ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN TRƯƠNG THU HUYỀN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG

VIỆT NAM LÀM VIỆC TẠI NHẬT BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2014-L

HÀ NỘI, 2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN TRƯƠNG THU HUYỀN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG

VIỆT NAM LÀM VIỆC TẠI NHẬT BẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2014-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.S Nguyễn Lê Thu

HÀ NỘI, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin

cậy và trung thực.

Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ

Khóa luận tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

i

Nguyền Trương Thu Huyền

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. iii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................ iv

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ............... 5

1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội ......................................................... 5

1.1.1.Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội trên thế giới ............................... 5

1.1.2.Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam ................................... 8

1.2. Khái niệm và phân loại Bảo hiểm xã hội ...................................................................... 10

1.2.1.Khái niệm Bảo hiểm xã hội ............................................................................................ 10

1.2.2.Phân loại Bảo hiểm xã hội .............................................................................................. 12

1.3. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội......................................................................................... 14

1.4. Vai trò bảo hiểm xã hội..................................................................................................... 16

1.4.1. Đối với người lao động ................................................................................................... 16

1.4.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động ................................................................................ 16

1.4.3. Đối với nền kinh tế - xã hội ........................................................................................... 17

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI ......................................................... 18

2.1. Khái niệm người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài .................................. 18

2.1.1. Pháp luật Quốc tế ............................................................................................................. 18

2.1.2. Pháp luật Việt Nam ......................................................................................... 24

2.2. Chế độ Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài 27

2.2.1. Quyền hưởng Bảo hiểm xã hội cho người lao động di trú .............................. 27

2.2.2. Quyền được hưởng Bảo hiểm xã hội của người lao động Việt Nam đi làm

việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam .............................................................. 29

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI VIỆT NAM LAO ĐỘNG

Ở NHẬT BẢN ......................................................................................................... 39

3.1. Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản. .. 39

3.2. Thực trạng Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc

i

theo hợp đồng ở Nhật Bản......................................................................................................... 44

3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao

động Việt Nam làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản. ........................................................ 52

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 57

ii

DANH MỤC THAM KHẢO .................................................................................. 58

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ Viết tắt

Bảo hiểm xã hội BHXH

Tổ chức Lao động quốc tế ILO

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa ICESCR

Công ước quốc tế về các quyền của người lao động di trú và ICRMW

các thành viên trong gia đình họ

NLĐ Người lao động

NSDLĐ Người sử dụng lao động

TNLĐ-BNN Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp

iii

Quỹ BHXH Quỹ Bảo hiểm xã hội

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

STT Số hiệu bảng Tên bảng Trang

Bảng 3.1 Một số nước/vùng lãnh thổ tiếp nhận người lao 40 1

động Việt Nam nhiều nhất năm 2012-2016

Bảng 3.2 Tình hình lao động Việt Nam đang làm việc tại 43 2

nước ngoài/vùng lãnh thổ bên ngoài và mức thu

iv

nhập trung bình hằng tháng năm 2014

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong thời đại toàn cầu hóa không chỉ đặc trưng bời tự do hóa thương mại,

dịch vụ, đầu tư và vốn, mà còn bởi phong trào xuyên quốc gia của người dân để tìm

kiếm cuộc sống tốt hơn và có cơ hội việc làm nhiều hơn. Vì vậy, người lao động di

chuyển từ nước này sang nước khác đã trở thành hiện tượng khá phổ biến, tuy

không nhộn nhịp như tư bản và công nghệ nhưng lao động cũng là một yếu tố sản

xuất ngày càng vượt biên giới tìm nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác với

sự di chuyển của lao động tri thức đã có từ trước thì xuất và nhập khẩu lao động

giản đơn hay lao động chân tay, lao động phổ thông là hiện tượng không còn mới

trong giai đoạn hiện nay.

Trên thế giới hiện tại, có hai loại lao động di cư cơ bản: di cư từ vùng này

đến vùng khác trong phạm vi biên giới của một quốc gia và di cư từ quốc gia này

đến quốc gia khác. Trong phạm vi bài nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu sâu

trong lĩnh vực bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động di cư nhất là đối với lao

động Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể là chế độ Bảo hiểm xã hội

dành cho người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài.

BHXH là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, vì vậy việc hoàn thiện chính

sách BHXH đóng vai trò to lớn trong việc góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho

cán bộ, công chức, quân nhân và NLĐ. Đối với nước ta bảo đảm ngày càng tốt hơn

hệ thống an sinh xã hội luôn là chủ trương, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, thể

hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định

chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước.

Ở nước ta, pháp luật BHXH đã được Nhà nước ban hành và thực hiện hơn

60 năm nay. Do hoàn cảnh lịch sử đất nước nên pháp luật BHXH được hình thành

và phát triển trong cơ chế quản lý hành chính, tập trung bao cấp. Hiện nay, Việt

Nam đang trên đà phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước nên chúng ta cũng không thể nằm ngoài bối cảnh

chung của thế giới được. Trong thực tế hiện nay, hệ thống pháp luật BHXH của

chúng ta đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm cả về mặt lý luận cũng như mặt thực

tiễn; cả trên mặt pháp luật cũng như việc tổ chức thực hiện. Để có căn cứ cho việc

1

hoàn thiện pháp luật BHXH cũng như hoàn thiện chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam

làm việc ở nước ngoài cho phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội đồng thời phải

đồng bộ với các quy định của pháp luật kinh tế, xã hội khác có tính đến pháp luật

Nhật Bản thì việc nghiên cứu “chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt

Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” là rất cần thiết.

Với những lý do trên, người thực hiện đề tài đã lựa chọn đề tài “Pháp luật

Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn

Nhật Bản” để viết với mong muốn là được góp một phần vào công viêc nghiên cứu

nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động

Việt Nam làm việc ở nước ngoài.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

BHXH không phải vấn đề mới nhưng nó trở thành mối quan tâm của các

nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Trong thời gian gần đây, nhiều nhà khoa

học, nhà nghiên cứu và những người quan tâm đến BHXH đã có nhiều bài viết,

công trình khoa học nhằm đóng góp ý kiến xây dựng hệ thống BHXH ở nước ta:

cuốn sách “Pháp luật an sinh xã hội – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Tiến

sĩ Nguyễn Hiền Phương, Phạm Lan Hương (2012) “Pháp luật về bảo hiểm xã hội

bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bản tỉnh Phú Thọ”, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Thị Lan Hương (2012) với nội dung “Pháp luật

về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ

Luật Kinh tế, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội . Bên cạnh đó, rất nhiều bài

viết của các nhà khoa học trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành về nội dung

BHXH: PGS. Lê Thị Hoài Thu Lê Thị Hoài Thu (2002) với nội dung “Bảo hiểm xã

hội trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam” trên tạp chí khoa học ĐHQGHN

Kinh tế - Luật, Lưu Quang Tuấn (2007) với nội dung “Đánh giá các chế độ Bảo

hiểm xã hội hiện hành ở Việt Nam” trên tạp chí nghiên cứu kinh tế …

Bên cạnh đó vấn đề người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài

cũng có các công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu dưới khía cạnh như: Hoàng Kim

Khuyên (2011) với nội dung “Bảo vê quyền và lợi ích của người lao động Việt Nam

đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước

hữu quan”, Luận văn thạc sĩ Luật Quốc tế, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,

Bùi Thị Hòa (2014) với nội dung “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người lao

động di trú ở Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ ngành Pháp luật về quyền con người,

2

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguyễn Thị Thu Hiền (2015) với nội dung

“Hợp đồng đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài”, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội , Nguyễn Phúc Khanh (2004) “Xuất

khẩu lao động với chương trình quốc gia về việc làm – Thực trạng và giải pháp” –

Đề tài khoa học cấp Bộ, Phan Huy Đường(2009), bài viết Nâng cao chất lượng dịch

vụ của nhà nước về bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam ở nước ngoài, Tạp

chí Kinh tế và phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân …

Ở mức độ nhất định, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá và đưa

ra những kiến nghị liên quan đến việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đưa

người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc thông qua hình thức hợp đồng và

tình hình BHXH trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam những hầu như các bài

trên chưa đánh giá được một cách toàn diện những bất cập của chế độ BHXH cho

NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Do đó, đề tài khóa luận “Pháp luật Bảo hiểm xã hội đối với người lao động

Viêt Nam làm viêc ở nước ngoài tại địa bàn Nhật Bản” sẽ là một công trình nghiên

cứu các vấn đề xoay quanh chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước

ngoài về đối tượng hưởng chế độ BHXH, cách thức đóng quỹ BHXH, mức độ

hưởng các chế độ BHXH cho NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài kể từ khi

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực. Trên cơ sở đó đánh giá những tác

động, ảnh hướng của pháp luật Viêt Nam với thực tiến điều chỉnh quan hệ đưa

người Việt Nam đi làm việc ở Nhật Bản theo hợp đồng nhằm đề xuất giải pháp,

kiến nghị hướng tới việc hoàn thiện pháp luật phù hợp xu thế vận động của thị

trường lao động quốc tế.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài

- Nghiên cứu vấn đề lí luận BHXH và chính sách về BHXH ở nước ta

dành cho NLĐ Việt Nam làm việc tại Nhật Bản hiện nay: các chế độ BHXH bắt

buộc, BHXH tự nguyện, BHTN được qui định trong pháp luật – Thực trạng áp dụng

qui định pháp luật về BHXH trong thực tế, những kết quả đạt được và những tồn

tại cần khắc phục để đảm bảo BHXH là công cụ hữu hiệu nhất của sàn an sinh xã

hội ở nước ta trong thời gian tới.

- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả

pháp luật về BHXH; đóng góp những ý kiến đề xuất cho việc sửa đổi Luật BHXH

3

để phù hợp thực tế cuộc sống và sự phát triển của nước ta trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng nghiên cứu

Khóa luận tập trung nghiên cứu pháp luật BHXH trong đó cụ thể là BHXH

bắt buộc đối với NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản – là đối tượng tham gia

BHXH bắt buộc được qui định trong các văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay.

b. Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận tập trung vào các vấn đề lí luận của pháp luận về BHXH đối với

NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài cụ thể là làm việc trên địa bàn Nhật Bản

đang được qui định trong Luật BHXH năm 2014 và các văn bản hướng dẫn. Ngoài

ra, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, đề tài còn tập trung nghiên cứu đánh

giá thực trạng pháp luật BHXH cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này trong

thực tế ở nước ta hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện

chứng, phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin.

- Các phương pháp khác: Thu thập tài liệu, tư liệu, số liệu; phân tích tổng

hợp; so sánh; đồ thị; tham khảo ý kiến chuyên gia…

6. Tính đóng góp của đề tài

- Hoàn thiện khóa luận này, hi vọng những kiến thức khoa học trong khóa

luận sẽ đánh giá một cách khái quát thực trạng pháp luật BHXH cho NLĐ Việt

Nam làm việc ở nước ngoài cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này trong thực

tế ở nước ta hiện nay.

- Mong rằng những kiến nghị được đề xuất trong khóa luận này sẽ là

những ý kiến đóng góp vào việc sửa đổi Luật BHXH trong thời gian tới.

7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục

viết tắt, khóa luận gồm 3 phần:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về Bảo hiểm xã hội

Chương 2: Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm

việc ở nước ngoài.

Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo

4

hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm việc ở Nhật Bản.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội

1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội trên thế giới

Để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, con người cần phải lao

động. Nhưng trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ

điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn khác để có một cuộc

sống hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh

như ốm đau, tai nạn, già yếu, thiếu việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của

những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào

các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái

lại còn tăng lên, thậm chí xuất hiện nhiều nhu cầu mới. Bởi vậy, để khắc phục

những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự

mình khắc phục, người lao động cần sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội.Sự tương

trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá

trình phát triển của xã hội, đặc biệt là sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống

BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hóa

làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ chủ yếu dựa

vào thu nhập do lao động làm thêm đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các

trường hợp bị ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu... đã trở thành mối đe dọa đối

với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác

ngoài tiền lương. Điều đó đòi hỏi phải có sự tương thân, tương ái giữa những người

lao động, đồng thời đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp nhằm bảo đảm

cuộc sống cho họ.

Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu

cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật nhằm

san sẻ rủi ro giữa những người lao động.[28]

Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham

gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề

nghiệp, tuổi già, tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hướng mới với

cơ chế ba bên: người lao động, giới chủ và Nhà nước nhằm để ý nghĩa bảo vê người

5

lao động có hiệu quả hơn. Đồng thời, sự bảo vệ này đã được mở rộng ra không chỉ

là đối tượng mà cả nội dung bảo vệ. Đối tượng được bảo vệ ngày càng được mở

rộng từ người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp đến người lao

động tự tạo việc làm, lao động nông nghiệp. Nội dung bảo vệ cũng được mở rộng,

ban đầu mới chỉ là bảo vệ người lao động trước những rủi ro do ốm đau, thì 100

năm sau phạm vi bảo vệ đã nới rộng như các tai nạn lao động, thương tật (trong quá

trình lao động), tuổi già, tử tuất... (ngoài quá trình lao động). Các chế độ BHXH đã

trở thành một hệ thống với nhiều đôi tượng tham gia và thụ hưởng khác nhau, với

nhiều mô hình thực hiện khác nhau. Mặc dù vậy, đối tượng bảo vệ của bảo hiểm xã

hội vẫn nhỏ hẹp so với cả cộng đồng dân cư. Để xã hội được ổn định và phát triển,

một trong những nền tảng cơ bản là đời sống của người dân phải được an toàn,

được đảm bảo.

Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ

Latin, Bắc Mỹ, Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới

thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và

vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh

xã hội, được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền cơ bản của của

con người.

Bảo hiểm xã hội ra đời và lan rộng rất nhanh. Quá trình phát triển của

BHXH trải qua các mốc sau:

+ Năm 1838 chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời

lần đầu tiên ở nước Phổ (Cộng hòa liên bang Đức).

+ Năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức, Bỉ.

+ Năm 1883, nước Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH.

+ Năm 1894 và 1896 nước Bỉ và Hà Lan đã được ban hành Bộ luật đấu tiên

về các tổ chức tương tế.

+ Ở Mỹ, đạo luật đầu tiên về An sinh xã hội( trong đó BHXH là hạt nhân)

đươch ban hành vào năm 1935. Trong đạo luật này có quy định về chế độ bảo hiểm

tuổi già, tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.

+ Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II (1940-1945) có 3 sự kiện lớn đánh dấu

quá trình ra đời và phát triển BHXH, đó là:

- Tổ chức lao động quốc tế đã tổ chức thảo luận một số vấn đề liên quan

đến BHXH như: tàn tật và sinh đẻ liên quan đến lao động nữ. Vấn đề tử tuất của các

6

binh sỹ trong chiến tranh.

- Luật BHXH ở Mỹ đã được thông qua.

- Kế hoạch Beveridge (1942) đã được Chính phủ Bỉ thông qua để chuẩn bị

thành lập hệ thống BHXH ở Bỉ.

+ Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng liên hiệp quốc Tuyên ngôn nhân quyền và

trong đó có đoạn: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền về

kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”.

+ Ngày 25/6/1952, hội nghị toàn thể của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã

thông qua Công ước số 102 (công ước về an sinh xã hội)[52]. Nội dung công ước

được tập hợp từ các chế độ và các vấn đề an sinh xã hội đã có và thực hiện ở một số

nước trên thế giới trước đó. Sau Công ước số 102 đến nay hầu hết các nước ở Châu

á, Châu Phi và Châu Mỹ la tinh đều xây dựng cho mình một hệ thống BHXH phù

hợp với điều kiện kinh tế-xã hội; phù hợp với tương quan lực lượng giữa giới chủ

và giới thợ và phù hợp với thể chế chính trị trong mỗi thời kỳ ở từng nước. Cũng

sau công ước 102, một loạt các công ước quốc tế khác nhằm bổ sung, hoàn thiện và

cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến BHXH, như:

+ Công ước số 111 ra đời năm 1985, đề cập đến vấn đề việc làm và thất

nghiệp, chống phân biệt đối xử giữa những người lao động có mầu da, tôn giáo và

chủng tộc khác nhau.[58]

+ Công ước số 128 ra đời năm 1967 nói về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền

tuất.[59]

+ Công ước số 156 ra đời năm 1981 đã khuyến cáo các vấn đề về người lao

động và trách nhiệm gia đình[53].

+ Công ước số 158 ra đời năm 1982 nhằm mục đích chống lại việc giới chủ

cho người lao động thôi việc mà không có lý do chính đáng.[60]

Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của

giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế -xã hội, trình

độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày càng được nâng

cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không may gặp phải

những rủi ro của người lao động ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự

ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải

quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu

7

khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy cần thiết phải tham

gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu

cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu

khách quan, một trong những quyền cơ bản của con người như trong Tuyên ngôn

nhân quyền của Đại Hội động Liên hợp quốc đã nêu.

1.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam

BHXH ra đời, phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của Nhà nước Việt

Nam từ năm 1945, sau khi Cách mạng tháng 8 thành công và Nhà nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà ra đời. BHXH được coi là lĩnh vực có quá trình phát triển lâu đời

nhất trong hệ thống bảo đảm ở Việt Nam. Trong những năm qua, BHXH đã đóng

vai trò quan trọng trong bảo đảm xã hội cho người lao động, chủ yếu là công nhân

viên chức Nhà nước.

Cơ sở pháp lý đầu tiên của BHXH ở Việt Nam là Hiến pháp năm 1946.

Trên cơ sở của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh quy định về chế độ trợ

cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước, bao gồm sắc lệnh

số 29/SL ngày 12-03-1947, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-05-1950, Sắc lệnh số 77/SL

ngày 22-05-1950. Theo Hiến pháp năm 1946 và các Sắc lệnh đã ban hành, chế độ

BHXH lúc đó được thực hiện hoàn toàn theo nguyên tắc trợ cấp.

Cơ sở pháp lý của BHXH đã được hoàn thiện thêm một bước theo Hiến

pháp năm 1959, trong hoàn cảnh Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam- Bắc.

Hiến pháp năm 1959 thừa nhận công nhân viên chức có quyền được hưởng trợ cấp

BHXH. Nội dung này đã được cụ thể hoá trong điều lệ tạm thời về BHXH đối với

công nhân viên chức Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP ngày

27/12/1961 và điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP

ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Hai điều lệ về BHXH này đã trở thành căn cứ

pháp lý quan trọng cho việc thực hiện chế độ bảo hiểm ở miền Bắc XHCN từ đầu

năm 1962. Khi đó đối tượng tượng tham gia của chính sách BHXH là cán bộ của

đảng, đoàn thể, công chức Nhà nước, nhằm động viên, cổ vũ họ yên tâm phấn khởi

lao động sản xuất, góp phần trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc

và đấu tranh thống nhất đất nước.

Từ tháng 5 năm 1975, chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong

cả nước đã góp phần to lớn vào bảo đảm xã hội cho công nhân viên chức, đặc biệt

8

đối với lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhằm ổn định xã hội sau cuộc kháng

chiến kéo dài nhiều năm. Chế độ BHXH lúc đó được thực hiện trong cơ chế kế

hoạch hoá tập trung với những đặc trưng sau:

1. Đối tượng tham gia của BHXH chỉ giới hạn đối với công nhân, viên chức nhà

nước, lực lượng quân đội, vũ trang, cán bộ nhân viên của tổ chức đảng, đoàn thể.

2. Do cơ chế bao cấp, BHXH được thực hiện một cách “cào bằng” dẫn đến

nhiều đối tượng không đủ điều kiện cũng được hưởng, tạo ra sự ỷ lại vào Nhà nước.

3. Không hình thành quỹ BHXH độc lập mà việc thực hiện bằng nguồn

Ngân sách Nhà nước, vì vậy về thực chất Nhà nước đảm nhận toàn bộ trách nhiệm

BHXH.[47]

Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh

tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, bên cạnh khu vực kinh

tế Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã được

hình thành, phát triển và ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm,

thu nhập, đặc biệt là đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.

Sự đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính

sách xã hội nói chung và hệ thống BHXH nói riêng, trong đó có lĩnh vực BHXH

nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội. Văn kiện đại hội đảng lần thứ

VII đã nêu rõ: “Cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi NLĐ và đơn vị

kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp quỹ BHXH. Từng bước tách quỹ

BHXH đối với công nhân viên chức ra khỏi ngân sách, trở thành quỹ BHXH chung

cho NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế”.

Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã nêu rõ: “Mở rộng chế

độ BHXH đối với NLĐ thuộc các thành phần kinh tế”. Điều đó cũng chứng tỏ

Đảng đã chú trọng tới bảo đảm cuộc sống cho mọi người dân khi chuyển sang nền

kinh tế thị trường.

Ngày 26/01/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ

BHXH và Nghị định 19/NĐ-CP ngày 16/02/1995 quy định việc thành lập quỹ

BHXH, tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách nhà nước. Từ đây đánh dấu sự đổi mới

về chính sách BHXH ở nước ta nhằm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã

hội trong quá trình chuyển đổi kinh tế, thể hiện ở ba điểm chính sau:

Thứ nhất, hình thành quỹ BHXH độc lập, tách khỏi NSNN.

Thứ hai, quỹ BHXH được hình thành trên nguyên tắc cùng đóng góp giữa

9

NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước.

Thứ ba, mở rộng đối tượng tham gia tới NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế.

Ngày 28/06/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

chính thức thông qua Luật Bảo hiểm xã hội và có hiệu lực thực hiện loại hình

BHXH bắt buộc từ 01/01/2007

Ngày 20/11/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viêt Nam

thông qua Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật cũ hết hiệu lực.

1.2. Khái niệm và phân loại Bảo hiểm xã hội

1.2.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội

BHXH là một bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống an

sinh xã hội trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang trong quá trình phát

triển và hoàn thiện. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), an sinh xã hội (Social

Security) là sự bảo vệ của xã hội đối với mọi thành viên của mình thông qua một

loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do

bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất

nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho

các gia đình đông con. Ngày nay, khái niệm an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa

rộng hơn, đó là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên không may bị lâm

vào cảnh yếu thế trong xã hội, thông qua các biện pháp phân phối lại tiền bạc, của

cải và dịch vụ xã hội. Theo cách hiểu này, hệ thống an sinh xã hội bao gồm 2 bộ

phận cơ bản là bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội. Trong đó, bảo hiểm xã hội (Social

Insurance) là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội.

Có nhiều khái niệm khác nhau về BHXH được nêu ra trong các tài liệu tùy

theo phương diện tiếp cận của tác giả. Trong số đó, khái niệm bảo hiểm xã hội nêu

ra trong Từ điển Bách khoa Việt Nam và trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam

được coi là phù hợp nhất với đối tượng nghiên cứu về bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù

đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm

đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử

tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm

xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo an toàn đời sống

10

của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội”

Theo Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc

bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do

ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động

hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”

Hơn thế BHXH còn được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau:

Dưới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp, được coi là

sự bù đắp và thay thế phần thu nhập đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ khi họ bị

giảm hoặc mất thu nhập trên cơ sở thành lập và sử dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng

đồng những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Trong quá trình

lao động, đặc biệt trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa thì con người luôn gặp phải những khó khăn, rủi ro như: tai nạn

lao động, ốm đau, bệnh tật, mất việc làm, thất nghiệp. Chính vì vậy, để ổn định cuộc

sống NLĐ phải tìm đến các biện pháp đảm bảo thu nhập cho chính mình trong

những trưởng hợp rủi ro nói trên. NLĐ phải có một lượng vật chất đủ để đảm bảo

trang trải và bù đắp cho những tổn thất khi xảy ra, hoặc họ sẽ tham gia vào một hệ

thống BHXH. Khi đó, NLĐ đóng góp một khoản tiền vào nguồn quỹ chung (gọi là

quỹ BHXH), khi họ “gặp rủi ro” bị mất hoặc giảm thu nhập thì quỹ BHXH thực

hiện chức năng hỗ trợ bù đắp phần thu nhập đó cho NLĐ, nhằm giúp họ ổn định

cuộc sống.

Dưới góc độ xã hội, BHXH là một chính sách nhằm đảm bảo đời sống vật

chất cho NLĐ khi họ không may gặp các “rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo

an toàn xã hội.... Khi NLĐ gặp phải rủi ro trong cuộc sống thì những nhu cầu được

đặt ra như khắc phục khó khăn về kinh tế, chữa bệnh an dưỡng tuổi già... Vì vậy,

Nhà nước cần thiết phải có những giải pháp để giải quyết những vấn đề phát sinh

xảy ra đối với NLĐ, nhằm giúp NLĐ vượt qua khó khăn, ổn định đời sống; đồng

thời cũng là giải pháp nhằm ổn định xã hội. Khi đó, vai trò của BHXH được thể

hiện rõ nét, bù đắp thu nhập cho NLĐ, giữ vững nền sản xuất, đảm bảo ổn định xã

hội. Như vậy, dưới góc độ xã hội, chúng ta có thể thấy BHXH là một bộ phận trong

nội dung của hệ thống bảo đảm xã hội “bảo đảm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối

với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó

khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngưng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi

ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và

11

việc trợ cấp cho các gia đình đông con”.

Dưới góc độ pháp luật, BHXH là tổng hợp các quy định của pháp luật nhằm

bảo vệ NLĐ; sử dụng nguồn đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và sự tài trợ, bảo hộ của

Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm (hoặc gia đình của họ)

trong trường hợp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động hoặc chết.

Như vậy, về phương diện pháp lý, BHXH là tổng thể các quy định của Nhà nước

quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên khi tham gia vào quan hệ

BHXH; mức đóng góp, phương thức đóng góp và mức hưởng đối với những đối

tượng áp dụng BHXH... Trên cơ sở các quy định pháp luật, các bên tham gia phải

tuân thủ.

Dù tiếp cận dưới góc độ nào thì mục tiêu chính của BHXH cũng được thể

hiện rõ, nhằm bảo vệ NLĐ trước những biến cố cuộc sống và được bảo vệ bằng hệ

thống chính sách.

Như vậy, có thể khái quát về BHXH như sau: BHXH là phương pháp san sẻ

rủi ro được thực hiện thông qua việc tạo lập quỹ tài chính BHXH, nhằm đảm bảo

thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc

mất thu nhập do ốm đau, thai sản, lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi

lao động hoặc chết.

1.2.2. Phân loại Bảo hiểm xã hội

BHXH là một vấn đề kinh tế xã hội tổng hợp có thể tiếp cận, nghiên cứu ở

nhiều góc độ khác nhau. Từ đó có nhiều cách, nhiều tiêu chí phân loại, tạo ra những

kết quả phân loại khác nhau. Trong lý luận cũng như trong thực tế, BHXH thường

được phân loại theo các tiêu thức cơ bản sau:

Thứ nhất, phân loại theo loại hình BHXH của người tham gia BHXH. Theo

cách phân loại này, BHXH được chia thành hai loại: BHXH bắt buộc và BHXH tự

nguyện. Cách phân loại này nhằm xác định đối tượng tham gia và điều kiện tổ chức,

mở rộng các loại hình BHXH một cách hợp lý.

Trong đó, BHXH bắt buộc là loại hình bảo hiểm mà người lao động, người

sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia theo quy định của pháp luật. Loại BHXH

này được hình thành khi Nhà nước đã đứng ra lo liệu với tư cách là người tổ chức,

quản lý BHXH. Việc tổ chức BHXH bắt buộc chủ yếu để thực hiện mục đích ràng

buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động nhằm ổn định

12

nguồn thu, chi để phát triển BHXH bền vững. Thông qua đó có thể đảm bảo đời

sống cho người lao động, đảm bảo an sinh xã hội nói chung. Thông thường phạm vi

bảo hiểm bắt buộc rộng hay hẹp phục thuộc vào trình độ, khả năng quản lý rủi ro,

quản lý đối tượng tham gia của nhà nước. Khi mới ban hành các chính sách, chế độ

BHXH bắt buộc, các nước thường bắt đầu từ phạm vi hẹp, đó là những lao động

làm việc có hưởng lương tương đối ổn định. Ngay cả các đối tượng này, ban đầu

cũng có những giới hạn nhất định về ngành nghề, thành phần kinh tế hay khu vực

tham gia. Sau đó, phạm vi tham gia ngày càng được mở rộng hơn, trên cơ sở

trình độ, phương tiện và kinh nghiệm quản lý đạt được. Về mức phí BHXH bắt

buộc, người tham gia có trách nhiệm hàng tháng phải đóng một khoản tiền nhất

định, do pháp luật quy định, tương ứng với một tỉ lệ tiền lương của người lao động

cho quỹ BHXH.

BHXH tự nguyện là loại hình bảo hiểm mà người lao động có quyền tự

quyết định tham gia hay không tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức

đóng, hưởng phù hợp theo các quy định của pháp luật. Xuất phát điểm của BHXH

là sự tự nguyện của cộng đồng những người lao động cùng có nguy cơ gặp một số

rủi ro và cùng có nhu cầu chia sẻ các rủi ro đó. Việc Nhà nước phải đứng ra tổ chức

quản lý BHXH theo hình thức bắt buộc cũng chứng tỏ rằng nếu BHXH thuần túy

chỉ là sự tự nguyện của người lao động thì hoặc là không bền vững, hoặc là không

hiệu quả, rủi ro chỉ được quản lý, chia sẻ trong những cộng đồng nhỏ hẹp, ít chuyên

nghiệp... Vì vậy, để có hệ thống bảo hiểm tự nguyện hiệu quả cũng cần có sự tổ

chức, quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên các nước không lựa chọn điều chỉnh loại

hình này ngay từ khi bắt đầu tổ chức BHXH. Bởi vì, những lao động không thuộc

đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thường không có sự chia sẻ từ phía người sử

dụng lao động. Từ đó, nhu cầu tham gia bảo hiểm của các đối tượng này cũng

không ổn định. Nếu không có các biện pháp quản lý hữu hiệu thì quỹ bảo hiểm xã

hội tự nguyện khó có điều kiện duy trì bền vững. Đối với những nước mà khu vực

phi chính thức và các lao động tự tạo việc làm chiếm tỉ trọng lớn thì việc quản lý

đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện cực kỳ khó khăn. Cơ quan bảo hiểm thường

ít có thông tin về các đối tượng này để kiểm soát thu sao cho đủ và xác định căn cứ

chi trả sao cho quỹ không bị lạm dụng.

Thứ hai, phân loại theo thời gian cân đối và hạch toán quỹ BHXH. Theo

13

cách này, BHXH được phân loại thành BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn. Cách

phân loại này chủ yếu giúp các tổ chức BHXH lựa chọn phương thức quản lý quỹ

BHXH cho cả hệ thống hay cho từng loại chế độ, thống kê xác suất rủi ro trong

phạm vi bao phủ của quỹ, làm cơ sở để xác định công thức đóng hưởng và thời

hạnchi trả bảo hiểm. Trong đó, BHXH ngắn hạn thường dùng để chỉ nhóm các chế

độ BHXH có thời hạn ngắn, trong khoảng một năm, chủ yếu trên cơ sở tương trợ

cộng đồng giữa những người tham gia bảo hiểm. Đối tượng hưởng BHXH ngắn hạn

thường là những người lao động trong độ tuổi lao động. Việc hưởng các chế độ

BHXH ngắn hạn chủ yếu là trợ cấp một lần hoặc trong một thời gian ngắn. BHXH

dài hạn thường được dùng để chỉ nhóm các chế độ BHXH dài hạn, từ khi người lao

động bắt đầu tham gia cho đến khi quan hệ BHXH kết thúc, theo hình thức lập quỹ

tiết kiệm bắt buộc, có kết hợp với tương trợ cộng đồng.

Như vậy, yếu tố thời gian đóng BHXH được coi là một trong các điều kiện

cơ bản để xác định để xác định quyền hưởng bảo hiểm và mức hưởng của loại chế

độ bảo hiểm xã hội.

Đối tượng hưởng BHXH dài hạn chủ yếu là người lao động đã kết thúc

quan hệ lao động, nghỉ việc hưởng BHXH sau một thời gian dài đóng góp hoặc để

lại phần đóng góp cho thân nhân như một khoản thừa kế, hoặc cần phải tương trợ

nuôi thân nhân... Do đó, bên cạnh một số ít trường hợp chi trả một lần, BHXH dài

hạn thường chi trả trợ cấp trong khoảng thời gian dài, khó xác định rõ thời gian

hưởng ở từng đối tượng. Quỹ được thu và quản lý trong thời gian dài nên rất phức

tạp trong việc tính toán, cân đối đóng, hưởng hợp lý và bảo tồn giá trị trong điều

kiện lạm phát và nhu cầu sống ngày càng tăng do kinh tế phát triển.

Ngoài hai cách phân loại cơ bản trên, còn có thể phân loại BHXH theo

những tiêu thức khác, như: căn cứ vào các trường hợp được bảo hiểm có thể phân

BHXH thành các chế độ cụ thể như chế độ BHXH khi ốm đau, thai sản, tai nạn

nghề nghiệp, thất nghiệp, hưu trí, tử tuất...; căn cứ vào tần suất chi trả bảo hiểm có

thể phân BHXH thành các loại bảo hiểm một lần, bảo hiểm một thời kỳ và bảo hiểm

thường xuyên; căn cứ vào đối tượng hưởng BHXH có BHXH cho người lao động

và BHXH cho thân nhân người lao động ...

1.3. Đặc điểm của Bảo hiểm xã hội

Đặc điểm của BHXH thể hiện qua một số khía cạnh sau:

- BHXH là hoạt động chia sẻ rủi ro của cộng đồng theo nguyên tắc “số

14

đông bù số ít” và nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”.

Theo nguyên tắc “số đông bù số ít”, rủi ro của một hoặc một số người sẽ

được chia sẻ cho nhiều người tham gia BHXH cùng gánh chịu. Theo cách đó,

những rủi ro trong cuộc sống như: đau ốm, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,

tàn tật, chết sớm... là gánh nặng của bản thân và gia đình của số ít những người

không may sẽ trở nên nhẹ bớt khi được san sẻ cho nhiều người. Nói cách khác, đó

chính là sự thể hiện tính tương hỗ của cộng đồng những thành viên trong xã hội

thông qua việc bù trừ rủi ro qua quỹ BHXH.

Theo nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu”, người tham gia BHXH phải “để dành”

một khoản thu nhập bằng việc đều đặn góp khoản để dành đó vào quỹ BHXH lúc có

thu nhập để được hưởng trợ cấp lúc tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động.

- BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập của các thành viên trong xã hội

theo chiều dọc và chiều ngang (hay theo không gian và thời gian).

Phân phối theo chiều dọc và sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho

những người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những

người không sinh đẻ và người sinh đẻ; giữa những người có thu nhập cao và người

có thu nhập thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian.

Thực hiện nguyên tắc phân phối theo chiều dọc này, quỹ BHXH ngoài việc được

hình thành từ sự đóng góp của người lao động, còn hình thành từ sự đóng góp của

người sử dụng lao động và có thể còn được bù dắp sự thiếu hụt bằng Ngân sách Nhà

nước. Đến lượt mình, quỹ BHXH lại được sử dụng để thay thế hoặc bù đắp thu

nhập cho người lao động bị mất, giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm...

Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao

động theo thời gian, là sự phân phối lại thu nhập của quá trình làm việc và quá trình

không làm việc. Khi thực thi chính sách BHXH cũng tức là sử dụng nguồn tài chính

chung của một bên là những người đóng góp đều đặn vào quỹ BHXH, còn bên kia

là những người được hưởng theo quy định.

- Mục tiêu cơ bản của BHXH là nhằm đảm bảo an toàn - hiệu quả xã hội.

BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm

trong nước để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã

hội. BHXH thực hiện nhằm các mục tiêu: thay thế hoặc bù đắp cho người lao động

những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ và gia

15

đình; chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật; bảo đảm điều kiện sống tối thiểu để

người lao động không lâm và cảnh túng quẫn, góp phần bảo đảm hạnh phúc gia

đình và an toàn xã hội.

BHXH hoạt động dựa trên nguyên tắc có đóng, có hưởng. Quỹ BHXH hình

thành các nguồn tài chính từ các khoản đóng góp của các bên tham gia và có một hệ

thống hoạt động nhằm bảo đảm lợi ích cho người lao động tham gia đóng góp vào

quỹ này. Quyền được hưởng trợ cấp BHXH được bảo đảm bởi chính việc đóng góp

vào quỹ BHXH. Nói cách khác, người lao động muốn được hưởng chế độ BHXH

thì cần phải tham gia đóng góp vào quỹ này theo quy định của pháp luật.

1.4. Vai trò bảo hiểm xã hội

1.4.1. Đối với người lao động

Trong cuộc sống hàng ngày, mọi rủi ro đều có thể xảy ra đối với bất cứ

người lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào và gây cho họ những khó khăn cả về

vật chất và tinh thần, gây mất hoặc giảm thu nhập. Là một trong những chính sách

kinh tế - xã hội của Nhà nước, BHXH góp phần trợ giúp cho người lao động gặp

phải rủi ro khắc phục những khó khăn thông qua các khoản trợ cấp BHXH.Tham

gia BHXH còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả trong chi dùng cá nhân, giúp

họ tiết kiệm được những khoản tiền nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết

chi dùng khi già cả hay mất sức lao động... Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất

mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn,

làm cho họ ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già... Nhờ

có BHXH, cuộc sống của những thành viên trong gia đình người lao động, nhất là

trẻ em, những người tàn tật,... cũng được đảm bảo an toàn hơn.

1.4.2. Đối với tổ chức sử dụng lao động

BHXH giúp các tổ chức sử dụng lao động nói chung, các doanh nghiệp nói

riêng, ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua việc phân phối các chi phí

của người lao động một cách hợp lý. Nếu không có BHXH, khi người lao động gặp

các rủi ro, không có nguồn thu nhập, không có tài chính để trang trải các chi phí y tế

và các chi phí khác dẫn đến đời sống của họ bị ảnh hưởng, chất lượng lao động

cũng sẽ bị ảnh hưởng và tất yếu sẽ kéo theo hệ quả năng suất lao động giảm.

BHXH góp phần làm cho lực lượng lao động trong mỗi đơn vị ổn định, sản

xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả, các bên trong quan hệ lao động gắn bó với

16

nhau hơn. BHXH tạo điều kiện để người tổ chức sử dụng có trách nhiệm với người

lao động, không chỉ khi người lao động còn đang tham gia lao động mà ngay cả khi

người lao động đã già yếu, không còn khả năng tham gia lao động nữa. Qua đó,

người lao động gắn kết bền chặt hơn với người sử dụng lao động và chất lượng lao

động cũng được đảm bảo. Mặt khác, BHXH giúp các tổ chức sử dụng lao động ổn

định nguồn chi, ngay cả khi các rủi ro lớn xảy ra cho người lao động.

1.4.3. Đối với nền kinh tế - xã hội

Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước,

BHXH giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với những người lao động,

đảm bảo cho việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động.

Sự bảo đảm này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân,

đồng thời góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. BHXH đã gián

tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng, làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội, đồng thời

góp phần đảm bảo an ninh quốc gia.

Mặt khác, với vị trí là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động tới hệ

thống tài chính thông qua hoạt động đầu tư, bảo tồn và phát triển quỹ. Hoạt động

đầu tư của quỹ BHXH tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội,

góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp phần quan

trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động, từ đó góp phần giải quyết

tình trạng thất nghiệp của đất nước, tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói

riêng và tăng tổng sản phẩm quốc dân nói chung. Ngoài ra, vai trò đối với xã hội

của BHXH còn được thể hiện qua việc BHXH góp phần thực hiện công bằng xã

17

hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI LAO

ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI

Ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “người lao động di trú”chủ yếu chỉ được sử

dụng trong giới học thuật, nghiên cứu nhưng ngay cả trong pháp luật và các văn bản

của nhà nước cũng ít dùng khái niệm này. Tuy nhiên, thuật ngữ này được sử dụng

rộng rãi tại các văn kiện quốc tế. Theo đó, lao động di trú được hiểu là người di

chuyển đến làm việc tại một quốc gia mà họ không mang quốc tịch. Như vậy, ý

nghĩa nội hàm của khái niệm này giống với cách hiểu về lao động Việt Nam đi làm

việc ở nước ngoài. Do đó, chương này sẽ tập trung nghiên cứu khái niệm lao động di

trú và các chế độ BHXH cho đối tượng này theo pháp luật quốc tế và quy định liên

quan đến lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam.

2.1. Khái niệm người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài

2.1.1. Pháp luật Quốc tế

Lao động di trú là hiện tượng diễn ra từ lâu trong lịch sử nhân loại nhưng

phát triển đặc biệt nhanh chóng từ đầu thế kỷ XX đến nay. Theo ước tính của một

số tổ chức quốc tế, hiện cứ 35 người dân trên thế giới thì có một người sống và

làm việc ở ngoài đất nước mình. Tổng cộng trên thế giới hiện có khoảng 215 triệu

người lao động di trú, chiếm 3.3% dân số toàn cầu [19]. Cùng với quá trình toàn

cầu hóa kinh tế, dự đoán vấn đề lao động di trú sẽ trở nên hết sức phổ biến trong

thế kỷ XXI và là một trong những đặc trưng cơ bản của thế kỷ này.

Dễ dàng thấy được rằng, người lao động di trú có những đóng góp to lớn

vào nền kinh tế của nước gốc và nước nhận lao động. Ở nước gốc, việc đưa người

lao động ra làm việc ở nước ngoài là một trong các biện pháp giảm sức ép tình trạng

thất nghiệp trong nước, thêm vào đó khoản thu nhập của họ có thể gửi về giúp nâng

cao đời sống của gia đình và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nhà nước. Ở nước

nhận tiếp nhận, người lao động di trú giúp giảm tải sự thiếu sức lao động của nền

kinh tế thị trường, đồng thời là giải pháp cho người dân bản xứ đối với các công

viêc họ không muốn làm như mức lương thấp, nặng nhọc, độc hại,…

Với những đóng góp quan trọng trên, người lao động di trú lẽ ra phải bảo

vệ, nhưng ngược lại, ở khắp các khu vực trên thế giới, họ đang phải đối mặt với

18

những vấn đề nghiêm trọng như bị phân biệt đối xử, bị kỳ thị, bóc lột, lạm dụng và

bị xâm phạm các quyền và tự do cơ bản. Đây thực sự là một trong những bất công

mang tính chất toàn cầu. Tỷ lệ việc làm dễ bị tổn thương duy trì ở mức cao và dai

dẳng gắn liền với thực tế là tốc độ của quá trình chuyển đổi cơ cấu, theo đó vốn và

người lao động chuyển dịch từ các ngành có giá trị gia tăng thấp sang các ngành có

giá trị gia tăng cao vẫn còn khá chậm ở phần lớn các nước trong khu vực. Thực tế

là, một tỷ trọng đang kể dân số có việc làm tiếp tục làm việc trong lĩnh vực nông

nghiệp hay trong các ngành dịch vụ truyền thống có năng suất thấp (như dịch vụ

bán buôn và bán lẻ, dịch vụ cư trú và ăn uống), đây là những ngành việc làm dễ bị

tổn thương rất phổ biến. Quá trình chuyển đổi cơ cấu đang diễn biến với tốc độ

chậm ở Nam Á, nơi việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm 59% tổng số

việc làm trong khi sản xuất chỉ chiếm 12% và dịch vụ chiếm khoảng 24%. Đã có

những dấu hiệu mạnh mẽ về đa dạng hóa nông nghiệp ở Đông Nam Á và Thái Bình

Dương, với nền kinh tế khu vực ngày càng chú trọng vào ngành dịch vụ, nhưng tỷ

trọng việc làm trong lĩnh vực sản xuất chỉ tăng nhẹ. Khu vực Đông Á, chủ yếu do

Trung Quốc chiếm ưu thế, đã chứng kiến tỷ trọng việc làm giảm với tốc độ nhanh

chóng, trước hết trong lĩnh vực nông nghiệp và tiếp đến là trong lĩnh vực sản xuất

và số lượng người lao động chuyển sang các hoạt động dịch vụ ngày càng tăng [52].

Mặc dù vậy, tình trạng của người lao động di trú đã không bị quên lãng. Từ

vài thập niên trở lại đây, nhiều tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ quốc tế, khu

vực và quốc gia đã liên tục đấu tranh để đòi hỏi sự công bằng, bảo vệ các quyền

và thúc đẩy điều kiện sống của người lao động di trú. Những nỗ lực không mệt mỏi

của các tổ chức này đã tác động đến các quốc gia. Ở những mức độ khác nhau, hầu

hết quốc gia trên thế giới đã ban hành những văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián

tiếp đề cập đến các quyền và việc bảo vệ quyền của nhóm xã hội ngày càng có vị

thế quan trọng nhưng cũng rất dễ bị tổn thương này.

Để xác lập một khuôn khổ pháp lý quốc tế công bằng cho việc di cư lao

động quốc tế và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động di trú, Liên

Hợp Quốc và ILO đã ban hành nhiều điều ước và văn kiện, đầu tiên phải kể đến là

Tuyên ngôn nhân quyền 1948 đã khẳng định mọi người, bất kể dân tộc, chủng tộc,

giới tính, tôn giáo, giai cấp, xuất thân.., đều bình đẳng về các quyền con người. Cụ

19

thể tại điều 23 của Tuyên nguôn nhân quyền năm 1948 có quy định:

“1) Ai cũng có quyền được làm việc, được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng

những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi và được bảo vệ chống thất nghiệp.

2) Cùng làm việc ngang nhau, mọi người được trả lương ngang nhau,

không phân biệt đối xử.

3) Người làm việc được trả lương tương xứng và công bằng, đủ để bảo đảm

cho bản thân và gia đình một đời sống xứng đáng với nhân phẩm, và nếu cần, sẽ

được bổ sung bằng những biện pháp bảo trợ xã hội khác.

4) Ai cũng có quyền thành lập nghiệp đoàn hay gia nhập nghiệp đoàn để

bảo vệ quyền lợi của mình.”

Lao động di trú cũng là con người nên cũng được hưởng các quyền con

người như tất cả mọi người. Chính vì vậy lao động di trú cũng được hưởng các

quyền lựa chọn việc làm, hưởng các điều kiện làm việc công bằng. Lao động di trú

có nghĩa là phải sống xa gia đình, xa quê hương, tổ quốc, xa những người hướng

dẫn, hỗ trợ và bảo vệ; chính vì vậy, họ rất dễ bị bóc lột, phân biệt đối xử và xâm

phạm các quyền. Tuy nhiên, thật bất công nếu biết rằng họ đã và đang có những

đóng góp to lớn vào sự thịnh vượng của cả nước gốc và nước nhận lao động. Các

nước nhận lao động đang được hưởng lợi rất nhiều từ người lao động di trú, bởi họ

sẵn sàng làm những công việc lương thấp, nguy hiểm, độc hại, hay làm việc trong

các ngành bị coi là “thấp kém” mà lao động bản địa không muốn làm. Đối với nhiều

nước gốc, thu nhập gửi về nước của người lao động di trú chiếm tỷ lệ lớn trong tổng

thu nhập quốc dân.

Bình đẳng và không phân biệt đối xử là hai nguyên tắc căn bản và song

hành trong luật nhân quyền. Hai nguyên tắc này cũng được tái khẳng định trong nội

dung của Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa (International

Covenant on Economic, Social and Cultural Rights – ICESCR) cũng như trong cách

tiếp cận của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (Committee on Economic,

Social and Cultural Rights – CESCR) khi giám sát việc thực thi Công ước.

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa (International

Covenant on Economic, Social and Cultural Rights – ICESCR) cũng đã khẳng định

người lao động có quyền làm việc ở mọi nơi trên thế giới, có cơ hội kiếm sống bằng

công việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận. Lao động di trú cũng lại một lần

nữa được khẳng định về quyền của mình trong việc tìm kiếm công việc và làm việc

20

ở nước ngoài.

Công ước bao gồm các Điều từ 6 đến 15, quy định về các quyền kinh tế, xã

hội và văn hóa cụ thể, trong đó: Các Điều 6, 7 và 8 đề cập đến quyền làm việc;

trong đó Điều 6 quy định về cơ hội kiếm sống công bằng và nghĩa vụ của các quốc

gia trong việc bảo đảm quyền kiếm sống công bằng. Điều 7 quy định về quyền được

hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, bao gồm thù lao công

bằng, điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh, cơ hội công bằng và việc nghỉ ngơi

thích đáng. Điều 8 ghi nhận quyền về công đoàn, trong đó bao gồm quyền được

thành lập và gia nhập công đoàn do mình lựa chọn, quyền của các tổ chức công

đoàn trong việc thành lập liên đoàn công đoàn quốc gia và gia nhập liên đoàn quốc

tế, quyền của các công đoàn được hoạt động tự do và quyền đình công.

Quyền làm việc được quy định trong Công ước không đơn thuần là quyền

có việc làm mà được nhìn nhận như quyền được tạo điều kiện làm việc để sống có

nhân phẩm. “Quyền làm việc không nên được hiểu là một quyền có việc làm tuyệt

đối và vô điều kiện” mà là “quyền có mỗi người được quyết định tự do chấp nhận

và lựa chọn việc làm”. Điều này hàm ý cá nhân có quyền từ chối công việc không

mong muốn (ví dụ, công việc có tính chất cưỡng bức…) và không bị đuổi việc một

cách không công bằng. Điều 6 được xây dựng trên nguyên tắc “nhà nước công nhận

quyền làm việc” để tránh việc quy định nghĩa vụ tuyệt đối của các nhà nước về đảm

bảo việc làm, điều mà có thể dẫn đến việc nhà nước kiểm soát toàn bộ quá trình lao

động. Quyền làm việc, do đó, trao cho cá nhân quyền được lựa chọn việc làm và

trao cho các nhà nước nghĩa vụ đảm bảo những điều kiện cần thiết để mọi cá nhân

có thể thực thi quyền lựa chọn việc làm.

Khuôn khổ pháp lý trên thế giới cũng đã ghi nhận việc bảo về quyền lợi của

lao động di trú từ rất sớm. Năm 1939, ILO thông qua điều ước đầu tiên về quyền

của người lao động di trú (Công ước Di trú vì việc làm). Năm 1949, ILO sửa đổi

công ước này bằng Công ước số 97 và đến năm 1975 thông qua Công ước số 143 về

hỗ trợ việc làm cho người lao động di trú. Liên hợp quốc thảo luận về vấn đề quyền

của người lao động di trú từ đầu thập kỷ 1970 và đến năm 1990 thì thông qua Công

ước quốc tế về các quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình

họ (ICRMW). Hiện tại, ICRMW và các Công ước số 97 [49], Công ước số 143 [50]

21

của ILO là ba điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền của người lao động di trú.

Trong đó quan trọng nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về các quyền

của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ và hai Công ước số

97 và số 143 của ILO. Các công ước này bước đầu đã tạo nên các tiêu chuẩn chung

cho các quốc gia thành viên tham khảo và xây dựng nội luật của mình về vấn đề bảo

vệ quyền lợi của lao động di trú.

Nhận thấy điều đó Công ước về bảo vệ các quyền của người lao động di

trú và các thành viên trong gia đình họ của Liên hợp quốc (Công ước ICRMW) đã

đưa ra định nghĩa về “ lao động di trú” - đây là thuật ngữ để chỉ một người đã,

đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không

phải là công dân (Điều 2.1). Công ước số 97 trước đó cũng đã đề cập đến “người di

trú vì việc làm được hiểu là một người di cư từ một quốc gia này tới quốc gia khác

để tìm kiếm việc làm, bao gồm bất kỳ người nào được tuyển dụng một cách lâu

dài như là một người di trú vì việc làm.” (Điều 11). Tuy nhiên do nền kinh tế phát

triển, yêu cầu di chuyển đi lại phục vụ công việc phức tạp Công ước ICRMW đã mở

rộng phạm vi của lao động di trú hơn Công ước số 97. Như vậy, khái niệm người

lao động di trú trong Công ước ICRMW không áp dụng cho người lao động di

chuyển nội bộ trong quốc gia. Điều này có thể do các nguyên nhân sau: Thứ nhất,

do Công ước ICRMW là văn bản pháp lý quốc tế. Vì vậy, phạm vi điều chỉnh của

Công ước chỉ liên quan đến những vấn đề mang tính chất quốc tế. Người lao động

di chuyển trong phạm vi một quốc gia là vấn đề mang tính nội bộ của quốc gia đó

nên không thuộc đối tượng điều chỉnh của Công ước. Thứ hai, xuất phát từ đặc

điểm của người lao động di trú là những người dễ bị tổn thương khi họ phải xa tổ

quốc để đến một nước khác làm việc. Họ không phải là công dân của nước đến nên

không được hưởng các quyền công dân ở nước sở tại. Đồng thời, họ phải đối mặt

với những khó khăn nảy sinh tại quốc gia nơi họ đến như bất đồng ngôn ngữ, văn

hóa, tập quán,.. Bên cạnh đó, việc di chuyển nơi làm việc cũng khiến cho lao động

di trú đối mặt với nguy cơ không thể tham gia lâu dài vào một hê thống BHXH của

một quốc gia nhất định, dẫn đến nguy cơ mất cơ hội thụ hưởng các chế độ BHXH

này khi gặp rủi ro. Chính vì vậy, Công ước ICRMW ra đời để đưa ra các biện pháp

bảo vệ người lao động di trú và trong nhiều trường hợp Công ước ICRMW cũng

bảo vệ quyền của các thành viên trong gia đình người lao động di trú.

22

Lao động di trú theo công ước ICRMW trên bao gồm 8 dạng:

- “Nhân công vùng biên”: người làm việc ở nước láng giềng nhưng trở về

nước mình trong ngày hoặc ít nhất mỗi tuần một lần;

- “Nhân công theo mùa”: người chỉ làm vi ệc ở nước khác trong một

khoảng thời gian nhất định mỗi năm;

- “Người đi biển”: người làm việc trên một chiếc tàu đăng ký tại nước khác;

- “Nhân công làm việc ở công trình trên biển”: người làm việc trên một

công trình 10 trên biển thuộc quyền tài phán của nước khác;

- “Nhân công lưu động”: người mà do tính chất công việc phải di chuyển

qua nhiều nước trong những khoảng thời gian ngắn;

- “Nhân công theo dự án”: người làm việc ở nước khác trong một thời gian

theo một dự án nhất định;

- “Nhân công lao động chuyên dụng”: người thực hiện các nhiệm vụ đòi hỏi

kỹ năng hoặc trình độ cao ở nước khác trong một khoảng thời gian theo một dự án

nhất định;

- “Nhân công tự chủ”: người làm một công việc ở nước khác nhưng không

theo một hợp đồng lao động mà với tính chất tự chủ.

Thêm vào đó, nhằm làm rõ hơn khái niệm người lao động di trú, Điều 3

Công ước liệt kê những đối tượng không được coi là lao động di trú (dựa trên tiêu

chí nghề nghiệp), bao gồm 6 dạng chính như sau:

- Người nước ngoài làm việc chính thức cho một tổ chức quốc tế hoặc một

nhà nước khác;

- Người nước ngoài làm việc cho một chương trình phát triển hoặc hợp tác

của nước khác;

- Nhà đầu tư nước ngoài;

- Người tị nạn hoặc không có quốc tịch;

- Sinh viên và học viên nước ngoài;

- Người nước ngoài làm thủy thủ hay làm trên các công trình trên biển

nhưng không được phép cư trú hoặc làm các công việc có hưởng lương khác ở nước

mà họ đang làm việc.

Nhìn chung, khái niệm người lao động di trú trong Công ước ICRMW khá

rộng, nó không phụ thuộc vào người lao động đó đã làm việc ở nước khác chưa,

23

công việc họ làm là gì và việc làm đó có được pháp luật của các nước công nhận

hay không. Điều này cho thấy sự quan tâm chủ yếu của Công ước là người lao động

di trú và các biện pháp bảo vệ họ hơn là các biện pháp để quản lý họ. Hiện nay,

Công ước ICRMW có 46 thành viên, là văn kiện pháp lý quốc tế có ảnh hưởng rộng

nhất trong việc giải quyết vấn đề người lao động di trú. Các quy định của công ước

được xem là nguyên tắc chung để xây dựng các văn bản pháp lý khác về cùng vấn

đề người lao động di trú.

2.1.2. Pháp luật Việt Nam

Việt Nam chưa tham gia Công ước ICRMW, và trong pháp luật Việt Nam

chưa có văn bản nào sử dụng khái niệm “người lao động di trú”. Tuy nhiên, đối

chiếu với định nghĩa của Công ước ICRMW thì pháp luật Việt Nam đã có một số

văn bản điều chỉnh về người lao động di trú như: Bộ Luật Lao động năm 2012, Luật

Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, Nghị

định số 126/2007/NĐ-CP ngày 25/12/2007 của Chính phủ quy định hướng dẫn

Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Ngày 28/11/2013, Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp năm 2013 và

Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Một trong những thay đổi lớn của

Hiến pháp mới là việc sửa đổi, bổ sung chế định quyền con người, quyền công dân.

Qua đó thể hiện sự thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong chính

sách pháp luật của Việt Nam phù hợp với bản chất của nhà nước ta là nhà nước tự

do, dân chủ. Việc ghi nhận quyền con người trong đó có quyền của người lao động

di trú của Hiến pháp 2013 sẽ là nền tảng quan trọng để Việt Nam xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật về quyền con người trong thời gian tới.

Thuật ngữ “người lao động đi làm việc ở nước ngoài” được sử dụng chính

thức lần đầu tiên trong Nghị định số 270/HĐBT ngày 09/11/1991, ban hành quy chế

về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đây cũng là

văn bản pháp luật quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi cơ chế điều chỉnh bằng pháp

luật trong lĩnh vực này. Sau đó, Bộ luật Lao động năm 1994 được ban hành đã sử

dụng thuật ngữ “người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” và được sử

dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật của nhà nước ta từ những năm 1990 đến

nay. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là một thứ hàng

hóa đặc biệt, không chỉ được tự do thuê mướn ở trong nước mà còn có thể chuyển

24

dịch ra nước ngoài với mục đích kinh tế, nhằm thu ngoại tệ về cho Việt Nam. Hiện

nay, trong Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

năm 2006, cụm từ “xuất khẩu lao động” đã chính thức được thay thế bằng cụm từ

“đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.

Theo Điều 6 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo

hợp đồng năm 2006, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được xếp

vào bốn nhóm theo loại hợp đồng: Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước

ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước

ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước

ngoài; Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp

trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao

động đi làm việc ở nước ngoài; Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước

ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao

động đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề; Hợp đồng cá nhân.

Mặc dù pháp luật ghi nhận 4 dạng hợp đồng đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước

ngoài, nhưng trên thực tế, phần lớn là dạng doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Điều này thể hiện ở trong Luật và các

nghị định về NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chủ yếu đề

cập đến các doanh nghiệp đưa người VN đi làm việc ở nước ngoài cụ thể là chương

II Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm

2006 từ điều 8 đến điều 42. Nhận thấy được nhu cầu đi xuất khẩu lao động của

NLĐ ngày càng tăng nhanh nên pháp luật đã quy định khá rõ ràng cụ thể hơn cả vê

hình thức này.

Ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “người lao động di trú” chủ yếu chỉ được

sử dụng trong giới học thuật, nghiên cứu mà ngay cả trong pháp luật và các văn bản

của nhà nước cũng ít dùng khái niệm này. Người lao động di trú thường được nhắc

đến là người lao động phổ thông của Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở các nước

khác. Tuy nhiên, thực chất khái niệm người lao động di trú còn rộng hơn thế, bao

gồm cả người lao động đi làm việc theo con đường cá nhân không liên quan đến

kênh xuất khẩu lao động và người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc, họ

không chỉ là những lao động phổ thông, giá rẻ mà còn bao gồm cả những lao động

25

có trình độ và tay nghề cao.

Về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã quan tâm đến người lao động di trú là

những đối tượng xuất khẩu lao động theo con đường hợp pháp tức là cả người lao

động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và người lao động nước ngoài làm việc tại

Việt Nam theo con đường hợp pháp mà chưa có quy định về người lao động di trú

bất hợp pháp. Khái niệm người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài còn

khá hẹp so với thuật ngữ “lao động di trú” trong công ước ICRMW. Cụ thể là căn

cứ xác định người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là hợp đồng đưa người

lao động đi làm việc ở nước ngoài theo quy định tại khoản 1 điều 3 Luật Người lao

động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006. Điều này không

còn phù hợp với tình hình kinh tế thị trường tự do kinh doanh nữa vì hiện nay do tỉ

lệ thất nghiệp trong nước tăng cao, người lao động thường có xu hướng mong muốn

tìm được công việc ổn định có khả năng đáp ứng nhu cầu về cuộc sống chính thế

nên họ mong muốn được ra nước ngoài, nơi có như cầu việc làm cao cho những

người lao động phổ thông, giá rẻ. Tuy nhiên không phải ai cũng có khả năng tìm

được công việc ở bên nước ngoài trước để được ký hợp đồng cá nhân đi làm việc ở

nước ngoài, hay họ không có tìm được doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người

lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được cho phép hoạt động đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài phù hợp và đáng tin cậy để có thể trở

thành người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng mà trên

thực tế mà họ vẫn có khả năng sang nước ngoài một thời gian rồi mới tìm được việc

làm ký kết hợp đồng lao động ở nước tiếp nhận lao động. Hợp đồng cá nhân ký kết

với người sử dụng lao động ở nước có việc làm hiện nay không thuộc đối tượng

điều chỉnh của Luật Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

năm 2006 vì thời điểm ký kết hợp đồng là sau khi người lao động sang bên nước có

việc làm. Hiện tại đây là điểm thiếu sót về quy định người lao động Việt Nam làm

việc ở nước ngoài của pháp luật Việt Nam.

Về cơ bản, pháp luật Việt Nam đã quan tâm đến NLĐ di trú là những đối

tượng xuất khẩu lao động theo con đường hợp pháp tức là NLĐ Việt Nam đi làm

việc ở nước ngoài mà chưa có quy định về người lao động di trú bất hợp pháp. Khái

niệm NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài chỉ được công nhận khi có hợp đồng

26

lao động. Điều này cho thấy NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài cũng thuộc

phạm vi điều chỉnh của Công ước ICRMW tuy nhiên pháp luật Việt Nam còn chưa

bao hàm được hết các trường hợp của lao động di trú theo pháp luật quốc tế. Điều

này sẽ là một điểm thiếu sót trong tình hình kinh tế thị trường hội nhập ngày nay

đặc biệt là trường hợp lao động làm việc tự do không có ký kết hợp đồng với

NSDLĐ trước khi sang nước ngoài.

2.2. Chế độ Bảo hiểm xã hội đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài.

2.2.1. Quyền hưởng Bảo hiểm xã hội cho người lao động di trú

Quyền con người nói chung và quyền của người lao động di trú nói riêng

được ghi nhận trong hệ thống các văn kiện của luật nhân quyền quốc tế gồm: Hiến

chương Liên hợp quốc; Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; Công

ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các

quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm1966 bao gồm các quyền cơ bản như: quyền

sống, tự do và an ninh cá nhân, quyền về xét xử công bằng, quyền bảo vệ đời tư,

quyền lập hội, quyền lao động, quyền được giáo dục, quyền được hưởng và duy trì

tiêu chuẩn sống thích đáng...

Bên cạnh đó, quyền của người lao động di trú mang đặc điểm đặc thù của

nhóm người lao động di trú. Quyền của người lao động di trú được đề cập sâu sắc

và trực tiếp hơn ở 02 Công ước của ILO, đó là: Công ước số 97 (năm 1951) về di

trú vì việc làm và Công ước số 143 (năm 1973) về người di trú trong hoàn cảnh bị

lạm dụng, về việc thúc đẩy cơ hội và sự đối xử bình đẳng với người lao động di trú.

Hai Công ước này khẳng định người lao động di trú được đối xử bình đẳng với

người lao động bản địa, được hưởng các điều kiện lao động, các chế độ về an sinh

xã hội, về giáo dục. Tuy nhiên, phạm vi của hai Công ước này chỉ áp dụng đối với

lao động di trú hợp pháp. Toàn cầu hóa làm cho biên giới của các quốc gia trở nên

rộng hơn nhưng không phải người lao động di trú nào cũng đi qua biên giới ấy một

cách hợp pháp. Bên cạnh đó, những biến động của quá trình di trú, gia đình của

người lao động di trú cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng, các thành viên trong gia đình họ

cũng cần được bảo vệ. Vì thế Công ước ICRMW được ban hành như một tất yếu.

Công ước ICRMW quy định về quyền của người lao động di trú nói chung

(bao gồm cả người lao động di trú có giấy tờ và người lao động di trú không có giấy

tờ) và quyền của các thành viên trong gia đình họ. Công ước ICRMW đã xây dựng

27

các chuẩn mực bắt buộc về đối xử, công việc, quyền của những người lao động di

trú nhằm chấm dứt tình trạng bóc lột đối với họ vẫn thường xảy ra từ trước tới nay.

Công ước ICRMW đề cập một cách sâu sắc đầy đủ từ các quyền về dân sự, chính

trị, lao động, kinh tế, xã hội, văn hóa, cho đến các quyền mang tính chất đặc trưng

của người lao động di trú.

Quyền dân sự và chính trị: Không người lao động di trú nào hoặc thành

viên nào của gia đình họ bị tra tấn, đối xử tàn tệ, vô nhân đạo hoặc bị đối xử

mộtcách hèn hạ hoặc bị trừng phạt (Điều 10); Không người lao động di trúnào hoặc

thành viên của gia đình họ bị bắt làm nô lệ, bị ép buộc hoặc cưỡng bức lao động

(Điều 11); người lao động di trú và các thành viên gia đình họ sẽ không phải chịu

những biện pháp trục xuất tập thể, họ chỉ có thể bị trục xuất ra khỏi lãnh thổ của

một quốc gia theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và phù hợp với pháp luật

(Điều 22), quyền có chính kiến, quyền được xét xử công bằng...

Quyền lao động: Người lao động di trú có quyền được hưởng chế độ lao

động bình đẳng như những người lao động tại nước sở tại: giờ làm việc, thời gian

nghỉ, an toàn lao động, chăm sóc sức khỏe... phù hợp với các quy định của luật lệ

nước bản địa (Điều 25); người lao động di trú được tự do lập hội theo quy định của

pháp luật để tăng cường và bảo vệ lợi ích kinh tế cũng như văn hóa, xã hội và các

lợi ích khác của mình (Điều 26); người lao động di trú có quyền được hưởng các

thành quả lao động (Điều 32); có quyền được bảo đảm về an sinh xã hội (Điều 27).

Quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa: Tất cả lao động di trú và gia đình họ

đều được hưởng sự chăm sóc về sức khỏe (Điều 28); được hưởng sự giáo dục tương

đương với người dân ở nước bản địa, con của người lao động di trú đều có quyền

được hưởng sự giáo dục cơ bản theo quy định của quốc gia sở tại (Điều 30). Các

quốc gia thành viên của Công ước này phải đảm bảo việc tôn trọng văn hóa tín

ngưỡng của người lao động di trú và các thành viên gia đình họ và không được can

thiệp trong việc ngăn cấm họ giữ mối liên hệ về văn hóa với quốc gia gốc. Các quốc

gia thành viên phải tăng cường các biện pháp để đảm bảo sự tín ngưỡng này.

Các quyền đặc biệt của người lao động di trú: quyền không bị tịch thu các

giấy tờ tùy thân cũng như giấy tờ thông hành của người lao động di trú; quyền yêu

cầu sự bảo vệ và trợ giúp của cơ quan lãnh sự hoặc cơ quan ngoại giao của nước

mình tại nước sở tại để đảm bảo các quyền lợi của mình; Dựa trên kết quả lao động

28

tại nước sở tại, người lao động di trú và các thành viên của gia đình họ có quyền

chuyển số tiền họ kiếm được cũng như họ tiết kiệm được, tài sản cá nhân và đồ

dùng cá nhân phù hợp với luật áp dụng của quốc gia có liên quan. Ngoài các Công

ước quốc tế, quyền của người lao động di trú còn được đề cập trong các văn kiện

mang tính châu lục, khu vực, các Hiệp định song phương.

Người lao động di trú được hưởng quyền lợi như người lao động ở nước sở

tại trong đó quyền về an sinh xã hội cũng được nhấn mạnh trong khuôn khổ đa

chiều về lao động di trú của ILO. Hệ thống chế độ BHXH là nội dung chính của

pháp luật BHXH, pháp luật BHXH cụ thể hóa chính sách vào trong các chế độ, với

các quy định về đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, thời gian hưởng và mức trợ cấp

BHXH trong từng chế độ cụ thể. Trong đó, đối tượng hưởng có thể là bản thân

NLĐ tham gia vào hệ thống BHXH, hoặc là gia đình họ; điều kiện hưởng là tập hợp

những quy định của pháp luật về việc đóng góp và các điều kiện khác là cơ sở cho

việc NLĐ và gia đình của họ được hưởng trợ cấp. Khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện

hưởng trợ cấp mà pháp luật quy định, thì NLĐ và gia đình họ được hưởng trợ cấp.

Trợ cấp BHXH ở đây được thể hiện dưới hình thức thời gian NLĐ được nghỉ và

tương ứng là mức trợ cấp bằng tiền (một lần hoặc hàng tháng) nhằm thay thế hoặc

bù đắp thu nhập bị giảm hoặc mất. Mỗi chế độ có những quy định về thời gian

hưởng và mức trợ cấp khác nhau, tùy thuộc vào mục đích của từng loại trợ cấp và

mức độ suy giảm khả năng lao động, mức đóng góp và thời gian đóng góp.

Như vậy, có thể thấy pháp luật quốc tế không chỉ ghi nhận rõ ràng về tư

cách pháp lý của lao động di trú mà còn quan tâm bảo vệ các quyền cơ bản của họ,

cụ thể là quyền thụ hưởng các chế độ BHXH, quyền an sinh xã hội…

2.2.2. Quyền được hưởng Bảo hiểm xã hội của người lao động Việt Nam đi làm

việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Mục đích của các chế độ BHXH là nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một

phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,

thai sản, lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết.

Người tham gia BHXH sẽ được hỗ trợ khi gặp các rủi ro kế trên và dẫn đến việc

suy giảm thu nhập. Các quyền lợi của người tham gia BHXH sẽ được xác định

dựa trên việc họ tham gia vào các chế độ này thông qua hình thức đóng góp vào

quỹ BHXH. Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 2014 cũng quy định cụ thể đối

29

tượng áp dụng tại điều 2:

“Điều 2: Đối tượng áp dụng

1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo

hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:

a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp

đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một

công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng

lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp

luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;

b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến

dưới 03 tháng;

c) Cán bộ, công chức, viên chức;

d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác

trong tổ chức cơ yếu;

đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ

quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người

làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;

e) Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an

nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học

được hưởng sinh hoạt phí;

g) Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người

lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;”

Tại khoản g, điều 2, luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã quy định người

lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cũng là đối tượng bắt

buộc phải tham gia bảo hiểm xã hội. Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp

đồng quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo

hợp đồng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại Nghị định

115/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2015 của Chính Phủ qui định chi tiết

một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc được áp dụng

đối với các hợp đồng sau:

a) Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh

nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự

30

nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài;

b) Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh

nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài;

c) Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức

thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc theo

hình thức thực tập nâng cao tay nghề;

d) Hợp đồng cá nhân.

Pháp luật BHXH đang có sự thiếu thống nhất trong khi Luật BHXH qui

định NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài là đối tượng bắt buộc tham gia chế độ

BHXH thì trong khi đó theo nghị định 115/2015/NĐ-CP của Chính phủ thì lại giới

hạn lại các chế độ BHXH mà NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài được tham gia

cụ thể là chỉ có 02 chế độ là chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Tuy nhiên, pháp luật

về BHXH của Việt Nam còn bỏ ngỏ quy định cụ thể cho NLĐ đi làm việc ở nước

ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước

ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Hiện nay không có quy định riêng cụ

thể nào dành cho nhóm đối tượng này, mà tại Nghị định 115/5215/NĐ-CP khẳng

định NLĐ làm việc ở nước ngoài vẫn được coi là NLĐ nên họ vẫn hưởng đầy đủ

các chế độ BHXH như chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ TNLĐ-BNN, chế độ

hưu trí và chế độ tử tuất. Các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức cá

nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài thì sử dụng lao

động trong trường hợp này vẫn là pháp nhân Việt Nam. Pháp luật BHXH có quy

định như vậy nhằm đảm bảo quá trình đóng BHXH liên tục của NLĐ vào quỹ

BHXH và nhằm bảo vệ quyền lợi của NLĐ. Trong trường hợp này người sử dụng

lao động cũng vẫn phải tham gia nghĩa vụ BHXH để thực hiện nghĩa vụ của họ đối

với NLĐ nhưng bên cạnh đó còn vì lợi ích của chính họ. Do có sự san sẻ giữa

những NSDLĐ với nhau nên quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng khi phát

sinh nhu cầu bảo hiểm đối với NLĐ trong đơn vị. Tuy nhiên, NLĐ đi làm việc ở

nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa NLĐ đi

làm việc theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề thì người sử dụng lao động ở

đây vẫn là pháp nhân Việt Nam. Có thể nhận thấy pháp luật về BHXH Việt Nam

đang còn thiếu sót trong quy định các chế độ BHXH dành cho NLĐ đi làm ở nước

31

ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề.

Như vậy, phần lớn NLĐ đi làm việc ở nước ngoài thông qua hợp đồng đưa

người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài lại chỉ được tham gia chế độ hưu trí và

chế độ tử tuất. Điều này gây ra sự thiệt thòi cho họ so với NLĐ trong nước. Mặc dù

họ được tham gia các chế độ BHXH ngắn hạn tại Nhật Bản tuy nhiên các chế độ

BHXH đều chỉ áp dụng trong phạm vi quốc gia Nhật Bản. Vậy trường hợp người

lao động quay trở về nước do ốm đau hoặc sinh con sẽ không được thụ hưởng chế

độ này, mặc dù họ có tham gia tại Nhật. Còn khi về Việt Nam, do không tham gia

các chế độ BHXH ngắn hạn tại Việt Nam nên họ sẽ không được thụ hưởng các trợ

cấp thai sản hay trợ cấp ốm đau như NLĐ làm việc trong nước. Mà lao động VN

khi làm việc ở nước ngoài đa phần sẽ phải quay về nước nếu sinh con hoặc ốm đau

dài ngày. Hay khi NLĐ tham gia chế độ TNLĐ-BNN ở Nhật Bản thì đương nhiên

họ sẽ nhận được trợ cấp BNN những BNN có tính chất lâu dài và rất khó để phát

hiện ngay, có những trường hợp NLĐ quay trở lại Việt Nam thì mới phát hiện ra bị

BNN mà khi đó thì NLĐ sẽ rất thiệt thòi vì không tham gia BHXH ở Việt Nam mà

chế độ TNLĐ-BNN đã tham gia ở bên Nhật Bản cũng không được hưởng vì pháp

luật quốc gia chỉ áp dụng trên lãnh thổ quốc gia. Trợ cấp BNN là được hưởng theo

định kỳ hàng tháng, vậy khi NLĐ Việt Nam hết hợp đồng quay trở về nước thì sẽ

không còn được hưởng trợ cấp này nữa. Điều này là một điểm thiệt thòi cho NLĐ vì

họ không tham gia ở Việt Nam nên khi về nước cũng không được hưởng chế độ trợ

cấp này. Đồng thời pháp luật BHXH Nhật Bản chưa có sự liên kết với pháp luật

BHXH Việt Nam nên chế độ trợ cấp này sẽ chấm dứt khi NLĐ trở về nước.

Chế độ BHXH bao gồm nhiều nội dung, mỗi quốc gia có quy định khác

nhau về số lượng và nội dung các chế độ. Theo quy định Công ước 102 năm 1952

quy phạm tối thiểu an toàn xã hội: một nước gọi là có hệ thống BHXH khi tối thiểu

phải có các chế độ BHXH sau: trợ cấp thất nghiệp và ít nhất 02 trong 08 chế độ còn

lại; hoặc trợ cấp tuổi già (hưu trí) và ít nhất 02 trong 08 chế độ còn lại; hoặc trợ cấp

tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và ít nhất 02 trong 08 chế độ còn lại; hoặc trợ

cấp tàn tật và ít nhất 02 trong 08 chế độ còn lại; hoặc trợ cấp mất người nuôi dưỡng

và ít nhất 02 trong 08 chế độ còn lại. Các chế độ BHXH hiện nay ở Việt Nam: Chế

độ ốm đau; Chế độ thai sản; Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Chế độ

hưu trí; Chế độ tử tuất.

32

 Chế độ ốm đau:

Ốm đau là sự kiện pháp lý làm cho NLĐ tạm thời mất đi khả năng lao động

dẫn đến nguồn thu nhập bị ảnh hưởng. Chế độ ốm đau nhằm đảm bảo cho NLĐ có

được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do nghỉ việc vì ốm đau hay tai nạn mà

không liên quan đến nghề nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay chế độ bảo hiểm ốm đau

còn mở rộng áp dụng trong trường hợp NLĐ nghỉ việc chăm sóc con ốm đau.

Người lao động có con thứ nhất, thứ hai (kể cả con nuôi theo quy định của Luật hôn

nhân và gia đình) dưới 7 tuổi bị ốm đau, nếu có yêu cầu của tổ chức y tế phải nghỉ

việc để chăm sóc con ốm đau thì cũng được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội (Điều

25 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014)

Để được hưởng chế độ này thì điều kiện tiên quyết là NLĐ phải tham gia

đóng góp BHXH và có sự kiện ốm đau phát sinh thực tế. Công ước 102 của ILO

quy định thời gian đóng BHXH tối thiểu để tránh sự lạm dụng nguồn quỹ BHXH là

03 tháng (Điều 17). Một số nước cũng có các quy định về thời gian đóng BHXH tối

thiểu cũng khác nhau như Thái Lan thì quy định đóng BHXH 03 tháng trong vòng

15 tháng trước khi ốm đau, Singapore quy định đóng BHXH tối thiểu 06 tháng.

Tuy nhiên, hiện nay pháp luật BHXH ở nước ta không đặt ra yêu cầu thời

gian tham gia BHXH đối với NLĐ, tức là dù mới tham gia BHXH thì NLĐ vẫn

được hưởng chế độ ốm đau.

Khi NLĐ ốm đau thì được nghỉ viêc để điều trị với thời gian và mức hưởng

hợp lý. Thời gian hưởng chế độ ốm đau thường được quy định ở mức tối đa cho

mỗi lần ốm và trong khoảng thời gian làm việc. Thời gian hưởng hợp lý được ILO

đề xuất trong Công ước 102 là từ 13 đến 26 tuần trong một năm tùy từng trường

hợp ốm đau. Trong khoảng thời gian nghỉ viêc vì lí do ốm đau, NLĐ sẽ được hưởng

một khoản trợ cấp ốm đau, là khoản tiền thay thế tiền lương NLĐ. Mức trợ cấp vẫn

sẽ đảm bảo đời sống tối thiểu của NLĐ trong thời gian này và đảm bảo mức trợ cấp

họ nhận được tương đương với mức đóng góp của họ vào quỹ BHXH, mức hưởng

chế độ ốm đau thường thấp hơn mức tiền lương của NLĐ khi làm việc. Theo tiêu

chuẩn của ILO thì mức hưởng trợ cấp ốm đau bằng 45% tiền lương (Công ước 102

năm 1952) và bằng 60% tiền lương (Công ước 130 năm 1969). Mức hưởng trợ cấp ốm

đau ở nước ta bằng 75% mức tiền lương tiền công đóng BHXH tháng liền kề trước khi

nghỉ việc trong khoảng thời gian từ 30 đến 70 ngày tùy thuộc vào số năm đóng BHXH

33

và điều kiện làm việc của NLĐ (Điều 28 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014).

Người lao động bị mắc bệnh cần điều trị dài ngày theo danh mục do Bộ Y

tế ban hành thì thì thời gian được hưởng trợ cấp tối đa là 180 ngày trong một năm,

không phân biệt thời gian đóng bảo hiểm xã hội nhiều hay ít. Trường hợp này, mức

trợ cấp là 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ

việc. Trường hợp nếu hết hạn 180 ngày mà còn phải tiếp tục điều trị, thì thời gian

điều trị thêm được hưởng trợ cấp bằng 70% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo

hiểm xã hội trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ 30 năm trở lên; và

được hưởng trợ cấp bằng 65% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội

trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 30 năm (Điều 26 Luật Bảo

hiểm xã hội năm 2014). Điều này hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa của quỹ BHXH

nhằm bù đắp những thiếu hụt trong thu nhập của NLĐ khi NLĐ bị mắc bệnh dài

ngày mà ảnh hưởng tới công việc.

 Chế độ thai sản

Chế độ thai sản là sự đảm bảo thu nhập và sức khỏe cho NLĐ nữ khi họ

mang thai, sinh con và NLĐ khi nuôi con. Đối tượng chủ yếu của chế độ thai sản là

lao động nữ. Bảo hiểm thai sản không nhằm bù đắp phần thu nhập bị thiếu hụt do

nghỉ việc của NLĐ mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe cho lao động nữ trong quá

tình mang thai và sinh con. Phạm vi chi trả chế độ thai sản ở các nước cũng có các

quy định khác nhau như Thái Lan chỉ quy định trợ cấp khi sinh con; Philippin mở

rộng cbi trả trợ cấp thi sản trong trường khám thai, sinh con, nuôi con nhỏ. Theo

quy định pháp luật nước ta, phạm vi hưởng trợ cấp mở rộng đối với cả các trường

hợp mang thai, sinh con, mang thai hộ, người mẹ mang thai hộ, nhận nuôi con nuôi

dưới 06 tháng tuổi, đặt vòng tránh thai và thực hiện các biện pháp triệt sản, lao động

nam đang đóng bảo hiểm có vợ sinh con. Khác với chế độ ốm đau thì để hưởng chế

độ thai sản thì NLĐ phải thỏa mãn điều kiện đóng BHXH tối thiểu 06 tháng trong

thời gian 12 tháng trước khi sinh hoặc nhận nuôi con nuôi (Khoản 2 điều 31 Luật

Bảo hiểm xã hội năm 2014). Quy định về điều kiện hưởng theo quy định hiện hành

ở nước ta tiến bộ hơn so với các quy định trước đây, nhằm bảo đảm quyền lợi cho

NLĐ, mặt khác nhằm thực hiện đúng nguyên tắc “Đóng – hưởng” góp phần bảo

toàn quỹ BHXH.

Mức hưởng trợ cấp theo quy định pháp luật nước ta là 100% mức bình quan tiền

34

lương, hưởng trong thời gian từ 04 đến 06 tháng tùy thuộc vào điều kiện lao động.

 Chế độ TNLĐ-BNN:

Chế độ TNLĐ-BNN là chế độ BHXH nhằm bù đắp hoặc thay thế thu nhập

đối với NLĐ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động do tai nạn lao động hoặc bệnh

nghề nghiệp.

Cũng giống như các chế độ BHXH khác, NLĐ được hưởng chế độ trợ cấp

BHXH khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và có gây ra thương tật cho NLĐ.

Tuy nhiên, giữa các quốc gia quy định khác nhau về phạm vi đối tượng hưởng,

khái niệm tai nạn lao động và danh mục bệnh nghề nghiệp ở từng quốc gia khác

nhau. Các quốc gia thường quy định tai nạn xảy ra trong lúc làm việc mới được xem

là tai nạn lao động để thực hiện việc trợ cấp. Nhưng theo Công ước 121 năm 1964

thì nhiều nước vẫn xem tai nạn trên đường đi, về từ nơi làm việc đến nơi ở của

người công nhân cũng được xem là tai nạn lao động. Theo quy định pháp luật hiện

hành ở nước ta thì các trường hợp được bảo hiểm tai nạn lao động ngoài bị tai nạn

trong giờ làm việc thì còn bao gồm cả tai nạn trên đường đi và về từ nơi ở đến nơi

làm việc, trên tuyến đường và khoảng thời gian hợp lý (Khoản 1 điều 43 Luật Bảo

hiểm xã hội năm 2014).

Cũng giống như các nước trên thế giới, pháp luật về BHXH ở nước ta cũng

đã ấn định một danh mục các bệnh nghề nghiệp mà NLĐ mắc phải và trên cơ sở tỷ

lệ suy giảm lao động khi NLĐ mắc bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp được

ban hành thì họ được trợ cấp.

Khi đề cập đến chế độ hưởng TNLĐ-BNN theo Công ước số 102 và Công

ước số 121 để xác định quyền lợi hưởng cơ bản bao gồm: chăm sóc y tế, trợ cấp

trong trường hợp mất sức lao động (tạm thời hoặc vĩnh viễn) và tử vong với mức

trợ cấp tối thiểu là 60% tiền lương của NLĐ trước khi bị tai nạn. Song song với trợ

cấp từ quỹ BHXH, hầu hết các quốc gia đều quy định chế độ chi trả của NSDLĐ

trong trường hợp này bằng các khoản lương cho những ngày nghỉ.

Theo quy định hiện hành ở nước ta hiện nay, NLĐ bị TNLĐ-BNN tùy

theo tỷ lệ mất sức lao động mà được hưởng khoản trợ cấp một lần (hoặc hàng

tháng); mức trợ cấp được xác định dựa trên mức tiền lương tối thiểu chung và mức

tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của NLĐ tùy thuộc vào mức suy giảm khả năng

35

lao động và thời gian đóng BHXH.

 Chế độ hưu trí

Bảo hiểm hưu trí là chế độ nòng cốt, trụ cột của hê thống bảo hiểm với đối

tượng hưởng nhiều và chiếm tỷ lê lớn trong tài chính bảo hiểm với mục đích bảo

đảm thu nhập cho NLĐ khi hết tuổi lao động.

Mặc dù lao động nam và lao động nữ được hưởng quyền lợi về chế độ hư

trí nhưng do đặc thù riêng về sức khỏe, tuổi thọ, mức độ suy giảm khả năng lao

động tự nhiên của lao động nữ nên nhiều quốc gia có quy định khác nhau về điều

kiện hưởng bảo hiểm hưu trí đối với lao động nam và nữ. Công ước số 102 năm

1952 và công ước 128 về các chế độ hưởng do tàn tật, tuổi già và tiền tuất năm 1967

đã đưa ra mức lựa chọn độ tuổi từ 60 đến 65 và số năm đóng bảo hiểm khuyến cáo

tối thiểu là 15 năm trở lên và có thể cho hưởng mức thấp hơn nếu không đáp ứng

được yêu cầu này. Tuy nhiên, việc xác định độ tuổi cụ thể về hưu ở các quốc gia

khác nhau phụ thuộc và nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lê

sinh và sự già hóa dân số, điều kiện lao động và tập quán.

Theo pháp luật BHXH ở nước ta thì điều kiện để được hưởng chế độ hưu trí

hàn tháng căn cứ vào tuổi đời và thời gian đóng bảo hiểm. Theo đó, điều kiện cơ

bản để được hưởng trợ cấp hàng tháng là nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20

năm đóng BHXH. NLĐ làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại nguy hiểm, bị

suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì cũng được giảm tuổi nghỉ hưu.

Chế độ hưu trí chủ yếu được chi trả theo hình thức định kỳ (tuần, tháng,

quý) thoe một tỷ lệ nhất định trên cơ sở mức tiền lương. Mức hưởng trợ cấp hưu trí

tối thiểu theo khuyến cáo ILO là 40% hoặc 45% của số tiền trung bình khi đã có 30

năm đóng góp bảo hiểm và số tiền trợ cấp trên không được vượt quá mức lương khi

NLĐ đang làm việc. Mức hưởng lương hưu hàng tháng của NLĐ ở nước ta được

tính trên cơ sở số năm đóng BHXH và mức bình quân tiền lương, tiền công tháng

đóng BHXH; theo đó, 15 năm đóng BHXH được tính bằng 45% mức bình quân tiền

lương, tiền công tháng đóng BHXH, sau đó, cứ thêm 01 năm đóng BHXH thêm

02% đối với nam và 03% đối với nữ, đảm bảo mức hưởng tối đa là 75%, mức lương

hưu hàng tháng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung. Như vậy, mức hưởng

lương hưu của NLĐ ở nước ta phù hợp với khuyến nghị của ILO và đảm bảo quyền

36

lợi thụ hưởng cho NLĐ.

Đối với những người hưởng trợ cấp hưu trí theo định kỳ không có sự giới

hạn về thời gian hưởng, việc trợ cấp được thực hiện cho đến khi NLĐ chết. Đối với

NLĐ không đủ điều kiện được được trợ cấp hàng tháng thì được giải quyết hưởng

trợ cấp một lần hoặc có thể thực hiện việc bảo lưu kết quả đóng BHXH chờ đến khi

đạt độ tuổi quy định hoặc đóng thêm bảo hiểm để đủ điều kiện hưởng.

 Chế độ tử tuất

Chế độ tử tuất là chế độ giành cho nhân thân NLĐ tham gia BHXH hoặc đã

tham gia BHXH nay đang hưởng bảo hiểm, đang chờ hưởng bảo hiểm mà chết,

nhằm trợ giúp một phần chi phí tang lễ và trợ giúp cho thân nhân NLĐ khi NLĐ

mất. Như vậy, chế độ bảo hiểm tử tuất bao gồm hai chế độ: chi phí mai táng và trợ

cấp tuất đối với thân nhân NLĐ và quy định chặt chẽ về độ tuổi, mức suy giảm khả

năng lao động và mức độ phụ thuộc của thân nhân đó đối với NLĐ.

Chế độ mai táng phí thường được ấn định một số tiền cố định để cấp cho

người thực hiện mai táng. Ở nước ta mức trợ cấp mai táng phí này được ấn định

bằng 10 tháng lương tối thiểu chung. Ngoài trợ cấp mai táng phí, thân nhân của

NLĐ chết còn được hưởng trợ cấp hàng tháng hoặc trợ cấp một lần. ILO thường đề

cập đến khoản trợ cấp cho thân nhân này với tư cách là trợ cấp dài hạn, những thân

nhân này phải đáp ứng điều kiện là sống phụ thuộc vào thu nhập của NLĐ bị chết.

Mức trợ cấp này thường được quy định đồng đều cho mọi thân nhân theo tỷ lệ gắn

với thu nhập. Nhân nhân được trợ cấp trong những trường hợp này thường được

pháp luật giành cho vợ, con cái, cha mẹ đẻ của NLĐ.

Cũng giống như quan điểm chung của các nước, Việt Nam giành chế độ trợ

cấp đối với những thân nhân: con cái;vợ (chồng) của NLĐ; tuy nhiên bổ sung đối

tượng sau: bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ (chồng). Khoản trợ cấp mà thân nhân NLĐ nhận

được có thể là dài hạn có thể là một lần, tùy thuộc vào điều kiện do pháp luật đặt

ra.Nhưng cũng giống như quan điểm của ILO, pháp luật nước ta quy định, thân

nhân của NLĐ đó phải đáp ứng các điều kiện về tuổi đời và sống phụ thuộc, không

có nguồn thu nhập (hoặc có nguồn thu nhập nhưng thấp hơn mức sống tổi thiểu),

mức trợ cấp tiền tuất hàng tháng được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung.

Đối với những nhân thân không đủ điều kiện hưởng trợ cấp hàng tháng thì họ được

37

hưởng trợ cấp tử tuất một lần.

Ở phương diện nào đó, chế độ tuất quy định một khoản thừa kế người tham

gia BHXH chưa hưởng hết phần mà họ đã đóng góp và họ để lại cho thân nhân khi

họ bị chết.

Phần lớn các NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật về BHXH của Việt

Nam chỉ được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Đây là sự bất bình đẳng giữa

NLĐ trong nước và NLĐ làm viêc ở nước ngoài. Họ đều là NLĐ nên đều phải được

bình đẳng về quyền tham gia BHXH, an sinh xã hội. Bên cạnh đó chế độ thai sản hay

chế độ TNLĐ-BNN thì cần có điều kiện đóng bảo hiểm tối thiểu mới được hưởng chế

độ cụ thể là chế độ thai sản đủ 06 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh con, viêc

qui định trên đã gây thiệt thòi cho lao động nữ. Việc đi lao động ở nước ngoài đã phần

nào làm gián đoạn thời gian tham gia BHXH của NLĐ ảnh hưởng trực tiếp tới việc

nhận các chế độ có yêu cầu thời gian tối thiểu tham gia quỹ BHXH.

Tóm lại, pháp luật về quyền của người lao động di trú ở Việt Nam về cơ

bản là tương đồng với quy định của ICRMW và nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi

ích chính đáng của người lao động. Tuy nhiên, cũng còn một số khác biệt trong

cách tiếp cận và quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật như: Pháp luật Việt

Nam có những văn bản quy định riêng cho hai loại đối tượng là lao động Việt Nam

đi làm việc ở nước ngoài và lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. ICRMW

tiếp cận quyền của người lao động di trú dưới góc độ nhân quyền, tức là những

quyền tự nhiên, vốn có đặc thù của nhóm người lao động di trú, họ là những người

yếu thế cần được bảo vệ.

Pháp luật Việt Nam cũng tôn trọng tất cả các quyền con người của người

lao động di trú của người đặc biệt kể đến là quyền tham gia BHXH. Tuy nhiên về

chế độ BHXH Việt Nam cho NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài đã được pháp

luật đề cập đến nhưng còn giới hạn việc tham gia BHXH của đa phần NLĐ làm việc

ở nước ngoài chỉ được tham gia chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Điều còn chưa thực

sự phù hợp với tình hình kinh tế hội nhập hiện nay. Chính vì vậy cần phải có sự sửa

38

đổi pháp luật để tạo điều kiện cho NLĐ làm việc ở nước ngoài .

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI CHO NGƯỜI VIỆT NAM LAO ĐỘNG Ở

NHẬT BẢN

3.1. Thực trạng người lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản

Từ đầu thế kỷ XXI, tình trạng người lao động từ nước này sang nước khác

làm việc (đôi khi gọi là di trú lao động), đã thực sự nổi lên như là một trong những

vấn đề toàn cầu. Số người lao động ngoài biên giới nước mình hiện cao hơn bất cứ

thời kỳ nào trong lịch sử nhân loại, và ngày càng có thêm nhiều người trên thế giới

đi ra nước ngoài làm việc. Theo thống kê của Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), hiện

có 215 triệu người đang làm việc ở nước ngoài, chiếm 3.3% tổng dân số của thế

giới [19]. Còn theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) trung bình cứ 25

người lao động trên thế giới thì có một người là lao động di trú. Số lượng người lao

động di trú trên thế giới trong những thập kỷ gần đây tăng rất nhanh. Nếu như trong

giai đoạn 1965-1990, mỗi năm trên thế giới có thêm khoảng 45 triệu người lao động

ra nước ngoài làm việc, với tỷ lệ tăng 2,1%/năm, thì hiện tại mức tăng này là 2,9%.

Ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, việc ra nước ngoài tìm việc

làm rất phổ biến.

Thực tế cho thấy, dòng người lao động di trú chủ yếu là từ các nước đang

phát triển sang các nước phát triển, tuy nhiên, cũng có một phần diễn ra giữa các

nước đang phát triển (từ những nước nghèo hơn tới các nước giàu có hơn). Dù vậy,

trong mọi trường hợp, đích đến của những người lao động di trú là các nước có

nhiều cơ hội việc làm và cải thiện cuộc sống hơn so với nước mình.

Trong 30 năm phát triển vừa qua, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng

khích lệ. Cải cách kinh tế và chính trị thời kì Đổi mới bắt đầu từ năm 1986 đã thúc

đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, và đưa Việt Nam từ một trong các nước

nghèo nhất thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Từ năm 1990, tăng

trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam thuộc loại nhanh nhất trên thế giới,

trung bình 6,4% một năm vào những năm 2000. Kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng

trưởng vào năm 2015 với tỷ lệ tăng trưởng GDP là 6,7%. Tăng trưởng cũng đi kèm

với giảm nghèo và nhiều thành quả xã hội to lớn. Thu nhập bình quân đầu người

của Việt Nam tăng từ khoảng 100 đô la Mỹ vào những năm 1980 tới khoảng 2.115

39

đô la Mỹ vào năm 2016.

Việt Nam chính thức bắt đầu phái cử lao động vào những năm 1980. Khi

đó, trong khuôn khổ hợp tác nhiều mặt với các nước Đông Âu (Cộng hòa dân chủ

Đức, Tiệp Khắc, Bun-ga-ri) và Liên Xô, Việt Nam đã ký kết các hiệp định cấp

chính phủ phái cử lao động sang làm việc tại các xí nghiệp công nghiệp của các

nước nói trên. Mục đích hàng đầu của việc cử lao động đi làm việc ở nước ngoài lúc

đó là bồi dưỡng tay nghề, chuẩn bị lực lượng công nhân kỹ thuật cho công nghiệp

hóa sau này, đồng thời tăng thu nhập cho một bộ phận lao động. Trong thời gian

khoảng mười năm (1980-1990), đã có 277.183 người lao động đi làm việc ở các

nước nói trên, bao gồm 112.338 người đi Liên Xô, 72.786 người đi CHDC Đức,

37.659 người đi Tiệp Khắc, và 35.099 người đi Bun-ga-ri. Ngoài khu vực Liên Xô

và Đông Âu, kể từ những năm 1983-1984, Việt Nam mở rộng phái cử lao động và

chuyên gia sang một số nước Trung Đông và Châu Phi như I-rắc, An-giê-ri, Công-

gô, Ang-gô-la… làm việc trong lĩnh vực xây dựng, chăm sóc y tế, giáo dục và nông

nghiệp. Vào cuối năm 1990, tổng số lao động được được đưa đi làm việc tại các

quốc gia này là 19.301 người, trong đó tại I-rắc có 14.000 người lao động/chuyên

gia…[19]

Trong những năm gần đây, mỗi năm có trên 100.000 người đi làm việc ở

nước ngoài. Tuy có mặt ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng thực tế lao động

Việt Nam chủ yếu tập trung ở 04 thị trường chính là Ma-lay-xi-a, Đài Loan, Hàn

Quốc và Nhật Bản. Năm 2014, tại Ma-lay-xi-a có khoảng 20.000 người làm việc;

tại Đài Loan có khoảng 139.000 người; tại Hàn Quốc có trên 54.000 người, tại Nhật

Bản có khoảng 28.000 tu nghiệp sinh.

Bảng 3.1. Một số nước/vùng lãnh thổ tiếp nhận nhiều người lao động Việt Nam

nhất năm 2012-2016

STT Nước/vùng lãnh thổ 2012 2013 2014 2015 2016

Tổng 2012- 2016

1 Đài Loan (Trung Quốc) 2 Nhật Bản 3 Malaysia 4 Hàn Quốc 5 Lào 6 Campuchia 30.533 8.775 9.298 9.228 6.195 5.215 46.368 9.686 7.564 5.446 4.860 4.250 62.124 19.766 5.139 8.242 200 50 67.621 29.810 7.454 6.019 0 0 68.244 274.890 39.938 107.975 31.534 36.417 11.256 9.515 2.079 8.482 1 0

40

Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ LĐ-TB-XH

Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một chủ trương, chính

sách lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xu thế hội nhập, mở cửa, phù hợp

với xu hướng di cư quốc tế hiện nay, góp phần phát triển quan hệ mọi mặt với các

nước trên thế giới, trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, vì lợi ích quốc gia, dân

tộc. Hoạt động này ngày càng mở rộng đến nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, tạo

nhiều cơ hội lam việc với thu nhập khá hơn cho người lao động Việt Nam, góp phần

nâng cao đời sống của một bộ phận dân cư, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và

xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ tay nghề và tác phong công nghiệp.

Có 4 hình thức đưa người lao động Việt Nam đi lam việc ở nước ngoài: qua

doanh nghiệp dịch vụ hoặc tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động Việt

Nam đi lam việc ở nước ngoài; qua doanh nghiệp trung thầu, nhận thầu, đầu tư ra

nước ngoài; qua doanh nghiệp đưa người lao động đi lam việc dưới hình thức thực

tập sinh nâng cao tay nghề; va đi làm việc theo hợp đồng cá nhân. Trong đó, đa số

lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các công ty, doanh nghiệp hoạt động

dịch vụ và tổ chức sự nghiệp có chức năng va được cấp phép đưa lao động Việt Nam đi

làm việc ở nước ngoài (sau đây được gọi chung là các doanh nghiệp phái cử).

Theo báo cáo của Cục Quản lá Lao động Ngoài nước (Bộ LĐ-TB&XH), số

lao động đi làm theo hợp đồng có thời hạn do các doanh nghiệp phái cử theo các địa

bàn như sau: Malai-xi-a khoảng 88.000, Nhật Bản 18.000, Han Quốc 63.000, Trung

Quốc (Đai Loan) khoảng 90.000, còn lại ở cac nước khu vực Châu Phi - Trung

Đông, Châu Âu, Châu Úc. Ngoài ra còn có hang trăm thuyền viên làm việc trên các

tàu nước ngoài ở các vùng biển khác nhau thuộc các nước như In-đo-ne-xi-a, Pa-na-

ma, Me-hi-co, Bờ biển Nga, Cốt-xta-ri-ca…

Năm 2017 cả nước đưa được 134.751 lao động đi nước ngoài làm việc,

vượt 28,3% so với kế hoạch năm và bằng 106,7% so với tổng số lao động đi xuất

khẩu trong năm 2016. Đây là năm thứ tư liên tiếp số lượng lao động Việt Nam đi

làm việc ở nước ngoài vượt mức 100.000 lao động/năm.

Cũng theo đánh giá của Cục Quản lý lao động ngoài nước, năm 2017, một

số thị trường xuất khẩu lao động chính vẫn tiếp tục có nhu cầu tuyển dụng lao động

Việt Nam cao như Đài Loan, Nhật Bản. Các thị trường khác vẫn có nhu cầu tiếp

nhận ổn định, riêng thị trường Nhật Bản nhu cầu tuyển dụng lao động Việt Nam

41

ngày càng tăng, đa dạng về ngành nghề.

Thị trường Nhật Bản có sự tăng trưởng vượt bậc với 54.504 lao động

(24.502 lao động nữ). Các thị trường khác như Đài Loan là 66.926 lao động; Hàn

Quốc với 5.178 lao động; Ả rập Xê út là 3.626 lao động; Malaysia với 1.551 lao

động; Algeria với 760 lao động… Cùng với Đài Loan, Nhật Bản cũng được đánh

giá là một thị trường xuất khẩu lao động nhiều tiềm năng. Đặc biệt, đây là một trong

các thị trường có điều kiện làm việc và thu nhập tốt, được nhiều lao động Việt Nam

quan tâm và đăng ký tham gia.

Tính đến hết tháng 12/2017, số lượng thực tập sinh được phái cử sang Nhật

Bản đạt 54.504 người, bằng 136,47% so với cùng kỳ năm 2016 theo báo cáo của

Hội nghị tổng kết công tác năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018 và công bố

quyết định của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TBXH) ngày

18/01/2018, nâng tổng số thực tập sinh Việt Nam đang thực tập tại Nhật Bản lên

hơn 100 nghìn người, vượt Trung Quốc và trở thành nước có số lượng thực tập sinh

phái cử nhiều nhất trong số 15 nước phái cử thực tập sinh sang Nhật Bản. Trong đó,

thị trường Nhật Bản có sự tăng trưởng vượt bậc với 54.504 lao động (trong đó, có

24.502 lao động nữ), tăng 36,47% so với năm 2016, nâng tổng số thực tập sinh Việt

Nam đang thực tập tại Nhật Bản lên hơn 100 nghìn người (nhiều nhất trong 15

nước có thực tập sinh tại Nhật Bản). Qua đánh giá, trong năm 2017, hoạt động đưa

người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã hoàn thành

vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Một số thị trường xuất khẩu lao động chính tiếp

tục có nhu cầu tuyển dụng lao động Việt Nam cao như thị trường: Đài Loan, Nhật

bản. Các thị trường khác vẫn có nhu cầu tiếp nhận ổn định, riêng thị trường Nhật

Bản nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam ngày càng tăng, đa dạng về ngành nghề.

Một số thị trường có nhu cầu tuyển dụng một số nhóm ngành nghề mới mà Việt

Nam có khả năng đáp ứng tốt, có nhu cầu đưa đi như điều dưỡng, hộ lý và lao động

trong một số lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, lao động có tay nghề, kỹ

thuật cao, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động khi lựa chọn phương án

đi làm việc ở nước ngoài. Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại

giao ngày 21 tháng 9 năm 1973. Đến nay, hai nước đã xây dựng và không ngừng

phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác rất gắn bó và toàn diện. Quan hệ hai

nước đã đạt đến một đỉnh cao mới, trở thành “đối tác chiến lược vì hoà bình và

42

phồn vinh Châu Á”.

Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba toàn cầu. Nhu cầu tiếp nhận

lao động nước ngoài của Nhật Bản rất lớn, mỗi năm tiếp nhận hơn 100.000 thực tập

sinh nước ngoài, trong đó có khoảng 6.000 thực tập sinh Việt Nam. Nhật Bản được

đánh giá là thị trường tiềm năng rất lớn cho thực tập sinh Việt Nam. Hiện nay, Việt

Nam có gần 20.000 thực tập sinh đang làm việc tại Nhật Bản trong 63 nhóm ngành

nghề khác nhau, là quốc gia có số lượng thực tập sinh lớn thứ hai trong tổng số 15 quốc

gia phái cử, chỉ sau Trung Quốc, vượt lên trên Indonesia, Philippines và Thái Lan.

Nhìn chung, lao động Việt Nam được thị trường chấp nhận, đa số nỗ lực,

chủ động học tập, nắm bắt công việc, sáng tạo va cần cù trong lao động, được chủ

lao động quý mến. Thu nhập của lao động Việt Nam ở nước ngoài tương đối ổn

định, có thể cao gấp 2-3 lần so với thu nhập trong nước cùng ngành nghề, trình độ.

Sau khi trừ các chi phí sinh hoạt, thu nhập của lao động còn khoảng 2-3 triệu

đồng/tháng ở thị trường sử dụng lao động giản đơn như Ma-lay-xi-a, và 6-7 triệu

đồng/tháng tại thị trường có thu nhập trung bình như UAE. Tại Hàn Quốc, Nhật

Bản, người lao động có mức thu nhập cao hơn, lên đến 15-20 triệu đồng/tháng.

Công việc của lao động Việt Nam tập trung vao một số ngành nghề như sản xuất chế

tạo, may mặc, điện tử, giúp việc gia đình, hộ lý, thuyền viên,... Có thể nói phụ thuộc

vào từng nước tiếp nhận mà nghề nghiệp của lao động ở mỗi nơi có khác nhau.

Bảng 3.2: Tình hình lao động Việt Nam đang làm việc tại nước ngoài/vùng lãnh

thổ bên ngoài và mức thu nhập trung bình hằng tháng năm 2014

STT

Nước/vùng lãnh thổ có lao động Viêt Nam Số lao động Việt Nam đang làm việc Lương trung bình (USD/tháng) Thu nhập khác trung bình (USD/tháng)

1 2 3 4 5 6 Đài Loan Hàn Quốc Nhật Bản Malaysia Lào Campuchia 650 1000 1400 300 300 250 200 250 200 111 113 94 138926 54392 26164 20108 15532 12335

Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ LĐ-TB-XH.

Hiện nay tình hình lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài đang ngày

càng tăng nhanh chính vì vậy việc bảo vệ quyền và các lợi ích cơ bản của họ cần

được chú trọng. Một lần nữa càng khẳng định việc nghiên cứu bảo vệ NLĐ Việt

43

Nam làm việc ở nước ngoài hoàn toàn phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay.

3.2. Thực trạng Pháp luật Bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam làm

việc theo hợp đồng ở Nhật Bản.

Bảo vệ người lao động là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt trong hệ thống

pháp luật lao động Việt Nam với triết lí người lao động là kẻ yếu trong quan hệ lao

động, trên thị trường lao động và lực lượng lao động xã hội là nguồn tài nguyên vô

giá của quốc gia. Tình hình người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo

hợp đồng ở Nhật Bản ngày càng tăng nhanh. Trong đó, người lao động đi làm việc

ở nước ngoài là đối tượng cần quan tâm đặc biệt bởi vì họ là người “phải sống xa

gia đình, xa quê hương, tổ quốc, xa những người hướng dẫn, hỗ trợ và bảo vệ; chính

vì vậy, họ rất dễ bị bóc lột, phân biệt đối xử và xâm phạm các quyền”. Ngoài ra

người lao động làm việc ở nước ngoài cũng gặp phải những vấn đề khó khăn như:

họ phải lo các chi phí học tiếng, học nghề, phương tiện đi sang nước khác làm việc,

ký kết hợp đồng làm việc, đặt cọc tiền...Thực tế cho thấy, nhiều người đã phải cầm

cố toàn bộ tài sản trong nước thậm chí là đi vay tiền để lo các chi phí chuẩn bị đi lao

động ở nước ngoài, nhiều trường hợp bị lừa hết tiền mà vẫn không được đi; Cũng

có những trường hợp do không hiểu biết nên đã ký hợp đồng bất lợi cho mình...

Tình hình người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp

đồng cả nước đưa được 134.751 lao động đi nước ngoài làm việc vào năm 2017,

vượt 28,3% so với kế hoạch năm và bằng 106,7% so với tổng số lao động đi xuất

khẩu trong năm 2016. Đây là năm thứ tư liên tiếp số lượng lao động Việt Nam đi

làm việc ở nước ngoài vượt mức 100.000 lao động/năm. Trong đó, thị trường Nhật

Bản có sự tăng trưởng vượt bậc với 54.504 lao động (trong đó, có 24.502 lao động

nữ), tăng 36,47% so với năm 2016, nâng tổng số thực tập sinh Việt Nam đang thực

tập tại Nhật Bản lên hơn 100 nghìn người (nhiều nhất trong 15 nước có thực tập

sinh tại Nhật Bản).

Người lao động làm việc ở nước ngoài được hưởng quyền lợi như người lao

động làm việc trong nước trong đó quyền về an sinh xã hội cũng được nhấn mạnh

trong khuôn khổ đa chiều về lao động di trú của ILO. Hệ thống chế độ BHXH là nội

dung chính của pháp luật BHXH, pháp luật BHXH cụ thể hóa chính sách vào trong

các chế độ, với các quy định về đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, thời gian hưởng

và mức trợ cấp BHXH trong từng chế độ cụ thể. Bên cạnh đó chế độ BHXH dành

44

cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cũng còn chưa được thực sự

chú trọng. Chế độ BHXH áp dụng cho NLĐ Việt Nam làm việc ở nước ngoài được

chia thành hai trường hợp. NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt

động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được

phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài

theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi

làm việc theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài

theo hình thức hợp đồng cá nhân thì chỉ được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử

tuất. Tuy nhiên, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận

thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc

ở nước ngoài thì vẫn hưởng đầy đủ các chế độ BHXH như chế độ ốm đau, chế độ

thai sản, chế độ TNLĐ-BNN, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.

Trong báo cáo của Vụ BHXH (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội)

trong 9 tháng đầu năm 2016 chỉ có khoảng 1500 NLĐ làm việc ở nước ngoài tham

gia BHXH trên tổng số mấy chục nghìn lao động xuất cảnh

Còn thống kê của BHXH Việt Nam cho thấy, sau gần một năm triển khai

quy định đóng BHXH bắt buộc của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài của Luật Bảo

hiểm xã hội năm 2014, hiện có tất cả 4.878 NLĐ ở nước ngoài tham gia BHXH.

Con số này quá thấp so với số lượng hơn 100 nghìn lao động xuất cảnh đi làm việc

ở nước ngoài mỗi năm, và rất thấp so với mấy trăm nghìn lao động Việt Nam đang

làm việc ở nước ngoài.

Phần lớn người lao động Việt Nam đi sang Nhật Bản dưới hai hình thức là

thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài và thông qua hình thức đưa tu nghiệp sinh,

thực tập sinh thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài. Hai hình thức trên phổ biến

nhất trong số các hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

Tuy nhiên vẫn phải kể đến trường hợp NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh

nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng đang ngày càng tăng lên. Một trong

số các doanh nghiệp trúng thầu cử NLĐ sang làm việc ở Nhật Bản phải kể đến là

Công ty Cổ phần FPT Software.

Đào tạo “10.000 kỹ sư cầu nối” là 1 trong 2 chương trình chiến lược của

45

FPT cho thị trường Nhật Bản, đã được FPT chính thức công bố triển khai từ trung

tuần tháng 11/2014. Theo đó, từ năm 2015 đến 2018, FPT đặt mục tiêu đào tạo

10.000 kỹ sư cầu nối cho thị trường Nhật Bản nhằm giúp FPT nói riêng và các công

ty CNTT của Việt Nam nói chung đủ khả năng tiếp nhận lượng công việc ủy thác

dịch vụ CNTT (IT Outsourcing) từ Nhật Bản, đồng thời giúp các công ty Nhật Bản

có thêm nguồn kỹ sư CNTT trẻ. Trong số 10.000 kỹ sư cầu nối đào tạo cho thị

trường Nhật của FPT, sẽ có 5.000 học viên được đào tạo tại Nhật và số còn lại được

đào tạo tại Việt Nam. Với chương trình đào tạo tại Việt Nam, cùng với các khóa

đào tạo nội bộ, FPT Software cũng liên kết, hợp tác với các trường đại học trên toàn

quốc để tăng thêm nguồn lực cho chương trình. Đối với chương trình đào tạo 5.000

kỹ sư cầu nối tại Nhật, năm 2015, FPT Software dự kiến sẽ đưa khoảng 500 học

viên sang Nhật Bản đào tạo theo chương trình du học. Với các học viên được đào

tạo tại Nhật, FPT Software cam kết bảo lãnh tài chính và tạo điều kiện tốt nhất về

việc làm tại Nhật với mức lương tối thiểu 2.000 USD/tháng.

Trong khi đó, nếu làm việc ở Hàn Quốc, NLĐ phải đặt cọc 450 USD để

đóng bảo hiểm hồi hương, bảo hiểm rủi ro, thất nghiệp. Sang Nhật Bản làm việc,

người lao động Việt Nam vẫn được tham gia đầy đủ các loại bảo hiểm theo pháp

luật Nhật Bản như bảo hiểm xã hội, y tế, bảo hiểm an toàn lao động…khám sức

khỏe định kỳ theo quy định của chính phủ Nhật Bản.

Có thể thấy NLĐ Việt Nam thường tham gia chế độ BHXH dài hạn như chế

độ hưu trí và chế độ tử tuất theo quỹ BHXH Việt Nam còn tham gia chế độ BHXH

ngắn hạn tại Nhật Bản do phần lớn người lao động Việt Nam đi sang Nhật Bản dưới

hai hình thức là thông qua các doanh nghiệp dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép

hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và thông qua hình thức đưa

tu nghiệp sinh, thực tập sinh thực tập nâng cao tay nghề ở nước ngoài. Bên cạnh

việc tìm hiểu các chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ở Việt Nam thì các chế độ BHXH

Nhật Bản bao gồm hai phần: A) BHXH (bảo hiểm hưu trí, BHYT); B) Bảo hiểm lao

động (bảo hiểm việc làm, bảo hiểm bồi thường tai nạn cho người lao động) [53].

Chế độ hưu trí Nhật Bản được chia ra làm hai loại hình chính là: 1) Chế độ

bảo hiểm hưu trí quốc gia áp dụng đối với công dân Nhật Bản tuổi từ 20 đến dưới

60 và thực hiện tự nguyện cho người dân Nhật Bản ở trong nước từ 60 đến dưới 65

tuổi, ở nước ngoài từ 20 đến dưới 65 tuổi; 2) Chế độ hưu trí cho người lao động

thực hiện cho người lao động dưới 65 tuổi làm việc tại các tổ chức, cơ quan thuộc

46

Chính phủ, chính quyền địa phương, tại các công ty, tập đoàn, trường học tư.

Bảo hiểm hưu trí quốc dân cũng tương tự bảo hiểm quốc dân, đây là loại

bảo hiểm bắt buộc áp dụng bắt buộc cho tất cả mọi người dân, bao gồm cả người

nước ngoài có tư cách lưu trú tại Nhật Bản. Mục đích của loại bảo hiểm này là trợ

cấp cho người già, người tàn tật và gia quyến của người đã mất.

Bảo hiểm hưu trí phúc lợi loại bảo hiểm này chỉ áp dụng cho những doanh

nghiệp sử dụng NLĐ theo diện biên chế, mục đích chính là để trợ cấp cho người

già, người tàn tật và gia quyến của những người đã mất. Phí bảo hiểm do doanh

nghiệp tiếp nhận và người lao động cùng trả, mỗi bên một nửa. Truy lĩnh lương hưu

một lần khi thôi bảo hiểm hưu trí. Do thời gian thực tập sinh kỹ năng tại Việt Nam

là ngắn hạn nên bảo hiểm hưu trí quốc dân và Bảo hiểm hưu trí phúc lợi sẽ hỗ trợ

truy lĩnh lương hưu một lần khi thôi bảo hiểm. Trước khi về nước thực tập sinh kỹ

năng có thể làm thủ tục để truy lĩnh một lần lương sau khi thôi bảo hiểm.

Bảo hiểm trợ cấp hưu trí áp dụng người đi làm trên 20 tuổi, làm trong công

ty có từ 5 nhân viên trở lên phải tham gia bảo hiểm trợ cấp hưu trí. Người làm việc

bán thời gian có tổng giờ làm việc và số ngày làm việc trên 3/4 so với giờ người

làm việc chính qui cũng phải tham gia đóng bảo hiểm trợ cấp hưu trí (trường hợp

người làm việc thời vụ có thời gian làm việc dưới tỉ lê 3/4 này, nhưng nếu có điều

kiện lao động như làm viêc trên 20 giờ/tuần, có khả năng sẽ được tuyển dụng trên

01 năm, có tiền lương trên 88,000 yen/tháng, NLĐ không phải là học sinh-sinh

viên, làm việc thường xuyên cho công ty có trên 501 nhân viên… thì phải tham gia

đóng bảo hiểm này). Số tiền phải đóng được chia theo tỷ lệ 50% mỗi bên giữa NLĐ

và công ty. Tuy nhiên mức đóng này khác nhau do mức lương và mức thưởng khác

nhau. Công ty thực hiện việc đóng phí bảo hiểm này cho nhân viên. Nếu bạn không

tham gia bảo hiểm trợ cấp hưu trí thì bạn phải tham gia đóng bảo hiểm trợ cấp quốc

dân. Mức đóng bảo hiểm này không phụ thuộc vào thu nhập, hàng tháng được ấn

định là 16,260 yên (năm 2016) [58]. Đối với bảo hiểm trợ cấp hưu trí và bảo hiểm

trợ cấp quốc dân có “Chế độ hoàn tiền lại tạm thời”. Theo chế độ này, người nước

ngoài khí sống và làm việc tại Nhật trên 6 tháng có tham gia đóng các loại bảo hiểm

trên, trong 02 năm kể từ khi ra khỏi Nhật có quyền làm đơn xin hoàn lại tiền hưu trí.

Bảo hiểm khám chữa bệnh ở Nhật được chia thành 2 loại. Pháp luật quy

định rõ người dân phải tham gia một trong hai loại bảo hiểm này. Ở Nhật Bản chi

47

phí khám chữa bệnh khá đắt, nhưng tham gia bảo hiểm, chi phí khám chữa bệnh sẽ

được bảo hiểm chi trả phần lớn. Người nước ngoài đang đăng ký lưu trú nếu có tư

cách cư trú trên 3 tháng có thể tham gia bảo hiểm sức khỏe quốc dân. Bảo hiểm y tế

quốc dân là loại bảo hiểm này bắt buộc, tất cả người dân và người nước ngoài đang

sinh sống tại Nhật đều phải đóng, bảo hiểm này sẽ thực hiện trả chi phí điều trị y tế

trong trườn hợp bị bênh hay bị thương. Trong đó bảo hiểm hỗ trợ lên đến 70% phí

điều trị nếu bạn khám, chữa bệnh tại các bệnh viện. Người tham gia bảo hiểm chỉ

chịu 30% chi phí y tế (người chưa đi học chịu 20%, người trên 70 tuổi và dưới 74

tuổi chịu 20%, (từ trước ngày 1 tháng 4 năm 2015 người vừa tròn 70 tuổi chịu 10%,

người có thu nhập trên mức qui định chịu 30%). Những chi phí phụ phát sinh khi

nhập viện có thể không được tính vào chi phí bảo hiểm chi trả. Bảo hiểm y tế phúc

lợi cũng chi trả 70% chi phí điều trị cho người lao động. Phí bảo hiểm do xí nghiệp

và người lao động cùng trả, mỗi bên một nửa.

Bảo hiểm việc làm là một chế độ bảo hiểm bắt buộc do Chính phủ quản lý

liên quan đến việc làm một cách toàn diện, cung cấp các phúc lợi bao gồm: 1) Các

trợ cấp thất nghiệp: trợ cấp tìm việc; trợ cấp xúc tiến việc làm; trợ cấp đào tạo và

dạy nghề; trợ cấp tiếp tục làm việc; 2) Ba loại dịch vụ: a) ổn định việc làm: ngăn

ngừa thất nghiệp, cải thiện điều kiện làm việc, tăng cơ hội việc làm; b) Phát triển

nguồn nhân lực: phát triển, trau dồi năng lực cho người lao động bằng việc xây

dựng và quản lý các cơ sở đào tạo; c) Phúc lợi xã hội cho người lao động: tư vấn,

dịch vụ hỗ trợ tìm việc làm, tuyển dụng.

Bảo hiểm bồi thường tai nạn cho người lao động (WACI) cung cấp bảo

hiểm cho các tai nạn vì các lý do thương tật, ốm đau, tàn tật, chết của người lao

động tại nơi làm việc hoặc trên đường đi đến nơi làm việc. Đến 3/2001 đã có

khoảng 2,7 triệu đơn vị thực hiện WACI và bảo hiểm cho khoảng 48.550 nghìn lao

động. Phúc lợi của chế độ WACI được chia làm hai phần: 1) Phúc lợi thương tật khi

làm việc và trên đường đi đến nơi làm việc gồm: bồi thường chi phí y tế, trợ cấp 1

lần do mất khả năng lao động tạm thời, bồi thường thương tật và ốm đau, bồi

thường tàn tật, trợ cấp tuất, mai táng phí, trợ cấp chăm sóc dài ngày; Phúc lợi

phòng tránh bệnh tật gồm kiểm tra y tế và hướng dẫn về y tế sau khi kiểm tra; 2)

Các dịch vụ phúc lợi lao động: dịch vụ phục hồi chức năng, dịch vụ hỗ trợ cho

người bị thương tật, dịch vụ bảo đảm an toàn và điều dưỡng; dịch vụ bảo đảm điều

48

kiện làm việc.

Bảo hiểm tai nạn lao động là chế độ chi trả các trợ cấp bảo hiểm cần thiết ví

dụ như phí điều trị cho người lao động khi bị thương, bị bệnh hoậc tử vong mà

nguyên nhân do làm việc hoặc đi làm. Bảo hiểm tai nạn lao động được áp dụng đối

với cả người nước ngoài, chỉ cần đang làm việc tại Nhật Bản.

Phí bảo hiểm do chủ sử dụng lao động đóng góp và được thu cùng với phí

bảo hiểm việc làm dưới hình thức thống nhất là “Phí bảo hiểm lao động”. Tỷ lệ

đóng góp được phân loại theo ngành nghề trên cơ sở tần suất tai nạn lao động và

một số yếu tố khác. Hiện tại tỷ lệ thấp nhất là 0,55% (ngành thương mại) và cao

nhất 13,3% (xây dựng trạm thủy điện, đường ống).

NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản không tham gia chế độ BHXH ngắn

hạn ở Việt Nam như chế độ thai sản, chế độ TNLĐ-BNN,… điều này gây ảnh

hưởng đến xây dựng quỹ BHXH ở Việt Nam. Đây là sự bất bình đẳng giữa NLĐ

trong nước và NLĐ làm viêc ở nước ngoài. Họ đều là NLĐ nên đều phải được bình

đẳng về quyền tham gia BHXH, an sinh xã hội. Bên cạnh đó chế độ thai sản thì cần

có điều kiện đóng bảo hiểm tối thiểu mới được hưởng chế độ cụ thể là chế độ thai

sản đủ 06 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh con, viêc qui định trên đã gây

thiệt thòi cho lao động nữ. Việc đi lao động ở nước ngoài đã phần nào làm gián

đoạn thời gian tham gia BHXH của NLĐ ảnh hưởng trực tiếp tới việc nhận các chế

độ có yêu cầu thời gian tối thiểu tham gia quỹ BHXH. Mặc dù họ được tham gia các

chế độ BHXH ngắn hạn tại Nhật Bản tuy nhiên các chế độ BHXH đều chỉ áp dụng

trong phạm vi quốc gia Nhật Bản. Vậy trường hợp người lao động quay trở về nước

do ốm đau hoặc sinh con sẽ không được thụ hưởng chế độ này, mặc dù họ có tham

gia tại Nhật. Còn khi về Việt Nam, do không tham gia các chế độ BHXH ngắn hạn

tại Việt Nam nên họ sẽ không được thụ hưởng các trợ cấp thai sản hay trợ cấp ốm

đau như NLĐ làm việc trong nước. Mà lao động VN khi làm việc ở nước ngoài đa

phần sẽ phải quay về nước nếu sinh con hoặc ốm đau dài ngày. Hay khi NLĐ tham

gia chế độ TNLĐ-BNN ở Nhật Bản thì đương nhiên họ sẽ nhận được trợ cấp BNN

những BNN có tính chất lâu dài và rất khó để phát hiện ngay, có những trường hợp

NLĐ quay trở lại Việt Nam thì mới phát hiện ra bị BNN mà khi đó thì NLĐ sẽ rất

thiệt thòi vì không tham gia BHXH ở Việt Nam mà chế độ TNLĐ-BNN đã tham gia

ở bên Nhật Bản cũng không được hưởng vì pháp luật quốc gia chỉ áp dụng trên lãnh

49

thổ quốc gia. Trợ cấp BNN là được hưởng theo định kỳ hàng tháng, vậy khi NLĐ

Việt Nam hết hợp đồng quay trở về nước thì sẽ không còn được hưởng trợ cấp này

nữa. Điều này là một điểm thiệt thòi cho NLĐ vì họ không tham gia ở Việt Nam

nên khi về nước cũng không được hưởng chế độ trợ cấp này. Đồng thời pháp luật

BHXH Nhật Bản chưa có sự liên kết với pháp luật BHXH Việt Nam nên chế độ trợ

cấp này sẽ chấm dứt khi NLĐ trở về nước.

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, quy định về BHXH bắt buộc đối với

NLĐ đi làm việc ở nước ngoài khá cụ thể. Phần lớn NLĐ đi làm việc ở nước ngoài

chỉ tham gia quỹ BHXH bắt buộc ở 02 chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Với NLĐ đã

từng tham gia BHXH bắt buộc thì mức đóng hàng tháng bằng 22% tiền lương tháng

đóng BHXH của NLĐ trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Với người chưa tham gia

BHXH bắt buộc thì mức đóng bằng 22% của 2 lần mức lương cơ sở tại Việt Nam.

NLĐ có thể đóng 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng/lần hoặc đóng trước một lần theo thời

hạn hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài. NLĐ đóng trực tiếp cho cơ quan BHXH

nơi cư trú trước khi đi xuất khẩu lao động (XKLĐ) hoặc đóng qua doanh nghiệp, tổ

chức phái cử. Các doanh nghiệp không phải hỗ trợ tiền đóng BHXH cho NLĐ mà

chỉ thu hộ. Trong khi đó, các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc chịu trách

nhiệm thu hộ thì không biết phải thu BHXH bắt buộc của NLĐ theo hình thức nào,

mức thu cụ thể bao nhiêu, trong trường hợp NLĐ cố tình không đóng thì giải quyết

theo hướng nào?

Hiện nay phần lớn người đi lao động ở nước ngoài là lao động trẻ, chưa

từng tham gia làm việc, hay đóng BHXH ở Việt Nam, công ty đã thông báo, giới

thiệu về việc tham gia BHXH nhưng hầu như người lao động không muốn tham gia.

Họ ít hiểu về chính sách BHXH mà chỉ quan tâm đến các nội dung, kỹ năng khi đi

xuất khẩu lao động và các khoản bảo hiểm buộc phải đóng ở nước sở tại. Bên cạnh

đó, nhiều NLĐ cũng bày tỏ thắc mắc về mức thu cao bằng 22% trên mức lương cơ

sở. Bởi NLĐ làm việc ở các thị trường có mức thu nhập thấp như các nước Trung

Đông, Malaysia lại đóng BHXH như người lao động ở các thị trường có thu nhập

cao như Nhật Bản, Hàn Quốc... là chưa công bằng.

Hiện nay vẫn có một số ít NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản đi làm việc

với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức cá nhân đầu tư ra nước ngoài

có đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài vẫn bị bắt buộc tham gia vào chế độ BHXH ở

50

Nhật Bản như đã trình bày ở trên dù họ vẫn tham gia đầy đủ 05 chế độ BHXH ở

Việt Nam. Chính vì vậy có thể thấy NLĐ phải đóng BHXH hai lần, một là ở nước

họ là công dân, hai là nước sở tại nơi họ làm việc, việc này tăng thêm gánh nặng

kinh tế cho NLĐ. Ngoài ra pháp luật còn quy định chưa rõ ràng về thủ tục hưởng

BHXH khi NLĐ về nước. Người lao động làm việc ở đâu đi chăng nữa thì những

vấn đề khó khăn như bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp… đều có thể

xảy đến. NLĐ sẽ được hưởng các chế độ BHXH như chế độ ốm đau, chế độ thai

sản, chế độ TNLĐ-BNN khi thỏa mãn các điều kiện được hưởng chế độ là các sự

kiện có thực tế. Các sự kiện này cần được xác minh cụ thể bởi các cơ quan chức

năng có thẩm quyền ở nơi NLĐ làm việc thực tế. Về chế độ ốm đau, quỹ BHXH

khó xác định và giám sát được tình hình thực tế của NLĐ khi họ làm việc ở Nhật

Bản. Về chế độ trợ cấp thai sản điểm bất hợp lý là thời gian đóng BHXH trước khi

hưởng trợ cấp dẫn đến việc gây mất công bằng trong việc hưởng thụ nhất là trong

trường hợp trợ cấp nghỉ sinh con. Ngoài tra, khoản trợ cấp một lần khi sinh nhằm

mục đích bồi dưỡng cho người mẹ được quy định bằng một tháng lương trước khi

nghỉ hưởng trợ cấp là bất hợp lý vì cũng có người lương cao, người lương thấp

trong khi đó sự kiện phát sinh nhu cầu là như nhau. NLĐ làm việc ở Nhật Bản thì

mức lương thường cao hơn NLĐ làm việc trong nước vì vậy có thể gây ra tình trạng

thâm hụt quỹ BHXH đặc biệt trường hợp nghỉ thai sản kéo dài 06 tháng. Hơn thế

việc xác định NLĐ làm việc ở nước ngoài có đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản

khác như xảy thai, những biện pháp tránh thai… cũng rất khó dẫn đến khó khăn để

thực hiện việc chi trả BHXH. Hơn thế việc xác định tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp là hoàn toàn khó khăn. Chính bởi pháp luật quốc gia quy định định khác

nhau và mỗi pháp luật quốc gia chỉ có giá trị pháp lý trên địa bàn lãnh thổ của mình

nên không thể dùng luật BHXH của Việt Nam để xác định NLĐ có bị TNLĐ hay

BNN ở nước NLĐ làm việc. Cách xác định theo quy định hiện hành còn chưa rõ

ràng, đặc biệt là trường hợp TNLĐ trên đường từ nhà ở đến nơi làm việc và ngược

lại. Đoạn đường và thời gian hợp lý như trong luật quy định khi xảy ra tai nạn là rất

khó xác định trong trường hợp NLĐ làm việc ở nước ngoài. Hay danh sách BNN ở

mỗi nước quy định là rất khác nhau nên khó xác định được chính xác bệnh này có

thuộc đối tượng chi trả của quỹ BHXH hay không? Hơn thế BNN là vấn đề dài hạn

nên có thể NLĐ về nước mới phát sinh bệnh một cách rõ ràng và với mức độ phù

51

hợp với dấu hiệu của bệnh nghề nghiệp lúc này NLĐ không còn được chi trả BHXH

theo chế độ TNLĐ-BNN. Chính vì còn thiếu sự liên kết pháp luật song phương giữa

Việt Nam và Nhật Bản nên đây chính là sự thiệt thòi của NLĐ.

Luật BHXH và nghị định hướng dẫn cũng chưa có bất cứ điều kiện nào quy

định, ràng buộc trách nhiệm của lao động đi làm việc ở nước ngoài về việc tham gia

BHXH. Hiện cũng chưa có chế tài nào cưỡng chế số lao động này thi hành quy định

tham gia BHXH bắt buộc. Do đó, việc đảm bảo NLĐ tham gia BHXH còn gặp

nhiều khó khăn trong thực tế. Các doanh nghiệp cũng như cơ quan chức năng luôn

đón nhận các quy định mới hướng đến an sinh xã hội, bảo đảm quyền lợi chính

đáng cho NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, khi luật được thực thi thì lại

vướng nhiều khó khăn khi NLĐ không muốn tham gia BHXH, doanh nghiệp ngại

thu hộ.

Trên thực tế còn tồn tại nhiều bất cập trong pháp luật BHXH dành cho NLĐ

Việt Nam làm việc ở Nhật Bản, chính điều này gây ra việc thất thu quỹ BHXH hơn

thế không bảo đảm được quyền lợi an sinh xã hội của NLĐ, không thực hiện đúng ý

nghĩa nhằm san sẻ rủi ro bù đắp và thay thế phần thu nhập đảm bảo ổn định cuộc

sống cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập của quỹ BHXH.

3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội cho

người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng ở Nhật Bản.

Mục tiêu của hệ thống BHXH là xây dựng một xã hội nhân đạo và văn

minh, tạo nguồn tích lũy từ các khoản đóng góp của người lao động, tăng nguồn tài

chính quốc gia nhằm bảo vệ tối đa người lao động, thực hiện quyền bình đẳng của

mọi người trong độ tuổi lao động và trong các khu vực kinh tế khác nhau. Vì vậy

hoàn thiện pháp luật BHXH là một việc làm rất cần thiết vừa để bảo vệ quyền lợi

của NLĐ vừa đảm bảo nguồn thu cho quỹ BHXH. Trên cơ sở đó, từ những nghiên

cứu về quy định pháp luật BHXH tại Việt và thực trạng nhóm lao động Việt Nam

tại Nhật Bản, tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:

Tạo cơ hội tiếp cận mọi chế độ BHXH cho lao động Việt Nam đi làm việc

ở nước ngoài.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi người đều có quyền bình đẳng

trong lao động và hưởng thụ, họ đều có quyền được bảo vệ trong các trường hợp rủi

ro và biến cố mà không có sự phân biệt thành phần kinh tế, địa vị xã hội, giới tính,

52

tôn giáo… Đây không chỉ đơn thần là nguyên tắc của BHXH mà còn là mục tiêu,

nhiệm vụ chiến lược của BHXH đã được Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII chỉ

rõ: “ … từng bước mở rộng vững chắc hê thống Bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội,

tiến tới áp dụng chế độ Bảo hiểm cho mọi người lao động”. Thực tế cho thấy, NLĐ

làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi

làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc

ở nước ngoài, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay

nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc theo hình thức thực tập nâng

cao tay nghề, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu

hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở

nước ngoài, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức hợp đồng cá nhân đều là

NLĐ vì vậy họ đều bình đẳng có quyền tham gia các chế độ BHXH như nhau

không bị phân biệt đối xử. Pháp luật cần điều chỉnh về quy định vấn đề này sao cho

phù hợp với tình hình kinh tế thị trường tự do hội nhập hiện nay. Theo đó, lao động

Việt Nam ở nước ngoài dù với loại hình hợp đồng nào thì cũng nên được tạo điều

kiện để tham gia tất cả các chế độ BHXH. Việc tham gia đó sẽ là cơ sở để họ có thể

được thụ hưởng quyền lợi liên quan khi gặp rủi ro, hướng đến việc bảo vệ sức lao

động và nguồn thu nhập từ sức lao động của đối tượng này.

Xây dựng cơ chế tương tác giữa hệ thống BHXH của Việt Nam và Nhật

Bản.

Hiện nay, NLĐ đi làm việc ở Nhật Bản còn gặp nhiều khó khăn trong việc

đóng BHXH, hưởng các chế độ trợ cấp hiện hành vì vậy cần phải sửa đổi, bổ sung

và hoàn thiện pháp luật. Khi NLĐ Việt Nam sang làm việc ở Nhật Bản thì bắt buộc

phải tham gia đầy đủ các loại bảo hiểm theo pháp luật Nhật Bản như bảo hiểm xã

hội, y tế, bảo hiểm an toàn lao động…khám sức khỏe định kỳ theo quy định của

chính phủ Nhật Bản. Trong khi đó NLĐ làm việc ở nước ngoài là đối tượng bắt

buộc phải tham gia chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ở Việt Nam. Do pháp luật

BHXH Nhật Bản chỉ có hiệu lực pháp lý trên địa bàn Nhật Bản nên sau khi NLĐ về

nước sẽ không được hưởng các chế độ trợ cấp đã tham gia ở Nhật Bản nữa như đã

phân tích ở trên. Chính vì thế cần có sự liên kết pháp luật giữa nước đưa NLĐ đi

làm việc ở nước ngoài và nước nhận NLĐ cụ thể là giữa Việt Nam và Nhật Bản cần

có sự thống nhất về việc đóng BHXH và hưởng các chế độ trợ cấp. Nhằm bảo vệ

53

quyền lợi của NLĐ hơn thì nên có sự quy đổi thời gian đã tham gia BHXH bên

Nhật Bản vào thời gian đóng BHXH tại Việt Nam để tránh làm gián đoạn việc đóng

vào quỹ BHXH của NLĐ đặc biệt là đối với các chế độ BHXH ngắn hạn. Tuy nhiên

để thực hiện được điều đó thì việc quy đổi giữa quỹ BHXH của Nhật Bản và quỹ

BHXH của Việt Nam cần có sự quy định rõ ràng có thể hình thành một quỹ BHXH

chung nhằm chi trả cho NLĐ Việt Nam làm việc ở Nhật Bản để tránh các trường

hợp NLĐ Việt Nam về nước sẽ không còn nhận được các khoản trợ cấp về TNLĐ-

BNN. Vấn đề bảo vệ quyền lợi cho NLĐ phải đứng trên lợi ích lâu dài và vì lợi ích

của toàn xã hội, toàn quốc gia, của các thế hệ NLĐ và các tập thể NLĐ khác nhau

với mục đích và sự phát triển bền vững của xã hội chứ không thể chỉ đứng trên

phương diện bảo vệ lợi ích của một tập thể nào. Có như vậy thì hoạt động BHXH

mới phát triển bền vững và hiệu quả.

Trên thực tế có nhiều NLĐ đi làm việc ở nước ngoài chưa tham gia BHXH

bắt buộc hoặc đã tham gia BHXH bắt buộc nhưng đã hưởng BHXH một lần vì vậy

họ có nhu cầu khi về nước cũng được hưởng trợ cấp BHXH luôn một lần. Hiện nay

việc hoàn lại tiền còn gặp nhiều khó khăn do NLĐ không được hướng dẫn cụ thể về

việc xin hoàn lại tiền hay NLĐ về nước rồi nên không hoàn thành được thủ tục hoàn

lại tiền. Chính vì vậy, Nhà nước cần quy định cụ thể việc hưởng BHXH trợ cấp một

lần và hỗ trợ NLĐ được hoàn lại tiền khi tham gia các chế độ BHXH. Hơn thế do

NLĐ bị bắt buộc tham gia các chế độ BHXH ngắn hạn ở Nhật Bản bảo hiểm y tế,

bảo hiểm bồi thường tai nạn cho NLĐ…, trong 2 năm kể từ khi ra khỏi nước Nhật

có quyền làm đơn xin hoàn lại tiền. Tuy nhiên việc hoàn lại tiền này hoàn toàn khó

khăn trong việc quỹ BHXH Việt Nam không chi trả cho các khoản trợ cấp này.

Chính vì thế, cần có các quy định cụ thể của pháp luật về việc này.

Bên cạnh việc NLĐ chỉ phải tham gia 2 chế độ là chế độ hưu trí và chế độ

tử tuất ở Việt Nam thì NLĐ trong các doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ

chức cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài lại tham

gia đầy đủ 5 chế độ BHXH Việt Nam đồng thời vẫn phải tham gia chế độ BHXH

dành cho người nước ngoài lao động tại Nhật Bản. Việc đóng BHXH 2 lần này là

không hợp lý vì NLĐ khi bị ốm đau hay thai sản thì chỉ được hưởng một chế độ

BHXH chính vì vậy gây ra sự thiệt thòi cho NLĐ. Hơn thế việc pháp luật quốc gia

chỉ áp dụng trên lãnh thổ quốc gia gây cho NLĐ làm việc ở Nhật không thể dễ dàng

54

được hưởng trợ cấp các chế độ của BHXH Việt Nam. Nhằm đảm bảo quyền lợi của

NLĐ khi tham gia BHXH thì giữa Việt Nam và Nhật Bản cần thống nhất cách xác

định NLĐ bị ốm đau, quy định rõ các trường hợp được coi là tai nạn lao động hay

bổ sung danh mục bệnh nghề nghiệp bằng cách thiết lập các hiệp định song phương

hoặc cơ chế hợp tác đa phương.

Để thực hiện tốt việc chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH thì cần có sự hợp

tác giám sát tình hình của NLĐ ở Nhật Bản nhằm tránh sự gian dối của NLĐ gây

lạm vào quỹ BHXH, đồng thời hỗ trợ Nhà nước trong việc đảm bảo công bằng giữa

NLĐ trong nước và NLĐ ở nước ngoài. Hơn thế, để đảm bảo cho việc cân đối giữa

thu và chi của quỹ BHXH được hợp lý và để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách

Nhà nước đồng thời làm giảm bớt mức đóng góp từ NLĐ đến mức tối đa mà vẫn

đảm bảo được chi ở mức tối đa cho phép đối với NLĐ, giúp họ vượt qua được

những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Để hạn chế việc NLĐ trốn tránh nghĩa

vụ đóng BHXH thì Nhà nước cần ban hành các chế tài xử phạt hợp lý.

Một trong những cách thức hợp tác pháp lý hiệu quả giữa các quốc gia về

một số lĩnh vực chuyên biệt như BHXH là ký kết các hiệp định song phương hoặc

cùng tham gia một cơ chế đa phương. Theo đó, Việt Nam và Nhật Bản có thể tham

khảo cách thức tham gia và thụ hưởng từng chế độ BHXH để có thể có sự thoả

thuận hợp lý trong lĩnh vực này. Cụ thể, một hiệp định song phương có thể giúp cho

lao động Việt Nam tại Nhật Bản chỉ phải tham gia vào một hệ thống BHXH tại một

thời điểm nhất định, nhưng quyền lợi của họ sẽ được đảm bảo ngay cả khi họ làm

việc ở Nhật hay quay trở về Việt Nam. Từ đó, quyền lợi BHXH của đối tượng này

mới được bảo vệ một cách toàn vẹn.

Điều chỉnh độ tuổi về hưu bình đẳng giữa lao động nam và nữ.

Bên cạnh việc tham gia các chế độ BHXH ngắn hạn ở Nhật Bản, thì NLĐ

bắt buộc phải tham gia chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ở Việt Nam. Về chế độ hưu

trí, đây là chế độ có nhiều bất cập nhất trong các chế độ trợ cấp. Về độ tuổi nghỉ

hưu hiện nay thì nam đủ 60 tuổi có đủ 25 năm đóng BHXH, nữ đủ 55 tuổi có đủ 20

năm đóng BHXH trở lên thì được hưởng trợ cấp hưu hàng tháng. Trên thực tế sự

chênh lệch về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ là quá nhiều, không phù hợp với khả

năng tâm sinh lý của NLĐ, bởi vì theo các điều tra về xã hội học thì tuổi thọ trung

bình hiện nay của nữ cao hơn nam. Về chế độ tử tuất, việc quy định mức trợ cấp

55

như hiện nay là thấp và không đảm bảo công bằng đối với NLĐ, đặc biệt là trong

trợ cấp một lần. Nhà nước nên sửa đổi theo hướng: đối với NLĐ đang làm việc hoặc

chờ giải quyết trợ cấp hưu trí mà chết thì mỗi năm được tính bằng 01 tháng lương

(hiện này là ½ tháng) bình quan tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, tối đa không

quá 20 tháng (hiện nay là 12 tháng); đối với người đang hưởng trợ cấp hàng tháng

(hưu trí hoặc TNLĐ-BNN hàng tháng) mà chết thì cách tính như trên nhưng mỗi

năm đã hưởng trợ cấp thì trừ đi 02 tháng trợ cấp, tối thiểu là 05 tháng (hiện nay là

03 tháng). Viêc quy định như vậy sẽ đảm bảo được công bằng hơn đối với các

trường hợp chế khi chưa được hưởng trợ cấp hưu trí hoặc mới hưởng được ít.

Tóm lại BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế và xã

hội của Nhà nước, là một trong các bước hiện thực hóa những chủ trương, đường

lối để giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan đến một tầng lớp đông đảo NLĐ

được Nhà nước quan tâm và các vấn đề kích thích phát triển kinh tế. Mặt khác,

BHXH là một trong những bộ phận cấu thành nên hệ thống an sinh xã hội và việc

nhìn vào cách thức tổ chức hệ thống BHXH của một quốc gia mà người ta có thể

đánh giá được sự văn minh, tiến bộ của quốc gia đó như thế nào nên việc hoàn thiện

hệ thống BHXH cũng như hoàn thiện pháp luật là rất cần thiết. Do đó, Việt Nam

cần một mặt hoàn thiện quy định pháp luật quốc gia và mặt khác, tiền hành xây

dựng hiệp định song phương và tham gia các cơ chế đa phương để bảo vệ quyền lợi

chính đáng của NLĐ làm việc ở Nhật Bản nói riêng và NLĐ làm việc ở nước ngoài

56

nói chung.

KẾT LUẬN

Ra đời và phát triển cùng với quá trình phát triển cao của các nền kinh tế

sản xuất hàng hóa, các hình thức sản xuất hàng hóa, các hình thức hoạt động bảo

hiểm, trong đó có hình thức BHXH đã được hình thành hàng trăm năm nay. Từ nhu

cầu sơ khai ban đầu của hoạt động BHXH là nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho

người lao động làm công ăn lương trong thời gian tạm thời mất sức lao động do ốm

đau, thai sản hoặc bị tai nạn lao động,… Đến nay hình thức hoạt động của các hệ

thống BHXH ở các nước trên thế giới đã phát triển rất đa dạng cả về hình thức tổ

chức thực hiện cho đến các loại chế độ trợ cấp đối với người lao động.

Ở Việt Nam, trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu nổi bật

trong sự nghiệp phát triển kinh tế và ổn định xã hội, từng bước nâng cao đời sống

của người dân. Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài ngày càng nhiều

đặc biệt ở thị trường Nhật Bản đã trở thành một trong những nước tiếp nhận người

lao động Việt Nam nhiều nhất. Một trong những quyền lợi chính đáng mà những

người lao động này quan tâm là quyền lợi về BHXH. Hơn nữa, ở cấp vĩ mô, các quy

định của pháp luật BHXH vừa là động lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã

hội vừa là thước đo trình độ văn minh của quốc gia. Hiện nay chúng ta đã hình

thành được một hệ thống BHXH bảo vệ người lao động Việt Nam làm việc ở nước

ngoài hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế.

Vấn đề hoàn thiện các chế độ BHXH dành cho người lao động Việt Nam

làm việc ở nước ngoài đang cần được Đảng và Nhà nước quan tâm nhất là trong nền

kinh tế hội nhập, việc người lao động di trú ngày càng tăng nhanh. Từ đó, bài

nghiên cứu phân tích một số vấn đề pháp lý dẫn đến việc lao động Việt Nam tại

nước ngoài chưa được thụ hưởng đầy đủ các quyền lợi và BHXH. Nội dung nghiên

cứu còn tập trung đến nhóm lao động Việt Nam tại Nhật Bản để phát hiện những

bất cập trong thực thi quy định pháp luật về BHXH. Từ đó, khoá luận đưa ra một số

kiến nghị điều chỉnh sửa đổi pháp luật bằng cách hoàn thiện một số quy định pháp

luật và xây dựng hiệp định song phương hoặc cơ chế đa phương.

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận sẽ không tránh khỏi

những sai sót nhất định. Do vậy, rất mong và chân thành tiếp thu những ý kiến đóng

57

góp, nhận xét của các thầy cô giáo và bạn bè.

DANH MỤC THAM KHẢO

I. Tài liệu Tiếng Việt

1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2012), Báo cáo tình hình tổ chức thực hiện Luật

Bảo hiểm xã hội, đề xuất một số nội dung sửa đổi, bổ sung, Hà Nội.

2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011), Tình hình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội

trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số kiến nghị, Hà Nội.

3. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2012), Đề án cải cách chính sách

Bảo hiểm xã hội giai đoạn 2012-2020, Hà Nội.

4. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2007), Thông tư số 21/2007/TT-

BLĐTBXH ngày 08 tháng 10 năm 2007 Hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật

Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định

126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính Phủ quy định chi tiết và

hướng dẫn một số điều của Luật Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài

theo hợp đồng, Hà Nội.

5. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2015), Thông tư 59/2015/TT-

BLĐTBXH ngày 29 tháng 12 năm 2015 qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, Hà Nội.

6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2012), Lợi ích của Xuất khẩu Lao

động, www.molisa.gov.vn.

7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2015), Điểm nhấn xuất khẩu lao

động năm 2015, www.molisa.gov.vn.

8. Bộ Tư pháp (2009), Giới thiệu chung về quyền của người lao động di cư

trong Luật Quốc tế, moj.gov.vn

9. Bùi Thị Lâm Hà (2012), “Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp –

Những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội.

10. Bùi Thị Hòa (2014) với nội dung “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người

lao động di trú ở Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ ngành Pháp luật về quyền con người,

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Chính phủ (2007), Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007

của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Người lao động

58

Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Hà Nội.

12. Chính phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm

2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Bảo

hiểm xã hội bắt buộc, Hà Nội.

13. Chính phủ (2015), Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2014

về hướng dẫn Bộ luật Lao động, Hà Nội.

14. Chính phủ (1995), Điều lệ Bảo hiểm xã hội.

15. Chính phủ (1995), Điều lệ Bảo hiểm xã hội đối với sĩ quan, quân nhân

chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân.

16. Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 77/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950, NXB

Chính trị Quốc gia.

17. Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950, NXB

Chính trị Quốc gia.

18. Cơ sở dữ liệu trực tuyến về quyền con người, hr.law.vnu.edu.vn.

19. Cục Lãnh sự và Bộ Ngoại giao (2016), Báo cáo tổng quan vê tình hình di cư

của công dân Việt Nam ra nước ngoài năm 2015.

20. Cục Quản lý Lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

(2013), Thông tin thị trường Nhật Bản, www.dolab.gov.vn

21. Cục Quản lý Lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

(2015), Văn bản số 18/QLLĐNN-ĐL-CM ngày 08 tháng 01 năm 2015, Hà Nội.

22. Cục Quản lý Lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

(2015), Văn bản số 19/QLLĐNN-ĐL-CM ngày 08 tháng 01 năm 2015, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia.

26. Hoàng Kim Khuyên (2011) với nội dung “Bảo vê quyền và lợi ích của người

lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật

của một số nước hữu quan”, Luận văn thạc sĩ Luật Quốc tế, Khoa Luật – Đại học

59

Quốc gia Hà Nội.

27. Hoàng Thị Hạnh (2014), Bảo hiểm xã hội của Nhật Bản và một số gợi ý

chính sách cho Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh

tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.

28. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật lao động, NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội.

29. Lê Thị Hoài Thu (2002), “Bảo hiểm xã hội trong hê thống an sinh xã hội ở

Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật.

30. Lê Thị Hoài Thu (2007), “Nghiên cứu pháp luật an sinh xã hội ở một số

nước trên thế giới”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội.

31. Lê Thị Hoài Thu (2007), “Bàn về Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam”,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.

32. Lê Thị Hoài Thu (2009), “Luật Bảo hiểm xã hội từ quy định đến thực tiễn áp

dụng”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội.

33. Lưu Quang Tuấn (2007), “Đánh giá các chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành ở

Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế.

34. Nguyễn Hùng Cường (2011), “Đề xuất sửa đổi bổ sung hoàn thiện chính

sách bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội.

35. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), “Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao

động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật

Hà Nội.

36. Nguyễn Hiền Phương (2010), “Pháp luật an sinh xã hội, những vấn đề lý

luận và thực tiễn”, NXB Tư pháp, Hà Nội.

37. Nguyễn Hiền Phương (2010), “Pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động

nữ ở một số nước ASEAN và những kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Bảo

hiểm xã hội.

38. Nguyễn Thị Thu Hiền (2015) với nội dung “Hợp đồng đưa người Việt Nam

đi làm việc ở nước ngoài”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc

gia Hà Nội

39. Nguyễn Phúc Khanh (2004) “Xuất khẩu lao động với chương trình quốc gia

về việc làm – Thực trạng và giải pháp” – Đề tài khoa học cấp Bộ,

40. Phạm Lan Hương (2012) “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực

tiễn thực hiện trên địa bản tỉnh Phú Thọ”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật

60

Hà Nội.

41. Phan Huy Đường(2009), bài viết Nâng cao chất lượng dịch vụ của nhà nước

về bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam ở nước ngoài, Tạp chí Kinh tế và phát

triển, Đại học Kinh tế Quốc dân.

42. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

43. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội.

44. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội

45. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, Hà Nội,

46. Quốc hội (2006), Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài

theo hợp đồng, Hà Nội.

47. Quốc hội (2013), Luật Việc làm, Hà Nội

48. Sự ra đời của Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam (26/5/2015) – Tạp chí Bảo hiểm

xã hội

49. Tổ chức lao động quốc tế (1949), Công ước ILO số 97 về Di cư để làm việc.

50. Tổ chức lao động quốc tế (1975), Công ước ILO số 143 về Lao động di cư.

51. Tổ chức lao động quốc tế (1990), Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của

tất cả mọi người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ.

52. Tổ chức lao động quốc tế (2018), Triển vọng việc làm và xã hội thế giới năm 2018.

53. Từ Nguyên Linh (2008), Tổng quan về hệ thống an sinh xã hội và bảo hiểm

xã hội ở Nhật Bản.

II. Tài liệu Tiếng Anh

54. C102 - Social Security (Minimum Standards) Convention, 1952 (No. 102)

http://www.ilo.org/dyn/normlex/en/f?p=NORMLEXPUB:12100:0::NO::P12100_IL

O_CODE:C102

55. C156 - Workers with Family Responsibilities Convention, 1981 (No. 156)

http://www.ilo.org/dyn/normlex/en/f?p=NORMLEXPUB:12100:0::NO:12100:P12100_

ILO_CODE:C156

Japanese Employment Insurance Act No.116 of December 28, 1974. 56.

Japanese Employment Insurance Law 57.

http://www.ilo.org/dyn/natlex/natlex4.detail?p_lang=en&p_isn=27771&p_country=

JPN&p_count=851

58. Japan – ILO Cooperation (March 2018),

61

http://www.ilo.org/pardev/donors/WCMS_357443/lang--en/index.htm.

59. Japan and the ILO: A partnership for development,

http://www.ilo.org/global/regions/lang--en/index.htm

60. R111 - Discrimination (Employment and Occupation) Recommendation, 1958

(No. 111)

http://www.ilo.org/dyn/normlex/en/f?p=NORMLEXPUB:12100:0::NO::P12100_IL

O_CODE:R111

61. R128 - Maximum Weight Recommendation, 1967 (No. 128)

http://www.ilo.org/dyn/normlex/en/f?p=NORMLEXPUB:12100:0::NO::P12100_IL

O_CODE:R128

62. R158 - Labour Administration Recommendation, 1978 (No. 158)

http://www.ilo.org/dyn/normlex/en/f?p=NORMLEXPUB:12100:0::NO::P12100_IL

62

O_CODE:R158