ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TÚ OANH
PHÁP LUẬT VỀ GIAO ĐẤT CÓ THU TIỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH – 2013 LKD
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Đặng Thị Bích Liễu.
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin và số tài liệu mà tác giả sử dụng trong khóa luận là trung thực. Các luận điểm, dữ liệu được trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân tôi.
Hà Nội, ngày 04 tháng 5 năm 2017
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
Nguyễn Tú Oanh.
MỤC LỤC
Phần mở đầu ............................................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................................................... 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................................. 5
6. Kết quả và đóng góp của khóa luận ............................................................................................ 5
7. Kết cấu của khóa luận .................................................................................................................. 6
Phần nội dung .......................................................................................................................................... 7
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất. .................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất ....................................... 7
1.1.1. Khái niệm giao đất có thu tiền sử dụng đất ........................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của giao đất có thu tiền sử dụng đất ...................................................................... 9
1.1.3. Các hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất .................................................................... 10
1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất ..................................... 11
1.3. Nội dung pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất.............................................................. 12
1.4. Vai trò của pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất ........................................................... 15
1.5 . Kinh nghiệm quốc tế về thực hiện giao đất ............................................................................... 17
1.5.1. Úc ........................................................................................................................................ 17
1.5.2. Trung Quốc .......................................................................................................................... 20
1.5.3. Hoa Kì ................................................................................................................................. 21
1.5.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................................................... 24
Chương 2. Thực trạng pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 2013. ...... 26
2.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất ......... 26
2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 2013 ................................................................................................................................................... 27
2.2.1. Quy định về nguyên tắc của giao đất có thu tiền sử dụng đất ............................................. 27
2.2.2. Quy định về căn cứ để giao đất có thu tiền sử dụng đất ...................................................... 31
2.2.3. Quy định về các trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất.................... 33
2.2.4. Quy định về thẩm quyền giao đất ........................................................................................ 36
2.2.5. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất.............................................................................................................................. 38
2.2.6. Quy định về tiền sử dụng đất trong các trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất ......... 43
2.2.8. Quy định về thời hạn sử dụng đất trong các trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất .. 52
2.2.9. Quy định về trình tự, thủ tục giao đất có thu tiền sử dụng đất............................................. 54
2.2.10. Quy định về xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong giao đất có thu tiền sử dụng đất ....... 58
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất ........................................... 60
2.3.1. Kết quả thực hiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất tại một số địa phương ..... 60
2.3.2. Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất........................... 63
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất ............ 65
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất........................................ 65
3.1.1. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất phải dựa trên cơ chế đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý ........................................................ 65
3.1.2. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất phải được xây dựng phù hợp với những đường lối, chính sách chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. ............................................................................. 65
3.1.3. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. .......................................................................................................................... 66
3.1.4. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và người sử dụng đất. ........................................................................................................................................ 66
3.1.5. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất phải đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, trên nguyên tắc bảo vệ môi trường. ................................................................................................................... 67
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất ........................................... 67
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất .......................... 67
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất ....................................................................................................................................................... 73
Kết Luận ................................................................................................................................................ 77
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................................................. 78
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt:
Nguyên nghĩa
Chữ viết tắt BĐS NSDĐ QSDĐ SDĐ XHCN UBND
Bất động sản Người sử dụng đất Quyền sử dụng đất Sử dụng đất Xã hội chủ nghĩa Ủy ban nhân dân
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là địa bàn tổ chức các hoạt động sống của con người, cùng với quan điểm
“an cư lạc nghiệp” đã là truyền thống văn hóa của dân tộc, do đó, quyền sử dụng đất là
một quyền mà đại bộ phận người dân rất quan tâm. Đất đai vừa đóng vai trò là nguồn
lực, vừa đóng vai trò là yếu tố đầu vào không thể thiếu trong các hoạt động kinh tế.
Dựa trên quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý được quy định trong Hiến pháp, Nhà nước nhân danh đại diện chủ
sở hữu không trực tiếp sử dụng và khai thác nguồn lợi từ đất mà chỉ đứng ra là chủ thể
phân phối đất đai cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội dựa trên quy hoạch và kế
hoạch SDĐ để đất đai được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, đúng mục đích và hiệu quả,
đồng thời đảm bảo cho việc quản lý đất đai được tập trung, thống nhất. Vì vậy, các
quy định về giao đất là chế định tất yếu cần được ban hành để phù hợp với định hướng
và mục tiêu đề ra của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên khi đất nước chuyển sang nền
kinh tế thị trường, đất đai dần thể hiện tính kinh tế của mình trong các hoạt động của
đời sống, quyền sử dụng đất dần dần đã trở thành một loại “hàng hóa” được trao đổi,
chuyển nhượng giữa các chủ thể trong xã hội. Nhà nước cũng theo đó thiết lập nên
những chế định khác nhau nhằm quản lý, kiểm soát về mặt giá trị của QSDĐ, bước
đầu quan tâm đến việc khai thác tiềm năng tài chính của đất đai. Một trong những chế
định đó, phải kể đến các quy phạm pháp luật về: Hình thức giao đất có thu tiền sử
dụng đất.
Nhìn vào thực tiễn nghiên cứu, nhằm giải quyết và nâng cao hiệu quả trong hoạt
động giao đất đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu, tạp chí, bài viết chuyên môn. Tuy
nhiên, các bài viết này thường gộp chung ba chế định có liên kết chặt chẽ với nhau:
Giao đất, cho thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất để khai thác và phân tích.
Trong khi đó, có rất ít bài nghiên cứu riêng và đặc biệt chỉ tập trung tìm hiểu, khai thác
về hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất. Mặc dù đây chỉ là một chế định nhỏ
trong pháp luật đất đai, nhưng nó lại được áp dụng một cách thường xuyên trên thực tế
giữa các cơ quan quản lý đất đai Nhà nước với các chủ thể thuộc trường hợp được giao
1
đất và cũng là chế định được sự quan tâm nhiều nhất từ phía cá nhân, chủ đầu tư muốn
làm giàu từ đất. Điều này có thể thấy rất rõ qua lần ban hành Luật Đất đai năm 2013,
chế định này được sửa đổi, bổ sung khá nhiều với những bước ngoặt mới và dành
được sự chú ý của rất nhiều những nhà quản lý, ý kiến đóng góp từ phía các cá nhân,
tổ chức kinh tế.
Tuy nhiên, những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật về lĩnh vực này
vẫn tồn tại và đòi hỏi những giải pháp hữu hiệu hơn. Bên cạnh những thành tựu, hiệu
quả tích cực đã đạt được trong thời gian qua như: Trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất đã được thực hiện theo đúng quy định; đã từng bước
khắc phục tình trạng giao đất, cho thuê đất trái thẩm quyền, không đúng đối tượng. Đất
được giao, cho thuê, được chuyển mục đích về cơ bản là phù hợp với quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất... Thì tại các địa phương việc quản lý, sử dụng đất vẫn còn những
hạn chế nhất định cần kể đến như: Tình trạng đất được giao, cho thuê nhưng sử dụng
không đúng mục đích, vi phạm pháp luật; tình trạng găm giữ đất, chậm đưa vào sử
dụng hoặc chuyển nhượng dự án, dẫn đến lãng phí đất đai và gây bất bình trong dư
luận, sự “mù mờ” trong các nguyên tắc định giá đất làm căn cứ xác định tiền sử dụng
đất là hệ lụy cho những tham nhũng, thất thoát lớn... Những bất cập trên đã đặt ra yêu
cầu cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về giao
đất nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài " Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất theo
pháp luật đất đai năm 2013" là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng nhu cầu hoàn thiện hệ
thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật cũng như bảo đảm sự
điều chỉnh hợp lý các chính sách pháp luật về đất đai trong thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong suốt quá trình thu thập, tìm kiếm tài liệu phục vụ cho việc hoàn thiện khóa
luận này, đã có rất nhiều những nghiên cứu, bài viết chuyên môn có liên quan được
biết đến, phải kể đến như:
Sách chuyên khảo: “Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam” (2013),
của TS. Đặng Thị Bích Liễu, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong đó, TS. Đặng Thị
2
Bích Liễu đã phân tích làm rõ những đặc trưng về hoạt động giao đất có thu tiền sử
dung đất, cho thuê đất, về đấu giá quyền sử dụng đất. Từ đó, đưa ra những đánh giá,
quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, nâng cao hiệu quả
của hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất. Giúp hoạt động giao đất, cho thuê đất thông
qua đấu giá quyền sử dụng đất khai thác được tối đa tiềm năng kinh tế từ đất và ngăn
chặn tham nhũng, thất thoát cho Nhà nước trong lĩnh vực này.
Đề tài luận án tiến sĩ “Pháp luật về hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất”
được bảo vệ năm 2008 do tác giả TS.Trần Quang Huy thực hiện. Luận án đã phân tích
làm rõ thực trạng sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ cá nhân, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài sử dụng đất dưới hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất ở
Việt Nam, qua đó đề xuất thực hiện các qui định pháp luật về hình thức giao đất có thu
tiền sử dụng đất ở Việt Nam. Hơn những thế, đã có rất nhiều những đề xuất, định
hướng được nêu trong luận án đã được hiện thực hóa thông qua các quy định pháp luật
trong lần ban hành Luật đấi đai 2013 (mới).
Đề tài “Nghiên cứu cơ sở thực tiễn và lý luận của việc giao đất có thu tiền sử dụng
đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng” do Ths. Hoàng Ngọc Phương làm chủ nhiệm
đã tổng hợp thực trạng trong việc thực hiện cơ chế thu hồi đất để giao đất tạo vốn xây
dựng cơ sở hạ tầng, bổ sung nghiên cứu toàn diện về các nội dung thu hồi đất, giao
đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất qua các thời kỳ để có cơ sở đề xuất
hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Pháp luật về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất đối với
doanh nghiệp ở Việt Nam” của tác giả Ths. Nguyễn Thị Thu Hiền thực hiện năm 2012.
Luận văn đã phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất đối với các doanh nghiệp, đồng thời nhận diện những tồn tại, bất cập của pháp
luật về vấn đề này trên cơ sở đánh giá thực trạng thi hành; từ đó đưa ra những định
hướng và một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về giao đất, cho thuê
đất, thu hồi đất đối với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, thì còn có rất nhiều những bài viết, báo cáo khoa học và báo cáo
thống kê có liên quan. Nổi bật như: “Cần điều chỉnh thẩm quyền giao đất, cho thuê
3
đất” của tác giả Phùng Hương, tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 15/2011; “Một
số giải pháp giao đất, cho thuê đất” của tác giả Phan Văn Thọ, tạp chí Tài nguyên và
Môi trường, số 5/2009; “Bất cập trong các quy định về căn cứ giao đất, cho thuê đất
của Luật Đất đai năm 2013” của tác giả Đặng Anh Quân, tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 5/2016; “ Bất cập trong quy định xác định tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao
đất đối với tổ chức kinh tế” của tác giả Châu Hoàng Thân, tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 11/2016…
Qua đây, phần nào cũng thấy được sự quan tâm rất lớn từ các học giả, nhà nghiên
cứu và các nghiên cứu sinh về vấn đề này. Khóa luận này cũng xin được góp vào đó,
làm phong phú thêm những ý tưởng nhằm tìm ra được đề xuất hoàn hảo và thích hợp
nhất, với mục tiêu duy nhất là giải quyết được những tồn đọng, bất cập trong việc xây
dựng, thực thi pháp luật.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản nhất từ cơ sở hình thành, vai trò của
các quy định và nội dung các quy định pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Thứ hai, hệ thống và phân tích các quy định pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng
đất; nhận xét được những điểm tích cực và những bất cập chưa được giải quyết sau khi
Luật Đất đai năm 2013 được ban hành thay thế cho Luật Đất đai năm 2003.
Cuối cùng, cũng như mọi nghiên cứu khác, kết quả mà khóa luận này cần đạt được là
có thể đưa ra những đề xuất, giải pháp hoàn thiện pháp luật và khắc phục vướng mắc
trong thực hiện pháp luật dựa trên những phân tích về thực trạng pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan hệ pháp luật trong giao đất có thu tiền
sử dụng đất về: các quy định của pháp luật được thực hiện bởi các chủ thể trong quan
hệ này; những bất cập, hạn chế trong thực hiện và đề xuất giải pháp khắc phục.
Trong khuôn khổ có hạn của khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, đề tài chỉ đi sâu
vào tìm hiểu các quy định của Luật đất đai năm 2013 về giao đất có thu tiền sử dụng
đất: phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về giao đất có thu tiền sử dụng đất;
đánh giá thực trạng pháp luật; đồng thời nhận diện những tồn tại, bất cập của pháp luật
4
về vấn đề này trong quá trình triển khai thực hiện; trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất,
giải pháp hoàn thiện pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu khóa luận này dựa trên lý luận Mác –
Lênin với phép biện chứng khoa học duy vật và biện chứng khoa học lịch sử, tư tưởng
Hồ Chí Minh và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai. Cụ
thể như sau:
Phương pháp thống kê, tổng hợp phân tích, đánh giá: Dựa trên những tài liệu được
thu thập để tổng hợp phân tích và đánh giá các số liệu, thông tin đưa ra được những
nhận xét để từ đó định hướng và đề đạt giải pháp khắc phục, hoàn thiện.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để đối chiếu các quy định của
pháp luật, tìm ra các điểm mới, điểm bất cập, chưa phù hợp, chưa thống nhất trong hệ
thống pháp luật và cả những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn thi
hành về quản lý đất đai nói chung và chế định giao đất có thu tiền sử dụng đất theo
như đề tài của nghiên cứu này nói riêng.
Phương pháp thu thập kế thừa các nghiên cứu, tài liệu đã có: Khóa luận này đã tiếp
cận, thu thập kế thừa các thông tin, tài liệu tổng kết thi hành Luật đất đai năm 2003,
Luật đất đai năm 2013 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các số liệu của các công
trình khoa học đã công bố trên các luận văn, đề tài nghiên cứu của các tác giả khác để
trên cơ sở đó phân tích, đánh giá pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất, đồng
thời nhận diện những tồn tại bất cập của pháp luật về vấn đề này để đề xuất các giải
pháp phù hợp.
6. Kết quả và đóng góp của khóa luận
Khóa luận đi vào tìm hiểu chi tiết các quy định pháp luật có liên quan đến vấn đề
giao đất có thu tiền sử dụng đất tại Việt Nam. Từ cở sở lý luận hình thành quy định
đến việc quy định được sửa đổi bổ sung, cho đến việc thực hiện pháp luật. Bên cạnh
đó, khóa luận còn tham khảo một số quy định của pháp luật của các Quốc gia trên thế
giới có liên quan, đưa ra cái nhìn và đúc rút bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5
Luật đất đai năm 2013 được ban hành và đã đi vào thực hiện được gần 4 năm. Bên
cạnh những sửa đổi và bổ sung hoàn thiện thì nó vẫn còn bộc lộ không ít những thiếu
sót, lỗ hổng và cả những bất cập trong quá trình áp dụng. Trong khuôn khổ khóa luận
này, cũng có những so sánh về sự đổi mới giữa Luật đất đai năm 2003 với Luật đất đai
năm 2013 ở những quy định liên quan đến đề tài. Kết hợp với việc đánh giá kết quả
thực hiện các quy định mới, nhận xét ưu, nhược điểm. Từ đó, đưa ra những định
hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về giao đất có thu tiền sử
dụng đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất theo Luật đất
đai năm 2013.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử
dụng đất.
6
Phần nội dung Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về giao đất
có thu tiền sử dụng đất.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm giao đất có thu tiền sử dụng đất
“Giao đất” là nội dung quản lý Nhà nước đã tồn tại ngay từ những thời điểm đầu
tiên Luật đất đai được ban hành. Từ Quyết định số 2011CP năm 1980, trong các nội
dung quản lý Nhà nước về đất đai đã có nội dung "Giao đất, thu hồi đất và trưng dụng
đất"; đến Luật Đất đai năm 1987, nội dung này được quy định là "Giao đất, thu hồi
đất". Bởi lẽ, lúc đó Nhà nước chưa thừa nhận QSDĐ có giá trị nên Nhà nước chỉ giao
đất và khi Nhà nước cần sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng hoặc phục vụ cho
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì Nhà nước thu hồi đất hoặc có thể trưng dụng đất
mà không quy định việc cho người sử dụng thuê đất hoặc cho người sử dụng chuyển
mục đích sử dụng đất. Đồng thời, việc giao đất cũng chỉ thực hiện dưới hình thức "cấp
đất", tức là giao đất không thu tiền sử dụng đất, người nào có nhu cầu sử dụng thì được
Nhà nước giao, khi không còn nhu cầu thì Nhà nước thu hồi – hết sức đơn giản, thô sơ.
Đến Luật Đất đai năm 1993, QSDĐ được Nhà nước thừa nhận có giá trị và NSDĐ
được chuyển quyền sử dụng dưới các hình thức khác nhau, nội dung này mới được bổ
sung ý "cho thuê đất" thành "Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất". Đến lần sửa đổi, bổ
sung năm 2001 thì bổ sung ý "chuyển mục đích sử dụng đất" vào Điều 24a và Điều
24b. Đến khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời nội dung này mới được hoàn thiện thành
"Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất"
Như vậy, cùng với quá trình phát triển của kinh tế - xã hội, nội dung này của công
tác quản lý Nhà nước về đất đai cũng thay đổi và dần được hoàn thiện hơn. Và đến
nay, nội dung này đã được tách thành một chương riêng. Nhưng khái niệm về giao đất
thì mới được đưa ra lần đầu tiên tại Luật đất đai năm 2003: “Nhà nước giao đất là việc
Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu
cầu sử dụng đất.”
7
Với ý nghĩa tương tự, khái niệm này được sửa đổi, và bổ sung một lần nữa tại
khoản 7 – Điều 3 – Luật Đất đai năm 2013: “Nhà nước giao quyền sử dụng đất (sau
đây gọi là Nhà nước giao đất) là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để trao
quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.”
Theo quy định này thì giao đất là một nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai,
là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để chuyển giao trên thực tế đất và
quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư sử dụng
đất. Quyền sử dụng – một dạng của quyền tài sản - được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền (theo quy định của pháp luật) giao cho người có nhu cầu sử dụng đất thông qua
quyết định giao đất. Quyết định giao đất như một quan hệ hành chính của cơ quan Nhà
nước với công dân, có bản chất của một quyết định hành chính với tính chất trao
QSDĐ cho NSDĐ. Và với đặc điểm nổi bật của một quyết định hành chính, nó không
có chức năng pháp lý là làm thay đổi cơ chế điều chỉnh pháp luật dù dưới bất cứ hình
thức nào mà chỉ để thi hành các quy định của pháp luật. Điểm khác biệt của quyết định
hành chính so với những loại giấy tờ khác là nó do các chủ thể hoạt động hành chính
có thẩm quyền ban hành một cách đơn phương (khác với hợp đồng). Mặt khác, chủ
thể được giao đất phải là đối tượng nằm trong những đối tượng được giao đất theo quy
định của pháp luật. Chủ thể được giao đất phải sử dụng đất đúng mục đích trong đơn
xin giao đất, trong hạn mức và thời hạn theo quy định của pháp luật.
Khác với hình thức giao đất trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung với khái
niệm “giao đất” như được phân tích trên đây, giao đất có thu tiền sử dụng đất là việc
Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định giao đất cho đối tượng có nhu cầu
sử dụng đất và người sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước một khoản tiền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật. Khoản tiền này được gọi là “tiền sử dụng đất”, được nộp
một lần vào thời điểm nhận quyền sử dụng đất. Tiền sử dụng đất được tính theo giá
“mỗi mét vuông đất” và giá mỗi mét vuông đất được xác định theo khả năng sinh lợi
và mức độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng có trên đất.
Thực chất việc giao đất có thu tiền sử dụng đất là để xác định rõ giá trị của QSDĐ,
nâng cao trách nhiệm của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trong quản lý và sử
8
dụng có hiệu quả tài sản đất Nhà nước giao. Giao đất có thu tiền sử dụng đất còn làm
tăng nguồn thu cho ngân sách, tạo vốn đầu tư thực hiện các dự án xây dựng, cải tạo,
nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhằm phát triển tài nguyên đất, tăng cường hiệu lực quản lý
Nhà nước và sử dụng đất đai.[14, 107]
1.1.2. Đặc điểm của giao đất có thu tiền sử dụng đất
Thứ nhất, về mục đích sử dụng đất, đối với hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất,
đất được giao thường sử dụng vào làm đất ở của hộ gia đình, cá nhân; tổ chức kinh tế
để thực hiện dự án đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm thu lợi nhuận hoặc chuyển
nhượng. Nghĩa là thường được sử dụng trong các trường hợp mà việc sử dụng đất đem
lại lợi nhuận cho NSDĐ. Trong khi, với hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất
thì đất được giao chủ yếu sử dụng vào mục địch công cộng, quốc phòng, an ninh, trụ
sở cơ quan Nhà nước, đất nông nghiệp, lâm nghiệp… của hộ gia đình, cá nhân, đất làm
nghĩa trang, nghĩa địa mà không nhằm mục đích kinh doanh, hưởng lợi. Hình thức
giao đất có thu tiền sử dụng đất được ra đời sau hình thức giao đất không thu tiền sử
dụng đất và nó là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội và là một yếu tố quan
trọng trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, về mặt nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, đối tượng được giao đất có thu tiền
sử dụng đất, đương nhiên, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước theo quy
định của pháp luật. Tiền sử dụng đất được NSDĐ nộp một lần vào thời điểm nhận
QSDĐ từ Nhà nước. Đây là điểm đặc trưng của hình thức giao đất có thu tiền sử dụng
đất, nhấn mạnh tính kinh tế, giá trị của QSDĐ, khác với hình thức giao đất không thu
tiền sử dụng đất hoàn toàn dựa trên cơ chế “xin – cho” từ Nhà nước đối với NSDĐ.
Tại đó, NSDĐ không phải trả tiền cho Nhà nước để có được QSDĐ, có chăng thì chỉ
là khoản phí, lệ phí rất nhỏ cho các thủ tục hành chính.
Thứ ba, về các trường hợp được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất. Đối tượng
được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất chủ yếu là cá nhân, hộ gia đình và tổ
chức kinh tế, trong khi đó, đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất thường
là cơ quan nhà nước, tổ chức ngoại giao…cũng có cả cá nhân, hộ gia đình nhưng đất
được giao trong trường hợp này để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp nhằm
9
đảm bảo an ninh lương thực và kế sinh nhai cho người dân. Tóm lại, các trường hợp
giao đất có thu tiền sử dụng đất tập trung vào các chủ thể của nền kinh tế tư nhân với
mục đích sử dụng đất để thu lợi nhuận.
Thứ tư, về quyền và nghĩa vụ của chủ thể được Nhà nước giao, về cơ bản quyền của
đối tượng được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất sẽ được mở rộng hơn so với
đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất. Cụ thể, đối tượng được nhà nước
giao đất có thu tiền sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng tặng cho, cho
thuê quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; được bồi thường
về đất khi Nhà nước thu hồi đất.”[16]. Trong khi các đối tượng được giao đất không
thu tiền sử dụng đất thì không có các quyền này.
1.1.3. Các hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất
Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất về cơ bản được chia làm hai loại đó là:
hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất dựa trên khung giá do Nhà nước quy định và
hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá QSDĐ.
Thứ nhất, hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất dựa trên khung giá do Nhà nước
quy định, đây là hành vi giao đất đơn thuần mang tính hành chính và đương nhiên,
phải do chính các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền thực hiện dựa
trên trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về giao đất. Việc xác định tiền sử
dụng đất đối với hình thức giao đất này được xác định trên cơ sở: diện tích đất, mục
đích sử dụng và giá đất cụ thể. Trong đó, giá đất cụ thể được xác định trên cơ sở các
phương pháp: so sánh trực tiếp; chiết trừ; thu thập; thặng dư hoặc theo phương pháp hệ
số điều chỉnh do nhà nước quy định.
Thứ hai, giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá QSDĐ, về bản
chất đây là hành vi vừa có tính hành chính vừa có tính chất dân sự - thương mại. Hành
vi giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua đấu giá chính là hệ quả của hành vi đấu
giá QSDĐ. Từ tính chất dân sự - thương mại của hành vi bán đấu giá có thể xem việc
mở phiên đấu giá và bán đấu giá là phương thức có tính kĩ thuật để cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giao đất lựa chọn được người sử dụng đất theo đúng mục đích, nhu cầu
sử dụng, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Do đó, cần lưu ý tách bạch các hoạt
10
động có tính chất dân sự - thương mại với các hoạt động có tính chất hành chính khi
thực hiện hình thức giao đất này. Có thể thấy rõ bản chất này thông qua các quy định
về trình tự, thủ tục tiến hành hình thức giao đất này, cụ thể: khi tiến hành thực hiện
hình thức giao đất này thì ngoài trình tự tương tự với hình thức giao đất có thu tiền sử
dụng đất đơn thuần mang tính hành chính thì còn có các quy định của pháp luật về
trình tự, thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất. Và đương nhiên không thể bỏ qua việc xác
định tiền sử dụng đất đối với hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua đấu
giá QSDĐ, đây cũng là nét đặc trưng để phân biệt giữa hai hình thức giao đất được nêu
tại phần này. Cụ thể, tiền sử dụng đất khi nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
thông qua đấu giá QSDĐ được xác định dựa vào giá đất trúng đấu giá và diện tích đất
được giao.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất
Khái niệm:
Giao đất là nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về đất đai, được hình thành
trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Pháp luật về
giao đất có thu tiền sử dụng đất bao gồm những quy định mang tính quản lý nhà nước
có những nội dung cơ bản sau: căn cứ giao đất; đối tượng được giao đất; thẩm quyền
giao đất; thời hạn giao đất; quy trình, thủ tục giao đất và tiền sử dụng đất…
Như vậy, pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất là tổng hợp quy phạm pháp
luật điều chỉnh quan hệ đất đai phát sinh trong quá trình sở hữu, quản lý Nhà nước
đối với đất đai bao gồm các căn cứ giao đất, các trường hợp được Nhà nước giao đất
có thu tiền sử dụng đất, thẩm quyền quyết định giao đất, thời hạn sử dụng đất được
giao, trình tự, thủ tục tiến hành giao đất và việc xác định tiền sử dụng đất.
Đặc điểm:
Thứ nhất, giao đất có thu tiền sử dụng đất là một nội dung quản lý Nhà nước về đất
đai.
Về giá trị pháp lý của việc giao đất: Giao đất làm phát sinh quyền sử dụng đất của
người sử dụng đất thông qua quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Về quan hệ chủ thể: Giao đất làm phát sinh giữa Nhà nước và các tổ chức, hộ
11
gia đình, các nhân có nhu cầu sử dụng đất. Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị
đồng thời là đại diện chủ sở hữu đất đai nên mối quan hệ giữa Nhà nước và người sử
dụng đất trong trường hợp giao đất mang đậm tính quyền lực nhà nước, mệnh lệnh
hành chính, không bình đẳng và không thể thỏa thuận. Về nghĩa vụ tài chính: người
được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính với
nhà nước đó là nộp tiền sử dụng đất. Mọi quy định của pháp luật về vấn đề này đều
được thực thi bởi cơ quan Nhà nước và chúng mang tính mệnh lệnh – phục tùng.
Thứ hai, pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất phản ánh xu thế vận động theo
hướng thị trường của các quan hệ đất đai.
Với việc công nhận giá trị của quyền sử dụng đất, đưa các quy định về giao đất có thu
tiền sử dụng đất để thực hiện. Nhà nước đã chứng tỏ quyết tâm trong việc xóa bỏ cách
thức quản lý hành chính theo cơ chế “xin-cho”, mang nặng tính ban ơn, bao cấp của
mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã được duy trì trong một thời gian dài trước
đây. Thay vào đó, với nền kinh tế thị trường, người dân phải dần quen với việc trả một
khoản tiền cho Nhà nước để có được QSDĐ, điều này giúp nhà nước khai thác được
tiềm năng kinh tế từ tài nguyên đất, tạo sự công bằng giữa các chủ thể có nhu cầu
SDĐ, mặt khác, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng có hiệu quả
tài nguyên đất được giao.
1.3. Nội dung pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất
Nội dung pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất quy định về các vấn đề: nguyên
tắc trong giao đất có thu tiền sử dụng đất; căn cứ giao đất; các trường hợp được nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất; thẩm quyền giao đất; quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong giao đất có thu tiền sử dụng đất; thời hạn giao đất; tiền sử dụng đất; xử lý
vi phạm trong giao đất có thu tiền sử dụng đất; quy trình, thủ tục giao đất.
Nguyên tắc trong giao đất có thu tiền sử dụng đất: Nguyên tắc của pháp luật về giao
đất có thu tiền sử dụng đất là những tư tưởng xuyên suốt trong những quy phạm pháp
luật liên quan đến hoạt động giao đất có thu tiền sử dụng đất; tạo cơ sở, nền tảng cho
việc thực hiện và áp dụng các quy định đó vào thực tiễn cuộc sống. Để việc thực thi
pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất được công bằng, khách quan và minh
12
bạch thì chúng ta cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như: giao đất phải đúng kế hoạch
sử dụng đất đã được phê duyệt; việc giao đất phải đáp ứng nhu cầu sử dụng đất; giao
đất đúng thẩm quyền, đối tượng; giao đất đúng trình tự, thủ tục; thường xuyên có hoạt
động thanh tra, kiểm kê đất được giao và giám sát quá trình sử dụng đất của người sử
dụng đất…
Căn cứ giao đất: Giao đất là một việc làm hết sức nhạy cảm vì nó liên quan trực tiếp
đến quyền lợi của người sử dụng đất. Để đất đai được quản lý theo đúng quy hoạch và
pháp luật thì khi giao đất các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cần hết sức lưu ý
đến căn cứ tiến hành. Pháp luật đất đai quy định căn cứ để quyết định giao đất bao
gồm: kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt và nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất.
Các trường hợp được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất: Với nguyên tắc
chung: những trường hợp sử dụng đất không phải là đất ở và không nhằm mục đích
sản xuất, kinh doanh thì đều được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng; những
trường hợp sử dụng đất ở (của hộ gia đình, cá nhân) và đất nhằm mục đích sản xuất,
kinh doanh thì Nhà nước giao có thu tiền sử dụng. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử
dụng đất quy định bốn trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất,
trong đó có một trường hợp là giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân; các trường hợp còn
lại là giao đất cho tổ chức kinh tế hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng
đất để thực hiện dự án đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận. Việc quy định các trường hợp
được nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ nhằm thu hẹp phạm vi đối tượng, nâng cao
hiệu quả giao đất của cơ quan quản lý nhà nước.
Thẩm quyền giao đất có thu tiền sử dụng đất: Thẩm quyền giao đất thay đổi theo lịch
sử phát triển của xã hội. Từ khi thực hiện Luật Đất đai năm 1987 đến nay, thẩm quyền
này được thay đổi rất nhiều theo hướng phân cấp thêm quyền cho các cơ quan quản lý
nhà nước ở cấp huyện, cấp tỉnh nên càng ngày thẩm quyền giao đất càng được chuyển
giao về cấp tỉnh và cấp huyện nhiều hơn. Để tránh tình trạng cơ quan quản lý nhà nước
về đất đai quyết định giao đất sai thẩm quyền. Cụ thể thì Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh có
thẩm quyền về giao đất đối với đối tượng là các tổ chức kinh tế và người Việt Nam
13
định cư ở nước ngoài, còn Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giao đất ở cho
hộ gia đình, cá nhân.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong giao đất có thu tiền sử dụng đất: là các
quy đinh về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước và NSDĐ trong quan hệ pháp luật về
giao đất có thu tiền sử dụng đất. Việc đặt ra những quy định này, một mặt khẳng định
vị trí đại diện chủ sở hữu đối với đất đai của Nhà nước, mặt khác tạo nên tảng cho sự
công bằng trong mối quan hệ giữa nhà nước và NSDĐ.
Tiền sử dụng đất: đây là nội dung đặc trưng của pháp luật về giao đất có thu tiền sử
dụng đất. Tiền sử dụng đất là số tiền mà người sử dụng đất phải trả cho Nhà nước khi
được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất. Đây là một khái niệm xuất hiện cùng
với hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, đánh dấu một bước tiến mới đối với
việc quản lý nhà nước về đất đai theo hướng thị trường, đất đai được tiền tệ hóa.
Thời hạn giao đất: nhằm quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên đất, cũng như việc khai
thác, sử dụng đất của các chủ thể được nhà nước giao đất. Pháp luật về giao đất có thu
tiền sử dụng đất, cũng đưa ra những thời hạn giao đất vừa nhằm thúc đẩy các chủ thể
sử dụng đất hiệu quả, vừa ngăn chặn hành vi găm giữ đất, đầu cơ bất động sản trái
pháp luật.
Trình tự, thủ tục giao đất: Để đảm bảo chặt chẽ trong công tác quản lý nhà nước về
đất đai, pháp luật đất đai quy định thủ tục hành chính về quản lý đất đai để làm khuôn
mẫu cho các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai theo đó mà thực hiện; trong đó có
thủ tục trình tự, thủ tục về giao đất.
Xử lý hành vi vi phạm pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất: bên cạnh việc
quy định về căn cứ, thủ tục, trường hợp được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng
đất… thì cũng cần có các quy định mang tính chất răn đe nhằm nâng cao ý thức chủ
động thực hiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực này. Đó là những quy định về
việc xử lý hành vi vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về giao đất có
thu tiền sử dụng đất.
14
1.4. Vai trò của pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất
Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất là sản phẩm thiết yếu của việc chính thức
công nhận giá trị của QSDĐ trong các quy định của pháp luật. Nó tạo bước ngoặt lớn
trong việc xóa bỏ tính bao cấp của việc quản lý và sử dụng đất tại nước ta. Nhà nước
từ chỉ quan tâm đến tính chính trị - xã hội của đất, nay đã dần chuyển hướng chú trọng
đến tính kinh tế của đất đai. Do đó, pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất có vai
trò hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật đất đai cần phải kể đến như:
Thứ nhất, pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất làm cơ sở cho sự phát huy tiềm
năng kinh tế của đất đai.
Việc quy định rõ ràng về hoạt động trao QSDĐ từ Nhà nước cho NSDĐ góp phần mở
rộng phạm vi tiếp cận tài nguyên đất cho người có nhu cầu sử dụng đất, thúc đẩy đầu
tư, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Nếu như trước đây, Nhà nước chỉ
quan tâm chú trọng về phương diện chính trị, xã hội của đất, đất được nhà nước trao
cho cá nhân, hộ gia đình, tổ chức sử dụng dưới cơ chế “xin-cho”. NSDĐ không phải
trả bất kì một khoản tiền nào để có được quyền sử dụng đất hoặc có thì cũng chỉ là
khoản phí, lệ phí cho thủ tục hành chính rất nhỏ. Việc sử dụng đất thì bừa bãi, thiếu
quy hoạch, kế hoạch gây lãng phí, tài nguyên đất chưa được khai thác đúng cách, rất
nhiều diện tích đất sau khi được giao bị bỏ hoang, không sử dụng. Thì kể từ khi pháp
luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất ra đời, tình trạng này đã ngày một giảm dần.
Nhà nước bắt đầu quan tâm đến tính kinh tế của đất, quản lý đất đai không chỉ về số
lượng, loại mà còn cả về giá; người dân cũng dần làm quen đến việc phải trả cho Nhà
nước – đại diện chủ sở hữu đất đai – một khoản tiền – tiền sử dụng đất – để có được
QSDĐ. Điều này, một mặt giúp Nhà nước khai thác được tiềm năng tài chính từ đất,
mặt khác, nâng cao ý thức của NSDĐ trong việc khai thác, đầu tư vào đất, đất ngày
càng được sử dụng hiệu quả, tiết kiệm theo đúng định hướng, chính sách của Đảng và
Nhà nước đề ra.
Thứ hai, pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất tạo hành lang pháp lý ổn định
quan hệ đất đai trong hoạt động giao đất có thu tiền sử dụng đất.
15
Bất kì một quan hệ xã hội nào cũng cần một hành lang pháp lý để các chủ thể có thể
theo đó mà thực hiện các hành vi của mình. Quan hệ đất đai trong hoạt động giao đất
có thu tiền sử dụng đất cũng vậy. Các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền cần áp dụng các
quy định của pháp luật về căn cứ giao đất, thủ tục trình tự, điều kiện giao đất, quy định
về giá đất… để thực hiện việc giao đất. Các chủ thể thuộc trường hợp được giao đất có
thu tiền sử dụng đất thì cần tuyệt đối thực hiện theo các quy định về trình tự thủ tục,
quyền và nghĩa vụ ... khi tham gia vào hệ đất đai trong hoạt động giao đất có thu tiền
sử dụng đất. Rõ ràng, nếu như không có các quy định cụ thể và minh bạch, các chủ thể
sẽ không có căn cứ, cơ sở để dựa vào đó thực hiện những hành vi có liên quan. Điều
này là nguyên nhân chính dẫn đến những tranh chấp, khiếu nại, và cả những hố sâu
tham nhũng, lộng quyền về phía các cơ quan Nhà nước. Thực tế đã cho thấy khi pháp
luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất chưa được hoàn thiện, tình trạng giao đất sai
thẩm quyền, giao đất bừa bãi, sử dụng đất sai mục đích... đã diễn ra tràn lan tại hầu hết
các địa phương gây ảnh hưởng đến nền kinh tế và tình hình trật tự. Chính vì vậy, việc
tạo hành lang pháp lý ổn định quan hệ đất đai là vai trò to lớn của pháp luật về giao đất
có thu tiền sử dụng đất.
Thứ ba, pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất là căn cứ để xử lý vi phạm khi có
hành vi vi phạm xảy ra.
Pháp luật về đất đai đang ngày càng được hoàn thiện với mục tiêu ổn định chính trị -
xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và đảm bảo quốc phòng,
an ninh; huy động tốt nhất nguồn lực từ đất để phát triển đất nước; bảo đảm hài hoà lợi
ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc thực hiện
các quy định của pháp luật thì không phải lúc nào cũng diễn ra một cách thuận lợi, tích
cực. Luôn tồn tại những chủ thể sẵn sàng hoặc có ý định đi trái lại với nguyên tắc, định
hướng mà pháp luật đề ra, lợi dụng những sơ hở của pháp luật gây mất ổn định quan
hệ. Do đó, việc xây dựng chế định về giao đất có thu tiền sử dụng đất từ căn cứ, điều
kiện đến trình tự, thủ tục và việc xử lý hành vi vi phạm là điều hết sức cần thiết. Bởi
nếu như không có các quy định này, tình trạng lãng phí, tham nhũng, khiếu kiện sẽ
16
không có căn cứ để giải quyết. Quan hệ đất đai trong giao đất có thu tiền sử dụng đất
sẽ không còn minh bạch, phát huy được hiệu quả kinh tế của chế định này.
1.5 . Kinh nghiệm quốc tế về thực hiện giao đất
1.5.1. Úc
Liên bang Úc là nước công nghiệp phát triển, đất đai được phân bổ để sử dụng thông
qua hai hình thức: chiếm hữu là cấp đất (free hold) và cho thuê (leasehold).
Xét về hình thức sở hữu có đất tư, đất thuê, đất công, đất vương quyền… Sở hữu
đất đai được hiểu là các hình thức sở hữu quyền tài sản đươc phân bậc theo số lượng
quyền tài sản.
Kinh nghiệm trong quản lý đất đai trong hoạt động giao đất tại Úc cụ thể như sau:
Công tác định giá đất phục vụ cho việc tính thuế sử dụng đất:
Về nguyên tắc, phương pháp và quy trình định giá đất
Việc định giá đất của Úc chủ yếu được sử dụng đất tính thuế sử dụng đất, thuế thu
nhập từ bán bất động sản và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Nguyên tắc định giá đất
Việc định giá phải tiến hành theo đúng quy định của pháp luật và đảm bảo nguyên
tắc thị trường, tại thời điểm, bối cảnh giao dịch xác định và kết quả định giá càng sát
với giá thị trường càng tốt. Đồng thời, kết quả định giá đất phải có khả năng kiểm tra,
đối chứng với chứng cứ thị trường một cách công khai và minh bạch.
Các phương pháp định giá đất
Tại Úc áp dụng chủ yếu 3 phương pháp định giá đất phổ biến trên thế giới, đó là:
phương pháp so sánh trực tiếp; phương pháp vốn hóa (tương đương với phương pháp
thu nhập và phương pháp thặng dư ở Việt Nam) và phương pháp chiết trừ.
Việc định giá được thực hiện theo 2 quy trình: định giá đất hàng loạt và định giá
đất riêng lẻ.
Quy trình định giá đất hàng loạt
Việc định giá đất hàng loạt thực hiện với tất cả các loại đất trên địa bàn Bang, chủ
yếu để phục vụ mục đích tính thuế sử dụng đất/bất động sản, thuế thu nhập từ bán bất
17
động sản. Định giá đất hàng loạt được thực hiện đến từng thửa đất, được xây dựng và
công bố công khai. Quy trình định giá đất hàng loạt thực hiện qua các bước:
Bước 1. Khảo sát, thu thập thông tin
a) Khảo sát các thông tin chung
b) Thu thập và phân tích thông tin giá thị trường
Các thông tin giao dịch thị trường được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu theo một định
dạng thống nhất để cung cấp cho các tổ chức, cá nhân theo yêu cầu.
c) Áp dụng các phương pháp định giá đất trong định giá hàng loạt
Sau khi thu thập được các thông tin về giá đất trên thị trường, các thông tin này
được phân loại, phân tích, xử lý như sau:
Đối với các thông tin giao dịch thửa đất trống thì áp dụng phương pháp so sánh
trực tiếp là một giải pháp chủ yếu sử dụng trong việc định giá hàng loạt. Giải pháp
này sử dụng giá phải thanh toán trong các giao dịch thực tế trên thị trường của các
bất động sản tương tự để ước tính giá trị của vị trí đất. Kỹ thuật này phụ thuộc vào
việc sử dụng các mua bán tương đương trên thị trường đã diễn ra trong thời gian
gần nhất để phản ánh các điều kiện thị trường liên quan đến ngày định giá.
Đối với thửa đất có tài sản gắn liền với đất, khi phân tích trường hợp mua bán một
bất động sản thì áp dụng phương pháp chiết trừ (để ước tính giá trị tài sản gắn liền
với đất), sau đó ước tính giá đất. Để áp dụng phương pháp này, người định giá phải
mô tả tài sản gắn liền với đất, sử dụng chi phí xây dựng mới và tính trừ tiền khấu
hao đối với tài sản đó hoặc áp dụng phương pháp so sánh theo cặp.
Đối với thửa đất cho thu nhập hiện tại, cho thu nhập trong tương lai thì áp dụng
phương pháp vốn hóa để xác định giá đất.
Bước 2. Phân loại các khu vực định giá đất
Ở phạm vi bang, khu vực định giá được phân theo các đơn vị chính quyền địa
phương (LGA). Trong phạm vi LGA, các phân vùng được cấu trúc bao gồm các bất
động sản có cùng đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kết cấu hạ tầng và giá đất tương tự.
Bước 3. Định giá thửa đất chuẩn: Thửa đất chuẩn được chọn trên cơ sở mức độ đại
diện của nó cho khu vực định giá hoặc hợp phần định giá.
18
Bước 4. Định giá đến từng thửa đất
Sau khi thửa đất chuẩn được định giá, căn cứ vào thông tin giá đất thị trường để
xây dựng hệ số phân vùng, hệ số cụ thể của các thửa đất trong khu vực định giá hoặc
hợp phần định giá, làm cơ sở để định giá đến từng thửa đất áp dụng vào quá trình định
giá hàng loạt quy mô lớn. Để áp dụng định giá hàng loạt đến từng thửa đất từ thửa đất
chuẩn, tại Úc đã xây dựng phần mềm CAMA để hỗ trợ cho việc phân tích thông tin giá
đất thị trường, hỗ trợ định giá. Các thửa đất sau khi được định giá đều được thẩm định,
kiểm tra bằng các thông tin về giá đất thị trường đã thu thập, giá hiện hành để bảo đảm
chất lượng của kết quả định giá.
Quy trình định giá riêng lẻ
Việc định giá đất cụ thể đối với từng thửa đất trong trường hợp tính bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất, thế chấp quyền sử dụng đất/bất động sản và các giao dịch dân sự
khác. Việc định giá đất riêng lẻ được thực hiện theo loại đất, từng mục đích định giá.
Căn cứ vào loại đất, thông tin giá đất thị trường, giá thuê đất, sau đó áp dụng các
phương pháp định giá đất để xác định giá đất.
Các tổ chức định giá đất độc lập sử dụng giá đất thị trường từ nguồn các trang web
chuyên cung cấp thông tin giao dịch bất động sản, thông tin từ Văn phòng đăng ký đất
đai để xác định sơ bộ giá của thửa đất cần định giá. Sau đó, định giá viên sẽ kiểm tra
thực địa đối với hồ sơ thửa đất, hiện trạng đất và các tài sản gắn liền với đất, các công
trình kết cấu hạ tầng và các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá trị bất động sản để thực
hiện việc định giá.
Xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất
Tại Úc, cơ sở dữ liệu về giá đất bao gồm dữ liệu giá đất do Nhà nước quy định, dữ
liệu giá đất thị trường được cập nhật hàng ngày lên hệ thống thông tin đất đai (LIS) do
cơ quan quản lý và dịch vụ đất đai của từng bang quản lý đã được đầu tư xây dựng
hoàn thiện, thường xuyên được cập nhật; đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin cho Nhà
nước, tổ chức và người dân.[3, 20]
19
1.5.2. Trung Quốc
Trung Quốc thi hành chế độ công hữu về đất đai: chế độ sở hữu toàn dân và chế độ
sở hữu tập thể của nông dân về đất đai. Pháp luật quy định đất đai trong khu vực đô thị
là thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu (giống như chế độ sở hữu
toàn dân tại Việt Nam). Đất đai ở khu vực nông thôn và ngoại ô đô thị thuộc sở hữu
tập thể nông dân: đất xây dựng nhà ở, đất tự canh tác, đất đồi núi… Hiện nay, đất sở
hữu toàn dân chiếm 53%; sở hữu tập thể chiếm 46% và 1% đất chưa rõ sở hữu.
Về hình thức giao đất: Đối với đất đai thuộc sở hữu Nhà nước hoặc sở hữu tập thể đều
được thực hiện theo hai hình thức giao đất không thu tiền và giao đất có thu tiền sử
dụng.[9, 78] Lưu ý, ở Trung Quốc không có hình thức giao đất ổn định lâu dài không
thời hạn.
Kinh nghiệm về quản lý đất đai trong hoạt động giao đất của Trung Quốc cụ thể
như sau:
1) Các giải pháp chủ yếu để sử dụng đất tiết kiệm:
- Không giao đất ở trực tiếp cho người dân để xây dựng nhà ở, các dự án phát triển nhà
ở chỉ được phép xây dựng nhà ở cao tầng với mật độ theo quy định.
- Quy định suất đầu tư tối thiểu làm cơ sở khi xét duyệt các dự án đầu tư và kiểm tra,
giám sát các dự án đầu tư trong quá trình triển khai thực hiện dự án (tỉnh Quảng Tây
không giao đất để làm sân golf hoặc xây nhà ở dạng biệt thự).
- Chỉ cho phép sử dụng đất vào mục đích sản xuất trong các khu công nghiệp theo quy
hoạch được duyệt mà không giao đất cho các cơ sở sản xuất riêng lẻ nhằm khai thác
tối đa các công trình kết cấu hạ tầng. Trường hợp đặc biệt (không thể bố trí trong khu,
cụm công nghiệp) thì mới giao đất cho dự án có vị trí ngoài khu công nghiệp.
2) Quyền sử dụng đất của người nước ngoài:
Nhà đầu tư nước ngoài có thể sở hữu các công trình trên đất khi mua hoặc khi được
hưởng quyền sử dụng đất cho một mục đích và trong một thời hạn cụ thể. Quyền sử
dụng đất không bao gồm quyền sử dụng tài nguyên, khoáng sản hoặc tài nguyên dưới
lòng đất. Thông thường, công trình trên đất phải được sở hữu bởi cùng một đối tượng
được quyền sử dụng đất.
20
- Quyền sử dụng đất được giao có thu tiền sử dụng đất: là hình thức quyền sử dụng đất
phổ biến nhất và ban đầu thường có được trực tiếp từ các chính quyền địa phương
thông qua việc nộp lại một khoản phí cố định. Thời hạn sử dụng tối đa phụ thuộc vào
mục đích sử dụng đất: 40 năm đối với đất thương mại, du lịch và công trình công cộng
giải trí; 59 năm đối với đất sử dụng cho mục đích công nghiệp, giáo dục, khoa học,
công nghệ, văn hóa, y tế hoặc thể thao; 70 năm cho đất ở. Quyền sử dụng đất được cấp
nhìn chung có thể chuyển nhượng, thế chấp tự do không cần xin phép cơ quan có thẩm
quyền, nhưng các giao dịch này cần được đăng ký tại cơ quan quản lý đất đai. Đơn xin
gia hạn phải được nộp ít nhất trước 1 năm trước khi hết thời hạn.
- Quyền sử dụng đất được giao: là hình thức quyền sử dụng đất được Nhà nước giao
không thu tiền cho một giai đoạn nhất định, thông thường là giới hạn mục đích sử
dụng ví dụ như sử dụng cho mục đích quân sự, chính phủ, các dự án hạ tầng và công
trình công cộng. Luật pháp không cấm các công ty và cá nhân nước ngoài xin giao
quyền sử dụng đất. Tuy nhiên do bị các hạn chế về sử dụng và chuyển nhượng, các cá
nhân và tổ chức nước ngoài thường không sử dụng các quyền này (trừ các dự án hạ
tầng hoặc công trình công cộng là ngoại lệ). Nhìn chung, quyền sử dụng đất được giao
trước tiên nên được chuyển thành quyền sử dụng đất được cấp để có thể thực hiện
chuyển nhượng, nhưng đây là một quy trình cồng kềnh và khó khăn.[3, 47]
1.5.3. Hoa Kì
Việc điều phối đất đai tại Hoa Kì được thực hiện theo cơ chế thị trường.
Cấu trúc sở hữu đất đai:
Quyền sử hữu đất đai ở Hoa Kì được xây dựng như một “bó quyền” (bundle of
rights) gồm cây “gậy xanh” và “gậy đỏ”. Gậy xanh biểu tượng cho quyền và lợi ích
kinh tế của NSDĐ hưởng từ việc SDĐ; gậy đỏ thể hiện nghĩa vụ thanh toán chi phí
cho việc mua lô đất các khoản thuế, phí đóng góp vào chi phí công cộng để duy trì các
dịch vụ địa phương và các nghĩa vụ khác của NSDĐ để đổi lấy quyền được hưởng gậy
xanh. Chủ sở hữu có thể sử dụng hoặc bỏ những cây gậy trong bó quyền của mình,
miễn sao họ giữ lại được quyền sở hữu đất. Điều đó có nghĩa, “Chủ sở hữu có thể bán
quyền sử dụng bề mặt đất, quyền khai thác trong lòng đất thuộc quyền sở hữu, cũng
21
như họ có thể bán một hay nhiều cây gậy trong quyền sở hữu”. Nhà nước giữ lại bốn
quyền chính: quyền xử phạt và kết án, quyền thu thuế, quyền tịch thu xung công và
quyền cai trị.
Sở hữu đất đai tại Hoa Kì theo hai hình thức chính gồm sở hữu tư nhân và sở hữu
Nhà nước. Đất đai thuộc sở hữu Nhà nước được gọi là đất công (Public land). Sở hữu
tư nhân đối với đất đai tại Hoa Kì mang tính tương đối. Tu chính án thứ 5 Hiến pháp
Hoa Kì quy định “Không có công dân bị tước đoạt bởi Chính phủ cuộc sống, quyền tự
do, hoặc tài sản mà không theo đúng thủ tục pháp luật, cũng không có tài sản thuộc tư
nhân nào bị trưng dụng cho mục đích công mà không được bồi thường”. Như vậy, mặc
dù công nhận sở hữu tư nhân về đất đai nhưng NSDĐ tại Mĩ vẫn bị giới hạn một số
quyền vì lợi ích công cộng.
Kinh nghiệm về quản lý đất đai trong hoạt động giao đất của Hoa Kì cụ thể như sau:
Áp dụng cơ chế thị trường trong hoạt động trao quyền sử dụng đất:
Hoạt động trao QSDĐ từ Nhà nước cho NSDĐ của Hoa Kì là quá trình chuyển
quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng, kiểm soát tài sản hay cung cấp dịch vụ từ
Nhà nước cho các thực thể thuộc khu vực tư nhân. Việc trao QSDĐ từ Nhà nước cho
NSDĐ tại Hoa Kì được thực hiện qua các hình thức là cho thuê đất và bán đất hoặc
giao đất. Riêng đối với đất dành cho kinh doanh BĐS, Chính phủ Hoa Kì trao QSDĐ
thông qua hai hình thức là trao QSDĐ thông qua thị trường và trao QSDĐ thông qua
thỏa thuận giữa Nhà nước và nhà đầu tư. Trong khuôn khổ khóa luận này, chúng ta chỉ
tập trung vào việc giao đất từ nhà nước cho NSDĐ.
Hình thức giao đất có thời hạn, trong hoạt động xây dựng và kinh doanh BĐS như
việc xây dựng các dự án nhà ở, các dự án hỗn hợp với nhiều quy mô, các dự án thương
mại, hình thức trao QSDĐ đa phần là hợp đồng phát triển (development agreements)
do các pháp nhân công thực hiện. Việc trai quyền thông qua quy trình nghiêm ngặt
gồm hai quy trình chính:
Một là quy trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết định sử dụng đất còn gọi là quy
trình chính trị, gồm tuyên bố về việc SDĐ cung cấp đầy đủ lợi ích cho cộng đồng và
các kết quả dự kiến đạt được. Văn bản SDĐ được sử dụng để cung cấp định hướng cho
22
quá trình đàm phán với nhà đầu tư của các nhân viên có thẩm quyền, giai đoạn này bắt
đầu từ việc nộp đơn xin SDĐ của các nhà đầu tư căn cứ vào quy hoạch và kế hoạch
SDĐ của Nhà nước.
Hai là giai đoạn đàm phán và kí kết hợp đồng giữa các nhà đầu tư và cơ quan có
thẩm quyền còn gọi là quy trình kinh tế. Ở giai đoạn này thường diễn ra quy trình
thương lượng giữa cơ quan có thẩm quyền với các nhà đầu tư. Kết thúc giai đoạn này
là một hợp đồng SDĐ được ký kết.
Điểm đặc biệt trong hình thức giao đất của Hòa Kì nằm ở quy trình thứ hai. Ở quy
trình này, các nguyên tắc thị trường như nguyên tắc cạnh tranh, nguyên tắc công bằng
và minh bạch được áp dụng. Trao QSDĐ thông qua các văn bản chuyển nhượng
(conveyance documents) thể hiện bằng việc sử dụng hợp đồng trong hoạt động trao
QSDĐ. Việc sử dụng hợp đồng đạt cả hai lợi ích vừa cho nhà đầu tư vừa cho chính
quyền đô thị. Hợp đồng cung cấp cho nhà đầu tư với sự chắc chắn về lợi ích tương
đương với quyền được trao. Đồng thời các nhà đầu tư sẽ được bảo đảm ổn định về chi
phí đầu tư, cũng như hạn chế các yêu cầu thay đổi trong quá trình sử dụng đất từ chính
quyền địa phương. Thông qua sự thỏa thuận giữa các bên, chính quyền địa phương đạt
được các yêu cầu về thu nhân sách cũng như yêu cầu về cơ sở hạ tầng ở khu vực dự án
hoặc những khu vực khác. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương xem hợp đồng là
phương tiện để đảm bảo lợi ích công cộng mà họ không thể yêu cầu trực tiếp từ nhà
đầu tư.
Hoạt động trao QSDĐ theo hình thức hợp đồng phát sinh trách nhiệm kiểm tra và
đánh giá thực hiện hợp đồng của cơ quan quản lý nhà nước, bao gồm đánh giá về sự
tuân thủ hợp đồng có thời hạn đánh giá hàng năm, nếu các nhà phát triển không tuân
thủ đúng thỏa thuận thì sẽ bị thay đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Như vậy, từ những giải
thích trên đây ta có thể rút ra được một số đặc điểm đáng chú ý trong hoạt động trao
QSDĐ từ Nhà nước cho NSDĐ theo cơ chế thị trường tại Hoa Kì như sau:
- Kế hoạch SDĐ của Nhà nước có vai trò bảo đảm định hướng cho hoạt động trao
QSDĐ. Xuất phát từ đơn xin SDĐ của NSDĐ là tín hiệu từ thị trường làm căn cứ cho
23
Nhà nước xác định mục tiêu SDĐ từ chủ đầu tư, kết hợp với mục đích của nhà đầu tư
mà Nhà nước hoàn thành mục tiêu SDĐ so với kế hoạch SDĐ đã đề ra.
- Quy trình trao QSDĐ là quy trình mở với sự tham gia trực tiếp của người dân thông
qua hình thức trưng cầu dân ý trước khi tiến hành trao QSDĐ cho NSDĐ. Bên cạnh
đó, hình thức trao QSDĐ dưới một hợp đồng SDĐ có sự thỏa thuận giữa các bên được
kí kết, điều này bảo đảm được nguyên tắc cạnh tranh giữa các chủ thể nhận QSDĐ,
bình đẳng giữa bên trao QSDĐ và bên nhận QSDĐ, minh bạch và công bằng về quyền
tiếp cận thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin từ NSDĐ cũng như công dân và các tổ
chức khác có quan tâm.
- Nhà nước Hoa Kì đã thành công trong việc “phân cấp thị trường”, theo đó Nhà nước
đã chuyển giao một số chức năng từ khu vực tư và từ Nhà nước sang thị trường, dưới
hình thức kết hợp với các tổ chức thuộc khu vực tư nhân để quản trị hợp đồng SDĐ.
1.5.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng hệ thống đăng ký đất đai hiện đại để quản lý, sử dụng hiệu quả
đất đai.
Thứ hai, hiện nay thẩm quyền thực hiện trao QSDĐ được trao cho các cơ quan quản
lý Nhà nước là UBND cấp tỉnh và huyện nhưng chưa làm rõ cơ chế giải trình từ cơ
quan quản lý hành chính Nhà nước và cơ chế giám sát từ cá nhân và các cơ quan hữu
quan. Do đó, ta cần cải cách, minh bạch hóa bộ máy hành chính Nhà nước về quản lý
đất đai nhằm bảo đảm cho đất đai được sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh
tế cao song hành với việc duy trì sự công bằng xã hội trong sử dụng đất đai.
Thứ ba, trong lĩnh vực sử dụng đất, Nhà nước cần xây dựng một môi trường pháp lý
bình đẳng không có sự phân biệt về việc trao QSDĐ giữa cá nhân, tổ chức trong nước
và cá nhân, tổ chức có yếu tố nước ngoài (như người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…) nhằm tạo cơ chế cạnh tranh bình đẳng lành
mạnh giữa những NSDĐ.
Thứ tư, Về vấn đề định giá đất, tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền
sử dụng đất cần dựa trên giá thị trường. Sử dụng và kết hợp các phương pháp, nguyên
tắc định giá đất để có thể xác định giá đất một cách đúng đắn, hợp lý.
24
Thứ năm, hoạt động trao QSDĐ tại Việt Nam vẫn theo cơ chế hành chính, độc quyền,
không hiệu quả. Nhà nước cần chuyển cơ chế điều phối hành chính sang cơ chế điều
phối thị trường, hoạt động trao QSDĐ phải dựa trên nguyên tắc thị trường, dựa trên kế
hoạch SDĐ mang tính định hướng Nhà nước. Căn cứ trao quyền sử dụng đất phải dựa
trên tín hiệu thị trường đến từ NSDĐ với nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng và minh
bạch. Hơn nữa, dưới tác động của cơ chế thị trường thì QSDĐ mà Nhà nước hiện đang
trực tiếp quản lý dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ phải được hàng hóa hóa hay “đóng
gói” bằng quyết định SDĐ. Việc “thị trường hóa đất đai” nhằm mở rộng cơ hội tiếp
cận QSDĐ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Giúp Nhà
nước khai thác tài nguyên đất hiệu quả hơn.
Thứ sáu, quy trình trao QSDĐ từ Nhà nước cho NSDĐ tại Việt Nam là quy trình khép
kín. Quy trình này nên được mở rộng cho sự tham gia của các cơ quan có chức năng
giám sát nhằm đảm bảo sự minh bạch và hạn chế tham nhũng.
Thứ bảy, bên cạnh đó, Nhà nước nên chuyển hình thức trao QSDĐ là quyết định hành
chính sang hình thức hợp đồng. Do hoạt động trao QSDĐ kết thúc khi ban hành quyết
định hành chính, không thể chi tiết hóa và cá biệt hóa quyền và nghĩa vụ của bên trao
cũng như bên nhận dẫn đến những vi phạm của NSDĐ khó có thể ngăn chặn và khắc
phục kịp thời. Điều này cũng nhằm “nâng cao hiệu quả SDĐ bởi quan hệ đất đai giữa
nhà nước và NSDĐ sẽ được minh bạch, rõ ràng”. Hợp đồng trao QSDĐ cũng là cơ sở
để Nhà nước thực hiện tốt việc quản lý SDĐ và là công cụ bảo vệ quyền lợi của Nhà
nước trong những dự án có SDĐ. Bên cạnh đó, tương tự hình thức “phân cấp thị
trường” của Hoa Kì trong hoạt động trao QSDĐ, tác giả Phạm Văn Võ đã đề xuất: “
Nhà nước sẽ thành lập những doanh nghiệp để quản lý kinh doanh quỹ đất của mình,
ủy thác cho họ thay mặt Nhà nước thực hiện quyền sử dụng theo quy trình: tạo quỹ đất
ủy thác và doanh nghiệp ủy thác có quyền đưa quỹ đất ủy thác vào khai thác sử dụng
theo cơ chế thị trường dưới dạng những giao dịch dân sự” để Nhà nước tránh các thủ
tục hành chính rườm rà làm giảm hiệu quả SDĐ trong hoạt động trao QSDĐ hiện
hành.
25
Chương 2. Thực trạng pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng
đất theo Luật đất đai năm 2013.
2.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật về giao đất có thu tiền
sử dụng đất
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là nguồn tư liệu đặc biệt trong
sản xuất và đời sống. Theo Điều 53 – Hiến pháp 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 4 –
Luật đất đai năm 2013 thì: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng
đất theo quy định của pháp luật”. Việc khẳng định quyền sở hữu tập thể đối với đất
đai đã được Nhà nước ta quy định từ bản hiến pháp năm 1980 (trước đó là hai bản hiến
pháp 1946 và 1959 đều thừa nhận đất đai thuộc sở hữu tư nhân) và sau đó được cụ thể
hóa trong các văn bản pháp luật chuyên ngành ngay từ Luật đất đai năm 1987 đến nay.
Theo đó, Nhà nước là chủ thể duy nhất nắm đầy đủ quyền năng của chủ sở hữu và
đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước chiếm hữu đất đai thông qua các hoạt động
địa chính: điều tra khảo sát, đánh giá, phân loại đất, lập bản đồ địa chính. Nhà nước
định đoạt đất đai thông qua các quyết định hành chính như: giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất, công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), gia hạn
QSDĐ, quy định hạn mức sử dụng đất, xác định khung giá các loại đất. Nhà nước sử
dụng đất gián tiếp thông qua việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, hay chuyển
mục đích sử dụng đất. Nhà nước thu thuế sử dụng đất, thuế chuyển QSDĐ, phí và lệ
phí, thu tiền sử dụng đất. Người sử dụng đất (NSDĐ) chiếm hữu trực tiếp đất đai, trực
tiếp khai thác các nguồn lợi từ đất. NSDĐ được định đoạt hạn chế về QSDĐ, được
tặng, cho, để lại thừa kế, cho thuê, cho thuê lại đất đai.[26]
Kể từ khi Luật đất đai năm 1987 được ban hành, cùng với đó những quy định pháp
luật về việc giao đất. Điều này, một phần thể hiện quyền định đoạt của Nhà nước đối
với tài nguyên đất, mặt khác, thể hiện được hình thức sở hữu toàn dân đối với đất đai
được hiến pháp công nhận. Nhà nước nhân danh đại diện chủ sở hữu không trực tiếp
sử dụng và khai thác nguồn lợi từ đất mà chỉ đứng ra là chủ thể phân phối và phân
phối lại đất đai cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội dựa trên quy hoạch và kế hoạch
26
để đất đai được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, đúng mục đích và hiệu quả, đồng thời đảm
bảo cho việc quản lý đất đai được tập trung, thống nhất. Đây là cơ sở để bảo vệ chế độ
công hữu đối với đất đai, mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Vì vậy, các quy định về
giao đất là chế định tất yếu cần được ban hành để phù hợp với định hướng và mục tiêu
đề ra của Đảng và Nhà nước.
Trước khi Luật đất đai năm 1993 ra đời, hình thức giao đất không thu tiền sử dụng
đất được diễn ra hết sức phổ biến, công tác quản lý đất đai lỏng lẻo làm cho quỹ đất bị
phân tán, không được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí, tạo nhiều sơ hở phát sinh
tiêu cực. Do vậy, một diện tích đất không nhỏ đã được giao cho đối tượng không có
nhu cầu thực sự dẫn đến tình trạng không sử dụng, để hoang hóa hoặc sử dụng kém
hiệu quả gây lãng phí nguồn tài nguyên đất, trong khi nhiều người có nhu cầu, có khả
năng sử dụng có hiệu quả lại không được giao. Để khắc phục tình trạng trên, đồng thời
nâng cao ý thức trách nhiệm của NSDĐ khi được Nhà nước giao đất, hình thức giao
đất có thu tiền SDĐ đã ra đời và được quy định tại Luật đất đai năm 2003. Việc quy
định hình thức giao đất có thu tiền SDĐ đã đánh dấu một bước tiến mới về mặt giao
đất theo hướng thị trường. Đây là lần đầu tiên ở nước ta đất đai được tiền tệ hóa, mặc
dù ở mức độ rất khiêm tốn. Điều này một mặt cũng là để đáp ứng những yêu cầu đặt ra
khi nhà nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, và xóa bỏ dần tính bao cấp trong
quản lý đất đai trước kia.
2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất theo
Luật đất đai năm 2013
2.2.1. Quy định về nguyên tắc của giao đất có thu tiền sử dụng đất
Giao đất là một chế định thuộc Luật đất đai nên khi thực thi các quy định này thì
trước tiên chúng ta cần đảm bảo thực hiện các nguyên tắc chung của Luật đất đai. Các
nguyên tắc này đã được cụ thể hóa tại Điều 6 – Luật đất đai năm 2013 như sau: “1.
Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất; 2. Tiết kiệm, có
hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử
dụng đất xung quanh; 3. Người sử dụng đất thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong
27
thời hạn sử dụng đất theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có
liên quan.”
Giao đất là hành vi pháp lý của cơ quan Nhà nước thực hiện phân phối và phân
phối lại đất đai cho các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình nhằm đảm bảo cho đất đai được
sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả. Bên cạnh việc tôn trọng những nguyên tắc chung
của Luật đất đai được nêu trên thì các chủ thể khi tham gia vào quan hệ này, đặc biệt là
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần phải tuân thủ những nguyên tắc riêng như
sau:
Thứ nhất, giao đất phải đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt
Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử
dụng cho các mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường, và
thích ứng biến đổi khí hậu trên cở sở tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các
ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một
khoảng thời gian xác định. Trong khi đó, kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy
hoạch sử dụng đất theo thời gian để thực hiện trong kì quy hoạch sử dụng đất. Nói một
cách dễ hiểu, thì kế hoạch sử dụng đất cấp huyện cụ thể hóa quy hoạch sử dụng đất tại
từng địa phương giúp cơ quan quản lý đất đai của Nhà nước thuận tiện trong việc phân
bổ và phân bổ lại đất cho phù hợp với định hướng và chính sách do Đảng và Nhà nước
đã đặt ra.
Vì vậy có thể thấy rằng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngoài giữ vai trò hoạch
định chính sách, định hướng phát triển kinh tế vùng, còn đảm bảo việc sử dụng đất có
hiệu quả thì và cơ sở quan trọng để Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
Hơn nữa, đây cũng là một trong những căn cứ để giao đất đã được pháp luật quy
định tại Khoản 1 – Điều 52 – Luật Đất đai năm 2013. Do đó, cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền khi tiến hành giao đất cho người có nhu cầu sử dụng đất cần dựa trên kế
hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
Thứ hai, giao đất phải đáp ứng nhu cầu sử dụng đất
Theo quy định tại Luật đất đai năm 2013 thì nhu cầu sử dụng đất được thể hiện
dưới hai hình thức, đó là là dự án đầu tư hoặc đơn xin giao đất. Cơ quan nhà nước có
28
thẩm quyền giao đất cần căn cứ vào hai loại văn bản này, từ đó, thẩm định nhu cầu sử
dụng đất và đưa ra quyết định giao đất phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của NSDĐ.
Nguyên tắc này, một mặt giúp hài hòa lợi ích giữa NSDĐ và Nhà nước, mặt khác,
tránh tình trạng giao đất bừa bãi khiến việc sử dụng đất kém hiệu quả, không đem lại
lợi ích chính đáng cho Nhà nước cũng như xã hội.
Thứ ba, giao đất đúng thẩm quyền, đúng đối tượng.
Không phải bất cứ cơ quan Nhà nước nào cũng có thẩm quyền giao đất mà chỉ một
số cơ quan nhất định có thẩm quyền này theo quy định của pháp luật. Giao đất là một
hành vi mang tính hành chính giữa cơ quan quản lý Nhà nước với người sử dụng đất.
Vì vậy, khi tiến hành hoạt động này các cơ quan phải nhất thiết tuân thủ các quy định
của pháp luật về thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục. Bởi những quy định về hoạt
động này đều là những quy định về quản lý Nhà nước mang tính mệnh lệnh – phục
tùng.
Về đối tượng được giao đất, pháp luật cũng có những quy định rõ ràng về vấn đề
này, cụ thể tại Điều 54, 55 – Luật đất đai năm 2013. Dựa trên chính sách và kinh
nghiệm trong quá trình quản lý đất đai, các nhà lập pháp đã xây dựng và ban hành
những quy định này. Do đó, khi tiến hành hoạt động giao đất, các cơ quan quản lý đất
đai cũng cần nghiêm túc thực hiện. Mặt khác, khi được quy định một cách rõ ràng thì
người dân cũng sẽ dễ dàng nắm bắt cơ hội để xin giao đất, đẩy mạnh hiệu quả thực
hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thứ tư, giao đất đúng trình tự, thủ tục.
Như đã được phân tích ở trên, giao đất là một hoạt động hành chính, vì vậy mà
trình tự, thủ tục thực hiện, đương nhiên, cần tuân thủ các quy định của pháp luật. Điều
này giúp minh bạch hóa hệ thống hành chính, tránh được những gian lận, nhũng nhiễu,
hạch sách từ cơ quan có thẩm quyền giao đất. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã dành ra
một thông tư riêng để quy định về vấn đề này, đó là Thông tư 30/2014/TT-BTNMT về
hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất.
29
Đây là một trong những nguyên tắc đảm bảo cho hoạt động giao đất được thực hiện
thống nhất, đồng bộ tại các địa phương. Thực hiện tốt nguyên tắc này, sẽ góp phần tiết
kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả giao đất.
Thứ năm, thường xuyên có hoạt động thanh tra, kiểm kê đất được giao và giám sát
quá trình sử dụng đất của người sử dụng đất.
Hoạt động thanh tra, kiểm kê đất được giao, cho thuê…phải được tiến hành thường
xuyên, định kì và theo kế hoạch để Nhà nước nắm bắt và quản lý chặt quỹ đất trên
phạm vi cả nước. Xử lý kịp thời những sai phạm về việc giao đất từ phía các cơ quan
có thẩm quyền như giao đất sai thẩm quyền, không đúng kế hoạch, vượt hạn mức, hiện
tượng xin cho…nhằm đảm bảo việc sử dụng đất hiệu quả, tiết kiệm. Bên cạnh đó, việc
giám sát quá trình sử dụng đất cũng hết sức quan trọng, Nhà nước cần tổ chức các
cuộc khảo sát thực địa, để nắm bắt tình hình sử dụng đất của người sử dụng đất, tránh
việc sử dụng đất sai mục đích sử dụng đất được giao theo quyết định giao đất gây ảnh
hưởng không chỉ đến công tác quản lý đất đai mà còn tác động đất môi trường và xã
hội xung quanh. Thực tế cũng cho thấy, đặc biệt với hình thức giao đất có thu tiền sử
dụng đất và cho thuê đất, việc thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong một số trường
hợp còn gặp nhiều khó khăn do người sử dụng đất chây ì không chịu nộp đủ hoặc
không nộp do tình hình sử dụng đất của họ không đạt hiệu quả như mong muốn.
Vì vậy, việc thực hiện hoạt động thanh tra, giám sát kể trên là vô cùng cần thiết
mặc dù nó là bước làm sau của hoạt động giao đất nhưng nó lại là cơ sở giúp duy trì,
củng cố hiệu quả cho hoạt động này.
Trên đây là những nguyên tắc trong giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tác giả
mạnh dạn đề xuất, dựa trên những tìm hiểu về pháp luật về giao đất có thu tiền sử
dụng đất. Theo đó, đề tài cũng mong muốn trong tương lai pháp luật đất đai sẽ bổ sung
quy định về nguyên tắc cho chế định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng
đất nhằm hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở, nền tảng trong việc thực hiện pháp luật về
giao đất có thu tiền sử dụng đất nói riêng và chế định giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất nói chung.
30
2.2.2. Quy định về căn cứ để giao đất có thu tiền sử dụng đất
Theo Điều 52 – Luật Đất đai năm 2013 thì: căn cứ đầu tiên được đưa ra để xét
duyệt giao đất là kế hoạch sử dụng đất cấp huyện đã được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt. Như đã phân tích ở các phần trên thì kế hoạch sử dụng đất đóng vai
trò quan trọng giúp cơ quan quản lý Nhà nước hoạch định chính sách, định hướng phát
triển kinh tế vùng, đảm bảo việc sử dụng đất có hiệu quả. Quy hoạch sử dụng đất đai là
biện pháp hữu hiệu của Nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất đai, hạn chế sự
chồng chéo gây lãng phí đất đai; tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện, làm giảm
sút nghiêm trọng quỹ đất, ngăn ngừa được các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn
chiếm huỷ hoại đất; phá vỡ môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến
những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và rất nhiều các hiện
tượng nguy hại khác. Hơn nữa quy hoạch sử dụng đất đai còn tạo điều kiện để sử dụng
đất đai hợp lý hơn. Trên cơ sở phân hạng đất đai, bố trí sắp xếp các loại đất, quy hoạch
sử dụng đất tạo ra khung pháp lý yêu cầu các đối tượng quản lý và sử dụng đất đai
tuân thủ pháp luật. Điều đó cho phép việc sử dụng đất đai được hợp lý, tiết kiệm và
hiệu quả hơn. Bởi vì, khi các đối tượng sử dụng đất đai hiểu rõ được phạm vi ranh giới
và chủ quyền về các loại đất thì họ mới yên tâm đầu tư khai thác phần đất đai của
mình, do vậy hiệu quả sử dụng sẽ cao hơn. Dẫn đến, trong “Nội dung kế hoạch sử
dụng đất hàng năm của cấp huyện” (tại khoản 4 Điều 40 Luật Đất đai năm 2013) quy
định phải “Xác định vị trí, diện tích đất…” (Điểm c Khoản 4 Điều 40) và “Lập bản đồ
kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện” (Điểm đ Khoản 4 Điều 40) …nhằm
đảm bảo đủ căn cứ để giao đất, cho thuê đất.
Căn cứ tiếp theo để giao đất chính là nhu cầu sử dụng đất. Nhu cầu sử dụng đất
được thể hiện dưới hình thức văn bản là dự án đầu tư hoặc đơn xin giao đất. Cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền sẽ thẩm định nhu cầu sử dụng đất của các đối tượng và có
văn bản thẩm định gửi đến chủ đầu tư để lập hồ sơ xin giao đất.
Ngoài ra, đối với dự án đầu tư quy định tại khoản 3 – Điều 58 – Luật đất đai năm
2013 thì chủ đầu tư còn phải thỏa mãn các điều kiện bao gồm:
Có năng lực tài chính để bảo đảm việc sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư;
31
Ký quỹ theo quy định của pháp luật về đầu tư;
Không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng
đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác.
Những dự án này được liệt kê chi tiết và cụ thể tại khoản 1 – Điều 14 – Nghị định
43/2014/NĐ-CP “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai”, đó là : Dự
án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để cho thuê hoặc để bán kết hợp cho thuê theo
quy định của pháp luật về nhà ở; Dự án đầu tư kinh doanh bất động sản gắn với quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản; Dự án sản xuất,
kinh doanh không sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước.
Trên đây là những căn cứ cũng như những phân tích liên quan để xét duyệt giao đất
từ cơ quan Nhà nước cho NSDĐ. Rõ ràng, những căn cứ được đưa ra bởi các quy định
pháp luật là hết sức hợp lý và đảm bảo cho việc SDĐ hiệu quả, phân bổ đất hợp lý từ
trung ương đến địa phương.
So với Luật đất đai năm 2003 thì căn cứ giao đất, cho thuê đất tại Luật đất đai năm
2013 cũng có những khác biệt đáng kể:
Luật đất đai năm 2003 Luật đất đai năm 2013
Điều 31. Căn cứ để giao đất, cho thuê đất,
chuyển mục đích sử dụng đất Điều 52. Căn cứ để giao đất, cho thuê đất, Căn cứ để quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất cho phép chuyển mục đích sử dụng đất bao 1. Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp gồm: huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm 1. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quyền phê duyệt. quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây 2. Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt; mục đích sử dụng đất. 2. Nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án
đầu tư, đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất.
32
Lần đầu tiên vai trò của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thể hiện rõ nét trong
Luật. Nếu trước đây, để giao đất, cho thuê đất khi không có quy hoạch sử dụng đất có
thể căn cứ quy hoạch của xây dựng đô thị, điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch
khác, thì nay kế hoạch sử dụng đất hàng năm của huyện đã được UBND cấp tỉnh phê
duyệt là căn cứ đầu tiên khi xét duyệt giao, cho thuê đất. Việc nhấn mạnh vai trò của
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cần thiết và là bước tiến của Luật Đất đai năm
2013.
Bên cạnh đó, như đã được phân tích trên đây về Điều 58 tại Luật đất đai năm 2013,
đây là một điểm mới so với Luật đất đai năm 2003 khi Luật này chỉ nêu lên căn cứ
giao đất, cho thuê đất chứ không đặt ra điều kiện cho chủ thể xin giao đất.
Trên thực tế, việc không đặt điều kiện cho chủ dự án đầu tư khi xin giao đất, xin
thuê đất khiến rất nhiều dự án lâm vào tình trạng không sử dụng hoặc chậm đưa đất
vào sử dụng, gây lãng phí đất đai, gây bức xúc trong nhân dân. Và để khắc phục tình
trạng trên, Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung các quy định để kiểm soát chặt chẽ việc
giao đất với những điều kiện áp dụng đối với chủ đầu tư: Chủ dự án đầu tư muốn được
Nhà nước giao đất, cho thuê đất phải thỏa mãn các điều kiện.
2.2.3. Quy định về các trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng
đất
2.2.3.1. Cá nhân, hộ gia đình.
Theo Khoản 1 – Điều 55 – Luật đất đai năm 2013 thì Hộ gia đình, cá nhân là
những đối tượng được Nhà nước giao đất ở có thu tiền sử dụng đất.
Từ phương diện là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước ta với bản
chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, phải xuất phát từ đối tượng sử dụng,
mục đích sử dụng để lựa chọn hình thức giao, cho thuê đất phù hợp nhằm bảo tồn quỹ
đất, bảo đảm chức năng kinh tế, xã hội của mình, đồng thời cũng bảo đảm lợi ích đích
thực của người chủ đất đai, đó là nhân dân. Mặt khác, khi giao đất Nhà nước cần phân
loại việc sử dụng đất phục vụ theo tiêu chí có mục tiêu lợi nhuận hoặc không có mục
tiêu lợi nhuận mà từ đó xác định hình thức giao đất cho phù hợp. Trong trường hợp
trên, Nhà nước đã đưa ra quy định lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất
33
đối với đất ở cho hộ gia đình, cá nhân. Đây là trường hợp duy nhất trong các trường
hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất mà mục đích sử dụng đất không nhằm mục đích
kinh doanh, sinh lợi từ việc sử dụng đất. Và đất ở được Nhà nước giao cho hộ gia đình,
cá nhân sử dụng thuộc đất sử dụng ổn định, lâu dài, nghĩa là không có thời hạn giao
đất. Mặc dù, việc sử dụng đất trong trường hợp này không nhằm mục đích sinh lợi mà
chỉ đơn thuần là nhu cầu sinh sống cơ bản của con người nhưng vẫn phải trả tiền sử
dụng đất, điều này nhìn qua có vẻ vô lý. Tuy nhiên, ta cần đặt quy định này trong tổng
thể các quy định của pháp luật đất đai, cụ thể, cần phải xem xét thêm cả những quy
định về các trường hợp được miễn, giảm tiền sử dụng đất. Trong đó có những trường
hợp, đất ở được giao có thu tiền sử dụng đất nhưng được giảm, thậm chí miễn tiền sử
dụng đất. Điều này, bảo đảm sự công bằng giữa các đối tượng, đáp ứng nhu cầu về chỗ
ở và những điều kiện sống thiết yếu mà vẫn nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc sử
dụng đất ở được giao đối với hộ gia đình, cá nhân.
2.2.3.2. Tổ chức kinh tế.
Theo khoản 2, 4 – Điều 55 – Luật đất đai năm 2013 thì tổ chức kinh tế được Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong hai trường hợp sau :
- Thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê.
- Thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử
dụng đất gắn với hạ tầng.
Dễ thấy, đất được giao cho tổ chức kinh tế sử dụng vào mục đích đầu tư để thu lợi
nhuận, vì vậy nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong trường hợp này là hoàn
toàn hợp lý. Một mặt, khẳng định giá trị của quyền sử dụng đất, nâng cao ý thức trách
nhiệm của tổ chức kinh tế trong việc sử dụng đất tránh việc bỏ hoang dự án, dự án
“treo” gây lãng phí tài nguyên đất. Mặt khác, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước,
tạo vốn đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho kinh tế, xã hội
phát triển.
Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2013 bổ sung quy định tổ chức kinh tế được Nhà nước
giao đất có thu tiền sử dụng đất thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa
để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng. Quy định này của Luật Đất đai
34
năm 2013 đã thể hiện tính thời sự cao. Nếu như trong Luật Đất đai năm 2003, đất làm
nghĩa trang nghĩa địa là đối tượng thuộc nhóm được giao đất không thu tiền sử dụng
đất - quy định này đã gây khó khăn khi giải quyết thực tiễn là có những dự án đầu tư
hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng xuất hiện trong thời gian gần đây thì
phải xử lý nghĩa vụ tài chính về đất đai với Nhà nước như thế nào? Nói khác đi, đầu tư
hạ tầng để kinh doanh thì không lẽ được ưu ái không thu tiền sử dụng đất. Nhà nước
đều phải công bằng với các tổ chức kinh tế khi sử dụng đất vào mục đích kinh doanh
kể cả đầu tư xây dựng công trình công cộng có mục đích kinh doanh. Do đó, Luật Đất
đai năm 2013 đã chia đất làm nghĩa trang, nghĩa địa thành 2 nhóm có địa vị pháp lý đất
đai khác nhau là: Nghĩa trang, nghĩa địa thông thường và dự án đầu tư hạ tầng nghĩa
trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng là nhằm giải
quyết vướng mắc trên.[8]
2.2.2.3. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
Theo khoản 3 – Điều 55 – Luật đất đai năm 2013 thì Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được giao đất có thu tiền sử dụng
đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê.
So với Luật đất đai năm 2003 thì Luật Đất đai năm 2013 bổ sung quy định doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất có thu
tiền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp
cho thuê. Quy định này thể hiện cách nhìn mới mẻ của pháp luật đối với chủ thể có
vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tham gia vào nền kinh tế Việt Nam, thu hút đầu tư và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp
kêu gọi vốn đầu tư ở nước ngoài.
Ngoài ra, pháp luật Việt Nam đã dùng hai công cụ khác để rà soát đối tượng sử
dụng đất: Công cụ thứ nhất là quy định của Luật Đất đai về điều kiện giao đất, cho
thuê đất để thực hiện dự án đầu tư, công cụ thứ hai là Luật Nhà ở. Công cụ thứ nhất
nhằm bảo đảm cho việc triển khai dự án đầu tư có sử dụng đất khả thi, đạt hiệu quả
cao. Công cụ thứ hai để điều chỉnh đối tượng trực tiếp sử dụng tài sản trên đất gắn liền
35
với đất, vì thực chất đây mới là đối tượng sử dụng đất, nhà đầu tư chỉ sử dụng đất
trong giai đoạn triển khai dự án mà thôi chứ không phải người sử dụng đất thực sự.[8]
2.2.4. Quy định về thẩm quyền giao đất
“Điều 59. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức;b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo;c)
Giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 55 của Luật này;d) Cho thuê đất đối với
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo
quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 56 của Luật này;đ) Cho thuê đất đối với tổ
chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:a) Giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ
gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử
dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có
văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước khi quyết định;b) Giao đất
đối với cộng đồng dân cư.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục
đích công ích của xã, phường, thị trấn.
4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được ủy quyền.”
Giao đất là hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền và được pháp
chế hóa qua các quy định của pháp luật, cụ thể:
UBND cấp Tỉnh có thẩm quyền giao đất có thu tiền sử dụng đất trong các trường hợp
sau:
36
Tổ chức kinh tế được giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán
hoặc để bán kết hợp cho thuê; dự án hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng
quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp
cho thuê.
Trong khi đó: UBND cấp Huyện có thẩm quyền giao đất có thu tiền sử dụng đất trong
trường hợp: Hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở.
Lưu ý rằng: các cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất trên không được uy
quyền.
Theo quy định trên, với các trường hợp giao đất mà đối tượng là tổ chức kinh tế, cá
nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài mà mục đích sử dụng đất của các đối tượng này là đầu tư nhằm mục đích kinh
doanh, đều thuộc thẩm quyền giao đất của UBND cấp Tỉnh. Bởi lẽ, những trường hợp
này hồ sơ xin giao đất thường bao gồm nhiều loại giấy tờ phức tạp với những nội dung
cần thẩm định không đơn giản và chúng thường là những dự án đầu tư với quy mô
nhất định có tác động và ảnh hưởng đáng kể đến kinh tế vùng. Do đó, cần một cấp
hành chính cao hơn cấp huyện với đội ngũ cán bộ chuyên môn và có khả năng thẩm
định chính xác hơn để xem xét phê duyệt và quyết định giao đất. Ngược lại, UBND
cấp Huyện được trao thẩm quyền giao đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân. Đây là
những trường hợp xin giao đất đơn giản, dễ xem xét thẩm định thực địa và mang tính
chất địa phương nên việc giao cho UBND Huyện có thẩm quyền quyết định là hoàn
toàn hợp lý.
So với Luật đất đai năm 2003 thì Luật đất đai năm 2013 bổ sung quy định đối với
trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất để sử dụng vào mục đích thương mại,
dịch vụ với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có thêm văn bản chấp thuận của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, khi đó Ủy ban nhân dân cấp huyện mới được ra quyết định theo
thẩm quyền.
37
Trước đây, theo Luật Đất đai năm 2003, chủ thể có thẩm quyền giao đất, cho thuê
đất sẽ ra quyết định giao và cho thuê theo đối tượng sử dụng đất đúng với thẩm quyền
của mình chứ không quy định về hạn mức đất các cấp có thẩm quyền được giao, cho
thuê. Những quy định về giới hạn thẩm quyền giao đất, cho thuê đất thường do Ủy ban
nhân dân tỉnh ra quyết định. Nay, Luật Đất đai năm 2013 đưa quy định về giới hạn
thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của UBND cấp huyện vào Luật để đảm bảo sự đồng
bộ trong cả nước về thẩm quyền giao và cho thuê đất của UBND cấp huyện, phù hợp
với năng lực quản lý của từng cấp. Nhưng đây cũng sẽ là gánh nặng cho cơ quan
chuyên ngành cấp tỉnh.[8]
2.2.5. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về
giao đất có thu tiền sử dụng đất
2.2.5.1. Quyền và nghĩa vụ của Nhà nước trong giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Quyền của đại diện chủ sở hữu về đất đai:
Nhà nước với những đặc trưng vốn có của mình, là thiết chế trung tâm của hệ
thống chính trị, là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực nhân dân dưới hình thức
dân chủ đại diện. Vì vậy, Nhà nước là thiết chế đại diện cho nhân dân (chủ sở hữu duy
nhất đối với đất đai ở nước ta) thực hiện quyền chủ sở hữu đối với đất đai. Điều này có
ý nghĩa hết sức quan trọng vì Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu về đất đai tuy
nhiên lại không trực tiếp sử dụng đất đai. Với tư cách là người đại diện chủ sở hữu
toàn dân về đất đai, Nhà nước thực hiện các quyền năng trong hoạt động giao đất có
thu tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 13 – Luật đất đai năm 2013 như sau:
Quyền định đoạt đối với đất đai, gồm có: Quyết định mục đích sử dụng đất (thông
qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất); Quy định về hạn
mức giao đất và thời hạn sử dụng đất; Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; Định giá đất.
Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính
sách tài chính về đất đai, như: Thu tiền sử dụng đất; Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ
đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại.
38
Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất và quy định quyền, nghĩa
vụ của người sử dụng đất. Các cá nhân, tổ chức không có quyền sở hữu đất mà chỉ có
quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất của các chủ thể này được xác lập do được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng. Người có quyền sử dụng
đất, tuy không có quyền sở hữu đối với đất nhưng trong những trường hợp nhất định
cũng có các quyền năng như: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng
quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.[7]
Nghĩa vụ (trách nhiệm) của Nhà nước đối với đất đai:
Bên cạnh việc thực hiện các quyền năng với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn
dân đối với đất đai thì Nhà nước cũng có những trách nhiệm phải thực hiện trong công
tác thống nhất quản lý đất đai của mình, đặc biệt trong hoạt động giao đất có thu tiền
sử dụng đất theo quy định tại Mục 2, Chương 2 – Luật đất đai năm 2013 như sau:“Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện văn
bản đó; Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập
bản đồ hành chính; Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng
đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây
dựng giá đất; Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Quản lý việc giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; Xây dựng hệ thống thông tin đất
đai; Quản lý tài chính về đất đai và giá đất; Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất; Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc
chấp hành quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
Bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất; Trách nhiệm của Nhà nước về đất
ở, đất sản xuất nông nghiệp đối với đồng bào dân tộc thiểu số; Trách nhiệm của Nhà
nước trong việc xây dựng, cung cấp thông tin đất đai”. Việc quy định trách nhiệm của
Nhà nước đối với đất đai nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất; bảo vệ và điều tiết các lợi ích gắn liền với đất đai và quan trọng nhất là bảo vệ chế
độ sở hữu về đất đai. Bởi lẽ, bên cạnh quyền năng của đại diện chủ sở hữu đối với đất
đai thì Nhà nước cũng đồng thời cần mang theo mình những nghĩa vụ để thực hiện tốt
39
vai trò thống nhất quản lý về đất của mình. Tạo cơ sở, nền tảng cho sự công bằng, hài
hòa lợi ích giữa NSDĐ và Nhà nước – chủ thể đại diện cho toàn dân thực hiện quyền
của chủ sở hữu đối với đất đai.
So với Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 đã có sự thay đổi cơ bản về
cách thức tiếp cận quyền của đại diện chủ sở hữu về đất đai. Có thể thấy, quyền của
Nhà nước với vai trò đại diện chủ sở hữu đất đai trong Luật đất đai năm 2003 đã được
đề cập tại Điều 5 nhưng chưa thực sự được hệ thống một cách khoa học, còn các nội
dung tại Điều 6 về quản lý nhà nước về đất đai dường như mang ý nghĩa là Nhà nước
có quyền thực hiện các hoạt động đó hơn là việc Nhà nước có trách nhiệm phải thực
hiện các hoạt động đó. Do vậy, mặc dù các quy định nội hàm gần như không thay đổi
nhưng Luật đất đai năm 2013 đã đưa ra được một cách tiếp cận rõ ràng, minh bạch khi
đề cập đến chủ thể Nhà nước: một mặt, Nhà nước có những quyền năng với vai trò là
đại diện cho chủ sở hữu toàn dân (mục 1 Chương II), mặt khác, Nhà nước cũng có
những trách nhiệm cần phải thực hiện (mục 2 Chương II) trong công tác quản lý đất
đai của mình.[27]
2.2.5.2. Quyền và nghĩa vụ của NSDĐ trong giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Là đại diện chủ sở hữu toàn bộ đất đai trên phạm vi cả nước, có đầy đủ quyền năng
của một chủ sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà
giao một phần đất đai của mình cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đồng
thời quy định cho họ các quyền và gánh vác những nghĩa vụ nhất định trong quá trình
sử dụng đất như những điều khoản của hợp đồng giữa Nhà nước và NSDĐ. Tuy nhiên,
chỉ khác là chúng được quy định trong các quy phạm pháp luật và mang tính mệnh
lệnh – phục tùng. Việc quy định các quyền và nghĩa vụ này một mặt thể hiện ý chí của
Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu về đất đai, mặt khác thừa nhận trách nhiệm
quản lý đất đai, đảm bảo đối với NSDĐ của mình; là cơ sở pháp lý để NSDĐ tuân thủ,
yên tâm khai thác tài nguyên đất nhằm sử dụng vốn đất một cách hợp pháp, tiết kiệm
đạt hiệu quả kinh tế cao. Đối tượng được nhà nước giao đất nói chung và giao đất có
thu tiền sử dụng đất nói riêng ngoài những quyền và nghĩa vụ theo hình thức giao đất
thì họ đương nhiên có những quyền và nghĩa vụ chung của NSDĐ. Cụ thể như sau:
40
Quyền và nghĩa vụ chung của NSDĐ được quy định tại Điều 166, 170 – Luật đất đai
năm 2013 như sau:
“Điều 166. Quyền chung của người sử dụng đất
1. Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất; 2. Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; 3. Hưởng các
lợi ích do công trình của Nhà nước phục vụ việc bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; 4.
Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp; 5.
Được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai
của mình; 6. Được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật này;
7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp
của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.”
“Điều 170. Nghĩa vụ chung của người sử dụng đất
1. Sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ
sâu trong lòng đất và chiều cao trên không, bảo vệ các công trình công cộng trong
lòng đất và tuân theo các quy định khác của pháp luật có liên quan; 2. Thực hiện kê
khai đăng ký đất đai; làm đầy đủ thủ tục khi chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật; 3. Thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của
pháp luật; 4. Thực hiện các biện pháp bảo vệ đất; 5. Tuân theo các quy định về bảo vệ
môi trường, không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất có liên
quan; 6. Tuân theo các quy định của pháp luật về việc tìm thấy vật trong lòng đất;7.
Giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất, khi hết thời hạn sử dụng đất mà
không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền gia hạn sử dụng.”
Quyền của các đối tượng khi được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Ngoài những quyền và nghĩa vụ chung được trình bày trên đây thì các đối tượng được
nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất còn có những quyền riêng được quy định
trong các Điều 174, 179, 183 – Luật đất đai năm 2013. Nhìn chung thì các quyền này
bao gồm:Thứ nhất, quyền chuyển nhượng QSDĐ, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn
liền với đất. Thứ hai, cho thuê QSDĐ, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất.
41
Thứ ba, tặng cho QSDĐ cho Nhà nước hoặc để phục vụ lợi ích chung của cộng đồng
theo quy định của pháp luật. Thứ tư, thế chấp QSDĐ, tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất. Thứ năm, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của
mình gắn liền với đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, NSDĐ là cá nhân, hộ gia đình (trường hợp này được Nhà nước giao đất
có thu tiền sử dụng đất và được sử dụng ổn định lâu dài) còn có quyền để lại thừa kế
QSDĐ theo quy định của pháp luật và trong “trường hợp đất thuộc diện thu hồi để
thực hiện dự án thì có quyền tự đầu tư trên đất hoặc cho chủ đầu tư dự án thuê quyền
sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với chủ đầu tư dự án để thực hiện dự án
theo quy định của Chính phủ”[16]
Tuy nhiên, để được thực hiện các quyền kể trên thì NSDĐ phải thỏa mãn những
điều kiện cơ bản sau: có giấy chứng nhận hoặc giấy tờ có giá trị tương đương theo quy
định của pháp luật; đất không có tranh chấp; QSDĐ không bị kê biên để bảo đảm thi
hành án và trong thời hạn sử dụng đất.[16]
Có thể dễ dàng nhận thấy, các trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất có phạm vi quyền rộng hơn so với trường hợp được nhà nước giao đất không
thu tiền sử dụng đất. Cụ thể thì những trường hợp được nhà nước giao đất không thu
tiền sử dụng đất ngoài quyền và nghĩa vụ chung đối với NSDĐ thì những trường hợp
này không có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng
đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; không được bồi thường về đất khi Nhà
nước thu hồi đất. Sở dĩ có quy định như vậy vì trong trường hợp này việc giao đất
không đem lại tài chính cho Nhà nước, đồng thời đối tượng được giao cũng không
nhằm mục đích sinh lời từ việc sử dụng đất mà chỉ nhằm vào mục đích công cộng hoặc
đơn thuần là yếu tố thiết yếu cho cuộc sống ví dụ như trường hợp giao đất nông nghiệp
để trực tiếp sản xuất trong hạn mức.
So với Luật đất đai năm 2003 thì Luật Đất đai năm 2013 được hoàn thiện theo
hướng quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của từng đối tượng sử dụng đất phù hợp
với hình thức giao đất, thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất và quy định các điều
kiện khi người sử dụng đất thực hiện các quyền của người sử dụng đất. Có thể nhận
42
thấy các quy định của Luật đất đai năm 2013 về vấn đề này đã khá hoàn thiện chưa
bộc lộ hạn chế hay bất cập lớn nào cho đến thời điểm hiện tại. Điều này càng cho thấy,
Nhà nước đã ngày một quan tâm và nâng cao công tác quản lý đất đai, trách nhiệm bảo
đảm của Nhà nước đối với NSDĐ.
2.2.6. Quy định về tiền sử dụng đất trong các trường hợp giao đất có thu tiền sử
dụng đất
Theo điểm a – Khoản 1 – Điều 107 và khoản 3 – Điều 170 – Luật đất đai năm 2013
thì đối tượng được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ
tài chính đối với Nhà nước đó là phải nộp cho Nhà nước tiền sử dụng đất.
Các căn cứ và thời điểm để xác định tiền sử dụng đất khi được Nhà nước giao đất
được quy định tại khoản 1,3 – Điều 108 – Luật đất đai năm 2013 như sau:
“Điều 108. Căn cứ, thời điểm tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
1. Căn cứ tính tiền sử dụng đất:a) Diện tích đất được giao, được chuyển mục đích sử
dụng, được công nhận quyền sử dụng đất;b) Mục đích sử dụng đất;c) Giá đất theo quy
định tại Điều 114 của Luật này; trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất thì giá đất là
giá trúng đấu giá.
3. Thời điểm tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất là thời điểm Nhà nước quyết định
giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử
dụng đất.”
Căn cứ vào các quy định trên, tiền sử dụng đất là số tiền mà NSDĐ phải trả cho
Nhà nước khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất... (theo khoản 20 – Điều 3 –
Luật đất đai năm 2013). Đây là nghĩa vụ tài chính của NSDĐ, khoản tiền này được xác
định dựa trên: diện tích đất được giao; mục đích sử dụng đất và giá đất (trừ trường hợp
đấu giá quyền sử dụng đất). Và thời điểm tính tiền SDĐ là thời điểm Nhà nước quyết
định giao đất cho NSDĐ. Sau đây là các cách xác định tiền SDĐ theo hai trường hợp:
giao đất cho thu tiền SDĐ không thông đấu giá quyền sử dụng đất và thông qua đấu
giá QSDĐ.
2.2.5.1. Xác định tiền sử dụng đất khi nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không
thông đấu giá quyền sử dụng đất.
43
Theo khoản 2 – Điều 4 – Nghị định 45/2014/NĐ-CP: “Quy định về thu tiền sử
dụng đất”. Ta có:“Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có
thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất thì tiền sử dụng đất
phải nộp được xác định theo công thức sau:
Tiền sử Tiền bồi
dụng đất thường, Giá đất tính Diện tích được giảm giải phóng Tiền sử thu tiền sử đất phải nộp theo quy mặt bằng dụng đất = dụng đất theo x - - tiền sử dụng định tại được trừ phải nộp mục đích sử đất Điều 12 vào tiền sử dụng đất Nghị định dụng đất
này (nếu có) (nếu có)
Trên đây là công thức tính tiền SDĐ khi giao đất có thu tiền SDĐ không thông qua
đấu giá QSDĐ. Trong đó, giá đất tính tiền SDĐ tùy vào trường hợp giao đất để xác
định căn cứ theo khoản 3 Điều 3 của Nghị định 45/2014/NĐ-CP: cụ thể, giá đất theo
bảng giá đất được áp dụng khi Nhà nước giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân trong hạn
mức; còn giá đất cụ thể được áp dụng khi Nhà nước giao đất ở cho hộ gia đình, cá
nhân vượt hạn mức và các trường hợp còn lại. Giá đất cụ thể được tính dựa trên các
phương pháp: so sánh trực tiếp; chiết trừ; thu thập; thặng dư hoặc theo phương pháp hệ
số điều chỉnh (UBND cấp Tỉnh quy định hệ số điều chỉnh giá đất hàng năm) theo quy
định của Nhà nước. Có thể thấy, các quy định trong việc xác định giá đất tính tiền
SDĐ theo Luật đất đai 2013 một mặt thể hiện được tính thị trường hóa giá trị QSDĐ,
mặt khác, đã tính đến mục đích sử dụng đất đối với từng trường hợp và cân bằng
quyền lợi giữa các chủ thể.
2.2.5.2. Xác định tiền sử dụng đất khi nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất theo
hình thức đấu giá quyền sử dụng đất.
Theo khoản 1 – Điều 4 – Nghị định 45/2014/NĐ-CP: “Quy định về thu tiền sử
dụng đất”. Ta có:
44
“Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất thì tiền sử dụng đất được tính bằng
diện tích đất có thu tiền sử dụng đất nhân (x) với giá đất trúng đấu giá của mục đích
sử dụng đất đấu giá.”
Như vậy, tiền sử dụng đất khi giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức
đấu giá quyền sử dụng đất được xác định dựa vào giá đất trúng đấu giá và diện tích đất
được giao.
Ưu điểm:
So với Luật đất đai năm 2003 thì về tài chính đất đai, nội dung mục này ở Luật đất
đai năm 2013 cơ bản được giữ nguyên, có bổ sung một số nội dung về căn cứ, thời
điểm tính tiền sử dụng đất; bổ sung việc miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với trường
hợp thực hiện chính sách nhà ở, đất ở đối với người có công với nhà nước, hộ gia đình
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, vùng biên giới, hải đảo…
Về giá đất, Luật Đất đai năm 2013 có 05 Điều (từ Điều 112 đến Điều 116) quy
định về giá đất. Cụ thể, về nguyên tắc định giá đất, việc định giá đất phải bảo đảm 4
nguyên tắc, trong đó bổ sung mới 02 nguyên tắc và chỉnh sửa 01 nguyên tắc, đó là:
theo thời hạn sử dụng đất; phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có
cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối
với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất; cùng
một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh lợi,
thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau.[16] Về giá
đất, Luật Đất đai năm 2003 chưa quy định việc xác định giá đất cụ thể, vì thế trong
quá trình vận hành không những gây thất thu cho ngân sách nhà nước mà còn là
nguyên nhân phát sinh khiếu nại của người bị thu hồi đất do giá đất tính thu tiền sử
dụng đất, thu tiền thuê đất, giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đều áp
dụng theo bảng giá đất mà mức giá đất trong bảng giá luôn luôn thấp do không theo
kịp với giá thị trường. Vì vậy, Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung quy định về việc xác
định và áp dụng giá đất cụ thể nhằm loại bỏ hạn chế trên. Bên cạnh đó, Luật Đất đai
45
năm 2003 chưa quy định khung pháp lý về hoạt động tư vấn giá đất và điều kiện hành
nghề tư vấn giá đất, đã tạo nên khoảng trống trong lĩnh vực này, làm phát sinh nhiều
vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức thi hành Luật Đất đai. Khắc phục hạn chế
nêu trên, Luật Đất đai năm 2013 đã dành 02 điều quy định các trường hợp tư vấn giá
đất được thực hiện, điều kiện hoạt động tư vấn giá đất và hành nghề tư vấn giá đất,
quyền và nghĩa vụ của tổ chức tư vấn có chức năng tư vấn xác định giá đất, đặc biệt
Luật còn quy định giá đất tư vấn xác định là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định giá đất.
Bất cập và hạn chế trong các quy định xác định giá đất, tiền sử dụng đất tại Luật
đất đai năm 2013:
Các quy định về xác định tiền sử dụng đất khi nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất không thông qua đấu giá QSDĐ:
1. Giá đất tính tiền sử dụng đất:
Nguyên tắc định giá đất:
Tại điểm c khoản 1 Điều 112 Luật đất đai năm 2013 quy định: Việc định giá đất
phải đảm bảo nguyên tắc “phù hợp với giá phổ biến trên thị trường”. Về hình thức ta
thấy, nguyên tắc định giá đất “sát với giá thị trường” của Luật đất đai năm 2003 đã
được thay thế bằng thuật ngữ “phù hợp với giá phổ biến trên thị trường” theo Luật đất
đai năm 2013. Thật ra, thuật ngữ này cũng chỉ là một khái niệm tương đương mà
không có sự thay đổi về bản chất của nguyên tắc định giá đất và chúng thực sự không
giải quyết được một cách thỏa đáng vấn đề tồn dọng trong thời gian qua khi áp dụng
quy định về giá đất trong Luật đất đai năm 2003. Cụ thể, trong quá trình thực thi Luật
đất đai năm 2003, nhiều nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, cộng đồng doanh
nghiệp và đa số người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ tài chính của mình trước Nhà
nước thường đặt câu hỏi: thế nào là giá đất Nhà nước “sát” với giá thị trường? Tiêu chí
nào để xác định được giá đất Nhà nước đã sát hoặc chưa sát với giá thị trường làm cơ
sở áp dụng hay từ chối việc áp dụng giá đất Nhà nước trong quá trình điều tiết các
quan hệ đất đai? Những câu hỏi này không có chuẩn mực pháp lý nào thỏa đáng.
46
Để giải quyết những băn khoăn, thắc mắc về vấn đề nêu trên, Luật đất đai năm
2013 đã thay đổi thuật ngữ “sát” bằng thuật ngữ “phù hợp”. Sự thay đổi này không
hoàn toàn làm cho giới nghiên cứu và người dân, doanh nghiệp khỏi hồ nghi về một
nguyên tắc đúng đắn, chính xác và minh bạch khi Nhà nước định giá đất. Chúng cũng
không thoát khỏi tính trừu tượng, mơ hồ bởi không thể xác định như thế nào là ““phù
hợp với giá phổ biến trên thị trường”, vì “phù hợp” là một thuật ngữ mang tính chất
định tính, rất khó xác định nội hàm cụ thể. Trong khi đó, việc định giá đất đòi hỏi phải
quy định rất cụ thể với nội dung định lượng rõ ràng, chuẩn xác về tỉ lệ %. Với quy
định như vậy, người ta có quyền đặt câu hỏi: như thế nào là giá đất phổ biến trên thị
trường? Tiêu chí để xác định tính phù hợp giữa giá đất của Nhà nước với giá đất trên
thị trường là gì? Dù rằng hiện nay tại khoản 3, Điều 3 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP
quy định về giá đất đã định nghĩa: “Giá đất phổ biến trên thị trường là mức giá xuất
hiện với tần suất nhiều nhất trong các giao dịch đã chuyển nhượng trên thị trường”.
Tuy nhiên, câu hỏi mà chúng ta băn khoăn thì vẫn chưa có lời giải.
Chính sự “mù mờ” trong nguyên tắc định giá này là hệ lụy cho những tham nhũng,
thất thoát lớn và tiêu cực trong lĩnh vực đất đai, đặc biệt là trong vấn đề giao đất có thu
tiền sử dụng đất cũng như cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.[19]
Cơ sở định giá đất:
Cũng tại điểm c khoản 1 Điều 112 Luật đất đai năm 2013 quy định, việc định giá
đất phải đảm bảo nguyên tắc: “Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại
đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất
đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất”.
Với nguyên tắc này cho thấy, để định giá đất, các cơ quan định giá đất hay tổ chức tư
vấn định giá đất được Nhà nước cho phép hoạt động khi định giá phải dựa trên ba cơ
sở sau đây:
Một là, định giá đất dựa trên cơ sở giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có
cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng. Theo đó, giá đất phổ biến trên thị trường
theo khoản 3 Điều 3 Nghị định 44/2014/NĐ-CP là “mức giá xuất hiện với tần suất
nhiều nhất trong các giao dịch đã chuyển nhượng trên thị trường”. Với quy định này
47
có thể hiểu, các cơ quan chức năng khi định giá đất sẽ phải rà soát, thống kê và đánh
giá về tình hình chuyển nhượng quyền sử dụng đất diễn ra trên thị trường của người
dân, doanh nghiệp tại địa bàn mà Nhà nước đang tiến hành định giá đất. Sự rà soát,
thống kê đó của các cơ quan chức năng sẽ chú trọng tới giá chuyển nhượng được ghi
trong các văn bản, giấy tờ của các chủ thể tham gia vào giao dịch chuyển nhượng được
lưu giữ tại các cơ quan. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng Nhà nước sẽ không bao giờ
có được con số chính xác và trung thực về giá trị giao dịch thực có của QSDĐ trên thị
trường, bởi trên thực tế không chủ thể nào chịu ghi giá trị thực của giao dịch trong hồ
sơ tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà thường ghi giá trị chuyển nhượng thấp hơn
nhiều lần hoặc cùng lắm là bằng mức tối thiểu của khung giá đất nhà nước để giảm trừ
thuế thu nhập và thuế trước bạ. Do vậy, nhưng con số này không thể cơ sở để cơ quan
định giá đất dựa vào khi xây dựng bảng khung giá đất và giá đất cụ thể áp dụng trên
địa bàn đó.
Hai là, định giá đất dựa trên cơ sở giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với
những nơi có đấu giá QSDĐ. Với cơ sở này cũng không cho thấy tính chính xác và
khả quan của công tác định giá đất, bởi trên thực tế việc tổ chức bán đấu giá QSDĐ ở
nước ta thời gian qua diễn ra thiếu sôi động, quỹ đất đưa ra đấu giá ít, nhiều lô đất
không có người tham gia đấu giá hoặc đấu giá không thành. Mặt khác, hoạt động đấu
giá cũng đa số tập trung ở các khu đô thị mới, khu cận trung tâm, không mang tính phổ
biến và trải rộng khắp các địa bàn, khu vực. Vì vậy, chúng không đủ minh bạch và
đáng tin cậy để các cơ quan chức năng dựa vào đó định hướng việc định giá đất cho
Nhà nước.
Ba là, định giá đất dựa trên cơ sở thu nhập từ việc sử dụng đất. Quy định này thiếu
cơ sở khoa học và thực tế, bởi sẽ không ai có thể xác định đúng, đủ và chuẩn xác về
thu nhập của chủ thể sử dụng đất trên một diện tích đất. Cùng một diện tích đất song
với chủ thể sử dụng khác nhau, với khả năng khai thác khác nhau và năng lực tài chính
để đầu tư vào đất đó khác nhau sẽ cho thu nhập khác nhau. Vì vậy sẽ không có thu
nhập đồng loạt giống nhau để làm cơ sở cho việc tham khảo của các cơ quan định giá
đất.
48
Với thực trạng nêu trên về giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường,
về giá trúng đấu giá hay thu nhập từ quyền sử dụng đất đều cho thấy còn khá nhiều bất
cập, tồn tại.
Giá đất tính tiền sử dụng đất:
Điều 3 Nghị định 45/2014/NĐ-CP và Điều 3 Thông tư số 76/2014/TT-BTC quy
định: “Trường hợp Nhà nước giao đất mà diện tích tính tiền sử dụng đất của thửa đất
hoặc khu đất có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) từ 30 tỷ đồng trở lên đối
với các thành phố trực thuộc Trung ương; từ 10 tỷ đồng trở lên đối với các tỉnh miền
núi, vùng cao; từ 20 tỷ đồng trở lên đối với các tỉnh còn lại, thì giá đất tính thu tiền sử
dụng đất là giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh quyết định, được xác định
theo các phương pháp: so sánh trực tiếp, chiết trừ, thu nhập, thặng dư;(việc lựa chọn
phương pháp áp dụng tùy thuộc vào điều kiện của từng phương pháp quy định tại
Điều 5 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP và thông tin thu thập về thửa đất và khu vực
đánh giá.
Trường hợp Nhà nước giao đất mà diện tích tính tiền sử dụng đất của thửa đất hoặc
khu đất có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) dưới 30 tỷ đồng đối với các
thành phố trực thuộc Trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng
cao; dưới 20 tỷ đồng đối với các tỉnh còn lại thì giá đất tính thu tiền sử dụng đất được
xác định bằng bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh quy định tại Bảng giá đất
nhân với hệ số điều chỉnh giá đất.”
Hệ số điều chỉnh giá đất để xác định giá đất tính thu tiền sử dụng đất do Sở Tài
chính chủ trì xác định theo từng khu vực, tuyến đường, vị trí, tương ứng với từng mục
đích sử dụng đất, phù hợp với thị trường và điều kiện phát triển kinh tế, xã hội tại địa
phương và trình Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh ban hành hàng năm.[21] Trường hợp một
số vị trí đất dự án trong cùng một khu vực, tuyến đường có hệ số sử dụng đất (mật độ
xây dựng, chiều cao công trình) khác với mức bình quân chung của khu vực, tuyến
đường đó thì Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh quy định hệ số điều chỉnh giá đất để tính thu
tiền sử dụng đất đối với các trường hợp này và quy định cụ thể trong Quyết định ban
hành hệ số điều chỉnh giá đất của địa phương.
49
Có thể nhân thấy, trường hợp áp dụng hệ số điều chỉnh giá bán hàng năm nêu trên
chưa thật công bằng và hợp lý. Bởi việc giao đất ở những thời điểm khác nhau trong
năm nhưng lại tính một đơn vị giá; hơn nữa, nếu giá đất áp dụng theo phương pháp hệ
số điều chỉnh giá thấp hơn nhiều so với giá đất cụ thể theo các phương pháp còn lại sẽ
tạo cơ hội cho chủ đầu tư chia nhỏ dự án để xin giao các khu đất giá trị nhỏ (dưới 30 tỷ
đồng đối với các thành phố trực thuộc Trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh
miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với các tỉnh còn lại) và nộp tiền theo đơn giá
xác định bởi phương pháp hệ số điều chỉnh nhằm hưởng chênh lệch.
2. Miễn, giảm tiền SDĐ đối với tổ chức kinh tế:
Thứ nhất, quy định miễn, giảm chưa rõ ràng, gây khó khăn trong áp dụng. Cụ thể,
khoản 1 Điều 16 Thông tư 76/2014/TT-BTC quy định, trường hợp tổ chức kinh tế
chuyển nhượng QSDĐ đối với diện tích đất đã được miễn, giảm thì phải nộp số tiền
SDĐ đã được miễn, giảm cho Nhà nước; số tiền SDĐ được ghi tại Quyết định này sẽ
được tính lại theo quy định của pháp luật tại thời điểm chuyển nhượng. Quy định này
được hiểu, chỉ khi thực hiện chuyển nhượng thì tổ chức kinh tế mới có nghĩa vụ nộp
lại khoản tiền SDĐ được miễn, giảm. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với trường hợp
doanh nghiệp được miễn, giảm tiền SDĐ và đã thế chấp phần đất đó, nay không có
khả năng trả nợ nên bị bán đấu giá để thu hồi nợ đối với phần đất được miễn, giảm thì
có áp dụng điều khoản trên? Theo công văn số 856/TCT-CS ngày 4/3/2016 của Tổng
cục Thuế, doanh nghiệp phải nộp lại tiền SDĐ đã được miễn, giảm và được xác định
lại tại thời điểm trúng đấu giá. Như vậy, thuật ngữ “chuyển nhượng” tại khoản 1 Điều
16 Thông tư 76/2014/TT-BTC không chỉ đơn thuần là chuyển nhượng.
Thứ hai, chưa có chính sách giảm tiền SDĐ để khuyến khích các doanh nghiệp nộp
đúng, đủ tiền SDĐ. Đối với hộ gia đình, cá nhân, pháp luật đưa ra rất nhiều trường hợp
được miễn, giảm và thậm chí là ghi nợ tiền sử dụng đất, nhưng đối với tổ chức kinh tế
thì còn hạn chế.
Trước đây, Điều 14 Nghị định số 38/2000/NĐ-CP quy định, NSDĐ nộp đủ tiền
SDĐ một lần theo thông báo của cơ quan thuế thì được giảm 20% tiền SDĐ phải nộp.
Hiệu quả của việc giảm tiền SDĐ khi nộp đủ một lần đã được minh chứng ở Đà Nẵng
50
trong thời gian qua.[13] Chính vì vậy, cần ban hành quy định về giảm tiền sử dụng đất
nhằm khắc phục tình trạng nợ đọng hiện nay.
Các quy định về xác định tiền sử dụng đất khi nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ
thông qua đấu giá QSDĐ:
1. Phương pháp và thời điểm xác định giá khởi điểm:
Giá khởi điểm là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự thành công của buổi
đấu giá. Quan điểm chung của các địa phương là căn cứ vào quan hệ cung – cầu, vị trí,
địa thế khu đất, thửa đất, tình trạng đất để định giá khởi điểm.[14, 226] Hiện nay, giá
khởi điểm trong đấu giá QSDĐ được quy định tại Thông tư số 02/2015/TT-BTC: Giá
khởi điểm đấu giá QSDĐ = diện tích đất × Giá đất cụ thể. Như vậy, giá đất cụ thể
được sử dụng để xác định giá khởi điểm đấu giá QSDĐ, nhưng cơ sở pháp lý chưa
chặt chẽ. Cụ thể, khoản 2 Điều 15 Nghị định 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, có quy
định: giá đất cụ thể được dùng làm căn cứ xác định giá khởi điểm để đấu giá QSDĐ
khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất, trong khi Điều 114 – Luật đất đai năm 2013 lại
không có quy định nào về vấn đề này.
Bên cạnh đó, thời điểm xác định giá đất cụ thể vẫn chưa được pháp luật quy định
rõ ràng. Ở những thời điểm khác nhau, giá đất sẽ khác nhau. Thiếu quy định cụ thể về
thời điểm xác định giá khởi điểm có thể dẫn đến việc áp dụng khác nhau, gây khó
khăn trong hoạt động đấu giá QSDĐ.
Theo thông tư số 02/2015/TT-BTC, giá đất cụ thể dùng làm căn cứ tính giá khởi
điểm chỉ được xác định qua bốn phương pháp định giá: so sánh trực tiếp, chiết trừ, thu
nhập và thặng dư. Điều này thống nhất với quy định của Luật đất đai năm 2013 về giá
đất. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 10 Thông tư số 76/2014/TT-
BTC ngày 16/6/2014 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP thì
phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất có thể được áp dụng để xác định giá đất khởi
điểm. Điều này tạo nên sự bất cập trong phương pháp định giá khi xác định giá khởi
điểm.
Vấn đề xác định lại giá khởi điểm được quy định tại Điều 6 Thông tư số
02/2015/TT-BTC, nhưng việc xác định lại không được quy định cụ thể. Theo Điều 6
51
Thông tư số 48/2012/TT-BTC, trường hợp bán đấu giá không thành do giá khởi điểm
cao thì cơ quan đấu giá QSDĐ có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền cho xác
định lại giá khởi điểm, nhưng hiện nay Thông tư 02/2015/TT-BTC không quy định rõ
trường hợp nào sẽ xác định lại giá khởi điểm. Hơn nữa, việc xác định lại giá khởi điểm
với tỉ lệ giảm giá như thế nào cũng không được quy định, gây khó khăn cho quá trình
xác định lại giá khởi điểm.[29]
2. Thẩm quyền xác định giá khởi điểm:
Theo quy định tại thông tư số 02/2015/TT-BTC thì thẩm quyền quyết định giá khởi
điểm thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: căn cứ vào tình hình thực tế tại địa
phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền hoặc phân cấp cho giám đốc Sở
Tài chính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giá khởi điểm căn cứ trên
hồ sở trình của cơ quan tài chính (Sở Tài chính hoặc Phòng Tài chính – Kế hoạch).
Tuy nhiên, Điều 9 Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP ngày 04/4/2015
lại quy định, Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức xác định giá khởi điểm và chủ thể
có thẩm quyền phê duyệt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Như vậy, quy định về chủ thể
xác định giá khởi điểm và thẩm quyền phê duyệt giá khởi điểm đấu giá chưa thống
nhất.[29]
2.2.8. Quy định về thời hạn sử dụng đất trong các trường hợp giao đất có thu tiền
sử dụng đất
Đất sử dụng ổn định lâu dài:
Theo Điều 125 – Luật đất đai năm 2013 thì các loại đất được Nhà nước giao có thu
tiền sử dụng đất, mà đất được giao được sử dụng ổn định lâu dài bao gồm: Đất ở do hộ
gia đình, cá nhân sử dụng (khoản 1 – Điều 125 – Luật đất đai năm 2013) và Đất làm
nghĩa trang, nghĩa địa (khoản 10 – Điều 125 – Luật đất đai năm 2013).
Đất sử dụng có thời hạn:
Theo Điều 126 – Luật đất đai năm 2013 thì các loại đất được Nhà nước giao có thu
tiền sử dụng đất, mà đất được giao được sử dụng có thời hạn được quy định tại khoản
3 Điều này. Cụ thể: “Thời hạn giao đất… đối với …tổ chức để thực hiện các dự án
đầu tư; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
52
để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam được xem xét, quyết định trên cơ sở dự án
đầu tư hoặc đơn xin giao đất, thuê đất nhưng không quá 50 năm.
Đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê đất không quá 70
năm.
Đối với dự án kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp với cho thuê hoặc để
cho thuê mua thì thời hạn giao đất cho chủ đầu tư được xác định theo thời hạn của dự
án; người mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất được sử dụng đất ổn định lâu dài.
Khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được Nhà
nước xem xét gia hạn sử dụng đất nhưng không quá thời hạn quy định tại khoản này.”
Theo đó, thời hạn Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu
tư là không quá 50 năm, trừ trường hợp dự án đầu tư có thời gian thu hồi vốn chậm
hoặc khu vực đầu tư có điều kiện kinh tế khó khăn thì thời hạn này là không quá 70
năm. Đặc biệt, để thống nhất giữa các quy định pháp luật và phù hợp với thực tiễn của
hoạt động kinh doanh BĐS, đối với những dự án kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán
kết hợp cho thuê thì thời hạn giao đất cho chủ đầu tư được xác định theo thời hạn của
dự án và người mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất được sử dụng đất ổn định
lâu dài.
Việc quy định thời hạn sử dụng đất nhằm
+ Khẳng định rõ ràng ranh giới giữa nhà nước và người sử dụng đất, tạo điều kiện
để nhà nước thực hiện công tác quản lý về đất đai tốt hơn.
+ Tạo tâm lý yên tâm cho người sử dụng đất bởi việc quy định rõ thời hạn khi giao
đất giúp người sử dụng đất dễ dàng lập kế hoạch đầu tư đúng đắn thu được hiệu quả
cao nhất.
+ Là cơ hội cho người sử dụng đất vay vốn trung hạn, dài hạn của tổ chức tín dụng
để sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, các quy định về thời hạn giao đất tại Luật đất đai vẫn còn thiếu sót,
chưa được cập nhật đồng thời với các quy định về trường hợp được giao đất có thu tiền
53
sử dụng đất. Cụ thể, đó là sự thiếu sót quy định về thời hạn sử dụng đất được giao có
thu tiền sử dụng đất trong trường hợp giao đất thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa
trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng. Đây là một
trường hợp được giao đất có thu tiền sử dụng đất mới trong Luật đất đai năm 2013 thể
hiện sự bắt kịp của quy định pháp luật với thực tiễn đời sống.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Luật đất đai năm 2013 thì: Thời hạn giao đất
đối với tổ chức thực hiện dự án đầu tư được xem xét, quyết định trên cơ sở dự án đầu
tư hoặc đơn xin giao đất nhưng không quá 50 năm. Trường hợp dự án có vốn đầu tư
lớn nhưng thu hồi vốn chậm… thì thời hạn giao đất là không quá 70 năm. Như vậy,
đất được giao cho tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa
để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng thuộc “đất sử dụng có thời
hạn”.
Mặt khác, theo khoản 10 Điều 125 Luật đất đai năm 2013 thì: Đất làm nghĩa trang,
nghĩa địa thuộc đất sử dụng ổn định lâu dài. Do đó, pháp luật cần có quy định bổ sung
cho trường hợp này tương tự như quy định tại đoạn 3, khoản 3 Điều 126 Luật đất đai
năm 2013 về việc sử dụng đất sau khi chủ đầu tư chuyển nhượng QSDĐ gắn với hạ
tầng nghĩa trang, nghĩa địa. Nhằm minh bạch các quy định pháp luật tránh những tranh
chấp cũng như bất cập có thể xảy ra trong tương lai.
2.2.9. Quy định về trình tự, thủ tục giao đất có thu tiền sử dụng đất
Để đảm bảo chặt chẽ trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, pháp luật đất đai
quy định thủ tục hành chính về quản lý đất đai để làm khuôn mẫu cho các cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai theo đó thực hiện; trong đó có trình tự, thủ tục về giao đất
có thu tiền sử dụng đất được quy định tại khoản 1, 3, 5, 6 – Điều 68 – Nghị định
43/2014/NĐ-CP về: “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai”. Cụ thể
như sau:
Đầu tiên là thủ tục về thẩm định nhu cầu sử dụng đất. Theo đó, người xin giao đất
nộp hồ sơ thẩm định tại cơ quan tài nguyên và môi trường, ngoại trừ dự án đầu tư đã
được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư hoặc Thủ tướng Chính phủ chấp thuận
chủ trương đầu tư không phải thực hiện thủ tục này. Trong thời hạn 30 ngày, cơ quan
54
tài nguyên và môi trường có văn bản thẩm định gửi đến chủ đầu tư để lập hồ sơ xin
giao đất.
Trình tự, thủ tục xin giao đất được chia làm hai loại: trình tự, thủ tục xin giao đất
không thông qua hình thức đấu giá QSDĐ và trình tự, thủ tục xin giao đất thông qua
hình thức đấu giá QSDĐ. Theo đó, với trường hợp không thông qua hình thức đấu giá
QSDĐ thì thủ tục được thực hiện như sau: Cơ quan tài nguyên và môi trường hướng
dẫn chủ đầu tư lập hồ sơ xin giao đất, thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của
pháp luật; trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định giao đất. Sau đó,
người được giao đất nộp tiền sử dụng đất đối với trường hợp giao đất có thu tiền sử
dụng đất. Cuối cùng cơ quan tài nguyên và môi trường trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất; tổ chức giao đất trên thực địa và trao Giấy chứng nhận cho người
được giao đất, chỉ đạo cập nhật, chỉnh lý cơ sở dữ liệu đất đai, hồ sơ địa chính. Còn
đối với trường hợp giao đất thông qua hình thức đấu giá QSDĐ thì thủ tục được thực
hiện như sau: Căn cứ vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, cơ quan tài nguyên và môi trường chỉ đạo lập
phương án đấu giá quyền sử dụng đất trình Ủy ban nhân dân cùng cấp phê duyệt. Tổ
chức được lựa chọn thực hiện đấu giá theo phương án đấu giá quyền sử dụng đất đã
được phê duyệt tổ chức phiên đấu giá quyền sử dụng đất. Sau khi đấu giá thành công,
Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành quyết định công nhận kết quả trúng đấu
giá. Người trúng đấu giá đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính, cơ quan tài nguyên và môi
trường trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận, tổ chức giao đất trên thực
địa và trao Giấy chứng nhận; chỉ đạo cập nhật, chỉnh lý cơ sở dữ liệu đất đai, hồ sơ địa
chính. Trường hợp người trúng đấu giá không nộp đủ tiền theo đúng yêu cầu thì cơ
quan tài nguyên và môi trường trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hủy quyết
định công nhận kết quả trúng đấu giá. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp
với Bộ Tư pháp quy định việc tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà
nước giao đất, cho thuê đất.
55
Trên đây là quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giao đất có thu tiền sử dụng
đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất và thông qua hình thức đấu
giá quyền sử dụng đất. Hồ sơ xin giao đất trong từng trường hợp cụ thể cũng được quy
định rõ ràng như sau:
Hồ sơ xin giao đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất tại cấp Tỉnh và cấp
Huyện lần lượt được quy định tại Điều 3 và 4 – Thông tư 30/2014/TT-BTNMT “Quy
định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất”.
Hồ sơ xin giao đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 2
– Điều 7 – Thông tư liên tịch 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP “ Quy định việc tổ chức
thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê
đất”.
Bên cạnh trình tự thủ tục cơ bản được nêu trên. Luật đất đai năm 2013 còn bổ sung
một bước trước khi giao đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất đối với đất đang
có người sử dụng cho người khác. Việc giao đất và bồi thường thiệt hại này đã được
quy định trong Luật đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với các
chủ dự án được giao đất để thực hiện dự án phù hợp với kế hoạch sử dụng đất thì chủ
dự án được thỏa thuận “nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với người đang sử
dụng đất. Tuy vậy, việc thỏa thuận này trên thực tế là hết sức khó khăn bởi người đang
sử dụng đất có thể đưa ra giá quá cao; hoặc có thể thỏa thuận được với NSDĐ này
nhưng không thỏa thuận được với NSDĐ khác, mức giá cũng khác nhau, nên dễ gây
khiếu nại, làm ách tắc cho công tác giải phóng mặt bằng. Do đó, Luật đất đai năm
2013 đã đưa ra quy định về công tác của cơ quan Nhà nước trước khi giao đất, đây là
điểm mới được đưa ra để khắc phục bất cập trên. Cụ thể như sau:
“Điều 53. Giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác
Việc Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng
cho người khác chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định thu hồi đất theo quy định của Luật này và phải thực hiện xong việc bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật đối với trường hợp phải giải phóng mặt
bằng.”
56
Quy định này giúp tránh được tình trạng NSDĐ vừa phải nộp tiền sử dụng đất, vừa
nộp tiền đền bù thiệt hại không thỏa đáng. Hạn chế tình trạng khiếu nại của người có
đất bị thu hồi khi giá bồi thường không thống nhất.
Tuy nhiên, vấn đề bất cập ở nội dung này lại nảy sinh ở khâu khấu trừ chi phí giải
phóng mặt bằng: Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định, trường
hợp thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất không thông qua hình thức đấu giá và tự
nguyện ứng trước tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng theo phương án được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì được trừ số tiền đã ứng trước vào tiền sử
dụng đất phải nộp theo phương án được duyệt; mức trừ không vượt quá số tiền sử
dụng đất phải nộp. Đối với số tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng còn lại chưa được
trừ vào tiền sử dụng đất phải nộp (nếu có) thì được tính vào vốn đầu tư của dự án. Bên
cạnh đó, khoản 3 Điều 15 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định cụ thể tiền bồi
thường, giải phóng mặt bằng bao gồm tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và kinh phí
tổ chức thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng. Như vậy, số tiền được tính giảm
trừ trong khoản tiền ứng trước của NSDĐ gồm cả kinh phí thực hiện mà không chỉ là
các khoản chi trả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được xác định căn cứ theo quyết định phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định tại Điều 28 Nghị định
47/2014/NĐ-CP. Tuy nhiên, vấn để đặt ra là khi tổ chức kinh tế ứng vốn để giải phóng
mặt bằng, nhưng việc bàn giao không đúng tiến độ cam kết với nhà đầu tư làm cho chi
phí tăng lên, và những chi phí phát sinh thêm sẽ xử lý ra sao khi lỗi không bàn giao
mặt bằng đúng tiến độ là của cơ quan tiến hành giải phóng mặt bằng.
Bên cạnh đó, theo quy định, nếu chi phí khấu trừ cao hơn tiền SDĐ phải nộp thì
phần vượt đó tính vào vốn đầu tư dự án; như vậy khoản tiền đó thực chất cũng do chủ
đầu tư chi trả, đẩy cao vốn đầu tư dự án mà không được hoàn trả. Điều này ảnh hưởng
đến quyền lợi của nhà đầu tư, buộc họ phải đẩy giá thành phẩm lên cao để thu hồi vốn,
gây khó khăn cho NSDĐ khi thực hiện hoạt động kinh doanh; ảnh hưởng đến thu hút
đầu tư.
57
2.2.10. Quy định về xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong giao đất có thu tiền sử
dụng đất
Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng bao gồm những quy định xoay quanh mối
quan hệ giữa nhà nước và NSDĐ – thuộc trường hợp được nhà nước giao đất có thu
tiền sử dụng đất. Vì vậy, những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng xuất phát từ
hai chủ thể trên gây ra.
Thứ nhất, quy định về xử lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật đất đai được
quy định tại Điều 206 – Luật đất đai năm 2013. Theo đó, người có hành vi vi phạm
pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất nói
riêng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Hiện nay, theo nghị định số 102/2014/NĐ-CP “về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai” có hai hình thức vi phạm pháp luật về giao
đất có thu tiền sử dụng đất bị xử phạt vi phạm hành chính điển hình cần nói đến ở đây,
đó là: việc tự ý chuyển nhượng QSDĐ trái quy định của pháp luật và việc chậm làm
thủ tục cấp giấy chứng nhận cho người mua nhà ở, người nhận quyền sử dụng đất ở.
Có thể thấy đây là những trường hợp vi phạm quy định của pháp luật đã gây nhiều bức
xúc và tổn thất cho xã hội và nhà nước trong thời gian qua và đã được quy định rõ ràng
cho việc xử lý. Bên cạnh đó, thì việc xác định tính chất và mức độ hành vi vi phạm để
có chế tài xử lý phù hợp được Nghị định này dựa trên hai tiêu chí là quy mô diện tích
đất bị vi phạm và số lượng hộ gia đình bị ảnh hưởng. Về hình thức xử phạt được quy
định tại Nghị định này bao gồm hình thức xử phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền) và hình
thức xử phạt bổ sung (tước QSDĐ, tịch thu tang vật, phương tiện), ngoài ra, Luật đất
đai năm 2013 còn quy định người có hành vi vi phạm mà gây thiệt hại cho Nhà nước,
cho người khác ngoài việc bị xử lý thì còn phải bồi thường theo mức thiệt hại thực tế.
Theo Điều 228 – Bộ luật hình sự năm 2015 về “Tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất” thì “Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất
trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải
58
tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm.” Hơn nữa, nếu
phạm tội có tổ chức hoặc phạm tội 2 lần trở lên hoặc tái phạm nguy hiểm thì có thể bị
phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07
năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng.[17]
Thứ hai, quy định về xử lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai khi
thi hành công vụ trong lĩnh vực đất đai được quy định tại Điều 207 – Luật đất đai năm
2013. Theo đó, các hình thức vi phạm này bao gồm: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm
trái với quy định của pháp luật trong giao đất, xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai, ra
quyết định hành chính trong quản lý đất đai (ví dụ như giao đất trái thẩm quyền, trái
với kế hoạch sử dụng đất…); Thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp
luật về đất đai hoặc có hành vi khác gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất (ví dụ như có hành vi cản trở việc sử dụng đất của
NSSĐ, không tiến hành thanh tra và xử lý vi phạm thuộc thẩm quyền của mình…); Vi
phạm quy định về lấy ý kiến, công bố, công khai thông tin; vi phạm quy định trình tự,
thủ tục hành chính; vi phạm quy định về báo cáo trong quản lý đất đai. Các hành vi vi
phạm này tùy theo tính chất và mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỉ luật hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo Điều 229 – Bộ luật hình sự năm 2015, theo đó, hình thức xử
phạt bao gồm phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù lên đến 12 năm.
So với Luật đất đai năm 2003 thì Luật đất đai năm 2013 có bổ sung quy định về
trách nhiệm của người đứng đầu trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm
pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai (Điều 208); quy định xử lý trách nhiệm của
người thực thi công vụ vi phạm pháp luật đất đai và người đứng đầu cơ quan, tổ chức
để xảy ra vi phạm pháp luật đất đai (Điều 207). Điều này, cho thấy Nhà nước đã thừa
nhận trách nhiệm của mình trong hoạt động quản lý đất đai, tạo cơ sở cho sự công
bằng trong quan hệ giữa nhà nước và NSDĐ.
59
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất
2.3.1. Kết quả thực hiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất tại một số
địa phương
Sau khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành, Bộ TN&MT đã tích cực, chủ
động chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện công tác thu hồi đất, giao đất, cho
thuê đất, bảo đảm theo đúng các quy định của pháp luật về đất đai. Vì thế mà việc giao
đất theo kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt tại các địa phương đã diễn ra hết sức
thuận lợi, không còn tình trạng sai phạm về thủ tục hành chính hay giao đất trái thẩm
quyền... Tuy nhiên, công tác quản lý đất đai, kiểm soát việc thực hiện nghĩa vụ tài chính
sau giao đất cũng như việc giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá
quyền sử dụng đất vẫn còn nhiều khó khăn và bất cập trên thực tế. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, theo báo cáo thuyết minh hiện trạng sử dụng đất, bản đồ hiện trạng sử dụng
đất năm 2014 trên địa bàn Thành phố Hà nội của Sở Tài nguyên và Môi trường TP.Hà
Nội thì: Tính đến ngày 31/12/2014 việc thực hiện theo quyết định giao đất, thuê đất,
chuyển mục đích sử dụng, thành phố còn tồn tại một số trường hợp được giao, thuê,
chuyển mục đích sử dụng đất nhưng chưa thực hiện, với tổng diện tích toàn thành phố
là 3.529,60 ha. Trong đó, diện tích đất theo mục đích được giao, được thuê, được
chuyển mục đích sử dụng đất nhưng chưa thực hiện theo đối tượng sử dụng đất được
thống kê[1] như sau:
Đối tượng sử dụng đất
Hộ gia đình, cá nhân trong nước
Tổ chức trong nước
Diện tích đất chưa thực hiện (ha) 51,91 2.639,87 242,16 323,51 185,15
88,18 Tổ chức nước ngoài
Tổ chức kinh tế Cơ quan đơn vị của Nhà nước Tổ chức sự ngiệp công lập Tổ chức khác Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tổ chức ngoại giao
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài Cộng đồng dân cư và cơ sở tôn giáo 0 0 0,44
60
Nhìn vào các số liệu trên, có thể dễ dàng nhận thấy sự ì chệ trong việc đưa đất vào
sử dụng theo mục đích sử dụng tại các tổ chức kinh tế sau khi được Nhà nước giao đất
là rất lớn. Theo báo cáo Sở Xây dựng Hà Nội trình UBND thành phố Hà Nội về kết
quả rà soát 573 dự án khu đô thị mới, Sở Xây dựng cho biết có 17 dự án chậm hơn 2
năm, nhiều dự án bị trùng lặp và hàng chục dự án chưa phù hợp với quy hoạch. Cụ thể,
tổng số dự án đã có quyết định giao đất, cho thuê đất nhưng chưa đưa đất vào sử dụng
trong 12 tháng liền kể từ ngày bàn giao đất trên thực địa là 30 dự án. Chẳng hạn như
dự án Xây dựng khu nhà ở để bán tại xã Mai Lâm (Đông Anh) và dự án xây dựng tổ
hợp dịch vụ thương mại, văn phòng cho thuê và nhà ở tại 139 Đại La.[5]
Thứ hai, về vấn đề giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá quyền
sử dụng đất. Dưới đây là bảng số liệu [12] giao đất có thu tiền của Huyện Mỹ Đức –
Hà Nội với trường hợp đấu giá QSDĐ hai lần trở lên không thành, cho đối tượng giao
đất là hộ gia đình, cá nhân được giao đất để sử dụng đất lâu năm:
Số Tên xã Tổng diện tích Vị trí, địa Diện tích Số lượng ô Giá khởi Sồ lần
thứ đấu giá không điểm từng vị trí điểm lần cuối đã đưa
tự thành (m2) (m2) (đồng/m2) ra đấu
giá
Mỹ 1,999.5 Vĩnh Xương 300 1,000,000 3 2
Thành Thượng
Vĩnh Xương 108.0 1,500,000 1
Trung
2 Điểm X15 – 317.6 2,000,000
Vĩnh Xương
Thượng
Điểm X17 – 1,273.9 10 1,000,000
Vĩnh Xương
Thượng
2 Hùng 1914.1 Các ô giáp 958.4 10 1,800,000 2
Tiến đường bê
61
tông – thôn
An Duyệt
Các ô phía 955.7 9 1,500,000
trong – thôn
An Duyệt
3 An 1,748.6 Các ô đất 834.4 8 1,600,000 2
giáp đường Tiến
bê tông- thôn
Hiền Lương
Các ô đất 914.2 9 1,400,000
phía trong –
thôn Hiền
Lương
4 Lê 800.0 Độ 7 – Áng 800.0 10 2,000,000 2
Hạ - Lê Thanh
Thanh
5 Phùng 660.0 Nhà trẻ cũ 660.0 6 2,000,000 3
vùng 03- Xá
Thôn Hạ
Tổng 7,122.2 7,122.2 67
Dễ thấy từ bảng số liệu trên về thực trạng tiến hành các quy định về giao đất thông
qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế của nó, do
đó, mới dẫn đến việc đấu giá không thành, đấu giá lại. Trên đây mới chỉ là các số liệu
đối với đối tượng giao đất là hộ gia đình, cá nhân, với diện tích đất giao không lớn, và
quy mô tổ chức đấu giá đơn giản và dễ thực hiện. Trên thực tế, việc giao đất thông qua
đấu giá vẫn chưa phổ biến, các quy định của pháp luật về xác định giá khởi điểm, xác
định lại giá khởi điểm … vẫn còn nhiều bất cập.
62
Thứ ba, sự “mù mờ” trong các nguyên tắc định giá đất làm căn cứ xác định tiền sử
dụng đất là hệ lụy cho những tham nhũng, thất thoát lớn và tiêu cực trong lĩnh vực đất
đai. Bài học từ việc thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền chuyển mục đích sử dụng
đất từ dự án đô thị mới Ciputra làm thất thoát ngân sách nhà nước hơn 3000 tỷ đồng là
minh chứng điển hình cho thực trạng trên: “Ciputra, Khu đô thị đẹp nhất Hà Nội, giá
lúc đỉnh cao lên đến 200-250 triệu đồng/m2, báo chí đã từng nêu con số thất thu
thuế tại dự án này lên tới 3.000 tỷ đồng. Bị công luận và báo chí cật lực phản đối, sau
10 năm, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường và Cục thuế Hà Nội buộc phải xới
lại vấn đề này và đi đến quyết định đề nghị UBND TP. Hà Nội sung thu 1.400
tỷ đồng tiền sử dụng đất đối với dự án Ciputra trong số hơn 3.000 tỷ đồng thất thoát.
Chỉ tính riêng phần lãi suất của con số này hơn 10 năm qua đã khiến nhiều đại gia
phải thèm thuồng.”[30]
2.3.2. Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất
Những thành tựu đạt được:
Trên cơ sở Luật đất đai năm 2013, Chính phủ và các bộ đã ban hành nghị định,
thông tư hướng dẫn cụ thể hình thành hệ thống các quy định pháp luật tương đối đầy
đủ và khá chặt chẽ về giao đất, cho thuê đất, tạo cơ sở pháp lý để việc triển khai có
hiệu quả việc giao đất cho cá nhân, tổ chức sử dụng đất phục vụ yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp đã dần đi vào
nền nếp, trở thành cơ sở pháp lý cho việc giao đất tạo điều kiện để kinh tế nông thôn
phát triển; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà đầu tư, người sử dụng và Nhà nước.Thẩm
quyền giao đất, cho thuê đất được phân cấp phù hợp với quá trình đổi mới tổ chức,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương. Trình tự, thủ tục
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất đã được thực hiện theo đúng quy
định. Đất được giao, cho thuê, được chuyển mục đích cơ bản phù hợp với quy hoạch,
kế hoạch được xét duyệt và quá trình chuyển đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động và bảo
đảm quốc phòng - an ninh. [2, 10]
Những khó khăn, vướng mắc:
63
Thứ nhất, việc giao đất chưa theo năng lực và khả năng thực hiện dự án của các chủ
đầu tư dẫn đến nhà đầu tư lợi dụng xin giao đất với diện tích lớn để bao chiếm, “ôm”
đất trục lợi gây bỏ hoang, gây lãng phí trong sử dụng đất như đã xảy ra tại một số địa
phương. Mặc dù, Luật đất đai năm 2013 đã có thêm quy định về điều kiện giao đất đối
với dự án đầu tư nhằm khắc phục tình trạng trên, nhưng những dự án được giao trước
khi Luật đất đai năm 2013 được ban hành thì vẫn chưa có quy định chuyển tiếp từ luật
cũ sang luật mới, các cơ quan có thẩm quyền mặc dù cũng đã triển khai, thực hiện rà
soát nhưng lại chưa có biện pháp xử lý vi phạm triệt để, kiên quyết.
Thứ hai, tình trạng đưa đất vào sử dụng chậm so với tiến độ trong các dự án đầu tư
được giao đất diễn ra khá phổ biến ở các tỉnh, thành phố. Nhiều địa phương kiểm tra
phát hiện các trường hợp dự án “treo” nhưng lại thiếu kiên quyết trong xử lý vi phạm
do có sự can thiệp từ phía các Bộ, ngành Trung ương (đối với trường hợp vi phạm là
doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc Bộ, ngành) hoặc do lo ngại ảnh hưởng đến việc thu
hút đầu tư tại địa phương. Bên cạnh đó, một số trường hợp đã thực hiện xong việc bồi
thường, giải phóng mặt bằng nhưng do không quản lý chặt chẽ hoặc chậm trễ trong
việc xây dựng công trình, để dân lấn chiếm đất nên phải tốn thêm thời gian để giải tỏa.
Thứ ba, việc thực hiện giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua đấu giá QSDĐ vẫn
chưa thực sự đạt hiệu quả, và được diễn ra một cách phổ biến. Điều này do sự bất cập
và thiếu sót trong các quy định của pháp luật về vấn đề này đã gây ảnh hưởng đến việc
thực hiện. Các quy định xác định giá khởi điểm trong thực hiện đấu giá QSDĐ vẫn còn
nhiều bất cập, chưa rõ ràng tạo khe hở pháp lý cho tham nhũng, ảnh hưởng đến nguồn
thu ngân sách của Nhà nước. Quy định về các trường hợp tham gia đấu giá QSDĐ còn
chưa hợp lý như việc giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân….
Thứ tư, các quy định về giá đất làm căn cứ cho việc tính tiền sử dụng đất khi Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất vẫn còn nhiều vướng mắc trong thực hiện, chưa
thực sự đi vào đời sống.
64
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao
đất có thu tiền sử dụng đất
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất
3.1.1. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất phải dựa trên cơ chế đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý
Trong vòng hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng đề xướng, nền kinh
tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung đang chuyển bước sang vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung hay
ban hành Luật đất đai mới thì Luật đất đai vẫn giữ nguyên quan điểm đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quan điểm này
được coi là nền tảng tư tưởng của hệ thống pháp luật đất đai hiện hành trong nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Và cũng là nền tảng
của pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất.
3.1.2. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất phải được xây dựng phù hợp
với những đường lối, chính sách chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất phải dựa trên quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; phù hợp với
đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Việc phân bổ quỹ đất phải
đáp ứng được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Việc
chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất cần phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quỹ đất
dành cho công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị cần được
mở rộng, từng bước đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và nhu cầu đô thị hóa. Diện tích đất chưa sử dụng cần được nhanh chóng đưa vào
khai thác sử dụng dưới hình thức giao đất hoặc cho thuê đất phù hợp dựa trên kế
hoạch, quy hoạch sử dụng đất. Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đạt hóa đất nước,
Nhà nước đồng thời phải đảm bảo phát triển bền vững, quan tâm đến đời sống của
nhân dân, đảm bảo nhân dân được hưởng lợi từ quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
phát triển đất nước.
65
3.1.3. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất đảm bảo đáp ứng nhu cầu
phát triển của nền kinh tế thị trường.
Hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa kinh tế tác động mạnh mẽ tự do hóa các yếu tố của quá
trình sản xuất. Đây là một quá trình gỡ bỏ dần những cản trở đối với hoạt động của các
chủ thể trong nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang vận hành
theo cơ chế thị trường, xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tạo lập sự
cạnh tranh bình đẳng trong việc sử dụng đất đai, tài nguyên, sức lao động, vật tư, năng
lượng… tất cả được thực hiện bằng sự tự do hóa thương mại, đó chính là nội dung chủ
yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tự do hóa
các yếu tố của quá trình sản xuất đòi hỏi mỗi nền kinh tế phải xây dựng các thể chế
kinh tế cho phù hợp, mà trước tiên là các thể chế kinh tế có liên quan mật thiết đến các
yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh, đến thị trường như việc sử dụng đất đai…
đảm bảo bình đẳng, công bằng và không phân biệt đối xử.[9, 88]
Pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất nói
riêng cần chú trọng đến phát triển kinh tế, thu hút đầu tư bằng cách thu hẹp sự phân
biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc tiếp cận đất đai; quyền của
NSDĐ cần được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm thực hiện để NSDĐ gắn bó hơn
với đất đai, yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh để tăng hiệu quả sử dụng
đất; đưa nguồn lực về đất đai vào khai thác, phát huy đầy đủ để trở thành nguồn nội
lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3.1.4. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất hài hòa lợi ích giữa Nhà nước
và người sử dụng đất.
Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa quyền
sở hữu đất đai và quyền sử dụng đất đai,giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người
sử dụng. Theo Luật dân sự thì quyền sở hữu đất đai bao gồm quyền chiếm hữu đất đai,
quyền sử dụng đất đai, quyền định đoạt đất đai của chủ sở hữu đất đai. Quyền sử dụng
đất đai là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ đất đai của chủ sở hữu
đất đai hoặc chủ sử dụng đất đai khi được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng. Từ
khi Hiến pháp 1980 ra đời quyền sở hữu đất đai ở nước ta chỉ nằm trong tay Nhà nước
66
còn quyền sử dụng đất đai vừa có ở Nhà nước, vừa có ở trong từng chủ sử dụng cụ thể.
Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất đai mà thực hiện quyền sử dụng đất đai thông
qua việc thu thuế, thu tiền sử dụng đất... từ những chủ thể trực tiếp sử dụng đất đai. Vì
vậy, để sử dụng đất đai có hiệu quả Nhà nước phải giao đất cho các chủ thể trực tiếp
sử dụng và phải quy định một hành lang pháp lý cho phù hợp để vừa đảm bảo lợi ích
cho người trực tiếp sử dụng, vừa đảm bảo lợi ích của Nhà nước.
3.1.5. Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất phải đảm bảo tiết kiệm, hiệu
quả, trên nguyên tắc bảo vệ môi trường.
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên, tài sản vô giá của quốc gia, là yếu tố cơ bản
của quá trình sản xuất xã hội có ý nghĩa quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên, đất đai là tài sản hữu hạn, do vậy việc sử dụng đất
phải đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi
trường để bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững.[9]
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất
3.2.1.1. Xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng
đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện.
Mấu chốt của những bất cập trong đấu giá QSDĐ là làm thế nào để đất có thể được
chuyển giao với giá thỏa đáng cho người thực sự có nhu cầu và có khả năng trực tiếp
sử dụng, khai thác đất một cách có hiệu quả nhất vẫn chưa được giải quyết. Thực ra, ở
góc độ đấu giá QSDĐ, vấn đề này được phân tích thành hai vấn đề nhỏ: Trong những
trường hợp nào nên tổ chức đấu giá QSDĐ? Làm thế nào để giá đất được xác định
thông qua đấu giá phản ánh được giá trị thật của đất và việc đấu giá không có tác dụng
làm đất tăng giá một cách không bình thường? Bên cạnh đó, về phương diện hiệu quả
kinh tế của việc giao đất, còn có vấn đề bảo đảm việc thực thi cam kết sử dụng đất
đúng mục đích, đặc biệt là cam kết thực hiện dự án đầu tư đúng tiến độ.
Khi nào cần đấu giá quyền sử dụng đất? Tư tưởng chủ đạo của việc đấu giá
QSDĐ tỏ ra cần thiết một khi có nhiều người quan tâm đến một thửa đất và có kế
hoạch sử dụng nghiêm túc đối với miếng đất định mua. Mục tiêu của việc đấu giá là
67
tìm được người mua với giá cao nhất (thực ra là với giá cao nhất một cách hợp lý nhất)
trong những người có kế hoạch như thế.
Xét theo tiêu chí đó thì nên loại bỏ quy định đấu giá QSDĐ phục vụ cho việc xây
dựng nhà ở cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 118, Luật
đất đai năm 2013. Còn nếu cho rằng, việc đấu giá là cần thiết để đảm bảo sự minh
bạch, sòng phẳng và hợp lý trong giao đất loại này, thì cần có cơ chế cho phép sang
lọc ban đầu nhằm bảo đảm rằng, người tham gia đấu giá là người thực sự có nhu cầu
về đất ở và việc tham gia đấu giá được thực hiện trong khuôn khổ giải quyết bài toán
về nhà ở cho bản thân gia đình. Chẳng hạn, có thể quy định rõ điều kiện để được tham
gia đấu giá: đang sinh sống và làm việc tại địa phương nơi có đất được đấu giá, với
công việc và thu nhập ổn định; chưa có nhà ở riêng; có kế hoạch xây dựng nhà ở rõ
ràng, nghiêm túc và khả thi…
Cũng có thể cân nhắc về việc giao đất loại này theo một cơ chế xét duyệt khách
quan thông qua vai trò của một hội đồng với đại diện của nhiều thành phần xã hội,
nghề nghiệp có liên quan. Trước hết, đất được giao cho một tổ chức hoặc một cộng
đồng dân cư. Cơ quan, cộng đồng nhận đất thành lập hội đồng để tổ chức việc giao đất
cho các thành viên cơ quan cộng đồng. Hội đồng xây dựng bộ tiêu chí làm căn cứ xem
xét các yêu cầu được giao đất, tiếp nhận các hồ sơ xin giao đất, tổ chức xét duyệt, thảo
luận và biểu quyết dân chủ theo ý kiến đa số.
Tóm lại, việc đấu giá QSDĐ công khai và rộng mở cho mọi người chỉ thực sự cần
thiết và có khả năng phát huy tác dụng tích cực, đặc biệt trong việc phòng ngừa tham
nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực quản lý đất đai một khi cần giao đất hoăc cho thuê đất
để triển khai các dự án kinh tế. Trên nguyên tắc, bất kỳ người nào có quan tâm đều có
quyền tham gia vào việc đấu giá QSDĐ. Những vấn đề quan trọng nhất cần được giải
quyết là làm thế nào bảo đảm giá trúng đầu giá phù hợp với giá trị thật và bảo đảm
việc sử dụng, khai thác đất theo đúng kế hoạch, dự án đã đăng ký
Bảo đảm giá trúng đấu giá phù hợp với giá thị trường.
Để giá trúng đấu giá không có sự chênh lệch quá lớn so với giá thị trường theo
hướng bất lợi cho người bán, tất nhiên cần ấn định giá khởi điểm một cách hợp lý. Cần
68
phát huy vai trò của các chuyên gia, nhà tư vấn về giá bất động sản. Cũng cần có cơ
chế kiểm soát khách quan đối với việc định giá, trên cơ sở so sánh giá giao dịch thông
thường đối với cùng loại đất trên thị trường bất động sản ở địa phương tại thời điểm
tiến hành đấu giá với giá khởi điểm được ấn định. Cụ thể:
Thứ nhất, tiến hành rà soát các quy định về giao đất thông qua đấu giá quyền sử
dụng đất tại Thông tư số 02/2015/TT-BTC và Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-
BTNMT-BTP theo hướng sau: i) xem xét hợp nhất các thông tư, chỉ quy định chung
các vấn đề về đấu giá QSDĐ trong một Thông tư, ii) Nên trao quyền xác định giá khởi
điểm trong đấu giá QSDĐ cho cơ quan tài nguyên và môi trường, trong đó quyền
quyết định giá đất khởi điểm thuộc về Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh. Việc trao cho cơ
quan tài nguyên và môi trường xác định giá khởi điểm là phù hợp, vì đây là chủ thể
quản lý đất đai. Bên cạnh đó, thẩm quyền quyết định giá khởi điểm trao cho Ủy ban
nhân dân cấp Tỉnh cũng sẽ đảm bảo tính minh bạch, dân chủ. Ngoài ra , xem xét bổ
sung các trường hợp xác định lại giá khởi điểm và mối quan hệ giữa giá khởi điểm ban
đầu và giá xác định lại. Hiện nay, Thông tư số 02/2015/TT-BTC chưa có quy định chi
tiết về vấn đề này và vì vậy, cần thống nhất việc giao cho Sở Tài nguyên và Môi
trường xác định lại giá khởi điểm.
Thứ hai, quy định thống nhất về phương pháp định giá đất sử dụng để xác định giá
khởi điểm. Như vậy, điểm b khoản 2 Điều 10 Thông tư 76/2014/TT-BTC cần sửa đổi,
bởi các văn bản về giá đất và xác định giá khởi điểm trong đấu giá QSDĐ đều không
sử dụng phương pháp hệ số điều chỉnh.
Bảo đảm tính hiệu quả của việc phân phối đất đai thông qua đấu giá. Mục đích
tối hậu của việc đấu giá là tìm ra nhà đầu tư nghiêm túc nhất trong những nhà đầu tư
nghiêm túc. Đất được giao hoặc cho thuê thông qua đấu giá QSDĐ để được sử dụng,
khai thác một cách có hiệu quả. Bởi vậy, cần có quy định ràng buộc người trúng đấu
giá vào nghĩa vụ thực hiện việc đầu tư theo đúng nội dung như đã ghi nhận trong dự án
đầu tư nộp trong hồ sơ tham gia đấu giá.
Cụ thể, người trúng đấu giá phải trực tiếp triển khai dự án trong thời gian thích hợp
và theo đúng tiến độ dự kiến với số lượng, chất lượng đã được ghi nhận trong dự án
69
đầu tư. Nếu triển khai dự án chậm trễ mà không phải do nguyên nhân bất khả kháng,
thì phải chịu thu hồi đất và các chế tài về tài chính và kinh tế (nộp phạt, cấm tham gia
đấu giá trong một thời gian…). Hoặc như đã được phân tích trình bày ở phần trên về
cơ chế giao đất của Nhà nước Hoa kì: sử dụng hợp đồng trong hoạt động trao QSDĐ
(hợp đồng phát triển). Hoạt động trao QSDĐ theo hình thức hợp đồng phát sinh trách
nhiệm kiểm tra và đánh giá thực hiện hợp đồng của cơ quan quản lý nhà nước, bao
gồm đánh giá về sự tuân thủ hợp đồng có thời hạn đánh giá hàng năm, nếu các nhà
phát triển không tuân thủ đúng thỏa thuận thì sẽ bị thay đổi hoặc chấm dứt hợp đồng.
Đây cũng là một quy định của pháp luật Hoa Kì đáng để học hỏi.
3.2.1.2. Sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định về giá đất làm căn cứ tính tiền sử dụng
đất.
Thứ nhất, Điều 112 Luật đất đai năm 2013 quy định nguyên tắc, phương pháp định
giá đất, nhưng chỉ áp dụng trong quá trình khảo sát, định giá mà thiếu nguyên tắc
quyết định giá đất cụ thể; đảm bảo giá đất cụ thể được xác định phù hợp với giá thị
trường. Như vậy, khi xây dựng nguyên tắc định giá đất cụ thể cần làm rõ mối quan hệ
giữa giá tư vấn của các tổ chức tư vấn giá độc lập với giá quyết định cuối cùng, làm rõ
trách nhiệm của các chủ thể trong quy định định giá. Hơn nữa, như đã phân tích trong
các phần trên, những quy định về nguyên tắc cũng như cơ sở định giá đất trong các
văn bản pháp luật hiện nay vẫn còn hết sức mù mờ, thiếu tin cậy. Do đó, ta cần có
những quy định rõ ràng hơn, việc tham khảo các quy định của Úc về nguyên tắc cũng
như phương pháp định giá đất cũng là một giải pháp cho vấn đề này. Các quy định này
đã được trình bày và phân tích cụ thể trong các phần trên.
Thứ hai, trên cơ sở quy định về giảm tiền sử dụng đất đối với người sử dụng đất nói
chung và các tổ chức kinh tế nói riêng tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 38/2000/NĐ-
CP là: nộp tiền sử dụng đất một lần trong thời hạn 60 ngày từ ngày nhận được thông
báo của cơ quan thuế thì được giam 20% hoặc 10% tiền sử dụng đất, cần nghiên cứu
đánh giá hiệu quả của việc giảm này nhằm thu hút đầu tư, giảm bớt gánh nặng tài
chính cho doanh nghiệp, cũng như làm cơ sở để xử lý các trường hợp nợ tiền sử dụng
đất. Giải pháp đưa ra ở đây là cần giảm tiền sử dụng đất đối với trường hợp nộp một
70
lần trong thời hạn quy định, nhưng mức giảm không cào bằng mà có thể lũy tiến tùy
theo mức tiền sử dụng đất phải nộp.
Thứ ba, về giá đất tính tiền sử dụng đất. Một là, xây dựng cơ sở dữ liệu giá đất giao
dịch của thị trường. Để xác định chính xác giá đất tính tiền sử dụng đất thì phải xác
định được giá đất trong thị trường lành mạnh. Muốn xác định được giá đất lành mạnh
trong các hợp đồng giao dịch thì cần thay đổi đơn giá tính thuế (thuế thu nhập cá nhân
và lệ phí trước bạ) trong giao dịch đất đai. Bởi hiện nay, đa phần các giá trong hợp
đồng đều là giá ảo. Theo Điều 17 Thông tư số 92/2015/TT-BTC thì đơn giá tính thuế
thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng QSDĐ là giá trong hợp đồng…Chính quy định
này đã tạo nên hiện tượng giá ảo trên hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Vấn đề quản lý
giá đất ở nước ta hiện nay khó xác định giá đất thị trường đúng bản chất. Điều này dẫn
đến việc doanh nghiệp cho rằng, giá đất tính tiền sử dụng đất cao, không phù hợp thực
tế. Để khắc phục vấn đề này, cần xây dựng cơ chế kiểm soát giá trong các giao dịch
đất đai để làm nguồn cung cấp giá thị trường khi xác định giá đất. Hai là, Điều 3
Thông tư số 76/2014/TT-BTC nên sửa đổi theo hướng, trường hợp áp dụng giá đất cụ
thể theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá thì hệ số được xác định tại thời điểm giao
đất.
3.2.1.3. Hoàn thiện một số thiếu sót trong các quy định của pháp luật về giao đất có
thu tiền sử dụng đất.
Thứ nhất, bổ sung những nguyên tắc riêng của giao đất có thu tiền sử dụng đất như đã
được nêu trên: giao đất phải đúng kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt; việc giao
đất phải đáp ứng nhu cầu sử dụng đất; giao đất đúng thẩm quyền, đối tượng; giao đất
đúng trình tự, thủ tục; thường xuyên có hoạt động thanh tra, kiểm kê đất được giao và
giám sát quá trình sử dụng đất của người sử dụng đất.. vào chế định giao đất, cho thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Thứ hai, bổ sung quy định chuyển tiếp từ luật cũ sang luật mới, đồng thời có những
biện pháp xử lý đối với những dự án chậm tiến độ do nặng lực của chủ đầu tư như: thu
hồi đất, yêu cầu thực hiện dự án, phạt tiền ….
71
Thứ ba, về khấu trừ chi phí giải phóng mặt bằng. Người sử dụng đất ứng vốn giải
phóng mặt bằng sẽ giảm bớt gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước, đẩy nhanh
tiến độ giải phóng mặt bằng thực hiện dự án. Tuy nhiên, trường hợp chi phí giải phóng
mặt bằng đã ứng trước lớn hơn số tiền sử dụng đất phải nộp thì không tính vào vốn
đầu tư dự án mà nên xử lý như sau: chủ đầu tư đang thực hiện nhiều dự án trên cùng
một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì số dư sẽ được trừ vào tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất ở các dự án khác trên cùng một địa bàn. Trường hợp nếu được trừ đối với
các dự án trên cùng một địa bàn mà vẫn còn số dư hoặc chỉ thực hiện một dự án trên
địa bàn hoặc nhiều dự án nhưng chỉ có một dự án phải nộp tiền sử dụng đất và phát
sinh số dư thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ cho ghi số dư đối với chủ đầu tư và khoản
dư này sẽ được giảm trừ trong thời hạn nhất định (có thể là 24 tháng), khi thực hiện dự
án khác trên địa bàn sẽ được giảm trừ. Như vậy, việc không tính và vốn đầu tư dự án
sẽ giảm bớt áp lực giá thành sản phẩm đối với các doanh nghiệp kinh doanh bất động
sản. Bên cạnh đó, chủ động tạo quỹ đất sạch, tiến hành đấu giá QSDĐ khi giao đất
nhằm đảm bảo tính cạnh tranh, minh bạch và đảm bảo giá trị khu đất, thửa đất được
giao.
Thứ tư, về thời hạn sử dụng đất được giao có thu tiền sử dụng đất trong trường hợp
giao đất thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng
quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng.Đây là một trường hợp được giao đất có thu tiền sử
dụng đất mới trong Luật đất đai năm 2013 thể hiện sự bắt kịp của quy định pháp luật
với thực tiễn đời sống như đã được trình bày trong các phần trên. Tuy nhiên, pháp luật
lại chưa quy định rõ về thời hạn sử dụng trong trường hợp này. Về bản chất, trường
hợp giao đất này tương tự với trường hợp giao đất để thực hiện dự án xây dựng nhà ở
để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê. Đầu ra của thành phẩm là quyền sử dụng đất gắn
với nhà ở (hay trong trường hợp này là hạ tầng nghĩa trang), để chuyển nhượng cho
người tiêu dùng. Vì vậy, pháp luật cần có quy định bổ sung cho trường hợp này tương
tự như quy định tại đoạn 3, khoản 3 Điều 126 Luật đất đai năm 2013 về việc sử dụng
đất sau khi chủ đầu tư chuyển nhượng QSDĐ gắn với hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa.
72
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giao đất có thu
tiền sử dụng đất
3.2.2.1. Xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành
chính về đất đai tại các địa phương.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai là một bộ dữ liệu đặc biệt quan trọng nhằm quản lý
và xác định rõ ràng hơn về tiềm năng tài nguyên đất của mỗi quốc gia. Nhận thức rõ
vấn đề này, Chính phủ đã giao Bộ Tài Nguyên và Môi Trường xây dựng Đề án triển
khai xây dựng cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về đất đai. Tuy nhiên, qua một thời gian tổ
chức hướng dẫn, thực hiện, hoạt động xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai gặp phải không ít
những khó khăn Do đó, trong thời gian tới Bộ Tài Nguyên và Môi Trường cần:
Đối với công tác đào tạo: Đào tạo cho các cán bộ quản trị hệ thống hay cán bộ xử lý
nghiệp vụ đều phải có các quy trình riêng rẽ, cụ thể, viết hướng dẫn sử dụng chi tiết,
định hướng người dùng thay đổi thói quen, tiếp cận công nghệ mới
Xây dựng các tài liệu áp dụng quy trình, thủ tục, chính sách pháp lý trong thực tiễn
vào việc xây dựng xử lý, quản lý nghiệp vụ, khai thác dữ liệu đối với hệ thống.
Phối hợp với các đơn vị thi công xây dựng cơ sở dữ liệu, hỗ trợ thực hiện công tác sử
dụng phần mềm trong nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu.
Có thể thấy rằng, nếu hệ thống thông tin đất đai hoàn thiện nó sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tiếp cận và khai thác tài nguyên đất đai. Với hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai
đầy đủ, sát với thực tế, những người tham gia các giao dịch về đất đai hoàn toàn được
bảo đảm. Họ có thể tiếp cận được những thông tin đầy đủ và chính xác. Về phía Nhà
nước, cũng dễ dàng trong công tác quản lý đất đai, thực hiện thẩm định nhu cầu sử
dụng đất khi nhà nước tiến hành giao, cho thuê đất.
3.2.2.2. Phát triển nhanh các tổ chức tư vấn về giá đất để định giá đất.
Tổ chức tư vấn về giá đất thực hiện định giá đất là cơ sở tính tiền sử dụng đất cho
các hoạt động giao đất có thu tiền sử dụng đất. Đây còn là nguồn dữ liệu quan trọng,
làm cơ sở cho các phương pháp xác định giá đất được sử dụng trong xác định giá đất
cụ thể khi giao, cho thuê. Do đó, pháp luật cần quan tâm hơn đến những quy định có
liên quan về vấn đề này như địa vị pháp lý của Tổ chức tư vấn giá đất. Tuy nhiên, đất
73
đai là một loại hàng hoá đặc biệt và thuộc đối tượng nhà nước quản lý giá theo quy
định của Luật Quản lý Giá. Do đó, việc xác lập địa vị pháp lý của Tổ chức tư vấn giá
đất cũng như quy định cụ thể điều kiện, năng lực và dịch vụ cung cấp cần phải phù
hợp với Luật Quản lý Giá. Tổ chức có chức năng tư vấn giá đất phải là tổ chức nghề
nghiệp có tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, phù hợp với thông lệ quốc tế và phù
hợp với chủ trương xã hội hóa (tách khỏi cơ quan quản lý nhà nước thực hiện dich vụ
độc lập). Dưới đây là một số giải pháp phát triển và hoàn thiện cơ cấu tổ chức cũng
như chức năng của tổ chức tư vấn giá đất:
+ Đồng bộ hóa và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động tư vấn
định giá đất (thống nhất giữa Luật Giá, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đất
đai). Hoàn thiện quy định về: Nguyên tắc hoạt động của tổ chức tư vấn định giá đất;
Thống nhất quy định về phương pháp xác định giá đất; Điều kiện hoạt động của tổ
chức tư vấn định giá đất, điều kiện đối với cá nhân hành nghề tư vấn định giá đất;
Quyền, nghĩa vụ của tổ chức tư vấn định giá đất.
+ Bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động tư vấn định giá đất: Quy
định cụ thể trách nhiệm, chế tài xử lý các vi phạm trong hoạt động của các tổ chức tư
vấn định giá đất; Quy định rõ cơ chế giám sát, đánh giá chất lượng của hoạt động tư
vấn định giá đất; Quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đánh giá chất lượng dịch
vụ tư vấn định giá đất; Quy định rõ cơ chế bắt buộc sử dụng dịch vụ tư vấn định giá
đất; Kiểm tra việc quy định và công bố định giá đất; Xử lý khiếu nại và tranh chấp về
kết quả tư vấn định giá đất.
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu cần thiết phục vụ cho việc định giá đất; Xây dựng các phần
mềm máy tính chuyên dụng cho việc xác định giá trị đất đai; Thành lập Hội đồng định
giá đất cấp Trung ương và cấp tỉnh, hoặc hệ thống cơ quan định giá đất của Trung
ương; Đào tạo đội ngũ định giá viên về giá đất chuyên nghiệp.
3.2.2.3. Tạo điều kiện, cơ chế thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển lành mạnh,
minh bạch và hiệu quả.
`Một thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, minh bạch và hiệu quả sẽ giúp
huy động vốn cho đầu tư phát triển, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, thu hút
74
đầu tư… Tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội, tăng GDP và ngân sách nhà nước,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống nhân dân. Hơn nữa, nó còn là
nguồn dữ liệu quan trọng cho các cơ quan định giá đất khi nhà nước tiến hành giao,
cho thuê đất, là môi trường diễn ra các giao dịch giúp các nhà đầu tư huy động vốn
một cách dễ dàng để hoàn thành dự án…
Như vậy, để tạo điều kiện, cơ chế thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển lành
mạnh, minh bạch và hiệu quả, cần thông qua các hoạt động như: đẩy nhanh tiến độ cấp
giấy chứng nhận QSDĐ, xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin đất đai đầy đủ, hiện đại
và khoa học, hình thành đồng bộ hệ thống văn phòng đăng ký QSDĐ ở các địa
phương, cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn gian gọn nhẹ bởi giấy chứng
nhận QSDĐ là chứng thư pháp lý quan trọng giúp minh bạch mọi giao dịch trên thị
trường; bên cạnh đó để thúc đẩy thị trường phát triển hiệu quả ta cũng cần những
chính sách đất đai cởi mở, không còn phân biệt đối xử giữa các loại chủ thể SDĐ phù
hợp hơn với quá trình hội nhập.
3.2.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc giao đất tại các địa phương, kiên
quyết trong xử lý vi phạm trong lĩnh vực này.
Thực tế cho thấy các cuộc kiểm tra thi hành Luật đất đai do Bộ Tài nguyên và môi
trường thực hiện có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển, chấn chỉnh và nâng cao hiệu
quả sử dụng đất của các đối tượng sau khi được nhà nước giao đất. Tuy nhiên, các
cuộc thanh tra, kiểm tra chủ yếu mới dừng ở mức độ phát hiện, hướng dẫn xử lý (cũng
đã có trường hợp xử lý); việc xử lý như thế nào lại phụ thuộc nhiều vào Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra sử dụng đất được thực hiện theo hướng:
Thứ nhất: tập trung vào những địa bàn nơi phát hiện nhiều sai phạm trong việc sử
dụng đất như: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, …những địa phương tập
trung những dự án với quy mô lớn.
Thứ hai, tập trung vào một số nội dung: thu hồi đất giao cho doanh nghiệp mà doanh
nghiệp có vi phạm như: không thực hiện sử dụng đất, sai mục đích sử dụng, không
75
hoàn thành nghĩa vụ tài chính, đất được giao sai thẩm quyền, chưa hoàn thành thủ tục
hành chính…
Thứ ba, cho phép đoàn kiểm tra, thanh tra được báo cáo trực tiếp với Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và môi trường các trường hợp: dự án treo, sử dụng đất sai mục đích, nhu cầu ít
nhưng thực tế sử dụng đất nhiều, hành vi “găm đất”… Bộ Tài nguyên và môi trường
trình Thủ tướng Chính phủ ra quyết định xử lý trực tiếp đối với những trường hợp vi
phạm nghiêm trọng.
Thứ tư, xử lý những trường hợp đã phát hiện mà địa phương không giải quyết (chậm
giải quyết) bằng cách trực tiếp ra quyết định xử lý sai phạm và hình thức kỉ luật đối
với người có trách nhiệm giải quyết cấp địa phương.
76
Kết Luận
Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế hiện nay, chính sách, pháp
luật đất đai có vai trò quan trọng, góp phần khai thác nguồn lực từ đất đai, chuyển
nguồn tài chính tiềm năng thành nguồn tài chính hiện thực cho đầu tư phát triển của
mọi tổ chức kinh tế. Nếu như trước kia, khi đất nước vẫn đang duy trì nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp, Nhà nước chưa chú trọng đến tính kinh tế của đất đai mà
mới chỉ chú trọng đến tính chính trị, xã hội của đất. Hình thức giao đất không thu tiền
sử dụng đất diễn ra rất phổ biến. Quan hệ giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao
đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân xin cấp đất là quan hệ điển hình có tính chất “xin
– cho”, đặc trưng của nền hành chính quan liêu bao cấp. Công tác quản lý đất đai lỏng
lẻo, sử dụng lãng phí tài nguyên đất, tạo nhiều sơ hở cho tiêu cực, tham nhũng. Thì kể
từ khi đất nước chuyển mình sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa, hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất cũng được ra đời. Đánh một dấu
mốc quan trọng trong việc tiền tệ hóa đất đai, công nhận và quản lý về mặt giá trị của
đất. Các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội cũng dẫn làm quen với việc phải trả cho
Nhà nước – chủ thể đại diện sở hữu toàn dân đối với đất đai - một khoản tiền (tiền sử
dụng đất) để có được quyền sử dụng đất. Điều này, đồng thời đã nâng cao ý thức trách
nhiệm của người sử dụng đất, giúp đất được giao được sử dụng hiệu quả. Tuy nhiên,
bên cạnh những bước đột phá trong quy định pháp luật, kết quả thực hiện pháp luật về
giao đất có thu tiền sử dụng đất trong thời gian qua cũng đã bộc lộ không ít những bất
cập, hạn chế.
Trong khuôn khổ của đề tài, khóa luận này xin được đưa ra những phân tích về mặt
lý luận của pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất. Bên cạnh đó, cũng đưa ra
những cái nhìn về thực trạng pháp luật, kết quả thực hiện, đánh giá pháp luật về giao
đất có thu tiền sử dụng đất. Để từ đó, thống kê những bất cập, hạn chế trong các quy
định của pháp luật về vấn đề này. Và cuối cùng là những giải pháp, kiến nghị được
đưa ra nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất.
77
Danh mục tài liệu tham khảo 1) Bộ Tài nguyên và môi trường (2015), “Báo cáo thuyết minh hiện trạng sử dụng
đất, bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2014 trên địa bàn thành phố Hà Nội”, số
5600 BC – STNMT, ngày 8 tháng 9 năm 2015.
2) Bộ Tài nguyên và môi trường (2015), “ Báo cáo công tác quản lý Nhà nước về đất
đai năm 2014, tháng 6 đầu năm 2015 về tình hình triển khai thi hành Luật đất đai
và những vấn đề cần giải quyết tháo gỡ”, ngày 20 tháng 7 năm 2015.
3) Bộ Tài nguyên và môi trường (2012), “ Kinh nghiệm nước ngoài về quản lý và
pháp luật đất đai”, tháng 9 năm 2012.
4) “Công văn số 856/TCT-CS”, ngày 4/3/2016, của Tổng cục Thuế.
5) Thùy Dương (2015), “Sau 24 tháng, CĐT chậm đưa đất vào sử dụng sẽ phải nộp
tiền thuê đất”, báo điện tử Kinh doanh và Pháp Luật, trang
http://kinhdoanhnet.vn/bat-dong-san/du-an/sau-24-thang-cdt-cham-dua-dat-vao-su-
dung-se-phai-nop-tien-thue-dat_t114c18n25001 Truy cập ngày 10/4/2017.
6) PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện (2013), “Đấu giá quyền sử dụng đất và kiến nghị cụ
thể đối với dự thảo sửa đổi, bổ sung luật đất đai”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 14
(246).
7) Công ty Luật TNHH Dương Gia (2013), “Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn
dân”, trang https://luatduonggia.vn/nguyen-tac-dat-dai-thuoc-so-huu-toan-dan
Truy cập 10/4/2017.
8) TS. Lê Hồng Hạnh (2013), “Những quy định mới về giao đất, cho thuê đất của
Luật đất đai năm 2013” báo điện tử “Tạp chí dân chủ và pháp luật”, trang
http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=95. Truy
cập ngày 01/04/2017.
9) Ths. Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), “Pháp luật về giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất đối với doanh nghiệp ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Khoa Luật
(ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
78
10) Tác giả Ninh Thị Hiền (2016), “ Hoạt động trao quyền sử dụng đất của Nhà nước
tại Hoa kì và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, tạp chí Luật học, 12(2016), Hà
Nội.
11) TS.Trần Quang Huy (2008), “Pháp luật về hình thức giao đất có thu tiền sử dụng
đất”, Luận án Tiến sĩ, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
12) Tác giả Vũ Thị Huyền (2016), “Pháp luật về hình thức giao đất có thu tiền sử
dụng đất”, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
13) Tác giả Bửu Lân (2013), “Đà Nẵng thất thoát 3.400 tỷ nhưng dân được lợi”, báo
điện tử VTC news, trang: http://vtc.vn/xa-hoi/da-nang-that-thoat-3400-ty-nhung-
dan-duoc-loi-d129176.html. Truy cập 01/04/2017.
14) TS. Đặng Thị Bích Liễu (2013), Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt
Nam, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15) Luật đất đai năm 2003, Luật số 13/2003/QH2011.
16) Luật đất đai năm 2013, Luật số 45/2013/QH2013.
17) Bộ Luật hình sự 2015, Luật số 100/2015/QH2013.
18) Bộ Luật dân sự 2015, Luật số 91/2015/QH2013.
19) TS. Nguyễn Thị Nga (2015), “ Bàn về vấn đề giá đất trong Luật đất đai năm
2013”, báo Nhà nước và pháp luật, 5(2015), Tr. 41-47.
20) Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính Phủ “Quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật đất đai”.
21) Nghị định 44/2014/NĐ-CP của Chính Phủ “Quy định về giá đất”.
22) Nghị định 45/2014/NĐ-CP của Chính Phủ “Quy định về thu tiền sử dụng đất”.
23) Nghị định 47/2014/NĐ-CP của Chính Phủ “ Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất”.
24) Nghị định 38/2000/NĐ-CP của Chính Phủ “ Về thu tiền sử dụng đất” (đã hết hiệu
lực).
25) Nghị định 102/2014/NĐ-CP của Chính Phủ “ về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai” .
79
26) PGS.TS. Doãn Hồng Nhung (2013), “Chế định sở hữu đất đai qua các thời kỳ và
giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với đất đai”, Viện nghiên cứu lập pháp,
trang:http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/ThucTienPhapLuat/View_Detail.aspx
?ItemID=179 . Truy cập 01/4/2017.
27) Công ty TNHH tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hoàng Phi, Tổng đài tư vấn luật
trên trang: http://tongdaituvanluat.vn/thuc-hien-quyen-cua-dai-dien-chu-huu-ve-
dat-dai-duoc-quy-dinh-nhu-nao/ Truy cập ngày 01/04/2017.
28) Ths. Lưu Quốc Thái (2008), “Quá trình “Thị trường hóa đất đai” ở Trung Quốc,
một số đánh giá và bài học kinh nghiệm”, tạp chí Khoa học pháp lý (Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh), 2(39).
29) Tác giả Châu Hoàng Thân(2016),“ Bất cập trong quy định xác định tiền sử dụng
đất khi Nhà nước giao đất đối với tổ chức kinh tế”, tạp chí Nhà nước và pháp luật,
11(2016), Tr.62-68.
30) “Tham nhũng 3.000 tỉ thời BT Thành ủy Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa bị xử lý?”,
báo điện tử, trên trang http://bao-dong01.blogspot.com/2016/01/tham-nhung-3000-
ti-thoi-bt-thanh-uy.html. Truy cập ngày 11/4/2017.
31) Thông tư số 02/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính “sửa đổi, bổ sung thông tư số
48/2012 ngày 16 tháng 3 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc
xác định giá khởi điểm và chế độ tài chính trong hoạt động đấu giá quyền sử dụng
đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất”.
32) Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT – BTNMT – BTP của Bộ Tài nguyên và Môi
trường kết hợp với Bộ Tư pháp “Quy định việc tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử
dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất”.
33) Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường “Quy định về
hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất”.
34) Thông tư số 48/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính “Hướng dẫn việc xác định giá
khởi điểm và chế độ tài chính trong hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất để giao
đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất”
80
35) Thông tư số 76/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính “Hướng dẫn một số điều của Nghị
định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về thu
tiền sử dụng đất.”
36) Thông tư số 92/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính “Hướng dẫn thực hiện thuế giá trị
gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh;
hướng dẫn thực hiện một số nội dung sửa đổi, bổ sung về thuế thu nhập cá nhân
quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế số
71/2014/QH13 và Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và
sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế”.
81