
Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Thu Hiền – HC32A
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước.
Thực trạng và giải pháp
1
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội ra đời, tồn tại và phát
triển trong mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong lịch sử có ba hình thức pháp
luật được các Nhà nước sử dụng là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy
phạm pháp luật (VBQPPL). Trong đó, VBQPPL là hình thức pháp luật tiến bộ
nhất và hiện đại nhất được sử dụng trong tất cả các Nhà nước.
“Văn bản quy phạm pháp luật” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi
trên sách báo pháp lý và các văn bản của Nhà nước. Theo Điều 1 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 quy định: VBQPPL là văn bản do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó
có quy tắc xử sự chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa và được sửa đổi, bổ sung trong
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008: “VBQPPL là văn bản do
cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức,
trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc
xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để
điều chỉnh các quan hệ xã hội”.
Mặc dù khái niệm VBQPPL đã được sửa đổi, bổ sung nhưng khái niệm
này vẫn còn điểm chưa hợp lý, cụ thể là quy định về chủ thể ban hành. Tại Điều
1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, chủ thể ban hành
VBQPPL chỉ thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong khi đó tại Khoản
3, 5, 7, 9 Điều 2 Luật này lại liệt kê các văn bản do cá nhân có thẩm quyền ban
hành như: Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối

Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Thu Hiền – HC32A
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước.
Thực trạng và giải pháp
2
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, Tổng kiểm toán nhà nước. Quy định này của Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2008 có thể làm cho đối tượng thi hành luật hiểu
các đối tượng nêu trên cũng là cơ quan nhà nước.
Như vậy, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật có thể được hiểu đúng
là: “VBQPPL là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được
quy định trong Luật này hoặc Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc sử xự chung, có hiệu
lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan
hệ xã hội”.
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, hoặc phối hợp ban hành.
Như vậy, dấu hiệu đầu tiên để nhận biết VBQPPL là văn bản đó phải
được ban hành bởi những cơ quan nhà nước có thẩm quyền và những cá nhân
được Nhà nước trao quyền. Những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
VBQPPL hiện nay bao gồm : Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân các cấp, có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau, hoặc giữa
những cơ quan nhà nước có thầm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức
chính trị - xã hội để ban hành VBQPPL liên tịch. Những cá nhân có thẩm quyền
ban hành VBQPPL là Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, Tổng Kiểm toán nhà nước và sự phối hợp ban hành văn bản giữa các
chủ thể này như phối hợp giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Thu Hiền – HC32A
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước.
Thực trạng và giải pháp
3
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo hình thức, thủ tục và
hình thức do pháp luật quy định.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của VBQPPL trong hoạt động quản lý nhà
nước, từ yêu cầu đảm bảo sự chặt chẽ, thống nhất cho hoạt động xây dựng và
ban hành VBQPPL. Chính vì vậy, để đảm bảo chất lượng VBQPPL, Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm 2002 cũng
như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đều quy định khá chi
tiết, cụ thể và hợp lý về thủ tục ban hành VBQPPL. Theo đó, các VBQPPL được
ban hành đều phải thực hiện các hoạt động như: lập chương trình, soạn thảo,
thẩm tra, thẩm định, lấy ý kiến góp ý cho dự thảo văn bản cho đến thông qua, ký
, công bố, tất cả đều phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, một văn bản được coi là VBQPPL phải được ban hành đúng
hình thức do pháp luật quy định. “Hình thức VBQPPL là sự thể hiện bên ngoài
nội dung của VBQPPL đó”.[1, tr.19] Thông thường, hình thức của VBQPPL
chủ yếu được hiểu là tên gọi của văn bản. Theo quy định tại Điều 2 Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì mỗi cơ quan nhà nước hoặc cá
nhân có thẩm quyền được phép ban hành VBQPPL với những tên gọi nhất định.
“Việc quy định rõ hình thức VBQPPL trong luật có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc,
đặc biệt trong quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Đối với một số loại
VBQPPL, nhìn vào hình thức văn bản đối tượng thi hành có thể nhận biết ngay
chủ thể ban hành văn bản, sự nhận biết này góp phần thể hiện tính công khai,
minh bạch của hệ thống pháp luật”.
Văn bản quy phạm pháp luật có nội dung là các quy phạm pháp luật
mang tính bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần, đối với nhiều đối tượng, có
hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Các quy tắc xử sự là những khuôn mẫu, những chuẩn mực mà mọi cơ quan,

Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Thu Hiền – HC32A
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước.
Thực trạng và giải pháp
4
tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia quan hệ xã hội được các quy tắc đó
điều chỉnh.
Với nội dung là các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí
Nhà nước, cho nên VBQPPL luôn luôn mang tính bắt buộc chung, được Nhà
nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp như tuyên truyền, giáo dục,
thuyết phục, hành chính, kinh tế, và trong trường hợp cần thiết thì áp dụng cả
những biện pháp cưỡng chế với những người không tuân thủ các quy tắc xử sự
được chứa đựng trong VBQPPL.
Tính bắt buộc chung của VBQPPL được hiểu là bắt buộc đối với mọi chủ
thể nằm trong những điều kiện, hoàn cảnh mà quy phạm pháp luật đã dự liệu.
Quy phạm pháp luật đặt ra cho nhóm chủ thể được dự kiến trong những tình
huống nhất định chứ không phải là cho những chủ thể cụ thể. Đây là điểm khác
biệt với văn bản áp dụng pháp luật vì vậy VBQPPL có tính chất được áp dụng
lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống, còn văn bản áp dụng pháp luật thì chỉ có
hiệu lực duy nhất một lần.
Văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong phạm vi cả nước hoặc từng
địa phương tùy thuộc vào thẩm quyền của chủ thể ban hành cũng như nội dung
mỗi văn bản. Thông thường,VBQPPL do cơ quan nhà nước ở trung ương ban
hành có hiệu lực pháp lý trên phạm vi cả nước, còn VBQPPL do cơ quan nhà
nước ở địa phương ban hành có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ địa phương đó.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp VBQPPL do cơ quan nhà nước ở trung ương ban
hành nhưng có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ địa phương xuất phát từ tính đặc
thù của địa phương đã quyết định tới nội dung văn bản.
Trong phạm vi đề tài em chỉ đề cập tới nhóm VBQPPL trong lĩnh vực đất
đai. Nhóm VBQPPL trong lĩnh vực đất đai này cũng mang những đặc điểm của
VBQPPL nói chung như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, quan hệ xã hội mà nhóm
VBQPPL trong lĩnh vực đất đai điều chỉnh không phải là quan hệ xã hội chung
chung mà cụ thể là điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai (quan hệ đất

Khóa luận tốt nghiệp Bùi Thị Thu Hiền – HC32A
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước.
Thực trạng và giải pháp
5
đai). “Quan hệ đất đai là quan hệ giữa người với nhau trong việc quản lý, khai
thác hưởng dụng đất đai, trong đó Nhà nước giữ vị thế người đại diện chủ sở
hữu toàn dân về đất đai”. [3, tr.29]
1.2. Thẩm quyền ban hành VBQPPL của các cơ quan nhà nước trong
lĩnh vực đất đai.
Việc quy định về thẩm quyền ban hành VBQPPL là hết sức cần thiết đối
với hoạt động ban hành VBQPPL. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2008 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền” ban hành là một yếu tố không thể thiếu, là điều kiện tiên quyết để
thừa nhận tính quy phạm pháp luật của văn bản. Việc nhấn mạnh dấu hiệu này
của VBQPPL xuất phát từ nguyên tắc cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước.
Như đã rõ, thẩm quyền ban hành VBQPPL là một nội dung quan trọng của quản
lí nhà nước theo nghĩa rộng của cụm từ này, tương tự như vậy thẩm quyền ban
hành VBQPPL trong lĩnh vực đất đai là nội dung đầu tiên, quan trọng trong việc
thống nhất quản lý đất đai của Nhà nước, điều này đã được ghi nhận trong Hiến
Pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cụ thể hơn tại Điều 6 Luật
Đất Đai năm 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Hoạt động ban hành văn bản
chứa đựng các quy tắc xử sự chung và có tính bắt buộc thi hành là hoạt động
mang tính quyền lực Nhà nước. Vì vậy, thẩm quyền ban hành VBQPPL nói
chung và VBQPPL trong lĩnh vực đất đai nói riêng trước hết là thẩm quyền của
các chủ thể thực thi quyền lực Nhà nước. Thẩm quyền ban hành VBQPPL trong
lĩnh vực đất đai được quy định trong nhiều văn bản pháp luật gồm: Hiến pháp,
cụ thể hơn tại Luật Đất đai và các văn bản pháp luật khác.
Thẩm quyền ban hành VBQPPL nói chung được thể hiện tại Điều 2 Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Tuy nhiên, với nhóm
VBQPPL trong lĩnh vực quản lý đất đai thì chủ thể có thẩm quyền ban hành ở
phạm vi hẹp hơn.