ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHẠM THANH TÂM

PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

TRONG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính qui

Khóa học: QH-2012_L

Hà Nội, năm 2016.

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHẠM THANH TÂM

PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

TRONG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính qui

Khóa học: QH-2012_L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: GV TH.S TRẦN ANH TÚ

Hà Nội, năm 2016

2

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình nghiên cứu và

học tập của em cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình từ thầy Trần Anh Tú. Mọi tham

khảo, trích dẫn đều có nguồn rõ ràng.

Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về bài khóa luận của mình.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2016.

Sinh viên thực hiện

Phạm Thanh Tâm

3

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 6

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................................ 9

1.1. Khái quát chung về khuyến mại....................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm về khuyến mại ......................................................................... 9

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khuyến mại ...................................................... 11

1.1.3. Các hình thức khuyến mại ....................................................................... 13

1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động khuyến mại ......................................... 17

1.2. Khái quát chung về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............ 24

1.2.1. Khái niệm về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ............... 24

1.2.2. Đặc trưng pháp lý của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh . 25

1.2.3. Tác động của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh .. 27

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH

TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM ............................................... 29

2.1. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh

tranh 2004 ................................................................................................................. 29

2.1.1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng .................................... 29

2.1.1. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ

để lừa dối khách hàng ........................................................................................... 35

2.1.2. Phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức

khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại ....................... 39

2.1.3. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng

đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử

dụng để dùng hàng hóa của mình ......................................................................... 41

2.2. Xử lý các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh .................. 45

2.2.1. Cơ quan có thẩm quyền xử lý ..................................................................... 45

2.2.2. Trình tự, thủ tục xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành

mạnh...................................................................................................................... 48

2.2.3. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ... 49

4

CHƯƠNG 3. HƯỚNG GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................................... 53

3.1. Hướng giải quyết đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành

mạnh ........................................................................................................................ 53

3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh

không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay ................................................................... 61

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66

DANH MỤC TÀI LIỆU .......................................................................................... 68

5

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu

Nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã có những sự vận động

mạnh mẽ, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước

theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này, nước ta đang dần dần hội

nhập với nền kinh tế thị trường. Đây là những điều kiện cần thiết cho sự phát

triển của nền kinh tế một quốc gia và tồn tại trong đó nhiều vấn đề liên quan

chi phối nhiều khía cạnh của nền kinh tế ảnh hưởng đến sự phát triển cân

bằng của nền kinh tế và cho cuộc sống của mỗi người dân, một trong những

vấn đề đó là cạnh tranh mà điều đáng chú ý là cạnh tranh không lành mạnh.

Khi bước vào môi trường kinh doanh tự do để tạo bước chuyển cho nền kinh

tế phát triển năng động thì cạnh tranh trong mua bán hàng hoá là cần thiết và

không thể tránh khỏi. Mỗi một nhà sản xuất luôn muốn kiếm lợi nhuận thật

nhiều và mua bán hàng hoá đòi hỏi phải có chiến lược và có thể bao gồm cả

thủ đoạn không đẹp để hạ gục đối thủ cạnh tranh với mình. Có nhiều biện

pháp sử dụng trong cạnh tranh như: quảng cáo, khuyến mại, cạnh tranh bằng

giá cả… Bất kỳ một sản phẩm nào làm ra đều cần được đưa tới người tiêu

dùng bằng nhiều cách khác nhau để làm sao thu hút thật nhiều khách hàng mà

khuyến mại một trong những hoạt động rất thường được sử dụng để giới thiệu

hàng hoá của mình như: hàng loạt các chương trình khuyến mại diễn ra rầm

rộ… nhằm kích thích sức mua của khách hàng cho một loại sản phẩm nào đó.

Có những nhà sản xuất, kinh doanh vì không cạnh tranh được với những hãng

khác thì lại dùng những biện pháp không đẹp để cạnh tranh không lành mạnh

bằng nhiều thủ đoạn khác nhau: bán phá giá hàng hoá, gièm pha quảng cáo so

sánh nói xấu sản phẩm của doanh nghiệp khác… Những vụ việc, vấn đề này

phải được pháp luật can thiệp và xử lý kịp thời để tạo môi trường cạnh tranh

lành mạnh và công bằng. Luật cạnh tranh ra đời năm 2004 trong đó có quy

định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm. Đây là hành lang pháp

lý quan trọng tạo ra sự cạnh tranh công bằng trong hoạt động kinh doanh, sự

6

yên tâm cho các nhà sản xuất và cả những nhà đầu tư vào kinh doanh. Nhưng

pháp luật cũng không thể quy định bao quát hết và các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh với thủ đoạn ngày càng diễn ra tinh vi hơn xuất hiện ngày

càng nhiều. Ngày nay, cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến

mại xảy ra càng đa dạng và ảnh hưởng lớn đến lợi ích của Nhà nước, của

doanh nghiệp khác và đặc biệt là của người tiêu dùng, tuy Luật cạnh tranh

2004 đã được ban hành để nhằm hạn chế, khắc phục và xử lý các hành vi vi

phạm nhưng trên thực tế thì việc áp dụng, thực thi Luật cạnh tranh còn gặp

nhiều khó khăn, vướng mắc cần sớm được giải quyết để góp phần bảo vệ lợi

ích chung của xã hội và cũng để bình ổn môi trường cạnh tranh, tạo khung

pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ pháp luật

và luôn cạnh tranh công bằng. Chính vì những lẽ trên nên người viết đã chọn

đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến

mại” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của người viết khi nghiên cứu đề tài này là để tìm hiểu những

quy định về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh

không lành mạnh, về thẩm quyền cũng như chế tài xử lý đối với những hành

vi vi phạm. Từ đó, người viết xem xét những quy định của pháp luật về lĩnh

vực này có phù hợp với tình hình trên thực tế đang diễn ra hay không, đồng

thời những quy định này có mang lại hiệu quả hay không nhằm đưa ra một số

kiến nghị đề xuất và giải pháp để phần nào khắc phục những hạn chế còn tồn

tại cũng như củng cố vũng chắc thêm hành lang pháp lý.

3. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi đề tài người viết tập trung nghiên cứu những quy định

pháp luật về hoạt động khuyến mại theo Luật thương mại 2005 và Nghị định

37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết Luật thương mại

về hoạt động xúc tiến thương mại, Nghị định 68/2009/NĐ- CP ngày 06 tháng

7

08 năm 2009 sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP

và Nghị Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2005 quy định về

xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

Bên cạnh, người viết cũng nghiên cứu những quy định cụ thể về hành

vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, thẩm quyền xử lý và chế

tài đối với hành vi này như thế nào theo Luật cạnh tranh 2004, được Quốc hội

thông qua ngày 03/12/2004 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2005.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong đề tài của mình người viết đã sử dụng phương pháp phân tích, so

sánh, sau đó tổng hợp lại để đưa ra những khái niệm và quan điểm cơ bản

nhất về cạnh tranh không lành mạnh và khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh. Bên cạnh đó, người viết còn sử dụng phương pháp phân tích luật

viết để tìm hiểu những quy định cụ thể của pháp luật, từ đó có thể nêu lên

thực trạng và phương hướng giải quyết những mặt còn tồn tại của luật.

5. Bố cục của đề tài

Đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động

khuyến mại” bao gồm:

- Phần mở đầu.

- Phần nội dung: gồm 3 chương:

 Chương 1: Khái quát chung về cạnh tranh không lành mạnh và

khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

 Chương 2: Quy định của pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh

tranh không lành mạnh tại Việt Nam.

 Chương 3: Hướng giải quyết và một số đề xuất hoàn thiện pháp

luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

hiện nay.

- Phần kết luận

- Danh mục tài liệu tham khảo.

8

CHƯƠNG 1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH

1.1. Khái quát chung về khuyến mại

1.1.1. Khái niệm về khuyến mại

Ngày nay, trong thời đại kinh tế thị trường, nhất là khi Việt Nam trở

thành thành viên của WTO, thì cuộc chiến cạnh tranh ngày càng trở nên khốc

liệt hơn bao giờ hết. Nó đã trở thành vấn đề tất yếu của doanh nghiệp. Một

doanh nghiệp khi muốn sản phẩm của mình có thể tồn tại trên thị trường và

cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp khác, thì ngoài chất lượng sản

phẩm tốt, mẫu mã đẹp mắt, giá thành hợp lý thì doanh nghiệp còn cần phải

làm cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm của mình. Vì nếu sản phẩm có tốt

đến đâu đi nữa mà khách hàng không biết đến thì sản phẩm cũng không thể

tiêu thụ được. Để hàng hóa của mình có thể được người tiêu dùng biết đến thì

doanh nghiệp phải sử dụng mọi giải pháp để tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội bán

hàng và cung ứng dịch vụ. Một trong những hình thức xúc tiến thương mại

mà ta không thể không kể đến đó là hình thức khuyến mại. Vậy khuyến mại

là gì?

Nhằm liên hệ giữa thị trường và công chúng, thương nhân ngày càng

quan tâm hơn đến hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các hình thức

như khuyến mại, quảng cáo,…Trong đó, khuyến mại là một trong những

công cụ kinh doanh quan trọng thúc đẩy việc mua bán hàng hóa, dịch vụ.

Thuật ngữ “khuyến mại” trong tiếng Anh là Sales promotion, hoặc đôi

khi cũng được gọi là Promotion. Trong Tiếng Việt, “khuyến mại” được hiểu

là khuyến khích việc mua hàng, cách hiểu này xuất phát từ Hán Việt:

“khuyến” là khuyến khích, “mại” là mua. Ở các nước vận hành nền kinh tế thị

trường, thuật ngữ “khuyến mại” được dùng khá phổ biến. Tại Việt Nam, thuật

9

ngữ này hiện đã được sử dụng rộng rãi gắn liền với giới thương nhân và

người tiêu dùng. Hiện nay, khái niệm khuyến mại đã được tiếp cận dưới

nhiều góc độ khác nhau.

 Từ góc độ ngôn ngữ Tiếng Việt

Đại từ điển Tiếng Việt của trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam,

đưa ra định nghĩa về khuyến mại: “Khuyến mại là những hành động, tài liệu,

công cụ và kỹ thuật được dùng để bổ sung cho quảng cáo và chương trình tiếp

thị ( như giảm giá, quà tặng, sổ xố,..) nói chung”[11,928].

Từ điển từ mới Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học đã định nghĩa về

khuyến mại như sau: “Khuyến mại là khuyến khích việc mua hàng, thường

bằng biện pháp giảm giá hoặc kèm thêm quà tặng”[12,126].

Và một định nghĩa rất đơn giản về khuyến mại trong từ điển Việt Nam:

“Khuyến mại là khuyến khích mua hàng”[13,516].

 Từ góc độ kinh tế

Khuyến mại hành vi khuyến mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc

bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng

cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khuyến mại là một hình

thức của xúc tiến thương mại được doanh nghiệp sử dụng nhằm kích thích

khách hàng sử dụng hành hóa, dịch vụ của mình [14,257].

 Từ góc độ pháp luật

Theo Điều 88 Luật Thương mại 2005 quy định rằng: “Khuyến mại là

hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán

hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích

nhất định”. Cách thức thực hiện xúc tiến thương mại, tạo ra những điều kiện

thuận lợi để thúc đẩy mạnh mẽ việc bán hàng và cung ứng dịch vụ là dành

10

cho khách hàng những lợi ích nhất định. Khuyến mại mang nghĩa là "khuyến

khích mua hàng hoá, dịch vụ", do đó mục đích chính của khuyến mại là kích

cầu tiêu dùng, thúc đẩy người tiêu dùng mua và mua nhiều hơn các hàng hoá,

dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối. Ngoài ra, hoạt động

khuyến mại còn nhằm mục đích quảng bá thương hiệu sản phẩm và doanh

nghiệp.

So với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 khi

định nghĩa về khuyến mại đã chuẩn xác hơn có bổ sung thêm mục đích của

khuyến mại. Cụ thể, mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến việc

bán hàng mà còn xúc tiến việc mua hàng. Mặc dù khuyến mại để bán hàng là

hoạt động phổ biến của thương nhân, do thương nhân tiến hành như một nhu

cầu tất yếu của thương nhân để tăng cường khả năng cạnh tranh mở rộng thị

trường, thị phần, nhưng đối với thương nhân thương mại, việc khuyến mại để

mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu tất yếu cần thiết để hoàn

thành kế hoạch kinh doanh.

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động khuyến mại

Khuyến mại là công cụ kích thích bán hàng tốt nhất vì nó đánh vào thị

hiếu người tiêu dùng và tác động trực tiếp tới lợi ích của họ, do đó kích thích

mua sắm làm tăng số lượng hàng bán, tăng các dịch vụ được cung ứng. Như

vậy, khuyến mại là việc sử dụng hàng loạt các biện pháp tác động đến lợi ích

vật chất của khách hàng nhằm kích thích sự tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Từ

định nghĩa của khuyến mại theo Luật Thương mại 2005, cho thấy khuyến mại

bao gồm các đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân: Để

tăng cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực

hiện việc khuyến mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại của thương

nhân khác để làm kinh doanh. Quan hệ dịch vụ này được hình thành trên cơ

11

sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và

thương nhân kinh doanh dịch vụ.

Theo Luật thương mại năm 2005 thì chủ thể được phép tổ chức khuyến

mại là các thương nhân thuộc một trong các trường hợp sau:

- Thương nhân trực tiếp khuyến mại hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh

doanh.

- Thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến mại

cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác theo thỏa thuận với thương

nhân đó.

Và tại Điều 91, Luật thương mại năm 2005 cũng cụ thể hơn về việc chi

nhánh và văn phòng đại diện của doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động

khuyến mại, cụ thể như sau:

- Thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân Việt Nam, chi

nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền tự tổ chức khuyến

mại hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc

khuyến mại cho mình.

- Văn phòng đại diện của thương nhân không được khuyến mại hoặc

thuê thương nhân khác thực hiện khuyến mại tại Việt Nam cho thương nhân

mà mình đại diện.

Thương nhân được phép tổ chức khuyến mại ở đây là thương nhân

được quy định tại khoản 1, Điều 6, Luật thương mại năm 2005 bao gồm “tổ

chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một

cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.

Thứ hai, cách thức khuyến mại: Là dành cho khách hàng những lợi ích

nhất định, tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng

12

thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tùy

thuộc vào kinh phí dành cho đợt khuyến mại…mà lợi ích thương nhân dành

cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm

giá, hoặc là lợi ích phi vật chất khác.

Thứ ba, mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc bán hàng và cung

ứng dịch vụ. Thương nhân có thể thực hiện việc khuyến mại nhằm tác động

trực tiếp đối với người tiêu dùng hoặc với các trung gian phân phối. Khuyến

mại cho người tiêu dùng để lôi kéo sức mua, tiếp thị một sản phẩm mới, kích

thích tiêu thụ sản phẩm đã có trên thị trường, làm cho khách hàng đến các cửa

hàng bán lẻ nhiều hơn nhằm tăng thị phần của thương nhân trên thị trường.

Khuyến mại cho các trung gian phân phối nhằm kích thích sự chú ý của trung

gian phân phối đối với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình để đặt hàng

và tích cực chào hàng cho mình và cũng để tăng cường quan hệ đối tác với

trung gian phân phối.

1.1.3. Các hình thức khuyến mại

Bằng nhiều hình thức khác nhau, khuyến mại giúp cho người tiêu dùng

biết đến, sử dụng sản phẩm và vì thế, đồng thời doanh thu của doanh nghiệp

cũng tăng lên. Theo Điều 92 Luật thương mại 2005 thì thương nhân sẽ được

phép tổ chức các hình thức khuyến mại sau:

 Đưa hàng mẫu cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng

thử không phải trả tiền:

Với hình thức này thì hàng mẫu đưa cho khách hàng, dịch vụ mẫu cung

ứng cho khách hàng dùng thử phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp

pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường. Việc áp

dụng hình thức khuyến mại này nhằm mục đích thăm dò thị trường cũng như

bước đầu làm quen với sản phẩm và người tiêu dùng có điều kiện dùng thử để

kiểm tra chất lượng hàng hóa, dịch vụ có như nhà sản xuất đã cung cấp hay

13

không. Hình thức đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu là một hình thức

thuyết phục khách hàng khá hữu hiệu bằng cách họ là người trực tiếp kiểm

định chất lượng hàng hóa, dịch vụ để đưa ra quyết định có sử dụng sản phẩm

đó hay không, nếu khách hàng chấp nhận dùng sản phẩm thử và đánh giá tốt

thì việc họ chấp nhận tiêu thụ hàng hóa trong tương lai sẽ rất dễ dàng, khi đó

hàng hóa sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Khi nhận hàng mẫu, dịch vụ

mẫu, khách hàng không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào.

Thương nhân thực hiện khuyến mãi bằng hình thức đưa hàng mẫu có thể cung

cấp hàng mẫu theo yêu cầu của khách hàng, được phát tại nơi bán hàng hoặc

phát tận tay người tiêu dùng. Để đạt được kết quả tốt nhất thì hàng hóa mẫu

phải đến được đúng đối tượng mà nhà sản xuất nhắm tới và thương nhân phải

chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của mình.

 Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền:

Thương nhân được dùng hàng hóa, dịch vụ đang kinh doanh hoặc hàng

hóa, dịch vụ khác để tặng, cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Đối với các sản

phẩm, hàng hóa có kèm quà tặng hay dịch vụ hậu mãi sẽ thu hút được khách

hàng nhiều hơn những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại trên thị trường

không áp dụng hình thức khuyến mại tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ không

thu tiền.

 Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng,

cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã

đăng ký hoặc thông báo:

Đây là hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ giảm giá theo tỉ lệ phần

trăm hoặc theo một giá trị nhất định. Hình thức khuyến mại giảm giá có tác

dụng thúc đẩy sự tiêu thụ đối với một mặt hàng có sức tiêu thụ chậm, doanh

nghiệp sản xuất, cung ứng dịch vụ sẽ dùng một phần lợi nhuận mà bán giảm

giá để tạo sự mới mẻ đối với mặt hàng này nhằm thu hút khách hàng trở lại.

14

Đây là hình thức hấp dẫn khách hàng vì nó đánh vào tâm lý tiêu thụ của họ.

Khách hàng sẽ nhận thấy sự chênh lệch về giá cả trước và trong thời gian

khuyến mại để có sự so sánh và do đó sức mua đối với mặt hàng đó sẽ dễ

dàng tăng lên.

 Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng,

phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích

nhất định:

Đây là hình thức thường được sử dụng trong kinh doanh thương mại

khi khách hàng mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ với một số lượng nhất định sẽ

được phát phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất,

cung ứng dịch vụ phát hành nhằm khuyến khích khách hàng tiêu thụ hàng

hóa, dịch vụ một cách thường xuyên với số lượng lớn.

 Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách

hàng để chọn người trao thưởng theo tỉ lệ và giải thưởng đã công bố:

Thông qua chương trình này doanh nghiệp sẽ biết được mức độ quan

tâm của khách hàng đối với sản phẩm của mình ra sao để từ đó có chiến lược

xúc tiến thương mại hợp lý. Đồng thời, cũng giúp người tiêu dùng hiểu biết rõ

hơn về nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm mà mình đang sử dụng.

 Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các

chương trình mang tính may rủi mà việc tham dự chương trình gắn liền

với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may

mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố:

Đây là hình thức khuyến mại dựa trên sự may mắn của khách hàng, các

doanh nghiệp đánh vào tâm lý muốn thử vận may của người tiêu dùng thông

qua các hình thức như: bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm phiếu tham gia bốc

thăm trúng thưởng, xổ số để trao giải thưởng…Giải thưởng càng lớn thì sự

15

hấp dẫn càng cao, việc tiêu thụ sản phẩm, sử dụng dịch vụ cũng đạt được hiệu

quả cao hơn.

 Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó

việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua

hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thực hiện dưới hình

thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các

hình thức khác:

Hình thức này được các doanh nghiệp sử dụng nhằm lôi kéo một lượng

khách hàng thường xuyên, thân quen. Thông qua việc mua sắm hàng hóa, sử

dụng dịch vụ với một số lượng, giá trị nào đó sẽ được cấp thẻ khách hàng hay

phiếu ghi nhận tích lũy điểm là khách hàng thường xuyên, khách hàng thân

quen và sẽ được hưởng những lợi ích nhất định như: đổi quà tặng hấp dẫn, ưu

tiên mua hàng, giảm giá hàng hóa, sử dụng dịch vụ chăm sóc khách hàng

miễn phí…

 Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa,

nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại:

Thông qua việc tổ chức các sự kiện đặc biệt, doanh nghiệp sẽ quảng

cáo, giới thiệu sản phẩm của mình giống như lời cám ơn đối với khách hàng

đã sử dụng sản phẩm và khuyến khích họ tiếp tục sử dụng sản phẩm trong

tương lai.

 Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý

Nhà nước về thương mại chấp nhận:

Bằng những hình thức khuyến mại nêu trên doanh nghiệp mong muốn

sẽ thu hút và làm hài lòng khách hàng, từ đó sẽ khuyến khích họ sử dụng

hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp nhiều hơn. Ngoài ra, các doanh nghiệp

có thể sử dụng nhiều hình thức khuyến mại khác nhau nếu như được các cơ

16

quan quản lý Nhà nước về thương mại chấp nhận. Tuy nhiên, khi thực hiện

các hình thức khuyến mại, doanh nghiệp cần phải hạn chế tình trạng gian lận,

lừa dối hay lợi dụng để cạnh tranh không lành mạnh nhằm loại bỏ đối thủ của

mình. Cạnh tranh lành mạnh sẽ là động lực phát triển tốt nhất, là môi trường

trong sạch và đầy năng động để doanh nghiệp khẳng định vai trò của mình

trong nền kinh tế hiện đại.

1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động khuyến mại

Với vị trí là một trong những lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế,

khuyến mại giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của thương

nhân. Đặc biệt là trong một thị trường rộng mở và cạnh tranh.

Đối với thương nhân, khuyến mại được dùng nhằm thúc đẩy việc mua

bán trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Cùng với quảng cáo, khuyến

mại luôn giữ vai trò là một trong những công cụ đắc lực và hiểu quả nhất để

phát triển thương mại. Nếu một thương nhân không thể chuyển tải các thông

tin về hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng một cách có hiệu quả và không thể

thu được sực quan tâm, chú ý của mình trong một thị trường đa dạng hàng,

hóa dịch vụ cùng loại thì thương nhân đó sẽ không có khả năng khai thác

chiếm lĩnh được thị trường trong thời đại thông tin bùn nổ hiện nay. Trong

thực tế, khuyến mại là hoạt động luôn được ưu tiên trong chiến lược kinh

doanh của các thương nhân. Đó cũng chính là xu thế phổ biến hiện nay trong

cộng đồng các nhà kinh doanh bất kể tính đặc thù của ngành nghề, lĩnh vực

kinh doanh khác nhau.

Xu hướng hoạt động của các thương nhân vừa và nhỏ chưa có thị phần

hay thị phần nhỏ chưa ổn định thì định hướng khuyến mại theo thị trường đặc

thù và theo nhóm khách hàng tiềm năng để tập trung chiếm lĩnh nền móng

cho hoạt động kinh doanh lâu dài. Kèm với việc tung ra các sản phẩm, dịch

vụ mới vào thị trường bao giời cũng là các chương trình khuyến mại được

17

thương nhân thiết kế theo khả tài chính và mục đích kinh doanh của mình.

Thật khó tìm ra một sản phẩm, dịch vụ mới nào được đưa ra thị trường mà

không kèm theo một chiến dịch khuyến mại tương ứng. Còn các thương nhân

đã có thi phần ổn định thì bên cạnh việc duy trì hoạt động khuyến mại để giữ

vững thị phần, để khuyến khích khách hàng trung thành lại phải tiếp tục tính

tới việc sử dụng các công cụ khuyến mại để phát triển thi trường mới bằng

cách thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của số đông. Các thương nhân cỡ lớn luôn

duy trì hoạt động khuyến mại ở mức độ trung bình và cao tùy theo thời điểm

của năm kinh doanh. Có những thương nhân còn tổ chức thực hiện khuyến

mại quanh năm suốt tháng không ngừng nghỉ cho các sản phẩm của mình, các

chương trình khuyến mại liên tục tới khách hàng.

Đối với khách hàng, tương ứng với hoạt động khuyến mại của thương

nhân, họ tiếp cận khuyến mại để tìm kiếm các giá trị tăng thêm thông qua

việc mua bán hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.

Thông qua những hoạt động tích cực của khuyến mại đối với các chủ thể có

liên quan bao gồm thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại, thương nhân

khác và khách hàng trong nền kinh tế, ta có thể khái quát vai trò của khuyến

mại như sau:

 Qua hoạt động khuyến mại thương nhân có thông tin tốt về

khách hàng và hoạt động khuyến mại là cầu nối giữa khách hàng và

thương nhân.”

Thương nhân chủ động thực hiện khuyến mại sẽ thu được nguồn thông

tin đầu tiên từ khách hàng là những người trực tiếp liên quan tới hoạt động

khuyến mại bao gồm những ý kiến, thái độ, phản ứng của họ đối với sản

phẩm, dịch vụ kinh doanh và đối với tên tuổi, uy tín của thương nhân. Thông

qua khuyến mại, thương nhân cũng có thông tin từ những khách hàng tiềm

năng, đó là những người có khả năng sẽ tiêu thụ hàng hóa, sử dụng dịch vụ.

Tuy không có liên quan trực tiếp tới hoạt động khuyến mại nhưng họ gián

18

tiếp được tiếp nhận thông tin về hoạt động khuyến mại bao gồm ý kiến, thái

độ của họ đối với hoạt động khuyến mại và bản thân thương đó. Việc tìm

hiểu, nghiên cứu khách hàng thông qua hoạt động khuyến mại không chỉ

dừng lại ở chổ sẽ tiêu thụ được sản phẩm của thương nhân mà quan trọng hơn

nữa là phải đảm bảo song song việc giữ được khách hàng hiện tại và lôi kéo

khách hàng tiềm năng.

Kết quả thu thập thông tin từ khách hàng qua đợt khuyến mại, thương

nhân sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu điểm, nhược điểm, vị trí hàng hóa, dịch

vụ của thương nhân, hành vi của khách hàng nói riêng và trên thị trường nói

chung. Đây là cơ sở để doanh nghiệp ra quyết định phù hợp và kịp thời, bám

sát yêu cầu và đòi hỏi của thị trường.

 Hoạt động khuyến mại giúp thương nhân thu nhận được

thông tin từ đối thủ cạnh tranh.”

Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa những người tham gia hoạt động

thương mại, đặc biệt là những thương nhân hoạt động thương mại trong cùng

lĩnh vực kinh doanh là tất yếu khách quan. Do đó, hoạt động khuyến mại của

mỗi thương nhân đều có thể tác động đến chiến lược kinh doanh và hoạt động

thương mại thực tế của thương nhân khác. Vì vậy, hoạt động khuyến mại

phần nào thể hiện những thông tin về đối thủ cạnh tranh trên cả hai phương

diện xem xét: đối thủ cạnh tranh của thương nhân chủ động thực hiện khuyến

mại hoặc chính thương nhân này với tư cách là đối thủ cạnh tranh của thương

nhân khác.

Mỗi thương nhân cần thu thập các số liệu quan trọng mới nhất về

nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh mà trong đó năng lực tiến hành khuyến mại

và việc tiến hành hoạt động khuyến mại trên thực tế là yếu tố cấu thành vô

cùng quan trọng. Nắm được nguồn tư liệu quý giá đó, thương nhân có thể

quyết định thách thức đối thủ nào trên thị trường. Cùng với nguồn thông tin

19

tốt từ khách hàng, thương nhân sẽ có hướng đầu tư công nghệ hiện đại, đổi

mới kinh doanh hay tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh kinh doanh hiện có

của mình.

 Hoạt động khuyến mại thúc đẩy việc bán hàng hóa, cung ứng

dịch vụ trở nên thuận lợi và năng động hơn; đua hàng hóa, dịch vụ vào

kênh phân phối một cách hợp lý và kích thích tính hiệu quả của lực

lượng bán hàng.”

Tính thuận lợi ở đây được thể hiện thông qua việc khách hàng được

trực tiếp tiếp cận hàng hóa, dịch vụ (ví dụ:mời dùng thử sản phẩm, hưởng

dịch vụ miễn phí) hoặc được tạo điều kiện thông qua hàng hóa, dịch vụ khác

mà biết tới tên tuổi của thương nhân cùng mặt, hàng dịch vụ mà thương nhân

kinh doanh (ví dụ: người tiêu dùng đi mua sắm tại siêu thị được tặng lịch treo

tường trên đó có in tên, địa chỉ của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mà

doanh nghiệp đó bán hay cung ứng). Ngoài ra qua những kênh thông tin như

báo chí, mạng Internet, đài phát thanh và truyền hình hay truyền miệng giữa

các khách hàng với nhau cũng góp phần truyền bá hình ảnh về thương nhân

và hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Như vậy, tính thuận lợi được thể hiện

ở sự xây dựng nền tảng cơ sở nhận biết thương nhân cùng với hàng hóa, dịch

vụ. Kết quả thu thập thông tin từ khách hàng qua đợt khuyến mại, thương

nhân sẽ có điều kiện nhìn nhận về ưu điểm, nhược điểm, vị trí hàng hóa, dịch

vụ của thương nhân, hành vi của khách hàng nói riêng và trên thị trường nói

chung. Đây là cơ sở để doanh nghiệp ra quyết định phù hợp và kịp thời, bám

sát yêu cầu và đòi hỏi của thị trường.

 Hoạt động khuyến mại giúp thương nhân thu nhận được

thông tin từ đối thủ cạnh tranh.”

Trên thị trường, sự cạnh tranh giữa những người tham gia hoạt động

thương mại, đặc biệt là những thương nhân hoạt động thương mại trong cùng

20

lĩnh vực kinh doanh là tất yếu khách quan. Do đó, hoạt động khuyến mại của

mỗi thương nhân đều có thể tác động đến chiến lược kinh doanh và hoạt động

thương mại thực tế của thương nhân khác. Vì vậy, hoạt động khuyến mại

phần nào thể hiện những thông tin về đối thủ cạnh tranh trên cả hai phương

diện xem xét: đối thủ cạnh tranh của thương nhân chủ động thực hiện khuyến

mại hoặc chính thương nhân này với tư cách là đối thủ cạnh tranh của thương

nhân khác.

Mỗi thương nhân cần thu thập các số liệu quan trọng mới nhất về

nghiệp vụ của đối thủ cạnh tranh mà trong đó năng lực tiến hành khuyến mại

và việc tiến hành hoạt động khuyến mại trên thực tế là yếu tố cấu thành vô

cùng quan trọng. Nắm được nguồn tư liệu quý giá đó, thương nhân có thể

quyết định thách thức đối thủ nào trên thị trường. Cùng với nguồn thông tin

tốt từ khách hàng, thương nhân sẽ có hướng đầu tư công nghệ hiện đại, đổi

mới kinh doanh hay tiếp tục duy trì và phát huy thế mạnh kinh doanh hiện có

của mình.

 Hoạt động khuyến mại thúc đẩy việc bán hàng hóa, cung ứng

dịch vụ trở nên thuận lợi và năng động hơn; đua hàng hóa, dịch vụ vào

kênh phân phối một cách hợp lý và kích thích tính hiệu quả của lực

lượng bán hàng.”

Tính thuận lợi ở đây được thể hiện thông qua việc khách hàng được

trực tiếp tiếp cận hàng hóa, dịch vụ (ví dụ:mời dùng thử sản phẩm, hưởng

dịch vụ miễn phí) hoặc được tạo điều kiện thông qua hàng hóa, dịch vụ khác

mà biết tới tên tuổi của thương nhân cùng mặt, hàng dịch vụ mà thương nhân

kinh doanh (ví dụ: người tiêu dùng đi mua sắm tại siêu thị được tặng lịch treo

tường trên đó có in tên, địa chỉ của doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ mà

doanh nghiệp đó bán hay cung ứng). Ngoài ra qua những kênh thông tin như

báo chí, mạng Internet, đài phát thanh và truyền hình hay truyền miệng giữa

các khách hàng với nhau cũng góp phần truyền bá hình ảnh về thương nhân

21

và hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Như vậy, tính thuận lợi được thể hiện

ở sự xây dựng nền tảng cơ sở nhận biết thương nhân cùng với hàng hóa, dịch

vụ kinh doanh và quá trình xây dựng niềm tin, sự hài lòng của khách hàng

thông qua thử nghiệm thực tế.

Tính năng động của quá trình tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ một phần được

tạo bởi yếu tố chủ động nắm bắt thời cơ quyết định vào thời điểm nào sẽ tiến

hành hoạt động khuyến mại và với hình thức, nội dung cụ thể ra sao, một

phần được tạo bởi yếu tố chủ động tiếp cận với khách hàng trước một bước

chứ không đơn thuần để khách hàng phải tự tìm hiểu và quyết định chọn lựa

hàng hóa, dịch vụ cần thiết. Sự chủ động trong suy nghĩ và hành vi coi khách

hàng là trung tâm, là hạt nhân để mọi hoạt động của thương nhân đều xoay

quanh đã thể hiện tính năng động trong tiếp cận và tìm hiểu thị trường của

thương nhân. Qua đó, hàng hóa và dịch vụ được đưa vào các kênh phân phối

một cách hợp lý song song với việc phát huy sức mạnh, vai trò của lực lượng

bán hàng tham gia một cách tích cực vào quá trình cung ứng hàng hóa, dịch

vụ góp phần nâng cao cơ hội bán hàng và doanh thu của thương nhân.

 Khuyến mại là công cụ hữu hiệu trong công việc chiếm lĩnh

thương mại và tăng tính cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của

thương nhân trên thị trường.

Thông qua hoạt động khuyến mại, các thương nhân tiếp cận được với

thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của thương nhân, cung cấp cho

khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết,

những thuận lợi và ưu đãi nhất định để tiếp tục giữ khách hàng hiện có hoặc

chinh phục thêm nhiều khách hàng mới hoặc thậm chí lôi kéo ngay cả khách

hàng của đối thủ cạnh tranh. Hình ảnh đẹp của doanh nghiệp cùng thông tin

đầy đủ, hiệu quả về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh khiến lợi thế cạnh tranh của

thương nhân không ngừng tăng lên, điều đó tăng cơ hội mua bán hàng hóa,

cung ứng dịch vụ tăng khả năng chiếm lĩnh thương mại của thương nhân.

22

 Bằng hoạt động khuyến mại, thương nhân góp phần thay đổi

cơ cấu tiêu dùng, hướng dẫn thị hiếu khách hàng."

Thương nhân đưa tới khách hàng thêm sự lựa chọn, cơ hội tiếp cận với

hàng hóa, dịch vụ. Điều này góp phần tạo nên đường dẫn cho khách hàng

hướng tới hàng hóa, dịch vụ có sự tham gia chủ động tích cực của thương

nhân thể hiện từ trong chiến lượt đến tổ chức thực hiện trên thực tế. Thị hiếu

khách hàng cùng với cơ cấu tiêu dùng phần nào tác động tới hoạt động

khuyến mại của thương nhân như kết quả tất yếu. Như vậy, hoạt động khuyến

mại có thể dẫn tới việc thay đổi cơ cấu tiêu dùng, điều chỉnh thị hiếu khách

hàng theo hướng có lợi cho thương nhân (tiếp thị được hình ảnh của mình,

bán và cung ứng được nhiều hơn hàng hóa, dịch vụ) và thỏa mãn nhu cầu của

khách hàng (tiêu dùng được hàng hóa, dịch vụ đạt yêu cầu về chất lượng và

giá cả phù hợp với túi tiền).

 Hoạt động thương mại là hoạt động xúc tiến mang lại hiệu

quả cao đặc biệt cho hoạt động kinh doanh của thương nhân trong một

số trường hợp nhất định.”

Thông thường hoạt động khuyến mại được sử dụng cho hàng hóa, dịch

vụ mới tung ra thị trường có áp lực cạnh tranh cao, đặt biệt là sản phẩm có

đơn giá thấp nhưng lại có khả năng đem lại doanh thu cao. Một lợi thế nữa

của hoạt động khuyến mại là có thể áp dụng cho cả khách hàng là người tiêu

dùng hay khách hàng là trung gian phân phối. Sử dụng hoạt động khuyến mại

sẽ đạt được mục đích tiêu thụ cao trong một thời gian ngắn vì thông qua kỹ

thuật khuyến mại, có thêm nhiều người tiêu dùng thử mới bị thu hút và kích

thích những người mua trung thành hay những người thỉnh thoảng mới Illlld.

Tuy nhiên, mức tiêu thụ tăng nhanh đó chi tạm thời và sẽ giảm dần sau thời

gian khuyến mại đó. Chính vì vậy, thương nhân phải biết cân đối, quản lý và

điều chình mức đầu tư vào hoạt động khuyến mại sao cho vừa phù hợp với

23

điều kiện thực tế của thương nhân, tuân thủ pháp luật và thu được hiểu quả

lớn nhất.

1.2. Khái quát chung về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

1.2.1. Khái niệm về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh không được

định nghĩa cụ thể như khái niệm khuyến mại. Điều 46 Luật cạnh tranh đã liệt

kê các hoạt động khuyến mại bị cấm. Đây là những hoạt động khuyến mại

tiêu biểu, phổ biến mà Luật cấm các doanh nghiệp thực hiện, bao gồm:

“1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;

2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch

vụ để lừa dối khách hàng;

3. Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ

chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;

4. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách

hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng

đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình;

5. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.”

Tuy nhiên từ định nghĩa về khuyến mại trong Luật thương mại năm

2005 và khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh tranh năm

2004 thì ta có thể hiểu hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành

mạnh như sau:

Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động xúc tiến

thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung

ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định, nhưng

những hành vi này trái với các chuẩn mực đạo đức thông thường gây thiệt

24

hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác

hoặc người tiêu dùng. Hay chính là doanh nghiệp vì muốn xúc tiến việc mua

bán hàng hóa, dịch vụ để cạnh tranh với doanh nghiệp khác nên đã dùng

những hành vi khuyến mại nhưng không lành mạnh để cạnh tranh và gây ra

thiệt hại. Không thể phủ nhận được rằng khuyến mại là biện pháp thu hút

khách hàng có hiệu quả nhất trong số những hoạt động xúc tiến thương mại,

và đó cũng là quyền tự do trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng khi

doanh nghiệp vượt quá sự tự do đó thì sẽ dẫn đến sự cạnh tranh không lành

mạnh. Trong khi môi trường kinh doanh lại rất cần sự cạnh tranh lành mạnh và

đúng mực. Vì vậy, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh đã

được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể tại Điều 46, Luật cạnh tranh năm

2004 nhằm có cơ chế pháp lý để điều chỉnh hành vi khuyến mại nhằm cạnh

tranh không lành mạnh để tạo môi trường kinh doanh trong sạch và lành mạnh

thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế của quốc gia, khu vực và toàn thế giới.

1.2.2. Đặc trưng pháp lý của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Về cơ bản, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng có

những đặc điểm chung của hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Thứ nhất, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi

cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện, nhằm mục

đích lợi nhuận.

Chủ thể kinh doanh trên thị trường chủ yếu là các doanh nghiệp theo

nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm

lợi nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp . Trên phạm vi rộng, các

quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành vi

của các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân

hành nghề tự do ( bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư,…).

Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của mỗi doanh

nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh

25

nghiệp khác. Để thu được lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với

các đối thủ hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực nhằm giành giật, thu hút

khách hàng về phía mình bằng các hành vi như tổ chức khuyến mại mà gian

dối về giải thưởng, khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng

hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng, tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử

nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác

sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình,... Do

đó, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính

đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh

tranh không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của

đời sống kinh tế.

Thứ hai, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là

hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo

đức kinh doanh.

Các thông lệ tốt ( tập quán kinh doanh) là các biện pháp dự phòng để

áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy định về một hành vi cụ thể

nhưng khi hành vi này được thực hiện đã xâm hại đến quyền cạnh tranh của

các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, quyền lợi hợp pháp của người tiêu

dùng. Bên vi phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mặc dù biết hoặc buộc phải

biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với hoạt động kinh doanh của mình

nhưng vẫn cố tình vi phạm. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là

biện pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho họ, bao gồm lợi

ích vật chất như tiền, hàng hóa hay lợi ích phi vật chất nhưng lại gây tổn hại đến

hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh khác và lợi ích của người tiêu dùng

để thu được nhiều lợi nhuận. Điều này đã đi ngược lại các thông lệ tốt, các

nguyên tắc đạo đức kinh doanh. Đây là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt khuyến

mại với các hình thức xúc tiến thương mại khác. Theo đó, dấu hiệu này đi kèm

với các đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh tạo nên điểm khác

biệt với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.

26

Thứ ba, hành vi khuyến mại với mục đích cạnh tranh bị kết luận là

không lành mạnh và cần phải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng

gây thiệt hại cho các đối tượng khác.

Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho

các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến

trật tự quản lí cạnh tranh của nhà nước mà không làm cản trở, sai lệch hay

giảm tình trạng cạnh tranh của thị trường như hành vi hạn chế cạnh tranh.

Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia cũng như quan điểm của các cơ quan

xử lí sẽ có các cách thức nhìn nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh

tranh không lành mạnh.

1.2.3. Tác động của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh

Khi một sản phẩm của doanh nghiệp được sáng tạo, được làm ra mà

không được người tiêu dùng đón nhận thì đó là quả là điều mà không một

doanh nghiệp nào mong muốn. Cho nên để duy trì được sự tồn tại của mình

trên thị trường, để hàng hóa của mình bán được nhiều và lợi nhuận cao thì

doanh nghiệp sẽ không ngần ngại sử dụng mọi cách, mọi biện pháp để đạt

được mục đích cuối cùng của mình. Nhưng trên thương trường thành công

của doanh nghiệp này sẽ là thất bại của doanh nghiệp khác. Họ luôn tìm cách

để hạ gục đối thủ cạnh tranh của mình nhưng người chịu sự thiệt hại đầu tiên

lại là người tiêu dùng. Khi có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh thì người tiêu dùng sẽ bị tác động trực tiếp. Khuyến mại mà mang

tính chất gian dối giải thưởng, không trung thực nhằm lừa dối khách hàng,

hay có sự phân biệt đối xử giữa các khách hàng với nhau thì rõ ràng lợi ích

của người tiêu dùng sẽ bị xâm hại trực tiếp. Do tâm lý và thói quen nên họ dễ

dàng mua những sản phẩm với giá rẻ hay có tặng phẩm nhưng thật sự họ lại

bị doanh nghiệp đó lừa dối vì lợi nhuận riêng. Người tiêu dùng là mục đích

lợi nhuận mà doanh nghiệp hướng đến nhưng cũng là đối tượng bị doanh

27

nghiệp gây tác động bất lợi nhiều nhất. Cho nên, việc ngăn cấm các hành vi

sai trái của doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng là điều rất cần thiết và

phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Bên cạnh đó, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn ảnh

hưởng tới sự công bằng trong kinh doanh, gây thiệt hại cho doanh nghiệp

khác. Nếu một doanh nghiệp làm ăn chân chính, sản phẩm làm ra có chất

lượng tốt nhưng do tiềm lực về kinh tế không đủ mạnh nên không thể mở

những đợt khuyến mại rầm rộ để thu hút khách hàng mà chỉ nhờ vào số lượng

khách hàng thân quen, trong khi những doanh nghiệp tuy có sản phẩm không

tốt, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường nhưng với tiềm lực kinh tế

mạnh mẽ đã tiến hành những hoạt động khuyến mại với thông tin sản phẩm

thật tốt và giá ưu đãi để lừa dối khách hàng, với tâm lý thích khuyến mại và

giá rẻ người tiêu dùng sẵn sàng chuyển sang dùng sản phẩm đó mà không cần

quan tâm đến chất lượng của nó. Như vậy, những doanh nghiệp yếu thế sẽ rất

dễ lâm vào tình trạng phá sản, làm ảnh hưởng tới sự phát triển ổn định của

nền kinh tế, vì những doanh nghiệp đầy nhiệt huyết nhưng không mạnh về tài

chính không còn cơ hội để tạo ra sản phẩm trên thị trường nữa. Bởi vậy, pháp

luật đã cố gắng để điều chỉnh những hành vi sai trái, không lành mạnh của

các doanh nghiệp để tạo sự bình đẳng và ổn định trong kinh doanh.

28

CHƯƠNG 2.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH

TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM

2.1. Các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo

Luật cạnh tranh 2004

Lợi nhuận luôn luôn là mục tiêu cuối cùng mà các nhà kinh doanh

muốn đạt đến. Tuy nhiên, cạnh tranh như thế nào là lành mạnh và chân chính

mà vẫn đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp thì đòi hỏi các nhà kinh

doanh phải đủ bản lĩnh, năng lực và đạo đức thì mới có thể làm tốt được.

Khuyến mại luôn là hình thức thu hút khách hàng đạt hiệu quả cao. Về hình

thức, chủ thể và cách thức tổ chức hoạt động khuyến mại đã được Luật

thương mại 2005 điều chỉnh cụ thể, còn khi hoạt động khuyến mại này xuất

hiện dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh thì Luật cạnh tranh sẽ điều chỉnh

vấn đề này. Do hiện nay khuyến mại là yếu tố có quyết định lớn đến doanh

thu bán hàng và hoạt động của một doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp luôn

tìm cách thu hút sự chú ý của khách hàng về phía mình, cho dù đó là những

hành vi không lành mạnh. Bởi vậy, tại Điều 46, Luật cạnh tranh 2004 đã liệt

kê các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Đó là những

hoạt động luật cấm doanh nghiệp làm nhằm để bảo vệ lợi ích của các doanh

nghiệp khác, của Nhà nước và đặc biệt là người tiêu dùng, vì người tiêu dùng

luôn là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất và trực tiếp nhất khi các doanh

nghiệp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Luật cạnh tranh cấm các

doanh nghiệp thực hiện các hành vi khuyến mại không lành mạnh sau:

2.1.1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng

Làm sao để tự khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, để

có thể tồn tại và phát triển luôn là câu hỏi băn khoăn, trăn trở của các doanh

nghiệp, nhất là với thời kỳ nền kinh tế đang có sự cạnh tranh khốc liệt như

29

hiện nay. Chính vì vậy để giữ vững vị thế của mình doanh nghiệp không ngần

ngại dùng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hình thức phổ biến đó

là quảng cáo và khuyến mại.

Hiện nay, với sự xuất hiện của hàng loạt các chủng loại hàng hóa và

dịch vụ rất đa dạng và phong phú nên việc lựa chọn của người tiêu dùng cũng

có những thuận lợi và khó khăn riêng. Thuận lợi đó là người tiêu dùng có cơ

hội tiếp cận với nhiều loại sản phẩm khác nhau, tùy chất lượng mà giá cả sẽ

phù hợp với nhu cầu và thu nhập của họ. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của

người tiêu dùng đó là khi đã chọn lựa được sản phẩm phù hợp với thu nhập

thì không biết phải sử dụng sản phẩm nào trong hàng loạt những sản phẩm

được bày bán trên thị trường. Những sản phẩm có chất lượng và giá cả tương

đồng nhau, và đôi khi mẫu mã cũng tương tự nhau. Lúc này, người tiêu dùng

sẽ chỉ phải tin vào những công ty, doanh nghiệp đã có uy tín trên thị trường

và được nhiều khách hàng ủng hộ. Tuy nhiên, với thói quen là thích mua hàng

khuyến mại vì giá rẻ mà đôi khi còn có cơ hội nhận được những giá trị vật

chất nhất định. Ví dụ như: rút thăm trúng thưởng, cào trúng thưởng, tặng

phiếu mua hàng, phiếu giảm giá…, thì đôi khi người tiêu dùng lại là nạn nhân

bị chính các doanh nghiệp lợi dụng để làm lợi riêng cho mình. Việc tổ chức

khuyến mại mà gian dối về giải thưởng được các doanh nghiệp sử dụng để

thu hút khách hàng mua sản phẩm của mình, khi mua khách hàng sẽ có cơ hội

nhận được những giải thưởng đã công bố trong chương trình khuyến mại.

Đồng thời cũng để lấn áp các doanh nghiệp khác, giành ưu thế thị trường về

phía mình. Doanh nghiệp lợi dụng lòng tin của khách hàng dành cho mình để

lừa dối họ mà ít khi nào họ biết được, khi không trúng thưởng trong chương

trình khuyến mại thì đa số khách hàng cho rằng mình đã không may mắn chứ

không biết rằng trên thực tế giải thưởng đó không hề có, hoặc nếu có thì cũng

không đúng với những gì mà doanh nghiệp đã công bố ban đầu trong chương

trình khuyến mại.

30

Có nhiều hành vi gian dối khác nhau về phần thưởng đã được các

doanh nghiệp thực hiện trong hoạt động khuyến mại. Khuyến mại gian dối về

giải thưởng thể hiện thông qua trường hợp đưa ra giá trị giải thưởng khuyến

mại rất lớn nhưng thực hiện việc trao giải thưởng thì rất nhỏ. Điển hình như

chương trình khuyến mại của một công ty bia "bật nắp chai trúng thưởng”

diễn ra cách đây không lâu. Trong chương trình này, cơ cấu giải thưởng gồm

200.000 giải thưởng, trong đó có 6 xe ôtô BMW, không ai có thể chắc chắn

rằng có đủ 200.000 giải thưởng với 6 nắp chai in hình xe BMW trong số sản

phẩm được bán trong đợt khuyến mại. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Phó Cục

trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại), trong tổng số 215 tỉ đồng

giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà các thương nhân đăng ký thì

tổng số giá trị giải thưởng đã trao rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng, tương đương 3%

tổng số tiền đã đăng ký cho chương trình khuyến mại. Như vậy, giá trị thật

mà các doanh nghiệp trao cho khách hàng nhỏ hơn rất nhiều những con số

được nêu ra trong chương trình khuyến mại. Khách hàng cũng không nhận

được nhiều những phần thưởng có giá trị từ các chương trình khuyến mại

gian dối trên.

Khuyến mại gian dối về phần thưởng còn thể hiện thông qua việc cho

khách hàng được nhận phần thưởng nhưng phải kèm điều kiện mua kèm theo

các hàng hóa khác của doanh nghiệp. Trong bài báo "Đánh lừa người tiêu

dùng bằng các chiêu khuyến mại” đăng trên trang web báo Lao động ngày

23/12/2010 đã đưa ra một trường hợp khuyến mại gian dối của siêu thị

Vinaconex (Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội). Một khách hàng mua sản

phẩm tại siêu thị Vinaconex thì nhận được phiếu cào trong chương trình

khuyến mại "Mừng giáng sinh – Chào năm mới”. Sau khi cào, khách hàng

này trúng giải nhất với trị giá 500.000 đồng. Tuy nhiên, khi đến lĩnh thưởng

thì điều kiện lĩnh thưởng là: "Phiếu chỉ có giá trị lĩnh thưởng khi khách hàng

mang theo phiếu này và mua 01 chiếc áo Complet hoặc 01 bộ quần áo

Complet tại cửa hàng”. Khách hàng này vui mừng đi xem quần áo Comple để

31

mua thì thất vọng khi nhận ra rằng các sản phẩm này có giá từ 880.000 đồng

đến 3.200.000 đồng/bộ nhưng chất lượng tồi đến mức "có cho không cũng

không nhận”.

Hay năm 2004, hãng sữa Enfa Mama thuộc Công ty Mead Johnson

(Hoa Kỳ) đưa ra chương trình khuyến mại “Quà tặng đầu xuân”. Theo

chương trình này thì cứ hai nắp lon Enfa Mama loại 400g sẽ được đổi một

trong bốn đĩa Giao hưởng thông minh I, Giao hưởng thông minh II, VCD

chăm sóc thai nhi và VCD nuôi con bằng sữa mẹ. Với chương trình này thì

chắc hẳn sẽ thu hút được phần lớn người tiêu dùng đang mang thai khi chọn

sản phẩm sữa. Thế nhưng thực tế lại khác. Chị Võ Thanh Hiền ở Phú Nhuận,

Thành phố Hồ Chí Minh. Khi chị vào siêu thị và mua bốn hộp Enfa Mama

(loại 400g) đang trong thời gian khuyến mại và ra quầy dịch vụ để đổi quà,

nhưng nhân viên quầy dịch vụ lại cho rằng đây là nắp cũ và chỉ chị ra hành

lang siêu thị để tìm nhân viên tiếp thị sữa Enfa Mama nhưng chị Hiền không

gặp ai cả đành ra về. Được biết trước đó cũng có rất nhiều người phàn nàn về

việc đổi quà khi mua sữa bột Enfa Mama và đã ra về tay không. Hôm sau chị

Hiền quay lại siêu thị và gặp nhân viên tiếp thị sữa Nguyễn Thị Phương

Khánh, chị yêu cầu đổi đĩa nhạc giao hưởng thông minh II và VCD chăm sóc

thai nhi nhưng nhân viên này nói VCD chăm sóc thai nhi chưa làm xong và

chỉ đưa cho chị Hiền đĩa giao hưởng thông minh II.

Từ vụ việc trên cho thấy sự gian dối trong khuyến mại là rất rõ ràng.

Chưa có sản phẩm khuyến mại mà vẫn ghi chương trình khuyến mại để lừa

dối khách hàng. Vì người tiêu dùng cần VCD chăm sóc thai nhi lúc họ mang

thai, nếu sau khi sanh mà chị Hiền có nhận được quà khuyến mại thì cũng

chẳng còn giá trị và ý nghĩa nữa. Sự thiếu trách nhiệm và thiếu trung thực của

nhà phân phối đã làm mất lòng tin của người tiêu dùng dành cho sản phẩm.

Để tăng doanh số bán hàng mà họ để người tiêu dùng phải thiệt thòi và không

tín nhiệm sản phẩm nữa, đó là điều không đáng. Bởi vì đối với người tiêu

32

dùng lòng tin rất quan trọng, có tin tưởng thì họ mới có thể sử dụng sản phẩm

lâu dài được. Nhưng vì lợi ích trước mà nhà kinh doanh để niềm tin đó mất đi

thì lợi nhuận mà doanh nghiệp nhận được chỉ là nhất thời chứ không lâu bền

được. Và nếu lần sau chị Hiền có mang thai sẽ không chọn sản phẩm của

Enfa Mama vì chị đã không còn tin vào uy tín của sản phẩm này nữa, một

doanh nghiệp gian dối thì liệu chất lượng sản phẩm có tốt không. Nếu phân

tích sâu xa có thể thấy rõ, nếu doanh nghiệp khuyến mại mà gian dối về giải

thưởng như thế này không những không thu hút được nhiều khách hàng mà

còn mất đi nhiều khách hàng nữa, vì khi người tiêu dùng biết được doanh

nghiệp làm ăn gian dối thì họ sẽ không sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp

đó nữa, nên doanh nghiệp sẽ mất đi một lượng lớn khách hàng. Nếu chịu tốn

kém mà khuyến mại chân chính thì khách hàng sẽ nhiều, uy tín được nâng

cao và chắc chắn doanh thu cũng sẽ tăng. Khuyến mại gian dối về giải thưởng

như vậy chỉ thu hút được khách hàng trong một thời gian ngắn và chỉ qua một

đợt khuyến mại mà thôi, lần sau khách hàng sẽ không mua sản phẩm đó nữa,

như vậy thiệt hại của doanh nghiệp sẽ còn nhiều hơn. Bên cạnh còn thấy được

sự vô trách nhiệm của siêu thị, đây là nơi cung cấp hàng hóa đến tay người

tiêu dùng nhưng lại không quan tâm và xem xét cho quyền lợi của họ. Như

vậy, người tiêu dùng làm sao an tâm và tin tưởng khi mua sản phẩm ở một

nơi không đặt quyền lợi người tiêu dùng lên hàng đầu mà chỉ kinh doanh

kiếm lời. Vì vậy, người tiêu dùng phải cẩn trọng khi chọn mua sản phẩm và

nơi mua sản phẩm để tránh bị lừa dối từ những hành vi bất chính của các

doanh nghiệp.

Đương nhiên là người tiêu dùng ai cũng mong muốn mình sẽ nhận

được những sự ưu đãi từ phía các nhà sản xuất, tuy giá trị khuyến mại có nhỏ

đi nữa nhưng cũng thể hiện được tấm lòng hậu mãi của nhà sản xuất dành cho

người tiêu dùng đã tin tưởng và sử dụng sản phẩm của mình, chứ đâu cần

phải đưa ra chương trình khuyến mại lớn để thu hút khách hàng để rồi có sự

gian dối về giải thưởng như vậy. Ví dụ như trường hợp của anh Linh ở Thành

33

phố Hồ Chí Minh, năm 2005, anh tham gia chương trình khuyến mại mang

tên “Tương lai vàng” do Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Việt Nam tổ chức.

Anh mua sữa Dumex và trúng được giải nhì mang tên giải “khởi đầu vàng”

với phần thưởng là “Cá heo vàng trị giá 10 triệu đồng”. Nhưng khi nhận giải

anh chỉ nhận được biểu tượng cá heo vàng với trọng lượng 10 chỉ vàng 18K

trị giá hơn 6 triệu đồng, vì công ty đã trừ đi tiền công thiết kế và chế tác biểu

tượng 18. Trong trường hợp này người viết cho rằng tiền công thiết kế và chế

tác biểu tượng lại trừ vào giải thưởng khuyến mại là không phù hợp. Vì trong

chương trình khuyến mại chỉ ghi giải thưởng “khởi đầu vàng” với phần

thưởng cá heo vàng trị giá 10 triệu đồng, chứ không bao gồm chi phí gì khác,

thì khi trao giải phải trao đủ cho khách hàng, còn về tiền công thiết kế và chế

tác thì công ty phải chịu. Nếu như Công ty Cổ phần Dinh dưỡng Việt Nam

nêu giải thưởng cá heo vàng trị giá chỉ 6 triệu đồng trong khi công bố chương

trình khuyến mại thì khách hàng đã không lên tiếng phản ánh vì thấy có sự

gian dối trong việc trao giải thưởng. Rõ ràng công ty đã trao giải thưởng

không đúng và không đủ với những gì đã công bố ban đầu. Hành vi trên của

công ty được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh vì nó ảnh hưởng

trực tiếp đến lợi ích của người tiêu dùng, đồng thời cũng ảnh hưởng đến lợi

ích của doanh nghiệp khác, bởi vì nếu không có chương trình khuyến mại này

thì các doanh nghiệp khác đã bán được một số sản phẩm cho người tiêu dùng,

việc bán được sản phẩm không chỉ là lợi nhuận mà nó còn khẳng định được

vị trí và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Công ty Cổ phần Dinh

dưỡng Việt Nam là nhà phân phối độc quyền sữa Dumex trên thị trường

nhưng lại gian dối về giải thưởng như vậy đó là điều đáng phê phán. Người

tiêu dùng sẽ chỉ tin vào những doanh nghiệp có uy tín và làm ăn chân chính,

sự gian dối sẽ không bền và sẽ sớm bị đào thải.

Từ những ví dụ điển hình có thể thấy rằng, trong thực tiễn hoạt động

kinh doanh, các doanh nghiệp thường xuyên tổ chức hoạt động khuyến mại.

Hình thức khuyến mại thông qua việc trao tặng các giải thưởng cho khách

34

hàng là hình thức thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp. Vấn

đề đặt ra là, các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện chương trình khuyến

mại, có thể gian dối trong việc trao giải thưởng cho khách hàng. Một trong

các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khuyến mại gian dối xuất phát từ sự

quản lý chưa chặt chẽ của các cơ quan chức năng, hoặc do các doanh nghiệp

thiếu đạo đức trong kinh doanh, vì hám lợi trước mắt mà quên nguồn lợi lâu

dài từ khách hàng.

2.1.1. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng

hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng

Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không

đúng về hàng hóa, dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin

khuyến mại sai lệch mà mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ đó. Hành vi

khuyến mại không trung thực của doanh nghiệp chủ yếu là lợi dụng lòng tin

và sự tín nhiệm của khách hàng để trục lợi. Nó được thể hiện ở nhiều khía

cạnh khác nhau khi người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp đó.

Doanh nghiệp có thể đưa thông tin khuyến mại gian dối, không chính xác,

không rõ ràng hay mập mờ khó hiểu nhằm lừa dối khách hàng, thường thì

trường hợp này xuất hiện ở những doanh nghiệp nhỏ, do thiếu tiềm lực về

kinh tế để cạnh tranh nên không nghĩ tới lợi ích chung của người tiêu dùng,

hoặc khi doanh nghiệp muốn bán một mặt hàng mà trong thời gian qua không

bán được hay bán chậm nhưng không muốn lỗ vốn.

Việc không trung thực trong khuyến mại của doanh nghiệp còn thể

hiện ở hành vi doanh nghiệp tự nâng giá hàng hóa, dịch vụ thật cao lên rồi

khuyến mại hạ giá với các biểu hiệu quảng cáo rất ăn khách như “ giảm giá

50-70%” hay “ đại hạ giá” làm khách hàng thấy được sự chênh lệch về giá

trước và khi khuyến mại mà sẽ tăng sức mua, hay có trường hợp doanh

nghiệp thay đổi trọng lượng, chất lượng sản phẩm để tiến hành giảm giá mà

đôi khi người tiêu dùng ít để ý đến những vấn đề đó, cứ tưởng doanh nghiệp

35

khuyến mại giảm giá là vì khuyến khích tiêu dùng nên không phản ứng gì.

Nhưng thực ra doanh nghiệp đã lợi dụng kiến thức hạn hẹp để lừa dối và

“móc túi” trắng trợn mà người tiêu dùng không hề hay biết. Như vậy, doanh

nghiệp vẫn đảm bảo được giá bán sản phẩm của mình, người tiêu dùng thì

lầm tưởng nhận được khuyến mại từ người bán. Một điểm đáng lưu ý, các

doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn gian dối này vừa "hợp pháp”, tức là không vi

phạm các quy định về tổ chức khuyến mại, lại vừa "qua mặt” được khách

hàng. Đặc biệt, trong những chương trình khuyến mại mang tính may rủi như:

rút thăm trúng thưởng vàng, nhà ở, xe hơi…, thì việc xác định người trúng

thưởng rất khó để kiểm soát, những người trúng thưởng có khi là những đại lý

lớn hay những người thân quen trong ban tổ chức, lúc này quyền lợi của

người tiêu dùng là thiệt thòi nhiều nhất. Có thể lấy ví dụ như sau:

Năm 2006, Công ty LG Việt Nam tổ chức chương trình khuyến mại

“Đầu năm thắng lớn cùng LG” với giải thưởng lên tới 2 tỷ đồng, chương trình

khuyến mại theo hình thức bốc thăm trúng thưởng. Tối ngày 13/03/2006 tại

khách sạn New World, Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra cuộc bốc thăm trúng

thưởng với sự tham gia của nhiều thương nhân trong ngành điện tử. Giải

thưởng bao gồm: giải nhất là một chiếc xe ô tô Toyota Innova trị giá gần

30000 USD, giải nhì là một xe tải Hyundai 1,25 tấn và giải ba là một xe máy

Honda Dylan. Trong lúc cuộc bốc thăm đang diễn ra thì có một người bước

lên và nói rằng phiếu mang số 223 mà anh ta đang giữ không có trong thùng

phiếu. Khi kiểm tra thùng phiếu thì quả thật không có phiếu 223 và tất cả các

phiếu từ 200 trở lên đều không có trong thùng. Thùng phiếu hàng trăm thay vì

là có ba con số 0, 1 và 2 nhưng trong thùng chỉ có hai số 0 và 1, tức là những

người mang số phiếu từ 200 trở lên sẽ không có cơ hội trúng thưởng. Được

biết theo chương trình khuyến mại, để có được một phiếu tham dự thì phải

mua 100 bộ máy lạnh LG, 300 bộ thì được bốn phiếu, nhưng kỳ lạ là công ty

Công Nghệ Mới tham gia đến 79 phiếu trên tổng số 168 phiếu hợp lệ. Điều

này có nghĩa công ty đó phải mua đến hơn 5.900 bộ máy lạnh và chỉ cần đặt

36

cọc 8% giá trị đơn đặt hàng thì đã được mua hàng và được phát phiếu nhưng

công ty Công Nghệ mới này lại có số phiếu từ 200 trở lên mới đáng nói. Theo

nhiều đại lý để có được nhiều phiếu tham dự họ phải chấp nhận mua nhiều

hàng và sau đó bán lỗ. Trong đợt rút thăm này công ty tiếp thị Bến Thành

(Tara) là một trong những đại lý lớn của LG thường lấy hàng từ LG rồi phân

phối lại cho các đại lý khác đã trúng 6 trên 10 giải thưởng. Theo quy định của

luật thì chương trình khuyến mại của LG phải có sự chấp thuận của Bộ Công

Thương nhưng trên thực tế LG đã triển khai chương trình khi chưa có văn bản

chấp thuận của Bộ, quá trình rút thăm cũng không có sự chứng kiến của cơ

quan chức năng địa phương. Công ty LG đã vi phạm nhiều quy định của luật,

không trung thực trong việc rút thăm, sắp xếp người nhận thưởng là những

đại lý lớn. Việc làm của LG đã làm rối loạn môi trường cạnh tranh của các đại

lý khác, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ khi tham gia chương trình

khuyến mại. Tuy nhiên, mức độ xử phạt khi vi phạm của hành vi khuyến mại

không trung thực lại còn quá nhẹ không đủ làm hài lòng những người bị lừa

dối và những thiệt hại từ việc tin vào chương trình khuyến mại. Từ đó cũng

rút ra cho người tiêu dùng nói chung bài học kinh nghiệm khi muốn tham gia

vào bất kỳ chương trình khuyến mại nào.

Hành vi không trung thực trong khuyến mại của doanh nghiệp xảy ra

rất thường xuyên đã làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của các doanh nghiệp

khác và người tiêu dùng vì thế nó được đưa vào Luật cạnh tranh 2004 để kịp

thời điều chỉnh. Tuy Luật cạnh tranh đã đi vào thực tiễn nhưng việc thực thi

nó vẫn còn gặp nhiều khó khăn về nhiều mặt, cần có những biện pháp quản lý

giá hàng hóa một cách hữu hiệu để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và

vạch trần được thủ đoạn gian dối của các doanh nghiệp trong các chương

trình khuyến mại. Đồng thời cần sự phối hợp chặt chẽ từ phía Nhà nước, các

doanh nghiệp và cả người tiêu dùng để lợi ích chính đáng được bảo vệ và để

Luật cạnh tranh được thực thi một cách hiệu quả nhất.

37

Một khía cạnh thể hiện khác nữa của hành vi khuyến mại không trung

thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng đó là tình

trạng gian dối về chất lượng hàng hóa. Hình thức khuyến mại mà chúng ta

thường thấy đó là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử không phải trả tiền.

Thỉnh thoảng ở các chợ, các cổng ra vào siêu thị hay các khu chung cư, nhà

ở…, xuất hiện các nhân viên tiếp thị phát cho không các sản phẩm như: dầu

gội đầu, bột giặt, cà phê hòa tan…, thường thì chất lượng của những sản

phẩm khuyến mại này rất tốt để lấy lòng tin của khách hàng về sản phẩm

dùng thử, nhưng đến khi người tiêu dùng mua sản phẩm chính thức về dùng

thì chất lượng lại kém hơn. Dù trước đó đã được doanh nghiệp cho dùng thử

sản phẩm, khách hàng tin tưởng và mới mua sản phẩm nhưng tình trạng gây

nhầm lẫn cho khách hàng vẫn xảy ra. Hay việc giảm giá các sản phẩm là hàng

tồn kho, hàng kém chất lượng, hàng bị lỗi gia công…, đây là những mặt hàng

đương nhiên phải bán giá thấp hơn nhưng các siêu thị, cửa hàng vẫn thường

áp dụng chương trình khuyến mại giảm giá đối với những mặt hàng này

nhưng không hề cho biết đây là những mặt hàng kém chất lượng hơn làm

khách hàng nhầm tưởng là được giảm giá nên cứ mua, khi về sử dụng mới

biết thì cũng đã mua rồi. Tình trạng này cũng rất phổ biến, chủ yếu ở các mặt

hàng như: quần áo may sẵn, đồ gia dụng…

Tóm lại, dù nhìn ở khía cạnh nào đi nữa thì việc khuyến mại không

trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng

cũng là hành vi khuyến mại gian dối, lừa gạt khách hàng, lợi dụng lòng tin, sự

thích rẻ của người tiêu dùng khiến họ bị nhầm tưởng về chất lượng hàng hóa,

dịch vụ và bị thiệt hại trong khi doanh nghiệp thì lại tăng lợi nhuận. Việc lên

tiếng phản ánh của người tiêu dùng sẽ đem lại tác động tích cực để hạn chế sự

vi phạm của các doanh nghiệp, để doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ

pháp luật, cạnh tranh lành mạnh và luôn vì lợi ích người tiêu dùng.

38

2.1.2. Phân biệt đối xử với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ

chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại

Nhà làm luật đã quy định hành vi này thuộc hành vi cấm trong Luật

Cạnh tranh. Hành vi này được hiểu là trong một chương trình khuyến mại

chung, các thương nhân đưa ra chương trình khuyến mại nhưng lại không

khách quan, công bằng, phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau

trong các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau. Luật quy định rất chung

chung như trên gây ra cách hiểu không chính xác về điều luật. Ở đây, cần

phải làm rõ khái niệm "phân biệt đối xử”, "các khách hàng như nhau”. Hành

vi phân biệt đối xử tức là hành vi của thương nhân ưu ái khách hàng này hơn

khách hàng kia, dành cho họ lợi ích nhiều hơn khách hàng kia mà thực tế thì

phải dành cho họ những lợi ích như nhau. Các khách hàng “như nhau” thì cần

được hiểu tiêu chí nào là như nhau, điều này vẫn chưa được pháp luật làm rõ.

Cần một cách hiểu rõ ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh.

Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp, các doanh nghiệp đã cố tình "phân

loại khách hàng” để cho hưởng khuyến mại.

Điển hình như: Chương trình khuyến mại của mạng di động Vinaphone

thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/ 2010, khuyến mại nhân 100% số tiền nạp thẻ

cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình khuyến mại thực hiện trong 03

ngày như trên nhưng không phải khách hàng nào cũng nhận được tiền khuyến

mại. Chỉ những khách hàng nhận được tin nhắn thông báo về việc khuyến mại

thì mới được hưởng khuyến mại. Tuy nhiên, một điều băn khoăn được đưa ra

đó là Vinaphone dựa vào tiêu chí nào để phân loại cho các thuê bao mạng di

động được hưởng khuyến mại và tổng số thuê bao được hưởng khuyến mại là

bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ phía lãnh đạo của Vinaphone, đó là

tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu đãi cho khách hàng trung

thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có khi là những người

39

vừa hòa mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có sự phân biệt

đối xử đối với khách hàng trong chương trình khuyến mại của Vinaphone.

Người tiêu dùng luôn thấy lợi ích trước mắt mà ít khi chịu quan tâm

đến những mặt tiêu cực xung quanh lợi ích đó. Điều đó xuất phát từ thói quen

và tâm lý tiêu dùng đã có từ lâu của người Việt, chính vì vậy người tiêu dùng

luôn là đối tượng chịu ảnh hưởng trước tiên khi doanh nghiệp có hành vi cạnh

tranh không lành mạnh. Khi doanh nghiệp đưa ra chính sách khuyến mại ưu

tiên có sự phân biệt giữa vùng này, vùng khác, tỉnh này, tỉnh khác sẽ làm cho

người tiêu dùng ở những nơi được ưu tiên với lợi ích lớn hơn sẽ nghĩ là doanh

nghiệp đang ưu đãi cho mình,dành cho mình những quyền lợi mà khách hàng

ở những vùng khác không có được nên sẽ mua nhiều sản phẩm khuyến mại

hơn, do đó sẽ chỉ làm lợi cho doanh nghiệp. Thật ra thì chất lượng sản phẩm

khuyến mại này không có gì khác biệt giữa những địa bàn khuyến mại nhưng

với việc đưa ra những lợi ích khác nhau cho những địa bàn khuyến mại trong

cùng một thời điểm đã làm cho doanh nghiệp lấy được lòng tin của người tiêu

dùng ở những vùng được ưu tiên một cách dễ dàng. Luật cạnh tranh đã điều

chỉnh hành vi này này bởi vì nó đã làm mất đi sự công bằng trong việc

khuyến mại, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Bởi vì khách

hàng dù ở thành thị hay nông thôn, thành phố lớn hay tỉnh lẻ thì cũng là đối

tượng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, doanh nghiệp không có quyền

hạn chế về quyền lợi của họ, họ phải được đối xử công bằng, không có sự

phân biệt đối xử hay ưu tiên quyền lợi nào cả.

Ví dụ: Cùng một điều kiện là có đủ 3 nắp chai bia thì khách hàng ở

thành thị và nông thôn sẽ có cơ hội trúng những giải thưởng có giá trị khác

nhau. Rõ ràng đây là sự bất công hết sức rõ rệt, khách hàng ở nông thôn và

thành thị cùng sử dụng bia nhưng giá trị giải thưởng ở hai nơi lại có sự chênh

lệch thì không công bằng. Khách hàng cũng nên chú ý đối với những trường

hợp khuyến mại có sự phân biệt đối xử của doanh nghiệp để tránh mình trở

40

thành nạn nhân của việc kiếm lời từ các doanh nghiệp bất chính. Phía cơ quan

chức năng cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khuyến mại

của các doanh nghiệp để kịp thời xử lý những trường hợp vi phạm để bình ổn

môi trường cạnh tranh.

Tuy đây là một hình thức được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng

trên thực tiễn thì trường hợp phân biệt đối xử này thường ít diễn ra bởi điều

kiện khách quan của nền kinh tế đất nước và mong muốn chủ quan của các

doanh nghiệp là cần có thêm nhiều khách hàng và mở rộng thị trường của

mình. Những trường hợp phân biệt đối xử trong khuyến mại chủ yếu là hành

vi xuất phát từ phía chủ quan của thương nhân muốn dành những ưu đãi của

mình cho những khách hàng đặc biệt là khách hàng lâu dài và tin cậy của họ.

2.1.3. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu

khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà

khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình

Một trong những phương pháp để khách hàng nhanh chóng biết đến

hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp là việc cho khách hàng dùng thử hàng

hóa, dịch vụ. Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử sẽ tạo cơ hội cho

khách hàng biết về sản phẩm, cảm nhận được giá trị của sản phẩm, từ đó có

thể sẽ tích cực tham gia sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc

yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất

mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình là một hành vi

cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi này của doanh nghiệp xét ở góc độ sâu

xa, đó là hành vi nhằm làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng, từ

đó để khách hàng sử dụng sản phẩm của mình nhiều hơn. Kết quả là làm giảm

thị phần của đối thủ cạnh tranh, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thực

hiện chương trình khuyến mại. Bên cạnh đó, hành vi này phần nào tác động

đến quyền tự do lựa chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Việc pháp luật

cấm các doanh nghiệp thực hiện hành vi này là hoàn toàn xác đáng, bởi lẽ khi

41

thực hiện khuyến mại như trên đã tạo ra những hành động xấu tác động trực

tiếp đối thủ của mình.

Ví dụ điển hình cho hoạt động cạnh tranh không lành mạnh này, đó là

việc mạng di động Viettel đã tố giác mạng di động MobileFone về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh. Trong đơn tố giác ngày 17/6/2009, mạng di

động Viettel đã nêu rõ hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

của mạng MoblieFone tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Tại đây, MobiFone đã bán

hàng lưu động với chương trình "Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có

230.000 đồng trong tài khoản”. Theo đó, khách hàng có sim của mạng khác

(trong đó có Viettel), còn tài khoản dưới 15.000 đồng và còn hạn sử dụng, có

thể đổi miễn phí lấy 1sim MobiZone của MobiFone có sẵn trong tài khoản

50.000 đồng, mỗi tháng tặng thêm 15.000 đồng, tặng trong 12 tháng. Như

vậy, có thể thấy đây là hành vi khuyến mại trực tiếp gây ảnh hưởng đến đối

thủ cạnh tranh của MobiFone. Hãng này thu hút khách hàng của mạng di

động khác chuyển sang sử dụng dịch vụ của mình bằng việc khuyến mại

không lành mạnh. Việc làm này đã vi phạm nghiêm trọng về pháp Luật

Chống cạnh tranh không lành mạnh.

Ví dụ tiêu biểu khác là vụ việc Bột nêm Massan. Theo một công bố của

Ban Điều tra và Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, năm 2007,

Công ty Massan đã đưa ra chương trình khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh tại TP. Hồ Chí Minh. Cụ thể, công ty này đưa ra chương trình

khuyến mại bột canh, người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến

đổi lấy sản phẩm Massan. Hành vi này được quy định là một trong các hành

vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng hoá cho khách

hàng dùng thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử

dụng do doanh nghiệp khác sản xuất”. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng

thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do

doanh nghiệp khác sản xuất. Công ty Massan đưa ra chương trình khuyến mại

42

bột canh, người tiêu dùng có thể đem gói bột canh dùng dở đến đổi lấy sản

phẩm Massan. Hành vi này được quy định là một trong các hành vi khuyến

mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh: “Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng

thử, nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại đang sử dụng do

doanh nghiệp khác sản xuất”. Ngay sau đó, Công ty Unilever Bestfood đã

khiếu nại về chương trình khuyến mại này tới Sở Thương mại TP.Hồ Chí

Minh. Có thể nhận xét rằng: Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng

lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất

mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình. Hành vi vi

phạm này có thể phân tích như sau:

- Hình thức khuyến mại là tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử.

- Để được tặng hànng hóa, khách hàng phải chấp nhận đổi hàng hóa

cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng. Với điều kiện

này, đối tượng được tham gia khuyến mại chỉ là các khách hàng đang giao

dịch, đang sử dụng hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Nói cách khác, Masan đã

trực diện lôi kéo khách hàng đang tiêu thụ sản phẩm cùng loại của doanh

nghiệp khác bằng cách tặng sản phẩm bột canh của mình cho khách hàng

dùng thử với mong muốn khách hàng thay đổi thói quen tiêu dùng. Hành vi

này bị coi là một dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ

một cách không chính đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản

phẩm của doanh nghiệp khác. Khi tham gia thị trường các doanh nghiệp được

quyền tác động đến nhu cầu của khách hàng bằng cách dành lợi ích vật chất,

cung cấp các thông tin về sản phẩm của mình để khách hàng có thể lựa chọn

chúng trong vô số các sản phẩm cùng loại khác. Trước rất nhiều sản phẩm

cùng loại có khả năng đáp ứng cho cùng một nhu cầu, doanh nghiệp chỉ có

thể làm nổi bật sản phẩm của mình trước khách hàng để cạnh tranh. Trong

khuyến mại không lành mạnh việc tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử

nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác

43

sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hoá của mình là toan

tính nhằm xoá bỏ hình ảnh của doanh nghiệp khác trong thói quen tiêu dùng

đã có của khách hàng để tạo thói quen tiêu dùng mới đối với sản phẩm của

mình. Rõ ràng với hành vi trên, Masan đã vi phạm pháp luật cạnh tranh. Theo

khoản 4 điều 46 Luật cạnh tranh việc tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử

nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác

sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình thì đây

là hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Với hành vi này thì

Thanh tra Sở Thương mại TP.Hồ Chí Minh đã lập biên bản và yêu cầu đình

chỉ chương trình khuyến mại của Masan.

Hay tương tự chương trình khuyến mại “Tam thái tử giá lâm”. Khách

hàng có thể đem bất kỳ chai nước tương dở nào đang sử dụng bất kỳ nhãn

hiệu nào sẽ được đổi lấy chai nước tương Tam thái tử chất lượng cao. Như

vậy rõ ràng với những chương trình khuyến mại như thế thì bất kỳ người tiêu

dùng cũng sẽ tham gia, nếu nó diễn ra trên quy mô lớn thì sẽ tạo một làn sóng

khuyến mại rất mạnh mà theo đó người tiêu dùng sẽ phải đổi sản phẩm dở mà

mình đang dùng để lấy sản phẩm có chất lượng cao hơn. Vì thế uy tín của

những doanh nghiệp khác sẽ bị tổn hại nghiêm trọng, còn người tiêu dùng thì

đang bị doanh nghiệp dùng hình thức khuyến mại để dần xóa đi những thói

quen tiêu dùng trước đây của mình mà người tiêu dùng đôi khi không để ý

đến.

Loại hình khuyến mại này cũng đã không ít lần được các doanh nghiệp

sử dụng trong quá trình xúc tiến thương mại của mình. Đây là loại hình khi

thương nhân sử dụng sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của đối thủ, thay

đổi thói quen người tiêu dùng, gây ra việc cạnh tranh không lành mạnh. Tuy

vậy, loại hình này được thương nhân sử dụng cũng xuất phát từ nguyên nhân

thiếu hiểu biết về pháp luật cạnh tranh mà thương nhân vô tình vi phạm pháp

luật. Nhiều thương nhân chỉ cho rằng đây là hành vi khuyến mại thông

44

thường, cạnh tranh một cách lành mạnh, do vậy đã dẫn đến việc vi phạm pháp

luật. Cần có sự tuyên truyền sâu rộng pháp luật cạnh tranh và hành vi cạnh

tranh không lành mạnh này để thương nhân và người tiêu dùng hiểu rõ, tránh

những vi phạm pháp luật không đáng có xảy ra.

Tóm lại, cả bốn hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

vừa được nêu trên nhìn chung đều ảnh hưởng trực tiếp và trước tiên đến

quyền lợi của người tiêu dùng, bên cạnh đó là lợi ích của các doanh nghiệp

khác. Mỗi hành vi có một tác động khác nhau và mặt tiêu cực riêng nhưng tất

cả đều đã làm cho môi trường cạnh tranh và thị trường chung bị xáo trộn, mất

bình đẳng và không lành mạnh nữa. Trong khi cạnh tranh lành mạnh là một

động lực để kinh tế phát triển bền vững và ổn định thì đương nhiên những

hành vi không lành mạnh như vậy sẽ bị cấm thực hiện để bảo vệ những nhà

kinh doanh chân chính. Bên cạnh, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh

không lành mạnh còn bao gồm các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật

có quy định cấm, đây là một quy định mở nhằm để dự phòng các hành vi

khác mà luật chưa bao quát hết được vì những vi phạm luôn tinh vi, phức tạp

và ngày càng mất ổn định hơn. Luật quy định thêm khoản này là để có thể xử

lý những hành vi vi phạm có thể xảy ra trong tương lại mà luật chưa kiệt kê

hết. Trong thời gian tới Luật cạnh tranh cần hoàn thiện hơn để phù hợp với

tình hình thực tế đang thay đổi từng ngày để nền kinh tế được phát triển trong

một môi trường kinh doanh ổn định và bình đẳng.

2.2. Xử lý các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

2.2.1. Cơ quan có thẩm quyền xử lý

Hiện nay, khi môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì những

hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra phổ biến và khó kiểm soát. Vì

vậy, đòi hỏi Nhà nước ta phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát

một cách chặt chẽ hơn đặc biệt trong hoạt động tổ chức khuyến mại của các

doanh nghiệp. Cần phải có một mô hình quản lý thật tốt và nguồn nhân lực

45

đầy đủ khả năng để có thể đáp ứng được nhu cầu trước tình hình hiện nay.

Trên thế giới có nhiều mô hình để quản lý cạnh tranh với những ưu và nhược

điểm khác nhau. Ở Mỹ, cơ quan quản lý cạnh tranh là Ủy ban Thương mại

Liên bang, cơ quan này thuộc ngành hành pháp nhưng có vị trí hoàn toàn độc

lập với các bộ trong Chính phủ, kể cả Bộ thương mại. Ủy ban Thương mại

Liên bang có nhiệm vụ điều tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và áp dụng chế

tài đối với các hành vi vi phạm Luật cạnh tranh, đồng thời đảm trách thực thi

Luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tại Đan Mạch, cơ quan quản lý

cạnh tranh là một bộ phận trực thuộc Bộ thương mại và công nghiệp. Ngoài

việc thực thi Luật cạnh tranh, cơ quan này còn phụ trách cả việc quản lý hoạt

động đấu thầu của Chính phủ. Còn tại Nhật Bản, quản lý Nhà nước về cạnh

tranh là Ủy ban Thương mại Công bằng, là một cơ quan nằm trong Bộ Nội

vụ, quản lý công, bưu chính và viễn thông. Tuy nhiên, ủy ban này lại có một

quy chế đặc biệt để đảm bảo tính độc lập. Luật chống độc quyền của Nhật

Bản quy định các ủy viên phải do Thủ tướng trực tiếp bổ nhiệm dưới sự phê

chuẩn của Nghị viện[8]. Tuy mỗi quốc gia có cách thức tổ chức cơ quan quản

lý cạnh tranh khác nhau nhưng nhìn chung thể hiện sự độc lập trong hoạt

động của cơ quan này. Còn ở Việt Nam thì cơ quan quản lý cạnh tranh là Cục

quản lý cạnh tranh. Cơ quan này có những nhiệm vụ, quyền hạn được quy

định tại Điều 49 Luật cạnh tranh như sau:

 Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật

cạnh tranh;

 Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ

trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính

phủ quyết định;

 Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế

cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh;

 Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh;

 Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

46

Như vậy, Cục quản lý cạnh tranh có vai trò như một cơ quan tham

mưu, thay mặt cho Bộ Công Thương đứng ra thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng

miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hoặc Bộ

trưởng Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xét về chức

năng, theo quy định tại Điều 49 Luật cạnh tranh thì Cục quản lý cạnh tranh

vừa là cơ quan điều tra,vừa là cơ quan xử lý vừa là cơ quan hành chính.

 Cục quản lý cạnh tranh

Đây là cơ quan do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức,

bộ máy của cơ quan này. Cơ quan này nằm trong hệ thống tổ chức của Bộ

Công Thương, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng và có trụ sở

chính tại Thành phố Hà Nội. Cục quản lý cạnh tranh có các đơn vị trực thuộc

sau: Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Ban Giám sát và quản lý cạnh

tranh, Ban Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Ban

Bảo vệ người tiêu dùng, Ban xử lý chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ,

Ban Hợp tác quốc tế, Văn phòng, Trung tâm thông tin, Trung tâm đào tạo

điều tra viên và các Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí

Minh. Với chức năng chính là giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện

quản lý nhà nước về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống bán

phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào

Việt Nam, cục quản lý cạnh tranh có những mục tiêu sau:

• Thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh.

• Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước những

hành vi hạn chế cạnh tranh.

• Chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

• Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

• Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn cho ngành sản xuất

47

trong nước.

• Hỗ trợ cho ngành sản xuất trong nuớc phòng, chống các vụ kiện bán

phá giá, trợ cấp và tự vệ của nước ngoài.

2.2.2. Trình tự, thủ tục xử lý hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh

không lành mạnh

Khi doanh nghiệp có hành vi vi phạm hoạt động khuyến mại nhằm cạnh

tranh không lành mạnh thì các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng bị ảnh

hưởng lợi ích có thể khiếu nại, tố cáo lên Cục quản lý cạnh tranh để cơ quan này

xem xét và giải quyết. Đối với người tiêu dùng khi muốn khiếu nại, tố cáo lên cơ

quan này thì cần làm hồ sơ khiếu nại, tố cáo bằng văn bản bao gồm:

Đơn/thư khiếu nại, tố cáo:

- Ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại, tố cáo; tên, địa chỉ của

người khiếu nại, tố cáo; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá

nhân bị khiếu nại, tố cáo; nội dung, lý do khiếu nại, tố cáo và yêu

cầu của người khiếu nại, tố cáo.

- Do người khiếu nại, tố cáo ký tên.

- Trong trường hợp việc khiếu nại, tố cáo được thực hiện thông

qua người đại diện thì người đại diện phải có giấy tờ chứng minh

tính hợp pháp của việc đại diện.

Các chứng cứ kèm theo: Hóa đơn mua hàng, giấy bảo hành, vật

phẩm, các giấy tờ có liên quan khác,…

Bên cạnh Cục quản lý cạnh tranh thì người tiêu dùng có thể khiếu nại

tới các cơ quan, tổ chức sau:

 Khiếu nại trực tiếp đến tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá,

dịch vụ mà mình đã mua hoặc sử dụng.

 Thông qua các Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng, các Văn

48

phòng khiếu nại của người tiêu dùng ở địa phương để khiếu nại đến tổ

chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hoặc khiếu nại lên các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền.

 Khiếu nại lên các cơ quan quản lý nhà nước: Bộ công Thương các tỉnh,

thành phố; các cơ quan chuyên ngành có liên quan (Cục Quản lý thị

trường, Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm, Cục Xúc tiến thương mại…).

 Ngoài ra người tiêu dùng có thể khởi kiện vụ việc ra cơ quan Toà án có

thẩm quyền để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật

trong trường hợp có đủ căn cứ xác đáng và tổ chức, cá nhân sản xuất,

kinh doanh không giải quyết thỏa đáng quyền lợi hợp pháp của mình.

Quyền lợi của người tiêu dùng thật sự là rất lớn, việc khiếu nại, tố cáo

khi bị xâm phạm lợi ích cũng rất dễ dàng và ở nhiều cơ quan, tổ chức khác

nhau chứ không phải như tâm lý chung là ngại kiện cáo, thấy thiệt hại nhỏ

không đáng kể nên không khiếu nại, hoặc không biết khiếu nại ở đâu…

Người tiêu dùng hoàn toàn có quyền gửi mọi khiếu nại của mình và yêu cầu

được giải quyết thỏa đáng. Chính vì tâm lý e ngại chung đó mà đã góp phần

làm cho doanh nghiệp có thể lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm. Ý

thức pháp luật tốt của người tiêu dùng sẽ góp phần làm cho Luật cạnh tranh

thực thi một cách tốt hơn, tạo rào cản đối với doanh nghiệp bất chính, giúp

môi trường cạnh tranh được trong sạch, công bằng, minh bạch và ổn định

2.2.3. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh

Ảnh hưởng của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

tới người tiêu dùng, doanh nghiệp và hoạt động ổn định của môi trường cạnh

tranh là không nhỏ, hành vi này đã vi phạm Luật cạnh tranh thì phải có chế tài

xử lý thích hợp để hạn chế và khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm

gây ra. Chế tài đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

bao gồm chế tài hành chính và chế tài dân sự:

49

Chế tài hành chính

Chế tài này được quy định cụ thể tại Điều 34 Nghị định 71/2014/ NĐ-CP:

“1. Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các

hành vi sau đây:

a) Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;

b) Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để

lừa dối khách hàng;

c) Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức

khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;

d) Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng

đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó

đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình.

2. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi vi

phạm quy định tại Khoản 1 Điều này trong trường hợp quy mô tổ chức

khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở

lên.

3. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này, doanh

nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành

mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và

biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Khoản 4 Điều 28 của Nghị định

này.”

Có thể thấy, theo quy định tại Điều 36 Nghị định số 120/2005/NĐ-CP

thì mức phạt tiền cao nhất đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh chỉ là 50.000.000 đồng và mức phạt thấp nhất là 15.000.000 đồng.

Như vậy, với lợi ích rất to lớn thu được trong mỗi đợt khuyến mại của doanh

50

nghiệp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thì con số

nói trên là không đáng kể; đồng thời, nếu những doanh nghiệp vi phạm pháp

luật cạnh tranh mà thu hút được nguồn khách hàng, hay người tiêu dùng của

doanh nghiệp đối thủ thì quả thật số tiền phạt trên là không đáng kể gì. Như

vậy, trên thị trường sẽ xuất hiện nhiều doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp

luật cạnh tranh gây thiệt hại cho doanh nghiệp đối thủ để nhằm tới những

nguồn lợi ích to lớn cho mình. Hiện tại, với Nghị định 71/2014/ NĐ-CP, pháp

luật đã quy định mức phạt đối với những hành vi khuyến mại nhằm cạnh

tranh không lành mạnh đã tăng lên đáng kể so với mức phạt trước đó nhằm

xử phạt và răn đe các doanh nghiệp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh

không lành mạnh.

Bên cạnh việc phạt tiền, doanh nghiệp thực hiện hoạt động khuyến mại

nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số

hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như:

“• Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi

phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện

hành vi vi phạm;

• Buộc cải chính công khai.”

Chế tài dân sự

Trách nhiệm dân sự cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về cơ

bản không có sự khác biệt đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng theo pháp luật dân sự. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Cạnh Tranh

năm 2004 thì hậu quả pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ

thông qua chế tài xử phạt hành chính mà không đề cập đến vấn đề áp dụng

các biện pháp dân sự. Đây là điểm khác biệt giữa Luật Cạnh Tranh năm 2004

và Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2005. Việc xử lý thông qua hình thức xử phạt

hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ không giải quyết

51

được thiệt hại xảy ra đối với đối thủ bị cạnh tranh và khách hàng. Họ sẽ mất

thời gian và chi phí khởi kiện mà không được bù đắp về thiệt hại, đồng thời

phải tiến hành thêm một vụ kiện về dân sự nữa để được bồi thường gây tốn

kém về mặt thời gian và tiền bạc, đôi khi hiệu quả của việc khởi kiện mang

lại không cao. Đây cũng chính là lý do tại sao hiện nay các vụ kiện về cạnh

tranh không lành mạnh được áp dụng theo Luật Cạnh Tranh năm 2004 là

không nhiều. Trong Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2005 thì tại khoản 3 Điều

198 “Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi

cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm

quyền áp dụng các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 của Luật này và

các biện pháp hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh”.Vấn đề

trên là vẫn có thể áp dụng các biện pháp dân sự trong trường hợp này. Dù

Luật Cạnh Tranh năm 2004 không nói rõ vấn đề bồi thường nhưng tại Điều

117 có nói đến khả năng bồi thường khi bị thiệt hại là “Tổ chức, cá nhân có

hành vi, vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác thì phải bồi thường thiệt

hại theo quy định của pháp luật”.

52

CHƯƠNG 3.

HƯỚNG GIẢI QUYẾT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Hướng giải quyết đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh

không lành mạnh

Ngày nay, trong môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt, các doanh

nghiệp phải luôn nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ của mình từng ngày

để bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Các doanh nghiệp

ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về tác dụng của khuyến mại trong việc kích

thích bán hàng, tiêu thụ sản phẩm và quảng bá thương hiệu. Tuy nhiên, thực

tế hiện nay cho thấy, để đạt được doanh thu tối đa, rất nhiều doanh nghiệp đã

và đang thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành

mạnh, đi ngược lại với các quy định của pháp luật. Theo nghiên cứu của hãng

nghiên cứu thị trường Nielsen tại 4 thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí

Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ thì những người thường mua sắm và ra

quyết định mua hàng chủ yếu trong gia đình, thì kết quả cho thấy: 87% người

Việt Nam sẵn sàng mua hàng khuyến mại. Các doanh nghiệp thường lợi dụng

tâm lý hám lợi của người tiêu dùng để đưa ra các chương trình khuyến mại

hấp dẫn nhằm thu lợi nhuận tối đa cho mình. Bởi đa phần tâm lý người tiêu

dùng sẽ chọn mua các sản phẩm được khuyến mại nhiều hơn. Người tiêu

dùng có thể thường xuyên bắt gặp trên các băng rôn tại các cửa hàng,

showroom, siêu thị hoặc các phương tiện thông tin đại chúng những thông tin

khuyến mại cực kỳ hấp dẫn như: giảm giá từ 40% -50% kèm quà tặng có giá

trị; cuối tuần giá sốc; tri ân khách hàng – mua hàng bốc thăm may mắn,vv...

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp khi niêm yết giá đề là giá được giảm 20% hay

30%, nhưng bảng đó được niêm yết quanh năm, với mức giá là một con số

tuyệt đối không thay đổi. Như vậy giá đó là giá bán thật, không phải là giá

53

giảm và hành vi này được coi là lừa dối khách hàng. Theo quy định thì mức

giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại không được vượt

quá 50% giá hàng hoá, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại. Trên

thực tế có nhiều doanh nghiệp, vì muốn bán hàng tồn kho hoặc hết thời trang,

do vậy thực hiện "đại hạ giá" ở mức 60-80%. Hay như việc khuyến mại của

các nhà mạng trước đây, quy định không vượt quá 50%, nhưng vẫn có những

chương trình khuyến mại lên tới 100%, 170%, 200%... Lý do họ đưa ra để

lách luật đó là đây chỉ là ưu đãi dành cho khách hàng sử dụng dịch vụ lâu

năm… Có những doanh nghiệp khi thực hiện các chương trình may rủi chưa

trung thực và minh bạch, như yêu cầu khách hàng sưu tập đủ số nắp chai có

in hình các bộ phận chiếc xe đạp để ghép thành chiếc xe sẽ có giải cao nhưng

trên thực tế không phát hành đủ các nắp chai có in hết các bộ phận; hoặc thẻ

cào trúng thưởng nhưng không phát hành thẻ có giải đặc biệt... Do đó, có

những chương trình khuyến mại được quảng cáo với giải thưởng rất cao

nhưng không có người trúng. Doanh nghiệp "câu" người tiêu dùng mua nhiều

hàng để hy vọng trúng giải nhưng cuối cùng không mất chi phí giải thưởng

cho khách hàng…

Thời gian vừa qua việc kiểm soát hoạt động khuyến mại của các doanh

nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do thiếu đội ngũ quản lý, hệ thống pháp luật

chưa đầy đủ và đồng bộ nên tình trạng khuyến mại không lành mạnh thường

xuyên xảy ra, gây nhiều thiệt hại cho người tiêu dùng. Người viết xin đưa ra

một số mặt còn tồn tại trong hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh như sau:

 Doanh nghiệp tổ chức khuyến mại nhưng gian dối, không trung

thực, lừa gạt khách hàng bằng những giải thưởng hấp dẫn, tiêu biểu đó là vụ

việc công ty LG gian dối trong chương trình khuyến mại với giá trị giải

thưởng gần 2 tỷ đồng mà người viết đã đề cập trước đó. Một chương trình

khuyến mại đồ sộ với những giải thưởng lớn nhưng lại được toan tính trước

54

về người nhận giải thưởng thì không công bằng cho những đối tượng tham

gia khác. Việc gian dối khách hàng như vậy là hành vi thiếu trung thực và

việc quản lý cũng như xử lý những vụ việc như thế này sẽ do ai quản lý.

Người tiêu dùng thì e ngại khiếu nại, kiện cáo vì những lợi ích nhỏ nhưng nếu

cơ quan chức năng vẫn lơ là, không kiểm soát những việc như vậy sẽ làm lợi

cho doanh nghiệp gian dối, quyền lợi người tiêu dùng tiếp tục bị xâm phạm.

Vì vậy, cần khuyến khích và tạo điều kiện để người tiêu dùng nên mạnh dạn

khiếu nại khi thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng hay thấy có hành vi vi

phạm, có như thế mới giảm bớt những hành vi gian dối, không trung thực của

các doanh nghiệp trong thời gian tới. Đồng thời, các cơ quan chức năng có

liên quan cần tích cực hơn trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm

minh theo đúng pháp luật những trường hợp vi phạm để tạo lòng tin cho các

doanh nghiệp khác và cho người tiêu dùng. Vì hành vi khuyến mại nhằm cạnh

tranh không lành mạnh có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp chân chính và người tiêu dùng nên việc xử lý đúng mức hành vi

này là điều cần thiết để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức các

giải thưởng nhằm tôn vinh những doanh nghiệp kinh doanh trung thực, lành

mạnh, thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu

dùng, việc khen thưởng cho những doanh nghiệp, cá nhân phát hiện những

hành vi vi phạm là những động thái tích cực góp phần đẩy lùi hành vi khuyến

mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

 Tình trạng doanh nghiệp đưa thông tin sai lệch gây nhầm lẫn cho

người tiêu dùng vẫn thường xuyên xảy ra. Doanh nghiệp đưa thông tin

khuyến mại mập mờ, không rõ ràng gây khó hiểu để người tiêu dùng nhầm

lẫn mà đi mua sản phẩm. Đôi khi là hàng tồn kho, kém chất lượng nhưng

không nói rõ ràng khiến khách hàng không biết mà tưởng là sản phẩm tốt. Ví

dụ: Một công ty mở siêu thị hàng điện máy đã cùng với một số nhà cung cấp

đưa ra chương trình “siêu khuyến mại” giảm giá các sản phẩm đến 50%.

Chương trình này được giới thiệu rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại

55

chúng thu hút một lượng lớn khách hành đến siêu thị mua sắm. Tuy nhiên,

phần lớn hàng công ty giảm giá là hàng tồn kho và số lượng rất nhỏ. Như vậy,

công ty đã không trung thực trong việc đưa thông tin khuyến mại đến với

người tiêu dùng. Tình trạng doanh nghiệp khuyến mại nhưng gây nhầm lẫn

cho khách hàng vẫn còn xảy ra nhiều trên thực tế nên các cơ quan chức năng

có thẩm quyền cần sớm khắc phục để ngăn chặn những hành vi vi phạm và

cũng để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng

 Chương trình khuyến mại diễn ra tràn lan, khó kiểm soát. Thực

tế tại các thành phố hiện nay đi đâu cũng thấy hàng khuyến mại tràn lan, nhất

là hàng may mặc, thực phẩm chế biến…Có cửa hàng giảm giá suốt cả năm,

lúc nào cũng thấy bán hàng giảm giá với tiêu đề rất bắt mắt “Đại hạ giá”,

“Siêu giảm giá” mà người tiêu dùng thì luôn thích rẻ, đó là tâm lý chung, thấy

hàng khuyến mại thì cứ mua mà ít khi quan tâm đến chất lượng của nó, khi về

sử dụng thì thiệt hại vẫn là người tiêu dùng phải gánh chịu. Theo quy định

của Luật thương mại thì việc quản lý các chương trình khuyến mại thuộc

thẩm quyền của Bộ Công Thương nếu chương trình khuyến mại thực hiện

trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nếu trên địa bàn hai

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên thì thuộc thẩm quyền của Bộ

Công Thương. Tuy nhiên, theo thống kê thì hàng ngày có tới hàng ngàn mã

hàng đăng ký chương trình khuyến mại nên việc Bộ Công Thương quản lý

hoạt động khuyến mại này sẽ không sâu sát được và rất khó thực hiện bởi vì

số lượng quá lớn và việc chương trình khuyến mại không đăng ký vẫn thường

xuyên xảy ra, điều này đã gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý các hoạt

động khuyến mại. Vì vậy, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt

động khuyến mại của các doanh nghiệp trên từng địa bàn cụ thể. Việc này đòi

hỏi sự phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan chức năng như: Cục quản lý

cạnh tranh, Cục quản lý thị trường, Cục xúc tiến thương mại…, các cơ quan

này phải phối hợp chặt chẽ và liên kết với nhau trong công tác quản lý tình

hình hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp, đồng thời khi gặp khó

56

khăn, vướng mắc trong công tác quản lý thì phải đưa ý kiến lên cấp trên để

kịp thời giải quyết và cũng để góp phần hoàn thiện những thiếu sót của pháp

luật về hoạt động khuyến mại.

 Lợi ích của người tiêu dùng bị xâm phạm một cách đáng kể vì

chưa nắm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia mua hàng hóa, sử

dụng dịch vụ. Thường thì người tiêu dùng khi gặp phải vướng mắc hay thiệt

hại do doanh nghiệp bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ gây ra thì họ không biết

làm gì để đòi lại quyền lợi của mình. Nếu khiếu nại theo Luật cạnh tranh thì

mức phí mà họ phải nộp là 10.000.000 đồng, với mức phí cao như thế này thì

không hợp lý vì nhiều khi thiệt hại của người tiêu dùng còn chưa tới mức phí

mà họ phải nộp khi khiếu nại, vì vậy sẽ không khuyến khích họ khiếu nại đòi

quyền lợi theo Luật cạnh tranh. Người tiêu dùng có thu nhập thấp nếu được

chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền thì có thể được miễn nộp phí khi

khiếu nại, tuy nhiên trên thực tế khi người tiêu dùng có thu nhập thấp mua

hàng hóa, sử dụng dịch vụ thì họ ít khi quan tâm đến chất lượng hàng hóa,

dịch vụ mà chỉ cần phù hợp với thu nhập của họ là họ sử dụng nên việc kiện

cáo cũng ít khi xảy ra. Luật cạnh tranh đã chưa thật sự phù hợp và sâu sát với

tình hình thực tế. Mục đích của Luật cạnh tranh là cũng vì lợi ích người tiêu

dùng thông qua việc đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh của các

doanh nghiệp, nhưng luật không dành cho người tiêu dùng một giải pháp thật

sự dễ dàng và thuận tiện để họ tự bảo vệ mình khi quyền và lợi ích chính

đáng bị xâm phạm. Đây cũng là điểm thiếu sót của Luật cạnh tranh và cần

được khắc phục trong thời gian tới. Vì vậy, đối với mức phí xử lý vụ việc

cạnh tranh về hành vi cạnh tranh không lành mạnh mà bên khiếu nại là người

tiêu dùng thì nên giảm xuống ở mức thấp hơn so với mức phí 10.000.000

đồng như hiện nay, hoặc có thể miễn luôn mức phí này để người tiêu dùng có

điều kiện dễ dàng khiếu nại đòi quyền lợi khi bị doanh nghiệp chèn ép. Hơn

nữa, cần quy định rõ chế tài dân sự, cụ thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng trong Luật cạnh tranh để có thể bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tốt

57

hơn. Đồng thời, có thể làm cho Luật cạnh tranh hoàn chỉnh hơn và được thực

thi một cách tốt hơn trên thực tế.

 Tình trạng đội ngũ cán bộ chuyên trách trong ngành còn thiếu và

còn nhiều yếu kém về kiến thức pháp luật, chủ yếu là cán bộ quản lý cạnh

tranh không lành mạnh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cạnh tranh

không lành mạnh giữa các doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích

người tiêu dùng nhưng trên thực tế công tác bảo vệ người tiêu dùng chưa tốt

dẫn đến tình trạng người tiêu dùng bị xâm phạm lợi ích là rất thường xuyên

xảy ra. Vì vậy cần nâng cao trình độ kiến thức về pháp luật cho cán bộ

chuyên môn trong ngành quản lý để họ có thể đối phó với những hành vi vi

phạm ngày càng tinh vi và phức tạp của các doanh nghiệp. Đồng thời cũng

phải tăng cường thêm số lượng cán bộ quản lý nhằm đáp ứng với nhu cầu của

tình hình thực tiễn hiện nay.

 Ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng chưa cao. Ở nước ta hiện

nay, ý thức tự bảo vệ của mỗi người tiêu dùng cũng chưa được phát huy đúng

mức. Nhiều người tiêu dùng tỏ ra thờ ơ, hoặc không biết quyền của mình khi

đi mua các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Đứng trước các hiện tượng hàng giả,

hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng sai quy cách, người tiêu dùng chưa có

thói quen đấu tranh hay phản ứng quyết liệt. Chính điều này đã góp phần làm

lợi cho các doanh nghiệp làm ăn bất chính, gây thiệt hại lớn cho chính người

tiêu dùng, quan trọng hơn còn làm cho các doanh nghiệp thoát khỏi sự kiểm

soát và xử lý của pháp luật nên khả năng để thực thi pháp luật chưa tốt. Người

tiêu dùng cần nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền lợi bản thân, nên hiểu về

những quyền lợi của mình khi tham gia mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của

các doanh nghiệp. Phải kiên quyết đấu tranh và phản ứng quyết liệt trước hiện

tượng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng để đòi lại quyền lợi cho

mình. Mạnh dạn tố cáo hay khiếu nại lên các cơ quan có thẩm quyền để họ

giải quyết và xử lý những doanh nghiệp vi phạm khi có điều kiện, nếu không

có điều kiện thì có thể gửi đơn yêu cầu Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu

58

dùng đứng ra đòi lại quyền lợi cho mình. Tuyệt đối đừng nghĩ vì lợi ích nhỏ

mà bỏ qua mọi chuyện, tuy một người là lợi ích nhỏ nhưng với số lượng lớn

người tiêu dùng thì nó lại là những lợi ích rất lớn, hành vi lơ là của người tiêu

dùng đối với những sai phạm nhỏ của doanh nghiệp sẽ góp phần tạo điều kiện

để các doanh nghiệp tiếp tục vi phạm trong thời gian tới và vi phạm sẽ ngày

một nhiều hơn. Bên cạnh, còn cần phải nâng cao vai trò và chức năng của Hội

tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng, vì đây là một tổ chức xã hội nên sẽ rất

gần gũi và sâu sát với tình hình người tiêu dùng trên thực tế. Trước đây hoạt

động của Hội này chưa phát huy hết vai trò đúng mức của nó nên trong thời

gian tới cần tăng cường kinh phí cũng như số lượng và chất lượng của đội

ngũ cán bộ trong Hội để Hội phát huy hết vai trò của mình trong việc việc đại

diện người tiêu dùng đứng ra đòi lại quyền lợi chính đáng.

 Vấn đề phổ biến pháp luật đến với các doanh nghiệp, người tiêu

dùng để họ nắm vững những quy định của pháp luật tránh tình trạng sai phạm

hay thiếu kiến thức pháp luật mà bị thiệt hại về lợi ích vẫn chưa được triển

khai một cách triệt để. Theo Bà Đinh Thị Mỹ Loan, Phó Chủ tịch Hiệp hội

Bán lẻ Việt Nam cho biết, 1 năm sau khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực, Cục

Quản lý Cạnh tranh có làm một cuộc điều tra và kết quả cho thấy, chỉ có 30%

doanh nghiệp biết là có Luật Cạnh tranh, 70% doanh nghiệp không hề biết gì

về luật này. Hiện nay, con số này đã đảo ngược, thậm chí hầu hết các doanh

nghiệp đã biết đến Luật cạnh tranh tuy nhiên khả năng vận dụng Luật Cạnh

tranh để bảo vệ mình của các doanh nghiệp cũng còn nhiều hạn chế, nhất là

đối với những doanh nghiệp nhỏ. Bên cạnh, thì người tiêu dùng cũng còn hạn

chế kiến thức về Luật cạnh tranh nên đa số khi bị các doanh nghiệp xâm

phạm quyền và lợi ích trong các chương trình khuyến mại gian dối, không

trung thực họ cũng không thể tự bảo vệ mình vì họ không biết rằng pháp luật

luôn đứng ra để bảo vệ quyền lợi cho họ. Thường xuyên tuyên truyền, phổ

biến kiến thức pháp luật đến với người tiêu dùng để họ nắm rõ những quy

định pháp luật thông qua các hình thức đối thoại, thông tin đại chúng hay tiếp

59

xúc trực tiếp để hỗ trợ kiến thức tiêu dùng để họ có thể tự bảo vệ mình cũng

như góp phần vào công tác phát hiện, xử lý những hành vi và doanh nghiệp vi

phạm. Mỗi doanh nghiệp cũng phải tự mình cập nhật những văn bản pháp

luật mới ban hành, hiểu rõ và đúng những quy định của pháp luật liên quan để

tránh khỏi sự chèn ép của các doanh nghiệp khác, đảm bảo lợi ích cho người

tiêu dùng và hoạt động kinh doanh theo đúng khuôn khổ của pháp luật.

 Nên xem xét lại thẩm quyền và tính độc lập của Cơ quan quản lý

cạnh tranh. Những công ty lớn mang tính độc quyền như: Điện lực, Viễn

thông nằm dưới sự quản lý của Chính phủ và một số công ty khác mà Bộ

Công Thương làm chủ quản thì sẽ làm cho các doanh nghiệp khác cảm thấy

sự bất bình đẳng khi cạnh tranh. Nếu các doanh nghiệp này vi phạm thì việc

xử lý sẽ rất khó khăn vì thị phần của các công ty này rất lớn có thể ảnh hưởng

trực tiếp đến nền kinh tế, tính độc lập trong việc xét xử cũng chưa cao vì Cục

quản lý cạnh tranh lại là cơ quan trực thuộc của Bộ Công Thương nên việc xử

lý những công ty do Bộ này làm chủ quản, thậm chí do Chính phủ quản lý là

điều rất khó khăn. Vì vậy, khi có điều kiện thì nên nâng Cục quản lý cạnh

tranh thành cơ quan ngang Bộ chứ không trực thuộc Bộ Công Thương như

hiện nay nữa[8]. Có như vậy thì tính độc lập của cơ quan này đối với hoạt

động của các doanh nghiệp mới phát huy được tác dụng và việc xử lý các

hành vi vi phạm cũng công bằng và chính xác hơn. Tuy là mô hình này tạo sự

tốn kém, cồng kềnh trong cơ cấu tổ chức của Bộ máy Nhà nước, nhất là trong

bối cảnh cải cách hành chính được coi là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước ta

hiện nay nhưng với mô hình này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, ngăn

chặn tình trạng lợi dụng vị trí độc quyền hay thống lĩnh thị trường, tạo niềm

tin cho các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và

cả những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn chân chính, từ đó thúc đẩy một môi

trường cạnh tranh trong sạch, lành mạnh và bình đẳng. Đồng thời cũng để

luật pháp của chúng ta đi vào thực tiễn và được thực thi một cách hiệu quả

hơn.

60

3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về khuyến mại nhằm

cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay

Về hệ thống văn bản pháp luật hiện hành để quản lý hành vi khuyến

mại không lành mạnh còn chưa thống nhất, đồng bộ và cũng chưa bao quát

hết được tình hình diễn ra trên thực tế dẫn đến gây khó khăn cho công tác

quản lý. Khi cạnh tranh thì doanh nghiệp nào cũng muốn loại bỏ đối thủ của

mình bằng nhiều cách cho nên hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh trên thực tế diễn ra rất phức tạp, hành vi và thủ đoạn vi phạm ngày

một tinh vi hơn trong khi luật lại quy định những trường hợp rất cụ thể thì sẽ

không thể bao quát hết được những gì diễn ra trên thực tế. Luật thương mại

thì điều chỉnh về hình thức, chủ thể và cách thức tổ chức hoạt động khuyến

mại nhưng khi có hành vi không lành mạnh thì Luật cạnh tranh lại điều chỉnh,

do vậy việc quản lý sẽ rất khó khăn và tốn kém nguồn nhân lực, vì hành vi

khuyến mại và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh rất gần nhau,

khi một doanh nghiệp đăng ký tổ chức hoạt động khuyến mại thì Luật thương

mại điều chỉnh, nhưng nếu trong quá trình tổ chức hoạt động khuyến mại đó

doanh nghiệp có hành vi không lành mạnh thì Luật cạnh tranh sẽ được áp

dụng để giải quyết, trong quá trình xử lý lại phải xem xét doanh nghiệp tổ

chức hoạt động khuyến mại có đúng trình tự thủ tục không, như vậy quá trình

giải quyết vụ việc vi phạm sẽ trở nên kéo dài và phức tạp vì phải qua nhiều

khâu thủ tục trước khi xử lý. Một số hạn chế của pháp luật hiện hành về

khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh:

 Thứ nhất, các điều khoản trong luật còn quy định chung chung,

chưa rõ ràng cụ thể. Ví dụ như thuật ngữ “như nhau” trong hành vi bị cấm

được quy định tại Luật cạnh tranh “Phân biệt đối xử với các khách hàng như

nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương

trình khuyến mại”. Các khách hàng “như nhau” thì cần được hiểu tiêu chí nào

là như nhau, điều này vẫn chưa được pháp luật làm rõ. Cần một cách hiểu rõ

61

ràng hơn đối với quy định này của Luật Cạnh tranh. Hay khái niệm về

“khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh” cũng cần được quy định cụ

thể hơn.

 Thứ hai, pháp luật quy định về trách nhiệm của thương nhân

khuyến mại chưa thật sự đầy đủ để bảo đảm lợi ích của khách hàng. Trên

thực tế, khách hàng phải chịu thiệt thòi do những gian lận trong khuyến mại

của thương nhân, do các sai sót kỹ thuật trong in ấn, tem phiếu vật phẩm có

chứa đựng thông tin về lợi ích vật chất mà khách hàng được hưởng trong đợt

khuyến mại.

Ví dụ: Một khách hàng của công ty sữa Hanoimilk đã mua sản phẩm

sữa IZZI trong đợt khuyến mại từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 15 tháng 8 năm

2005 với một thẻ cào có thông tin trúng thưởng ba mươi triệu đồng (sau khi

cào phần nhũ bạc). Khi liên hệ với công ty nhận thưởng, khách hàng nhận

được trả lời “phiếu cào đó không hợp lệ". Sau khi sự việc xảy ra Công ty

TNHH Sáng Tạo (đơn vị thực hiện toàn bộ thẻ cào của đợt khuyến mại theo

hợp đồng đã ký với Hanoimilk) đã thừa nhận lỗi sai sót kỹ thuật lợi ích mà

khách hàng nhận được trong trường hợp này chỉ là lời xin lỗi của Hanoimilk,

bởi vì không tìm thấy quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành làm cơ sở

pháp lý bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong trường hợp này”.

 Thứ ba, để đảm bảo tính trung thực của thương nhân về giải

thưởng trong chương trình khuyến mại mang tính may rủi, pháp luật quy định

“thương nhân có nghĩa vụ thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông

báo và cam kết với khách hàng” là chưa đủ. Thực tiễn cho thấy, trong

chương trình khuyến mại của bia Tiger “bật nắp chai trúng thưởng” với cơ

cấu hai trăm ngàn giải thưởng, trong đó có 6 xe ôtô BMW của một công ty

bia, không ai có thể chắc chắn rằng có đủ hai trăm ngàn giải thưởng với 6 nắp

chai in hình BMW trong số sản phẩm được bán trong khuyến mại. Theo Cục

Xúc tiến thương mại, trong tổng số 215 tỷ đồng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng

để khuyến mại mà thương nhân đăng ký chương trình khuyến mại, tổng số

62

giá trị giải thưởng đã rất thấp, chỉ đạt 6 tỷ đồng chiếm 3% tổng số tiền dành

cho khuyến mại đã đăng ký. Trong khi thương nhân vẫn tiêu thụ được hàng

hóa mà số lượng giải thưởng đã trao quá ít như vậy thì việc vi phạm ngĩa vụ

thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo là khả năng đã xảy ra”.

Vì vậy khó có thể kiểm soát tính trung thực của thương nhân khi thực hiện

khuyến mại bằng hình thức này, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và quyền lợi

khách hàng được đảm bảo.

 Thứ tư, thiếu quy định về xử lý hình sự đối với thương nhân là

pháp nhân khi vi phạm pháp luật trong hoạt động khuyến mại. Bộ luật hình

sự hiện hành quy định chủ thể của trách nhiệm hình sự là cá nhân, trong khi

đó có thể xuất hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội do cá nhân thực hiện

nhưng với danh nghĩa của pháp nhân. Ví dụ: hành vi lừa dối khách hàng,

hành vi làm tem vé giả của pháp nhân. Trong những trường hợp đó, việc xử

lý hình sự đối với cá nhân sẽ thiếu cơ sở, không công bằng và không có tác

dụng tích cực ngăn ngừa đối với pháp nhân".

 Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại

Luật Cạnh tranh tuy có quy định các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh nhưng chỉ mới điều chỉnh các hành vi này bằng mệnh lệnh hành chính.

Vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra

không được quy định cụ thể mà Luật lại dẫn chiếu đến pháp luật dân sự (Điều

117 Luật Cạnh tranh). Như vậy, vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối

với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định

về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật dân sự năm 2005. Để cho

các quy định về bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi c ạnh tranh không

lành mạnh triển khai được trong thực tế rất nhiều vấn đề pháp lý được đặt ra

cần có sự hướng dẫn, giải thích từ các cơ quan có thẩm quyền (nhất là từ phía

Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công

Thương). Trong các vấn đề ấy, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau:

63

- Xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại

do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra? Theo thông lệ chung

của các nước, đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, chủ thể tiến

hành khởi kiện chủ yếu là các đối thủ cạnh tranh. Vậy nên chăng, pháp

luật nước ta quy định rõ về vấn đề này.

- Những loại chế tài dân sự nào có thể áp dụng cho chủ thể có hành vi

cạnh tranh không lành mạnh. Theo quy định tại Điều 9 Bộ luật dân sự

năm 2005, khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm, chủ thể có

quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (trong đó có Tòa án) áp

dụng một trong các hình thức sau: a) công nhận quyền dân sự; b) buộc

chấm dứt hành vi vi phạm; c) buộc xin lỗi, cải chính công khai; d) buộc

thực hiện nghĩa vụ dân sự; đ) buộc bồi thường thiệt hại. Bởi vậy, cần

xác định rõ những loại chế tài nào sẽ được áp dụng cho các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh.

- Về mức bồi thường thiệt hại và xác định mức bồi thường thiệt hại.

Vấn đề xác định mức bồi thường thiệt hại thực tế do hành vi cạnh tranh

không lành mạnh gây ra luôn là vấn đề phức tạp. Để đơn giản hóa,

pháp luật một số quốc gia đã đưa ra quy tắc, lợi nhuận thu được của

chủ thể có hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ đương nhiên thuộc

về chủ thể bị cạnh tranh không lành mạnh. Đây cũng là kinh nghiệm tốt

mà Việt Nam nên tham khảo và có chính sách rõ ràng về vấn đề này.

 Thứ sáu, nên tách cạnh tranh không lành mạnh ra khỏi Luật

Cạnh tranh thành văn bản riêng hoặc đưa về lĩnh vực pháp lý có liên quan.

Ví dụ như một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến Sở hữu

trí tuệ thì đưa về Luật Sở hữu trí tuệ điều chỉnh. Hành vi quảng cáo, khuyến

mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh có thể đưa về Luật Thương mại, Luật

Bảo vệ người tiêu dùng. Hành vi gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp khác nên đưa về Bộ Luật Dân Sự, Bộ Luật

64

Hình Sự, hành vi bán hàng đa cấp bất chính nên quy định ở một Nghị định

riêng.

 Thứ bảy, đối với hình thức phạt tiền, không nhất thiết quy định

khung xử phạt cụ thể đối với các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không

lành mạnh. Theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, theo đó

mức tiền được ấn định trước và được quy định theo khung tiền phạt. Quy đinh

về mức tiền phạt cụ thể như thế này có ưu điểm là dễ áp dụng trên thực tế, khi

có hành vi vi phạm, cơ quan nhà nước chỉ cần đưa ra mức phạt tiền trong

khung đã được quy định.Tuy nhiên, quy định khung tiền phạt thường nhanh

chóng lạc hậu theo thời gian và không mang tính răn đe với các đối tượng vi

phạm. Bởi thực tế cho thấy những hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể

còn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp hơn số tiền phạt họ phải gánh chịu.

65

KẾT LUẬN

Trước tình hình kinh tế hiện nay, với sự đa dạng về hàng hóa và dịch

vụ thì khuyến mại trở thành công cụ cần thiết hỗ trợ cho doanh nghiệp trong

quá trình tiêu thụ sản phẩm. Đó là biện pháp kích cầu cho sự phát triển của

một nền kinh tế và mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau

trong môi trường lành mạnh. Tuy nhiên, không ít doanh nghiệp lợi dụng

khuyến mại để cạnh tranh không lành mạnh, lừa dối người tiêu dùng làm ảnh

hưởng môi trường kinh doanh. Từ những thực trạng đang diễn ra người viết

cho rằng cần nên điều chỉnh lại hệ thống pháp luật về hoạt động khuyến mại,

khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh và những văn bản luật có liên

quan để hệ thống pháp luật được hoàn chỉnh hơn, cùng bổ sung và thống nhất

trong việc quản lý. Bên cạnh, còn phải tăng cường tính độc lập của Cơ quan

quản lý cạnh tranh trong việc xét xử các hành vi vi phạm hoạt động khuyến

mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh để tạo sự công bằng và minh bạch cho

môi trường cạnh tranh chung. Ngoài những biện pháp trên các ngành, các cấp

có liên quan phải tập trung nâng cao ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng

trước những thủ đoạn của doanh nghiệp bất chính. Có như vậy thì hành lang

pháp lý của Luật cạnh tranh mới thật sự vững chắc, hoàn chỉnh và khả năng

thực thi cao. Tính độc lập của Cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ ngăn chặn được

tình trạng mất công bằng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà

nước, góp phần ổn định hơn môi trường cạnh tranh tạo tiền đề cho sự phát

triển kinh tế đất nước. Khi một chế tài đã đủ mạnh và đủ sức thuyết phục thì

tính răn đe sẽ đạt hiệu quả cao, tạo rào cản đối với những doanh nghiệp muốn

vi phạm để những doanh nghiệp này hoạt động trong khuôn khổ của pháp

luật. Thêm vào đó, ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng có tốt thì doanh

nghiệp sẽ không dám làm ăn gian dối, thiếu trung thực, mà sẽ luôn đặt lợi ích

của người tiêu dùng lên hàng đầu.

Từ những ý kiến đề xuất trên, người viết hy vọng sẽ đóng góp phần

nào vào hệ thống pháp lý về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động

66

khuyến mại, giúp hành lang pháp lý về lĩnh vực này ngày càng ổn định và

vững chắc hơn, tạo tiền đề mới cho pháp luật cạnh tranh được thực thi một

cách hiệu quả trên thực tế.

67

DANH MỤC TÀI LIỆU

Luật thương mại năm 2005. 1.

Luật canh tranh năm 2004 2.

3. Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 quy định chi tiết thi hành

một số điều của Luật cạnh tranh.

4. Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2005 quy định về xử

phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

5. Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết

Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.

6. Nghị định 68/2009/NĐ- CP ngày 06 tháng 08 năm 2009 sửa đổi, bổ

sung khoản 7 Điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm

2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến

thương mại.

7. PGS.TS. Lê Danh Vĩnh (2010), Giáo Trình Luật Cạnh tranh, Đại học

Quốc Gia TP. HCM, Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Văn Cương (2008), Mô hình nào cho cơ quan quản lý cạnh

tranh ở Việt Nam, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật.

9. Trần Dũng Hải( 2008), Mấy ý kiến về hoạt động khuyến mại và vai trò

của pháp luật Việt Nam hiện nay, Nhà nước và pháp luật(số 6), tr.54.

10. Nguyễn Thị Dung(2007), Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt

Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,

trang.45.

11. Nguyễn Như Ý chủ biên(1998), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa

Thông tin, Hà Nội, tr.928.

12. Chu Bích Thu chủ biên( 2002), Từ điển từ mới tiếng Việt, nxb

Tp.HCM, Tp.HCM, tr.126

13. Hoàng Phê chủ biên(2005), Từ điển Việt Nam, NXB Đà Nẵng- Trung

tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng.

68

14. Nguyễn Xuân Quang chủ biên, Giáo trình Marketing Thương Mại,

NXB Lao Đông- Xã Hội , Hà Nội

15. Ngô Thảo Trang (2009), Pháp luật về khuyến mại ở Việt Nam. Thực

tiễn và hướng hoàn thiện, Luận văn tốt nghiệp cử nhân, Khoa Luật( Trường

Đại học Cần Thơ), Cần Thơ.

16. Huỳnh Thị Bích Liên (2011), Pháp luật về cạnh tranh không lành

mạng trong lĩnh vực khuyến mại, Luận văn tốt nghiệp cử nhân, Khoa Luật(

Trường Đại học Cần Thơ), Cần Thơ.

17. Nguyễn Lâm Duy Linh (2008), Pháp luật về cạnh tranh không lành

mạnh trong hoạt động quảng cáo và khuyến mại, Luận văn tốt nghiệp cử

nhân, Khoa Luật( Trường Đại học Cần Thơ), Cần Thơ.

18. http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-phan-tich-mot-vu-viec-thuc-tien-

ve-hanh-vi-khuyen-mai-nham-canh-tranh-khong-lanh-manh-57226/

19. http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-phan-tich-mot-vu-viec-thuc-tien-

ve-hanh-vi-khuyen-mai-nham-canh-tranh-khong-lanh-manh-57226/

20. http://www.dankinhte.vn/dac-diem-cua-hanh-vi-canh-tranh-khong-

lanh-manh/

21. http://www.dhluathn.com/2014/10/thuc-trang-phap-luat-canh-tranh-

viet.html

22. http://vietbao.vn/Kinh-te/Khuyen-mai-thieutrung-thuc/20053024/87/

23. http://www.baobinhdinh.com.vn/thuditinlai/2009/1/71106/

24. http://vietbao.vn/Anninh-Phap-luat/Hoa-giai-khong-thanh-vu-kien-

khuyen-mai-sua-Dumex/10952268/218/.

25. Http://vietbao.vn/Kinhte/Gian-doi-trong-chuong-trinh-khuyen-mai-cua-

LG/10952177/87/

26. Http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/10/12/3927/

69