ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NGỌC QUỲNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
THEO LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013
1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Luật Kinh Doanh Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2013-L Hà Nội – 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NGỌC QUỲNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
THEO LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Luật Kinh Doanh Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2013-L Giảng viên hướng dẫn: TS. ĐẶNG THỊ BÍCH LIỄU Hà Nội – 2017
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông
tin và số liệu tác giả sử dụng trong khóa luận là trung thực. Các luận điểm, dữ liệu
được trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản
thân tôi
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2017
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
3
NGUYỄN THỊ NGỌC QUỲNH
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ............................................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất…. .................................................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất ............................................................................. 7 1.1.2. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ..... 8 1.2. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .................................................................................. 12 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất…….. ......................................................................................................... 12 1.2.2. Đặc điểm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất…….. ............................................................................................................... 12 1.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................................................. 13 1.3.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất……. .......................................................................................................... 13 1.3.2. Quy định về căn cứ để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất……. ................................................................................................... 14 1.3.3. Quy định về đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ............................................................................................................ 14 1.3.4. Quy định về hình thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất……. ................................................................................................................ 15 1.3.5. Quy định về giá đất để tính bồi thường ..................................................... 15 1.3.6. Quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất……. ................................................................................................... 16 1.3.7. Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ......................................... 17 1.4. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................................................. 17 1.4.1.Đối với người có đất bị thu hồi .................................................................. 17 1.4.2. Đối với phương diện kinh tế - xã hội ........................................................ 18 1.4.3. Đối với phương diện chính trị ................................................................... 19 1.5. Kinh nghiệm Quốc tế về thực hiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .................................................................... 19 1.5.1. Kinh nghiệm của Singapore ...................................................................... 19 1.5.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc ................................................................... 23 4
1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. ............. 27 Chương II: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT THEO LUẬT ĐẤT ĐAI NĂM 2013 ................................................................ 29 2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013 ........................................ 28 2.1.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất…….. ......................................................................................................... 29 2.1.2. Quy định về căn cứ để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,,,.…………………………………………………………………………….35 2.1.3. Quy định về đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất…….. .................................................................................................. 38 2.1.4. Quy định về hình thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất……... .............................................................................................................. 38 2.1.5. Quy định về giá đất để tính bồi thường ..................................................... 55 2.1.6. Quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ………… ............................................................................................ 60 2.1.7. Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ......................................... 65 2.2. Một số vấn đề trong thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .............................................................. 68 Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ............................................................................................................ 76 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................................................ 77 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................................................ 79 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 88
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá; là tư liệu sản xuất đặc biệt
gắn liền với cuộc sống của con người. Có thể nói con người không thể tồn tại nếu
không có đất đai bởi mọi hoạt động đi lại, sống và làm việc đều gắn với đất. Hơn
nữa, đất đai còn giữ vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội; là
địa điểm phân bổ các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Ở
Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, trong đó Nhà nước là đại diện chủ sở
hữu, thay mặt toàn thể nhân dân quản lý bằng những quy tắc xử sự chung nhằm
quản lý đất đai hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm và bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy
nhiên với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội hiện nay cùng với sự bùng nổ về
dân số đã tạo áp lực rất lớn cho vấn đề sử dụng và bảo vệ đất.
Việt Nam đang trên đà đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước để đạt được mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
phát triển theo hướng hiện đại. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước,
việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh
tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng là một quá trình tất yếu. Trên cả nước,
hàng nghìn dự án đã và đang được triển khai với kế hoạch dự kiến thu hồi hàng
vạn héc ta đất, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hàng triệu cá nhân, hộ gia
đình. Để bù đắp những thiệt thòi của người bị thu hồi đất , Nhà nước ta đã ban
hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, từng bước hoàn thiện theo
hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho người có đất bị thu hồi ổn định đời
sống và sản xuất.
Thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vẫn
luôn là vấn đề hết sức nhạy cảm, thu hút sự quan tâm, chú ý của người dân. Bởi
việc Nhà nước thu hồi đất trực tiếp phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
1
hồi đất có vai trò quan trọng trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích
kinh tế giữa Nhà nước, chủ đầu tư và người bị thu hồi đất. Thực tế cho thấy đây
là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện
kéo dài và dễ trở thành những điểm nóng gây mất ổn định về chính trị - xã hội.
Nhận thức được sâu sắc những khó khăn, thách thức trong công tác bồi thường,
giải phóng mặt bằng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn
bản pháp luật nhằm thực thi có hiệu quả công tác về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất theo hướng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế
của đất nước.
Trong những năm qua chính sách pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư đã không ngừng được hoàn thiện và đổi mới nhằm giải quyết những
vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng. Đặc biệt với sự ra đời của Luật
đất đai năm 2013 có hiệu lực từ ngày 1/7/2014 pháp luật đất đai đã có những quy
định mới tích cực khắc phục, giải quyết được phần nào những tồn tại, hạn chế
phát sinh trong quá trình thi hành Luật đất đai năm 2003. Tuy nhiên sau nhiều
năm triển khai, Luật đất đai năm 2013 vẫn còn bộc lộ những vướng mắc, thiếu sót
cần được nghiên cứu để chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan; đồng
thời đề xuất những giải pháp tối ưu nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Với những lý do trên, em lựa chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013” làm khóa
luận tốt nghiệp đại học.
2. Tình hình nghiên cứu
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định
quan trọng của pháp luật đất đai. Trong thời gian vừa qua đã có một số công trình,
sách báo nghiên cứu về lĩnh vực pháp luật này dưới khía cạnh lí luận và thực tiễn;
tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các tác giả: PGS.TS Doãn Hồng Nhung:
Pháp luật về định giá đất trong bồi thường giải phóng mặt bằng ở Việt Nam, sách
chuyên khảo năm 2013; PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến: Vấn đề thu hồi đất và bồi
2
thường khi thu hồi đất trong dự thảo luật đất đai sửa đổi, bổ sung, Tạp chí luật
học, 2008; Nguyễn Kim Thoa: Lời giải hữu hiệu cho bài toán thu hồi đất nông
nghiệp, Tạp chí Tài chính, 2010; TS Trần Quang Huy: Chính sách hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất, Tạp chí luật học, 2010; TS Hoàng Thị Nga: Pháp luật về thu hồi
đất , bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải
pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2011; TS Phạm Thu Thủy: Pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Luận văn Tiến sĩ Luật
học, 2014; Nguyễn Thị Lan Hương: Bảo vệ quyền lợi người nông dân khi thu hồi
đất, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế, 2014… Các công trình nghiên cứu khoa học
trên chủ yếu khai thác, phân tích các quy định của Luật đất đai năm 2003 và
nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta từ năm 2003 trở về trước. Trên cơ sở tiếp
thu, kế thừa những tư tưởng khoa học và một số vấn đề mang tính lý thuyết của
các công trình nghiên cứu đi trước, khóa luận đi sâu vào tìm hiểu một cách có hệ
thống, toàn diện về pháp luật bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất trên các phương diện cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật và thực tiễn
thi hành theo Luật đất đai năm 2013.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm đạt được mục đích và nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu đặc điểm, nội dung cơ bản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật trong vấn đề bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Chỉ ra mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân
của các hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ và bố trí tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả công
3
tác thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài nghiên cứu khá rộng và phức tạp. Tuy nhiên trong phạm vi
của khóa luận tốt nghiệp đại học, khóa luận giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên
cứu cụ thể như sau:
Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành dựa trên cơ sở so sánh với Luật đất đai 2003.
Nghiên cứu thực trạng việc thực hiện các quy định pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số tỉnh, thành phố.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau đây: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê Nin; tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó khóa luận còn sử dụng những phương pháp cụ thể sau:
Phương pháp luận giải, phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết,
phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm v.v…được sử dụng tại Chương I
khi nghiên cứu về một sô vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013 để giúp cho
nội dung khóa luận cụ thể, mang một sắc thái riêng biệt.
Phương pháp đánh giá, phương pháp tra cứu tài liệu, phương pháp so sánh
luật học, phương pháp đối chiếu các quy phạm pháp luật v.v… được sử dụng tại
Chương II khi nghiên cứu về thực trạng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013.
Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp v.v…
được sử dụng tại Chương III khi nghiên cứu về phương hướng và giải pháp hoàn
4
thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
6. Ý nghĩa khoa học của khóa luận
Khóa luận đã thành công trong việc nghiên cứu những đặc điểm và nội
dung cơ bản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất; đồng thời hệ thống hóa cơ sở lý luận của các quy định pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo luật đất đai năm 2013
Qua kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo luật đất đai năm 2013,
khóa luận đã nêu rõ mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế trong
việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất hiện nay.
Từ đó, tác giả định hướng, kiến nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định
sao cho hợp lý, tránh gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người dân bị thu
hồi đất. Các đề xuất, định hướng trong công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư
trong đề tài này là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý Nhà nước về
đất đai trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân, đảm bảo cho mục
tiêu phát triển bền vững trên cả nước.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận được kết
cấu như sau:
Chương I : Một sô vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013.
Chương II: Thực trạng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013.
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Mặc dù hết sức cố gắng nhưng do hạn chế của bản thân, thời gian và nguồn
tài liệu tham khảo nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, nhược điểm.
5
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Giảng viên hướng dẫn cũng
như những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn giúp khoá luận ngày
6
càng hoàn thiện hơn!
Chương I :
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất
1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất
Trước hết, để nghiên cứu về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất chúng ta cần phải làm rõ khái niệm về thu hồi đất. Hiểu một cách thuần
túy thì thu hồi đất là việc Nhà nước sẽ tước đi quyền sử dụng của các chủ sử dụng
đất; qua đó thiết lập một quan hệ sử dụng đất mới phù hợp với lợi ích Nhà nước
và xã hội.
Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc Nhà
nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã
giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của
Luật này.”. Cách định nghĩa này dễ dẫn đến nhầm lẫn rằng người sử dụng đất
được thu hồi chỉ là tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn; trong khi đó còn có chủ
thể khác là hộ gia đình, cá nhân lại không được đề cập đến.
Điều 11 khoản 3, Luật đất đai năm 2013 đã bù đắp thiếu sót so với Luật
Đất đai năm 2003 như sau: ”Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định
thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc
thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”. Hay nói cách
khác, thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất đã giao cho các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
* Từ khái niệm trên có thể rút ra một vài đặc điểm của thu hồi đất:
Thứ nhất, thu hồi đất là một hành vi pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật
đất đai được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đây là sự thực thi
một trong những nội dung của quyền lực của Nhà nước về đất đai
Thứ hai, thu hồi đất được thực hiện bởi một quyết định hành chính của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền, mang tính mệnh lệnh, bắt buộc giữa một bên là 7
người sử dụng đất với một bên là Nhà nước ; hai chủ thể này không bình đẳng về
mặt pháp lý
Thứ ba, việc thu hồi đất phải xuất phát từ nhu cầu Nhà nước và Xã hội hoặc
là các chế tài để xử lý vi phạm pháp luật đất đai, cụ thể: Việc thu hồi đất được
chia thành 04 nhóm:
+ Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh.
+ Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng.
+ Thu hồi đất do vi phạm pháp luật
+ Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại
đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người
Tuy nhiên, khóa luận sẽ chỉ tập trung vào nghiên cứu về thu hồi đất do nhu
cầu của Nhà nước vào mục đích quốc phòng, an ninh, pháp triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; ngoài ra còn có trường hợp đặc biệt thu hồi
đất do có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
1.1.2. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
* Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong đời sống thường ngày, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong
trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách
nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Theo từ điển
tiếng Việt thông dụng: “Bồi thường” là “Đền bù những tổn hại đã gây ra”[31]
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội.
Trong lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) khi Nhà
nước thu hồi đất được đặt ra từ rất sớm. Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959
của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại
Chương II đã đề cập việc “Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”.
Tiếp đến Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về
8
quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lâu niên,
các hoa mầu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành phố
cũng đề cập vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt, sau khi Luật
đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số
186/HĐBT ngày 31/5/1990 quy định về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có
rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác, thuật ngữ “bồi thường” được
thay thế bằng thuật ngữ “đền bù”. Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong
Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm
1998 và các Nghị định hướng dẫn thi hành như: Nghị định của Chính phủ số 90-
CP ngày 17/8/1994 và nghị định Chính phủ số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998
đều ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,….Tuy
nhiên, khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001 được
Quốc hội ban hành, thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và tiếp tục xuất
hiện trong Luật đất đai năm 2003 và gần nhất là Luật đất đai năm 2013. [12]
Theo Khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “Bồi thường về đất là việc
Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người
sử dụng đất.”. Như vậy, khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có nghĩa vụ bồi
thường cho người sử dụng đất hợp pháp bị thu hồi đất những giá trị, thiệt hại về
đất và tài sản trên đất theo quy định của pháp luật đất đai. Từ đó, ta có thể hiểu
một cách cơ bản về khái niệm “bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” như sau:
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế phải bù đắp những tổn hại
về đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất hợp
pháp bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật đất đai. [14]
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước nhằm bù đắp tổn hại về quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất do hành vi thu hồi đất của Nhà nước
9
gây ra.
- Bồi thường là hậu quả pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất gây ra; chỉ
phát sinh sau khi có quyết định hành chính về thu hồi đất của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền
- Căn cứ để xác định bồi thường là diện tích đất thực tế bị thu hồi; thiệt hại
thực tế về tài sản, cây cối, hoa màu trên đất và căn cứ vào khung giá do Nhà nước
quy định tại thời điểm thu hồi đất.
* Khái niệm về Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng: “Hỗ trợ: giúp thêm, góp thêm vào”
[31]. Hoạt động này gồm hai hình thức: hỗ trợ về vật chất (tiền và hiện vật) và hỗ
trợ về tình thần (động viên, an ủi)
Thuật ngữ này cũng được sử dụng trong pháp luật nói chúng và pháp luật
đất đai nói riêng. Theo khoản 14 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “ Hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định
đời sống, sản xuất và phát triển.”. Hỗ trợ được xem như là một chính sách trợ cấp
ngoài bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Tùy từng trường hợp, điều kiện và cơ
chế chính sách của từng địa phương mà có những chính sách hỗ trợ khác nhau đối
với người dân có đất bị thu hồi. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm
2013 có quy định các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất :
“ Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:
a) Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất;
b) Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu
hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu
hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển
chỗ ở;
c) Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở;
10
d) Hỗ trợ khác.”
* Khái niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng thì tái định cư được hiểu là đến một nơi
nhất định để sinh sống lần thứ hai (lại một lần nữa) [31].
Theo thuật ngữ pháp lý, tái định cư là trường hợp các cá nhân, hộ gia đình
đang cư trú, làm ăn sinh sống ở một nơi, lại chuyển đến cư trú, làm ăn sinh sống
nơi khác.
Trong pháp luật đất đai, thuật ngữ tái định cư đã được đề cập đến nhưng lại
chưa có quy định nào giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm này. Khoản 3 Điều
42 Luật đất đai năm 2003 chỉ quy định: “Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để
bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ
ở. Khu tái định được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và
phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”.
Từ quy định trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở như sau: TĐC là việc hộ gia đình, những người dân đang cư
trú, làm ăn sinh sống trên đất ở thuộc quyền sử dụng của mình phải chuyển đến
cư trú, làm ăn sinh sống nơi khác do Nhà nước thu hồi đất ở để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.
Việc cá nhân, hộ gia đình phải rời nơi ở cũ của mình chuyển đến nơi ở mới
không phải do ý muốn của họ mà do Nhà nước thu hồi quyền sử dụng đất ở của
họ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng và
phát triển kinh tế. Do vậy, việc giải quyết tái định cư cho các cá nhân, hộ gia đình
khi Nhà nước thu hồi đất là trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
nhằm giúp người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định đời sống, duy trì và phát
triển sản xuất. Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được
bồi thường bằng đất ở, nhà ở hoặc bằng tiền để tự lo chỗ ở mới và được ưu tiên
11
mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Pháp luật là một phương thức hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý của
Nhà nước. Bất cứ một lĩnh vực, một quan hệ xã hội nào phát sinh trong đời sống
xã hội cũng cần đến sự điều chỉnh của pháp luật để hướng đến một trật tự chung,
hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và các bên tham gia quan hệ. Trong lĩnh vực
đất đai, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là
một chế định vô cùng quan trọng. Điều đó thể hiện ở chỗ Nhà nước đã ban hành
hàng loạt các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư trong quá trình thu hồi đất. Chúng ta có thể hiểu khái niệm pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như sau:“Pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nhằm giải quyết
hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của chủ đầu tư và của người bị thu hồi đất”
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Thứ nhất, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất xuất phát từ hình thức sở hữu toàn dân về đất đai. Nhà nước với tư cách là đại
diện chủ sở hữu đối với đất đai nên có quyền phân bổ và điều chỉnh đất đai vì mục
đích pháp triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, Nhà nước có quyền thu hồi đất của người
này để chuyển giao cho người khác. Hơn nữa, để tránh lạm dụng, tùy tiện trong
việc thu hồi và bồi thường nên pháp luật phải quy định rõ ràng, chặt chẽ về căn
cứ thu hồi đất, nguyên tắc, điều kiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trình tự thủ
tục, chế tài xử lý hành vi vi pham.v.v..
Thứ hai, cơ sở để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
12
không chỉ dựa trên những thiệt hại vật chất thực tế mà người bị thu hồi đất phải
gánh chịu mà còn tình đến tổn hại phi thực tế ở thời điểm thu hồi và trong tương
lai mà họ phải đối mặt, đặc biệt là với người nông dân mất đất vì đất chính là tư
liệu sản xuất của họ.
Thứ ba, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất phải giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa lợi ích “công” của Nhà nước và lợi ích
“tư” của người sử dụng đất. Nhà nước cần chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị thu hồi đất do quyền sử dụng đất cũng là một loại quyền về tài
sản được pháp luật bảo hộ và tôn trọng [14]
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất mà
phù hợp với thực tiễn, công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân
thì sẽ được người dân ủng hộ, nhờ đó việc thu hồi đất nhanh chóng. Ngược lại
nếu pháp luật không thực tế, có nhiều khiếm khuyết, hạn chế sẽ không được người
dân đồng thuận dẫn đến khiếu kiện, khiếu nại kéo dài gây mất ổn định chính trị -
xã hội.
1.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Như đã phân tích ở trên, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất bao gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất. Những quy phạm phát luật đó bao gồm các nội dung
cơ bản như sau:
1.3.1. Các nguyên tắc về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là tư
tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ những quy phạm pháp luật liên quan đến bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; tạo cơ sở, nền tảng cho
việc thực hiện và áp dụng các quy định đó vào thực tiễn cuộc sống. Việc quy định
các nguyên tắc về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nhằm
13
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất và đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của người sử dụng
đất, lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của Nhà nước. Nhìn chung, việc bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất dựa trên một số nguyên tắc cơ bản
như: người bị thu hồi đất có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì được bồi
thường, hỗ trợ; việc bồi thường phải đảm bảo đầy đủ các thiệt hại thực tế; việc bồi
thường phải theo giá thị trường; việc bồi thường, hỗ trợ phải phải bảo đảm dân
chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
1.3.2. Các căn cứ để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất
Căn cứ để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là
các yếu tố mà người sử dụng đất cần phải có để có thể được nhận bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật. Việc quy định về các điều kiện được
hưởng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nhằm thu hẹp phạm
vi đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; đảm bảo cho việc bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư được thực hiện công bằng, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn
cuộc sống. Pháp luật cần quy định rõ những trường hợp nào được hưởng bồi
thường, những trường hợp nào không được hưởng bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất; cũng như cần phải xem xét về tình trạng pháp lý của đất bị thu hồi, loại
đất và mục đích sử dụng của mảnh đất đó. Qua đó vừa thể hiện sự nghiêm minh
của pháp luật vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, đảm
bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các chủ thể trong quá trình thu hồi đất. Quy
định về điều kiện được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi là
không thể thiếu khi xem xét, tiến hành bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
1.3.3. Đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất là
nhóm chủ thể bao gồm những người sử dụng đất hợp pháp có đủ các điều kiện để
được hưởng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo quy định
của pháp luật. Việc quy định về đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
14
nhà nước thu hồi đất giúp cho việc thực thi pháp luật được cụ thể, chính xác; các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng chính sách đúng đối tượng. Thông qua
quy định về đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất, người bị thu hồi đất có thể biết mình có thuộc trường hợp được hưởng chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hay không; từ đó họ có thể bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của bản thân trong quá trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng.
1.3.4. Hình thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Về hình thức bồi thường, có hai hình thức bồi thường: bồi thường về đất và
bồi thường về tài sản gắn liền trên đất. Thứ nhất, trong trường hợp được bồi
thường về đất, người bị thu hồi có thể được bồi thường bằng đất có cùng mục đích
sử dụng với đất bị thu hồi hoặc yêu cầu được bồi thường bằng tiền tương ứng với
giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi. Trong trường hợp thu hồi đất ở, người bị thu
hồi đất còn có thể nhận bồi thường bằng nhà ở. Ngoài ra, trong trường hợp người
bị thu hồi đất không thuộc đối tượng được bồi thường về đất thì tùy từng trường
hợp có thể được xem xét bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước
thu hồi đất. Thứ hai, người bị thu hồi đất còn được bồi thường thiệt hại về tài sản
gắn liền trên đất với phương thức bồi thường chính là bồi thường bằng tiền. Về
hình thức hỗ trợ, bao gồm: hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ chuyển đổi
nghề nghiệp và tạo việc làm cho người bị thu hồi đất trong độ tuổi lao động. Về
hình thức tái định cư, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lập và thực hiện các dự
án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường cho người bị thu hồi đất ở mà
phải di chuyển chỗ ở. Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi
đất được bồi thường bằng đất ở, nhà ở hoặc bằng tiền để tự lo chỗ ở mới. Những
quy định về hình thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là
cơ sở pháp lý quan trọng giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể áp
dụng pháp luật một cách nhanh chóng, hiệu quả cũng như giúp người dân nắm rõ
các quyền lợi mà mình được hưởng trong quá trình thu hồi đất, giải phóng mặt
bằng. Qua đó, chúng ta có thể giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể trong quan
hệ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
15
1.3.5. Giá đất để tính bồi thường
Giá đất để tính bồi thường là căn cứ quan trọng để thực hiện bồi thường cho
người sử dụng đất nhằm giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước,
nhà đầu tư và người bị thu hồi đất. Giá đất để tính bồi thường được tính theo
khung giá đất do Nhà nước quy định tương ứng với loại đất bị thu hồi và được
xác định ở thời điểm thu hồi đất. Một điểm quan trọng hơn hết là giá đất để tính
bồi thường phải tương đương với giá đất trên thị trường nhằm đảm bảo lợi ích
hợp pháp của người bị thu hồi đất. Tuy nhiên hiện nay việc giá đất bồi thường quá
thấp so với giá đất trên thị trường vẫn tồn tại và gây ra nhiều tranh chấp trong lĩnh
vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Thêm vào đó, sự
chênh lệch giữa giá đất được Nhà nước bồi thường và giá đất sau khi chuyển đổi
mục đích sử dụng khá lớn, pháp luật cần phải có cơ chế phù hợp nhằm bù đắp
phần nào sự chênh lệch đó, giúp giải quyết hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể
trong quan hệ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Quy định về giá đất hợp lý sẽ
giảm thiểu rất nhiều những khiếu nại, khiếu kiện trong việc thực hiện công tác bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
1.3.6. Trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất
Việc tuân thủ một cách chặt chẽ trình tự thủ tục về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất là vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo tính công
khai, công bằng và dân chủ của pháp luật. Từng bước lập, thẩm định, thực hiện
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; cũng như trách
nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư cần phải được quy định rõ ràng trong Luật đất đai và những văn bản hướng
dẫn thi hành. Nguyên nhân là do những vi phạm pháp luật đất đai cũng như những
khiếu nại, khiếu kiện của người dân tập trung khá nhiều trong lĩnh vực này. Việc
quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất giúp hạn chế việc lạm dụng quyền lực từ phía các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền; tránh những vấn đề tiêu cực như tham nhũng, trục lợi trong quá trình thực
16
hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
1.3.7. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Người bị thu hồi đất có quyền khiếu nại, tố cáo đến cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền nếu không đồng ý với quyết định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất. Khiếu nại, tố cáo của người dân thường liên quan đến
giá đất bồi thường, xác định loại đất bồi thường hay sai phạm về trình tự, thủ tục
trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.v.v… Việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm phát hiện và khắc phục hậu quả của những hành
vi vi phạm pháp luật trong việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng; xây dựng
niềm tin của người dân vào Nhà nước và phát huy tối đa vai trò của pháp luật.
Pháp luật cũng cần quy định những chế tài xử lý các sai phạm trong công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất một cách rõ ràng và mang
tính răn đe. Các chế tài trong lĩnh vực này không chỉ trong phạm vi của Luật đất
đai mà còn liên quan đến một số luật thuộc lĩnh vực khác như Luật Hình sự, Luật
cán bộ công chức.v.v…
1.4. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
Thu hồi đất, giải phóng mặt bằng là quá trình đa dạngvà phức tạp. Thu hồi
đất ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia và lợi
ích của toàn xã hội. Việc thu hồi đất nếu thực hiện không tốt có thể gây ra nhiều
hậu quả xấu đáng kể đến như: người nông dân mất đất canh tác gặp khó khăn
trong việc chuyển đổi nghề nghiệp, không có việc làm, đời sống bấp bênh; gây
ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái và sức khỏe cộng đồng dân cư trên địa
bàn do việc quy hoạch khu công nghiệp không hợp lý; hay cả những vụ khiếu nại,
khiếu kiện kéo dài của người dân đến cơ quan có thẩm quyền.v.v…Do vậy, việc
giải quyết tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất mang
lại ý nghĩa rất to lớn:
17
1.4.1.Đối với người có đất bị thu hồi
Thứ nhất, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phần nào bù đắp lại khoản
lợi ích vật chất mà người có đất bị thu hồi bị mất; nhằm đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng đất
Thứ hai, việc hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nhằm đảm bảo cho
người có đất bị thu hồi có đất để sinh sống, giúp họ ổn định sản xuất
Thứ ba, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ , tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
là cơ sở pháp lý cho người sử dụng đất chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc thu hồi
đất được nhà nước bảo vệ khi quyền lợi của họ có thể bị xâm phạm một cách trái
pháp luật của các chủ thể khác trong xã hội. Hiện nay hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh về vấn đề thu hồi đất bao gồm: Hiến pháp năm 2013, Luật
Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn là: Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/4/2014; Nghị định 44/2014/NĐ-CP ngày 15/4/2014; Nghị định 47/2014/NĐ-
CP ngày 15/4/2014 của Chính phủ; thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày
30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và môi trường. Đây là những cơ sở pháp lý quan
trọng để người sử dụng đất có thể bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ khi
bị xâm phạm.
1.4.2. Đối với phương diện kinh tế - xã hội
Thực tiễn cho thấy công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng không nhận
được sự đồng thuận từ phía người dân dẫn đến hàng loạt các dự án xây dựng cơ
sở hạ tầng, các dự án đầu tư trong và ngoài nước nhiều khi bị đình trệ không thực
hiện được đúng tiến độ đề ra . Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ đầu
tư, Doanh nghiệp bị thiệt hại do máy móc, nguyên vật liệu bị “đắp chiếu”, trả
lương cho người lao động hay lãi suất vay vốn Ngân hàng… Vì vậy, công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư đạt hiệu quả tốt sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp có
thể thực hiện dự án một cách nhanh chóng, góp phần vào việc tăng trưởng nền
kinh tế và nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta.
Tốc độ tăng trưởng bền vững, kinh tế phát triển ổn định là nền tảng thực hiện công
bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, phúc lợi tăng cao, cải thiện đời sống cho người
18
dân.
1.4.3. Đối với phương diện chính trị
Việt Nam là một nước nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu của
người dân nên các chính sách về đất đai có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và có sự
ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định về mặt chính trị. Một trong các chính sách về
đất đai được Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm là chính sách về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nếu chính sách không thỏa đáng,
người dân sẽ phản đối gay gắt, quyết liệt thông qua con đường khiếu nại, khiếu
kiện; khiếu kiện vượt cấp, kéo dài dẫn đến nguy cơ gây mất ổn định về mặt chính
trị; đồng thời làm mất trật tự an ninh xã hội do người dân tập trung thành đám
đông cùng khiếu nại với chính quyền địa phương hay khiếu kiện tới cơ quan Tòa
án. Điều này rất dễ phát sinh thành những “điểm nóng” trong lòng xã hội. Vì vậy,
việc giải quyết tốt vấn đề về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất cũng chính là thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội để phát triển đất nước,
củng cố vững chắc sự ổn định về mặt chính trị trên phạm vi cả nước.
Tóm lại, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có mục đích, ý nghĩa vô cùng to lớn.
Nó không chỉ bù đắp tổn thất mà người sử dụng đất phải gánh chịu mà còn giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội là hậu quả của việc Nhà nước thu hồi đất gây ra.
Hơn nữa, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
được thực hiện tốt đồng nghĩa với việc ổn định được tình hình chính trị, giải quyết
hài hòa mối quan hệ về lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất
trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.5. Kinh nghiệm Quốc tế về thực hiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.5.1. Kinh nghiệm của Singapore
Singapore là một quốc đảo nhỏ bé và khá thành công trong công tác quản lý
đất đai. Singapore có chế độ sở hữu đất đai đa dạng, trong đó chấp nhận sở hữu
tư nhân về đất đai, tuy nhiên đất đai do Nhà nước sở hữu vẫn chiếm tỷ trọng lớn
nhất. Dù là hình thức sở hữu nào thì việc quản lý và sử dụng đất cũng đều phải
19
tuân thủ theo quy định về quy hoạch đất đai do Nhà nước ban hành.
Một điểm đặc thù trong pháp luật đất đai của Singapore đó là không có
trường hợp người dân tự chuyển nhượng đất cho nhà đầu tư như ở Việt Nam do
Nhà nước không cho phép cũng như thời gian sử dụng đất khác nhau. Nhà nước
đóng vai trò trung gian giữa người sử dụng đất và nhà đầu tư, tránh hiện tượng
tiêu cực trong việc thu hồi đất và bồi thường. Nói cách khác mọi việc chuyển
nhượng làm thay đổi mục đích sử dụng đều phải thông qua cơ quan Nhà nước.
a. Nguyên tắc thu hồi đất
Theo Luật về thu hồi đất – Land Acquisition Act, Nhà nước toàn quyền quyết
định trọng vấn đề thu hồi đất, người dân có nghĩa vụ phải tuân theo. Luật pháp
Singapore cũng quy định việc thu hồi đất được thực hiện phải dựa trên quy hoạch
đất đai được Nhà nước phê duyệt và tuân thủ các nguyên tắc chủ yếu sau đây:
(i) Thu hồi đất bắt buộc để sử dụng đất vào mục đích công cộng;
(ii) Hạn chế việc thu hồi đất thuộc sở hữu tư nhân (chỉ thu hồi trong các trường
hợp cần thiết);
(iii) Việc thu hồi đất phải được sự đồng ý của Chính phủ, sau khi đã thảo luận
và tham khảo ý kiến của cộng đồng;
(iv) Việc thu hồi đất được thực hiện theo quy trình chặt chẽ do pháp luật quy
định.
b. Các trường hợp thu hồi đất
Singapore mặc dù có nhiều hình thức sở hữu khác nhau về đất đai (sở hữu
nhà nước, sở hữu tư nhân) song việc thu hồi đất chỉ được thực hiện để sử dụng
vào mục đích công cộng như: phát triển cơ sở hạ tầng; xây dựng công trình phúc
lợi xã hội; chỉnh trang đô thị...
c. Cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất
Nhà nước đứng ra thu hồi đất rồi giao hoặc cho các công ty, nhà đầu tư thuê
đất. Ở Singapore không có hiện tượng các chủ đầu tư tự thương lượng với người
sử dụng đất để mua lại đất thực hiện dự án đầu tư. Điều này tạo sự công bằng
trong việc thu hồi đất, bên cạnh đó, chủ đầu tư không phải mất nhiều thời gian
20
công sức , dự án cũng được triển khai đúng tiến độ dễ dàng hơn.
Công tác thu hồi đất phải được sự cho phép bởi Chính phủ và các thành viên trong
Nội các Chính phủ, sau khi đã thảo luận và tham khảo ý kiến cộng đồng để bảo
vệ quyền lợi cho người dân.
Nhà nước có trách nhiệm thông báo cho người bị thu hồi đất biết trước từ 2
đến 3 năm trước khi ra quyết định thu hồi đất. Trường hợp người bị thu hồi đất
không thực hiện quyết định thu hồi đất sẽ bị nhà nước áp dụng các biện pháp
cưỡng chế hoặc bị phạt theo Luật xâm chiếm đất công (State Lands Encroachment
Act).
d. Bồi thường khi thu hồi đất
Ở Singapore, mức bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất được xác định căn cứ
vào giá trị thực tế của bất động sản của chủ sở hữu; các chi phí tháo dỡ. di chuyển
chỗ ở hợp lý; chi phí mua nguyên vật liệu xây dựng nhà ở mới… Trường hợp
người bị thu hồi đất không tán thành với phương án bồi thường thiệt hại do Nhà
nước xác định, họ có quyền thuê một tổ chức định giá tư nhân để tiến hành định
giá lại các chi phí thiệt hại. Nhà nước trả tiền cho công tác định lại giá này.
Ngoài ra, Việc xác định giá bồi thường được Singapore thực hiện căn cứ vào
giá trị bất động sản do người bị thu hồi đất đầu tư chứ không căn cứ vào giá trị
thực tế của bất động sản. Phần giá trị tăng thêm do sự đầu tư cơ sở hạ tầng của
Nhà nước được bóc tách khỏi giá trị bồi thường của bất động sản. Điều này có
nghĩa là Nhà nước không bồi thường theo giá bất động sản hiện tại mà bồi thường
theo giá thấp hơn do trừ đi phần giá trị bất động sản tăng thêm từ sự đầu tư cơ sở
hạ tầng của Nhà nước.
Phương thức thanh toán khi Nhà nước chi trả tiền bồi thường thu hồi đất : đợt
thứ nhất, nhà nước trả trước 20% tổng giá trị bồi thường khi chủ nhà thực hiện
việc tháo dỡ nhà ở. Đợt thứ 2, phần còn lại sẽ được thanh toán khi người bị thu
hồi đất ở hoàn tất việc di chuyển chỗ ở. Nếu hộ gia đình có nhu cầu cấp bách về
nhà ở, Nhà nước sẽ thu xếp cho thuê với giá phù hợp.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng xem xét bồi thường cho người bị thu hồi đất
21
các thiệt hại sau đây:
(i) Trường hợp công trình công cộng đi ngang qua bất động sản gây ảnh hưởng
xấu đến lợi ích của người sử dụng đất như tiếng ồn, khói bụi, người đi đường
có thể nhìn vào nhà v.v;
(ii) Trường hợp công trình công cộng gây chia cắt manh mún mảnh đất hiện hữu;
chi phí để hoàn tất thủ tục đứng tên chủ sở hữu hoặc chủ sử dụng đối với phần
diện tích đất còn lại. [15]
e. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về bồi thường khi thu hồi đất.
Để đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất, Nhà nước Singapore quy
định trong trường hợp người bị thu hồi đất không đồng ý với mức giá bồi thường
thì họ có quyền khiếu kiện. Hội đồng bồi thường là người đưa ra câu trả lời đối
với người khiếu kiện và có thẩm quyền quyết định về giá trị bồi thường. Nếu câu
trả lời của Hội đồng bồi thường vẫn không được người bị thu hồi đất đồng ý thì
họ có quyền đưa vụ việc ra Tòa Thượng thẩm.
Có thể thấy nguyên tắc công bằng, minh bạch được đề cao trong quá trình
thực hiện chính sách bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở Singapore nên nhận
được sự đồng thuận cao từ phía của người dân. Tỷ lệ cưỡng chế khi thu hồi đất
thấp, không đáng kể, chỉ dưới 1% tổng số các trường hợp thu hồi đất.
f. Vấn đề tái định cư cho người bị thu hồi đất
Việc tái định cư được thực hiện hiệu quả do được triển khai gắn với việc
bố trí nhà ở do nhà nước xây dựng (nhà ở công) và cung cấp với giá rẻ đi kèm với
một số điều kiện. Đây là một điểm đặc thù và rất độc đáo của thị trường bất động
sản tại Singapore. Cục Phát triển Nhà (HDB) là cơ quan tập trung thực hiện việc
cung cấp nhà ở công cho người dân, trong đó chủ yếu phục vụ tái định cư. Ngoài
ra, Chính phủ còn có các ưu đãi, hỗ trợ cho chương trình phát triển nhà ở của
HDB, nhất là các chính sách về tài chính, huy động vốn và hỗ trợ, tạo điều kiện
cho người mua nhà [13]
Việc tái định cư được thực hiện dựa trên cơ sở thu thập, xác minh các thông
tin một cách cẩn thận, tỉ mỉ, ví dụ như: Số lượng thành viên trong hộ gia đình;
22
nguồn thu nhập; nghề nghiệp; nơi làm việc; tình trạng pháp lý của bất động
sản...Điều đó đã tạo căn cứ vững chắc cho quá trình thực hiện tái định cư chính
xác, công bằng.
1.5.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam
về chính trị, kinh tế, văn hóa... Vì vậy việc học hỏi những kinh nghiệm, thành tựu
từ pháp luật Trung Quốc là vô cùng cần thiết đối với Việt Nam; cụ thể là trong
lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Ở Trung
Quốc, đất đai thuộc chế độ công hữu: chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu
tập thể. Đất đai ở khu vực thành thị và đất và đất xây dựng thuộc sở hữu toàn dân.
Còn đất ở khu vực nông thôn và đất nông nghiệp thuộc sở hữu tập thể nông dân
lao động.
Trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, có thể nói mục
tiêu bao trùm lên chính sách của Trung Quốc là hạn chế đến mức tối đa việc thu
hồi đất, giải tỏa mặt bằng, cũng như số lượng người bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi
đất để thực hiện dự án đầu tư. Nếu như việc thu hồi đất là không thể tránh khỏi
thì có sự chuẩn bị cẩn thận phương án đền bù, trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích
của nhà nước, tập thể và cá nhân, đảm bảo cho những người bị thu hồi đất có thể
khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.
a. Nguyên tắc bồi thường
Khoản tiền bồi thường cho giải tỏa mặt bằng phải đảm bảo cho người dân bị
thu hồi đất có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ. Việt Nam cũng áp dụng
nguyên tắc này tuy nhiên chưa thể hiệu quả như ở Trung Quốc. Ở Bắc Kinh, phần
lớn các gia đình dùng số tiền bồi thường đó cộng thêm khoản tiền tiết kiệm của
họ có thể mua một căn hộ mới. Đối với khu vực nông thôn, người dân có thể dùng
số tiền đó để mua hai căn hộ ở cùng một nơi, tuy nhiên vẫn còn có những trường
hợp cá biệt khác
b. Các trường hợp thu hồi đất
Đất đai thuộc chế độ công hữu nên lợi ích công là điều kiện tiền đề để áp
23
dụng quyền thu hồi đất một cách hợp pháp. Việc thu hồi đất được thực hiện chặt
chẽ để tránh sự lạm quyền của chính quyền địa phương. Phạm vi đất bị thu hồi
phục vụ cho lợi ích công gồm: đất phục vụ cho quân sự - quốc phòng; các cơ quan
nhà nước và các cơ quan nghiên cứu sự nghiệp; công trình giao thông, năng lượng;
kết cấu hạ tầng công cộng; công trình công ích và phúc lợi xã hội, công trình trọng
điểm quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái và phục vụ cho các lợi ích công cộng
khác theo quy định của pháp luật.
c. Trình tự, thủ tục thu hồi đất
Ở Trung Quốc, quy trình thu hồi đất gồm 4 bước:
(i) Khảo sát về các điều kiện thu hồi đất (dân số nông nghiệp, đất canh tác trên
thu nhập đầu người, tổng sản lượng hàng năm, diện tích đất, loại đất và vấn
đề sở hữu của khu vực bị ảnh hưởng)
(ii) Xây dựng dự thảo kế hoạch thu hồi đất;
(iii) Cơ quan quản lý đất đai báo cáo với chính quyền địa phương, trình kế hoạch
thu hồi đất và các tài liệu khác lên cấp cao hơn để kiểm tra, phê duyệt;
(iv) Thông báo, công bố dự án sau khi dự án được phê duyệt. Việc công bố
phải được thực hiện kịp thời, cụ thể về kế hoạch thu hồi và bồi thường. Chính
quyền địa phương có trách nhiệm thông báo và giải thích các vấn đề có liên
quan. Sau ngày thông báo, các tài sản trong khu vực dự án sẽ không được cải
tạo, mở rộng.
d. Cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất
Ở Trung Quốc, chỉ có Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương mới có thẩm quyền thu hồi đất. Công tác quản lý giải phóng
mặt bằng được giao cho Cục Quản lý tài nguyên đất đai tại các địa phương thực
hiện. Chủ thể được nhận khu đất sau khi được thu hồi sẽ thuê một đơn vị xây dựng
giải tỏa mặt bằng khu đất đó và có trách nhiệm bồi thường cho người sử dụng đất
sau khi thu hồi.
Quốc vụ viện (Chính phủ) quyết định thu hồi đất nông nghiệp từ 35ha trở
24
lên, đối với loại đất khác là 70ha trở lên.. Dưới hạn mức đất này, chính quyền cấp
tỉnh ra quyết định thu hồi đất. Đất nông nghiệp sau khi thu hồi sẽ chuyển từ chế
độ sở hữu tập thể thành chế độ sở hữu nhà nước.
e. Bồi thường khi thu hồi đất
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, khi Nhà nước thu hồi đất thì người
nào sử dụng đất sau đó sẽ có trách nhiệm bồi thường. Tiền bồi thường này bao
gồm: lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước và các khoản tiền trả cho người
có đất bị thu hồi. Nguyên tắc bồi thường khi thu hồi đất được xác định là phải
bảo đảm cho người bị thu hồi đất có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ.
Người bị thu hồi đất được thanh toán ba loại tiền: tiền bồi thường đất đai,
tiền trợ cấp về tái định cư, tiền trợ cấp bồi thường hoa màu trên đất. Cách tính tiền
bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái định cư đất không căn cứ giá thị trường, mà
phụ thuộc vào mục đích sử dụng ban đầu của khu đất bị thu hồi (căn cứ theo tổng
giá trị tổng sản lượng của đất đai những năm trước đây rồi nhân với hệ số). Tiền
bồi thường cho hoa màu, cho các loại tài sản trên đất được tính theo giá cả hiện
tại. Cụ thể :
+ Đối với đất nông nghiệp, cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp
tái định cư căn cứ theo giá trị tổng sản lượng của đất đai những năm trước đây rồi
nhân với một hệ số do nhà nước quy định. Mức bồi thường được tính bằng 6 đến
10 lần giá trị sản lượng hàng năm trung bình của ba năm trước khi thu hồi. Trợ
cấp tái định cư được tính bằng 4 đến 6 lần giá trị sản lượng hàng năm trung bình.
Bồi thường về hoa màu và các công trình hiện có sẽ do chính quyền địa phương
quyết định. Trong trường hợp mức bồi thường không đủ để duy trì mức sống ban
đầu, thì có thể tăng thêm, tuy nhiên, tổng mức bồi thường không vượt quá 30 lần
giá trị sản lượng trung bình của 3 năm trước khi thực hiện thu hồi nếu như các
quy định trong luật không đủ duy trì mức sống hiện tại của người nông dân.
+ Đối với đất ở, phương thức chủ yếu của Trung Quốc là trả tiền và hỗ trợ.
Số tiền bồi thường được xác định bao gồm: giá cả xây dựng lại nhà ở, sự chênh
lệch giữa xây dựng lại nhà mới và nhà cũ; giá đất tiêu chuẩn và trợ cấp về giá. Giá
25
xây dựng nhà mới được xác định là khoảng cách chênh lệch giữa giá trị còn lại
của nhà cũ và chi phí xây dựng lại nhà mới. Còn giá đất tiêu chuẩn do Nhà nước
quyết định, căn cứ theo giá đất trong cùng khu vực. Việc trợ cấp về giá cũng do
chính quyền xác định. Khoản tiền bồi thường này được tính theo mét vuông, cộng
lại và nhân với diện tích xây dựng của nhà ở. Trường hợp Nhà nước có nhà ở tái
định cư thì người được bồi thường sẽ được phân nhà với diện tích tương đương
số tiền họ đã nhận được bồi thường [15]
Việc bồi thường cho người dân ở thành phố khác với việc bồi thường cho
người dân ở nông thôn, do sự khác nhau về hình thức sở hữu đất đai. Điều này thể
hiện ở chỗ: đối với dân thành thị Nhà nước bồi thường bằng tiền là chính; đối với
người dân ở nông thôn thì cách thức linh hoạt hơn, mỗi đối tượng có hình thức
bồi thường khác nhau như tiền bồi thường về sử dụng đất đai, tiền bồi thường về
hoa màu, bồi thường tài sản tập thể.
f. Chính sách giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất [16]
Để giải quyết việc làm và thu nhập cho những người bị thu hồi đất trong quá
trình phát triển công nghiệp và đô thị hóa, nhà nước Trung Quốc đã thực hiện các
biện pháp sau đây:
+ Phát triển các doanh nghiệp địa phương để thu hút việc làm ở khu vực
nông thôn. Nhà nước khuyến khích đầu tư và tham gia đầu tư cùng với tư nhân
vào khu vực phi nông nghiệp để thúc đẩy ra đời và phát triển các doanh nghiệp
địa phương. Việc khuyến khích xây dựng các doanh nghiệp địa phương không chỉ
góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm tại chỗ, mà còn góp phần giảm sức
ép về việc làm ở các đô thị lớn.
+ Chuyển lao động dư thừa sang các ngành công nghiệp và dịch vụ ở các
vùng nông thôn hoặc chuyển họ đến các thành phố. Trung Quốc đã triển khai xây
dựng các đô thị qui mô vừa và nhỏ. Giải pháp này không chỉ tạo ra nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tạo việc làm cho lao động, giảm bớt lượng người nhập cư vào
các thành phố lớn, mà còn góp phần tối đa hoá việc phân bổ các nguồn lực ở các
khu vực, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Nó dễ được người
26
nông dân tiếp nhận và hưởng ứng hơn là ngay lập tức để họ vào sống và làm việc
ở các đô thị lớn. Đến nay, Trung Quốc đã có nhiều mô hình về xây dựng đô thị
nhỏ. Nhiều đô thị nhỏ đã trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giải trí cũng
như giáo dục và thông tin.
1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Qua kinh nghiệm của một số nước được phân tích ở trên, Việt Nam có thể
rút ra một số kinh nghiệm nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như sau:
Một là, Nhà nước cần giao thẩm quyền phán quyết cuối cùng về bồi thường
hỗ trợ cho các tổ chức không thuộc bộ máy hành chính nhằm tăng tính khách quan
trong việc xác định mức bồi thường, hỗ trợ [18]. Xây dựng một cơ quan định giá
đất chuyên nghiệp, mang tính độc lập là điều cần thiết để xây dựng một mô hình
định giá đất phù hợp, khách quan, chính xác. Thêm vào đó, tổ chức định giá đất
cần có những chuyên gia được đào tạo bài bản, có chứng chỉ chuyên môn về định
giá đất, như vậy có thể giải quyết hài hòa lợi ích giữa các bên trong quá trình bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư. Ví dụ như ở Singapore, nếu không nhận được sự đồng
thuận của người bị thu hồi đất, họ có quyền thuê một tổ chức định giá đất tư nhân
để tiến hành định giá lại.
Hai là, Nguyên tắc người nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm bồi
thường cần phải được thắt chặt để có thể gắn kết quyền lợi được hưởng với trách
nhiệm phải thực hiện. Đây là điều mà nhiều nước đã áp dụng để tạo sự công bằng
trong công tác thu hồi đất, đặc biệt là trong pháp luật Trung Quốc [14]. Ngoài ra,
Nhà nước cần có những biện pháp nhằm thông báo rộng rãi các dự án quy hoạch
trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tránh trường hợp chủ sở hữu biết
nhưng vẫn bán khu đất.
Ba là, Việt Nam cần ưu tiên cơ chế thỏa thuận hơn là cưỡng chế nhằm đạt
được sự thỏa thuận cao nhất từ phía người bị thu hồi đất. Điều đó sẽ giúp Nhà
nước và người sử dụng đất trao đổi, đóng góp ý kiến để có thể tìm được tiếng nói
27
chung trong phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tuy nhiên, áp dụng cưỡng
chế là việc cần thiết trong trường hợp không đạt được sự thỏa thuận, gây ảnh
hưởng đến các dự án cần thực hiện.
Chương II
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT THEO LUẬT ĐẤT
ĐAI NĂM 2013
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013
Việc thu hồi đất trong những năm vừa qua đã diễn ra một cách mạnh mẽ
nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng cho việc phát triển kinh tế - xã hội; an ninh, quốc
phòng trên phạm vi cả nước. Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản pháp lý liên
quan ra đời đã góp phần tháo gỡ những khó khăn trong lĩnh vực bồi thường, tái
định cư khi thu hồi đất so với trước đây; phù hợp với chế định về đất đai được 28
quy định trong Hiến pháp (sửa đổi). Sự ra đời pháp luật đất đai hiện hành và các
nghị định hướng dẫn thi hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án phát triển
kinh tế trong thời gian, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí
Minh, Hải phòng, Đà Nẵng, Bình Dương,…. Điều này góp phần rất lớn vào việc
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đẩy mạnh phát triển kinh tế,
tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài ở
nước ta.
Các tỉnh thành phố đã ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách cụ thể
để đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất. Ví dụ như: Hà Nội ban hành những
văn bản sau : Quyết định 23/2014/QĐ-UBND về nội dung thuộc thẩm quyền của
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội do Luật Đất đai 2013 và Nghị định về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà
Nội; Quyết định 15/2016/QĐ-UBND sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định
ban hành kèm theo Quyết định 23/2014/QĐ-UBND do Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội ban hành;.v.v... Hải Phòng ban hành Quyết định 2680/2014/QĐ-
UBND về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn do
Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng ban hành; và còn các văn bản hướng dẫn
thi hành của các tỉnh thành khác trên phạm vi toàn đất nước. Ta có thể thấy, Nhà
nước đã phần nào quan tâm đến đời sống và lợi ích của người dân bị thu hồi đất
thông qua những quy định về giá đất bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc làm, đào
tạo chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ tái định cư… được triển khai tới từng hộ dân.
2.1.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
Trước đây, các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2003 được quy định tại Điều 41, 42, và
43. Tuy nhiên sau nhiều năm thực hiện, những quy định này thực tế đã không thể
truyền tải hết các nội dung mang tính nguyên tắc để các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền tại địa phương, bộ, ngành thực hiện một cách thống nhất khi xử lý
29
những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư. Do đó, Luật đất đai năm 2013 ra đời nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và
lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất; khắc phục những yếu kém, bất cập còn
tồn tại; đồng thời giảm thiểu các khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo của công dân trong
việc bồi thường, giải phóng mặt bằng khi bị thu hồi đất. Luật Đất đai năm 2013
vừa tiếp tục phát huy, kế thừa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc
sống của pháp luật đất đai năm 2003; nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung một số
quy định định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật Đất đai năm
2003.
Một điểm mới đáng lưu ý là Luật Đất đai 2013 đã tách nguyên tắc bồi
thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất kinh
doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt (Điều 74 và Điều 88) và
có quy định thêm một điều luật riêng biệt về nguyên tắc hỗ trợ khi nhà nước thu
hồi đất (Điều 83). Qua đó, các bộ, nghành, địa phương và người thu hồi đất căn
cứ vào các quy định cụ thể về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất để thống nhất thực hiện. Nhìn chung việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất dựa trên một số nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất có đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật thì người được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Tại khoản 1 Điều 74 Luật đất đai năm 2013 có quy định các nguyên tắc bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất:“Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi
đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì
được bồi thường”. Nguyên tắc trên thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước đối với lợi
ích chính đáng của người sử dụng đất. Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường
thiệt hại khi lấy đi phần lợi ích chính đáng của họ. Tuy nhiên, người sử dụng đất
phải đảm bảo các điều kiện về loại đất mà mình đang sử dụng và về chứng nhận
quyền đối với đất đó; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường về đất thì
họ sẽ được xem xét bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.
Ngoài việc được bồi thường về đất và chi phí đầu tư vào đất thì người bị
30
thu hồi đất còn được xem xét hỗ trợ, quy định tại Khoản 1 Điều 83 Luật đất đai
năm 2013 về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: “a) Người sử dụng đất
khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường theo quy định của Luật này
còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ”. Đây cũng được coi là một điểm mới của Luật
Đất đai năm 2013. Việc quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có ý nghĩa
hết sức to lớn, đặc biệt với người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, bởi lẽ đất
nông nghiệp là tư liệu sản xuất của họ. Có thể nói hỗ trợ là biện pháp bổ sung rất
cần thiết nhằm bù đắp một cách làm trọn vẹn những thiệt hại do việc thu hồi đất
gây ra, đảm bảo hơn nữa quyền và lợi ích chính đáng của người bị thu hồi đất.
Chính sách hỗ trợ hướng tới bù đắp những thiệt hại vô hình như công ăn việc làm,
thay đổi môi trường sống hay những tổn thất về mặt tinh thần khác của người bị
thu hồi đất. Đây không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn là trách nhiệm xã hội của
Nhà nước để đảm bảo phát triển đồng bộ, toàn diện và thực hiện tốt vấn đề an sinh
xã hội.
Thứ hai, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đảm bảo bù đắp đầy
đủ các thiệt hại thực tế của người có đất bị thu hồi
Tại khoản 2 Điều 74 Luật đất đai 2013 có quy định: “Việc bồi thường được
thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu
không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của
loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định
thu hồi đất”. Theo đó, khi Nhà nước thu hồi đất thì bồi thường bằng đất cùng loại,
nếu không có đất cùng loại thì bồi thường bằng tiền với giá trị tương đương tại
thời điểm thu hồi đất. Trước hết, bồi thường về đất trước hết phải đảm bảo tính
cân xứng. Cách tiếp cận này vừa giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thu
hồi đất, giúp họ không bị thua thiệt về giá đất được bồi thường, vừa nhằm ngăn
ngừa tình trạng người bị thu hồi đòi hỏi giá bồi thường quá cao do giá trị của đất
đai tăng lên từ việc chuyển mục đích sử dụng đất hoặc do sự đầu tư của Nhà nước
hoặc các nhà đầu tư mang lại. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định bồi thường bằng
đất có cùng mục đích sử dụng thường ít khả thi trong trường hợp thu hồi đất nông
31
nghiệp do quỹ đất nông nghiệp hầu như đã được giao hết cho các hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định lâu dài nên không còn đất nông nghiệp để bồi thường. Do
đó, hầu hết các địa phương hiện nay đều dùng phương thức bồi thường bằng tiền
tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất.
Khi Nhà nước thu hồi đất, người dân không chỉ bị thiệt hại về đất mà còn
chịu thiệt hại về tài sản gắn liền trên đất. Để đảm bảo bồi thường đầy đủ các thiệt
hại, Nhà nước còn phải bồi thường cả những thiệt hại về tài sản, sản xuất kinh
doanh. Điều 88 Luật đất đai năm 2013 quy định về việc bồi thường thiệt hại về
tài sản khi Nhà nước thu hồi đất:
“1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị
thiệt hại về tài sản thì được bồi thường;
2. Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng sản
xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại”.
Đây là sự bảo hộ của Nhà nước đối với một trong những quyền năng cơ bản
của người sử dụng đất: quyền hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất
được giao. Tài sản đầu tư trên đất hợp pháp thuộc quyền sở hữu của người có đất
bị thu hồi, khi Nhà nước thu hồi đất tài sản đó không còn. Do vậy, Nhà nước cần
phải tính toán những thiệt hại thực tế của tài sản và bồi thường thích đáng cho
người bị thu hồi đất. Tuy nhiên không phải tài sản nào có trên đất bị thu hồi cũng
được bồi thường, mà cần phải dựa trên tính hợp pháp của tài sản đó, ví dụ như:
tài sản gắn liền với đất được tạo ra trái với mục đích đất đã được xác định trong
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thì không được bồi thường hoặc tài sản gắn liền
với đất được tạo lập sau khi có quyết định thu hồi đất thì không được bồi
thường.v.v… Trong trường hợp tài sản trên đất thuộc đối tượng không được bồi
thường thì tùy từng trường hợp cụ thể được hỗ trợ về tài sản.
Thứ ba, việc bồi thường, tái định cư phải theo giá thị trường
Điều 74 Luật đất đai 2013 có quy định: “bồi thường bằng tiền theo giá đất
cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm
32
quyết định thu hồi đất”. Điều 114 Luật đất đai năm 2013 quy định cụ thể về bảng
giá đất và giá đất cụ thể như sau:“Việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên cơ
sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá
đất trong cơ sở dữ liệu đất đai”. Hay trong quy định về bồi thường chi phí đầu tư
vào đất còn lại tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về việc
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất: “Chi phí đầu tư vào đất
còn lại được tính phải phù hợp với giá thị trường tại thời điểm có quyết định thu
hồi đất”. Như vậy, pháp luật quy định rõ việc bồi thường phải theo giá thị trường.
Tuy nhiên, thực tiễn hiện này cho thấy giá đất bồi thường vẫn thường được tính
thấp hơn so với giá đất trên thị trường. Vấn đề này cũng gây ra những khiếu nại,
khiếu kiện nhiều nhất hiện nay trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Thứ tư, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải bảo đảm dân chủ, khách
quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật
Luật đất đai năm 2013 khẳng định một cách cụ thể, rõ ràng tại:
+ Khoản 3 Điều 74 về Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi
đất: ‘Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách
quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”
+ Điểm b khoản 1 Điều 83 về Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
‘việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng
quy định của pháp luật”.
Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường cũng như hỗ trợ khi nhà nước thu hồi
đất đều đề cập tới tính bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, kịp thời, công
khai minh bạch, đúng pháp luật. Đây vừa là một đòi hỏi khách quan, vừa là cơ
chế kiểm soát quá trình thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu
hồi đất. Nguyên tắc dân chủ được hiểu là trong quá trình bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất cần phải tiếp thu ý kiến, nguyện vọng của người dân, đặc
biệt từ phía những người bị thu hồi đất; bởi họ là những người gánh chịu hậu quả
trực tiếp từ việc thu hồi đất. Công bằng được thể hiện ở chỗ: với những trường
33
hợp thu hồi đất giống nhau về hoàn cảnh địa lý, về loại đất, về tính chất và căn cứ
thu hồi thì người bị thu hồi đất sẽ được nhận mức bồi thường tương đương nhau.
Thêm vào đó, việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất phải được thực
hiện một cách công khai, minh bạch trong từng khâu, từng quy trình. Yếu tố này
sẽ giúp ngăn ngừa các hành vi tiêu cực trong công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Một điểm đáng lưu
ý là Luật đất đai Việt Nam vẫn chưa diễn giải thế nào là bồi thường kịp thời đối
với các trường hợp thu hồi đất, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong công tác tổ chức,
thực hiện. Thực tế cho thấy có rất nhiều trường hợp người dân sau khi bị thu hồi
đất rất lâu mới được nhận bồi thường, hỗ trợ. Do đó, chúng ta cần phải có một
quy định rõ ràng về thời điểm người dân được nhận bồi thường để đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch được thể
hiện xuyên suốt thông qua các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất: các điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất; quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; quy định về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện khi Nhà
nước thu hồi đất... được phân tích ở phần tiếp theo của Khóa luận.
Ngoài ra, pháp luật đất đai cần bổ sung nguyên tắc đảm bảo tính thống
nhất, nhất quán trong chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất (nhất quán về thời gian, quy định). Nếu không có sự nhất quán trong chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì tình trạng mỗi địa phương, mỗi dự án, mỗi
công trình có mức bồi thường và hỗ trợ khác nhau vẫn còn tồn tại và làm nảy sinh
sự so sánh thiệt hơn từ phía người dân. Trong một số trường hợp, trên cùng một
thửa đất, một số người dân chấp nhận phương án bồi thường tuy nhiên lại có một
số người chây ì, không chịu nhận bồi thường nhằm được hưởng một mức bồi
thường khác cao hơn. Điều đó không những gây mẫu thuẫn từ phía những người
có đất bị thu hồi mà còn ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, gây ảnh hưởng
34
xấu đến nền kinh tế - chính trị.
2.1.2. Quy định về căn cứ để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
* Có quyết định thu hồi đất của UBND cấp huyện hoặc UBND cấp tỉnh:
Đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ
chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải có quyết định thu hồi đất của UBND cấp tỉnh. Đối với đất của hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng dân cư; đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
sở hữu nhà ở tại Việt Nam phải có quyết định thu hồi đất của UBND cấp huyện.
Tuy nhiên, theo quy định của Luật đất đai năm 2013 thì Nhà nước chỉ bồi
thường, hỗ trợ trong trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng được quy định tại điều 61 và
62 Luật đất đai năm 2013
* Có quyết định phê duyệt phương án, tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư.
Sau khi hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, việc
phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được
quy định như sau: UBND cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất, quyết định
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày. Quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng là một trong những
căn cứ để người bị thu hồi đất được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định
pháp luật.
* Thỏa mãn các điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi
đất được quy định tại điều 75 Luật Đất đai năm 2013 :
“ Điều 75. Điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất
hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng 35
nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này
mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này;
người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn
liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ
điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
2. Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất mà không phải
là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện
để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
3. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, khu kinh tế, có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
4. Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền
thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận thừa kế quyền sử dụng đất, nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp, tiền nhận chuyển
nhượng đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, có Giấy chứng nhận
hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được
cấp.
5. Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao được Nhà nước cho thuê đất trả
tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ
điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
36
khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.
6. Tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để thực hiện
dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc bán kết hợp cho thuê; cho thuê đất trả
tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều
kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.”
Trước hết, người bị Nhà nước thu hồi đất muốn được bồi thường phải là
người có quyền sử dụng đất hợp pháp. Trong đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là căn cứ pháp lý cao nhất để khẳng định
quyền sử dụng đất hợp pháp; làm cơ sở để người sử dụng đất được Nhà nước bảo
hộ đầy đủ các quyền và lợi ích trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên trên thực tế thì không phải mọi chủ thể sử dụng đất đều được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, pháp luật đất đai hiện hành
quy định người bị thu hồi đất dù chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nhưng có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận theo quy định của Luật này mà
chưa được cấp thì vẫn được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Theo đó, người
bị thu hồi đất có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi
có những giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai qua các thời kỳ được quy
định cụ thể tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013:
“ a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993
do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của
Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
37
miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15
tháng 10 năm 1993;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền
với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất; […] ”.
Đây là quy định hợp lý, phù hợp với thực tiễn của đất nước; bởi nguyên
nhân chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không chỉ phụ thuộc vào
người sử dụng đất mà còn nằm từ phía cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chẳng
hạn như: Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận phức tạp, rườm rà; quá trình thẩm
định, xem xét cấp Giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước thường chậm trễ.v.v...
Có thể thấy pháp luật khá nghiêm minh trong việc quy định về điều kiện được
hưởng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tuy nhiên cũng
cũng có sự linh hoạt với thực tiễn sử dụng đất hiện nay.
2.1.3. Quy định về đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
Đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất theo Luật đất
đai năm 2013 và nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm tất cả những chủ thể sử dụng đất: tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt
Nam định cư ở nước ngoài; cộng đồng dân cư; cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất
hợp pháp bị Nhà nước thu hồi đất và thỏa mãn đầy đủ các căn cứ như đã phân tích
ở trên. Có thể nói đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ngày càng được
xác định đầy đủ chính xác, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, giúp cho
công tác quản lý đất đai của Nhà nước được nâng cao, người nhận đền bù cũng
thấy thỏa đáng.
2.1.4. Quy định về hình thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
38
a. Hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,
nếu người bị thu hồi đất thuộc đối tượng được bồi thường thì tùy từng trường hợp
cụ thể mà có các hình thức bồi thường khác nhau.
Bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại
Bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, Chi phí đầu tư vào đất còn lại là các chi phí thực tế mà người sử
dụng đất đã đầu tư vào đất để sử dụng theo mục đích được pháp luật cho phép
nhưng đến thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất còn
chưa thu hồi hết. Theo Khoản 13, Điều 3 Luật Đất đai 2013 có quy định về chi
phí đầu tư vào đất còn lại: “Chi phí đầu tư vào đất còn lại bao gồm chi phí san
lấp mặt bằng và chi phí khác liên quan trực tiếp có căn cứ chứng minh đã đầu tư
vào đất mà đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất còn chưa thu hồi được”. Chi phí
đầu tư vào đất còn lại gồm toàn bộ hoặc một phần của các khoản chi phí sau: Chi
phí san lấp mặt bằng; Chi phí cải tạo làm tăng độ màu mỡ của đất, thau chua rửa
mặn, chống xói mòn, xâm thực đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông
nghiệp; Chi phí gia cố khả năng chịu lực chống rung, sụt lún đất đối với đất làm
mặt bằng sản xuất kinh doanh; Chi phí khác có liên quan đã đầu tư vào đất phù
hợp với mục đích sử dụng đất
Thứ hai, Luật đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể về bồi thường chi phí
đầu tư vào đất còn lại cho một số trường hợp không được bồi thường đất khi Nhà
nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, công cộng được quy định cụ thể tại điều 76 Luật đất đai năm
2013
“ Điều 76. Bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi
đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng.
Các trường hợp không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi
39
phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:
a) Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông
nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều
54 của Luật này;
b) Đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử dụng đất
nhưng được miễn tiền sử dụng đất;
c) Đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm; đất thuê trả tiền thuê
đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp
hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách đối với người có
công với cách mạng;
d) Đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn;
đ) Đất nhận khoán để sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.”
(Khoản 1)
Thứ ba, căn cứ theo Khoản 3 Điều 3 Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất hướng dẫn thi hành Luật
đất đai 2013 có quy định cụ thể về việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại tiến
hành khi có các điều kiện sau:
“a) Có hồ sơ, chứng từ chứng minh đã đầu tư vào đất. Trường hợp chi phí đầu tư
vào đất còn lại không có hồ sơ, chứng từ chứng minh thì Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ tình hình thực tế tại địa phương quy định
việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại;
b) Chi phí đầu tư vào đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước”
Trong đó, Hồ sơ, chứng từ chứng minh đã đầu tư vào đất chỉ làm căn cứ để
chứng minh về việc người sử dụng đất đã đầu tư vào đất và bao gồm: văn bản,
hợp đồng thuê, khoán san lấp mặt bằng, tôn tạo đất đối với đất được Nhà nước
giao hoặc cho thuê, cải tạo đất, chống xói mòn, chống xâm thực, xây dựng, gia cố
nền đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh; văn bản, thanh lý hợp đồng; hóa đơn,
chứng từ thanh toán đối với từng khoản chi phí đã đầu tư vào đất; văn bản, hợp
đồng khác có liên quan đến việc đầu tư vào đất được xác lập tại thời điểm đầu tư.
Ngoài ra, Người có đất thu hồi không có một trong các loại giấy tờ trên nhưng 40
thực tế đã có đầu tư vào đất thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
căn cứ vào tình hình cụ thể tại địa phương để quyết định việc xác định chi phí đầu
tư vào đất còn lại.
Thứ tư, Luật đất đai năm 2013 đã thể chế hóa cơ chế, chính sách bồi thường
về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại thông qua các quy định chi tiết đối với từng
loại đất, gồm: đất nông nghiệp, đất ở, đất phi công nghiệp không phải đất ở và
theo từng loại đối tượng sử dụng đất (từ Điều 77 đến Điều 81) sẽ được phân tích
ngay sau đây.
Bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp
Trong thời kì chuyển đổi cơ cấu kinh tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, một lượng lớn đất nông nghiệp đã bị thu hồi phục vụ cho mục đích an ninh
quốc phòng, phát triển kinh tế.
* Đối với việc bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài
chính, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo (Điều 78 Luật đất đai năm 2013)
- Đối với tổ chức kinh tế đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
thuê, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất: nếu có
đủ điều kiện được bồi thường quy định tại theo quy định của pháp luật đất đai thì
được bồi thường về đất; mức bồi thường về đất được xác định theo thời hạn sử
dụng đất còn lại.
- Đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đang
sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm khi
Nhà nước thu hồi đất thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường
chi phí đầu tư vào đất còn lại nếu chi phí này không có nguồn gốc từ ngân sách
nhà nước. Trong trường hợp đất nông nghiệp không phải là đất rừng đặc dụng,
đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên của tổ chức kinh tế đã giao
41
khoán cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi
đất thì hộ gia đình, cá nhân nhận khoán không được bồi thường về đất nhưng được
bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.
- Đối với cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất nông nghiệp:
khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại pháp
luật đất đai thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ
* Đối với việc bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân (Điều 77 Luật đất đai năm 2013)
Thứ nhất, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước
thu hồi đất thì được bồi thường về đất. Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường
bao gồm diện tích trong hạn mức giao đất và nhận chuyển quyền sử dụng đất theo
pháp luật hiện hành và diện tích đất do được nhận thừa kế.
Thứ hai, đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức giao đất theo quy
định pháp luật thì khi Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất nhưng
được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại;
Thứ ba, đối với diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng đất
vượt hạn mức trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì việc bồi thường, hỗ trợ
được thực hiện như sau:
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức nhận
chuyển quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 do được thừa kế, tặng
cho, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ người khác theo quy định của
pháp luật mà đủ điều kiện được bồi thường thì được bồi thường, hỗ trợ theo diện
tích thực tế mà Nhà nước thu hồi.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức nhận
chuyển quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thuộc một trong hai
trường hợp: không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không đủ điều
kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai thì họ chỉ được bồi
thường đối với diện tích đất trong hạn mức giao đất nông nghiệp. Đối với phần
42
diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức giao đất nông nghiệp thì không được bồi
thường về đất. Tuy nhiên họ sẽ được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét hỗ trợ sao
cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Bồi thường về đất khi thu hồi đất ở
Bồi thường về đất khi thu hồi đất ở được quy định tại Điều 79 Luật đất đai
năm 2013, cụ thể:
* Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam mà
có đủ điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định thì được
bồi thường như sau:
Trong trường hợp thu hồi đất ở mà hộ gia đình cá nhân không còn đất ở, nhà
ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi
thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư; trường hợp không có nhu cầu bồi thường
bằng đất ở hoặc nhà ở thì Nhà nước bồi thường bằng tiền;
Trong trường hợp thu hồi đất ở mà hộ gia đình cá nhân còn đất ở, nhà ở trong
địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối
với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng
đất ở.
Đối với Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn
liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà không đủ điều kiện được bồi thường về
đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê
mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho thuê, cho thuê
mua nhà ở; giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do UBND cấp
tỉnh quy định.
Trong trường hợp trong thửa đất ở thu hồi còn diện tích đất nông nghiệp
không được công nhận là đất ở thì hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi được chuyển
mục đích sử dụng đất đối với phần diện tích đất đó sang đất ở trong hạn mức giao
đất ở tại địa phương; nếu hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu và việc chuyển mục
đích sang đất ở phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan
43
Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời hộ gia đình, cá nhân khi chuyển
mục đích sử dụng đất phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định của
pháp luật.
* Đối với tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất để thực hiện dự án xây dựng nhà ở
khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định thì
được bồi thường về đất như sau:
Trong trường hợp Nhà nước thu hồi một phần diện tích đất của dự án mà
phần còn lại vẫn đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện dự án thì được bồi thường bằng
tiền đối với phần diện tích đất thu hồi. Trong trường hợp thu hồi toàn bộ diện tích
đất hoặc thu hồi một phần diện tích đất của dự án mà phần còn lại không đủ điều
kiện để tiếp tục thực hiện dự án thì được bồi thường bằng đất để thực hiện dự án
hoặc bồi thường bằng tiền. Ngoài ra, đối với dự án đã đưa vào kinh doanh khi Nhà
nước thu hồi đất thì được bồi thường bằng tiền.
Bồi thường về đất, chi chí đầu tư vào đất khi thu hồi đất phi nông nghiệp
(không phải đất ở)
* Đối với hộ gia đình, cá nhân (Điều 80 Luật đất đai năm 2013)
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở
khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định của pháp
luật thì được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; trường hợp không
có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn
lại đối với đất sử dụng có thời hạn.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở
được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; cho thuê đất trả tiền thuê
đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, khi Nhà nước
thu hồi đất thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu
tư vào đất còn lại, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do thực hiện
chính sách đối với người có công với cách mạng.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở trước ngày 01 tháng 7 năm
44
2004 mà có nguồn gốc do lấn, chiếm, khi Nhà nước thu hồi đất nếu không có chỗ
ở nào khác thì được Nhà nước giao đất ở mới có thu tiền sử dụng đất hoặc bán
nhà ở tái định cư. Giá đất ở tính thu tiền sử dụng đất, giá bán nhà ở tái định cư do
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
* Đối với tổ chức tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính,
cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (Điều 81 Luật đất đai năm 2013)
Trong trường hợp tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở, đất nghĩa trang, nghĩa địa,
khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định thì
được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; trường hợp không có đất để
bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại.
Trong trường hợp tổ chức kinh tế đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất
để làm nghĩa trang, nghĩa địa; doanh nghiệp liên doanh sử dụng đất phi nông
nghiệp không phải là đất ở do nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì khi Nhà
nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất.
Đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất phi nông nghiệp được
Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, khi Nhà
nước thu hồi đất nếu đủ điều kiện được bồi thường theo quy định thì được bồi
thường về đất theo thời hạn sử dụng đất còn lại. Trong trường hợp được Nhà nước
cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm thì được bồi thường chi phí đầu tư vào đất
còn lại.
Đối với cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất phi
nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường theo
quy định thì được bồi thường về đất.
45
Bồi thường thiệt hại về tài sản
* Đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt gắn liền với đất của hộ gia đình,
cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 89 Luật Đất đai năm 2013)
Đối với nhà ở, công trình xây dựng khác khi Nhà nước thu hồi đất phải tháo
dỡ toàn bộ hoặc một phần mà phần còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật
(không còn sử dụng được) theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu nhà ở, công
trình đó được bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà ở, công trình có tiêu
chuẩn kỹ thuật tương đương.
Trong trường hợp phần còn lại của nhà ở, công trình vẫn bảo đảm tiêu chuẩn
kỹ thuật (vẫn không còn sử dụng được) theo quy định của pháp luật thì bồi thường
theo thiệt hại thực tế gồm phần giá trị công trình bị phá dỡ và chi phí để sửa chữa,
hoàn thiện phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của nhà, công trình
trước khi bị tháo dỡ.
* Đối với cây trồng, vật nuôi (Điều 90 Luật Đất đai năm 2013)
- Đối với cây trồng, khi thu hồi đất được chia làm hai loại: cây hàng năm và
cây lâu năm. Mỗi loại có mức tính bồi thường khác nhau. Đối với cây hàng năm,
mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch. Giá trị sản
lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 03 năm
trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại thời điểm
thu hồi đất. Đối với cây lâu năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị hiện có
của vườn cây theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất mà không bao gồm
giá trị quyền sử dụng đất. Ngoài ra, Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có
thể di chuyển đến địa điểm khác thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt
hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng lại;
- Đối với vật nuôi là thủy sản: Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm
thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì không phải bồi thường. Đối với vật nuôi
là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi
thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch sớm; trường hợp có thể di chuyển được
thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra; mức bồi
46
thường cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
* Bồi thường chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 91 Luật đất
đai năm 2013 )
Trong trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển tài sản thì
được bồi thường chi phí để tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt. Đối với trường hợp phải
di chuyển hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất còn được bồi thường đối với
thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt. Mức bồi thường do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quy định.
* Bồi thường thiệt hại đối với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công
trình có hành lang bảo vệ an toàn (Điều 94 Luật đất đai năm 2013)
Khi Nhà nước xây dựng công trình công cộng, quốc phòng, an ninh có hành
lang bảo vệ an toàn mà không thu hồi đất nằm trong phạm vi hành lang an toàn
thì người sử dụng đất được bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất,
thiệt hại tài sản gắn liền với đất theo quy định của Chính phủ, cụ thể như sau:
Nhà ở, công trình xây dựng khác và các tài sản khác gắn liền với đất nằm
trong phạm vi hành lang an toàn bị thiệt hại do phải giải tỏa thì được bồi thường
theo mức thiệt hại theo quy định. Trong trường hợp hành lang bảo vệ an toàn công
trình chiếm dụng khoảng không trên 70% diện tích thửa đất có nhà ở, công trình
xây dựng thì phần diện tích đất còn lại cũng được bồi thường theo quy định.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở nằm trong hành lang an toàn khi xây
dựng công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn phải di chuyển chỗ ở mà
không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất trong hành
lang an toàn thì được bố trí tái định cư; được bồi thường chi phí di chuyển, và
được hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất
b. Hình thức hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
* Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất
Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất được quy định chi tiết tại Điều 19 Nghị
47
định 47/2014/NĐ-CP, Tùy theo từng trường hợp và mức độ thiệt hại khác nhau
mà Nhà nước có các mức hỗ trợ khác nhau tương ứng để bù đắp những khó khăn,
giúp người dân ổn định đời sống sản xuất, cụ thể:
Việc hỗ trợ ổn định đời sống:
Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được
hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian
12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.
Đối với trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng
thì được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong
thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng;
Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo
trong 01 tháng theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.
(Khoản 3)
Việc hỗ trợ ổn định sản xuất:
Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất nông nghiệp thì được hỗ trợ
ổn định sản xuất, bao gồm: Hỗ trợ giống cây trồng, giống vật nuôi cho sản xuất
nông nghiệp, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú
y, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh doanh
dịch vụ công thương nghiệp;
Đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì được hỗ trợ ổn định sản xuất bằng tiền với
mức cao nhất bằng 30% một năm thu nhập sau thuế, theo mức thu nhập bình quân
của 03 năm liền kề trước đó.
Thu nhập sau thuế được xác định căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm
toán hoặc được cơ quan thuế chấp thuận; trường hợp chưa được kiểm toán hoặc
chưa được cơ quan thuế chấp thuận thì việc xác định thu nhập sau thuế được căn 48
cứ vào thu nhập sau thuế do đơn vị kê khai tại báo cáo tài chính, báo cáo kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh cuối mỗi năm đã gửi cơ quan thuế (Khoản 4)
* Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá
nhân khi Nhà nước thu hồi đất
Trong quá trình thu hồi đất, không ít các cá nhân gặp phải khó khăn trong
nghề nghiệp khi mất đi tư liệu sản xuất chủ chốt của mình. Để đảm bảo an sinh
và khôi phục kinh tế, nhà nước đã bổ sung một số quy định về hỗ trợ đào tạo,
chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm so với Luật đất đai 2003; được quy định
tại Điều 84 Luật đất đai năm 2013 và hướng dẫn chi tiết tại Điều 20 và 21 Nghị
định 47/2014/NĐ-CP, cụ thể :
+ Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà
không có đất nông nghiệp để bồi thường.
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường thường bằng tiền
còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề tìm kiếm việc làm; trường hợp người
được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề tìm kiếm việc làm trong độ tuổi lao động có
nhu cầu đào tạo nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề; được tư vấn hỗ
trợ tìm kiếm việc làm, vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất kinh doanh
(Khoản 1, Điều 84 Luật đất đai năm 2013). Việc hỗ trợ bằng tiền không quá 05
lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất của địa phương đối với toàn
bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi; diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn
mức giao đất nông nghiệp tại địa phương. Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quy định căn cứ điều kiện thực tế của địa phương (Điều 20 Nghị định
47/2014/NĐ-CP)
+ Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà nguồn thu nhập chính từ hoạt
49
động kinh doanh dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển chổ ở.
Đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ mà
nguồn thu nhập chính là từ nguồn kinh doanh dịch vụ, khi Nhà nước thu hồi mà
phải di chuyển chỗ ở thì được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh
doanh; trường hợp người có đất thu hồi còn trong độ tuổi lao động thì được hỗ trợ
đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm (Khoản 2, Điều 84 Luật đất đai năm
2013)
Về trách nhiệm phía cơ quan nhà nước, pháp luật quy định Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định cơ chế, chính sách giải quyết việc làm và đào tạo
nghề cho người bị thu hồi đất nông nghiệp. Căn cứ vào cơ chế, chính sách đã được
Thủ tướng quyết định UBND cấp tỉnh chỉ đạo việc lập và tổ chức thực hiện
phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người trong độ tuổi
lao động tại địa phương. Phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc
làm được lập và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư. Trong quá trình lập phương án cần phải lấy ý kiến của người dân bị thu hồi
đất.
Ngoài việc hỗ trợ tại những quy định trên, căn cứ vào tình hình thực tế tại
địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ra quyết định biện pháp hỗ
trợ khác để bảo đảm có chỗ ở, ổn định đời sống, sản xuất và công bằng đối với
người có đất thu hồi, chẳng hạn như: Hỗ trợ người đang thuê nhà ở không thuộc
sở hữu Nhà nước, Hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn.v.v…
Các quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân được học nghề, tiếp cận vốn …để phát triển cuộc sống khi bị thu hồi
đất
c. Hình thức tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Vấn đề Tái định cư cho người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở đã được
Luật Đất đai năm 1993, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP đề cập. Tiếp đến Luật đất
50
đai năm 2003 và Nghị định số 197/2004/NĐ-CP cũng đã quy định cụ thể hơn và
đến nay là Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP. Pháp luật đất
đai hiện hành đã sửa đổi và bổ sung quy định về bố trí tái định cư cho người bị
thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở nhằm bắt buộc các cơ quan Nhà nước phải
quan tâm và bảo vệ quyền lợi của những đối tượng được bố trí tái định cư một
cách tích cực hơn. Cụ thể tại Điều 86 Luật đất đai năm 2013 quy định:
Người có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi
đất có dự án tái định cư hoặc có điều kiện bố trí tái định cư. Ưu tiên vị trí thuận
lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi là người
có công với cách mạng. Giá đất cụ thể tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư,
giá bán nhà ở tái định cư do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Trong trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi
thường, hỗ trợ không đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước
hỗ trợ tiền đủ để mua một suất tái định cư tối thiểu. Chính phủ quy định cụ thể
suất tái định cư tối thiểu phù hợp với điều kiện từng vùng, miền và địa phương.
Về suất tái định cư tối thiểu như sau
Thứ nhất, Suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở,nhà ở hoặc
bằng nhà ở hoặc bằng tiền để phù hợp với việc lựa chọn của người được bố trí tái
định cư. Trường hợp suất tái định cư tối thiểu được quy định bằng đất ở, nhà ở thì
diện tích đất ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích tối thiểu được phép tách thửa
tại địa phương và diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích căn hộ tối
thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở. Trường hợp suất tái định cư tối thiểu
được quy định bằng nhà ở thì diện tích nhà ở tái định cư không nhỏ hơn diện tích
căn hộ tối thiểu theo quy định của pháp luật về nhà ở. Trường hợp suất tái định
cư tối thiểu được tính bằng tiền thì khoản tiền cho suất tái định cư tối thiểu tương
đương với giá trị một suất tái định cư tối thiểu bằng đất ở, nhà ở tại nơi bố trí tái
định cư.
Thứ hai, pháp luật còn linh động khi quy định tùy vào tình hình cụ thể của
địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định suất tái định cư tối thiểu bằng đất
51
ở nhà ở, bằng nhà ở và bằng tiền.
Ngoài ra, Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng được Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện giao trách nhiệm bố trí tái định
cư phải thông báo cho người có đất ở thu hồi thuộc đối tượng phải di chuyển chỗ
ở về dự kiến phương án bố trí tái định cư và niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày
tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi
có đất thu hồi và tại nơi tái định cư trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt phương án bố trí tái định cư.
Lập và thực hiện dự án tái định cư
Thực trạng nước ta cho thấy một số khu tái định cư chất lượng còn
thấp, không đồng bộ về hạ tầng, chưa đảm bảo có điều kiện phát triển bằng hoặc
tốt hơn nơi ở cũ. Nhiều địa phương còn chưa lập khu tái định cư chung cho các
dự án tại địa bàn nên nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất
ở, thậm chí có những dự án mà người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà ở nhiều
năm mà vẫn chưa được bố trí vào khu tái định cư. Nhằm khắc phục tình trạng đó,
Luật đất đai năm 2013 đã có những quy định mới như sau:
+ Bổ sung quy định cụ thể về lập và thực hiện dự án tái định cư theo
hướng: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ
chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất.
+ Quy định khu tái định cư tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng
bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp với điều kiện, phong tục,
tập quán của từng vùng, miền.
+ Quy định việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây
dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái định cư (Điều 85)
* Việc lập và thực hiện dự án tái định cư quy định Luật Đất đai được cụ thể
hóa tại Điều 26 Nghị định 47/2014/NĐ-CP như sau đây:
Thứ nhất, Dự án tái định cư được lập và phê duyệt độc lập với phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng phải bảo đảm có đất ở, nhà ở tái định cư
52
trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất.
Thứ hai, Việc lập dự án tái định cư, lựa chọn chủ đầu tư thực hiện theo quy
định của pháp luật về phát triển và quản lý nhà ở tái định cư và phải bảo đảm các
quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, nhưng trước hết là có sự góp
ý và thỏa thuận của người dân.
Đối với khu tái định cư được lập cho một hoặc nhiều dự án; nhà ở, đất ở
trong khu tái định cư được bố trí theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác
nhau phù hợp với các mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định
cư. Đối với dự án khu tái định cư tập trung có phân kỳ xây dựng theo các dự án
thành phần thì tiến độ thu hồi đất và hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ
tầng của khu tái định cư được thực hiện theo tiến độ của từng dự án thành phần
nhưng các công trình cơ sở hạ tầng của từng dự án thành phần trong khu tái định
cư phải bảo đảm kết nối theo đúng quy hoạch chi tiết đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt. Cơ quan bộ ngành hoặc UBND các cấp có trách nhiệm
đảm bảo kinh phí để thực hiện dự án tái định cư này.
d. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các trường hợp đặc biệt
Quy định tại Điều 87 Luật đất đai năm 2013 đã nêu ra 3 trường hợp đặc biệt
được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Đây là một điểm mới trong pháp luật hiện
hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm bảo vệ quyền và lợi ích tối đa cho
người sử dụng đất.
* Đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân
cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa
của cộng đồng, các dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương
Trường hợp này sẽ do Thủ tướng Chính phủ quyết định khung chính sách
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Quy định này được hướng dẫn chi tiết tại Điều 17
53
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP như sau:
Thứ nhất, Bộ, ngành có dự án đầu tư có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi xây dựng khung chính sách về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định và phải
bảo đảm kinh phí cho việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định.
Thứ hai, Khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bao gồm những
nội dung chủ yếu sau đây: Diện tích từng loại đất dự kiến thu hồi; Số người sử
dụng đất trong khu vực dự kiến thu hồi đất; Dự kiến mức bồi thường, hỗ trợ đối
với từng loại đối tượng thu hồi đất; dự kiến giá đất bồi thường đối với từng loại
đất, từng loại vị trí; Phương án bố trí tái định cư (dự kiến số hộ tái định cư, địa
điểm, hình thức tái định cư); Dự kiến tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
và nguồn vốn để thực hiện; Dự kiến thời gian và kế hoạch di chuyển, bàn giao
mặt bằng.
Thứ ba, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan,
tổ chức có liên quan tổ chức thẩm tra khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư trước khi trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Căn cứ vào khung chính
sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định,
Bộ, ngành có dự án đầu tư tổ chức lập, tổ chức thẩm định và phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho toàn bộ dự án. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
căn cứ phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được Bộ, ngành phê duyệt, tổ
chức lập, tổ chức thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư đối với dự án thực hiện tại địa phương sau khi đã có ý kiến chấp thuận bằng
văn bản của Bộ, ngành có dự án đầu tư; tổ chức thực hiện và quyết toán kinh phí
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư với Bộ, ngành có dự án đầu tư.
* Đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài mà
Nhà nước Việt Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư
Đối với trường hợp này pháp luật quy định thực hiện theo khung chính sách
54
mà Nhà nước đã có cam kết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
* Đối với trường hợp thu hồi đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường, có
nguy cơ đe dọa đến tính mạng con người; đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh
hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng của con người
Luật đất đai 2013 bổ sung trường hợp thu hồi đất ở trong khu vực bị ô nhiễm
môi trường, có nguy cơ đe dọa đến tính mạng con người; đất ở có nguy cơ sạt lở,
sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng của con
người thì người có đất thu hồi được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để ổn định đời
sống, sản xuất theo quy định của pháp luật. Điều này được hướng dẫn thi hành
chi tiết tại Điều 16 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP về Bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư đối với các trường hợp thu hồi đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có
nguy cơ đe dọa tính mạng con người; đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng
bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người, cụ thể:
Thứ nhất, Đối với trường hợp đất ở của hộ gia đình, cá nhân bị sạt lở, sụt
lún bất ngờ toàn bộ diện tích thửa đất hoặc một phần diện tích thửa đất mà phần
còn lại không còn khả năng tiếp tục sử dụng thì hộ gia đình, cá nhân được bố trí
đất ở tái định cư theo quy định sau đây: Diện tích đất ở tái định cư do Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh căn cứ điều kiện cụ thể của địa phương quy định nhưng không được
vượt quá hạn mức giao đất ở tại địa phương. Việc nộp tiền sử dụng đất, miễn giảm
tiền sử dụng đất và các ưu đãi khác thực hiện theo quy định về thu tiền sử dụng
đất.
Thứ hai, Tiền bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất thu hồi để bố trí tái
định cư được giải quyết như sau: Ngân sách nhà nước chi trả trong trường hợp
thu hồi đất ở do thiên tai gây ra. Doanh nghiệp chi trả trong trường hợp thu hồi
đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa tính mạng con người
do doanh nghiệp đó gây ra; trường hợp doanh nghiệp đã giải thể, phá sản thì tiền
bồi thường, hỗ trợ do ngân sách nhà nước chi trả.
2.1.5. Quy định về giá đất để tính bồi thường
55
a. Khái niệm về giá đất
Khái niệm giá đất, giá trị quyền sử dụng đất được quy định tại Khoản 19 và
20 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 là sự kế thừa Khoản 23, 24 Luật Đất đai năm
2003: “Giá đất là giá trị của quyền sử dụng đất tính trên một đơn vị diện tích đất”
(Khoản 19); “Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng
đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định” (Khoản
20)
Giá đất để tính bồi thường là căn cứ quan trọng để thực hiện bồi thường cho
người sử dụng đất nhằm giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước
và người bị thu hồi đất. Giá đất cũng là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện nhiều
nhất trong việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
b. Nguyên tắc định giá đất
Nguyên tắc định giá đất được quy định tại Khoản 1 Điều 112 Luật Đất đai
năm 2013:
“a) Theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá;
b) Theo thời hạn sử dụng đất;
c) Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử
dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi
có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất;
d) Cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả
năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như
nhau.”
Thứ nhất, Xác định giá đất phải dựa trên mục đích sử dụng hợp pháp tại thời
điểm định giá . Thời điểm định giá đất để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
được xác định là thời điểm có quyết định thu hồi đất, dựa trên nguyên tắc về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao
đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường
thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất” (Khoản 2 Điều
74 Luật Đất đai năm 2013). Xét về khía cạnh việc bồi thường tính đến chi phí đầu 56
tư vào đất của người sử dụng đất thì việc tính giá đất tại thời điểm thu hồi khá hợp
lý do sẽ không tính đến phần giá trị tăng thêm do quy hoạch của Nhà nước (Phần
tăng thêm này không do đầu tư của người sử dụng đất tạo ra). Như vậy, pháp luật
không thừa nhận giá đất được chuyển mục đích sử dụng sau khi bồi thường làm
căn cứ tính bồi thường. Tuy nhiên quy định này còn mặt nhiều mặt hạn chế: Ở
Việt Nam, giá của đất nông nghiệp bị thu hồi làm bệnh viện, trường học, đường
giao thông không gây quá nhiều bức xúc nhưng khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp để sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì lại dễ dàng trở thành những
điểm nóng. Thông thường giá đất nông nghiệp rất thấp sau đó đất này được các
nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, theo đó mà giá đất tăng lên chóng mặt. Nếu
so sánh sự chênh lệch giữa giá đất được Nhà nước bồi thường và giá đất sau khi
chuyển đổi mục đích sử dụng thì người nông dân sẽ cảm thấy cho rằng dường như
mình bị “cướp đất” và không được lợi gì từ việc bị thu hồi nên phát sinh tranh
chấp, khiếu kiện [19]. Hơn nữa, thời điểm có quyết định thu hồi đất cho đến khi
cơ quan chức năng hoàn thành thủ tục để người dân nhận tiền bồi thường là khá
xa, có thể lên đến vài năm, vì vậy, người dân bị thu hồi đất sẽ chịu thiệt thòi do
giá đất đã thay đổi, đồng tiền thì mất giá.
Thứ hai, so với Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 đã thay từ
“Sát” thành từ “ phù hợp” với giá đất trên thị trường và bổ sung trường hợp xác
định theo giá trúng thầu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất
trong trường hợp không có sự chuyển nhượng để định giá. Thay về mặt từ ngữ là
vậy, tuy nhiên về mặt bản chất vẫn không có sự thay đổi. “Phù hợp” vẫn mang
tính định tính và không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Điều này tạo
lỗ hổng và gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất; thậm chí còn dẫn đến những vấn đề tiêu cực như xử lý tùy tiện, tham nhũng
của các cơ quan có thẩm quyền.
57
c. Phương pháp định giá đất và khung giá đất
Phương pháp định giá đất và khung giá đất được quy định tại Nghị định
44/2014/NĐ-CP về quy định về giá đất là sự kế thừa các quy định của Nghị định
188/2004/NĐ-CP và Nghị định 123/2007/NĐ-CP của chính phủ.
Thứ nhất, Các phương pháp bao gồm: Phương pháp so sánh trực tiếp; Phương
pháp chiết trừ; Phương pháp thu nhập; Phương pháp thặng dư; Phương pháp hệ
số điều chỉnh giá đất (Điều 4)
Thứ hai, Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần đối với
từng loại đất, theo từng vùng. Trong thời gian thực hiện khung giá đất mà giá đất
phổ biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với giá tối đa hoặc giảm từ 20%
trở lên so với giá tối thiểu trong khung giá đất thì Chính phủ điều chỉnh khung giá
đất cho phù hợp (Điều 9)
d. Giá đất để tính bồi thường
Theo quy định tại Luật đất đai năm 2013 thì giá đất để tính bồi thường là giá
đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời
điểm quyết định thu hồi đất; căn cứ vào vào các nguyên tắc định giá đất, phương
pháp định giá đất theo pháp luật, giá đất trên thị trường, tổng hợp thông tin về
thửa đất…
* Trước đây, Luật đất đai năm 2003 quy định việc xác định giá đất để tính
bồi thường gặp một số bất cập như sau:
Thứ nhất, giá đất của Ủy ban nhân dân tỉnh đưa ra thường luôn thấp hơn giá
đất trên thị trường. Việc này khiến người bị thu hồi đất bức xúc , khiếu kiện kéo
dài trên phạm vi rộng. Trước thực tế này, tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định
17/2006/NĐ-CP ngày 21/1/2006 về sửa đổi bổ sung một số quy định tại Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP nêu rõ: “trường hợp tại thời điểm có quyết định thu hồi
đất mà giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị
trường trong điều kiện bình thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp”. Tuy nhiên, việc điều
chỉnh giá đất tại Điều 15 Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính
58
phủ lại quy định mức tối đa, cụ thể: Khi giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất
thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại địa phương có biến động
lớn: nếu tăng từ 20% trở lên so với giá do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
thì điều chỉnh giá tăng nhưng tỷ lệ điều chỉnh giá không vượt quá 20% mức giá
tối đa của khung giá. Do đó dù được điều chỉnh nhưng giá đất vẫn không sát với
giá chuyển nhượng thực tế.
Thứ hai, xác định giá đất là một vấn đề phức tạp, có tính chuyên môn cao.
Việc giao cho cơ quan hành chính quyết định giá đất là một cơ chế không phù
hợp, thường mang tính cảm tính, dễ dẫn đến tiêu cực trong xã hội. Do đó chúng
ta cần một thể chế độc lập và khách quan để xác định giá đất mới đảm bảo tốt
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Thứ ba, Luật đất đai chưa quy định về cơ chế giám sát, kiểm tra việc định
giá đất có phù hợp với giá đất chuyển nhượng trên thị trường hay không.
* Pháp luật đất đai hiện hành đã có những quy định nhằm khắc phục những
hạn chế kể trên nhưng chưa thực sự giải quyết được bản chất vấn đề:
Một là, Nghị định 44/2014/ND-CP có quy định tại Khoản 4 Điều 12: “Việc
thẩm định bảng giá đất do Hội đồng thẩm định bảng giá đất thực hiện”. Trong
đó, Hội đồng thẩm định bảng giá đất bao gồm các thành phần sau: Đại diện lãnh
đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng; Đại diện lãnh đạo Sở Tài
chính làm thường trực Hội đồng; đại diện lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường,
Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức
có chức năng tư vấn xác định giá đất hoặc chuyên gia về giá đất và các thành viên
khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Tuy rằng pháp luật đã quy định Hội
đồng thẩm định giá đất cấp tỉnh thẩm định giá trước khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định giá đất nhưng không có cơ chế đảm bảo tính độc lập của Hội đồng
thẩm định. Trên thực tế, giá đất vẫn luôn là cơ hội để các cá nhân, cơ quan có
thẩm quyền lợi dụng để tham nhũng, chuộc lợi.
Hai là, Luật đất đai năm 2013 đã có quy định về việc sử dụng tư vấn giá đất
nhưng chỉ trong trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Đây lại
59
không phải là cơ chế bắt buộc để định giá đất nên chưa thể nào giải quyết được
vấn về liên quan đến việc xác định giá đất bồi thường, bảo vệ lợi ích cho người bị
thu hồi đất [20]. Tuy nhiên hiện nay, ở một số địa phương, tiêu biểu là thành phố
Hồ Chí Minh đã có những thành tựu nhất định trong việc sử dụng dịch vụ định
giá đất độc lập để xác định giá đất. Đây được coi là mô hình đạt hiệu quả cao
trong việc lấy ý kiến đồng thuận từ người dân vì đảm bảo được quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Cùng với sự quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của nhà đầu
tư việc định giá đất bồi thường cũng đã có mặt tích cực hơn so với thời gian trước
đây.
2.1.6. Quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất [21]
Trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
không được quy định cụ thể tại một văn bản luật như Nghị định số 60/2009/NĐ-
CP ngày 13/8/2009 mà được quy định tại Điều 69 Luật đất đai năm 2013 và ghi
nhận trong một số điều luật của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014;
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 và Thông tư số 37/2014/TT-
BTNMT ngày 30/6/2014. Trong pháp luật đất đai hiện hành, trình tự thủ tục thu
hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được quy định theo hướng tăng cường
hơn sự tham gia trực tiếp của người dân; đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm
đối thoại, động viên, thuyết phục của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi người
dân chưa có ý kiến đồng thuận. Về cơ bản thì trình tự, thủ tục thu hồi đất; bồi
thường, hỗ trợ, thu hồi đất gồm các bước như sau:
Thông báo thu hồi đất
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng cho
người có đất thu hồi biết theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật đất đai năm
2013. Nội dung thông báo thu hồi đất bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo
sát, đo đạc, kiểm đếm. Thông báo thu hồi đất phải được gửi đến từng người có đất
60
thu hồi, họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo
trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã,
địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Ra quyết định thu hồi đất
Theo quy định tại Điều 66 Luật đất đai năm 2013, sau khi hoàn tất việc
thông báo thu hồi đất theo đúng thủ tục, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền có
thể ra Quyết định thu hồi đất và thực hiện các chính sách về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư
Thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất thuộc về các chủ thể sau đây:
+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp thu hồi đất ở của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; thu hồi đất nông
nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
+ Ủy ban nhân dân cấp huyện: thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư; thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu
nhà ở tại Việt Nam.
Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả các đối tượng trên thì Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc Ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp
huyện quyết định thu hồi đất.
Kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất
Sau khi có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền, Ủy ban nhân dân
cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm
đếm.
Người sử dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định
diện tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư. Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất
thu hồi không phối hợp trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì Ủy ban 61
nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi
và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động,
thuyết phục (Điều 69 Luật đất đai năm 2013). Nếu sau 10 ngày mà người sử dụng
đất vẫn không phối hợp thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết
định kiểm đếm bắt buộc. Trường hợp người có đất thu hồi không chấp hành thì
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện
quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện cưỡng chế. Quyết định cưỡng
chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc phải được niêm yết công khai tại trụ
sở Ủy ban nhân dân cấp xã, tại địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có
đất thu hồi (Khoản 2 Điều 70 Luật đất đai năm 2013)
Trình tự, thủ tục thực hiện quyết định cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc: tổ
chức được giao thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người
bị cưỡng chế. Trong trường hợp người bị cưỡng chế chấp hành quyết định cưỡng
chế thì tổ chức được giao thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành
và thực hiện điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Còn nếu như người bị cưỡng
chế không chấp hành quyết định cưỡng chế thì tổ chức được giao thực hiện cưỡng
chế thi hành quyết định cưỡng chế (Khoản 4 Điều 70 Luật đất đai năm 2013)
Lập phương án bồi thường thiệt hại, hỗ trợ, tái định cư:
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia
định bị thu hồi đất, dựa trên cơ sở tổng hợp số liệu kiểm kê, xử lý các thông tin
liên quan của từng trường hợp; áp giá tính giá trị bồi thường về đất, tài sản trên
đất.
Niêm yết công khai phương án lấy ý kiến của nhân dân
Sau khi phương án chi tiết được lập, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất
thu hồi tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, nhất là các đối tượng bị thu hồi đất; bằng
62
các hình thức: tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi,
đồng thời niêm yết công khai phương án tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa
điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng
hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý và không đồng
ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án. Trường hợp còn có ý kiến không đồng
ý về phương án bồi thường thì tổ chức phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
có đất thu hồi tổ chức đối thoại. (Khoản 2 Điều 69 Luật đất đai năm 2013)
Hoàn chỉnh Phương án
Dựa trên cơ sở ý kiến góp ý của các đối tượng có đất bị thu hồi, tổ chức bồi
thường tiếp thu, hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sau
đó trình lên cơ quan chuyên môn thẩm định và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Phê duyệt phương án chi tiết và tổ chức triển khai thực hiện
Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách
nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện thẩm định phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước khi trình Ủy ban nhân dân cùng cấp phê
duyệt (Điều 13 Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014). Ủy ban nhân dân
cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày (Điều 66 Luật đất đai năm 2013).
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải được phổ
biến và niêm yết công tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa điểm sinh hoạt
chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; đồng thời được gửi đến từng người có
đất thu hồi. Trong đó ghi rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, bố trí nhà hoặc đất tái định
cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà
hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Dựa theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt, tổ
chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định;. Trong trường hợp người
có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
63
phóng mặt bằng thì cần phải tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu
hồi thực hiện. Sau đó nếu họ vẫn không chấp hành việc bàn giao đất thì bị cưỡng
chế theo quy định tại Điều 71 Luật đất đai năm 2013.
Tổ chức chi trả bồi thường
Theo quy định tại Điều 93 Luật đất đai năm 2013, trong thời hạn 30 ngày kể
từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực
thi hành thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi
thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi. Trong trường hợp chậm chi trả thì ngoài
tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê
duyệt thì người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức
tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và
thời gian chậm trả.
Người bị hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với
Nhà nước theo quy định của pháp luật thì khi nhận bồi thường phải trừ đi khoản
tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường để hoàn trả
ngân sách nhà nước. Trường hợp số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính lớn
hơn số tiền được bồi thường, hỗ trợ thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ
số tiền chênh lệch đó.
Bàn giao mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất
Sau khi nhận tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, người bị thu hồi đất phải
bàn giao mặt bằng sạch cho chủ đầu tư. Thực tế hiện nay cho thấy nhiều người
dân thường có những hành vi cản trở quá trình thu hồi đất, không chịu bàn giao
mặt bằng khi đã có quyết định thu hồi đất; nhiều hộ dân cản trở tiến độ thi công
công trình, “chây ì” không chịu nhận tiền bồi thường, không chịu di dời đến nơi
ở mới. Trong trường hợp người có đất bị thu hồi không bàn giao mặt bằng thì bị
cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại Điều 71 Luật đất đai năm 2013. Quyết
định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất phải được niêm yết công khai tại
trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có
64
đất thu hồi.
Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất: Trước khi tiến hành
cưỡng chế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập Ban thực
hiện cưỡng chế. Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với
người bị cưỡng chế. Trong trường hợp người bị cưỡng chế chấp hành thì Ban thực
hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành. Nếu người bị cưỡng chế
không chấp hành quyết định cưỡng chế thì Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực
hiện cưỡng chế. Ban thực hiện cưỡng chế có quyền buộc người bị cưỡng chế và
những người có liên quan phải ra khỏi khu đất cưỡng chế, chuyển tài sản ra khỏi
khu đất cưỡng chế.
2.1.7. Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh
vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
a) Giải quyết khiếu nại, tố cáo
Trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai là nguồn lực to
lớn để phát triển đất nước. Các công trình, dự án được triển khai trên hầu khắp
mọi miền tổ quốc. Tuy nhiên, hiện tượng sai phạm pháp luật về đất đai, cụ thể là
trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thi hành công vụ đang diễn ra
rất nhiều. Để khắc phục tình trạng đó, Luật đất đai năm 2013 đã quy định : “Người
sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền
khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý
đất đai” (Điều 204 Luật đât đai năm 2013) Trong đó, đối tượng của khiếu nại,
khiếu kiện ở đây là những hành vi hành chính, quyết định hành chính trong lĩnh
vực thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng. Ngoài ra, người sử dụng đất
cũng có quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bồi thường, hỗ
trợ, giải phóng mặt bằng của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong xã hội.
Khiếu nại, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một dạng của khiếu
nại, tố cáo nói chung. Vì vậy, việc khiếu nại, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khu Nhà nước thu hồi đất phải kết hợp dựa trên quy định của Luật khiếu nại,
65
Luật tố cáo, Luật tố tụng hành chính. Luật đất đai năm 2013 quy định: “Trình tự,
thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai
thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự, thủ tục giải quyết
khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo
quy định của pháp luật về tố tụng hành chính” (Khoản 2 Điều 204) và “Việc giải
quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo quy
định pháp luật về tố cáo” (Điều 205 Luật đất đai năm 2013)
Tuy nhiên, theo khoản 6 Điều 17 Nghị định 43/2014 của Chính phủ nêu
rõ: “Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp tục thực
hiện quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất”. Như vậy, quyền
khiếu nại chỉ xếp thứ yếu so với quyết định chấp hành quyết định thu hồi đất. Chỉ
khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi
đất là trái pháp luật thì phải dừng cưỡng chế nếu việc cưỡng chế chưa hoàn thành;
hủy bỏ quyết định thu hồi đất đã ban hành và bồi thường thiệt hại do quyết định
thu hồi đất gây ra. Trên thực tế, việc đó là khá muộn màng do thiệt hại mà người
sử dụng đất bị thiệt hại đã quá nặng nề, hơn nữa, họ còn bất bình và mất niềm tin
vào Nhà nước.
b) Xử lý vi phạm
Cùng với những quy định về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo pháp
luật đất đai cũng quy định chi cụ thể về các hành vi vi phạm pháp luật trong công
tác kiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
Các hành vi vi phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Điều 97 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều
của luật đất đai quy định về hành vi vi phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư tại Khoản 4 như sau:
+ Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi; không công khai
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
+ Không thực hiện đúng quy định về tổ chức lấy ý kiến đối với phương án
66
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
+ Thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư không đúng đối tượng, diện tích,
mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất thu hồi; làm sai lệch hồ sơ
thu hồi đất; xác định sai vị trí và diện tích đất bị thu hồi trên thực địa;
+ Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng
với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt.
Chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Mặc dù pháp luật đất đai đã có quy định về các hành vi vi phạm pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tuy nhiên lại chưa có
quy định cụ thể về chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực này. Pháp luật đất đai chỉ
quy định chung: người có hành vi vi phạm pháp luật đất đai thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật. Người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai mà gây
thiệt hại cho Nhà nước, cho người khác, ngoài việc bị xử lý theo quy định của
pháp luật còn phải bồi thường theo mức thiệt hại thực tế cho Nhà nước hoặc cho
người bị thiệt hại. Ngoài ra, Pháp luật quy định việc áp dụng các quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức để xử lý vi phạm pháp luật về đất đai
đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai khi thi hành công vụ trong
lĩnh vực đất đai.
Tuy nhiên để đảm bảo công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực
hiện một cách hiệu quả, pháp luật cần bổ sung các chế tài nhằm xử lý nghiêm
minh các trường hợp vi phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất. Trong Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 dự kiến có hiệu lực
trong thời gian tới, Điều 230 có quy định thêm về tội danh vi phạm quy định về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Có thể nói đây là bước
tiến lớn hết sức quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người có
thẩm quyền trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp
67
pháp của người dân bị thu hồi đất.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
* Những thành tựu đạt được:
Thứ nhất, việc thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi mục đích sử dụng
sang đất chuyên dùng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương phát triển
công nghiệp, dịch vụ cũng như xây dựng các khu đô thị mới cho người dân địa
phương. Hàng triệu lao động đã được giải quyết việc làm thu nhập cao hơn, ổn
định hơn. Số lượng lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản sang làm việc
ở các ngành phi nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đã góp phần đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, phù hợp với xu hướng phát triển đất
nước. Nếu 1 héc ta đất nông nghiệp chỉ tạo việc làm cho tối đa 10-15 người lao
động nông nghiệp với giá trị thấp thì chuyển sang xây dựng khu công nghiệp đã
tạo việc làm cho hàng trăm lao động với thu nhập cao. Theo tính toán của các nhà
kinh tế, 1 khu công nghiệp, khu chế xuất bình quân diện tích từ 100-150 ha khi
lấp đầy sẽ sử dụng 15.000-18.000 lao động [30]
Thứ hai, có thể nói quá trình thu hồi, đền bù hiện nay được diễn ra công
khai, dân chủ và công bằng hơn trước: nhiều dự án đã có các hoạt động thông tin
về chính sách cũng như niêm yết giá đền bù và các khoản hỗ trợ khác cho người
người bị ảnh hưởng theo dõi. Việc bố trí sắp xếp nơi ở mới cho các hộ dân bị thu
hồi đất có quy hoạch tổng thể với hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội hiện đại đã góp
phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Nhiều hình thức linh
hoạt, mềm dẻo được áp dụng cho người bị thu hồi đất để họ tái định cư như thuê
nhà, bán nhà theo giá cho Chính phủ quy định, giao đất tái định cư hay hỗ trợ để
người dân có nơi ở mới [22]
* Những khó khăn, vướng mắc:
Thứ nhất, diện tích đất nông nghiệp bị suy giảm một cách đáng kể: Việc
thu hồi đất nông nghiệp đang diễn ra ồ ạt tại nhiều địa phương trên cả nước. Xây
dựng các khu công nghiệp là cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế; tuy nhiên
68
cũng cần quan tâm và chú ý tránh làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nông
nghiệp, sản lượng lương thực quốc gia. Điều này cũng bởi vì nước ta là một nước
với hơn 70% người dân sống bằng nghề nông. Ngoài ra thu hồi đất nông nghiệp
dẫn đến sự chênh lệch giá đất quá lớn sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng đã
khiến tình trạng người dân cảm thấy mình bị thiệt thòi mà khiếu kiện kéo dài, làm
ngưng trệ tiến độ dự án, gây ảnh hưởng xấu đến cả kinh tế và chính trị của nước
ta.
Thứ hai, về điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất: với xuất
phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua các cuộc chiến tranh kéo
dài, việc sử dụng đất ở nước ta khá phức tạp nên công tác quản lý đất đai gặp
nhiều khó khăn. Việc xác định nguồn gốc sử dụng đất là nguyên nhân làm chậm
tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Các trường hợp không có các loại giấy
tờ hợp pháp theo quy định pháp luật phát sinh rất nhiều các vấn đề phức tạp, hay
xảy ra tranh chấp, khiếu nại kéo dài. Trên cả nước, các trường hợp sử dụng đất
sau thời điểm ngày 15/10/1993 rất nhiều, nhưng khi Nhà nước thu hồi đất và tiến
hành tổ chức thực hiện bồi thường thì việc xác định người sử dụng đất đủ điều
kiện được cấp các loại giấy tờ về đất lại là một việc không dễ dàng. Căn cứ để
xem xét bồi thường, hỗ trợ trong các trường hợp này là thời điểm sử dụng đất và
sự xác định đất đã được sử dụng ổn định, không có tranh chấp của Ủy ban nhân
dân cấp xã.
Thứ ba, về giá đất để tính bồi thường:
Giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất còn thấp, chưa sát với giá thị
trường
Thực tế hiện nay cho thấy, giá đất bồi thường thấp hơn so với giá thị trường
dẫn đến sự không thỏa mãn trong dân, ảnh hưởng đến cuộc sống của những người
bị thu hồi đất, mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và nhà đầu
tư xảy ra những mâu thuẫn, là nguyên nhân chính dẫn đến các tranh chấp, khiếu
kiện đất đai kéo dài.
Thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì
69
xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
quy định về giá đất; Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 quy định về
khung giá đất. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã ban hành Thông tư số
36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy định chi tiết phương pháp định giá đất,
xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất;
Thông tư số 20/2015/TT-BTNMT ngày 20/4/2015 ban hành định mức kinh tế -
kỹ thuật để lập dự toán ngân sách nhà nước phục vụ công tác định giá đất. Các
văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho công tác
định giá đất tại địa phương. Tuy nhiên, giá đất bồi thường chủ yếu thực hiện theo
bảng giá nên còn thấp so với giá đất thị trường. Bảng giá công bố tại các địa
phương chỉ bằng khoảng 30% - 60% so giá thị trường. Hơn nữa, hiện nay Việt
Nam chưa có phương pháp định giá đất phù hợp đối với đất sản xuất, kinh doanh
phi nông nghiệp. Nhiều địa phương căn cứ vào giá đất do Ủy ban nhân dân quy
định cho loại đất ở để tính giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp.Theo đó,
giá đất phi nông nghiệp bằng khoảng từ 40% - 60% giá đất ở. Đây là một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khiếu kiện, tham nhũng trong lĩnh
vực đất đai trong thời gian vừa qua [29].
Nguyên nhân dẫn đến giá đất thấp hơn so với giá thị trường: Một là do giá
đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định ( được
công bố công khai vào ngày 01/01 hàng năm) ngoài được sử dụng làm căn cứ để
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất còn sử dụng để tính tiền bồi thường đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà gây thiệt hại cho Nhà nước. Việc
quy định phạm vi áp dụng khung giá do Nhà nước để xác định giá bất động sản
với phạm vi rộng; trong đó có các quan hệ mang bản chất của quan hệ dân sự như
quan hệ giao, cho thuê đất… đã ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của các chủ
thể khi thu hồi đất. Hai là, thị trường bất động sản vẫn đang ở giai đoạn đầu của
sự phát triển, tình trạng “nóng - lạnh” bất thường, hiện tượng đầu cơ khá phổ biến,
giá đất chịu tác động rất lớn từ thông tin quy hoạch, công bố dự án... Có thể nói
giá đất trên thị trường có sự biến động theo từng ngày, nhất là tại các thành phố,
70
khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh. Trong khi đó các công cụ quản lý nhà nước
về đất đai còn hạn chế và chưa đồng bộ dẫn đến việc định giá đất theo “sát thị
trường” đang còn rất khó khăn. Chính vì vậy dẫn đến việc người dân không đồng
ý với phương án bồi thường, không tự nguyện chấp hành quyết định thu hồi đất.
Thời điểm định giá đất
Việc áp dụng nguyên tắc, phương pháp định giá đất để xây dựng bảng giá
đất nông nghiệp còn nhiều điểm chưa phù hợp, đặc biệt là thời điểm định giá đất.
Thực tế cho thấy, mức giá đất nông nghiệp tại khu vực có điều chỉnh quy hoạch
hoặc có kế hoạch xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng, tuy quy hoạch, kế hoạch
chưa thực hiện, nhưng trên thực tế, giá đất nông nghiệp đã ăn theo và cao hơn
nhiều so với lúc chưa có quy hoạch, kế hoạch được duyệt. Trong khi đó pháp luật
không thừa nhận giá đất được chuyển mục đích sử dụng sau khi bị thu hồi làm
căn cứ tính bồi thường. Nguyên tắc này về mặt lý thuyết là hợp lý tuy nhiên trên
thực tế người bị thu hồi không nhận được tiền bồi thường ngay tại thời điểm có
quyết định thu hồi mà phải chờ một khoảng thời gian, có thể lên đến 3-5 năm. Sự
khác biệt về giá đất quá lớn: Ví dụ như tại cùng một vị trí Nhà nước thu hồi sau
khi quy hoạch thành khu đô thị, người dân muốn sử dụng phải mua lại của nhà
đầu tư với giá cao hơn rất nhiều giá mà họ được Nhà nước bồi thường. Chính điều
này đã gây nên những “thắc mắc” của nhân dân, dẫn tới việc khó áp dụng theo giá
đất thị trường ở vào thời điểm trước khi có kế hoạch, quy hoạch, ảnh hưởng tới
tiến độ và hiệu quả khi thu hồi đất
Thứ tư, lợi ích chưa được điều tiết khi bất động sản tăng lên nhờ dự án
Đây là một tình trạng dễ thấy nhất trong thực tế khi Nhà nước tiến hành thu
hồi đất, giải phóng mặt bằng, nhất là các dự án mở rộng đô thị, đường sá, nâng
cấp giao thông. Một bộ phận người dân có bất động sản được “ra mặt tiền”, dẫn
đến giá trị bất động sản tăng cao hơn nhiều so với trước khi thực hiện dự án. Trong
khi đó, đối với các hộ bị mất đất, mất nhà mặt đường, họ phải chịu thiệt thòi hơn
gấp nhiều lần. Điều này đã gây mâu thuẫn rất lớn từ phía những người dân. Chính
vì vậy dẫn đến tình trạng người có đất bị thu hồi không muốn di rời khỏi nơi ở,
71
nơi kinh doanh buôn bán của mình. Mặt khác, đối với các hộ mặc nhiên được
hưởng lợi từ việc giải phóng mặt bằng mà ra mặt đường, trong một số trường hợp,
nếu so sánh giá trị bất động sản trước và sau khi bị thu hồi đất thì sẽ thấy giá trị
bất động sản đã tăng lên gấp nhiều lần, thậm chí có khi vài chục lần, lớn hơn rất
nhiều so với diện tích đất bị thiệt hại do Nhà nước thu hồi. Cách làm cũ đã tạo
môi trường thuận lợi cho hành vi tiêu cực như “mua đất đón đầu” để hưởng đền
bù hoặc chiếm vị trí mặt đường sau khi xây dựng công trình.[26]
Thứ năm, về chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc
làm cho người bị thu hồi đất: Thực tiễn hiện nay cho thấy việc chuyển nghề và
tìm kiếm việc làm mới cho người dân mất đất đang là khó khăn vô cùng lớn đối
với công tác thu hồi đất. Theo ước tính mỗi héc ta đất nông nghiệp bị thu hồi thì
có 10 lao động mất việc làm. Do đó, dự kiến trong giai đoạn 2011-2015 với trên
50.000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi thì trên 500 nghìn lao động bị mất việc làm
[23]. Trong khi đó hiệu quả của công tác giải quyết việc làm cho người bị thu hồi
đất ở một số địa phương còn thấp và chưa được thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật. Nguyên nhân của thực trạng này một phần là do nhận thức từ phía cơ
quan đào tạo, chuyển đổi ngành nghề. Trong nhiều trường hợp việc tìm kiếm việc
làm và chuyển đổi ngành nghề chỉ được thực hiện mang tính hình thức như: đào
tạo nghề không gắn với nhu cầu, nguyện vọng của người học nghề và số lượng
lao động doanh nghiệp tiếp nhận, đào tạo một nghề cho nhiều đối tượng khác nhau
dẫn đến dư thừa lao động trong một số ngành nghề v.v… Thêm vào đó, chi phí
hỗ trợ cho người lao động chuyển đổi nghề nghiệp còn thấp chỉ đủ để họ tham gia
các lớp ngắn hạn với những ngành nghề đơn giản vì thế mà nguồn thu nhập thấp
và không ổn định.
Thứ sáu, về công tác tái định cư: Một là, việc xây dựng các khu tái định cư
của các dự án thường bị động, cơ sở hạ tầng không được đầu tư đồng bộ theo quy
định; một số khu tái định cư không phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán
của người bị thu hồi đất. Hai là, do yêu cầu của công tác quy hoạch, kiến trúc nên
các khu quy hoạch, khu tái định cư có quy mô diện tích chưa đa dạng, linh hoạt
72
cho người được tái định cư chọn lựa. Ba là, tình trạng thiếu nhà ở, đất ở tái định
cư hoặc thiếu nguồn vốn dành cho việc xây dựng các khu tái định cư vẫn tồn tại.
Chất lượng các khu tái định cư chưa bảo đảm, đặc biệt đối với các nhà ở tái định
cư là chung cư. Nhiều khu tái định cư không bảo đảm điện, nước, đường nội bộ...
để tái lập cuộc sống hoặc khu tái định cư chưa được xây dựng hoàn chỉnh trong
thời điểm người dân phải di chuyển đến nơi ở mới. Đây là một vấn đề nhức nhối
đáng báo động đối với công tác quản lý việc xây dựng các khu tái định cư trên cả
nước ta hiện nay. Đáng lưu ý, tình trạng mua bán suất tái định cư còn diễn ra khá
phổ biến, nhất là các khu bố trí tái định cư bằng nhà ở thì tình trạng mua bán suất
tái định cư đáng báo động.
Thứ bảy, về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất: Hiện nay, công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa thỏa mãn
được nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch. Tổ chức thực hiện dự án, cơ
quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để giải
phóng mặt bằng chưa thực hiện đúng trình tự, thủ tục từ công bố quy hoạch, thông
báo kế hoạch, ra quyết định thu hồi đất cho đến khâu cưỡng chế. Trong quá trình
lập quy hoạch đô thị lẫn quy hoạch sử dụng đất chỉ đứng từ một phía của cơ quan
có thẩm quyền mà không công bố, lấy ý kiến của nhân dân. Điều này dẫn tới việc
người dân không hiểu, không được phổ biến và đóng góp quan điểm vào việc xây
dựng những dự án trên - những dự án ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân
dân. Phương án quy hoạch như thế nào, việc bồi thường giải phóng mặt bằng bao
nhiêu... chính quyền không công khai, chưa rõ ràng, khiến cho người dân khó có
thể theo dõi. Nếu được biết đến các quy hoạch, kế hoạch này, người dân sẽ có thể
so sánh để biết phương án nào là tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Thời gian triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ thường kéo dài, có dự án
kéo dài hơn 10 năm, thậm chí 15 năm gây khó khăn trong việc ổn định đời sống
và việc làm của các hộ dân có nhà ở trong khu vực dự kiến thực hiện dự án đầu
tư. Trong khi đó, các quy định pháp luật thường xuyên thay đổi, chính sách bồi
thường sau có lợi hơn trước, dẫn đến thắc mắc, so bì giữa các đối tượng bị thu hồi
73
đất, là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện, tố cáo gay gắt. Nhiều người dân thường
có những hành vi cản trở quá trình thu hồi đất, không chịu bàn giao mặt bằng khi
đã có quyết định thu hồi đất; nhiều hộ dân cản trở tiến độ thi công công trình,
“chây ì” không chịu nhận tiền bồi thường, không chịu di dời đến nơi ở mới.
Thứ tám, Tình trạng dự án “treo” chưa được khắc phục triệt để: Luật đất đai
năm 2013 với quy định về yêu cầu tiến độ thực hiện dự án đã góp phần không nhỏ
vào việc hạn chế tình trạng dự án treo, vẫn chưa có cơ chế giải quyết hệ quả từ
các dự án vẫn đang bị ách tắc từ trước đây. Thực tế cho thấy, nhiều dự án đã được
quy hoạch nhưng đất đai vẫn còn trong giai đoạn “để không”, không được thực
hiện trong thực tiễn vì thiếu tiền để bồi thường; hàng nghìn hecta đất của nhiều
dự án bị sử dụng sai mục đích hoặc ở trong tình trạng “đắp chiếu nằm chờ” sự
thỏa hiệp trong chính sách bồi thường giữa chủ đầu tư và người dân. Tình trạng
quy hoạch treo như vậy cũng đã ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân mất đất.
Trong khi đó những biện pháp xử lý chưa đủ tính “răn đe” đối với các nhà đầu tư,
dẫn đến lãng phí đất; gây khó khăn cho Nhà nước khi xác định chi phí đã đầu tư,
kinh phí để bồi thường, giao lại cho các nhà đầu tư có năng lực...[25]
Thứ chín, về xử lý vi phạm
Trong thi hành công vụ hiện nay còn tồn tại một số vi phạm trong lĩnh vực
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: một số công chức đã có dấu hiệu vi phạm khi thực
hiện bồi thường không đúng diện tích khi thu hồi đất của người dân; cắt xén mức
bồi thường trục lợi cho cá nhân; tự đặt ra các thủ tục hành chính cố tình gây phiền
hà cho người dân; không công khai phương án bồi thường, hỗ trợ v.v.. Có thể thấy
pháp luật về đất đai chưa thực sự được thực hiện nghiêm. Nguyên nhân một phần
là do chưa có chế tài cụ thể trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất. Các hành vi vi phạm trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất không bị xử lý một cách cứng rắn. Các đối tượng vi
phạm hầu như chỉ bị khiển trách, cảnh cáo, xử phát hành chính, rất ít vụ việc bị
truy cứu trách nhiệm Hình sự.
74
* Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
- Quy định pháp luật đất đai và các quy định pháp luật khác liên quan
trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa thực sự đầy đủ và phù hợp;
thiếu tính đồng bộ, thống nhất gây nhiều khó khăn trong công tác tổ chức thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Công tác quản lý Nhà nước về đất đai ở tỉnh trước đây còn chưa được
quan tâm đúng mức, nhiều vướng mắc, tồn đọng không được kịp thời giải quyết,
do đó không ít các trường hợp Nhà nước phải mặc nhiên công nhận quyền sử dụng
đất cho các chủ sử dụng không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật đất đai. Việc điều tra, đo đạc, lập và chỉnh lý hồ sơ địa chính vẫn còn
hạn chế, nhiều trường hợp chưa sát với thực tế… Những hạn chế này làm ảnh
hưởng đến công tác xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất;
- Công tác quản lý của chính quyền các cấp về việc chuyển nhượng, mua
bán đất đai còn lỏng lẻo, không có đầy đủ hồ sơ quản lý, không cập nhật biến
động thường xuyên, không quản lý được những vụ việc mua bán, chuyển nhượng
đất đai không theo đúng quy định của pháp luật; đã gây nhiều khó khăn cho công
tác kiểm kê, thẩm định làm chậm trễ, ách tắc trong công tác giải phóng mặt bằng;
- Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhiều trường hợp còn thiếu
chính xác, làm cho việc xem xét tính pháp lý đất đai khi giải phóng mặt bằng gặp
không ít khó khăn;
- Một số cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng chưa được đào tạo
nghiệp vụ nên mức độ nghiên cứu và áp dụng đúng các văn bản pháp luật hiện
hành còn hạn chế; thậm chí một số cán bộ còn có các hành vi nhũng nhiễu, gây
khó khăn cho người bị thu hồi đất và nhà đầu tư trong công tác bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư; tổ chức làm nhiệm vụ giải phóng mặt bằng khi lập phương án bồi
thường chưa nghiêm túc thực hiện việc lấy ý kiến của người bị ảnh hưởng theo
quy định; ý kiến phản ánh của người dân chưa được giải thích hoặc tiếp thu, dẫn
đến những thiếu sót, tồn tại trong phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và
75
thắc mắc của người dân là khó tránh khỏi;
- Một số trường hợp, chính quyền địa phương chưa chủ động giải quyết
các vướng mắc phát sinh trong công tác giải phóng mặt bằng theo thẩm quyền mà
ỷ lại, muốn thông qua các ban ngành cấp trên để giải quyết vướng mắc.
- Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về đất đai và chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất ở các địa phương còn thiếu
sót, chưa được quan tâm đúng mức khiến nhận thức của người dân về mảng pháp
luật này còn nhiều hạn chế; khi giải thích, hướng dẫn thắc mắc của người dân thì
nhiều trường hợp chỉ qua loa, chiếu lệ.
76
Chương III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất, trong thời gian tới cần hoàn thiện pháp luật theo
một số hướng sau để đảm bảo sự phát triển bền vững :
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải dựa trên
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng; tạo nền tảng để nước ta có thể trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo đó, chế độ đất đai của nước ta
là chế độ sở hữu toàn dân , do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý chung đối với đất đai và chỉ tiến hành thu hồi đất vì lợi
ích chung của đất nước, xã hội; tuy nhiên vẫn cần phải đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của từng cá nhân có đất bị thu hồi. Trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đạt hóa đất nước, Nhà nước đồng thời phải đảm bảo phát triển bền vững,
quan tâm đến đời sống của nhân dân, đảm bảo nhân dân được hưởng lợi từ quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển đất nước.
Thứ hai, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đồng bộ, nhất quán,
khách quan giữa quy định của Luật Đất đai và các luật khác có liên quan. Chế
định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có mối quan hệ mật
thiết với các quy định khác của pháp luật đất đai như quy định về trình tự, thủ tục
thu hồi đất, điều kiện thu hồi đất hay quy định về giá đất.v.v… và các quy định
của các đạo luật khác có liên quan như Luật dân sự, Luật nhà ở, Luật hình sự, Luật
khiếu nại, Luật tố cáo.v.v… Cần phải rà soát sửa đổi đồng bộ các Luật có liên
quan đến lĩnh vực đất đai nhằm khắc phục tình trạng chống chéo, rối ren của một
số quy phạm pháp luật. Ví dụ như thống nhất giữa quy định pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai với quy định pháp luật của Luật Khiếu nại,
77
tố cáo hiện hành.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật phải dựa trên việc giải quyết mối quan hệ hài
hòa về lợi ích kinh tế giữa người bị thu hồi đất, Nhà nước và chủ đầu tư. Vấn đề
kinh tế luôn đi liền với sự ổn định chính trị - xã hội, do đó, muốn giải quyết những
bất ổn, tranh chấp, khiếu nại cần giải quyết được bài toán về kinh tế trước. Trong
quá trình thu hồi đất, xung đột về lợi ích giữa các bên là điều không thể tránh khỏi.
Cân bằng, hài hòa lợi ích về kinh tế chính là chìa khóa để giảm thiểu tình trạng
khiếu nại, tố cáo về bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trong đó, người dân có đất
bị thu hồi là chủ thể ở vị trí yếu thế hơn nên cần phải được quan tâm đặc biệt trong
việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp. Lợi ích của người bị thu hồi đất cần được
đặt ngang bằng với lợi ích của chủ đầu tư. Quyền của người sử dụng đất được tôn
trọng thì Nhà nước mới có thể có cách ứng xử phù hợp với người sử dụng đất và
có các biện pháp bồi thường, hỗ trợ thỏa đáng.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư phải dựa trên
nguyên tắc công khai, minh bạch, bình đẳng và đúng pháp luật bằng cách gia tăng
sự tham gia của người dân vào những bước đầu của công tác thu hồi đất, từ quá
trình lập quy hoạch đến quá trình thu hồi đất, tổ chức bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư. Người dân cần được biết, được đưa ra ý kiến và giám sát quá trình thu hồi đất
để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích của bản thân. Chỉ có như vậy mới đáp ứng
được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, từ đó mà các dự án đầu tư được thực
hiện nhanh chóng, hiệu quả.
Thứ năm, công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần đảm bảo hiệu quả
của phương án đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm, tổ chức lại sản xuất. Nhà nước
phải chú trọng đến vấn đề sinh kế, đời sống lâu dài của nhân dân sau khi bị thu
hồi, đặc biệt là người nông dân. Do đất đai chính là tư liệu sản xuất của họ nên
việc bị thu hồi đất ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và nghề nghiệp của
người nông dân. Việc giải quyết việc làm đối với họ lại càng khó khăn khi họ có
xuất phát điểm trình độ không cao. Vì vậy, Nhà nước phải hết sức lưu ý và tạo
điều kiện cho người nông dân bị thu hồi đất được đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp
78
có một cuộc sống ổn định, lâu dài.
Thứ sáu, cần nhận thức rõ hơn về vai trò của đồng thuận và nâng cao sự
đồng thuận của người dân đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do cơ quan có thẩm quyền đưa ra phải
phù hợp, nhận được sự đồng thuận của người dân nhằm bảo đảm việc bồi thường,
hỗ trợ được khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định.
Thứ bảy, cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế định giá đất phù hợp hơn với thực
tế để làm căn cứ tính bồi thường thiệt hại. Giá đất để tính bồi thường phải đúng
với giá trị của đất đai với tư cách là nguồn lực, là tài sản có giá trị lớn trong nền
kinh tế thị trường. Tổ chức thực hiện theo dõi, cập nhật biến động giá đất trên thị
trường. Từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất tới từng thửa đất gắn với cơ
sở dữ liệu đất đai. Công khai giá trị bất động sản trong hệ thống tính thuế, phí và
các nghĩa vụ tài chính có liên quan.
Thứ tám, hoàn thiện pháp luật đất đai dựa trên sự nghiên cứu, xem xét, tham
khảo có chọn lọc những kinh nghiệm, thực tiễn pháp lý và thành tựu bổ ích từ các
nước trên thế giới về vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất. Hơn nữa, điều này cũng giúp chúng ta tránh lặp lại những sai lầm mà các
nước đã gặp phải trong quá trình phát triển đất nước dưới tác động toàn cầu hóa.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Luật đất đai năm 2013 ra đời tuy đã có những thành tựu nhất định tuy nhiên
thực tế cho thấy vẫn chưa giải quyết triệt để những vướng mắc, bất cập, đáp ứng
những yêu cầu thực tế. Do vậy xin đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, về việc xác định giá đất
Một là, có thể nhận thấy pháp luật nước ta quy định giá đất bồi thường “phù
hợp” với giá thị trường là chưa hợp lý với thực tiễn. Pháp luật nhiều nước thường
sử dụng cụm từ bồi thường “theo giá trị tương đương”, hay nói cách khác giá trị
79
bồi thường nhận được có thể mua được một bất động sản tương đương trên thị
trường. Nếu chúng ta làm được điều này chắc hẳn sẽ giảm thiểu được những
trường hợp khiếu nại, khiếu kiện như hiện nay.
Hai là, pháp luật nên quy định thẩm quyền định giá đất thuộc về một cơ
quan, tổ chức độc lập , chuyên hoạt động ở lĩnh vực định giá đất. Do định giá đất
là một hoạt động mang tính nghề nghiệp, chuyên môn cao nên giao cho cơ quan
quản lý nhà nước là không hợp lý. Điều này không những có thể đảm bảo quyền
và lợi ích của người dân bị thu hồi đất mà còn giảm nguy cơ tham nhũng trong
công tác quản lý đất đai ở địa phương. Mỗi định giá viên, mỗi tổ chức cung cấp
dịch vụ định giá sẽ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả định giá trước pháp luật.
Mô hình này cũng đã được thực hiện ở một số quốc gia khác như Hàn Quốc,
Trung Quốc.v.v...Nhà nước sử dụng dịch vụ định giá độc lập ở các tổ chức uy tín
để đề xuất giá đất trước khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thẩm
định và quyết định giá. Luật Đất đai năm 2013 của nước ta cũng đã quy định về
dịch vụ định giá đất tuy nhiên lại không bắt buộc mà tùy theo yêu cầu của cơ quan
Nhà nước, gọi là tư vấn định giá đất. Có thể nói quy định này tưởng chừng như
tiến bộ nhưng lại không giải quyết được triệt để vấn đề về giá đất bồi thường, do
đó Nhà nước nên đổi mới theo hướng các nước có nền kinh tế phát triển về việc
sử dụng dịch vụ định giá đất độc lập. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương tiên
phong, có kinh nghiệm nhiều năm trong việc sử dụng dịch vụ định giá đất độc lập
và đã có những thành tựu đột phá đang học hỏi và noi theo.
Ba là, pháp luật cần có quy định cụ thể về vấn đề giải quyết chênh lệch giữa
giá bồi thường tại thời điểm phê duyệt và giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền
bồi thường cho người dân dựa trên nguyên nhân làm phát sinh chênh lệch.
+ Trường hợp 1: Phát sinh do nhà đầu tư sai phạm, giữ đất không thực hiện
đầu tư, kéo dài thời gian trả tiền bồi thường… thì nhà đầu tư có trách nhiệm bù
đắp khoản chênh lệch này
+ Trường hợp 2: Phát sinh do lỗi của người sử dụng đất chây ì, không phối
80
hợp thực hiện công tác di dời, giải tỏa thì họ sẽ phải tự gánh chịu hậu quả mà
không thể yêu cầu Nhà nước hay nhà đầu tư điều chỉnh lại đơn giá bồi thường cho
phù hợp với giá trị tại thời điểm nhận bồi thường.
+ Trường hợp 3: Phát sinh do cơ quan Nhà nước chậm trễ trong công tác
giải phóng mặt bằng thì khoản chênh lệch đó sẽ do Nhà nước chi trả từ ngân sách
Nhà nước.[12]
Thứ hai, điều tiết lợi ích trong trường hợp thu lợi sau khi thu hồi đất: bất
động sản tăng lên nhờ dự án.
Đối với các hộ có nhà trong ngõ ra mặt tiền hoặc bị thu hồi diện tích nhỏ
nhưng giá trị bất động sản tăng lên rất lớn… thì cần phải có sự điều tiết của Nhà
nước. Trong trường hợp này, pháp luật chỉ nên bồi thường khi tổng giá trị tăng
lên của giá trị bất động sản nhỏ hơn thiệt hại về đất khi giải phóng mặt bằng.
Ngược lại, các trường hợp giá trị bất động sản tăng cao hơn hoặc bằng thiệt hại
về đất thì không phải bồi thường. Nếu làm được điều này thì các dự án mở rộng
đường, mở rộng con hẻm có thể tiết kiệm cho Nhà nước hàng chục tỷ đồng trên
mỗi dự án. [28].
Ngoài ra, còn một giải pháp nữa là áp dụng phương án: các hộ dân ở mặt
tiền sẽ lùi vào ngay phía sau thửa đất và các hộ dân ở trong hẻm, phía sau mặt tiền
chuyển vào các khu tái định cư. Điều này một mặt vừa ổn định được địa bàn, mặt
khác sẽ tiết kiệm được hàng nghìn tỷ đồng cho các dự án mở rộng đường sá. Tuy
nhiên, để thực hiện được điều này, cần lưu ý về việc thống nhất cơ chế thực hiện,
có tuyên truyền, vận động để tạo sự đồng thuận chung và bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của người dân liên quan [27].
Thứ ba, về điều kiện được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất
Pháp luật đất đai cần phải cải cách các vấn đề liên quan đến việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy tờ có giá trị pháp lý cao nhất của người sử
dụng đất, khi đó, quyền lợi của họ đối với đất đai cũng là rõ ràng và minh bạch
81
nhất. Tuy nhiên thực tế hiện nay có rất nhiều bất cập, hạn chế về điều kiện được
hưởng bồi thường có liên quan đến giấy chứng chận quyền sử dụng đất. Chính vì
vậy, cần chú ý đẩy nhanh tiến độ lập hồ sơ, đánh số, cấp giấy chứng nhận đối với
toàn bộ quỹ đất hiện có, nhằm tạo thuận lợi trong công tác quản lý nhà nước về
đất đai, cũng như minh bạch quyền lợi kinh tế của người đang sử dụng đất và dễ
dàng hơn trong việc xác định hậu quả nếu có các tranh chấp, khiếu kiện xảy ra.
Thứ tư, về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Một là, Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần xem xét
bồi thường về đất không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và tư liệu
sản xuất. Luật Đất đai năm 2013 vẫn giữ nguyên tắc khi Nhà nước thu hồi đất thì
bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không có đất cùng loại thì bồi thường bằng
tiền với giá trị tương đương. Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm đơn giản
coi đất đai là tài sản có thể được trả thay bằng tiền bồi thường để mua được một
thửa đất tương đương. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa là tài sản, đất đai còn là tài
nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất và nguồn sống của con người. Vì đất là tư
liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên nhà đầu tư ngoài việc bồi thường giá trị
như một tài sản còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho người bị thu hồi đất.
Việc chi trả khoản bồi thường, hỗ trợ một lần trong một thời gian nhất định là
không phù hợp, coi như đã phó mặc việc tìm sinh kế mới cho người bị thu hồi đất.
Do đó, một số biện pháp được đặt ra như:
Nhà đầu tư cần phải được yêu cầu cùng bàn bạc với họ về cơ hội tìm sinh
kế mới; đồng thời nhà đầu tư phải chi trả cho người bị thu hồi đất một khoản tiền
tương ứng với mức thu từ sử dụng đất trước đây cho tới khi họ có nguồn thu nhập
mới và theo nguyên tắc, càng để lâu, chi phí bồi thường càng lớn để bắt buộc nhà
đầu tư không thể trì hoãn. Theo nguyên tắc này, nhà đầu tư cần nghiên cứu rất kỹ
lưỡng đất đai trong bài toán đầu tư để chi phí ít nhất, chính quyền địa phương
cũng khó đánh đổi mọi giá cho sự phát triển, như vậy chắc chắn sẽ giảm được
tham nhũng từ đất đai và bảo vệ được nguồn lực đất đai.
Nhà nước nên thành lập một quỹ hỗ trợ thất nghiệp, quỹ giải quyết việc
82
làm cho người bị thu hồi đất để ứng trước một khoản vốn tập trung vào đào tạo
chuyển đổi nghề. Các chủ đầu tư cần trích một phần lợi nhuận từ dự án để thành
lập và phát triển các quỹ hỗ trợ đối với đối tượng bị thu hồi đất thuộc vùng dự án
của mình; hoặc xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng cho phần nông thôn mới; cũng
như đầu tư các công trình phúc lợi xã hội cần thiết cho người dân bị thu hồi đất.
Thực hiện chủ trương yêu cầu chủ đầu tư phải bố trí lao động địa phương
vào làm việc cho các doanh nghiệp: Chủ đầu tư cần ưu tiên đào tạo và sử dụng
lao động địa phương với một mức thu nhập tốt để người dân có thể hưởng lợi trực
tiếp từ dự án đầu tư. Chủ đầu tư cần phải công khai số lượng tuyển dụng lao động
cũng như yêu cầu về nghề nghiệp để người bị thu hồi đất được biết. Điều này phải
có cam kết giữa đơn vị sử dụng lao động và địa phương nơi có đất bị thu hồi và
có sự tham gia giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước như: Phòng Lao động-
Thương binh và Xã hội…
Hai là, về chính sách tái định cư: Có thể áp dụng một số biện pháp đã được
áp dụng tại nhiều địa phương (Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Đồng Nai...) và mang lại
những kết quả khả quan như: Trong thời gian chuyển đổi tái định cư, người dân
được chính quyền hỗ trợ nhà ở tạm, thuê nhà chờ khu tái định cư hoàn thành, tạo
việc làm, ổn định đời sống, sinh hoạt…
Thêm vào đó, nước ta nên học hỏi kinh nghiệm từ Singapore về việc bố trí
nhà ở công do nhà nước xây dựng và cung cấp với giá rẻ đi kèm với một số điều
kiện. Một cơ quan tập trung thực hiện việc giải quyết tái định cư cho người dân
bị thu hồi đất nên được thiết lập. Đây cũng là một biện pháp nhằm đảm bảo người
dân nhanh chóng ổn định cuộc sống mới tiến bộ hơn.
Thứ năm, về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
* Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất một cách có hiệu quả
Để công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được hiệu quả và mang
tính sát thực cao, cần quan tâm một số điểm sau: Một là, xác định mục đích quy
hoạch sử dụng đất để phục vụ cho dự án liên quan đến lĩnh vực gì. Qua đó, xác
định được mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch phát triển kinh
83
tế, quy hoạch xây dựng đô thị, hay quy hoạch các công trình phục vụ công cộng
(trường, trạm…) hoặc các dự án liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho
các cơ quan nhà nước. Hai là, phương án lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
cần có tầm nhìn dài hạn, chắc chắn về nhu cầu sử dụng đất; cần có tầm nhìn bao
quát, liên hệ với các địa phương xung quanh, với vùng miền và trên cả nước. Ba
là. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp chính quyền sau khi được lập
cần được công bố công khai để mọi người dân được biết, bảo đảm tính công bằng,
khách quan, minh bạch. Cần tiến hành thường xuyên và nghiêm túc công tác thanh
tra, kiểm tra và giám sát việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các địa
phương, nhất là cấp cơ sở, hạn chế tối đa tình trạng tư lợi cá nhân để đất đai được
sử dụng có hiệu quả.
* Nâng cao sự đồng thuận của người dân đối với phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư.
Theo kinh nghiệm của Đà Nẵng: chính sách về quy hoạch, chỉnh trang đô
thị, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng đã chú trọng
việc huy động sức dân, cả cộng đồng và hệ thống chính trị; tạo sự đồng thuận rộng
rãi trong xã hội. Kinh nghiệm cho thấy, công tác công bố quy hoạch, tuyên truyền,
công khai thông tin về dự án là giải pháp quan trọng trước và trong khi tiến hành
dự án. Khi người dân được biết về quy hoạch, về chính sách, về lợi ích do dự án
mang lại sẽ có ý thức tự giác chấp hành chủ trương đền bù, giải tỏa. Việc tổ chức
tiếp dân, lắng nghe dân trình bày kiến nghị, nguyện vọng là nhiệm vụ thường
xuyên của hội đồng giải phóng mặt bằng cùng các cơ quan chuyên trách về đền
bù giải tỏa, giải phóng mặt bằng và của chính quyền các cấp đối với dự án. Qua
đó, giải đáp kiến nghị, vướng mắc trong thực hiện dự án. Cách làm này tạo ấn
tượng tốt, mang lại sự đồng thuận cao trong nhân dân để thực hiện tốt chủ trương
của chính quyền.
Ngoài ra, pháp luật cần bổ sung quy định về tỷ lệ đồng thuận của những
người tham gia ý kiến từ cộng đồng dân cư địa phương khi phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Phương án chỉ được phê duyệt khi đạt được một tỉ
84
lệ đồng thuận nhất định, có thể là khoảng 2/3 cộng đồng dân cư [24]. Ngoài ra
người dân cũng có quyền giới thiệu tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập
tham gia vào quá trình định giá đất đảm bảo sự khách quan, công bằng.
Thứ sáu, phát hiện và xử lý vi phạm
Một là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ quan có thẩm quyền
thu hồi đất, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, UBND cấp xã và các bên có liên
quan theo định kì hoặc đột xuất nhằm phát hiện nhằm phát hiện sai phạm và xử
lý nghiêm minh các vi phạm về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Ngoài ra, cần thanh tra, kiểm tra việc giải quyết
các khiếu nại, khiếu kiện , tố cáo về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất nhằm chấn chỉnh kịp thời những khuất tất, sai phạm và xử lý các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong khi giải quyết khiếu nại, tố cáo. Làm được
điều này không chỉ bảo vệ tối đa các khiếu nại, tố cáo của người dân mà còn bảo
vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người bị thu hồi đất, lợi ích của nhà đầu tư và lợi
ích của Nhà nước.
Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai nhằm bảo đảm nguyên tắc:
mọi hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực đất đai đều phải được
phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh; có như vậy mới thiết lập được kỷ cương
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai nói chung và trong lĩnh vực bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư nói riêng. Pháp luật đất đai cần phải bổ sung thêm những quy
phạm gồm những chế tài nghiêm khắc, có tính răn đe để xử phạt hành vi vi phạm
trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người dân. Việc quy định cụ thể về tội danh vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là hết sức cần thiết nhằm nâng
cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ bảy, một số vấn đề xã hội khác như:
Cần tăng cường công tác tuyên truyền , phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai
85
cho người dân, giúp họ nắm được quyền và lợi ích hợp pháp của mình và cách để
bảo vệ quyền và lợi ích đó. Từ đó, người dân mới tự giác chấp hành pháp luật và
có kiến nghị phù hợp khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Cần bồi dưỡng, đào tạo cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức trong
công tác thực thi pháp luật đất đai, đặc biệt với lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, thu
86
hồi đất.
KẾT LUẬN
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định
quan trọng trong pháp luật đất đai, mang tính thời sự nóng bỏng, nhận được sự
quan tâm của toàn xã hội. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất hiện nay vẫn luôn được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
để đáp ứng những nhu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành pháp
luật đất đai thì vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vẫn luôn là một vấn đề tồn
đọng và nan giải, gây nên những bức xúc từ nhiều phía bao gồm: người sử dụng
đất, nhà đầu tư và các cơ quan chính quyền có trách nhiệm thu hồi đất. Việc giải
quyết không thỏa đáng trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất sẽ dễ dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện kéo dài, gây tác động không nhỏ
đến sự ổn định kinh tế, chính trị. Do đó, bên cạnh việc bổ sung, sửa đổi các quy
định pháp luật, Nhà nước cần có những biện pháp thiết thực để thi hành pháp luật
một cách hiệu quả nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn là một bước tiến quan
trọng trong việc giải quyết những khó khăn, bất cập của công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Có thể nói Luật đất đai hiện hành đã có
quy định theo hướng quan tâm nhiều hơn đến việc bảo vệ quyền lợi cho người có
đất bị thu hồi cũng như giúp quá trình thu hồi đất được minh bạch, hiệu quả. Tuy
nhiên, đây chỉ là thành công bước đầu; việc thay đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật liên quan thường tương đối chồng chéo; đồng thời cũng chưa có lộ trình
để áp dụng một cách thống nhất, gây khó khăn cho việc thực hiện. Việc bổ sung
một số quy định mới có tiến bộ, tích cực hơn nhưng những khó khăn, bất cập vẫn
chưa được giải quyết dứt điểm như giá đất bồi thường vẫn chưa thực sự tương
đương so với giá thị trường, việc thực thi pháp luật về trình tự, thủ tục bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư chưa thực sự được công khai, minh bạch, công bằng.v.v... Vì
vậy, chúng ta cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật để đảm bảo việc bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư được thực hiện hiệu quả hơn nữa, mang lại lợi ích cụ thể cho
87
người có đất bị thu hồi.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT
ngày 30/6/2014 quy định chi tiết phuong pháp định giá đất, xây dựng, điều
chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT
ngày 30/6/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất, Hà Nội
3. Chính phủ (2004) Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư, Hà Nội
4. Chính phủ (2004) Nghị định số 188/2004/ NĐ-CP ngày 16/11/2004 về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất, Hà Nội
5. Chính phủ (2006) Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 về sửa
đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất
đai, Hà Nội
6. Chính phủ (2006) Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai, Hà Nội
7. Chính phủ (2006) Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định
về giá đất, Hà Nội
8. Chính phủ (2006) Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội
9. Quốc hội (2003) Luật Đất đai, Hà Nội
10. Quốc hội (2013) Luật Đất đai, Hà Nội
11. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa chủ nghĩa xã hội Việt Nam, Hà
Nội
12. Nguyễn Quang Tuyển (2009), “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi
88
thường khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí luật học (1) , Tr 35-42
13. Nguyễn Quang Tuyến (2013),“Kinh nghiệm của một số nước về bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất”, Bản tin Thông tin Khoa học Lập pháp số 01-
2013
14. Phạm Thu Thủy (2014), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp”, Luận văn Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội
15. Phương Thảo (2013), “Kinh nghiệm thu hồi đất của một số quốc gia trên
thế giới”, Trang thông tin điện tử ban nội chính trung ương,
http://noichinh.vn/ho-so-tu-lieu/201309/kinh-nghiem-thu-hoi-dat-cua-
mot-so-quoc-gia-tren-the-gioi-292298/
16. Nguyễn Trung Sơn (2012), “Giải quyết việc làm cho người có đất bị thu
hồi ở Trung Quốc và bài học rút ra cho Việt Nam hiện nay”, Viện khoa học
xã hội VN, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, http://www.inas.gov.vn/347-giai-
quyet-viec-lam-cho-nguoi-co-dat-bi-thu-hoi-o-trung-quoc-va-bai-hoc-rut-
ra-cho-viet-nam-hien-nay.html
17. Nguyễn Thị Dung (2010), “Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số
nước trong khu vực và Việt Nam”, Tạp chí cộng sản (6) , Tr 19-21
18. Phạm Đức Phong (2002), “Mấy vấn đề then chốt trong việc bồi thường và
giải phóng mặt bằng các dự án xây dựng ở Việt Nam”, Hội thảo bồi thường
và giải phóng mặt bằng các dự án xây dựng ở VN ngày 12-13/9/2002, HN
19. Châu Hoàng Thân (2013) “Bất cập liên quan đến giá đất tính tiền bồi
thường khi NN thu hồi đất”, Tạp chí khoa học Trường đại học Cần Thơ,
trang 47-54.
20. Nguyễn Thị Thùy Linh (2015), “ Định giá đất trong giải phóng mặt bằng”,
Luận văn Thạc sĩ, Tr.100-101
21. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh Quảng Nam (2014),
“Quy trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong
89
Luật Đất đai 2013”, Cổng thông tin điện tử Sở tư pháp Quảng Nam
http://www.sotuphapqnam.gov.vn/index.php?option=com_content&view=
article&id=1752:quy-trinh-bi-thng-h-tr-tai-nh-c-khi-nha-nc-thu-hi-t-
trong-lut-t-ai-2013&catid=108:vn-bn-chinh-sach-mi&Itemid=110
22. Nguyễn Thị Lan Hương (2014), “Bảo vệ quyền lợi người nông dân khi thu
hồi đất”, luận văn Thạc sĩ, Tr.58-59
23. Nguyễn Kim Thoa (2010), “Lời giải hữu hiệu cho bài toán thu hồi đất nông
nghiệp”, Tạp chí Tài chính (3), Tr.44-45
24. Đoàn Minh Hà, “Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi ở TP. Hồ Chí Minh và định hướng hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Cơ quan ngôn luận Bộ tư pháp
25. Bùi Quang Hậu (2016) “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
từ thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
Cơ quan ngôn luận Bộ tư pháp
26. Phan Trung Hiền (2016), “Điều tiết và cân bằng lợi ích giữa Nhà nước,
chủ đầu tư và người dân khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp (20), Tr.40-48
27. Phan Trung Hiền (2013), “Nghiên cứu giải quyết những khó khăn trong
giải phóng mặt bằng khi thực hiện các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn
thành phố Cần Thơ”, Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp tỉnh- Sở Khoa
học và Công nghệ thành phố Cần Thơ, 10/2013, Tr. 208.
28. Hùng Long (2015), “Nhiều thiệt hại phát sinh sau và ngoài quyết định thu
hồi đất”, Báo Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường,
http://baotainguyenmoitruong.vn/tai-nguyen-va-cuoc-cuong/dat-
dai/201507/nhieu-thiet-hai-phat-sinh-sau-va-ngoai-quyet-dinh-thu-hoi-
dat-597543/
29. Trần Văn Duy (2016), “Thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại khi thu
hồi đất nông nghiệp của nông dân, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam,
90
http://tcdcpl.moj.gov.vn/UserControls/News/pFormPrint.aspx?UrlListPro
cess=/qt/tintuc/Lists/ThiHanhPhapLuat&ListId=&SiteId=&ItemID=291
&OptionLogo=0&SiteRootID=
30. Nguyễn Hữu Dũng (2008), “Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao
động - việc làm ở Việt Nam”, Tạp chí cộng sản
31. Nguyễn Như ý (chủ biên) (2001), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo
91
Dục, Hà Nội