ........................................................................................................................ 53
3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay ................................................................... 61
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU .......................................................................................... 68
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã có những sự vận động
mạnh mẽ, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này, nước ta đang dần dần hội
nhập với nền kinh tế thị trường. Đây là những điều kiện cần thiết cho sự phát
triển của nền kinh tế một quốc gia và tồn tại trong đó nhiều vấn đề liên quan
chi phối nhiều khía cạnh của nền kinh tế ảnh hưởng đến sự phát triển cân
bằng của nền kinh tế và cho cuộc sống của mỗi người dân, một trong những
vấn đề đó là cạnh tranh mà điều đáng chú ý là cạnh tranh không lành mạnh.
Khi bước vào môi trường kinh doanh tự do để tạo bước chuyển cho nền kinh
tế phát triển năng động thì cạnh tranh trong mua bán hàng hoá là cần thiết và
không thể tránh khỏi. Mỗi một nhà sản xuất luôn muốn kiếm lợi nhuận thật
nhiều và mua bán hàng hoá đòi hỏi phải có chiến lược và có thể bao gồm cả
thủ đoạn không đẹp để hạ gục đối thủ cạnh tranh với mình. Có nhiều biện
pháp sử dụng trong cạnh tranh như: quảng cáo, khuyến mại, cạnh tranh bằng
giá cả… Bất kỳ một sản phẩm nào làm ra đều cần được đưa tới người tiêu
dùng bằng nhiều cách khác nhau để làm sao thu hút thật nhiều khách hàng mà
khuyến mại một trong những hoạt động rất thường được sử dụng để giới thiệu
hàng hoá của mình như: hàng loạt các chương trình khuyến mại diễn ra rầm
rộ… nhằm kích thích sức mua của khách hàng cho một loại sản phẩm nào đó.
Có những nhà sản xuất, kinh doanh vì không cạnh tranh được với những hãng
khác thì lại dùng những biện pháp không đẹp để cạnh tranh không lành mạnh
bằng nhiều thủ đoạn khác nhau: bán phá giá hàng hoá, gièm pha quảng cáo so
sánh nói xấu sản phẩm của doanh nghiệp khác… Những vụ việc, vấn đề này
phải được pháp luật can thiệp và xử lý kịp thời để tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh và công bằng. Luật cạnh tranh ra đời năm 2004 trong đó có quy
định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm. Đây là hành lang pháp
lý quan trọng tạo ra sự cạnh tranh công bằng trong hoạt động kinh doanh, sự
6
yên tâm cho các nhà sản xuất và cả những nhà đầu tư vào kinh doanh. Nhưng
pháp luật cũng không thể quy định bao quát hết và các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh với thủ đoạn ngày càng diễn ra tinh vi hơn xuất hiện ngày
càng nhiều. Ngày nay, cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến
mại xảy ra càng đa dạng và ảnh hưởng lớn đến lợi ích của Nhà nước, của
doanh nghiệp khác và đặc biệt là của người tiêu dùng, tuy Luật cạnh tranh
2004 đã được ban hành để nhằm hạn chế, khắc phục và xử lý các hành vi vi
phạm nhưng trên thực tế thì việc áp dụng, thực thi Luật cạnh tranh còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc cần sớm được giải quyết để góp phần bảo vệ lợi
ích chung của xã hội và cũng để bình ổn môi trường cạnh tranh, tạo khung
pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ pháp luật
và luôn cạnh tranh công bằng. Chính vì những lẽ trên nên người viết đã chọn
đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến
mại” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của người viết khi nghiên cứu đề tài này là để tìm hiểu những
quy định về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, về thẩm quyền cũng như chế tài xử lý đối với những hành
vi vi phạm. Từ đó, người viết xem xét những quy định của pháp luật về lĩnh
vực này có phù hợp với tình hình trên thực tế đang diễn ra hay không, đồng
thời những quy định này có mang lại hiệu quả hay không nhằm đưa ra một số
kiến nghị đề xuất và giải pháp để phần nào khắc phục những hạn chế còn tồn
tại cũng như củng cố vũng chắc thêm hành lang pháp lý.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài người viết tập trung nghiên cứu những quy định
pháp luật về hoạt động khuyến mại theo Luật thương mại 2005 và Nghị định
37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết Luật thương mại
về hoạt động xúc tiến thương mại, Nghị định 68/2009/NĐ- CP ngày 06 tháng
7
08 năm 2009 sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP
và Nghị Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2005 quy định về
xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Bên cạnh, người viết cũng nghiên cứu những quy định cụ thể về hành
vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, thẩm quyền xử lý và chế
tài đối với hành vi này như thế nào theo Luật cạnh tranh 2004, được Quốc hội
thông qua ngày 03/12/2004 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2005.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài của mình người viết đã sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh, sau đó tổng hợp lại để đưa ra những khái niệm và quan điểm cơ bản
nhất về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh. Bên cạnh đó, người viết còn sử dụng phương pháp phân tích luật
viết để tìm hiểu những quy định cụ thể của pháp luật, từ đó có thể nêu lên
thực trạng và phương hướng giải quyết những mặt còn tồn tại của luật.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
khuyến mại” bao gồm:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung: gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về cạnh tranh không lành mạnh và
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Chương 2: Quy định của pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh tại Việt Nam.
Chương 3: Hướng giải quyết và một số đề xuất hoàn thiện pháp
luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
hiện nay.
- Phần kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo.
8
CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. Khái quát chung về khuyến mại
1.1.1. Khái niệm về khuyến mại
Ngày nay, trong thời đại kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam trở
thành thành viên của WTO, thì cuộc chiến cạnh tranh ngày càng trở nên khốc
liệt hơn bao giờ hết. Nó đã trở thành vấn đề tất yếu của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp khi muốn sản phẩm của mình có thể tồn tại trên thị trường và
cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp khác, thì ngoài chất lượng sản
phẩm tốt, mẫu mã đẹp mắt, giá thành hợp lý thì doanh nghiệp còn cần phải
làm cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm của mình. Vì nếu sản phẩm có tốt
đến đâu đi nữa mà khách hàng không biết đến thì sản phẩm cũng không thể
tiêu thụ được. Để hàng hóa của mình có thể được người tiêu dùng biết đến thì
doanh nghiệp phải sử dụng mọi giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán
hàng và cung ứng dịch vụ. Một trong những hình thức xúc tiến thương mại
mà ta không thể không kể đến đó là hình thức khuyến mại. Vậy khuyến mại
là gì?
Nhằm liên hệ giữa thị trường và công chúng, thương nhân ngày càng
quan tâm hơn đến hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các hình thức
như khuyến mại, quảng cáo,…Trong đó, khuyến mại là một trong những
công cụ kinh doanh quan trọng thúc đẩy việc mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Thuật ngữ “khuyến mại” trong tiếng Anh là Sales promotion, hoặc đôi
khi cũng được gọi là Promotion. Trong Tiếng Việt, “khuyến mại” được hiểu
là khuyến khích việc mua hàng, cách hiểu này xuất phát từ Hán Việt:
“khuyến” là khuyến khích, “mại” là mua. Ở các nước vận hành nền kinh tế thị
trường, thuật ngữ “khuyến mại” được dùng khá phổ biến. Tại Việt Nam, thuật
9
ngữ này hiện đã được sử dụng rộng rãi gắn liền với giới thương nhân và
người tiêu dùng. Hiện nay, khái niệm khuyến mại đã được tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Từ góc độ ngôn ngữ Tiếng Việt
Đại từ điển Tiếng Việt của trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam,
đưa ra định nghĩa về khuyến mại: “Khuyến mại là những hành động, tài liệu,
công cụ và kỹ thuật được dùng để bổ sung cho quảng cáo và chương trình tiếp
thị ( như giảm giá, quà tặng, sổ xố,..) nói chung”[11,928].
Từ điển từ mới Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đã định nghĩa về
khuyến mại như sau: “Khuyến mại là khuyến khích việc mua hàng, thường
bằng biện pháp giảm giá hoặc kèm thêm quà tặng”[12,126].
Và một định nghĩa rất đơn giản về khuyến mại trong từ điển Việt Nam:
“Khuyến mại là khuyến khích mua hàng”[13,516].
Từ góc độ kinh tế
Khuyến mại hành vi khuyến mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc
bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng
cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khuyến mại là một hình
thức của xúc tiến thương mại được doanh nghiệp sử dụng nhằm kích thích
khách hàng sử dụng hành hóa, dịch vụ của mình [14,257].
Từ góc độ pháp luật
Theo Điều 88 Luật Thương mại 2005 quy định rằng: “Khuyến mại là
hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích
nhất định”. Cách thức thực hiện xúc tiến thương mại, tạo ra những điều kiện
thuận lợi để thúc đẩy mạnh mẽ việc bán hàng và cung ứng dịch vụ là dành
10
cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khuyến mại mang nghĩa là "khuyến
khích mua hàng hoá, dịch vụ", do đó mục đích chính của khuyến mại là kích
cầu tiêu dùng, thúc đẩy người tiêu dùng mua và mua nhiều hơn các hàng hoá,
dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối. Ngoài ra, hoạt động
khuyến mại còn nhằm mục đích quảng bá thương hiệu sản phẩm và doanh
nghiệp.
So với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 khi
định nghĩa về khuyến mại đã chuẩn xác hơn có bổ sung thêm mục đích của
khuyến mại. Cụ thể, mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc
bán hàng mà còn xúc tiến việc mua hàng. Mặc dù khuyến mại để bán hàng là
hoạt động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu
cầu tất yếu của thương nhân để tăng cường khả năng cạnh tranh mở rộng thị
trường, thị phần, nhưng đối với thương nhân thương mại, việc khuyến mại để
mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu tất yếu cần thiết để hoàn
thành kế hoạch kinh doanh.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khuyến mại
Khuyến mại là công cụ kích thích bán hàng tốt nhất vì nó đánh vào thị
hiếu người tiêu dùng và tác động trực tiếp tới lợi ích của họ, do đó kích thích
mua sắm làm tăng số lượng hàng bán, tăng các dịch vụ được cung ứng. Như
vậy, khuyến mại là việc sử dụng hàng loạt các biện pháp tác động đến lợi ích
vật chất của khách hàng nhằm kích thích sự tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Từ
định nghĩa của khuyến mại theo Luật Thương mại 2005, cho thấy khuyến mại
bao gồm các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân: Để
tăng cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực
hiện việc khuyến mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại của thương
nhân khác để làm kinh doanh. Quan hệ dịch vụ này được hình thành trên cơ
11
sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và
thương nhân kinh doanh dịch vụ.
Theo Luật thương mại năm 2005 thì chủ thể được phép tổ chức khuyến
mại là các thương nhân thuộc một trong các trường hợp sau:
- Thương nhân trực tiếp khuyến mại hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh
doanh.
- Thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến mại
cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác theo thỏa thuận với thương
nhân đó.
Và tại Điều 91, Luật thương mại năm 2005 cũng cụ thể hơn về việc chi
nhánh và văn phòng đại diện của doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động
khuyến mại, cụ thể như sau:
- Thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân Việt Nam, chi
nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền tự tổ chức khuyến
mại hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc
khuyến mại cho mình.
- Văn phòng đại diện của thương nhân không được khuyến mại hoặc
thuê thương nhân khác thực hiện khuyến mại tại Việt Nam cho thương nhân
mà mình đại diện.
Thương nhân được phép tổ chức khuyến mại ở đây là thương nhân
được quy định tại khoản 1, Điều 6, Luật thương mại năm 2005 bao gồm “tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.
Thứ hai, cách thức khuyến mại: Là dành cho khách hàng những lợi ích
nhất định, tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng
12
thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tùy
thuộc vào kinh phí dành cho đợt khuyến mại…mà lợi ích thương nhân dành
cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm
giá, hoặc là lợi ích phi vật chất khác.
Thứ ba, mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung
ứng dịch vụ. Thương nhân có thể thực hiện việc khuyến mại nhằm tác động
trực tiếp đối với người tiêu dùng hoặc với các trung gian phân phối. Khuyến
mại cho người tiêu dùng để lôi kéo sức mua, tiếp thị một sản phẩm mới, kích
thích tiêu thụ sản phẩm đã có trên thị trường, làm cho khách hàng đến các cửa
hàng bán lẻ nhiều hơn nhằm tăng thị phần của thương nhân trên thị trường.
Khuyến mại cho các trung gian phân phối nhằm kích thích sự chú ý của trung
gian phân phối đối với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình để đặt hàng
và tích cực chào hàng cho mình và cũng để tăng cường quan hệ đối tác với
trung gian phân phối.
1.1.3. Các hình thức khuyến mại
Bằng nhiều hình thức khác nhau, khuyến mại giúp cho người tiêu dùng
biết đến, sử dụng sản phẩm và vì thế, đồng thời doanh thu của doanh nghiệp
cũng tăng lên. Theo Điều 92 Luật thương mại 2005 thì thương nhân sẽ được
phép tổ chức các hình thức khuyến mại sau:
Đưa hàng mẫu cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng
thử không phải trả tiền:
Với hình thức này thì hàng mẫu đưa cho khách hàng, dịch vụ mẫu cung
ứng cho khách hàng dùng thử phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp
pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường. Việc áp
dụng hình thức khuyến mại này nhằm mục đích thăm dò thị trường cũng như
bước đầu làm quen với sản phẩm và người tiêu dùng có điều kiện dùng thử để
kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ có như nhà sản xuất đã cung cấp hay
13
không. Hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu là một hình thức
thuyết phục khách hàng khá hữu hiệu bằng cách họ là người trực tiếp kiểm
định chất lượng hàng hóa, dịch vụ để đưa ra quyết định có sử dụng sản phẩm
đó hay không, nếu khách hàng chấp nhận dùng sản phẩm thử và đánh giá tốt
thì việc họ chấp nhận tiêu thụ hàng hóa trong tương lai sẽ rất dễ dàng, khi đó
hàng hóa sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Khi nhận hàng mẫu, dịch vụ
mẫu, khách hàng không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào.
Thương nhân thực hiện khuyến mãi bằng hình thức đưa hàng mẫu có thể cung
cấp hàng mẫu theo yêu cầu của khách hàng, được phát tại nơi bán hàng hoặc
phát tận tay người tiêu dùng. Để đạt được kết quả tốt nhất thì hàng hóa mẫu
phải đến được đúng đối tượng mà nhà sản xuất nhắm tới và thương nhân phải
chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của mình.
Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền:
Thương nhân được dùng hàng hóa, dịch vụ đang kinh doanh hoặc hàng
hóa, dịch vụ khác để tặng, cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Đối với các sản
phẩm, hàng hóa có kèm quà tặng hay dịch vụ hậu mãi sẽ thu hút được khách
hàng nhiều hơn những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại trên thị trường
không áp dụng hình thức khuyến mại tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ không
thu tiền.
Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng,
cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã
đăng ký hoặc thông báo:
Đây là hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ giảm giá theo tỉ lệ phần
trăm hoặc theo một giá trị nhất định. Hình thức khuyến mại giảm giá có tác
dụng thúc đẩy sự tiêu thụ đối với một mặt hàng có sức tiêu thụ chậm, doanh
nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ sẽ dùng một phần lợi nhuận mà bán giảm
giá để tạo sự mới mẻ đối với mặt hàng này nhằm thu hút khách hàng trở lại.
14
Đây là hình thức hấp dẫn khách hàng vì nó đánh vào tâm lý tiêu thụ của họ.
Khách hàng sẽ nhận thấy sự chênh lệch về giá cả trước và trong thời gian
khuyến mại để có sự so sánh và do đó sức mua đối với mặt hàng đó sẽ dễ
dàng tăng lên.
Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng,
phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích
nhất định:
Đây là hình thức thường được sử dụng trong kinh doanh thương mại
khi khách hàng mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ với một số lượng nhất định sẽ
được phát phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất,
cung ứng dịch vụ phát hành nhằm khuyến khích khách hàng tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ một cách thường xuyên với số lượng lớn.
Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách
hàng để chọn người trao thưởng theo tỉ lệ và giải thưởng đã công bố:
Thông qua chương trình này doanh nghiệp sẽ biết được mức độ quan
tâm của khách hàng đối với sản phẩm của mình ra sao để từ đó có chiến lược
xúc tiến thương mại hợp lý. Đồng thời, cũng giúp người tiêu dùng hiểu biết rõ
hơn về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm mà mình đang sử dụng.
Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các
chương trình mang tính may rủi mà việc tham dự chương trình gắn liền
với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may
mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố:
Đây là hình thức khuyến mại dựa trên sự may mắn của khách hàng, các
doanh nghiệp đánh vào tâm lý muốn thử vận may của người tiêu dùng thông
qua các hình thức như: bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm phiếu tham gia bốc
thăm trúng thưởng, xổ số để trao giải thưởng…Giải thưởng càng lớn thì sự
15
hấp dẫn càng cao, việc tiêu thụ sản phẩm, sử dụng dịch vụ cũng đạt được hiệu
quả cao hơn.
Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó
việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua
hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thực hiện dưới hình
thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các
hình thức khác:
Hình thức này được các doanh nghiệp sử dụng nhằm lôi kéo một lượng
khách hàng thường xuyên, thân quen. Thông qua việc mua sắm hàng hóa, sử
dụng dịch vụ với một số lượng, giá trị nào đó sẽ được cấp thẻ khách hàng hay
phiếu ghi nhận tích lũy điểm là khách hàng thường xuyên, khách hàng thân
quen và sẽ được hưởng những lợi ích nhất định như: đổi quà tặng hấp dẫn, ưu
tiên mua hàng, giảm giá hàng hóa, sử dụng dịch vụ chăm sóc khách hàng
miễn phí…
Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa,
nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại:
Thông qua việc tổ chức các sự kiện đặc biệt, doanh nghiệp sẽ quảng
cáo, giới thiệu sản phẩm của mình giống như lời cám ơn đối với khách hàng
đã sử dụng sản phẩm và khuyến khích họ tiếp tục sử dụng sản phẩm trong
tương lai.
Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý
Nhà nước về thương mại chấp nhận:
Bằng những hình thức khuyến mại nêu trên doanh nghiệp mong muốn
sẽ thu hút và làm hài lòng khách hàng, từ đó sẽ khuyến khích họ sử dụng
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp nhiều hơn. Ngoài ra, các doanh nghiệp
có thể sử dụng nhiều hình thức khuyến mại khác nhau nếu như được các cơ
16
quan quản lý Nhà nước về thương mại chấp nhận. Tuy nhiên, khi thực hiện
các hình thức khuyến mại, doanh nghiệp cần phải hạn chế tình trạng gian lận,
lừa dối hay lợi dụng để cạnh tranh không lành mạnh nhằm loại bỏ đối thủ của
mình. Cạnh tranh lành mạnh sẽ là động lực phát triển tốt nhất, là môi trường
trong sạch và đầy năng động để doanh nghiệp khẳng định vai trò của mình
trong nền kinh tế hiện đại.
1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động khuyến mại
Với vị trí là một trong những lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế,
khuyến mại giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của thương
nhân. Đặc biệt là trong một thị trường rộng mở và cạnh tranh.
Đối với thương nhân, khuyến mại được dùng nhằm thúc đẩy việc mua
bán trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Cùng với quảng cáo, khuyến
mại luôn giữ vai trò là một trong những công cụ đắc lực và hiểu quả nhất để
phát triển thương mại. Nếu một thương nhân không thể chuyển tải các thông
tin về hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng một cách có hiệu quả và không thể
thu được sực quan tâm, chú ý của mình trong một thị trường đa dạng hàng,
hóa dịch vụ cùng loại thì thương nhân đó sẽ không có khả năng khai thác
chiếm lĩnh được thị trường trong thời đại thông tin bùn nổ hiện nay. Trong
thực tế, khuyến mại là hoạt động luôn được ưu tiên trong chiến lược kinh
doanh của các thương nhân. Đó cũng chính là xu thế phổ biến hiện nay trong
cộng đồng các nhà kinh doanh bất kể tính đặc thù của ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh khác nhau.
Xu hướng hoạt động của các thương nhân vừa và nhỏ chưa có thị phần
hay thị phần nhỏ chưa ổn định thì định hướng khuyến mại theo thị trường đặc
thù và theo nhóm khách hàng tiềm năng để tập trung chiếm lĩnh nền móng
cho hoạt động kinh doanh lâu dài. Kèm với việc tung ra các sản phẩm, dịch
vụ mới vào thị trường bao giời cũng là các chương trình khuyến mại được
17
thương nhân thiết kế theo khả tài chính và mục đích kinh doanh của mình.
Thật khó tìm ra một sản phẩm, dịch vụ mới nào được đưa ra thị trường mà
không kèm theo một chiến dịch khuyến mại tương ứng. Còn các thương nhân
đã có thi phần ổn định thì bên cạnh việc duy trì hoạt động khuyến mại để giữ
vững thị phần, để khuyến khích khách hàng trung thành lại phải tiếp tục tính
tới việc sử dụng các công cụ khuyến mại để phát triển thi trường mới bằng
cách thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của số đông. Các thương nhân cỡ lớn luôn
duy trì hoạt động khuyến mại ở mức độ trung bình và cao tùy theo thời điểm
của năm kinh doanh. Có những thương nhân còn tổ chức thực hiện khuyến
mại quanh năm suốt tháng không ngừng nghỉ cho các sản phẩm của mình, các
chương trình khuyến mại liên tục tới khách hàng.
Đối với khách hàng, tương ứng với hoạt động khuyến mại của thương
nhân, họ tiếp cận khuyến mại để tìm kiếm các giá trị tăng thêm thông qua
việc mua bán hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.
Thông qua những hoạt động tích cực của khuyến mại đối với các chủ thể có
liên quan bao gồm thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại, thương nhân
khác và khách hàng trong nền kinh tế, ta có thể khái quát vai trò của khuyến
mại như sau:
Qua hoạt động khuyến mại thương nhân có thông tin tốt về
khách hàng và hoạt động khuyến mại là cầu nối giữa khách hàng và
thương nhân.”
Thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại sẽ thu được nguồn thông
tin đầu tiên từ khách hàng là những người trực tiếp liên quan tới hoạt động
khuyến mại bao gồm những ý kiến, thái độ, phản ứng của họ đối với sản
phẩm, dịch vụ kinh doanh và đối với tên tuổi, uy tín của thương nhân. Thông
qua khuyến mại, thương nhân cũng có thông tin từ những khách hàng tiềm
năng, đó là những người có khả năng sẽ tiêu thụ hàng hóa, sử dụng dịch vụ.
Tuy không có liên quan trực tiếp tới hoạt động khuyến mại nhưng họ gián
18
tiếp được tiếp nhận thông tin về hoạt động khuyến mại bao gồm ý kiến, thái
độ của họ đối với hoạt động khuyến mại và bản thân thương đó. Việc tìm
hiểu, nghiên cứu khách hàng thông qua hoạt động khuyến mại không chỉ
dừng lại ở chổ sẽ tiêu thụ được sản phẩm của thương nhân mà quan trọng hơn
nữa là phải đảm bảo song song việc giữ được khách hàng hiện tại và lôi kéo
khách hàng tiềm năng.
Kết quả thu thập thông tin từ khách hàng qua đợt khuyến mại, thương
nhân sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu điểm, nhược điểm, vị trí hàng hóa, dịch
vụ của thương nhân, hành vi của khách hàng nói riêng và trên thị trường nói
chung. Đây là cơ sở để doanh nghiệp ra quyết định phù hợp và kịp thời, bám
sát yêu cầu và đòi hỏi của thị trường.
Hoạt động khuyến mại giúp thương nhân thu nhận được
thông tin từ đối thủ cạnh tranh.”
Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa những người tham gia hoạt động
thương mại, đặc biệt là những thương nhân hoạt động thương mại trong cùng
lĩnh vực kinh doanh là tất yếu khách quan. Do đó, hoạt động khuyến mại của
mỗi thương nhân đều có thể tác động đến chiến lược kinh doanh và hoạt động
thương mại thực tế của thương nhân khác. Vì vậy, hoạt động khuyến mại
phần nào thể hiện những thông tin về đối thủ cạnh tranh trên cả hai phương
diện xem xét: đối thủ cạnh tranh của thương nhân chủ động thực hiện khuyến
mại hoặc chính thương nhân này với tư cách là đối thủ cạnh tranh của thương
nhân khác.
Mỗi thương nhân cần thu thập các số liệu quan trọng mới nhất về
nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh mà trong đó năng lực tiến hành khuyến mại
và việc tiến hành hoạt động khuyến mại trên thực tế là yếu tố cấu thành vô
cùng quan trọng. Nắm được nguồn tư liệu quý giá đó, thương nhân có thể
quyết định thách thức đối thủ nào trên thị trường. Cùng với nguồn thông tin
19
tốt từ khách hàng, thương nhân sẽ có hướng đầu tư công nghệ hiện đại, đổi
mới kinh doanh hay tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh kinh doanh hiện có
của mình.
Hoạt động khuyến mại thúc đẩy việc bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ trở nên thuận lợi và năng động hơn; đua hàng hóa, dịch vụ vào
kênh phân phối một cách hợp lý và kích thích tính hiệu quả của lực
lượng bán hàng.”
Tính thuận lợi ở đây được thể hiện thông qua việc khách hàng được
trực tiếp tiếp cận hàng hóa, dịch vụ (ví dụ:mời dùng thử sản phẩm, hưởng
dịch vụ miễn phí) hoặc được tạo điều kiện thông qua hàng hóa, dịch vụ khác
mà biết tới tên tuổi của thương nhân cùng mặt, hàng dịch vụ mà thương nhân
kinh doanh (ví dụ: người tiêu dùng đi mua sắm tại siêu thị được tặng lịch treo
tường trên đó có in tên, địa chỉ của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mà
doanh nghiệp đó bán hay cung ứng). Ngoài ra qua những kênh thông tin như
báo chí, mạng Internet, đài phát thanh và truyền hình hay truyền miệng giữa
các khách hàng với nhau cũng góp phần truyền bá hình ảnh về thương nhân
và hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Như vậy, tính thuận lợi được thể hiện
ở sự xây dựng nền tảng cơ sở nhận biết thương nhân cùng với hàng hóa, dịch
vụ. Kết quả thu thập thông tin từ khách hàng qua đợt khuyến mại, thương
nhân sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu điểm, nhược điểm, vị trí hàng hóa, dịch
vụ của thương nhân, hành vi của khách hàng nói riêng và trên thị trường nói
chung. Đây là cơ sở để doanh nghiệp ra quyết định phù hợp và kịp thời, bám
sát yêu cầu và đòi hỏi của thị trường.
Hoạt động khuyến mại giúp thương nhân thu nhận được
thông tin từ đối thủ cạnh tranh.”
Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa những người tham gia hoạt động
thương mại, đặc biệt là những thương nhân hoạt động thương mại trong cùng
20
lĩnh vực kinh doanh là tất yếu khách quan. Do đó, hoạt động khuyến mại của
mỗi thương nhân đều có thể tác động đến chiến lược kinh doanh và hoạt động
thương mại thực tế của thương nhân khác. Vì vậy, hoạt động khuyến mại
phần nào thể hiện những thông tin về đối thủ cạnh tranh trên cả hai phương
diện xem xét: đối thủ cạnh tranh của thương nhân chủ động thực hiện khuyến
mại hoặc chính thương nhân này với tư cách là đối thủ cạnh tranh của thương
nhân khác.
Mỗi thương nhân cần thu thập các số liệu quan trọng mới nhất về
nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh mà trong đó năng lực tiến hành khuyến mại
và việc tiến hành hoạt động khuyến mại trên thực tế là yếu tố cấu thành vô
cùng quan trọng. Nắm được nguồn tư liệu quý giá đó, thương nhân có thể
quyết định thách thức đối thủ nào trên thị trường. Cùng với nguồn thông tin
tốt từ khách hàng, thương nhân sẽ có hướng đầu tư công nghệ hiện đại, đổi
mới kinh doanh hay tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh kinh doanh hiện có
của mình.
Hoạt động khuyến mại thúc đẩy việc bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ trở nên thuận lợi và năng động hơn; đua hàng hóa, dịch vụ vào
kênh phân phối một cách hợp lý và kích thích tính hiệu quả của lực
lượng bán hàng.”
Tính thuận lợi ở đây được thể hiện thông qua việc khách hàng được
trực tiếp tiếp cận hàng hóa, dịch vụ (ví dụ:mời dùng thử sản phẩm, hưởng
dịch vụ miễn phí) hoặc được tạo điều kiện thông qua hàng hóa, dịch vụ khác
mà biết tới tên tuổi của thương nhân cùng mặt, hàng dịch vụ mà thương nhân
kinh doanh (ví dụ: người tiêu dùng đi mua sắm tại siêu thị được tặng lịch treo
tường trên đó có in tên, địa chỉ của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mà
doanh nghiệp đó bán hay cung ứng). Ngoài ra qua những kênh thông tin như
báo chí, mạng Internet, đài phát thanh và truyền hình hay truyền miệng giữa
các khách hàng với nhau cũng góp phần truyền bá hình ảnh về thương nhân
21
và hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Như vậy, tính thuận lợi được thể hiện
ở sự xây dựng nền tảng cơ sở nhận biết thương nhân cùng với hàng hóa, dịch
vụ kinh doanh và quá trình xây dựng niềm tin, sự hài lòng của khách hàng
thông qua thử nghiệm thực tế.
Tính năng động của quá trình tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ một phần được
tạo bởi yếu tố chủ động nắm bắt thời cơ quyết định vào thời điểm nào sẽ tiến
hành hoạt động khuyến mại và với hình thức, nội dung cụ thể ra sao, một
phần được tạo bởi yếu tố chủ động tiếp cận với khách hàng trước một bước
chứ không đơn thuần để khách hàng phải tự tìm hiểu và quyết định chọn lựa
hàng hóa, dịch vụ cần thiết. Sự chủ động trong suy nghĩ và hành vi coi khách
hàng là trung tâm, là hạt nhân để mọi hoạt động của thương nhân đều xoay
quanh đã thể hiện tính năng động trong tiếp cận và tìm hiểu thị trường của
thương nhân. Qua đó, hàng hóa và dịch vụ được đưa vào các kênh phân phối
một cách hợp lý song song với việc phát huy sức mạnh, vai trò của lực lượng
bán hàng tham gia một cách tích cực vào quá trình cung ứng hàng hóa, dịch
vụ góp phần nâng cao cơ hội bán hàng và doanh thu của thương nhân.
Khuyến mại là công cụ hữu hiệu trong công việc chiếm lĩnh
thương mại và tăng tính cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của
thương nhân trên thị trường.
Thông qua hoạt động khuyến mại, các thương nhân tiếp cận được với
thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của thương nhân, cung cấp cho
khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết,
những thuận lợi và ưu đãi nhất định để tiếp tục giữ khách hàng hiện có hoặc
chinh phục thêm nhiều khách hàng mới hoặc thậm chí lôi kéo ngay cả khách
hàng của đối thủ cạnh tranh. Hình ảnh đẹp của doanh nghiệp cùng thông tin
đầy đủ, hiệu quả về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh khiến lợi thế cạnh tranh của
thương nhân không ngừng tăng lên, điều đó tăng cơ hội mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ tăng khả năng chiếm lĩnh thương mại của thương nhân.
22
Bằng hoạt động khuyến mại, thương nhân góp phần thay đổi
cơ cấu tiêu dùng, hướng dẫn thị hiếu khách hàng."
Thương nhân đưa tới khách hàng thêm sự lựa chọn, cơ hội tiếp cận với
hàng hóa, dịch vụ. Điều này góp phần tạo nên đường dẫn cho khách hàng
hướng tới hàng hóa, dịch vụ có sự tham gia chủ động tích cực của thương
nhân thể hiện từ trong chiến lượt đến tổ chức thực hiện trên thực tế. Thị hiếu
khách hàng cùng với cơ cấu tiêu dùng phần nào tác động tới hoạt động
khuyến mại của thương nhân như kết quả tất yếu. Như vậy, hoạt động khuyến
mại có thể dẫn tới việc thay đổi cơ cấu tiêu dùng, điều chỉnh thị hiếu khách
hàng theo hướng có lợi cho thương nhân (tiếp thị được hình ảnh của mình,
bán và cung ứng được nhiều hơn hàng hóa, dịch vụ) và thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng (tiêu dùng được hàng hóa, dịch vụ đạt yêu cầu về chất lượng và
giá cả phù hợp với túi tiền).
Hoạt động thương mại là hoạt động xúc tiến mang lại hiệu
quả cao đặc biệt cho hoạt động kinh doanh của thương nhân trong một
số trường hợp nhất định.”
Thông thường hoạt động khuyến mại được sử dụng cho hàng hóa, dịch
vụ mới tung ra thị trường có áp lực cạnh tranh cao, đặt biệt là sản phẩm có
đơn giá thấp nhưng lại có khả năng đem lại doanh thu cao. Một lợi thế nữa
của hoạt động khuyến mại là có thể áp dụng cho cả khách hàng là người tiêu
dùng hay khách hàng là trung gian phân phối. Sử dụng hoạt động khuyến mại
sẽ đạt được mục đích tiêu thụ cao trong một thời gian ngắn vì thông qua kỹ
thuật khuyến mại, có thêm nhiều người tiêu dùng thử mới bị thu hút và kích
thích những người mua trung thành hay những người thỉnh thoảng mới Illlld.
Tuy nhiên, mức tiêu thụ tăng nhanh đó chi tạm thời và sẽ giảm dần sau thời
gian khuyến mại đó. Chính vì vậy, thương nhân phải biết cân đối, quản lý và
điều chình mức đầu tư vào hoạt động khuyến mại sao cho vừa phù hợp với
23
điều kiện thực tế của thương nhân, tuân thủ pháp luật và thu được hiểu quả
lớn nhất.
1.2. Khái quát chung về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1.2.1. Khái niệm về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh không được
định nghĩa cụ thể như khái niệm khuyến mại. Điều 46 Luật cạnh tranh đã liệt
kê các hoạt động khuyến mại bị cấm. Đây là những hoạt động khuyến mại
tiêu biểu, phổ biến mà Luật cấm các doanh nghiệp thực hiện, bao gồm:
“1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch
vụ để lừa dối khách hàng;
3. Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ
chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
4. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách
hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng
đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình;
5. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.”
Tuy nhiên từ định nghĩa về khuyến mại trong Luật thương mại năm
2005 và khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh tranh năm
2004 thì ta có thể hiểu hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh như sau:
Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động xúc tiến
thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định, nhưng
những hành vi này trái với các chuẩn mực đạo đức thông thường gây thiệt
24
hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác
hoặc người tiêu dùng. Hay chính là doanh nghiệp vì muốn xúc tiến việc mua
bán hàng hóa, dịch vụ để cạnh tranh với doanh nghiệp khác nên đã dùng
những hành vi khuyến mại nhưng không lành mạnh để cạnh tranh và gây ra
thiệt hại. Không thể phủ nhận được rằng khuyến mại là biện pháp thu hút
khách hàng có hiệu quả nhất trong số những hoạt động xúc tiến thương mại,
và đó cũng là quyền tự do trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng khi
doanh nghiệp vượt quá sự tự do đó thì sẽ dẫn đến sự cạnh tranh không lành
mạnh. Trong khi môi trường kinh doanh lại rất cần sự cạnh tranh lành mạnh và
đúng mực. Vì vậy, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh đã
được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể tại Điều 46, Luật cạnh tranh năm
2004 nhằm có cơ chế pháp lý để điều chỉnh hành vi khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh để tạo môi trường kinh doanh trong sạch và lành mạnh
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế của quốc gia, khu vực và toàn thế giới.
1.2.2. Đặc trưng pháp lý của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Về cơ bản, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng có
những đặc điểm chung của hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ nhất, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện, nhằm mục
đích lợi nhuận.
Chủ thể kinh doanh trên thị trường chủ yếu là các doanh nghiệp theo
nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm
lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp . Trên phạm vi rộng, các
quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi
của các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân
hành nghề tự do ( bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư,…).
Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh
25
nghiệp khác. Để thu được lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với
các đối thủ hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực nhằm giành giật, thu hút
khách hàng về phía mình bằng các hành vi như tổ chức khuyến mại mà gian
dối về giải thưởng, khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng
hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng, tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử
nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác
sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình,... Do
đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính
đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của
đời sống kinh tế.
Thứ hai, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo
đức kinh doanh.
Các thông lệ tốt ( tập quán kinh doanh) là các biện pháp dự phòng để
áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một hành vi cụ thể
nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh tranh của
các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu
dùng. Bên vi phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mặc dù biết hoặc buộc phải
biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của mình
nhưng vẫn cố tình vi phạm. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là
biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho họ, bao gồm lợi
ích vật chất như tiền, hàng hóa hay lợi ích phi vật chất nhưng lại gây tổn hại đến
hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh khác và lợi ích của người tiêu dùng
để thu được nhiều lợi nhuận. Điều này đã đi ngược lại các thông lệ tốt, các
nguyên tắc đạo đức kinh doanh. Đây là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt khuyến
mại với các hình thức xúc tiến thương mại khác. Theo đó, dấu hiệu này đi kèm
với các đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh tạo nên điểm khác
biệt với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.
26
Thứ ba, hành vi khuyến mại với mục đích cạnh tranh bị kết luận là
không lành mạnh và cần phải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng
gây thiệt hại cho các đối tượng khác.
Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho
các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến
trật tự quản lí cạnh tranh của nhà nước mà không làm cản trở, sai lệch hay
giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường như hành vi hạn chế cạnh tranh.
Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia cũng như quan điểm của các cơ quan
xử lí sẽ có các cách thức nhìn nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh
tranh không lành mạnh.
1.2.3. Tác động của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh
Khi một sản phẩm của doanh nghiệp được sáng tạo, được làm ra mà
không được người tiêu dùng đón nhận thì đó là quả là điều mà không một
doanh nghiệp nào mong muốn. Cho nên để duy trì được sự tồn tại của mình
trên thị trường, để hàng hóa của mình bán được nhiều và lợi nhuận cao thì
doanh nghiệp sẽ không ngần ngại sử dụng mọi cách, mọi biện pháp để đạt
được mục đích cuối cùng của mình. Nhưng trên thương trường thành công
của doanh nghiệp này sẽ là thất bại của doanh nghiệp khác. Họ luôn tìm cách
để hạ gục đối thủ cạnh tranh của mình nhưng người chịu sự thiệt hại đầu tiên
lại là người tiêu dùng. Khi có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh thì người tiêu dùng sẽ bị tác động trực tiếp. Khuyến mại mà mang
tính chất gian dối giải thưởng, không trung thực nhằm lừa dối khách hàng,
hay có sự phân biệt đối xử giữa các khách hàng với nhau thì rõ ràng lợi ích
của người tiêu dùng sẽ bị xâm hại trực tiếp. Do tâm lý và thói quen nên họ dễ
dàng mua những sản phẩm với giá rẻ hay có tặng phẩm nhưng thật sự họ lại
bị doanh nghiệp đó lừa dối vì lợi nhuận riêng. Người tiêu dùng là mục đích
lợi nhuận mà doanh nghiệp hướng đến nhưng cũng là đối tượng bị doanh
27
nghiệp gây tác động bất lợi nhiều nhất. Cho nên, việc ngăn cấm các hành vi
sai trái của doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng là điều rất cần thiết và
phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Bên cạnh đó, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn ảnh
hưởng tới sự công bằng trong kinh doanh, gây thiệt hại cho doanh nghiệp
khác. Nếu một doanh nghiệp làm ăn chân chính, sản phẩm làm ra có chất
lượng tốt nhưng do tiềm lực về kinh tế không đủ mạnh nên không thể mở
những đợt khuyến mại rầm rộ để thu hút khách hàng mà chỉ nhờ vào số lượng
khách hàng thân quen, trong khi những doanh nghiệp tuy có sản phẩm không
tốt, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường nhưng với tiềm lực kinh tế
mạnh mẽ đã tiến hành những hoạt động khuyến mại với thông tin sản phẩm
thật tốt và giá ưu đãi để lừa dối khách hàng, với tâm lý thích khuyến mại và
giá rẻ người tiêu dùng sẵn sàng chuyển sang dùng sản phẩm đó mà không cần
quan tâm đến chất lượng của nó. Như vậy, những doanh nghiệp yếu thế sẽ rất
dễ lâm vào tình trạng phá sản, làm ảnh hưởng tới sự phát triển ổn định của
nền kinh tế, vì những doanh nghiệp đầy nhiệt huyết nhưng không mạnh về tài
chính không còn cơ hội để tạo ra sản phẩm trên thị trường nữa. Bởi vậy, pháp
luật đã cố gắng để điều chỉnh những hành vi sai trái, không lành mạnh của
các doanh nghiệp để tạo sự bình đẳng và ổn định trong kinh doanh.
28
CHƯƠNG 2.
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM
2.1. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo
Luật cạnh tranh 2004
Lợi nhuận luôn luôn là mục tiêu cuối cùng mà các nhà kinh doanh
muốn đạt đến. Tuy nhiên, cạnh tranh như thế nào là lành mạnh và chân chính
mà vẫn đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp thì đòi hỏi các nhà kinh
doanh phải đủ bản lĩnh, năng lực và đạo đức thì mới có thể làm tốt được.
Khuyến mại luôn là hình thức thu hút khách hàng đạt hiệu quả cao. Về hình
thức, chủ thể và cách thức tổ chức hoạt động khuyến mại đã được Luật
thương mại 2005 điều chỉnh cụ thể, còn khi hoạt động khuyến mại này xuất
hiện dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh thì Luật cạnh tranh sẽ điều chỉnh
vấn đề này. Do hiện nay khuyến mại là yếu tố có quyết định lớn đến doanh
thu bán hàng và hoạt động của một doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp luôn
tìm cách thu hút sự chú ý của khách hàng về phía mình, cho dù đó là những
hành vi không lành mạnh. Bởi vậy, tại Điều 46, Luật cạnh tranh 2004 đã liệt
kê các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Đó là những
hoạt động luật cấm doanh nghiệp làm nhằm để bảo vệ lợi ích của các doanh
nghiệp khác, của Nhà nước và đặc biệt là người tiêu dùng, vì người tiêu dùng
luôn là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất và trực tiếp nhất khi các doanh
nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Luật cạnh tranh cấm các
doanh nghiệp thực hiện các hành vi khuyến mại không lành mạnh sau:
2.1.1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng
Làm sao để tự khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, để
có thể tồn tại và phát triển luôn là câu hỏi băn khoăn, trăn trở của các doanh
nghiệp, nhất là với thời kỳ nền kinh tế đang có sự cạnh tranh khốc liệt như
29
hiện nay. Chính vì vậy để giữ vững vị thế của mình doanh nghiệp không ngần
ngại dùng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hình thức phổ biến đó
là quảng cáo và khuyến mại.
Hiện nay, với sự xuất hiện của hàng loạt các chủng loại hàng hóa và
dịch vụ rất đa dạng và phong phú nên việc lựa chọn của người tiêu dùng cũng
có những thuận lợi và khó khăn riêng. Thuận lợi đó là người tiêu dùng có cơ
hội tiếp cận với nhiều loại sản phẩm khác nhau, tùy chất lượng mà giá cả sẽ
phù hợp với nhu cầu và thu nhập của họ. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của
người tiêu dùng đó là khi đã chọn lựa được sản phẩm phù hợp với thu nhập
thì không biết phải sử dụng sản phẩm nào trong hàng loạt những sản phẩm
được bày bán trên thị trường. Những sản phẩm có chất lượng và giá cả tương
đồng nhau, và đôi khi mẫu mã cũng tương tự nhau. Lúc này, người tiêu dùng
sẽ chỉ phải tin vào những công ty, doanh nghiệp đã có uy tín trên thị trường
và được nhiều khách hàng ủng hộ. Tuy nhiên, với thói quen là thích mua hàng
khuyến mại vì giá rẻ mà đôi khi còn có cơ hội nhận được những giá trị vật
chất nhất định. Ví dụ như: rút thăm trúng thưởng, cào trúng thưởng, tặng
phiếu mua hàng, phiếu giảm giá…, thì đôi khi người tiêu dùng lại là nạn nhân
bị chính các doanh nghiệp lợi dụng để làm lợi riêng cho mình. Việc tổ chức
khuyến mại mà gian dối về giải thưởng được các doanh nghiệp sử dụng để
thu hút khách hàng mua sản phẩm của mình, khi mua khách hàng sẽ có cơ hội
nhận được những giải thưởng đã công bố trong chương trình khuyến mại.
Đồng thời cũng để lấn áp các doanh nghiệp khác, giành ưu thế thị trường về
phía mình. Doanh nghiệp lợi dụng lòng tin của khách hàng dành cho mình để
lừa dối họ mà ít khi nào họ biết được, khi không trúng thưởng trong chương
trình khuyến mại thì đa số khách hàng cho rằng mình đã không may mắn chứ
không biết rằng trên thực tế giải thưởng đó không hề có, hoặc nếu có thì cũng
không đúng với những gì mà doanh nghiệp đã công bố ban đầu trong chương
trình khuyến mại.
30
Có nhiều hành vi gian dối khác nhau về phần thưởng đã được các
doanh nghiệp thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Khuyến mại gian dối về
giải thưởng thể hiện thông qua trường hợp đưa ra giá trị giải thưởng khuyến
mại rất lớn nhưng thực hiện việc trao giải thưởng thì rất nhỏ. Điển hình như
chương trình khuyến mại của một công ty bia "bật nắp chai trúng thưởng”
diễn ra cách đây không lâu. Trong chương trình này, cơ cấu giải thưởng gồm
200.000 giải thưởng, trong đó có 6 xe ôtô BMW, không ai có thể chắc chắn
rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 6 nắp chai in hình xe BMW trong số sản
phẩm được bán trong đợt khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó Cục
trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại), trong tổng số 215 tỉ đồng
giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà các thương nhân đăng ký thì
tổng số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng, tương đương 3%
tổng số tiền đã đăng ký cho chương trình khuyến mại. Như vậy, giá trị thật
mà các doanh nghiệp trao cho khách hàng nhỏ hơn rất nhiều những con số
được nêu ra trong chương trình khuyến mại. Khách hàng cũng không nhận
được nhiều những phần thưởng có giá trị từ các chương trình khuyến mại
gian dối trên.
Khuyến mại gian dối về phần thưởng còn thể hiện thông qua việc cho
khách hàng được nhận phần thưởng nhưng phải kèm điều kiện mua kèm theo
các hàng hóa khác của doanh nghiệp. Trong bài báo "Đánh lừa người tiêu
dùng bằng các chiêu khuyến mại” đăng trên trang web báo Lao động ngày
23/12/2010 đã đưa ra một trường hợp khuyến mại gian dối của siêu thị
Vinaconex (Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội). Một khách hàng mua sản
phẩm tại siêu thị Vinaconex thì nhận được phiếu cào trong chương trình
khuyến mại "Mừng giáng sinh – Chào năm mới”. Sau khi cào, khách hàng
này trúng giải nhất với trị giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi đến lĩnh thưởng
thì điều kiện lĩnh thưởng là: "Phiếu chỉ có giá trị lĩnh thưởng khi khách hàng
mang theo phiếu này và mua 01 chiếc áo Complet hoặc 01 bộ quần áo
Complet tại cửa hàng”. Khách hàng này vui mừng đi xem quần áo Comple để
31
mua thì thất vọng khi nhận ra rằng các sản phẩm này có giá từ 880.000 đồng
đến 3.200.000 đồng/bộ nhưng chất lượng tồi đến mức "có cho không cũng
không nhận”.
Hay năm 2004, hãng sữa Enfa Mama thuộc Công ty Mead Johnson
(Hoa Kỳ) đưa ra chương trình khuyến mại “Quà tặng đầu xuân”. Theo
chương trình này thì cứ hai nắp lon Enfa Mama loại 400g sẽ được đổi một
trong bốn đĩa Giao hưởng thông minh I, Giao hưởng thông minh II, VCD
chăm sóc thai nhi và VCD nuôi con bằng sữa mẹ. Với chương trình này thì
chắc hẳn sẽ thu hút được phần lớn người tiêu dùng đang mang thai khi chọn
sản phẩm sữa. Thế nhưng thực tế lại khác. Chị Võ Thanh Hiền ở Phú Nhuận,
Thành phố Hồ Chí Minh. Khi chị vào siêu thị và mua bốn hộp Enfa Mama
(loại 400g) đang trong thời gian khuyến mại và ra quầy dịch vụ để đổi quà,
nhưng nhân viên quầy dịch vụ lại cho rằng đây là nắp cũ và chỉ chị ra hành
lang siêu thị để tìm nhân viên tiếp thị sữa Enfa Mama nhưng chị Hiền không
gặp ai cả đành ra về. Được biết trước đó cũng có rất nhiều người phàn nàn về
việc đổi quà khi mua sữa bột Enfa Mama và đã ra về tay không. Hôm sau chị
Hiền quay lại siêu thị và gặp nhân viên tiếp thị sữa Nguyễn Thị Phương
Khánh, chị yêu cầu đổi đĩa nhạc giao hưởng thông minh II và VCD chăm sóc
thai nhi nhưng nhân viên này nói VCD chăm sóc thai nhi chưa làm xong và
chỉ đưa cho chị Hiền đĩa giao hưởng thông minh II.
Từ vụ việc trên cho thấy sự gian dối trong khuyến mại là rất rõ ràng.
Chưa có sản phẩm khuyến mại mà vẫn ghi chương trình khuyến mại để lừa
dối khách hàng. Vì người tiêu dùng cần VCD chăm sóc thai nhi lúc họ mang
thai, nếu sau khi sanh mà chị Hiền có nhận được quà khuyến mại thì cũng
chẳng còn giá trị và ý nghĩa nữa. Sự thiếu trách nhiệm và thiếu trung thực của
nhà phân phối đã làm mất lòng tin của người tiêu dùng dành cho sản phẩm.
Để tăng doanh số bán hàng mà họ để người tiêu dùng phải thiệt thòi và không
tín nhiệm sản phẩm nữa, đó là điều không đáng. Bởi vì đối với người tiêu
32
dùng lòng tin rất quan trọng, có tin tưởng thì họ mới có thể sử dụng sản phẩm
lâu dài được. Nhưng vì lợi ích trước mà nhà kinh doanh để niềm tin đó mất đi
thì lợi nhuận mà doanh nghiệp nhận được chỉ là nhất thời chứ không lâu bền
được. Và nếu lần sau chị Hiền có mang thai sẽ không chọn sản phẩm của
Enfa Mama vì chị đã không còn tin vào uy tín của sản phẩm này nữa, một
doanh nghiệp gian dối thì liệu chất lượng sản phẩm có tốt không. Nếu phân
tích sâu xa có thể thấy rõ, nếu doanh nghiệp khuyến mại mà gian dối về giải
thưởng như thế này không những không thu hút được nhiều khách hàng mà
còn mất đi nhiều khách hàng nữa, vì khi người tiêu dùng biết được doanh
nghiệp làm ăn gian dối thì họ sẽ không sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp
đó nữa, nên doanh nghiệp sẽ mất đi một lượng lớn khách hàng. Nếu chịu tốn
kém mà khuyến mại chân chính thì khách hàng sẽ nhiều, uy tín được nâng
cao và chắc chắn doanh thu cũng sẽ tăng. Khuyến mại gian dối về giải thưởng
như vậy chỉ thu hút được khách hàng trong một thời gian ngắn và chỉ qua một
đợt khuyến mại mà thôi, lần sau khách hàng sẽ không mua sản phẩm đó nữa,
như vậy thiệt hại của doanh nghiệp sẽ còn nhiều hơn. Bên cạnh còn thấy được
sự vô trách nhiệm của siêu thị, đây là nơi cung cấp hàng hóa đến tay người
tiêu dùng nhưng lại không quan tâm và xem xét cho quyền lợi của họ. Như
vậy, người tiêu dùng làm sao an tâm và tin tưởng khi mua sản phẩm ở một
nơi không đặt quyền lợi người tiêu dùng lên hàng đầu mà chỉ kinh doanh
kiếm lời. Vì vậy, người tiêu dùng phải cẩn trọng khi chọn mua sản phẩm và
nơi mua sản phẩm để tránh bị lừa dối từ những hành vi bất chính của các
doanh nghiệp.
Đương nhiên là người tiêu dùng ai cũng mong muốn mình sẽ nhận
được những sự ưu đãi từ phía các nhà sản xuất, tuy giá trị khuyến mại có nhỏ
đi nữa nhưng cũng thể hiện được tấm lòng hậu mãi của nhà sản xuất dành cho
người tiêu dùng đã tin tưởng và sử dụng sản phẩm của mình, chứ đâu cần
phải đưa ra chương trình khuyến mại lớn để thu hút khách hàng để rồi có sự
gian dối về giải thưởng như vậy. Ví dụ như trường hợp của anh Linh ở Thành
33
phố Hồ Chí Minh, năm 2005, anh tham gia chương trình khuyến mại mang
tên “Tương lai vàng” do Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Việt Nam tổ chức.
Anh mua sữa Dumex và trúng được giải nhì mang tên giải “khởi đầu vàng”
với phần thưởng là “Cá heo vàng trị giá 10 triệu đồng”. Nhưng khi nhận giải
anh chỉ nhận được biểu tượng cá heo vàng với trọng lượng 10 chỉ vàng 18K
trị giá hơn 6 triệu đồng, vì công ty đã trừ đi tiền công thiết kế và chế tác biểu
tượng 18. Trong trường hợp này người viết cho rằng tiền công thiết kế và chế
tác biểu tượng lại trừ vào giải thưởng khuyến mại là không phù hợp. Vì trong
chương trình khuyến mại chỉ ghi giải thưởng “khởi đầu vàng” với phần
thưởng cá heo vàng trị giá 10 triệu đồng, chứ không bao gồm chi phí gì khác,
thì khi trao giải phải trao đủ cho khách hàng, còn về tiền công thiết kế và chế
tác thì công ty phải chịu. Nếu như Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Việt Nam
nêu giải thưởng cá heo vàng trị giá chỉ 6 triệu đồng trong khi công bố chương
trình khuyến mại thì khách hàng đã không lên tiếng phản ánh vì thấy có sự
gian dối trong việc trao giải thưởng. Rõ ràng công ty đã trao giải thưởng
không đúng và không đủ với những gì đã công bố ban đầu. Hành vi trên của
công ty được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích của người tiêu dùng, đồng thời cũng ảnh hưởng đến lợi
ích của doanh nghiệp khác, bởi vì nếu không có chương trình khuyến mại này
thì các doanh nghiệp khác đã bán được một số sản phẩm cho người tiêu dùng,
việc bán được sản phẩm không chỉ là lợi nhuận mà nó còn khẳng định được
vị trí và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Công ty Cổ phần Dinh
dưỡng Việt Nam là nhà phân phối độc quyền sữa Dumex trên thị trường
nhưng lại gian dối về giải thưởng như vậy đó là điều đáng phê phán. Người
tiêu dùng sẽ chỉ tin vào những doanh nghiệp có uy tín và làm ăn chân chính,
sự gian dối sẽ không bền và sẽ sớm bị đào thải.
Từ những ví dụ điển hình có thể thấy rằng, trong thực tiễn hoạt động
kinh doanh, các doanh nghiệp thường xuyên tổ chức hoạt động khuyến mại.
Hình thức khuyến mại thông qua việc trao tặng các giải thưởng cho khách
34
hàng là hình thức thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp. Vấn
đề đặt ra là, các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chương trình khuyến
mại, có thể gian dối trong việc trao giải thưởng cho khách hàng. Một trong
các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khuyến mại gian dối xuất phát từ sự
quản lý chưa chặt chẽ của các cơ quan chức năng, hoặc do các doanh nghiệp
thiếu đạo đức trong kinh doanh, vì hám lợi trước mắt mà quên nguồn lợi lâu
dài từ khách hàng.
2.1.1. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng
hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng
Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không
đúng về hàng hóa, dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin
khuyến mại sai lệch mà mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ đó. Hành vi
khuyến mại không trung thực của doanh nghiệp chủ yếu là lợi dụng lòng tin
và sự tín nhiệm của khách hàng để trục lợi. Nó được thể hiện ở nhiều khía
cạnh khác nhau khi người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp đó.
Doanh nghiệp có thể đưa thông tin khuyến mại gian dối, không chính xác,
không rõ ràng hay mập mờ khó hiểu nhằm lừa dối khách hàng, thường thì
trường hợp này xuất hiện ở những doanh nghiệp nhỏ, do thiếu tiềm lực về
kinh tế để cạnh tranh nên không nghĩ tới lợi ích chung của người tiêu dùng,
hoặc khi doanh nghiệp muốn bán một mặt hàng mà trong thời gian qua không
bán được hay bán chậm nhưng không muốn lỗ vốn.
Việc không trung thực trong khuyến mại của doanh nghiệp còn thể
hiện ở hành vi doanh nghiệp tự nâng giá hàng hóa, dịch vụ thật cao lên rồi
khuyến mại hạ giá với các biểu hiệu quảng cáo rất ăn khách như “ giảm giá
50-70%” hay “ đại hạ giá” làm khách hàng thấy được sự chênh lệch về giá
trước và khi khuyến mại mà sẽ tăng sức mua, hay có trường hợp doanh
nghiệp thay đổi trọng lượng, chất lượng sản phẩm để tiến hành giảm giá mà
đôi khi người tiêu dùng ít để ý đến những vấn đề đó, cứ tưởng doanh nghiệp
35
khuyến mại giảm giá là vì khuyến khích tiêu dùng nên không phản ứng gì.
Nhưng thực ra doanh nghiệp đã lợi dụng kiến thức hạn hẹp để lừa dối và
“móc túi” trắng trợn mà người tiêu dùng không hề hay biết. Như vậy, doanh
nghiệp vẫn đảm bảo được giá bán sản phẩm của mình, người tiêu dùng thì
lầm tưởng nhận được khuyến mại từ người bán. Một điểm đáng lưu ý, các
doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn gian dối này vừa "hợp pháp”, tức là không vi
phạm các quy định về tổ chức khuyến mại, lại vừa "qua mặt” được khách
hàng. Đặc biệt, trong những chương trình khuyến mại mang tính may rủi như:
rút thăm trúng thưởng vàng, nhà ở, xe hơi…, thì việc xác định người trúng
thưởng rất khó để kiểm soát, những người trúng thưởng có khi là những đại lý
lớn hay những người thân quen trong ban tổ chức, lúc này quyền lợi của
người tiêu dùng là thiệt thòi nhiều nhất. Có thể lấy ví dụ như sau:
Năm 2006, Công ty LG Việt Nam tổ chức chương trình khuyến mại
“Đầu năm thắng lớn cùng LG” với giải thưởng lên tới 2 tỷ đồng, chương trình
khuyến mại theo hình thức bốc thăm trúng thưởng. Tối ngày 13/03/2006 tại
khách sạn New World, Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra cuộc bốc thăm trúng
thưởng với sự tham gia của nhiều thương nhân trong ngành điện tử. Giải
thưởng bao gồm: giải nhất là một chiếc xe ô tô Toyota Innova trị giá gần
30000 USD, giải nhì là một xe tải Hyundai 1,25 tấn và giải ba là một xe máy
Honda Dylan. Trong lúc cuộc bốc thăm đang diễn ra thì có một người bước
lên và nói rằng phiếu mang số 223 mà anh ta đang giữ không có trong thùng
phiếu. Khi kiểm tra thùng phiếu thì quả thật không có phiếu 223 và tất cả các
phiếu từ 200 trở lên đều không có trong thùng. Thùng phiếu hàng trăm thay vì
là có ba con số 0, 1 và 2 nhưng trong thùng chỉ có hai số 0 và 1, tức là những
người mang số phiếu từ 200 trở lên sẽ không có cơ hội trúng thưởng. Được
biết theo chương trình khuyến mại, để có được một phiếu tham dự thì phải
mua 100 bộ máy lạnh LG, 300 bộ thì được bốn phiếu, nhưng kỳ lạ là công ty
Công Nghệ Mới tham gia đến 79 phiếu trên tổng số 168 phiếu hợp lệ. Điều
này có nghĩa công ty đó phải mua đến hơn 5.900 bộ máy lạnh và chỉ cần đặt
36
cọc 8% giá trị đơn đặt hàng thì đã được mua hàng và được phát phiếu nhưng
công ty Công Nghệ mới này lại có số phiếu từ 200 trở lên mới đáng nói. Theo
nhiều đại lý để có được nhiều phiếu tham dự họ phải chấp nhận mua nhiều
hàng và sau đó bán lỗ. Trong đợt rút thăm này công ty tiếp thị Bến Thành
(Tara) là một trong những đại lý lớn của LG thường lấy hàng từ LG rồi phân
phối lại cho các đại lý khác đã trúng 6 trên 10 giải thưởng. Theo quy định của
luật thì chương trình khuyến mại của LG phải có sự chấp thuận của Bộ Công
Thương nhưng trên thực tế LG đã triển khai chương trình khi chưa có văn bản
chấp thuận của Bộ, quá trình rút thăm cũng không có sự chứng kiến của cơ
quan chức năng địa phương. Công ty LG đã vi phạm nhiều quy định của luật,
không trung thực trong việc rút thăm, sắp xếp người nhận thưởng là những
đại lý lớn. Việc làm của LG đã làm rối loạn môi trường cạnh tranh của các đại
lý khác, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ khi tham gia chương trình
khuyến mại. Tuy nhiên, mức độ xử phạt khi vi phạm của hành vi khuyến mại
không trung thực lại còn quá nhẹ không đủ làm hài lòng những người bị lừa
dối và những thiệt hại từ việc tin vào chương trình khuyến mại. Từ đó cũng
rút ra cho người tiêu dùng nói chung bài học kinh nghiệm khi muốn tham gia
vào bất kỳ chương trình khuyến mại nào.
Hành vi không trung thực trong khuyến mại của doanh nghiệp xảy ra
rất thường xuyên đã làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của các doanh nghiệp
khác và người tiêu dùng vì thế nó được đưa vào Luật cạnh tranh 2004 để kịp
thời điều chỉnh. Tuy Luật cạnh tranh đã đi vào thực tiễn nhưng việc thực thi
nó vẫn còn gặp nhiều khó khăn về nhiều mặt, cần có những biện pháp quản lý
giá hàng hóa một cách hữu hiệu để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và
vạch trần được thủ đoạn gian dối của các doanh nghiệp trong các chương
trình khuyến mại. Đồng thời cần sự phối hợp chặt chẽ từ phía Nhà nước, các
doanh nghiệp và cả người tiêu dùng để lợi ích chính đáng được bảo vệ và để
Luật cạnh tranh được thực thi một cách hiệu quả nhất.
37
Một khía cạnh thể hiện khác nữa của hành vi khuyến mại không trung
thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng đó là tình
trạng gian dối về chất lượng hàng hóa. Hình thức khuyến mại mà chúng ta
thường thấy đó là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử không phải trả tiền.
Thỉnh thoảng ở các chợ, các cổng ra vào siêu thị hay các khu chung cư, nhà
ở…, xuất hiện các nhân viên tiếp thị phát cho không các sản phẩm như: dầu
gội đầu, bột giặt, cà phê hòa tan…, thường thì chất lượng của những sản
phẩm khuyến mại này rất tốt để lấy lòng tin của khách hàng về sản phẩm
dùng thử, nhưng đến khi người tiêu dùng mua sản phẩm chính thức về dùng
thì chất lượng lại kém hơn. Dù trước đó đã được doanh nghiệp cho dùng thử
sản phẩm, khách hàng tin tưởng và mới mua sản phẩm nhưng tình trạng gây
nhầm lẫn cho khách hàng vẫn xảy ra. Hay việc giảm giá các sản phẩm là hàng
tồn kho, hàng kém chất lượng, hàng bị lỗi gia công…, đây là những mặt hàng
đương nhiên phải bán giá thấp hơn nhưng các siêu thị, cửa hàng vẫn thường
áp dụng chương trình khuyến mại giảm giá đối với những mặt hàng này
nhưng không hề cho biết đây là những mặt hàng kém chất lượng hơn làm
khách hàng nhầm tưởng là được giảm giá nên cứ mua, khi về sử dụng mới
biết thì cũng đã mua rồi. Tình trạng này cũng rất phổ biến, chủ yếu ở các mặt
hàng như: quần áo may sẵn, đồ gia dụng…
Tóm lại, dù nhìn ở khía cạnh nào đi nữa thì việc khuyến mại không
trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng
cũng là hành vi khuyến mại gian dối, lừa gạt khách hàng, lợi dụng lòng tin, sự
thích rẻ của người tiêu dùng khiến họ bị nhầm tưởng về chất lượng hàng hóa,
dịch vụ và bị thiệt hại trong khi doanh nghiệp thì lại tăng lợi nhuận. Việc lên
tiếng phản ánh của người tiêu dùng sẽ đem lại tác động tích cực để hạn chế sự
vi phạm của các doanh nghiệp, để doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, cạnh tranh lành mạnh và luôn vì lợi ích người tiêu dùng.
38
2.1.2. Phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ
chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại
Nhà làm luật đã quy định hành vi này thuộc hành vi cấm trong Luật
Cạnh tranh. Hành vi này được hiểu là trong một chương trình khuyến mại
chung, các thương nhân đưa ra chương trình khuyến mại nhưng lại không
khách quan, công bằng, phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau
trong các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau. Luật quy định rất chung
chung như trên gây ra cách hiểu không chính xác về điều luật. Ở đây, cần
phải làm rõ khái niệm "phân biệt đối xử”, "các khách hàng như nhau”. Hành
vi phân biệt đối xử tức là hành vi của thương nhân ưu ái khách hàng này hơn
khách hàng kia, dành cho họ lợi ích nhiều hơn khách hàng kia mà thực tế thì
phải dành cho họ những lợi ích như nhau. Các khách hàng “như nhau” thì cần
được hiểu tiêu chí nào là như nhau, điều này vẫn chưa được pháp luật làm rõ.
Cần một cách hiểu rõ ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh.
Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp, các doanh nghiệp đã cố tình "phân
loại khách hàng” để cho hưởng khuyến mại.
Điển hình như: Chương trình khuyến mại của mạng di động Vinaphone
thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/ 2010, khuyến mại nhân 100% số tiền nạp thẻ
cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình khuyến mại thực hiện trong 03
ngày như trên nhưng không phải khách hàng nào cũng nhận được tiền khuyến
mại. Chỉ những khách hàng nhận được tin nhắn thông báo về việc khuyến mại
thì mới được hưởng khuyến mại. Tuy nhiên, một điều băn khoăn được đưa ra
đó là Vinaphone dựa vào tiêu chí nào để phân loại cho các thuê bao mạng di
động được hưởng khuyến mại và tổng số thuê bao được hưởng khuyến mại là
bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ phía lãnh đạo của Vinaphone, đó là
tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu đãi cho khách hàng trung
thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có khi là những người
39
vừa hòa mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có sự phân biệt
đối xử đối với khách hàng trong chương trình khuyến mại của Vinaphone.
Người tiêu dùng luôn thấy lợi ích trước mắt mà ít khi chịu quan tâm
đến những mặt tiêu cực xung quanh lợi ích đó. Điều đó xuất phát từ thói quen
và tâm lý tiêu dùng đã có từ lâu của người Việt, chính vì vậy người tiêu dùng
luôn là đối tượng chịu ảnh hưởng trước tiên khi doanh nghiệp có hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Khi doanh nghiệp đưa ra chính sách khuyến mại ưu
tiên có sự phân biệt giữa vùng này, vùng khác, tỉnh này, tỉnh khác sẽ làm cho
người tiêu dùng ở những nơi được ưu tiên với lợi ích lớn hơn sẽ nghĩ là doanh
nghiệp đang ưu đãi cho mình,dành cho mình những quyền lợi mà khách hàng
ở những vùng khác không có được nên sẽ mua nhiều sản phẩm khuyến mại
hơn, do đó sẽ chỉ làm lợi cho doanh nghiệp. Thật ra thì chất lượng sản phẩm
khuyến mại này không có gì khác biệt giữa những địa bàn khuyến mại nhưng
với việc đưa ra những lợi ích khác nhau cho những địa bàn khuyến mại trong
cùng một thời điểm đã làm cho doanh nghiệp lấy được lòng tin của người tiêu
dùng ở những vùng được ưu tiên một cách dễ dàng. Luật cạnh tranh đã điều
chỉnh hành vi này này bởi vì nó đã làm mất đi sự công bằng trong việc
khuyến mại, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Bởi vì khách
hàng dù ở thành thị hay nông thôn, thành phố lớn hay tỉnh lẻ thì cũng là đối
tượng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp không có quyền
hạn chế về quyền lợi của họ, họ phải được đối xử công bằng, không có sự
phân biệt đối xử hay ưu tiên quyền lợi nào cả.
Ví dụ: Cùng một điều kiện là có đủ 3 nắp chai bia thì khách hàng ở
thành thị và nông thôn sẽ có cơ hội trúng những giải thưởng có giá trị khác
nhau. Rõ ràng đây là sự bất công hết sức rõ rệt, khách hàng ở nông thôn và
thành thị cùng sử dụng bia nhưng giá trị giải thưởng ở hai nơi lại có sự chênh
lệch thì không công bằng. Khách hàng cũng nên chú ý đối với những trường
hợp khuyến mại có sự phân biệt đối xử của doanh nghiệp để tránh mình trở
40
thành nạn nhân của việc kiếm lời từ các doanh nghiệp bất chính. Phía cơ quan
chức năng cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khuyến mại
của các doanh nghiệp để kịp thời xử lý những trường hợp vi phạm để bình ổn
môi trường cạnh tranh.
Tuy đây là một hình thức được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng
trên thực tiễn thì trường hợp phân biệt đối xử này thường ít diễn ra bởi điều
kiện khách quan của nền kinh tế đất nước và mong muốn chủ quan của các
doanh nghiệp là cần có thêm nhiều khách hàng và mở rộng thị trường của
mình. Những trường hợp phân biệt đối xử trong khuyến mại chủ yếu là hành
vi xuất phát từ phía chủ quan của thương nhân muốn dành những ưu đãi của
mình cho những khách hàng đặc biệt là khách hàng lâu dài và tin cậy của họ.
2.1.3. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu
khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà
khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình
Một trong những phương pháp để khách hàng nhanh chóng biết đến
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp là việc cho khách hàng dùng thử hàng
hóa, dịch vụ. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử sẽ tạo cơ hội cho
khách hàng biết về sản phẩm, cảm nhận được giá trị của sản phẩm, từ đó có
thể sẽ tích cực tham gia sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc
yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất
mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình là một hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi này của doanh nghiệp xét ở góc độ sâu
xa, đó là hành vi nhằm làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng, từ
đó để khách hàng sử dụng sản phẩm của mình nhiều hơn. Kết quả là làm giảm
thị phần của đối thủ cạnh tranh, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thực
hiện chương trình khuyến mại. Bên cạnh đó, hành vi này phần nào tác động
đến quyền tự do lựa chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Việc pháp luật
cấm các doanh nghiệp thực hiện hành vi này là hoàn toàn xác đáng, bởi lẽ khi
41
thực hiện khuyến mại như trên đã tạo ra những hành động xấu tác động trực
tiếp đối thủ của mình.
Ví dụ điển hình cho hoạt động cạnh tranh không lành mạnh này, đó là
việc mạng di động Viettel đã tố giác mạng di động MobileFone về hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Trong đơn tố giác ngày 17/6/2009, mạng di
động Viettel đã nêu rõ hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
của mạng MoblieFone tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Tại đây, MobiFone đã bán
hàng lưu động với chương trình "Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có
230.000 đồng trong tài khoản”. Theo đó, khách hàng có sim của mạng khác
(trong đó có Viettel), còn tài khoản dưới 15.000 đồng và còn hạn sử dụng, có
thể đổi miễn phí lấy 1sim MobiZone của MobiFone có sẵn trong tài khoản
50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng, tặng trong 12 tháng. Như
vậy, có thể thấy đây là hành vi khuyến mại trực tiếp gây ảnh hưởng đến đối
thủ cạnh tranh của MobiFone. Hãng này thu hút khách hàng của mạng di
động khác chuyển sang sử dụng dịch vụ của mình bằng việc khuyến mại
không lành mạnh. Việc làm này đã vi phạm nghiêm trọng về pháp Luật
Chống cạnh tranh không lành mạnh.
Ví dụ tiêu biểu khác là vụ việc Bột nêm Massan. Theo một công bố của
Ban Điều tra và Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, năm 2007,
Công ty Massan đã đưa ra chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh tại TP. Hồ Chí Minh. Cụ thể, công ty này đưa ra chương trình
khuyến mại bột canh, người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến
đổi lấy sản phẩm Massan. Hành vi này được quy định là một trong các hành
vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng hoá cho khách
hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử
dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng
thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do
doanh nghiệp khác sản xuất. Công ty Massan đưa ra chương trình khuyến mại
42
bột canh, người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản
phẩm Massan. Hành vi này được quy định là một trong các hành vi khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng
thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do
doanh nghiệp khác sản xuất”. Ngay sau đó, Công ty Unilever Bestfood đã
khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở Thương mại TP.Hồ Chí
Minh. Có thể nhận xét rằng: Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng
lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất
mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình. Hành vi vi
phạm này có thể phân tích như sau:
- Hình thức khuyến mại là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử.
- Để được tặng hànng hóa, khách hàng phải chấp nhận đổi hàng hóa
cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng. Với điều kiện
này, đối tượng được tham gia khuyến mại chỉ là các khách hàng đang giao
dịch, đang sử dụng hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Nói cách khác, Masan đã
trực diện lôi kéo khách hàng đang tiêu thụ sản phẩm cùng loại của doanh
nghiệp khác bằng cách tặng sản phẩm bột canh của mình cho khách hàng
dùng thử với mong muốn khách hàng thay đổi thói quen tiêu dùng. Hành vi
này bị coi là một dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ
một cách không chính đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản
phẩm của doanh nghiệp khác. Khi tham gia thị trường các doanh nghiệp được
quyền tác động đến nhu cầu của khách hàng bằng cách dành lợi ích vật chất,
cung cấp các thông tin về sản phẩm của mình để khách hàng có thể lựa chọn
chúng trong vô số các sản phẩm cùng loại khác. Trước rất nhiều sản phẩm
cùng loại có khả năng đáp ứng cho cùng một nhu cầu, doanh nghiệp chỉ có
thể làm nổi bật sản phẩm của mình trước khách hàng để cạnh tranh. Trong
khuyến mại không lành mạnh việc tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử
nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác
43
sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình là toan
tính nhằm xoá bỏ hình ảnh của doanh nghiệp khác trong thói quen tiêu dùng
đã có của khách hàng để tạo thói quen tiêu dùng mới đối với sản phẩm của
mình. Rõ ràng với hành vi trên, Masan đã vi phạm pháp luật cạnh tranh. Theo
khoản 4 điều 46 Luật cạnh tranh việc tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử
nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác
sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình thì đây
là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Với hành vi này thì
Thanh tra Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh đã lập biên bản và yêu cầu đình
chỉ chương trình khuyến mại của Masan.
Hay tương tự chương trình khuyến mại “Tam thái tử giá lâm”. Khách
hàng có thể đem bất kỳ chai nước tương dở nào đang sử dụng bất kỳ nhãn
hiệu nào sẽ được đổi lấy chai nước tương Tam thái tử chất lượng cao. Như
vậy rõ ràng với những chương trình khuyến mại như thế thì bất kỳ người tiêu
dùng cũng sẽ tham gia, nếu nó diễn ra trên quy mô lớn thì sẽ tạo một làn sóng
khuyến mại rất mạnh mà theo đó người tiêu dùng sẽ phải đổi sản phẩm dở mà
mình đang dùng để lấy sản phẩm có chất lượng cao hơn. Vì thế uy tín của
những doanh nghiệp khác sẽ bị tổn hại nghiêm trọng, còn người tiêu dùng thì
đang bị doanh nghiệp dùng hình thức khuyến mại để dần xóa đi những thói
quen tiêu dùng trước đây của mình mà người tiêu dùng đôi khi không để ý
đến.
Loại hình khuyến mại này cũng đã không ít lần được các doanh nghiệp
sử dụng trong quá trình xúc tiến thương mại của mình. Đây là loại hình khi
thương nhân sử dụng sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của đối thủ, thay
đổi thói quen người tiêu dùng, gây ra việc cạnh tranh không lành mạnh. Tuy
vậy, loại hình này được thương nhân sử dụng cũng xuất phát từ nguyên nhân
thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh mà thương nhân vô tình vi phạm pháp
luật. Nhiều thương nhân chỉ cho rằng đây là hành vi khuyến mại thông
44
thường, cạnh tranh một cách lành mạnh, do vậy đã dẫn đến việc vi phạm pháp
luật. Cần có sự tuyên truyền sâu rộng pháp luật cạnh tranh và hành vi cạnh
tranh không lành mạnh này để thương nhân và người tiêu dùng hiểu rõ, tránh
những vi phạm pháp luật không đáng có xảy ra.
Tóm lại, cả bốn hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
vừa được nêu trên nhìn chung đều ảnh hưởng trực tiếp và trước tiên đến
quyền lợi của người tiêu dùng, bên cạnh đó là lợi ích của các doanh nghiệp
khác. Mỗi hành vi có một tác động khác nhau và mặt tiêu cực riêng nhưng tất
cả đều đã làm cho môi trường cạnh tranh và thị trường chung bị xáo trộn, mất
bình đẳng và không lành mạnh nữa. Trong khi cạnh tranh lành mạnh là một
động lực để kinh tế phát triển bền vững và ổn định thì đương nhiên những
hành vi không lành mạnh như vậy sẽ bị cấm thực hiện để bảo vệ những nhà
kinh doanh chân chính. Bên cạnh, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh còn bao gồm các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật
có quy định cấm, đây là một quy định mở nhằm để dự phòng các hành vi
khác mà luật chưa bao quát hết được vì những vi phạm luôn tinh vi, phức tạp
và ngày càng mất ổn định hơn. Luật quy định thêm khoản này là để có thể xử
lý những hành vi vi phạm có thể xảy ra trong tương lại mà luật chưa kiệt kê
hết. Trong thời gian tới Luật cạnh tranh cần hoàn thiện hơn để phù hợp với
tình hình thực tế đang thay đổi từng ngày để nền kinh tế được phát triển trong
một môi trường kinh doanh ổn định và bình đẳng.
2.2. Xử lý các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
2.2.1. Cơ quan có thẩm quyền xử lý
Hiện nay, khi môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra phổ biến và khó kiểm soát. Vì
vậy, đòi hỏi Nhà nước ta phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát
một cách chặt chẽ hơn đặc biệt trong hoạt động tổ chức khuyến mại của các
doanh nghiệp. Cần phải có một mô hình quản lý thật tốt và nguồn nhân lực
45
đầy đủ khả năng để có thể đáp ứng được nhu cầu trước tình hình hiện nay.
Trên thế giới có nhiều mô hình để quản lý cạnh tranh với những ưu và nhược
điểm khác nhau. Ở Mỹ, cơ quan quản lý cạnh tranh là Ủy ban Thương mại
Liên bang, cơ quan này thuộc ngành hành pháp nhưng có vị trí hoàn toàn độc
lập với các bộ trong Chính phủ, kể cả Bộ thương mại. Ủy ban Thương mại
Liên bang có nhiệm vụ điều tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và áp dụng chế
tài đối với các hành vi vi phạm Luật cạnh tranh, đồng thời đảm trách thực thi
Luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tại Đan Mạch, cơ quan quản lý
cạnh tranh là một bộ phận trực thuộc Bộ thương mại và công nghiệp. Ngoài
việc thực thi Luật cạnh tranh, cơ quan này còn phụ trách cả việc quản lý hoạt
động đấu thầu của Chính phủ. Còn tại Nhật Bản, quản lý Nhà nước về cạnh
tranh là Ủy ban Thương mại Công bằng, là một cơ quan nằm trong Bộ Nội
vụ, quản lý công, bưu chính và viễn thông. Tuy nhiên, ủy ban này lại có một
quy chế đặc biệt để đảm bảo tính độc lập. Luật chống độc quyền của Nhật
Bản quy định các ủy viên phải do Thủ tướng trực tiếp bổ nhiệm dưới sự phê
chuẩn của Nghị viện[8]. Tuy mỗi quốc gia có cách thức tổ chức cơ quan quản
lý cạnh tranh khác nhau nhưng nhìn chung thể hiện sự độc lập trong hoạt
động của cơ quan này. Còn ở Việt Nam thì cơ quan quản lý cạnh tranh là Cục
quản lý cạnh tranh. Cơ quan này có những nhiệm vụ, quyền hạn được quy
định tại Điều 49 Luật cạnh tranh như sau:
Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật
cạnh tranh;
Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ
trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định;
Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế
cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
46
Như vậy, Cục quản lý cạnh tranh có vai trò như một cơ quan tham
mưu, thay mặt cho Bộ Công Thương đứng ra thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng
miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc Bộ
trưởng Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xét về chức
năng, theo quy định tại Điều 49 Luật cạnh tranh thì Cục quản lý cạnh tranh
vừa là cơ quan điều tra,vừa là cơ quan xử lý vừa là cơ quan hành chính.
Cục quản lý cạnh tranh
Đây là cơ quan do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức,
bộ máy của cơ quan này. Cơ quan này nằm trong hệ thống tổ chức của Bộ
Công Thương, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng và có trụ sở
chính tại Thành phố Hà Nội. Cục quản lý cạnh tranh có các đơn vị trực thuộc
sau: Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Ban Giám sát và quản lý cạnh
tranh, Ban Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Ban
Bảo vệ người tiêu dùng, Ban xử lý chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ,
Ban Hợp tác quốc tế, Văn phòng, Trung tâm thông tin, Trung tâm đào tạo
điều tra viên và các Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí
Minh. Với chức năng chính là giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện
quản lý nhà nước về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống bán
phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào
Việt Nam, cục quản lý cạnh tranh có những mục tiêu sau:
• Thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh.
• Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước những
hành vi hạn chế cạnh tranh.
• Chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
• Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
• Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn cho ngành sản xuất
47
trong nước.
• Hỗ trợ cho ngành sản xuất trong nuớc phòng, chống các vụ kiện bán
phá giá, trợ cấp và tự vệ của nước ngoài.
2.2.2. Trình tự, thủ tục xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh
Khi doanh nghiệp có hành vi vi phạm hoạt động khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh thì các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng bị ảnh
hưởng lợi ích có thể khiếu nại, tố cáo lên Cục quản lý cạnh tranh để cơ quan này
xem xét và giải quyết. Đối với người tiêu dùng khi muốn khiếu nại, tố cáo lên cơ
quan này thì cần làm hồ sơ khiếu nại, tố cáo bằng văn bản bao gồm:
Đơn/thư khiếu nại, tố cáo:
- Ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại, tố cáo; tên, địa chỉ của
người khiếu nại, tố cáo; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá
nhân bị khiếu nại, tố cáo; nội dung, lý do khiếu nại, tố cáo và yêu
cầu của người khiếu nại, tố cáo.
- Do người khiếu nại, tố cáo ký tên.
- Trong trường hợp việc khiếu nại, tố cáo được thực hiện thông
qua người đại diện thì người đại diện phải có giấy tờ chứng minh
tính hợp pháp của việc đại diện.
Các chứng cứ kèm theo: Hóa đơn mua hàng, giấy bảo hành, vật
phẩm, các giấy tờ có liên quan khác,…
Bên cạnh Cục quản lý cạnh tranh thì người tiêu dùng có thể khiếu nại
tới các cơ quan, tổ chức sau:
Khiếu nại trực tiếp đến tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ mà mình đã mua hoặc sử dụng.
Thông qua các Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng, các Văn
48
phòng khiếu nại của người tiêu dùng ở địa phương để khiếu nại đến tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hoặc khiếu nại lên các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Khiếu nại lên các cơ quan quản lý nhà nước: Bộ công Thương các tỉnh,
thành phố; các cơ quan chuyên ngành có liên quan (Cục Quản lý thị
trường, Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm, Cục Xúc tiến thương mại…).
Ngoài ra người tiêu dùng có thể khởi kiện vụ việc ra cơ quan Toà án có
thẩm quyền để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật
trong trường hợp có đủ căn cứ xác đáng và tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh không giải quyết thỏa đáng quyền lợi hợp pháp của mình.
Quyền lợi của người tiêu dùng thật sự là rất lớn, việc khiếu nại, tố cáo
khi bị xâm phạm lợi ích cũng rất dễ dàng và ở nhiều cơ quan, tổ chức khác
nhau chứ không phải như tâm lý chung là ngại kiện cáo, thấy thiệt hại nhỏ
không đáng kể nên không khiếu nại, hoặc không biết khiếu nại ở đâu…
Người tiêu dùng hoàn toàn có quyền gửi mọi khiếu nại của mình và yêu cầu
được giải quyết thỏa đáng. Chính vì tâm lý e ngại chung đó mà đã góp phần
làm cho doanh nghiệp có thể lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm. Ý
thức pháp luật tốt của người tiêu dùng sẽ góp phần làm cho Luật cạnh tranh
thực thi một cách tốt hơn, tạo rào cản đối với doanh nghiệp bất chính, giúp
môi trường cạnh tranh được trong sạch, công bằng, minh bạch và ổn định
2.2.3. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh
Ảnh hưởng của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
tới người tiêu dùng, doanh nghiệp và hoạt động ổn định của môi trường cạnh
tranh là không nhỏ, hành vi này đã vi phạm Luật cạnh tranh thì phải có chế tài
xử lý thích hợp để hạn chế và khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm
gây ra. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
bao gồm chế tài hành chính và chế tài dân sự:
49
Chế tài hành chính
Chế tài này được quy định cụ thể tại Điều 34 Nghị định 71/2014/ NĐ-CP:
“1. Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau đây:
a) Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
b) Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để
lừa dối khách hàng;
c) Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
d) Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng
đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó
đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình.
2. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi vi
phạm quy định tại Khoản 1 Điều này trong trường hợp quy mô tổ chức
khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở
lên.
3. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này, doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và
biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Khoản 4 Điều 28 của Nghị định
này.”
Có thể thấy, theo quy định tại Điều 36 Nghị định số 120/2005/NĐ-CP
thì mức phạt tiền cao nhất đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh chỉ là 50.000.000 đồng và mức phạt thấp nhất là 15.000.000 đồng.
Như vậy, với lợi ích rất to lớn thu được trong mỗi đợt khuyến mại của doanh
50
nghiệp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì con số
nói trên là không đáng kể; đồng thời, nếu những doanh nghiệp vi phạm pháp
luật cạnh tranh mà thu hút được nguồn khách hàng, hay người tiêu dùng của
doanh nghiệp đối thủ thì quả thật số tiền phạt trên là không đáng kể gì. Như
vậy, trên thị trường sẽ xuất hiện nhiều doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp
luật cạnh tranh gây thiệt hại cho doanh nghiệp đối thủ để nhằm tới những
nguồn lợi ích to lớn cho mình. Hiện tại, với Nghị định 71/2014/ NĐ-CP, pháp
luật đã quy định mức phạt đối với những hành vi khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh đã tăng lên đáng kể so với mức phạt trước đó nhằm
xử phạt và răn đe các doanh nghiệp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.
Bên cạnh việc phạt tiền, doanh nghiệp thực hiện hoạt động khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số
hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như:
“• Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi
phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện
hành vi vi phạm;
• Buộc cải chính công khai.”
Chế tài dân sự
Trách nhiệm dân sự cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về cơ
bản không có sự khác biệt đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng theo pháp luật dân sự. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Cạnh Tranh
năm 2004 thì hậu quả pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ
thông qua chế tài xử phạt hành chính mà không đề cập đến vấn đề áp dụng
các biện pháp dân sự. Đây là điểm khác biệt giữa Luật Cạnh Tranh năm 2004
và Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2005. Việc xử lý thông qua hình thức xử phạt
hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ không giải quyết
51
được thiệt hại xảy ra đối với đối thủ bị cạnh tranh và khách hàng. Họ sẽ mất
thời gian và chi phí khởi kiện mà không được bù đắp về thiệt hại, đồng thời
phải tiến hành thêm một vụ kiện về dân sự nữa để được bồi thường gây tốn
kém về mặt thời gian và tiền bạc, đôi khi hiệu quả của việc khởi kiện mang
lại không cao. Đây cũng chính là lý do tại sao hiện nay các vụ kiện về cạnh
tranh không lành mạnh được áp dụng theo Luật Cạnh Tranh năm 2004 là
không nhiều. Trong Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2005 thì tại khoản 3 Điều
198 “Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi
cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 của Luật này và
các biện pháp hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh”.Vấn đề
trên là vẫn có thể áp dụng các biện pháp dân sự trong trường hợp này. Dù
Luật Cạnh Tranh năm 2004 không nói rõ vấn đề bồi thường nhưng tại Điều
117 có nói đến khả năng bồi thường khi bị thiệt hại là “Tổ chức, cá nhân có
hành vi, vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác thì phải bồi thường thiệt
hại theo quy định của pháp luật”.
52
CHƯƠNG 3.
HƯỚNG GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Hướng giải quyết đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh
Ngày nay, trong môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt, các doanh
nghiệp phải luôn nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ của mình từng ngày
để bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Các doanh nghiệp
ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về tác dụng của khuyến mại trong việc kích
thích bán hàng, tiêu thụ sản phẩm và quảng bá thương hiệu. Tuy nhiên, thực
tế hiện nay cho thấy, để đạt được doanh thu tối đa, rất nhiều doanh nghiệp đã
và đang thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh, đi ngược lại với các quy định của pháp luật. Theo nghiên cứu của hãng
nghiên cứu thị trường Nielsen tại 4 thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ thì những người thường mua sắm và ra
quyết định mua hàng chủ yếu trong gia đình, thì kết quả cho thấy: 87% người
Việt Nam sẵn sàng mua hàng khuyến mại. Các doanh nghiệp thường lợi dụng
tâm lý hám lợi của người tiêu dùng để đưa ra các chương trình khuyến mại
hấp dẫn nhằm thu lợi nhuận tối đa cho mình. Bởi đa phần tâm lý người tiêu
dùng sẽ chọn mua các sản phẩm được khuyến mại nhiều hơn. Người tiêu
dùng có thể thường xuyên bắt gặp trên các băng rôn tại các cửa hàng,
showroom, siêu thị hoặc các phương tiện thông tin đại chúng những thông tin
khuyến mại cực kỳ hấp dẫn như: giảm giá từ 40% -50% kèm quà tặng có giá
trị; cuối tuần giá sốc; tri ân khách hàng – mua hàng bốc thăm may mắn,vv...
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp khi niêm yết giá đề là giá được giảm 20% hay
30%, nhưng bảng đó được niêm yết quanh năm, với mức giá là một con số
tuyệt đối không thay đổi. Như vậy giá đó là giá bán thật, không phải là giá
53
giảm và hành vi này được coi là lừa dối khách hàng. Theo quy định thì mức
giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại không được vượt
quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại. Trên
thực tế có nhiều doanh nghiệp, vì muốn bán hàng tồn kho hoặc hết thời trang,
do vậy thực hiện "đại hạ giá" ở mức 60-80%. Hay như việc khuyến mại của
các nhà mạng trước đây, quy định không vượt quá 50%, nhưng vẫn có những
chương trình khuyến mại lên tới 100%, 170%, 200%... Lý do họ đưa ra để
lách luật đó là đây chỉ là ưu đãi dành cho khách hàng sử dụng dịch vụ lâu
năm… Có những doanh nghiệp khi thực hiện các chương trình may rủi chưa
trung thực và minh bạch, như yêu cầu khách hàng sưu tập đủ số nắp chai có
in hình các bộ phận chiếc xe đạp để ghép thành chiếc xe sẽ có giải cao nhưng
trên thực tế không phát hành đủ các nắp chai có in hết các bộ phận; hoặc thẻ
cào trúng thưởng nhưng không phát hành thẻ có giải đặc biệt... Do đó, có
những chương trình khuyến mại được quảng cáo với giải thưởng rất cao
nhưng không có người trúng. Doanh nghiệp "câu" người tiêu dùng mua nhiều
hàng để hy vọng trúng giải nhưng cuối cùng không mất chi phí giải thưởng
cho khách hàng…
Thời gian vừa qua việc kiểm soát hoạt động khuyến mại của các doanh
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do thiếu đội ngũ quản lý, hệ thống pháp luật
chưa đầy đủ và đồng bộ nên tình trạng khuyến mại không lành mạnh thường
xuyên xảy ra, gây nhiều thiệt hại cho người tiêu dùng. Người viết xin đưa ra
một số mặt còn tồn tại trong hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh như sau:
Doanh nghiệp tổ chức khuyến mại nhưng gian dối, không trung
thực, lừa gạt khách hàng bằng những giải thưởng hấp dẫn, tiêu biểu đó là vụ
việc công ty LG gian dối trong chương trình khuyến mại với giá trị giải
thưởng gần 2 tỷ đồng mà người viết đã đề cập trước đó. Một chương trình
khuyến mại đồ sộ với những giải thưởng lớn nhưng lại được toan tính trước
54
về người nhận giải thưởng thì không công bằng cho những đối tượng tham
gia khác. Việc gian dối khách hàng như vậy là hành vi thiếu trung thực và
việc quản lý cũng như xử lý những vụ việc như thế này sẽ do ai quản lý.
Người tiêu dùng thì e ngại khiếu nại, kiện cáo vì những lợi ích nhỏ nhưng nếu
cơ quan chức năng vẫn lơ là, không kiểm soát những việc như vậy sẽ làm lợi
cho doanh nghiệp gian dối, quyền lợi người tiêu dùng tiếp tục bị xâm phạm.
Vì vậy, cần khuyến khích và tạo điều kiện để người tiêu dùng nên mạnh dạn
khiếu nại khi thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng hay thấy có hành vi vi
phạm, có như thế mới giảm bớt những hành vi gian dối, không trung thực của
các doanh nghiệp trong thời gian tới. Đồng thời, các cơ quan chức năng có
liên quan cần tích cực hơn trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm
minh theo đúng pháp luật những trường hợp vi phạm để tạo lòng tin cho các
doanh nghiệp khác và cho người tiêu dùng. Vì hành vi khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp chân chính và người tiêu dùng nên việc xử lý đúng mức hành vi
này là điều cần thiết để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức các
giải thưởng nhằm tôn vinh những doanh nghiệp kinh doanh trung thực, lành
mạnh, thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu
dùng, việc khen thưởng cho những doanh nghiệp, cá nhân phát hiện những
hành vi vi phạm là những động thái tích cực góp phần đẩy lùi hành vi khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Tình trạng doanh nghiệp đưa thông tin sai lệch gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng vẫn thường xuyên xảy ra. Doanh nghiệp đưa thông tin
khuyến mại mập mờ, không rõ ràng gây khó hiểu để người tiêu dùng nhầm
lẫn mà đi mua sản phẩm. Đôi khi là hàng tồn kho, kém chất lượng nhưng
không nói rõ ràng khiến khách hàng không biết mà tưởng là sản phẩm tốt. Ví
dụ: Một công ty mở siêu thị hàng điện máy đã cùng với một số nhà cung cấp
đưa ra chương trình “siêu khuyến mại” giảm giá các sản phẩm đến 50%.
Chương trình này được giới thiệu rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
55
chúng thu hút một lượng lớn khách hành đến siêu thị mua sắm. Tuy nhiên,
phần lớn hàng công ty giảm giá là hàng tồn kho và số lượng rất nhỏ. Như vậy,
công ty đã không trung thực trong việc đưa thông tin khuyến mại đến với
người tiêu dùng. Tình trạng doanh nghiệp khuyến mại nhưng gây nhầm lẫn
cho khách hàng vẫn còn xảy ra nhiều trên thực tế nên các cơ quan chức năng
có thẩm quyền cần sớm khắc phục để ngăn chặn những hành vi vi phạm và
cũng để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng
Chương trình khuyến mại diễn ra tràn lan, khó kiểm soát. Thực
tế tại các thành phố hiện nay đi đâu cũng thấy hàng khuyến mại tràn lan, nhất
là hàng may mặc, thực phẩm chế biến…Có cửa hàng giảm giá suốt cả năm,
lúc nào cũng thấy bán hàng giảm giá với tiêu đề rất bắt mắt “Đại hạ giá”,
“Siêu giảm giá” mà người tiêu dùng thì luôn thích rẻ, đó là tâm lý chung, thấy
hàng khuyến mại thì cứ mua mà ít khi quan tâm đến chất lượng của nó, khi về
sử dụng thì thiệt hại vẫn là người tiêu dùng phải gánh chịu. Theo quy định
của Luật thương mại thì việc quản lý các chương trình khuyến mại thuộc
thẩm quyền của Bộ Công Thương nếu chương trình khuyến mại thực hiện
trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nếu trên địa bàn hai
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên thì thuộc thẩm quyền của Bộ
Công Thương. Tuy nhiên, theo thống kê thì hàng ngày có tới hàng ngàn mã
hàng đăng ký chương trình khuyến mại nên việc Bộ Công Thương quản lý
hoạt động khuyến mại này sẽ không sâu sát được và rất khó thực hiện bởi vì
số lượng quá lớn và việc chương trình khuyến mại không đăng ký vẫn thường
xuyên xảy ra, điều này đã gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý các hoạt
động khuyến mại. Vì vậy, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt
động khuyến mại của các doanh nghiệp trên từng địa bàn cụ thể. Việc này đòi
hỏi sự phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan chức năng như: Cục quản lý
cạnh tranh, Cục quản lý thị trường, Cục xúc tiến thương mại…, các cơ quan
này phải phối hợp chặt chẽ và liên kết với nhau trong công tác quản lý tình
hình hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp, đồng thời khi gặp khó
56
khăn, vướng mắc trong công tác quản lý thì phải đưa ý kiến lên cấp trên để
kịp thời giải quyết và cũng để góp phần hoàn thiện những thiếu sót của pháp
luật về hoạt động khuyến mại.
Lợi ích của người tiêu dùng bị xâm phạm một cách đáng kể vì
chưa nắm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia mua hàng hóa, sử
dụng dịch vụ. Thường thì người tiêu dùng khi gặp phải vướng mắc hay thiệt
hại do doanh nghiệp bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ gây ra thì họ không biết
làm gì để đòi lại quyền lợi của mình. Nếu khiếu nại theo Luật cạnh tranh thì
mức phí mà họ phải nộp là 10.000.000 đồng, với mức phí cao như thế này thì
không hợp lý vì nhiều khi thiệt hại của người tiêu dùng còn chưa tới mức phí
mà họ phải nộp khi khiếu nại, vì vậy sẽ không khuyến khích họ khiếu nại đòi
quyền lợi theo Luật cạnh tranh. Người tiêu dùng có thu nhập thấp nếu được
chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền thì có thể được miễn nộp phí khi
khiếu nại, tuy nhiên trên thực tế khi người tiêu dùng có thu nhập thấp mua
hàng hóa, sử dụng dịch vụ thì họ ít khi quan tâm đến chất lượng hàng hóa,
dịch vụ mà chỉ cần phù hợp với thu nhập của họ là họ sử dụng nên việc kiện
cáo cũng ít khi xảy ra. Luật cạnh tranh đã chưa thật sự phù hợp và sâu sát với
tình hình thực tế. Mục đích của Luật cạnh tranh là cũng vì lợi ích người tiêu
dùng thông qua việc đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh của các
doanh nghiệp, nhưng luật không dành cho người tiêu dùng một giải pháp thật
sự dễ dàng và thuận tiện để họ tự bảo vệ mình khi quyền và lợi ích chính
đáng bị xâm phạm. Đây cũng là điểm thiếu sót của Luật cạnh tranh và cần
được khắc phục trong thời gian tới. Vì vậy, đối với mức phí xử lý vụ việc
cạnh tranh về hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà bên khiếu nại là người
tiêu dùng thì nên giảm xuống ở mức thấp hơn so với mức phí 10.000.000
đồng như hiện nay, hoặc có thể miễn luôn mức phí này để người tiêu dùng có
điều kiện dễ dàng khiếu nại đòi quyền lợi khi bị doanh nghiệp chèn ép. Hơn
nữa, cần quy định rõ chế tài dân sự, cụ thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Luật cạnh tranh để có thể bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tốt
57
hơn. Đồng thời, có thể làm cho Luật cạnh tranh hoàn chỉnh hơn và được thực
thi một cách tốt hơn trên thực tế.
Tình trạng đội ngũ cán bộ chuyên trách trong ngành còn thiếu và
còn nhiều yếu kém về kiến thức pháp luật, chủ yếu là cán bộ quản lý cạnh
tranh không lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
người tiêu dùng nhưng trên thực tế công tác bảo vệ người tiêu dùng chưa tốt
dẫn đến tình trạng người tiêu dùng bị xâm phạm lợi ích là rất thường xuyên
xảy ra. Vì vậy cần nâng cao trình độ kiến thức về pháp luật cho cán bộ
chuyên môn trong ngành quản lý để họ có thể đối phó với những hành vi vi
phạm ngày càng tinh vi và phức tạp của các doanh nghiệp. Đồng thời cũng
phải tăng cường thêm số lượng cán bộ quản lý nhằm đáp ứng với nhu cầu của
tình hình thực tiễn hiện nay.
Ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng chưa cao. Ở nước ta hiện
nay, ý thức tự bảo vệ của mỗi người tiêu dùng cũng chưa được phát huy đúng
mức. Nhiều người tiêu dùng tỏ ra thờ ơ, hoặc không biết quyền của mình khi
đi mua các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Đứng trước các hiện tượng hàng giả,
hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng sai quy cách, người tiêu dùng chưa có
thói quen đấu tranh hay phản ứng quyết liệt. Chính điều này đã góp phần làm
lợi cho các doanh nghiệp làm ăn bất chính, gây thiệt hại lớn cho chính người
tiêu dùng, quan trọng hơn còn làm cho các doanh nghiệp thoát khỏi sự kiểm
soát và xử lý của pháp luật nên khả năng để thực thi pháp luật chưa tốt. Người
tiêu dùng cần nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền lợi bản thân, nên hiểu về
những quyền lợi của mình khi tham gia mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của
các doanh nghiệp. Phải kiên quyết đấu tranh và phản ứng quyết liệt trước hiện
tượng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng để đòi lại quyền lợi cho
mình. Mạnh dạn tố cáo hay khiếu nại lên các cơ quan có thẩm quyền để họ
giải quyết và xử lý những doanh nghiệp vi phạm khi có điều kiện, nếu không
có điều kiện thì có thể gửi đơn yêu cầu Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu
58
dùng đứng ra đòi lại quyền lợi cho mình. Tuyệt đối đừng nghĩ vì lợi ích nhỏ
mà bỏ qua mọi chuyện, tuy một người là lợi ích nhỏ nhưng với số lượng lớn
người tiêu dùng thì nó lại là những lợi ích rất lớn, hành vi lơ là của người tiêu
dùng đối với những sai phạm nhỏ của doanh nghiệp sẽ góp phần tạo điều kiện
để các doanh nghiệp tiếp tục vi phạm trong thời gian tới và vi phạm sẽ ngày
một nhiều hơn. Bên cạnh, còn cần phải nâng cao vai trò và chức năng của Hội
tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng, vì đây là một tổ chức xã hội nên sẽ rất
gần gũi và sâu sát với tình hình người tiêu dùng trên thực tế. Trước đây hoạt
động của Hội này chưa phát huy hết vai trò đúng mức của nó nên trong thời
gian tới cần tăng cường kinh phí cũng như số lượng và chất lượng của đội
ngũ cán bộ trong Hội để Hội phát huy hết vai trò của mình trong việc việc đại
diện người tiêu dùng đứng ra đòi lại quyền lợi chính đáng.
Vấn đề phổ biến pháp luật đến với các doanh nghiệp, người tiêu
dùng để họ nắm vững những quy định của pháp luật tránh tình trạng sai phạm
hay thiếu kiến thức pháp luật mà bị thiệt hại về lợi ích vẫn chưa được triển
khai một cách triệt để. Theo Bà Đinh Thị Mỹ Loan, Phó Chủ tịch Hiệp hội
Bán lẻ Việt Nam cho biết, 1 năm sau khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực, Cục
Quản lý Cạnh tranh có làm một cuộc điều tra và kết quả cho thấy, chỉ có 30%
doanh nghiệp biết là có Luật Cạnh tranh, 70% doanh nghiệp không hề biết gì
về luật này. Hiện nay, con số này đã đảo ngược, thậm chí hầu hết các doanh
nghiệp đã biết đến Luật cạnh tranh tuy nhiên khả năng vận dụng Luật Cạnh
tranh để bảo vệ mình của các doanh nghiệp cũng còn nhiều hạn chế, nhất là
đối với những doanh nghiệp nhỏ. Bên cạnh, thì người tiêu dùng cũng còn hạn
chế kiến thức về Luật cạnh tranh nên đa số khi bị các doanh nghiệp xâm
phạm quyền và lợi ích trong các chương trình khuyến mại gian dối, không
trung thực họ cũng không thể tự bảo vệ mình vì họ không biết rằng pháp luật
luôn đứng ra để bảo vệ quyền lợi cho họ. Thường xuyên tuyên truyền, phổ
biến kiến thức pháp luật đến với người tiêu dùng để họ nắm rõ những quy
định pháp luật thông qua các hình thức đối thoại, thông tin đại chúng hay tiếp
59
xúc trực tiếp để hỗ trợ kiến thức tiêu dùng để họ có thể tự bảo vệ mình cũng
như góp phần vào công tác phát hiện, xử lý những hành vi và doanh nghiệp vi
phạm. Mỗi doanh nghiệp cũng phải tự mình cập nhật những văn bản pháp
luật mới ban hành, hiểu rõ và đúng những quy định của pháp luật liên quan để
tránh khỏi sự chèn ép của các doanh nghiệp khác, đảm bảo lợi ích cho người
tiêu dùng và hoạt động kinh doanh theo đúng khuôn khổ của pháp luật.
Nên xem xét lại thẩm quyền và tính độc lập của Cơ quan quản lý
cạnh tranh. Những công ty lớn mang tính độc quyền như: Điện lực, Viễn
thông nằm dưới sự quản lý của Chính phủ và một số công ty khác mà Bộ
Công Thương làm chủ quản thì sẽ làm cho các doanh nghiệp khác cảm thấy
sự bất bình đẳng khi cạnh tranh. Nếu các doanh nghiệp này vi phạm thì việc
xử lý sẽ rất khó khăn vì thị phần của các công ty này rất lớn có thể ảnh hưởng
trực tiếp đến nền kinh tế, tính độc lập trong việc xét xử cũng chưa cao vì Cục
quản lý cạnh tranh lại là cơ quan trực thuộc của Bộ Công Thương nên việc xử
lý những công ty do Bộ này làm chủ quản, thậm chí do Chính phủ quản lý là
điều rất khó khăn. Vì vậy, khi có điều kiện thì nên nâng Cục quản lý cạnh
tranh thành cơ quan ngang Bộ chứ không trực thuộc Bộ Công Thương như
hiện nay nữa[8]. Có như vậy thì tính độc lập của cơ quan này đối với hoạt
động của các doanh nghiệp mới phát huy được tác dụng và việc xử lý các
hành vi vi phạm cũng công bằng và chính xác hơn. Tuy là mô hình này tạo sự
tốn kém, cồng kềnh trong cơ cấu tổ chức của Bộ máy Nhà nước, nhất là trong
bối cảnh cải cách hành chính được coi là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước ta
hiện nay nhưng với mô hình này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, ngăn
chặn tình trạng lợi dụng vị trí độc quyền hay thống lĩnh thị trường, tạo niềm
tin cho các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
cả những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn chân chính, từ đó thúc đẩy một môi
trường cạnh tranh trong sạch, lành mạnh và bình đẳng. Đồng thời cũng để
luật pháp của chúng ta đi vào thực tiễn và được thực thi một cách hiệu quả
hơn.
60
3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về khuyến mại nhằm
cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay
Về hệ thống văn bản pháp luật hiện hành để quản lý hành vi khuyến
mại không lành mạnh còn chưa thống nhất, đồng bộ và cũng chưa bao quát
hết được tình hình diễn ra trên thực tế dẫn đến gây khó khăn cho công tác
quản lý. Khi cạnh tranh thì doanh nghiệp nào cũng muốn loại bỏ đối thủ của
mình bằng nhiều cách cho nên hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh trên thực tế diễn ra rất phức tạp, hành vi và thủ đoạn vi phạm ngày
một tinh vi hơn trong khi luật lại quy định những trường hợp rất cụ thể thì sẽ
không thể bao quát hết được những gì diễn ra trên thực tế. Luật thương mại
thì điều chỉnh về hình thức, chủ thể và cách thức tổ chức hoạt động khuyến
mại nhưng khi có hành vi không lành mạnh thì Luật cạnh tranh lại điều chỉnh,
do vậy việc quản lý sẽ rất khó khăn và tốn kém nguồn nhân lực, vì hành vi
khuyến mại và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh rất gần nhau,
khi một doanh nghiệp đăng ký tổ chức hoạt động khuyến mại thì Luật thương
mại điều chỉnh, nhưng nếu trong quá trình tổ chức hoạt động khuyến mại đó
doanh nghiệp có hành vi không lành mạnh thì Luật cạnh tranh sẽ được áp
dụng để giải quyết, trong quá trình xử lý lại phải xem xét doanh nghiệp tổ
chức hoạt động khuyến mại có đúng trình tự thủ tục không, như vậy quá trình
giải quyết vụ việc vi phạm sẽ trở nên kéo dài và phức tạp vì phải qua nhiều
khâu thủ tục trước khi xử lý. Một số hạn chế của pháp luật hiện hành về
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh:
Thứ nhất, các điều khoản trong luật còn quy định chung chung,
chưa rõ ràng cụ thể. Ví dụ như thuật ngữ “như nhau” trong hành vi bị cấm
được quy định tại Luật cạnh tranh “Phân biệt đối xử với các khách hàng như
nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương
trình khuyến mại”. Các khách hàng “như nhau” thì cần được hiểu tiêu chí nào
là như nhau, điều này vẫn chưa được pháp luật làm rõ. Cần một cách hiểu rõ
61
ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh. Hay khái niệm về
“khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh” cũng cần được quy định cụ
thể hơn.
Thứ hai, pháp luật quy định về trách nhiệm của thương nhân
khuyến mại chưa thật sự đầy đủ để bảo đảm lợi ích của khách hàng. Trên
thực tế, khách hàng phải chịu thiệt thòi do những gian lận trong khuyến mại
của thương nhân, do các sai sót kỹ thuật trong in ấn, tem phiếu vật phẩm có
chứa đựng thông tin về lợi ích vật chất mà khách hàng được hưởng trong đợt
khuyến mại.
Ví dụ: Một khách hàng của công ty sữa Hanoimilk đã mua sản phẩm
sữa IZZI trong đợt khuyến mại từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 15 tháng 8 năm
2005 với một thẻ cào có thông tin trúng thưởng ba mươi triệu đồng (sau khi
cào phần nhũ bạc). Khi liên hệ với công ty nhận thưởng, khách hàng nhận
được trả lời “phiếu cào đó không hợp lệ". Sau khi sự việc xảy ra Công ty
TNHH Sáng Tạo (đơn vị thực hiện toàn bộ thẻ cào của đợt khuyến mại theo
hợp đồng đã ký với Hanoimilk) đã thừa nhận lỗi sai sót kỹ thuật lợi ích mà
khách hàng nhận được trong trường hợp này chỉ là lời xin lỗi của Hanoimilk,
bởi vì không tìm thấy quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành làm cơ sở
pháp lý bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong trường hợp này”.
Thứ ba, để đảm bảo tính trung thực của thương nhân về giải
thưởng trong chương trình khuyến mại mang tính may rủi, pháp luật quy định
“thương nhân có nghĩa vụ thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông
báo và cam kết với khách hàng” là chưa đủ. Thực tiễn cho thấy, trong
chương trình khuyến mại của bia Tiger “bật nắp chai trúng thưởng” với cơ
cấu hai trăm ngàn giải thưởng, trong đó có 6 xe ôtô BMW của một công ty
bia, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ hai trăm ngàn giải thưởng với 6 nắp
chai in hình BMW trong số sản phẩm được bán trong khuyến mại. Theo Cục
Xúc tiến thương mại, trong tổng số 215 tỷ đồng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng
để khuyến mại mà thương nhân đăng ký chương trình khuyến mại, tổng số
62
giá trị giải thưởng đã rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng chiếm 3% tổng số tiền dành
cho khuyến mại đã đăng ký. Trong khi thương nhân vẫn tiêu thụ được hàng
hóa mà số lượng giải thưởng đã trao quá ít như vậy thì việc vi phạm ngĩa vụ
thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo là khả năng đã xảy ra”.
Vì vậy khó có thể kiểm soát tính trung thực của thương nhân khi thực hiện
khuyến mại bằng hình thức này, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và quyền lợi
khách hàng được đảm bảo.
Thứ tư, thiếu quy định về xử lý hình sự đối với thương nhân là
pháp nhân khi vi phạm pháp luật trong hoạt động khuyến mại. Bộ luật hình
sự hiện hành quy định chủ thể của trách nhiệm hình sự là cá nhân, trong khi
đó có thể xuất hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội do cá nhân thực hiện
nhưng với danh nghĩa của pháp nhân. Ví dụ: hành vi lừa dối khách hàng,
hành vi làm tem vé giả của pháp nhân. Trong những trường hợp đó, việc xử
lý hình sự đối với cá nhân sẽ thiếu cơ sở, không công bằng và không có tác
dụng tích cực ngăn ngừa đối với pháp nhân".
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại
Luật Cạnh tranh tuy có quy định các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nhưng chỉ mới điều chỉnh các hành vi này bằng mệnh lệnh hành chính.
Vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra
không được quy định cụ thể mà Luật lại dẫn chiếu đến pháp luật dân sự (Điều
117 Luật Cạnh tranh). Như vậy, vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật dân sự năm 2005. Để cho
các quy định về bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi c ạnh tranh không
lành mạnh triển khai được trong thực tế rất nhiều vấn đề pháp lý được đặt ra
cần có sự hướng dẫn, giải thích từ các cơ quan có thẩm quyền (nhất là từ phía
Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công
Thương). Trong các vấn đề ấy, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau:
63
- Xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra? Theo thông lệ chung
của các nước, đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chủ thể tiến
hành khởi kiện chủ yếu là các đối thủ cạnh tranh. Vậy nên chăng, pháp
luật nước ta quy định rõ về vấn đề này.
- Những loại chế tài dân sự nào có thể áp dụng cho chủ thể có hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Theo quy định tại Điều 9 Bộ luật dân sự
năm 2005, khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm, chủ thể có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (trong đó có Tòa án) áp
dụng một trong các hình thức sau: a) công nhận quyền dân sự; b) buộc
chấm dứt hành vi vi phạm; c) buộc xin lỗi, cải chính công khai; d) buộc
thực hiện nghĩa vụ dân sự; đ) buộc bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, cần
xác định rõ những loại chế tài nào sẽ được áp dụng cho các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh.
- Về mức bồi thường thiệt hại và xác định mức bồi thường thiệt hại.
Vấn đề xác định mức bồi thường thiệt hại thực tế do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh gây ra luôn là vấn đề phức tạp. Để đơn giản hóa,
pháp luật một số quốc gia đã đưa ra quy tắc, lợi nhuận thu được của
chủ thể có hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đương nhiên thuộc
về chủ thể bị cạnh tranh không lành mạnh. Đây cũng là kinh nghiệm tốt
mà Việt Nam nên tham khảo và có chính sách rõ ràng về vấn đề này.
Thứ sáu, nên tách cạnh tranh không lành mạnh ra khỏi Luật
Cạnh tranh thành văn bản riêng hoặc đưa về lĩnh vực pháp lý có liên quan.
Ví dụ như một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến Sở hữu
trí tuệ thì đưa về Luật Sở hữu trí tuệ điều chỉnh. Hành vi quảng cáo, khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh có thể đưa về Luật Thương mại, Luật
Bảo vệ người tiêu dùng. Hành vi gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khác nên đưa về Bộ Luật Dân Sự, Bộ Luật
64
Hình Sự, hành vi bán hàng đa cấp bất chính nên quy định ở một Nghị định
riêng.
Thứ bảy, đối với hình thức phạt tiền, không nhất thiết quy định
khung xử phạt cụ thể đối với các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh. Theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, theo đó
mức tiền được ấn định trước và được quy định theo khung tiền phạt. Quy đinh
về mức tiền phạt cụ thể như thế này có ưu điểm là dễ áp dụng trên thực tế, khi
có hành vi vi phạm, cơ quan nhà nước chỉ cần đưa ra mức phạt tiền trong
khung đã được quy định.Tuy nhiên, quy định khung tiền phạt thường nhanh
chóng lạc hậu theo thời gian và không mang tính răn đe với các đối tượng vi
phạm. Bởi thực tế cho thấy những hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể
còn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp hơn số tiền phạt họ phải gánh chịu.
65
KẾT LUẬN
Trước tình hình kinh tế hiện nay, với sự đa dạng về hàng hóa và dịch
vụ thì khuyến mại trở thành công cụ cần thiết hỗ trợ cho doanh nghiệp trong
quá trình tiêu thụ sản phẩm. Đó là biện pháp kích cầu cho sự phát triển của
một nền kinh tế và mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau
trong môi trường lành mạnh. Tuy nhiên, không ít doanh nghiệp lợi dụng
khuyến mại để cạnh tranh không lành mạnh, lừa dối người tiêu dùng làm ảnh
hưởng môi trường kinh doanh. Từ những thực trạng đang diễn ra người viết
cho rằng cần nên điều chỉnh lại hệ thống pháp luật về hoạt động khuyến mại,
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh và những văn bản luật có liên
quan để hệ thống pháp luật được hoàn chỉnh hơn, cùng bổ sung và thống nhất
trong việc quản lý. Bên cạnh, còn phải tăng cường tính độc lập của Cơ quan
quản lý cạnh tranh trong việc xét xử các hành vi vi phạm hoạt động khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh để tạo sự công bằng và minh bạch cho
môi trường cạnh tranh chung. Ngoài những biện pháp trên các ngành, các cấp
có liên quan phải tập trung nâng cao ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng
trước những thủ đoạn của doanh nghiệp bất chính. Có như vậy thì hành lang
pháp lý của Luật cạnh tranh mới thật sự vững chắc, hoàn chỉnh và khả năng
thực thi cao. Tính độc lập của Cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ ngăn chặn được
tình trạng mất công bằng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà
nước, góp phần ổn định hơn môi trường cạnh tranh tạo tiền đề cho sự phát
triển kinh tế đất nước. Khi một chế tài đã đủ mạnh và đủ sức thuyết phục thì
tính răn đe sẽ đạt hiệu quả cao, tạo rào cản đối với những doanh nghiệp muốn
vi phạm để những doanh nghiệp này hoạt động trong khuôn khổ của pháp
luật. Thêm vào đó, ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng có tốt thì doanh
nghiệp sẽ không dám làm ăn gian dối, thiếu trung thực, mà sẽ luôn đặt lợi ích
của người tiêu dùng lên hàng đầu.
Từ những ý kiến đề xuất trên, người viết hy vọng sẽ đóng góp phần
nào vào hệ thống pháp lý về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
66
khuyến mại, giúp hành lang pháp lý về lĩnh vực này ngày càng ổn định và
vững chắc hơn, tạo tiền đề mới cho pháp luật cạnh tranh được thực thi một
cách hiệu quả trên thực tế.
67
DANH MỤC TÀI LIỆU
Luật thương mại năm 2005. 1.
Luật canh tranh năm 2004 2.
3. Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật cạnh tranh.
4. Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2005 quy định về xử
phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
5. Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết
Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
6. Nghị định 68/2009/NĐ- CP ngày 06 tháng 08 năm 2009 sửa đổi, bổ
sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm
2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến
thương mại.
7. PGS.TS. Lê Danh Vĩnh (2010), Giáo Trình Luật Cạnh tranh, Đại học
Quốc Gia TP. HCM, Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Văn Cương (2008), Mô hình nào cho cơ quan quản lý cạnh
tranh ở Việt Nam, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật.
9. Trần Dũng Hải( 2008), Mấy ý kiến về hoạt động khuyến mại và vai trò
của pháp luật Việt Nam hiện nay, Nhà nước và pháp luật(số 6), tr.54.
10. Nguyễn Thị Dung(2007), Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt
Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
trang.45.
11. Nguyễn Như Ý chủ biên(1998), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, tr.928.
12. Chu Bích Thu chủ biên( 2002), Từ điển từ mới tiếng Việt, nxb
Tp.HCM, Tp.HCM, tr.126
13. Hoàng Phê chủ biên(2005), Từ điển Việt Nam, NXB Đà Nẵng- Trung
tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng.
68
14. Nguyễn Xuân Quang chủ biên, Giáo trình Marketing Thương Mại,
NXB Lao Đông- Xã Hội , Hà Nội
15. Ngô Thảo Trang (2009), Pháp luật về khuyến mại ở Việt Nam. Thực
tiễn và hướng hoàn thiện, Luận văn tốt nghiệp cử nhân, Khoa Luật( Trường
Đại học Cần Thơ), Cần Thơ.
16. Huỳnh Thị Bích Liên (2011), Pháp luật về cạnh tranh không lành
mạng trong lĩnh vực khuyến mại, Luận văn tốt nghiệp cử nhân, Khoa Luật(
Trường Đại học Cần Thơ), Cần Thơ.
17. Nguyễn Lâm Duy Linh (2008), Pháp luật về cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động quảng cáo và khuyến mại, Luận văn tốt nghiệp cử
nhân, Khoa Luật( Trường Đại học Cần Thơ), Cần Thơ.
18. http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-phan-tich-mot-vu-viec-thuc-tien-
ve-hanh-vi-khuyen-mai-nham-canh-tranh-khong-lanh-manh-57226/
19. http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-phan-tich-mot-vu-viec-thuc-tien-
ve-hanh-vi-khuyen-mai-nham-canh-tranh-khong-lanh-manh-57226/
20. http://www.dankinhte.vn/dac-diem-cua-hanh-vi-canh-tranh-khong-
lanh-manh/
21. http://www.dhluathn.com/2014/10/thuc-trang-phap-luat-canh-tranh-
viet.html
22. http://vietbao.vn/Kinh-te/Khuyen-mai-thieutrung-thuc/20053024/87/
23. http://www.baobinhdinh.com.vn/thuditinlai/2009/1/71106/
24. http://vietbao.vn/Anninh-Phap-luat/Hoa-giai-khong-thanh-vu-kien-
khuyen-mai-sua-Dumex/10952268/218/.
25. Http://vietbao.vn/Kinhte/Gian-doi-trong-chuong-trinh-khuyen-mai-cua-
LG/10952177/87/
26. Http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/10/12/3927/