ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ANH THƠ
QUẢN TÀI VIÊN TRONG PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
HÀ NỘI-2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ANH THƠ
QUẢN TÀI VIÊN TRONG PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS.NCS Trần Anh Tú
HÀ NỘI-2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Anh Thơ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ..................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................. 2
5. Cơ cấu của khóa luận: ....................................................................................... 3
Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản tài viên và địa vị pháp lý của quản tài
viên trong thủ tục phá sản: ....................................................................................... 4
1.1. Khái quát chung về quản tài viên: .................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về quản tài viên: ........................................................................... 4
1.1.2. Bản chất pháp lý của quản tài viên: ............................................................... 5
1.1.3. Đặc điểm của chủ thể quản lý, thanh lý tài sản- quản tài viên: ................... 10
1.2. Vị trí pháp lý của Quản tài viên trong thủ tục phá sản: .................................. 15
1.2.1. Vai trò của Quản tài viên trong kiểm soát và quản lý sản nghiệp phá sản: . 15
1.2.2 Vai trò thực hiện nhiệm vụ giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh
doanh: .................................................................................................................... 16
1.2.3. Vai trò thực hiện nhiệm vụ thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản: ..... 17
1.3. Quản tài viên theo pháp luật một số nước trên thế giới ......................................
1.3.1. Chế định quản tài viên theo pháp luật Nhật Bản: ........................................ 18
1.3.2. Chế định quản tài viên theo pháp luật Cộng hòa liên bang Đức: ................ 19
1.3.3. Chế định Quản tài viên theo pháp luật Liên bang Nga:............................... 20
Chương II: Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật về Quản tài viên
ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................ 22
2.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam về quản tài viên: ........................... 22
2.1.1. Điều kiện trở thành Quản tài viên:............................................................... 22
2.1.2. Nguyên tắc hành nghề quản tài viên: ........................................................... 24
2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quản tài viên trong quản lý, thanh lý tài sản
phá sản: .................................................................................................................. 25
2.1.4. Thù lao của Quản tài viên: ........................................................................... 27
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam hiện
nay: .................................................................................................................... 29
Kết luận chương 2: ................................................................................................ 33
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản tài viên ở
Việt Nam hiện nay ................................................................................................... 34
3.1. Định hướng hoàn thiện: ............................................................................ 34
3.2. Những giải pháp cụ thể hóa nhằm hoàn thiện pháp luật về quản tài viên ở
Việt Nam hiện nay: ................................................................................................ 37
3.2.1. Đơn giản hóa thủ tục để được hành nghề Quản tài viên: ............................ 37
3.2.2. Tăng thêm nhiệm vụ, thẩm quyền cho Quản tài viên: ................................. 38
3.2.3. Xây dựng chế độ thù lao hợp lý cho Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý
thanh lý tài sản: ...................................................................................................... 40
3.2.4. Xây dựng và phát triển nghề Quản tài viên sớm trở thành một ngành nghề
chuyên nghiệp: ....................................................................................................... 41
3.2.5. Cần bổ sung quy định trường hợp đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản................................ 42
Kết luận chương 3: .................................................................................................. 43
KẾT LUẬN: ............................................................................................................ 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 46
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới
của Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với việc tạo điều kiện và
mở rộng cơ chế thị trường mà ngày càng có nhiều doanh nghiệp được mở ra với
mục đích, đồng thời cũng là phương tiện và động lực để kinh doanh đó chính là lợi
nhuận. Khi một doanh nghiệp không còn đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe,
nghiệt ngã đó của thương trường, thì doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải. Cơ chế đào
thải những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả và những rủi ro của
những doanh nghiệp này gây ra chính là cơ chế phá sản.
Việc xử lý các khoản nợ của doanh nghiệp không phải là vấn đề đơn giản, nó
không những tiểm ẩn những bất ổn về chính trị, kinh tế mà còn về xã hội, an sinh.
Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp bằng biện pháp pháp luật để xử lý các vấn
đề liên quan đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán để những doanh nghiệp này
không làm tổn hại đến kinh tế, hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực. Các quy định
về phá sản của các quốc gia trên Thế giới quy định các vấn đề chính như vấn đề tài
sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, trong đó có hai nội dung chính là
quản lý và thanh lý tài sản.
Hệ thống pháp luật phá sản của các quốc gia trên Thế giới sẽ có sự khác biệt
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cũng như thể chế chính trị của từng quốc
gia. Xu hướng chung cho thấy, các quốc gia có nền lập pháp phát triển có quy định
về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phá sản là cá nhân. Việt Nam cũng đã có sự tiếp
thu có chọn lọc về pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới để có được sự
thay đổi phù hợp với xu thế chung trong đó phải kể đến là chế định Quản tài viên và
Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản phá sản.
Trong bối cảnh nói trên, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về thanh lý tài
sản phá sản của doanh nghiệp phá sản nhằm xây dựng một quy trình phân chia tài
1
sản phá sản hợp lý sẽ giúp các chủ nợ thu hồi nợ nhanh chóng, an toàn và tái cơ cấu
nhanh các nguồn lực của doanh nghiệp phá sản, mà người thực hiện phân chia tài
sản này không ai khác chính là “Quản tài viên”. Vậy “Quản tài viên” là gì? Công
việc của họ có thực sự hiệu quả và đưa ra giải pháp tốt nhất cho doanh nghiệp lẫn
chủ nợ hay không? Vì lẽ đó tác giả đưa ra đề tài “ QUẢN TÀI VIÊN TRONG
PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM” để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật về điều kiện
hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Vai trò nhiệm vụ của các chủ thể quản lý, thanh
lý tài sản trong thủ tục phá sản ở Việt Nam và một số nước trên Thế giời; Thực tiễn
pháp luật về việc áp dụng quy định pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của nghiên cứu đề tài là tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực
trạng quy định trong pháp luật Phá sản của Việt Nam về Quản tài viên, Doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Để thực hện mục đích nêu trên, mục tiêu đặt ra bao gồm:
Tìm hiểu những vấn đề về phá sản và chủ thể quản lý, thanh lý tài sản từ đó
hiểu được bản chất pháp lý, đặc điểm nghề nghiệp, vai trò của chủ thể này và mối
quan hệ với các chủ thể khác trong thủ tục phá sản.
Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam
về quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Bài nghiên cứu được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích.
Phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
nghiên cứu liên ngành, phương pháp dự báo qua những tài liệu thứ cấp, phương
pháp phân tích kinh tế luật, phân tích án lệ được các tác giả nước ngoài sử dụng
2
trong các nghiên cứu có liên quan cũng sẽ được tác giả tìm hiểu, tiếp cận và vận
dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
5. Cơ cấu của khóa luận:
Cơ cấu khóa luận: Lời nói đầu, phần nội dung, phần kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung được kết cấu thành ba chương cụ thể:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về Quản tài viên và Địa vị pháp lý của
Quản tài viên trong thủ tục phá sản.
Chương II: Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật về Quản tài viên
ở Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về Quản tài viên ở
Việt Nam hiện nay.
3
Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản tài viên và địa vị pháp lý của quản tài
viên trong thủ tục phá sản:
1.1. Khái quát chung về quản tài viên:
1.1.1. Khái niệm về quản tài viên:
- Phá sản là một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt với sự tham gia của nhiều chủ
thể khác nhau, trong đó có thiết chế quản lý tài sản của con nợ. Sự hiện diện của
chủ thể này trong pháp luật cũng như thực tiễn giải quyết ở các nước là một điều
cần thiết nhằm ngăn chặn tình trạng con nợ tẩu tán, làm thất thoát tài sản, thu hồi
được nhiều nhất các quyền lợi vật chất cho các chủ nợ; tránh tình trạng bắt nợ phi
pháp từ phía các chủ nợ; đồng thời việc phân chia tài sản, điều hòa lợi ích giữa các
chủ nợ, giữa chủ nợ với con nợ và lợi ích của người lao động, của Nhà nước một
cách công bằng và đúng luật trên cơ sở tài sản hiện có của con nợ cũng là một yêu
cầu cho sự hình thành của thiết chế quản lý tài sản.
Như vậy, khi một doanh nghiệp phá sản, nhằm xây dựng một quy trình phân
chia tài sản phá sản hợp lý sẽ giúp các chủ nợ thu hồi nợ nhanh chóng, an toàn và
tái cơ cấu nhanh các nguồn lực của doanh nghiệp phá sản, mà người thực hiện phân
chia tài sản này không ai khác chính là “Quản tài viên”.
Ta có thể thấy, chủ thể của việc quản lý và thanh lý tài sản có vị trí quan trọng
trong quá trình giải quyết phá sản. Chức danh “Quản tài viên” được lập ra phù hợp
với mục đích và tính chất của việc giải quyết phá sản là thu hồi được nhiều tài sản
nhất từ con nợ cho chủ nợ, đồng thời cũng điều hòa lợi ích giữa các bên, tránh xảy
ra tranh chấp, bảo đảm phân chia tài sản một cách công bằng nhất, nhằm ngăn chặn
hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản của một con nợ và là một thủ tục đòi nợ tập thể.
Ở các nước khác nhau, việc quy định về cơ cấu, tổ chức, vị trí, vai trò cũng
như thẩm quyền chủ thể quản lý, thanh lý tài sản khác nhau. Trong luật phá sản
Nhật Bản, chủ thể quản lý, thanh lý tài sản được dung bằng thuật ngữ “ bankruptcy
trustee” có nghĩa là người này được ủy thác, ủy quyền trong thủ tục phá sản. Luật
phá sản Hoa Kỳ gọi những chủ thể thanh lý, quản lý tài sản là những Tín thác viên,
theo đó những Tín thác viên này là những người thu hồi những tài sản không được
miễn trừ của con nợ, quản lý nguồn vốn từ việc bán tài sản này, sau đó chi trả và
phân phối cân bằng cho các chủ nợ còn khoản nợ.
4
Pháp luật mỗi quốc gia sẽ có cách định nghĩa khác nhau về chủ thể quản lý,
thanh lý tài sản phá sản. Qua quá trình khảo sát và nghiên cứu, tác giả đưa ra quan
điểm chủ thể quản lý, thanh lý tài sản có thể được định nghĩa như sau:
Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản được hiểu là chủ thể được hình thành khi thực
hiện thủ tục phá sản nhằm kiểm tra, giám sát việc quản lý tài sản của Doanh nghiệp,
ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản và thực hiện nhiệm vụ thanh toán các khoản nợ
dựa trên tài sản của Doanh nghiệp cho chủ nợ.
Như vậy, Quản tài viên có thể hiểu là một chức danh tư pháp do tòa án chỉ định
tham gia vào thủ tục phá sản nhằm quản trị, bảo toàn và phát triển sản nghiệp phá
sản của con nợ và thực hiện chức năng thanh toán sản nghiệp phá sản cho các đối
tượng thụ hưởng theo luật định trong trường hợp phải tuyên bố phá sản con nợ.
Theo Luật phá sản Việt Nam 2014 thì: “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản
lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong
quá trình giải quyết phá sản” (khoản 7 điều 4 Luật phá sản).
1.1.2. Bản chất pháp lý của quản tài viên:
Đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết tài sản phá sản, quản tài viên
không những là người đứng giữa con nợ và chủ nợ, mà còn có nghĩa vụ quản lý,
giám sát, bảo toàn hay thậm chí là làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã. Qua quá trình nghiên cứu về quản tài viên, có thể thấy chủ thể này mang bản
chất pháp lý khá đặc biệt và trong quá trình giải quyết phá sản, quản tài viên nắm
giữ nhiều vai trò khác nhau trong mối quan hệ giữa con nợ, chủ nợ và Nhà nước.
Tài sản phá sản là khối sản nghiệp của doanh nhiệp bao gồm toàn bộ những
tài sản có và tài sản nợ của doanh nghiệp từ thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đến thời điểm có quyết định của Tòa án về việc hoàn tất vụ việc phá
sản. Nhằm tránh sự thất thoát tài sản, bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho tài sản
của doanh nghiệp, đồng thời thanh toán nợ một cách công bằng, khách quan và hiệu
quả, các nước khi ban hành luật phá sản đều rất quan tâm đến vấn đề quản lý và xử
lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Do đó, mà Luật phá sản các nước đều có quy
định lập ra một thiết chế nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ và sau đó cho nói
một địa vị pháp lý nhất định, đó chính là chủ thể quản lý, thanh lý tài sản.
5
Nếu như theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 có tên gọi là Tổ quản lý
tài sản và tổ thanh toán tài sản, và Tổ quản lý và thanh lý tài sản theo Luật Phá sản
năm 2004 thì hiện nay, theo luật Phá sản 2014 hiện hành, tên gọi chủ thể này được
gọi là Quản tài viên.
Đây không chỉ là khác biệt về tên gọi, Khoản 2, Điều 9 Luật Phá sản năm 2004
và khoản 2, Điều 15 Nghị định số 67 ngày 11/7/2006 của Chính phủ quy định Tổ
quản lý và thanh lý tài sản bao gồm: Một Chấp hành viên của cơ quan thi hành án
làm Tổ trưởng; một cán bộ Tòa án nhân dân có quyền thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, một đại diện chủ nợ là tổ chức, cá nhân có số nợ lớn nhất trong số các chủ
nợ. Như vậy, theo quy định này, Tổ quản lý và thanh lý tài sản là một tập thể bao
gồm các thành viên đại diện cho chủ thể khác nhau, có chức năng quản lý và xử tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nhằm đảm bảo quyền
lợi của chủ nợ, con nợ, người lao động và của Nhà nước một cách công bằng và
đúng luật. Điều này dẫn đến nhiều bất cập, hạn chế trong quá trình giải quyết phá
sản, Tổ quản lý và thanh lý tài sản do Thẩm phán ra quyết định thành lập cùng với
quyết định mở thủ tục phá sản và chịu trách nhiệm truớc Thẩm phán về hoạt động
của mình. Qua đó thể hiện Tổ quản lý và thanh lý tài sản có mối quan hệ ràng buộc
với Toà án, hoạt động của Tổ nhằm thực hiện các quyết định pháp lý của Thẩm
phán; mặt khác, trên cơ sở hoạt động của Tổ, Thẩm phán có được những thông tin,
cơ sở cần thiết quyết định các vấn đề pháp lý cơ bản trong quá trình tố tụng phá sản.
Tuy nhiên, các thành viên của Tổ không chỉ chịu trách nhiệm trước Thẩm phán, mà
còn chịu sự quản lý của cơ quan nơi công tác. Đặc biệt là Chấp hành viên, người
giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động của Tổ, vừa chịu trách nhiệm trước Thẩm phán,
vừa chịu trách nhiệm với Thủ trưởng cơ quan thi hành án.
Điều 21 Nghị định số 67 của Chính phủ quy định: “Tổ trưởng Tổ quản lý và
thanh lý tài sản vẫn sinh hoạt chuyên môn tại cơ quan thi hành án và chịu trách
nhiệm chuyên môn trước thủ trưởng cơ quan thi hành án, chịu trách nhiệm về toàn
bộ hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trước Thẩm phán”.
Việc quy định địa vị pháp lý không rõ ràng đối với chủ thể này đã gây ra
những khó khăn, vướng mắc khiến cho hoạt động của Tổ không hiệu quả trong quá
trình giải quyết phá sản.
6
Còn với khoản 7, Điều 4 Luật phá sản năm 2014 quy định: “cá nhân hành
nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán trong quá trình giải quyết phá sản là Quản tài viên”.
Như vậy, ta có thể thấy rõ sự tiến bộ về pháp luật phá sản nói chung và trong
hoạt động quản lý thanh lý tài sản nói riêng, việc giao quyền hạn và nghĩa vụ cho
một cá nhân, với một mô hình chủ thể hoàn toàn mới, thay thế Tổ quản lý và thanh
lý tài sản, điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới và đáp ứng yêu
cầu sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khiến cho hoạt động quản lý thanh lý
tài sản đi vào thực tiễn một cách hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích cho các bên.
Luật phá sản 2014 được ban hành kế thừa và phát triển các quy định của
pháp luật phá sản của Việt Nam, khắc phục những hạn chế của quy định cũ, không
còn phù hợp để đáp ứng tình hình kinh tế đất nước trong giai đoạn kinh tế thị trường
định hướng XHCN, trên cơ sở tham khảo quy định của Luật phá sản nhiều nước
trên Thế giới. Đặc biệt, lần đầu tiên pháp luật phá sản Việt Nam đưa chế định Quản
tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản vào trong luật. Luật quy định cá
nhân, doanh nghiệp được hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải
quyết phá sản gồm: Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Thiết chế về chủ thể Quản tài viên được đưa vào Luật phá sản 2014 cho thấy
một sự phát triển mới, khắc phục được những hạn chế, vướng mắc trong mô hình
của Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo quy định Luật phá sản 2004, đáp ứng được yêu
cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả và chuyên nghiệp trong thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá
sản, phù hợp với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa những hoạt động mang tính
nghề nghiệp theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính; đồng
thời phù hợp với thông lệ quốc tế. chế định Quản tài viên cũng được phổ biến rộng
rãi ở các nước có nền lập pháp phát triển trên thế giới như: Nhật Bản, Nga, Mỹ,
Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan… Như vậy, có thể thấy, Quản tài viên và
Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản là một đối tượng đặc biệt của Luật phá sản
năm 2014 vừa mang những đặc điểm chung của thiết chế tài sản quản lý tài sản trên
Thế giới vừa có những điểm đặc thù riêng biệt.
7
Quản tài viên không phải là những “nhiệm- lại”; họ là những “thụ ủy tư
pháp” do tòa án chỉ định và được nhận thù lao bằng tiền phụ cấp do thẩm phán
quyết định theo pháp luật. Quản tài viên là một “thụ ủy tư pháp”, là thiết chế vừa
đại diện tổng thể chủ nợ, vừa đại diện cho con nợ tham gia vào thủ tục phá sản
theo sự chỉ định của tòa án.
Về mặt bản chất, quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một
chủ thể độc lập, hoạt động với vai trò trung gian và vì lợi ích của các đối tượng liên
quan đến doanh nghiệp. Khoản 7 điều 14 Luật phá sản 2014 giải thích: Quản tài
viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Quản tài viên có thể là
một cá nhân hoặc một pháp nhân, khi được chỉ định Quản tài viên sẽ đóng vai trò
trung tâm trong việc thi hành hiệu quả Luật phá sản. Đây là nghề đã được phát triển
ở các nước trên Thế giới, nhưng ở nước ta thì Luật phá sản 2014 là văn bản đầu tiên
luật hóa nghề này. Quản tài viên có thể lả luật sư, kiểm toán viên, người có trình độ
cử nhân Luật, kinh tế, kế toán, tài chính ngân hàng,… và có kinh nghiệm 5 năm trở
lên về lĩnh vực được đào tạo được cấp chứng chỉ ngành nghề quản tài viên.
Luật phá sản trước đây chưa từng đề cập đến nghề này mà đưa ra các quy định
về thủ tục phá sản nhưng lại mang mô hình tập thể, thiếu độc lập nên khó để áp
dụng thực tiễn một cách hiệu quả.Ta có thể thấy, trước đây, có rất nhiều doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhưng lại không muốn thực hiện thủ tục phá sản,
do họ nhận thấy khâu giải quyết rườm rà và tốn kém. Chủ thể thực hiện quản lý và
thanh lý tài sản là một hội đồng được Toà án đề xuất thực hiện và giải quyết, nên
được đánh giá kém khách quan và không mang lại hiệu quả. Pháp luật của các nước
trên Thế giới đã sớm hình thành mô hình quản lý thanh lý tài sản là một chủ thể cá
nhân, lấy Quản tài viên làm trung tâm trong hệ thống giải quyết phá sản hiện đại.
Quản tài viên là người duy trì động lực thiết yếu đối với cả hai quá trình phá sản
hay phục hồi doanh nghiệp thành công, điều này yêu cầu đối với Quản tài viên phải
là người có năng lực và uy tín và có được sự tin cậy từ xã hội lẫn hệ thống tòa án,
và có đào tạo chuyên môn thích hợp để thực thi nhiệm vụ một cách hiệu quả nhất,
người hành nghề Quản tài viên phải đảm bảo được sự độc lập và liem chính giữa
các bên. Hiện nay, Luật phá sản 2014 đã có sự áp dụng theo thông lệ quốc tế trong
8
việc giải quyết tài sản theo doanh nghiệp phá sản, tức là, có người thứ ba đứng giữa,
hoạt động một cách độc lập vì mục đích của các bên liên quan đến doanh nghiệp,
được hưởng thù lao theo quy định. Người này được đặt chức danh là Quản tài viên
hay còn gọi là người quản lý tài sản. Có thể thấy, Quản tài viên có hai trách nhiệm
chính là cùng doanh nghiệp lập kế hoạch và triển khai khôi phục doanh nghiệp đang
lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính, và trong trường hợp không thể khôi phục
thì Quản tài viên sẽ triển khai thanh lý tài sản theo hiệu quả cao nhất đổi với các bên
liên quan.
Luật phá sản 2014 quy định hình thức hành nghề của Quản tài viên gồm
hành nghề với tư cách cá nhân và thành lập hoặc tham gia thành lập hoặc làm việc
hợp đồng cho doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản. Doanh nghiệp quản lý và
thanh lý tài sản là doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản,
đây có thể coi là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Như đã nêu ở trên, Quản
tài viên chính là một “thụ ủy tư pháp”, là một chủ thể độc lập với cơ quan khác, vừa
đại diện cho doanh nghiệp phá sản lại vừa đại diện cho chủ nợ, làm việc theo sự chỉ
định của Tòa án nhưng hoạt động mang tính chất kinh tế.
Luật phá sản 2014 quy định về những người được cấp chứng chỉ hành nghề
quản tài viên, điều kiện hành nghề quản tài viên; các trường hợp thu hồi chứng chỉ
hành nghề quản tài viên; chi phí Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản. Ngoài ra luật cũng quy định trách nhiệm của quản tài viên với tư cách là một
nghề độc lập: Quản tài viên phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; tuân theo nguyên
tắc đạo đức nghề nghiệp Quản tài viên; bảo đảm tính độc lập về chuyên môn,
nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch, khách quan và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hoạt động hành nghề. Để đảm bảo tính độc lập, khách quan, minh bạch của
Quản tài viên trong quá trình hành nghề quản lý, thanh lý tài sản ở một doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoặc đăng ký hành nghề với tư cách cá nhân (Khoản
2 điều 8, Nghị định 22/2015/NĐ-CP), đồng thời phải mua bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp theo quy định pháp luật đối với trường hợp Quản tài viên hành nghề
với tư cách cá nhân (Khoản 4 điều 7, Nghị định số 22/2015/NĐ-CP).
9
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoạt động với vai trò
trung gian vì lợi ích của các đối tượng liên quan đến doanh nghiệp thể hiện qua việc
Thẩm phán chỉ định, Quản tài viên có vị trí độc lập với cả bên là con nợ và chủ nợ,
vừa là người đại diện cho lợi ích của cả con nợ lẫn chủ nợ và Nhà nước. Luật phá
sản 2014 quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản chỉ thực
hiện đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã không có đại diện theo pháp luật. Quản
tài viên là chủ thể được chủ nợ, con nợ và Nhà nước chỉ định lựa chọn trong quá
trình thực hiện thủ tục phá sản, làm việc với tư cách là một thủ ủy tư pháp. Pháp
luật trao cho họ những nhiệm vụ, quyền hạn để đảm bảo lợi ích cho cả con nợ,
chủ nợ lẫn Nhà nước, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các
nhiệm vụ đó.
Như vậy, có thể thấy, việc thay đổi chế định Tổ quản lý, thanh lý tài sản thành
chế định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đồng nghĩa với việc
thay thế một tập thể thành một cá nhân thực hiện các nhiệm vụ về quản lý doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản cho đến thời điểm phá sản.
Điều này tạo ra cơ chế mới, linh hoạt hơn trong hoạt động giải quyết được
mối lo ngại về trình độ của chủ thể thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản của doanh
nghiệp bị phá sản, cũng như hạn chế những mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật
trong hoạt động của các thành viên của tổ quản lý và thanh lý tài sản trước đây.
Việc hoạt động độc lập theo cơ chế cấp phép đối với Quản tài viên và doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản cũng là điểm thuận lợi trong phối hợp quản lý Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản; có xu hướng năng động và liên tục
trong việc nâng cao chuẩn mực nghề nghiệp của Quản tài viên và doanh nghiệp
quản lý thanh lý tài sản.
1.1.3. Đặc điểm của chủ thể quản lý, thanh lý tài sản- quản tài viên:
Khi một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn, để phòng ngừa, khắc phục những hậu quả và những rủi ro của
những doanh nghiệp này gây ra chính là cơ chế phá sản.Quản tài viên có nhiệm vụ
là kiểm tra, phát hiện, bảo toàn, thậm chí làm gia tang khối tài sản phá sản nhằm
đảm bảo lợi ích tốt nhất cho tất cả các bên. Có thể thấy, Quản tài viên là một
nghành nghề chuyên nghiệp, theo đó cũng sẽ có những đắc thù riêng.
10
Thứ nhất, mô hình chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phá sản rất đa dạng.
Pháp luật mỗi quốc gia trên Thế giới sẽ thiết kế mô hình chủ thể quản lý tài sản
phá sản khác nhau.Với mỗi mô hình, pháp luật các nước cũng trao cho các chủ thể
này những nhiệm vụ, quyền hạn rộng hẹp khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh
tế- xã hội đặc thù của mỗi nước. Ta có thể thấy, nhìn chung mô hình chủ thể quản
lý, thanh lý tài sản trên Thế giới tồn tại hai mô hình: Chủ thể quản lý, thanh lý tài
sản là một cá nhân do Tòa án bổ nhiệm và Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là một
tập thể được gọi là Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
- Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là một cá nhân: Pháp luật của các nước phát
triển trên Thế giới đều quy định chủ thể quản lý tài sản phá sản là một các nhân. Đó
là các Tín thác viên (Trustees) theo pháp luật Hoa Kỳ; Luật phá sản Nhật Bản theo
chế định Quản trị viên (Kanxanin); theo luật Phá sản Đức có chế định người quản lý
tài sản (Insovelzrwalter); luật mất khả năng thanh toán của |Cộng hòa liên bang Nga
cũng có quy định về Quản trị viên… Họ đều là những luật sư chuyên trách về luật
phá sản, các nhà kinh tế, chuyên gia tài chính… được Tòa án bổ nhiệm để thực hiện
các nhiệm vụ trong quá trình tố tụng phá sản.
- Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là một tập thể: Ở một số nước việc quản lý
tài sản phá sản của một doanh nghiệp được giao cho một tập thể với nhiều thành
phần khác nhau do tòa án thành lập và chịu sự giám sát của thẩm phán. Thành phần
nhóm thông thường bao gồm: một nhân viên Tòa án, đại diện con nợ, đại diện chủ
nợ. Mô hình này thường tồn tại ở những quốc gia chưa phát triển, nền tư pháp và
hoạt động của luật sư chưa mang tính chuyên nghiệp cao. Vai trò của các chủ thể
này thường khiêm tốn hơn.
Thông thường, mô hình quản lý tài sản là một cá nhân thường tạo ra sự linh hoạt
hơn trong hoạt động quản lý và thanh lý tài sản phá sản, đồng thời cũng mang tính
chuyên nghiệp cao hơn.
Thứ hai, Quản tài viên là thiết chế vừa đại diện tổng thể chủ nợ, vừa đại
diện cho con nợ tham gia vào thủ tục phá sản theo sự chỉ định của tòa án
Quản tài viên là chủ thể độc lập với con nợ và chủ nợ, cũng là người đại
diện vì lợi ích cho con nợ và chủ nợ. Ta có thể thấy, quan tài viên ở đây như một
người đứng giữa, giải quyết và phân chia tài sản cho các bên, sao cho đảm bảo
11
được công bằng và tránh xảy ra tranh chấp giữa hai các bên. Tuy nhiên khác với
các trường hợp đại diện thông thường, là sự đại diện theo ủy quyền giữa người ủy
quyền và người nhận ủy quyền, Quản tài viên đại diện cho các chủ thể trên cơ sở quy
định của pháp luật (đại diện theo pháp luật); nói cách khác, pháp luật trao cho họ
những nhiệm vụ, quyền hạn để bảo vệ lợi ích cho cả chủ nợ, con nợ và Nhà nước, họ
là “nhân vật chính” trong quá trình thực hiện các thủ tục phá sản.
Quản tài viên được Tòa án chỉ định và thay mặt Tòa án để giải quyết các thủ tục
pháp lý nhằm giải quyết phá sản, họ được trao quyền hạn cũng như nghĩa vụ giải
quyết vụ việc phá sản, hoạt động của họ cũng nhằm thu hồi các khoản nợ đọng thuế,
các khoản phí phát sinh trong quá trình giải quyết việc phá sản cho Nhà nước. Như
vậy, quản tài viên chính là đại diện cho Nhà nước.
Mặt khác, quản tài viên cũng là đại diện cho chủ nợ, sau khi chủ nợ có đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đề thu hồi nợ, quản tài viên sẽ là người giúp họ đứng ra làm
các thủ tục nhằm thu hồi nợ. Nói cách khác, quản tài viên là người trực tiếp làm
việc với doanh nghiệp phá sản nhằm thu hồi nợ. Trong trường hợp, doanh nghiệp
làm thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh thành công hoặc phải thanh lý
tài sản thì quản tài viên có nghĩa vụ bảo toàn hay xử lý tài sản nhằm mang lại lợi ích
cho chủ nợ một cách cao nhất. Còn có trường hợp, khi xét người lao động là chủ nợ,
thì quản tài viên còn là đại diện cho người lao động nhằm thu hồi các khoản nợ như
là tiền công, bảo hiểm, tiền lương…
Quản tài viên sẽ là đại diện cho con nợ, đứng ra đàm phán với chủ nợ, nhằm
thỏa thuận phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp con
nợ vượt qua tình trạng khó khăn để có thể thanh toán các khoản nợ, tiếp tục duy trì
hoạt động sản xuất kinh doanh. Quản tài viên giúp cho việc phá sản của các doanh
nghiệp diễn ra một cách trật tự, hòa bình, đảm bảo lợi ích cho các bên.
Thứ ba, Hoạt động của Quản tài viên là hoạt động nghề nghiệp, mang tính
chuyên nghiệp cao
Như đã nêu trên, nếu như ở Luật phá sản năm 1993 và Luật phá sản năm
2004, hoạt động của Tổ quản lý và thanh lý tài sản vừa mang tính quyền lực nhà
nước, vừa mang tính xã hội, do các thành viên đại diện cho nhiều cơ quan, tổ chức
thực hiện, phục vụ mục tiêu của Nhà nước là nhằm giải quyết việc phá sản có hiệu
12
quả, bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ, con nợ, người lao động.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 1993 và 2004 cho thấy, do Luật
không xác định rõ trách nhiệm của từng thành viên đã dẫn đến tình trạng đùn đẩy,
né tránh trách nhiệm, việc thực hiện các thủ tục pháp lý do Tổ thực hiện thường bị
chậm trễ, hiệu quả thấp.
Với việc sửa đổi một mô hình quản lý và thanh lý tài sản mới, Luật phá sản
2014 quy định chủ thể với chức danh là Quản tài viên đã mang lại một “luồng gió
mới” phù hợp với hoạt động quản lý, thanh lý tài sản vốn có đặc điểm vừa mang
tính pháp lý, vừa mang tính kinh tế. Bỏ đi những cái “cứng nhắc, khô khan, cũ kĩ”
giúp cho hoạt động quản lý và thanh lý tài sản diễn ra hiệu quả hơn. Không chỉ
được giao phó nhiệm vụ, quyền hạn, Quản tài viên còn phải đáp ứng được yêu cầu
về thời gian, kinh nghiệm công tác, phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
theo quy định của pháp luật. Tính chuyên nghiệp cao trong hoạt động của Quản tài
viên còn được thể hiện bởi pháp luật có quy định chặt chẽ, toàn diện về nguyên tắc
hành nghề, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên, đặc biệt quy
định những hành vi bị nghiêm cấm, trách nhiệm pháp lý của Quản tài viên trong
hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Có thể nói, với những quy định về Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Luật Phá sản năm 2014 đã tạo ra một
nghề nghiệp mới - nghề quản lý và thanh lý tài sản ở Việt Nam, thêm một nội
dung hoạt động vốn thuộc chức năng của Nhà nước đã được xã hội hóa.
Thứ tư, Hoạt động quản lý, thanh lý tài sản do Quản tài viên thực hiện là
hoạt động dịch vụ,mang tính kinh tế.
Như đã nêu trên, Quản tài viên là thiết chế cá nhân, vừa là đại diện cho con
nợ, vừa đại diện cho chủ nợ lại vừa đại diện cho Nhà nước, do vậy khi tham gia
giải quyết phá sản của một doanh nghiệp Quản tài viên ngoài việc được hỗ trợ các
chi phí nhằm thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản như tiền tàu xe, lưu trú
và các chi phí hợp lý khác thì mục đích Quản tài viên hướng tới chính là lợi ích
vật chất, tức là thù lao. Thù lao của Quản tài viên được chi trả từ sản nghiệp của
doanh nghiệp, hợp tác xã dựa trên cơ sở thời gian, công sức, kết quả thực hiện
nhiệm vụ Quản tài viên, ( theo Khoản1, Điều 24 Luật Phá sản năm 2014) và được
xác định bằng nhiều phương thức như: Căn cứ vào giờ làm việc của Quản tài viên,
13
thỏa thuận mức thù lao trọn gói hoặc mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm tổng giá
trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thu được sau khi thanh
lý. Tuy nhiên, dù xác định theo phương thức nào thì thù lao cũng phải bảo đảm
tương xứng với thời gian, công sức và kết quả lao động của Quản tài viên. Như vậy,
giá trị sức lao động của Quản tài viên được xác định trên cơ sở giá cả thị trường và
mục đích của hoạt động cung cấp dịch vụ này là lợi ích kinh tế. Đối với Tổ quản lý
và thanh lý tài sản, do thành viên hầu hết là đại diện các cơ quan Nhà nước, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, trong quá trình tham gia hoạt động quản lý, thanh lý
tài sản họ vẫn thực hiện nhiệm vụ thường xuyên nơi công tác,vì vậy mức thù lao họ
được hưởng từ hoạt động quản lý, thanh lý tài sản chỉ mang tính “hỗ trợ”, không
được xác định trên cơ sở giá cả thị trường, nhìn chung mức chi thấp, không phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội thực tế và không tương xứng với công sức nên
không động viên, khích lệ được họ tích cực thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý
tài sản.
Thứ năm, điều kiện để trở thành chủ thể quản lý, thanh lý tài sản được quy
định chặt chẽ.
Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phải là người có uy tín và có sự tin cậy từ xã
hội và cả hệ thống tòa án.
Mỗi quốc gia khác nhau sẽ có những quy định khác nhau về điều kiện của chủ
thể quản lý tài sản phá sản. Tuy nhiên, ở bất kì mỗi quốc gia nào, để trở thành chủ
thể quản lý, thanh lý tài sản phá sản đòi hỏi có trình độ chuyên môn cũng như
nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý tài sản doanh nghiệp, am hiểu về lĩnh vực tài
chính, kế toán, kinh tế…, bởi khi thực hiện nhiệm vụ của mình, chủ thể quản lý và
thanh lý tài sản có những nhiệm vụ yêu cầu chuyên môn cao như định giá tài sản,
lập bản kê biên tài sản; quản lý tài sản, tài liệu, sổ kế toán doanh nghiệp nhằm đáp
ứng yêu cầu chính xác, nhanh chóng, chuyên nghiệp trong việc thực hiện quản lý,
thanh lý tài sản phá sản, tránh khỏi sự phức tạp, mất thời gian khi thực hiện thủ
tục phá sản. Đồng thời, chủ thể quản lý tài sản phải có đủ thẩm quyền và năng lực
thực thi nhiệm vụ trong quyền hạn của mình. Đặc biệt những chủ thể này phải
đảm bảo độc lập, liêm chính giữa các bên.
14
1.2. Vị trí pháp lý của Quản tài viên trong thủ tục phá sản:
Trong vấn đề phá sản của các doanh nghiệp, điều mà mọi đối tượng quan tâm
nhất chính là tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Chủ thể quản lý
tài sản chính là người đóng vai trò trung tâm ở tất cả các hệ thống của Luật phá sản
hiện đại. Chủ thể này giúp duy trì động lực thiết yếu đối với quá trình phá sản hay
phục hồi doanh nghiệp thành công.
Việc lập nên thiết chế chủ thể quản lý tài sản trong thủ tục phá sản là một nhu
cầu tất yếu trong pháp luật phá sản của các quốc gia trên thế giới. Với sự có mặt của
chủ thể này trong thủ tục phá sản sẽ nhằm ngăn chặn được việc con nợ cố tình tẩu
tán tài sản và theo đó phân chia lợi ích một cách công bằng nhất cho các bên liên
quan. Chủ thể quản lý tài sản ở mỗi quốc gia sẽ có những nhiệm vụ, quyền hạn khác
nhau. Tuy nhiên, các chủ thể quản lý đều thể hiện ba vai trò chính: Thứ nhất, kiểm
soát và quản lý nghiệp phá sản; thứ hai, thực hiện nhiệm vụ giúp doanh nghiệp
phục hồi hoạt động kinh doanh; và thứ ba là thực hiện thanh lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản.
1.2.1. Vai trò của Quản tài viên trong kiểm soát và quản lý sản nghiệp phá sản:
Doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng làm ăn thua lỗ, mất kiểm soát và không có
khả năng thanh toán và có nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản. Một số doanh nghiệp
sẽ cho rằng, số tài sản đó sẽ bị kiểm kê và bán thanh lý để trả nợ nên nhìn chung
không còn quan tâm đến tài sản nữa. Mặt khác, lại có những doanh nghiệp tìm cách
trốn tránh, cố tình cất giấu, tẩu tán tài sản nhằm trục lợi một cách bất chính. Để
tránh những rủi ro cho cộng đồng và cho chính ngay cả bản thân doanh nghiệp cần
thiết phải có một loại chủ thể đặc biệt có kinh nghiệm, khách quan và trong chừng
mực nhất định có quyền hạn để thực hiện việc kiểm soát cũng như áp dụng các biện
pháp cần thiết khác để bảo toàn tài sản doanh nghiệp và thực hiện nhiệm vụ thanh lý
tài sản của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Chủ thể quản lý tài sản là cá nhân hoặc tổ chức được cử ra để thực hiện các hành
vi quản lý tài sản của doanh nghiệp phá sản. Đây là điều mà Luật phá sản các nước
đều thừa nhận bởi xuất phát từ một thực tế là: Khi một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
đến mức không còn đủ khả năng tài chính để trang trải các khoản nợ đến hạn, lâm
vào tình trạng phá sản đã chứng minh doanh nghiệp đó không còn khả năng điều
hành cũng như tạo niềm tin cho việc quản lý doanh nghiệp.
15
Phá sản không chỉ mang lại hậu quả xấu cho chủ nợ, con nợ mà còn gây ra hậu
quả cho người lao động. Nếu người lao động không được trả lương trong một thời
gian dài thì pháp luật phá sản sẽ tạo phương thức để họ đòi được số tiền lương mà
doanh nghiệp mắc nợ. Khi đó, người lao động cũng là một chủ nợ và có vị thế
ngang hàng với các chủ nợ khác của doanh nghiệp.
Có thể thấy, quản tài viên có nhiều quyền hạn lớn trong việc thực hiện biện pháp
thực hiện quản lý, thu hồi và phân chia các tài sản phá sản, thậm chí còn là người
đại diện pháp luật cho doanh nghiệp với mục đích chung là nhằm tránh những rủi
ro, bảo toàn tài sản phá sản.
1.2.2. Vai trò thực hiện nhiệm vụ giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh
doanh:
Do sự thay đổi về quan niệm kinh doanh nên khi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, thái độ của Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi theo
hướng tích cực hơn và có lợi hơn. Hơn thế nữa, một khi có doanh nghiệp tuyên bố
phá sản có thể sẽ kéo theo nhiều hậu quả xấu cho xã hội nên khi doanh nghiệp có
nguy cơ bị phá sản thông thường Nhà nước sẽ không tuyên bố phá sản ngay mà tìm
cách để giúp đỡ doanh nghiệp vượt qua tình trạng khó khăn thông qua các thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh.
Cụ thể, Quản tài viên sẽ là người đứng ra chịu trách nhiệm giúp đỡ doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, nêu ra các biện pháp để phục hồi hoạt
động kinh doanh; các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ. Các
biện pháp để phục hồi hoạt động kinh doanh gồm có: Huy động vốn, giảm nợ, miễn
nợ, hoãn nợ, thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh; đổi mới công nghệ sản xuất;
tổ chức lại bộ máy quản lý; sát nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất; tổ chức lại bộ
máy quản lý; sát nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất; bán cổ phần cho chủ nợ và
những người khác; bán hoặc cho thuê tài sản không cần thiết; các biện pháp khác
không trái với quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể nói, “ số phận của Doanh nghiệp lúc này nằm trong tay Quản
tài viên” để thấy được, vai trò quan trọng của Quản tài viên trong việc giúp đỡ các
doanh nghiệp phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh.
16
1.2.3. Vai trò thực hiện nhiệm vụ thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản:
Khi thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh không thành công và Thẩm phán
ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và ra quyết định tuyên
bố phá sản. Quản tài viên lúc này sẽ được Tòa án chỉ định thực hiện nhiệm vụ thanh
lý tài sản của doanh nghiệp.
Việc giải quyết phá sản một doanh nghiệp thực chất là xử lý các mối quan hệ
nhằm khôi phục và bảo vệ quyền và lợi ích tài sản của các bên có liên quan. Bởi vậy
các quy định về việc xác định khối tài sản phá sản và đặc biệt là việc phân chia khối
tài sản này luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng của thủ tục phá sản.
Mặt khác, việc phân chia tài sản phá sản là vấn đề rất phức tạp bởi lẽ đương
nhiên là các chủ thể khi tham gia vào quá trình giải quyết phá sản cũng nhằm đạt
được mục tiêu khôi phục các khoản nợ của mình nhằm để bảo toàn nguồn tài sản
của họ, duy trì được sự ổn định trong kinh doanh hay đời sống, thậm chí chỉ là để
bản thân họ tránh được nguy cơ cũng rơi vào một kết cục tương tự. Đồng thời hầu
hết các doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng vỡ nợ số tài sản của họ còn lại hết sức
nhỏ, không còn năng lực thực tế để trang trải các nghĩa vụ thanh toán đến hạn. Thực
tế này làm nảy sinh hàng loạt xung đột sâu sắc về lợi ích giữa các chủ nợ với doanh
nghiệp mắc nợ, giữa các chủ nợ đối với nhau và dẫn đến sự đòi hỏi khách quan phải
định ra những nguyên tắc để xử lý những mâu thuẫn một cách thoả đáng. Việc xác
định thứ tự phân phối tài sản xuất phát từ một căn cứ hết sức thực tế của hiện tượng
phá sản đó là sự mất cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có của doanh nghiệp mắc nợ
và sau nữa là đạo lý phổ biến trong các nguyên tắc phân phối là: những lợi ích nào
được coi là quan trọng, nhạy cảm hơn thì cần được ưu tiên hơn trong việc thanh
toán. Nhìn chung Luật phá sản của các nước đều thừa nhận một thứ bậc chung là:
- Khoản chi phí trong quá trình giải quyết phá sản được ưu tiên thanh toán
trước;
- Khoản nợ đối với người lao động được ưu tiên thanh toán trước các khoản nợ
của các chủ nợ khác;
- Chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố được ưu tiên thanh toán
trước bằng chính giá trị của tài sản đó. Nếu giá trị số tài sản này vượt quá phần
17
nghĩa vụ phải thanh toán thì sẽ được nhập vào tài sản của doanh nghiệp mắc nợ để
chia cho các chủ nợ khác, ngược lại nếu thiếu thì phần này sẽ được chia như là
những khoản nợ không có đảm bảo khác.
- Các khoản nợ được xếp cùng một bậc sẽ được thanh toán theo một tỉ lệ
như nhau.
Như vậy, có thể thấy, ở giai đoạn thanh lý tài sản, Quản tài viên sẽ là chủ
thể trung tâm, nắm vai trò vô cùng quan trọng, đứng ra phân chia tài sản theo
các nguyên tắc và thứ luật. Để tránh tình trạng xung đột giữa các bên, Quản
tài viên sẽ thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập và phân minh nhất, nhằm đảm
bảo công bằng cho các đối tượng liên quan.
1.3. Quản tài viên theo pháp luật một số nước trên thế giới:
1.3.1. Chế định quản tài viên theo pháp luật Nhật Bản:
Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản trong Luật phá sản Nhật Bản được sử
dụng bằng thuật ngữ “ bankruptcy trustess” có nghĩa là người được ủy thác,
ủy quyền trong thủ tục phá sản và được gọi là Quản trị viên.
Pháp luật Nhật Bản quy định về thủ tục phá sản gồm hai loại đó là thủ tục
thanh lý tài sản và thủ tục phục hồi, Quản trị viên đóng vai trò quan trọng ở cả
hai thủ tục trên.
Điều kiện để được bổ nhiệm làm chủ thể quản lý, thanh lý tài sản trong
Luật phá sản Nhật Bản rất khắt khe. Một Quản trị viên sẽ là luật sư đang hành
nghề và luật sư còn lại là những chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh. Mọi
quyền quản lý doanh nghiệp sẽ được bàn gia cho Quản trị viên.
Nhiệm vụ quyền hạn của Quản trị viên theo Luật phá sản Nhật Bản:
- Trong trường hợp tổ chức lại công ty, người quản lý tài sản sẽ đến
doanh nghiệp để điều hành kinh doanh trong thời hạn 1-3 tháng, nếu thấy
công ty có khả năng phục hồi thì báo cáo Tòa án làm thủ tục phục hồi kinh
doanh, còn ngược lại, nếu thấy công ty không có khả năng phục hồi thì mở
thủ tục phá sản.
- Trong trường hợp phục hồi dân sự, thành phần quản lý hiện tại của
doanh nghiệp vẫn được nắm quyền kinh doanh, Quản trị viên được giao nhiệm
vụ kiểm soát và quản lý tài sản trong vòng 2 tuần đến 1 tháng để điều tra xem
18
doanh nghiệp có khả năng phục hồi kinh doanh không. Tòa án sẽ mở thủ tục
phục hồi dân sự dựa trên báo cáo này. Sau khi thủ tục phá sản được mở, một
Quản trị viên sẽ được bổ nhiệm để quản lý tài sản doanh nghiệp.
- Đối với thủ tục thanh lý tài sản, khi có quyết định phá sản thì người
quản lý sẽ được Tòa án chỉ định, tiến hành bảo toàn tài sản của trụ sở ở doanh
nghiệp mắc nợ. Quản trị viên giám sát hoạt động của doanh nghiệp, có quyền
dừng hoạt động của doanh nghiệp hay không và có quyền bán các tài sản của
doanh nghiệp; có quyền quyết định dừng hoạt động của doanh nghiệp hay
không và có quyền bán các tài sản của doanh nghiệp để quy đổi thành tiền mặt
và lưu giữ trong một tài khoản riêng.
1.3.2. Chế định quản tài viên theo pháp luật Cộng hòa liên bang Đức:
Điều kiện trở thành Quản tài viên:
- Hệ thống phá sản ở Đức tồn tại hai loại Quản tài viên quản lý tài sản
theo từng giai đoạn khác nhau của thủ tục phá sản. Trong thời gian nạp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản cho đến khi Tòa án có quyết định về đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ cử ra một Người quản lý tạm thời. Khi có quyết
định mở thủ tục phá sản chính thức, Tòa án sẽ bổ nhiệm một Quản tài viên.
- Trong hội nghị chủ nợ đầu tiên mà tại đó việc bổ nhiệm Người quản lý
tài sản phá sản đầu tiên được thực hiện, các chủ nợ có thể lựa chọn một người
khác vào thay thế vị trí Người quản lý tài sản đầu tiên đã được bổ nhiệm. Tòa
án chỉ đc quyền từ chối bổ nhiệm người được Hội nghị chủ nợ bầu làm Quản
tài viên nếu người đó không phù hợp với chức danh này.
Nhiệm vụ quyền hạn của Quản tài viên:
- Quản tài viên có trách nhiệm báo cáo tình hình tài chính của doanh
nghiệp phá sản và nêu khả năng xây dựng kế hoạch phục hồi của doanh
nghiệp. Qua đó, Hội nghị chủ nợ sẽ quyết định về tiến trình của thủ tục phá
sản. Phiên họp đầu tiên của Hội nghị chủ nợ này được gọi là “phiên báo cáo”
- Con nợ và Quản tài viên có quyền xây dựng kế hoạch phục hồi, khi Hội
nghị chủ nợ ủy nhiệm cho Quản tài viên soạn thảo kế hoạch phục hồi và ấn
định mục tiêu thì Quản tài viên phải soạn thảo và có trách nhiệm trình lên.
Trong trường hợp con nợ đệ trình kế hoạch phục hồi và được chấp nhận thì
19
Quản tài viên phải trình bày quan điểm của mình. Quản tài viên sẽ cùng Ủy
ban chủ nợ và Tòa án giám sát việc thực hiện kế hoạch phục hồi.
- Khi Hội nghị chủ nợ quyết định tiến hành thủ tục thanh lý thì Quản tài
viên có nhiệm vụ tiến hành thanh lý tài sản phá sản. Quản tài viên sẽ tổng hợp
và lập danh sách đơn yêu cầu của chủ nợ và nộp cho Tòa án.
1.3.3. Chế định Quản tài viên theo pháp luật Liên bang Nga:
Điều kiện trở thành Quản tài viên:
Pháp luật phá sản Liên bang Nga quy định về thủ tục tổ chức lại và thủ tục
thanh lý tài sản tương ứng với đó là Trọng tài viên quản lý tài sản và nhân
viên thanh lý tài sản.
- Trọng tài viên quản lý tài sản (Quản tài viên) là người được tòa án
trọng tài bổ nhiệm có chức năng quản lý tài sản của người mắc nợ. Theo
khoản 4 điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp 1992 Liên bang Nga: “Trọng tài
viên quản lý tài sản là kinh tế gia hoặc luật gia hoặc có kinh nghiệm công tác
kinh tế mà không có tiền án, không phải là cán bộ quản lý của doanh nghiệp
mắc nợ.”
- Sau khi có quyết định tuyên bố phá sản, Hội nghị chủ nợ sẽ đề xuất một
nhân viên thanh lý tài sản. Nếu không thì Tòa án sẽ bổ nhiệm từ danh sách
ứng cử viên cho nhân viên thanh lý tài sản được lập theo quy định pháp luật.
Điều kiện của nhân viên thanh lý tài sản giống với điều kiện của Trọng tài
viên Quản lý phá sản.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Quản tài viên:
- Trọng tài viên có trách nhiệm quản lý tài sản của người mắc nợ và được
hưởng thù lao. Trọng tài viên có quyền quản lý và lãnh đạo Doanh nghiệp.
Tùy vào tình hình cụ thể mà Trọng tài viên còn quyền quyết định đề nghị tòa
án trọng tài quyết định đối với doanh nghiệp. Chấm dứt quản lý tài sản và
tuyên bố doanh nghiệp phá sản; tiếp tục thực hiện quản lý doanh nghiệp;
tuyên bố doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng trên và chấm dứt quản lý tài sản
của doanh nghiệp.
- Đối với thủ tục thanh lý tài sản, nhân viên thanh lý tài sản do Tòa án bổ
nhiệm sẽ có nhiệm vụ thực hiện phân chia tài sản doanh nghiệp phá sản.
20
Qua chế định về Quản tài viên của ba nước Nhật Bản, Cộng Hoà liên bang
Đức, Cộng Hòa liên bang Nga, ta có thể thấy luật phá sản hiện đại đã quan
tâm hơn tới thủ tục quản lý và thanh lý tài sản, và đặc biệt lấy Quản tài viên
làm chủ thể trung tâm để giải quyết thủ tục phá sản. Tuy ở mỗi quốc gia có
những mô hình chủ thể và cách thức khác nhau, nhưng nhìn chung, chủ thể
Quản tài viên đã được quy định một cách độc lập, vừa là chủ thể hoạt động
như một dịch vụ mang lại lợi ích kinh tế, vừa hoạt động mang tính tư pháp, có
thể gọi đây là hình thức “thụ ủy tư pháp”. Pháp luật hiện đại đã có cái nhìn
đúng hướng, đặt ra chế định Quản tài viên phù hợp với sự phát triển của luật
phá sản, do đó mà thủ tục giải quyết phá sản hoạt động mang lại hiệu quả cao.
Kết luận chương 1:
Quản lý và thanh lý tài sản phá sản là không chỉ là hoạt động kiểm kê,
giám sát, kiểm tra tài sản mà còn giúp đỡ doanh nghiệp phục hồi hoạt động
kinh doanh, đồng thời phát triển sản nghiệp phá sản. Chủ thể của quản lý và
thanh lý tài sản được tòa án chỉ định không ai khác chính là Quản tài viên.
Mỗi quốc gia sẽ căn cứ vào điều kiện kinh tế- xã hội riêng của mình mà
lựa chọn một mô hình chủ thể quản lý tài sản cho phù hợp (cá nhân hoặc tập
thể).
Thiết chế về chủ thể quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản có vai trò quan trọng trong việc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp phá
sản và đảm bảo lợi ích của các chủ thể liên quan.
21
Chương II: Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật về Quản tài
viên ở Việt Nam hiện nay
2.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam về quản tài viên:
2.1.1. Điều kiện trở thành Quản tài viên:
Luật phá sản năm 2014 được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2015 theo đó Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý
tài sản phá sản là quy định mới lần đầu tiên được đưa vào Luật phá sản ở Việt
Nam.
Quản tài viên là một chức danh mới lần đầu tiên xuất hiện trong Luật phá
sản 2014, theo đó Quản tài viên là một trong hai chủ thể được hành nghề quản
lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phá sản bên cạnh Doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản. Có ý kiến cho rằng nên thay đổi tên gọi “Quản tài viên” bằng
tên gọi “Quản lý tài sản” vì cho rằng thuật ngữ “Quản tài viên” là thuật ngữ
tiếng Hán không phải từ thuần Việt, và cần thay bằng cụm từ “Người quản lý
tài sản”. Tuy nhiên, Luật phá sản 2014 vẫn quy định giữ nguyên tên gọi
“Quản tài viên”.
Luật phá sản năm 2014 quy định “Quản tài viên là cá nhân hành nghề
quản lý, thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã mất khả năng thanh
toán trong quá trình giải quyết phá sản” (khoản 7 điều 4 Luật phá sản năm
2014).
Theo đó thì Quản tài viên là người có thể hành nghề theo tư cách cá nhân ,
hoặc hành nghề theo doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thông qua việc
thành lập doanh nghiệp hoặc hợp đồng làm việc.
Điều 12 Luật phá sản năm 2014 quy định về điều kiện hành nghề Quản
tài viên: Quản tài viên hành nghề như một ngành nghề kinh doanh có điều
kiện và phải có chứng chỉ hành nghề. Điều kiện để cá nhân được cấp chứng
chỉ hành nghề Quản tài viên là:
Thứ nhất: Phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Thứ hai: Có phẩm chất đạo đức và ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực
và khách quan;
22
Thứ ba: Có chứng chỉ hành nghề Quản tài viên. Cá nhân phải thuộc những
trường hợp được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên. Theo quy định điều
12 Luật phá sản năm 2014 thì chỉ những người sau đây mới được cấp chứng
chỉ hành nghề Quản tài viên:
- Luật sư
- Kiểm toán viên
- Người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng
có kinh nghiệm 5 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo.
Ngoài những trường hợp nêu trên thì Nghị định 22/2015/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật phá sản về Quản tài viên và hành
nghề quản lý, thanh lý tài sản còn quy định trường hợp được cấp chứng chỉ
hành nghề Quản tài viên còn có luật sư nước ngoài đã được cấp giấy phép
hành nghề theo quy định của pháp luật về luật sư, kiểm toán viên theo quy
định của pháp luật về kiểm toán được phép nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng
chỉ hành nghề Quản tài viên.
Thứ tư: Thuộc trường hợp không được hành nghề Quản tài viên theo quy
định pháp luật tại điều 14 Luật phá sản năm 2014. Theo đó, những đối tượng
không được hành nghề Quản tài viên bao gồm:
- cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ
sĩ quan chuyên nghiệp trong cơ quan thuộc Công an nhân dân;
- người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; người bị kết án nhưng
chưa được xoá án tích;
- người đang bị áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở giáo dục, cơ
sở cai nghiện bắt buộc;
- người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế hành vi năng lực
dân sự.
- bị thu hồi chứng chỉ nghề luật sư, kiểm toán viên;
- Đã bị thay đổi trong hai vụ việc phá sản trở lên trong vụ việc phá sản
do vi phạm nghĩa vụ của Quản tài viên, hoặc có chứng cứ cho rằng Quản tài
viên không khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ.
23
Thứ năm: Quản tài viên muốn tham gia vào quá trình quản lý, thanh lý
tài sản một vụ việc phá sản phải có đề xuất chỉ định của người nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đồng thời phải là người không liên quan đến vụ việc
phá sản. Quản tài viên không phải là người thân thích của người tham gia thủ
tục phá sản.
Như vậy, qua những quy định trên, có thể thấy, điều kiện hành nghề
Quản tài viên ở Việt Nam khá chặt chẽ. Không phải ai cũng có thể trở thành
Quản tài viên mà chỉ những người đáp ứng đủ yêu cầu mà pháp luật đã quy
định mới có thể được Tòa án chỉ định và tiến hành những công việc của Quản
tài viên. Quản tài viên có thể hoạt động với tư cách cá nhân hay hành nghề
trong doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản.
2.1.2. Nguyên tắc hành nghề quản tài viên:
Mỗi ngành nghề đều có những nguyên tắc riêng để tuân theo trong quá
trình hoạt động. Riêng với Quản tài viên là người quản lý, thanh lý tài sản,
nguyên tắc nghề nghiệp lập ra cần phải tuân thủ tuyệt đối, để hoạt động một
cách hiệu quả nhất, mang lại lợi ích cho các bên trong quá trình giải quyết phá
sản một cách công bằng. Nguyên tắc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản như sau:
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
- Tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Quản tài viên;
- Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch,
khách quan;
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề
Nghị định cũng quy định những hành vi bị nghiêm cấm đối với
Quản tài viên. Cụ thể:
- Cho thuê, cho mượn hoặc cho cá nhân, tổ chức khác sử dụng chứng chỉ hành
nghề Quản tài viên của mình để hành nghề Quản lý, thanh lý tài sản;
- Gợi ý hoặc nhận bất kỳ một hoặc tiền hoặc lợi ích vật chất từ người tham gia
thủ tục phá sản hoặc lợi dụng danh nghĩa Quản tài viên để thu lợi từ cá nhân, tổ
chức ngoài chi phí Quản tài viên được nhận theo quy định của pháp luật;
- Lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn để thông đồng với cá nhân, tổ chức nhằm mục
địch vụ lợi;
24
- Tiết lộ thông tin về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán mà Quản tài viên biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp
được doanh nghiệp, hợp tác xã đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định
khác.
Quản tài viên hành nghề với hai hình thức là hành nghề với tư cách cá
nhân và hành nghề trong doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bằng việc
thành lập hoặc tham gia thành lập hoặc làm việc theo hợp đồng cho doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (Điều 8 Luật phá sản 2014).
Trường hợp hành nghề với tư cách là cá nhân thì luật sư, kiểm toán
viên, người có trình độ cử nhân luật kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng có
kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo thì được cấp chứng chỉ
hành nghề Quản tài viên. Tuy nhiên, muốn được hành nghề thì cá nhân nêu
trên ngoài việc được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên thì phải đáp ứng
được yêu cầu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, ý
thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực và khách quan.
2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quản tài viên trong quản lý,
thanh lý tài sản phá sản:
Như chúng ta đã biết, Quản tài viên là một chức danh rất mới và là một trong
những chế định trung tâm của Luật phá sản năm 2014. Quản tài viên theo luật phá
sản hiện hành đóng vai trò vô cùng quan trọng , được thể hiện cụ thể qua những
nhiệm vụ của chủ thể này.
Theo điều 16 Luật phá sản năm 2014, Quản tài viên và doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản
của Doanh nghiệp, Hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Để thực hiện nhiệm vụ
này, Quản tài viên sẽ thực hiện những công việc sau:
Xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Theo đó, Quản tài viên phải thực hiện hoạt động xác minh, thu thập, quản
lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán, tài sản nợ và giao dịch trước đây của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
25
năng thanh toán, đặc biệt là những giao dịch diễn ra trong giai đoạn 18 tháng trước
khi Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản, bởi đây chính là giai đoạn mà pháp
luật quy định giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là vô hiệu. Quản tài viên
còn phải thu thập tài liệu, thông tin xem xét bất kì bên thứ ba nào đã giao dịch với
con nợ, đặc biệt để phát hiện giao dịch thuộc trường hợ vô hiệu để đề nghị Tòa án
tuyên bố vô hiệu. Trường hợp những tài liệu, thông tin, chứng cứ mà Quản tài viên
không thể tự mình thu thập thì có thể đề nghị Thẩm phán tiến hành thu thập tài liệu,
chứng cứ.
Lập bảng kê khai tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ:
Quản tài viên lập bảng kê khai danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ
theo quy định của pháp luật (điều 65, 67, 68 của Luật phá sản 2014). Đây là hoạt
động xây dựng, cập nhập thông tin, đính chính thông tin, kiểm tra độ chính xác của
thông tin về tài sản, về chủ nợ, người mắc nợ… Quản tài viên thanh lý tài sản thông
báo cho Hội nghị chủ nợ tình hình kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh
nghiệp, hợp tác xã; kết quả kiểm kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc
nợ và các nội dung khác tại Hội nghị chủ nợ.
Bảo quản tài sản ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được
phép của thẩm phán; ngăn chặn việc tẩu tán tài sản; tối đa hóa giá trị tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản.
Quản tài viên thực hiện tất cả hoạt động cần thiết để bảo vệ tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán, ngăn chặn việc bán, chuyển
giao tài sản mà không được sự cho phép của Thẩm phán. Trường hợp phát hiện việc
bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán, thì Quản tài viên đề
nghị Thẩm phán tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp.
Giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định
của pháp luật.
Để thực hiện đúng chức năng quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, Điều 49 Luật phá sản 2014 quy định: Quản
tài viên được quyền giám sát hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo đó, sau
khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo với
26
quản tài viên trước khi thực hiện việc vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán tài
sản; bán, chuyển đổi cổ phần; chuyển quyền sở hữu tài sản; chấm dứt thực hiện hợp
đồng có hiệu lực; thanh toán khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản; trả
lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thứ hai: Đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định pháp luật:
Trường hợp này Quản tài viên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp, hợp tác xã trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản, Quản tài viên được
hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp theo quy định của
pháp luật. Để thực hiện được quy định này thì cần có quy định về bảo hiểm có trách
nhiệm chi trả cho tổn hại gây ra bởi sự cẩu thả của Quản tài viên khi thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình và chủ nợ được phép khởi kiện Quản tài viên đối với
bất kì tổn hại nào gây ra bởi sự cẩu thả của họ khi thực hiện quyền và nghĩa vụ được
giao.
Thứ ba: Báo cáo về tình trạng tài sản, nợ công, và hoạt động của doanh nghiệp,
hợp tác xã, tham gia kế hoạch xây dựng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Thứ tư: Đề nghị thẩm phán thực hiện các công việc như thu thập tài liệu, chứng
cứ; tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời, áp dụng biện pháp xử phạt hành chính…
Như vậy, ta có thể thấy, Luật phá sản 2014 đã có những quy định cụ thể và tương
đối đầy đủ, toàn diện về một chủ thể mới thực hiện chức năng quản lý và thanh lý
tài sản ở Việt Nam, đó là thiết chế Quản tài viên. Với quy định này, có thể thấy,
Luật phá sản 2014 đã tạo ra một nghề nghiệp mới mang chức danh “Quản tài viên”
với hoạt động quản lý, thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam.
2.1.4. Thù lao của Quản tài viên:
Trong quá trình hoạt động, Quản tài viên được hưởng chi phí thù lao theo quy
định điều 21 Luật phá sản:
- Chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được thanh
toán từ giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Chi phí
27
quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản bao gồm thù lao quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản và chi phí khác.
- Thù lao được tính dựa trên các căn cứ: thời gian Quản tài viên sử dụng để
thực hiện nhiệm vụ; công sức của Quản tài viên trong việc thực hiện nhiệm vụ; kết
quả thực hiện nhiệm vụ của Quản tài viên.
- Thù lao được tính dựa trên một hoặc các phương thức: giờ làm việc; mức thù
lao trọn gói; mức thù lao tính theo tỉ lệ phần trăm tổng giá trị tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã thu được sau khi thanh lý.
- Mức thù lao được xác định cụ thể tại khoản 4 điều 21 Nghị định
22/2015/NĐ-CP
- Đối với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy
định tại điểm b hoặc c khoản 1 điều 95 của Luật phá sản thì thù lao bao gồm mức
thù lao được xác định theo từng trường hợp được quy định tại điểm b khoản 4 điều
21 NĐ 22/2015/NĐ-CP cộng với thù lao giám sát hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong quá trình doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thực hiện
phương án phục hồi kinh doanh. Thù lao giám sát hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp do thẩm phán và quản tài viên thỏa thuận trên cơ sở căn cứ quy định tại
khoản 2 và phương thức quy định tại khoản 3 điều này.
- Đối với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện xong phương án phục
hồi kinh doanh quy định tại điểm a khoản 1 điều 95 Luật phá sản thì mức thù
lao do Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản và quản tài viên thỏa thuận trên
cơ sở căn cứ quy định tại khoản 2 và phương thức quy định tại khoản 3 điều
21 nghị định 22/2015/NĐ-CP.
- Trong trường hợp Hội nghị chủ nợ và quản tài viên có thỏa thuận khác về
mức thù lao quy định tại khoản 4 điều này thì mức thù lao được áp dụng theo
thỏa thuận đó.
- Trong trường hợp phá sản tổ chức tín dụng theo quy định tại chương VIII
của Luật phá sản thì thù lao quản tài viên được xác định theo quy định tại
điểm a,b khoản 4 điều này.
- Chi phí khác của Quản tài viên bao gồm tiền tàu xe, lưu trú, và các chi phí
hợp lý khác cho việc thực hiện hoạt động quản lý thanh lý tài sản. Việc
28
thanh, quyết toán chi phí khác của quản tài viên được thực hiện theo quy
định của pháp luật hiện hành.
- Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản căn cứ vào từng vụ việc cụ thể quyết
định mức tạm ứng chi phí quản tài viên. Quản tài viên nhận chi phí tạm ứng,
thực hiện việc thanh, quyết toán theo quy định của pháp luật về tài chính, kế
toán.
Như vậy, thiết chế quản lý thanh lý tài sản được pháp luật quy định về mức thù
lao theo quy định hoặc theo thỏa thuận, người quản lý tài sản có vai trò xuyên suốt
toàn bộ quá trình tiến hành tố tụng phá sản, từ khi Tòa án mở thủ tục giải quyết việc
phá sản đến quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh
và cuối cùng là giai đoạn thanh toán và chấm dứt vụ việc phá sản. Có thể nói, Quản
tài viên hoạt động như một dịch vụ và làm việc vì lợi ích kinh tế nhưng cũng là một
chủ thể hoạt động tư pháp tuân theo quy định pháp luật.
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam
hiện nay:
Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) năm 2014 của Ngân
hàng Thế giới (WB), thì việc giải quyết các trường hợp phá sản doanh nghiệp ở Việt
Nam được đánh giá là kém hiệu quả, xếp hạng thứ 149 trên tổng số 189 các nền
kinh tế được xếp hạng. Nếu áp dụng quy trình chính thức, thủ tục phá sản phải mất
ít nhất 5 năm, tốn kém đến 15% giá trị tài sản của doanh nghiệp. Hơn nữa, khi kết
thúc việc phá sản, thì các bên liên quan chỉ thu hồi được 18% giá trị tài sản của
doanh nghiệp vỡ nợ. Vì thế, rất ít doanh nghiệp tuân theo các quy định và thủ tục
phá sản chính thức khi lâm vào tình trạng khó khăn, mất khả năng thanh toán.
So với đạo luật về phá sản đầu tiên của Việt Nam - Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993, Luật Phá sản năm 2014 đã đánh dấu được một bước phát triển mới của
pháp luật phá sản Việt Nam. Luật Phá sản năm 2014 đã quy định phù hợp hơn về
tình trạng phá sản nhằm mở thủ tục phá sản kịp thời đối với các doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ khi chủ nợ có yêu cầu, quy định đầy đủ và hợp lý hơn về
các đối tượng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn cũng như thủ tục, trình tự và hồ sơ yêu
cầu mở thủ tục phá sản, đa dạng hóa các loại thủ tục áp dụng đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm 2014 cũng
29
tăng cường các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản nhằm tạo khả năng phục hồi cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản, xử lý rõ quan hệ giữa thủ tục phá sản và các thủ tục khác có liên quan, thứ
tự phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản... Tuy
nhiên, tính đến tháng 12 năm 2012, trong số 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì chỉ có
49 Tòa án nhận được 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản; trong tổng số 336 đơn yêu
cầu, Tòa án đã ra 236 quyết định mở thủ tục phá sản và ra 83 quyết định tuyên bố
phá sản. Số liệu khiêm tốn nói trên phản ánh không trung thực kết quả hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian qua, đặc biệt trong một
thời gian dài chúng ta chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của khủng hoảng, suy thoái kinh
tế toàn cầu.
Nhận thấy được sự bất cập đó, Luật phá sản năm 2014 quy định về Quản
tài viên là chủ thể được Tòa án chỉ định nhằm giải quyết thủ tục phá sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Thiết chế về quản tài viên đã
có từ lâu đời ở các nước có nền lập pháp phát triển. Ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy
vào điều kiện kinh tế- xã hội mà có những quy định về điều kiện hành nghề
Quản tài viên. Tuy nhiên, nhìn chung thì để trở thành một Quản tài viên yêu
cầu cần có chuyên môn về lĩnh vực luật, tài chính… Pháp luật của hầu hết các
quốc gia đều quy định Quản tài viên là những luật sư, kiểm toán viên, chuyên
gia kinh tế… Và Quản tài viên đều do Tòa án chỉ định dựa trên cơ sở tham
khảo ý kiến của chủ nợ, con nợ và các chủ thể khác.
Quy định về điều kiện hành nghề của Quản tài viên theo pháp luật phá
sản Việt Nam năm 2004 đã dựa trên các tiêu chí và khuyến nghị của
UNCITRAL từ việc tham khảo mô hình quản tài viên ở một số quốc gia có
luật phá sản hiện đại và phát triển. Tuy nhiên, việc quy định chế định Quản tài
viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản năm 2014 đã khắc phục được
những hạn chế của Luật phá sản năm 2004.
Thứ nhất:về quy định mô hình quản tài viên và điều kiện hành nghề
- Luật phá sản 2014 đã khắc phục được những khó khăn, vướng
mắc trong cơ chế phối hợp, tính chất kiêm nhiệm của các thành viên trong Tổ
quản lý, thanh lý tài sản, đáp ứng yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả và
30
chuyên nghiệp trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý tài sản doanh
nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
-Những quy định đưa ra phù hợp với thông lệ quốc tế vì hiện nay
nhiều nước quy định về chế định Quản tài viên, ví dụ: Nhật Bản, Đức, Nga,
Pháp, Mỹ, Latvia và theo khuyến nghị số 45 của Ủy ban Luật thương mại
quốc tế của Liên hiệp quốc (UNCITRAL)có khuyến nghị về chế định Quản tài
viên.
Thứ hai:Về nhiệm vụ quyền hạn của quản tài viên trong quản lý và thanh
lý tài sản phá sản
Với quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của quản tài viên đã nêu ở trên
và việc để áp dụng luật định vào thực tế một cách khách quan nhất, chúng ta
cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, cũng như có
những giải pháp quản lý, điều hành hiệu quả, tạo điều kiện để quản tài viên
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần phát huy hiệu lực, hiệu
quả của Luật phá sản trong thực tiễn.
Trong quá trình hành nghề, Quản tài viên đều có quyền khiếu nại đối
với quyết định hoặc hành vi hành chính của cơ quan thi hành án và các cơ
quan tổ chức khác nếu có căn cứ cho rằng quyết định hay hành vi đó xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Quản tài viên.
Thực tế, Quản tài viên là chủ thể trung gian điều hòa lợi ích của các đối
tượng có liên quan đến doanh nghiệp phá sản.Vai trò trung gian được thể hiện
ở chỗ, Quản tài viên là chủ thể độc lập với chủ nợ và con nợ.
Theo quy định tại điều 45 Luật phá sản 2014, thì “trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản , Thẩm phán có
trách nhiệm chỉ định Quản tài viên hoặc Doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài
sản”. Như vậy, ngay sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, Quản tài viên
hoặc Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ được thẩm phán phụ trách xử
lý việc phá sản theo chỉ định để quản lý, thanh lý và giám sát các tài sản của
Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán. Đối với các vụ việc
đơn giản, tài sản của Doanh nghiệp, hợp tác xã không nhiều, các giấy tờ, hồ
sơ tài chính liên quan đến tài sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã không quá
31
phức tạp thì việc chỉ định Quản tài viên là hợp lý. Tuy nhiên, đối với những
vụ việc phá sản phức tạp, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã có giá trị lớn,
hồ sơ, sổ sách tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã có nhiều vấn đề thì việc
chỉ định Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là cần thiết.
Thứ ba: về chế độ thù lao của Quản tài viên.
Tuy vấn đề này đang gây ra nhiều tranh cãi nhưng nhìn chung pháp luật
đã có những quy định đảm bảo công bằng cho cả quản tài viên và cả các chủ
nợ. Có một điều rõ ràng là nếu mức phí quá thấp thì ngành nghề mới là quản
tài viên sẽ không thu hút được lượng lao động chất lượng cao, đồng thời luật
phá sản mới sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Nếu quy định mức
phí quá cao hay căn cứ vào những yếu tố có lợi cho những đối tượng thiếu
tính chuyên nghiệp thì sẽ không đảm bảo tối đa hóa lợi ích đồng vốn cho các
chủ nợ, không đảm bảo được lợi ích của chủ nợ.
Mặc dù nghị định 22/2015/NĐ-CP quy định mức thù lao của Quản tài
viên được tính dựa trên một trong ba phương thức là giờ làm việc của các
quản tài viên, mức thù lao trọn gói và mức thù lao tính theo tỉ lệ phần trăm
sau khi bị thanh lý. Điều này cho thấy sự linh hoạt trong việc tính phí thù lao
cho quản tài viên. Tuy nhiên, điều quan trọng là thứ tự ưu tiên thanh toán chi
phí thù lao này lại chưa được quy định trong luật và nghị định cụ thể bởi đa số
các trường hợp phá sản trên thực tế, nếu đã trừ đi phần tài sản sử dụng để đảm
bảo cho các nghĩa vụ tại ngân hàng và các chủ nợ khác thì tài sản còn lại của
doanh nghiệp thưởng rất ít. Theo điều 21 về “chi phí Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý và thanh lý tài sản” , nếu “tổng giá trị tài sản thu được sau khi
thanh lý” chỉ còn một vài trăm triệu đồng, thì quản tài viên chỉ được hưởng
thù lao một vài triệu cho vài ba chục triệu đồng trong cả thời gian hàng năm
theo đuổi vụ việc phá sản. Hoặc cũng có thể giá trị tài sản thu được sau khi
thanh lý không còn đủ để thanh toán các khoản chi phí thì khi đó, không có gì
bảo đảm quản tài viên có thể nhận được thù lao của mình. Như vậy, với rất nhiều
quy định về trách nhiệm, điều kiện phức tạp để có thể hành nghề quản tài viên
nhưng cơ chế đảm bảo về mức thù lao lại chưa thực sự cụ thể thì sẽ khó khuyến
khích được sự tham gia của cá nhân giỏi và có trách nhiệm với nghề.
32
Kết luận chương 2:
So với Luật phá sản năm 2004, ta có thể thấy quyền của chủ thể quản lý,
thanh lý tài sản đã rộng hơn rất nhiều. Với những quy định về điều kiện,
quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý tài sản thì Luật
phá sản năm 2014 đã hình thành một nghề mới đó là nghề quản lý, thanh lý tài
sản phá sản. Tuy quy định của pháp luật đã tương đối chi tiết và đầy đủ,
nhưng chúng ta cần hoàn thiện hơn nữa các quy định trên để đồng bộ hành
lang pháp lý, tạo điều kiện để Quản tài viên thực hiện tốt chức năng và nhiệm
vụ của mình ở trên thực tế.
33
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản tài viên
ở Việt Nam hiện nay
3.1. Định hướng hoàn thiện:
Qua quá trình nghiên cứu về Luật phá sản Việt Nam nói chung và chủ thể
quản lý, thanh lý tài sản nói riêng, có thể nhận thấy, những quy định mà Nhà
nước đưa ra dù đã qua nhiều lần sửa đổi nhưng vẫn chưa thực sự khả thi. Quá
trình phát triển của Luật phá sản từ năm 1993 đến năm 2004 và mới nhất là
năm 2014 đã có nhiều sự thay đổi. Trong vòng 20 năm qua, Luật phá sản đã
được sửa đổi đến 2 lần, điều này cho thấy sự không ổn định của Luật hiệu quả
để thực thi chưa cao. Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản, dù đã mất hết khả năng thanh toán nhưng vẫn không thể rút ra khỏi
thị trường bởi quy định của Luật phá sản không giúp ích được cho doanh
nghiệp.
Luật phá sản năm 2004 của Việt Nam có sự chồng chéo, mâu thuẫn và hạn
chế trong quy định về Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Thực tiễn áp dụng đã cho
thấy, việc trao quyền quản lý, thanh lý tài sản của Doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản cho Thẩm phán hay Chấp hành viên là vượt quá khả năng của
họ. Đến Luật phá sản 2014, Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã được thay thế bằng
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản. Như vậy, pháp
luật đã trao cho chủ thể này vai trò quan trọng trong quản lý tài sản phá sản.
Đây là bước đi mới mang tính tích cực trong lĩnh vực lập pháp ở nước ta và
dần hướng tới chuyên môn hóa lĩnh vực phá sản doanh nghiệp giống như các
quốc gia có nền kinh tế phát triển. Đồng thời khắc phục được những khó
khăn, hạn chế trong cơ chế phối hợp, kiêm nhiệm của thành viên trong tổ
quản lý, thanh lý tài sản. Phù hợp với chủ trương xã hội hóa mang tính nghề
nghiệp theo quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính.
Trong điều kiện nền kinh tế đất nước ở giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm trình tự mở thủ tục yêu cầu phá
sản dân chủ, cụ thể hóa và không có sự xung đột giữa các chủ thể liên quan,
khắc phục những vướng mắc tồn tại trong thực tiễn thi hành Luật phá sản
34
nhằm đáp ứng quan điểm chỉ đạo và xây dựng Luật phá sản Việt Nam mang
tính khả thi, thực hiện với hiệu quả cao, đưa lại nhiều lợi ích khuyến khích
nền kinh tế phát triển, tôi xin đưa ra một số định hướng như sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục bổ sung và cụ thể hóa các quy định của Luật phá
sản 2014, pháp luật về thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản phải
đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong cấu trúc hợp thành và minh bạch trong nội
dung thể hiện.
Theo đó, các cấu trúc hợp thành của pháp luật về thanh lý tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản bao gồm: xác định tài sản phá sản và các vấn đề có liên
quan; Nội dung và chủ thể thực hiện quản lý và thanh lý tài sản phá sản; trình tự,
thủ tục thanh lý tài sản phá sản phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ. Và do đó, đã
cho thấy nhu cầu cần phải rà soát kỹ các quy định của Luật phá sản 2014 để phục vụ
cho việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành.
Bên cạnh đó, từ thực tiễn thi hành Luật phá sản 2004 trong thời gian qua cũng
đã cho thấy đảm bảo sự minh bạch có ý nghĩa rất quan trọng đối với hiệu quả áp
dụng pháp luật. Vì vậy, hướng dẫn cụ thể, chi tiết đối với các nội dung pháp luật có
khả năng vận dụng khác nhau cần phải được xem là ưu tiên quan trọng trong việc
hoàn thiện pháp luật về thanh lý tài sản phá sản ở nước ta trong thời gian tới.
Hai là, đảm bảo sự đồng bộ của pháp luật về quản lý, phân chia tài sản phá sản
và các bộ phận pháp luật có liên quan: đất đai, tài sản cầm cố thế chấp, đăng ký bảo
đảm, tài sản cá nhân …
Để thống nhất cách áp dụng quy định của Luật phá sản 2014, cần hướng dẫn
thi hành rõ hơn cơ chế xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích của các
chủ nợ khác thì cũng cần quy định rõ cơ chế xác định giá trị tài sản bảo đảm một
cách khách quan thông qua việc định giá của tổ chức tài chính có chức năng định
giá. Bên cạnh đó, cần khuyến khích việc thuê các tổ chức định giá, đặc biệt là các tổ
chức định giá nước ngoài tham gia vào định giá tài sản cho doanh nghiệp phá sản.
Đảm bảo sự đồng bộ với các quy định về đăng ký quyền sở hữu, đăng ký
quyền sử dụng, đăng ký giao dịch đảm bảo
- Hoàn thiện những quy định của các Luật khác về đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản, đặc biệt là đăng ký bất động sản, đăng ký giao dịch bảo đảm
35
nhằm phục vụ cho việc công khai, minh bạch hoá thông tin về tài sản nói chung và
thông tin về tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nói riêng. Qua đó,
hỗ trợ đắc lực cho hoạt động giải quyết phá sản doanh nghiệp;
- Quy định về vai trò của các cơ quan đăng ký quyền sở hữu, đăng ký quyền
sử dụng, đăng ký giao dịch bảo đảm trong việc cung cấp thông tin về tình trạng
pháp lý liên quan đến tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, giúp cho
việc xây dựng các tài liệu kiểm kê tài sản, lập danh sách chủ nợ, giám sát quá trình
chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, công khai thông tin về việc doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cho các chủ nợ được biết v.v...;
- Các cơ quan, tổ chức tham gia giải quyết phá sản cần thường xuyên thông
báo những thông tin cần thiết cho cơ quan đăng ký để cơ quan đăng ký thực hiện
việc giám sát quá trình dịch chuyển tài sản hoặc cung cấp đầy đủ nhất thông tin khi
tổ chức, cá nhân có yêu cầu;
Ba là, đảm bảo tính chuyên nghiệp của hoạt động quản lý, phân chia tài sản
trong thủ tục phá sản
Một trong những điểm mới của Luật Phá sản 2014, đó là các quy định về quản
tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Quản tài viên/doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản có thẩm quyền nhất định đối với “con nợ”, “tài sản” và có trách
nhiệm nhất định đối với “chủ nợ” để bảo đảm rằng Luật phá sản 2014 được thi hành
một cách hiệu quả và công bằng (Điều 16). Do vậy, quản tài viên phải có đủ tiêu
chuẩn thích hợp, sự hiểu biết rộng về pháp luật, sâu về lĩnh vực và có kinh nghiệm
cũng như năng lực cá nhân để bảo đảm quản lý hiệu quả các thủ tục phá sản.
Như đã trình bày trên, cho dù văn bản hướng dẫn thi hành lựa chọn cơ chế
nào cho Quản tài viên, cấp phép hay đăng ký thì Quản tài viên đều phải đáp ứng yêu
cầu về bằng cấp, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm về các lĩnh vực có liên quan
như pháp luật, kế toán, tài chính, kinh doanh để Quản tài viên luôn hành động với
năng lực chuyên môn đầy đủ gắn với đạo đức nghề nghiệp, có như vậy Luật Phá sản
mới được thực hiện hiệu quả.
Bốn là, nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật phá sản
2014, đặc biệt về các điều khoản chuyển tiếp
Luật phá sản 2014 giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành trong đó hướng dẫn về điều
36
khoản chuyển tiếp. Tuy nhiên, điều rất đáng lưu ý là, cho đến nay chưa có văn bản
pháp luật hướng dẫn thi hành Luật phá sản 2014 của các chủ thể trên được ban hành.
Năm là, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thanh lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản ở Việt Nam
Để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản ở
Việt Nam ngoài việc hoàn thiện pháp luật phá sản về thanh lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản còn cần kết hợp với nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thanh lý
tài sản của doanh nghiệp phá sản ở Việt Nam. Theo đó, những giải pháp nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật gồm: giải pháp đẩy mạnh cơ chế thực thi pháp luật và
giải pháp nâng cao ý thức pháp luật.
3.2. Những giải pháp cụ thể hóa nhằm hoàn thiện pháp luật về quản tài
viên ở Việt Nam hiện nay:
3.2.1. Đơn giản hóa thủ tục để được hành nghề Quản tài viên:
Để một quản tài viên được thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản của Doanh nghiệp
phá sản phải trải qua các thủ tục đó là:
- Cá nhân phải nộp hồ sơ xin cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên với Bộ tư
pháp.
- Sau đó nộp hồ sơ đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản tại Sở tư pháp
tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung Ương nơi người đó thường trú.
- Sở Tư pháp lập và công bố danh sách
- Quản tài viên tại địa phương, Bộ tư pháp lập và công bố danh sách Quản tài
viên trong phạm vi toàn quốc Cổng thông tin điện tử.
- Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản ban hành chỉ định Quản tài viên và gửi
cho Quản tài viên được chỉ định.
- Quản tài viên gửi văn bản thông báo tham gia vụ việc cho Thẩm phán, sau đó
tham gia quản lý, thanh lý tài sản cho doanh nghiệp đã được chỉ đinh,
Ta có thể thấy thủ tục hành nghề quản lý, thanh lý tài sản còn rườm rà, Quản tài
viên muốn hành nghề phải thực hiện hai thủ tục: Đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề
Quản tài viên và Đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Theo CCCI, việc
quản lý Quản tài viên theo hai thủ tục này sẽ gây trùng lặp, vượt quá mức cần thiết
và chưa đảm bảo được nguyên tắc đơn giản hóa thủ tục hành chính. Như vậy, để
37
đảm bảo Quản tài viên có đủ kiến thức và năng lực chuyên môn để thực hiện công
việc, việc quản lý bằng chứng chỉ Quản tài viên là đủ, vì thủ tục đăng ký hành nghề
Quản tài viên không phục vụ cho mục tiêu bảo đảm năng lực chuyên môn này. Để
quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ của Quản tài viên hiện đã có đủ thủ tục cần thiết
để cung cấp dịch vụ.
Bên cạnh đó, quy định về điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên cho
những người chưa có chứng chỉ luật sư, kiểm toán viên. Quy định này chưa thật sự
công bằng bởi những người mặc dù không có chứng chỉ hành nghề luật sư nhưng đã
tham gia vào các hoạt động tư vấn pháp lý cũng như tố tụng. Thực chất, những
người mới được cấp chứng chỉ luật sư và những người không có chứng chỉ nhưng
hoạt động pháp lý trong khoảng thời gian từ 2-3 năm thì trình độ của họ cũng không
có nhiều sự chênh lệch.
Do đó, Quản tài viên chỉ cần quy định chỉ cần có chứng chỉ hành nghề là đủ điều
kiện hành nghề, không cần phải đăng ký hành nghề để đơn giản hóa các quy định
thủ tục của Luật phá sản 2014.
3.2.2. Tăng thêm nhiệm vụ, thẩm quyền cho Quản tài viên:
- Về nhiệm vụ quyền hạn của Quản tài viên:
Theo OECD, Quản tài viên được thực hiện tất cả các bước cần thiết để bảo vệ và
bảo quản tài sản của doanh nghiệp phá sản và hoạt động kinh doanh của con nợ, kể
cả việc ngăn chặn bán tài sản trái phép và thực hiện quyền tránh các giao dịch trái
phép trước khi phá sản. Do đó, Quản tài viên có quyền được áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn các giao dịch trái pháp luật hoặc chuyển giao tài
sản trái phép.
Ở Việt Nam, Luật phá sản 2014 quy định, Quản tài viên chỉ có quyền đề nghị
Thẩm phán áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời chứ không được tự mình áp
dụng những quy định ấy. Như vậy, quyết định của Thẩm phán về việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời phụ thuộc khá nhiều vào đề xuất, căn cứ chứng minh
về việc cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Quản tài viên. Trong khi
trình tự thủ tục ở Việt Nam khá máy móc và tốn nhiều thời gian, khi tòa án đưa ra
được quyết định áp dụng được biện pháp khẩn cấp tạm thời đã là khi những biện
pháp ấy không còn giá trị đối với thực tế nữa. Như vậy, quy định này sẽ trở nên khó
thực thi không đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn quản lý, thanh lý tài sản.
38
- Vai trò của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản:
Vai trò của Quản tài viên bị hạn chế trong quá trình tái tổ chức hoạt động của
doanh nghiệp, theo khuyến nghị của OECD và thực tiễn thi hành tại nước này cho
thấy Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được trao quyền hạn
“tiếp tục vận hành và quản lý hoạt động kinh doanh trong trường hợp tái tổ chức và
trong trường hợp thanhl lý nếu doanh nghiệp được bán ra nhưng vẫn tồn tại mà
không bị giải thể” và “trong trường hợp tái tổ chức, chuẩn bị và hỗ trợ tái tổ chức,
hoặc báo cáo về lý do không thể thực hiện tái tổ chức trong khi chức năng này do
đại diện quản lý phá sản thực hiện” trong khi Luật phá sản vẫn chưa dành cho Quản
tài viên quyền hạn này.
- Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản không có tư cách
đại diện cho doanh nghiệp phá sản.
Luật phá sản năm 2014 quy định quản tài viên, doanh nghiệp thanh lý, quản lý
tài sản chỉ thực hiện việc đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng
thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo
pháp luật. Nhưng theo khuyến nghị của OECD, ngay lập tức sau khi được chỉ định,
Quản tài viên có tư cách đại diện cho tài sản của doanh nghiệp phá sản.
Theo ông Justin Yap, chuyên gia cao cấp về pháp luật phá sản của Công ty Tài
chính quốc tế IFC(thuộc ngân hàng Thế giới): “người quản lý tài sản phá sản đóng
vai trò trung tâm ở tất cả các hệ thống luật phá sản hiện đại. Người này giúp duy trì
động lực thiết yếu của quá trình, đối với cả hai quá trình phá sản/thanh lý hay phục
hồi doanh nghiệp thành công. Người quản lý tài sản phá sản phải có đủ năng lực để
thực hiện công việc mà hiện nay Luật phá sản 2004 hay Dự thảo Luật phá sản mới
đang giao cho Thẩm phán thực hiện”. Do đó, theo ông Yap thì người quản lý tài sản
phải là người có uy tín và được sự tin cậy từ cả xã hội lẫn tòa án.
Như đã nêu trên, vai trò quyền hạn của Quản tài viên doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản vẫn chưa được mở rộng như các tiêu chuẩn và Thông lệ quốc tế.
Pháp luật nước ta đã có sự học hỏi từ sự tiến bộ của Thế giới, nhưng sự học tập ấy
là chưa thực sự triệt để, vì vậy chúng ta cần phải hoàn thiện thêm nữa các quy định
của quản tài viên theo hướng trao quyền và nhiệm vụ cho quản tài viên được áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, bổ sung các quy định về pháp lý thực thi nhiệm
39
vụ được quy định tại điểm c Khoản 1 điều 16 Luật phá sản 2014 và cần xem xét,
cân nhắc, trao quyền cho quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
có quyền đại diện cho doanh nghiệp phá sản.
Do đây là một chế định mới được quy định lần đầu tiên trong Luật phá sản,
do vậy, trong quá trình Luật được thực thi trên thực tế cùng với độ phức tạp và khó
khăn của mỗi vụ phá sản, quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ
phải đối mặt với những khó khăn chuyên môn, nghiệp vụ mặc dù họ được yêu cầu
là phải đạt đủ một số chỉ tiêu khắt khe do quy định pháp luật đưa ra. Do vậy, cần
quy định về việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho quản tài viên là điều cần
thiết phải bổ sung vào Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật phá sản về Quản tài viên hành nghề quản lý, thanh lý tài sản.
3.2.3. Xây dựng chế độ thù lao hợp lý cho Quản tài viên và Doanh nghiệp
quản lý thanh lý tài sản:
Hoạt động quản lý, thanh lý tài sản được coi là một hoạt động dịch vụ và Quản
tài viên là người thực hiện vì mục đích kinh tế. Như vậy, việc trả thù lao không
tương xứng với công sức bỏ ra sẽ không thúc đẩy động lực của Quản tài viên và dẫn
đến thiếu trách nhiệm của những chủ thể này khiến cho quá trình tiến hành thủ tục
phá sản gặp nhiều khó khăn thậm chí có thể tạo ra tiêu cực. Ngược lại, nếu thù lao
được trả quá cao thì sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của con nợ và chủ nợ. Thực tiễn giải
quyết các vụ phá sản cho thấy khả năng thu hồi tài sản của con nợ là rất thấp, tài sản
của con nợ còn lại là rất ít, trong khi đó phải thực hiện nhiều khoản chi trả cho
nhiều khoản chi phí từ thu hồi, quản lý, đến thất thoát trong định giá... với phần còn
lại ít ỏi mà chi trả thù lao quá cao chắc chắn số tài sản của chủ nợ thu hồi lại càng ít,
ảnh hưởng đến lợi ích của chủ nợ. Vì vậy mà chế độ thù lao cần điều hòa được lợi
ích giữa các bên chủ nợ, con nợ, người có lợi ích liên quan và chủ thể thanh lý,
quản lý tài sản. Như vậy cần xây dựng một chế độ thù lao hợp lý để tạo động lực và
trách nhiệm cho đội ngũ quản lý, thanh lý tài sản tham gia tích cực, có trách nhiệm
vào các vụ án phá sản, nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án phá sản.
Nghị định 22/2015/NĐ-CP “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản” trong đó có đặt ra
vấn đề chi trả thù lao một cách chưa hợp lý cụ thể:
40
- Việc quy định về sơ sở để chi trả thù lao dựa trên tổng giá trị tài sản thu được
của doanh nghiệp, hợp tác xã là chưa hợp lý. Trên thực tế, tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã bao gồm cả tài sản bất động sản và động sản, mà hai loại tài sản này về
thực chất thì việc thu hồi và thực hiện quản lý gây ra nhiều bất cập, bên cạnh đó có
nhiều vấn đề khá phức tạp từ việc thu hồi đối với tài sản là bất động sản. Đối với tài
sản là tài sản bảo đảm thì việc thu hồi sẽ khó để xác định, tài sản này có được tính là
nợ quản lý và ưu tiên thanh toán cho chủ nợ đảm bảo. Hơn nữa, phương pháp xác
định thù lao cũng chưa linh động khi xác định mức thù lao cứng. Điều này gây ra
sự thiếu bình đẳng trong việc chỉ định Quản tài viên. Ở hầu hết các nước, khi quy
định xác định thù lao thì thường xác định mức trần và mức sàn, ít khi áp dụng quy
định mà Dự thảo Nghị định đã đưa ra.
- Căn cứ vào “Bảng định mức thù lao Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý
thanh lý tài sản” thì mức chi trả cho Quản tài viên theo định mức này so với một số
nước khác là còn thấp, khó tạo ra bước đột phá cho nghề quản lý và thanh lý tài sản
đang còn khá mới ở Việt Nam. Nếu lấy cùng một mức giá trị tài sản thu được của
doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì Việt Nam thua rất xa so với Mỹ và Trung
Quốc: nếu tài sản thu hồi được của doanh nghiệp, hợp tác xã là 3,3 tỉ đồng thì Quản
tài viên được hưởng chưa đến 70 triệu đồng, trong khi đó nếu ở mức giá trị tài sản
này thì ở Mỹ người quản lý thanh lý tài sản sẽ thu hồi đến 165 triệu đồng( với mức
áp dụng dưới 1 triệu USD là 5%) và ở Trung Quốc thi đến dưới 396 triệu đồng
(mức áp dụng dưới 100 vạn tệ là 12%).
Ta có thể thấy, để xây dựng được một chế độ thù lao hợp lý cho Quản tài viên
thì trước hết đòi hỏi phải có sự đồng bộ từ quan điểm mục tiêu Luật đến các văn bản
hướng dẫn thi hành và phải dựa trên các cơ sở, căn cứ khoa học để đưa ra cách thức
xác định thù lao thích hợp.
3.2.4. Xây dựng và phát triển nghề Quản tài viên sớm trở thành một ngành
nghề chuyên nghiệp:
Luật phá sản năm 2014 có hiệu lực và Quản tài viên trở thành một nghề được
cấp giấy phép hoạt động ở Việt Nam, Bộ Tư pháp đã cấp phép cho hơn 250 Quản
tài viên, những người đang là luật sư hoặc có chuyên môn kế toán, kiểm toán. Tuy
nhiên, số lượng quản tài viên vẫn chưa đáp ứng được so với nhu cầu của thực tế.
41
Là một chế định mới xuất hiện lần đầu trong Luật phá sản 2014 hiện nay, Tòa án
vẫn đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm Quản tài viên phụ trách việc quản lý,
thanh lý tài sản của doanh nghiệp đang thực hiện thủ tục phá sản. Theo đó, một điều
hiển nhiên rằng, phải mất rất nhiều thời gian để bắt đầu hình thành một đội ngũ
Quản tài viên chuyên nghiệp để thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản phá
sản.
Để hình thành được một đội ngũ Quản tài viên chuyên nghiệp và thực hiện
công việc có hiệu quả, cần đảm bảo triển khai kịp thời và thống nhất có hiệu quả
các quy định của Nghị định 22/2015/NĐ-CP, góp phần nhanh chóng hình thành đội
ngũ quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; phổ biến, quán triệt đầy
đủ mọi nội dung Nghị định số 22/2015/NĐ-CP đến các sở, ngành, địa phương, cơ
quan Tòa án nhân dân các cấp, tổ chức đại diện doanh nghiệp và các điều kiện khác
đảm bảo cho việc triển khai Nghị định số 22/2015/NĐ-CP.
Cơ quan quản lý, cấp chứng chỉ hành nghề Quản tài viên và Bộ tư pháp cần
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ Quản tài viên.
Cần đặc biệt chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ cho quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý và thanh lý tài sản. Quản tài viên khi quản lý tài sản của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán, không chỉ cần kiến thức về pháp luật mà cần kiến thức về tài
chính, kế toán, kiểm toán... Do đó, việc bồi dưỡng đội ngũ Quản tài viên có thể do
Bộ tư pháp đứng ra tổ chức trong đó cần có sự kết hợp với các chuyên gia về tài
chính, kế toán, kiểm toán... để tuyên truyền và đào tạo.
Để công tác bồi dưỡng, đào tạo cho Quản tài viên có hiệu quả, cần có sự phối
hợp giữa các tổ chức xã hội chuyên nghiệp như Liên đoàn luật sư, Hội Kiểm toán
viên hành nghề Việt Nam để xây dựng một chương trình đào tạo Quản tài viên hiệu
quả, phát huy được vai trò của tổ chức này trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
nhân sự.
3.2.5. Cần bổ sung quy định trường hợp đối với trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Hiện nay, pháp luật chưa có những quy định cụ thể về trường hợp Quản tài viên,
Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản phải thực hiện trách nhiệm bồi thường do sai
phạm trong việc giải quyết thủ tục phá sản. Đây chính là một kẽ hở lớn, cần được
Nhà nước quan tâm và đặt ra trách nhiệm dân sự cho Quản tài viên.
42
Việc chưa quy định về trách nhiệm phải bồi thường dẫn đến việc Quản tài viên
có thể lơ là, cố tình gây ra sai phạm, làm dụng quyền lực để tư lợi cá nhân một cách
bất hợp pháp. Cũng có trường hợp Quản tài viên đã đi quá quyền hạn của mình, gây
tổn thất lớn cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Điển hình là vào ngày 23/3/2017, báo Thanh niên có đưa tin về vụ việc nhóm
bảo vệ do quản tài viên dẫn đầu thực hiện quyết định niêm phong thanh lý tài sản tại
Trường mầm non- tiểu học Thanh Nguyên, theo đó, nhóm người này đã rút súng,
còng tay bà Đoàn Thị Dung, Giám đốc Công ty TNHH Thanh Nguyên, chủ trường
Thanh Nguyên ngay giữa sân trường trong giờ học gây làn sóng bất bình trong dư
luận. Như chúng ta đã biết, theo Điều 16 Luật phá sản 2014, thì ở đây, quản tài viên
đã đi quá nghĩa vụ và quyền hạn của mình. Đối chiếu với quy định của pháp luật,
Quản tài viên không có quyền xâm phạm tự do thân thể của người khác cũng như
không có quyền sử dụng còng tay, súng... để làm công cụ cưỡng chế, bắt giữ người
quản lý doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Như vậy, ta có thể thấy, việc làm trên của quản tài viên là trái với các quy
định của pháp luật, đi quá giới hạn quyền lực của Quản tài viên. Vấn đề đặt ra ở đây
là các cơ quan chức năng, Nhà nước cần phải bổ sung nhanh chóng, kịp thời trách
nhiệm bồi thường và cũng như đặt trách nhiệm dân sự vào Quản tài viên để tránh
việc lạm dụng quyền hạn, gây ra những tổn thất không đáng có như vụ việc trên. Và
việc xây dựng quy định cụ thể về trường hợp bồi thường thiệt hại của Quản tài viên,
Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản nên giao cho Bộ Tư pháp thực hiện.
Kết luận chương 3:
Luật phá sản 2014 cần được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chế định về Quản tài
viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phá sản, đặc biệt là về tính khả thi và
sự phù hợp thống nhất với hệ thống pháp luật và thực tiễn. Để thực hiện mục tiêu
này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và học hỏi từ các nước có nền lập pháp phát triển
cũng như tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
43
KẾT LUẬN:
Trong điều kiện kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, nhu cầu xây dựng và hoàn
thiện khung pháp luật về kinh tế nói chung và pháp luật về phá sản nói riêng
luôn được các quốc gia trên Thế giới quan tâm. Trong bối cảnh đó, Đảng và
nhà nước ta cũng hết sức quan tâm đến việc xây dựng hoàn hiện pháp luật
trong đó liên quan đến pháp luật phá sản. Trải qua hơn 20 năm, Luật phá sản
đã có nhiều sửa đổi, bổ sung từ Luật phá sản 1993 đến Luật phá sản 2004 và
nay là Luật phá sản 2014, cho thấy sự tiếp thu ý kiến và kịp thời của các nhà
lập pháp.
Với việc ban hành Nghị định 22/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015
của Chính phủ, quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản
hoạt động theo cơ chế cơ chế đăng ký. Theo đó, cơ chế đăng ký quản tài viên/doanh
nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản đã đòi hỏi việc đăng ký phải có các tiêu
chuẩn cho việc đăng ký, quản tài viên/doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài
sản ngoài việc có kiến thức chung về pháp luật, kinh doanh, tài chính, kế toán, cần
thiết phải có kinh nghiệm, có kỹ năng chuyên môn để xác định doanh nghiệp có còn
đủ khả năng tồn tại, tái cơ cấu và giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong quá
trình tái cơ cấu;
Có thể khẳng định rằng, các nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên/ doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đã tiến gần đến với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế
về quản tài viên tư pháp trong phá sản. Tuy nhiên, khi so sánh với các chuẩn mực
của OECD về nhiệm vụ, quyền hạn của quản tài viên đã cho thấy những nhà lập
pháp về phá sản của Việt Nam đã quá “thận trọng” theo thói quen hoặc tồn tại
“những nghi ngại” về khả năng vận hành của chế định quản tài viên/doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản trong Luật phá sản năm 2014. Tuy nhiên, chắc chắn rằng
việc trao thẩm quyền không đầy đủ cho quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh
lý tài sản sẽ hạn chế hiệu quả hoạt động của loại hình chủ thể này ở Việt Nam trong
thời gian tới;
Khắc phục sai lầm mang tính hệ thống của Luật phá sản 2004, Luật phá sản
2014 đã có bước đột phá khi quy định trình tự, thủ tục thanh lý tài sản phá sản chỉ
được thực hiện sau khi có Quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án và về tổng thể đã
tiếp cận được với các chuẩn mực quốc tế về , thủ tục thanh lý tài sản phá sản;
44
Luật phá sản 2014 đã có sự nhìn nhận lại kinh nghiệm, những bài học trong
quá trình thực thi Luật phá sản 2004 vẫn còn nguyên giá trị trong giai đoạn chuyển
tiếp này, nhất là khi đến nay các cơ quan có thẩm quyền là Chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn chưa ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành theo yêu cầu của Luật phá sản 2014.
45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Luật Phá sản năm 2014
2. Luật Phá sản doanh nghiệp số 30-L/CTN năm 1993
3. Luật Phá sản số 21/2004/QH11 năm 2004
4. Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn thi hành một số quy định
của Luật phá sản;
5. Nghị định số 05/2010/NĐ-CP Quy định việc áp dụng luật phá sản đối với các
tổ chức tín dụng;
6. Nghị định số 10/2009/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
quá trình tiến hành thủ tục phá sản;
7. Nghị định 114/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Phá sản
8. Nghị định 189/CP của Chính phủ ngày 23/12/1994 về hướng dẫn thi hành
Luật Phá sản doanh nghiệp 1993.
9. Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao;
10. Nghị định 94/2005/NĐ-CP về giải quyết quyền lợi của người lao động ở
doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản
11. Nghị định số 22/2015/NĐ-CP
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT:
12. UNCITRAL hướng dẫn về pháp luật phá sản và quản tài viên.
13. Tòa án nhân dân tối cao (2013), “Báo cáo, đánh giá tác động về dự án Luật
phá sản sửa đổi”, số 43, TANDTC Hà Nội.
14. Nguyễn Thanh Bình (2014), Luật Phá sản với quy định về quản tài viên,
http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-
doi.aspx?ItemID=6052;
15. Trương Hồng Hải (2004), “Luật Phá sản doanh nghiệp của Việt Nam dưới
góc độ Luật so sánh và phương hướng hoàn thiện”, Luận án Tiến sỹ Luật học,
[Trang 64-65].
46
16. Bùi Nguyên Khánh (2002), “Pháp luật phá sản của Hoa Kỳ” – Bài đăng trong
cuốn “Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Mỹ”, NXB Khoa Học Xã Hội
(2002).
17. TS. Phan Huy Hồng (2004), “Pháp luật vỡ nợ của CHLB Đức – Một số nội
dung cơ bản”, Tạp chí khoa học pháp lý số 6/2004
18. Trương Thị Vàng (2016), “Kinh nghiệm về mô hình quản tài viên và doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phá sản theo pháp luật một số
quốc gia trên Thế giới”, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
[Tr.8-12;20-23; 32-35]
19. Phạm Thị Lệ Hằng (2015), “Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản theo quy định Luật phá sản”, luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội. [tr.33-35]
20. Trần Duy Tuấn, “Thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản theo pháp luật ở
Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ luật học. [tr.10-12; 22-24; 36-38]
21. Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, năm 2003.
22. Xasuhei Taniguchi (2000), “Những vấn đề cần thảo luận về Luật phá sản,”
Dự án JICA, Bộ Tư Pháp;
23. Đỗ Hoàng Yến (2001), Hệ thống pháp luật Nhật Bản, Hà Nội.
24. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết thi hành Luật phá sản 2004,
[Tr.6]
25. Toà án nhân dân tối cao (2003), Tờ trình Uỷ ban thường vụ quốc hội về Dự án
Luật phá sản (sửa đổi)
26. Nguyễn Đình Thơ (2002), “Những vấn đề pháp lý về giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản (Qua thực tiễn giải quyết của Toà án nước ta), Luận văn thạc sĩ
Luật, Hà Nội.
27. Bùi Huy Tiến (2000), “Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp-
Thực tiễn thi hành và một số ý kiến hoàn thiện Luật phá sản doanh nghiệp”,
Báo cáo chuyên đề Hội thảo về Luật phá sản doanh nghiệp, Hà Nội.
28. Vũ Thị Hồng Vân (2008), “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của
pháp luật phá sản Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học.
47
29. Báo Sài Gòn đầu tư, “Luật phá sản, rườm rà quy định Quản tài viên” tại địa
chỉ: http://www.baomoi.com/Luat-pha-san-ruom-ra-quy-dinh-Quan-tai-
vien/45/15052444.
30. Luật sư Trương Thanh Đức, “ Bình luận về quy định Quản tài viên trong Dự
thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật phá sản” tại địa chỉ:
basico.com.vn/vi-VN/News/2014/11/1587/229-Binh-luan-quy-dinh-Quan-tai-
vien-trong-Du-thao-nghi-dinh-pha-san-VCCP.aspx;
31. Thanh Bình (2014), “Luật phá sản với quy định về Quản tài viên” tại địa chỉ:
http://moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=6052;
32. Ths. Vũ Thị Hòa Như, Lê Ngọc Anh (2013), “Pháp luật phá sản của một
quốc gia trên thế giới”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Đại học Luật
Hà Nội 2013
33. Đào Hải Lâm (2015), “Quản lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ theo pháp luật phá sản hiện hành”, luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà
Nội.
34. Khuất Thu Huyền (2010), “Phá sản và pháp luật phá sản ở Việt Nam”-
Chuyên đề khoa học xét xử, Viện khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao.
35. Phan Thị Thu Hà (2010), “Tìm hiểu pháp luật phá sản trên thế giới”, Chuyên
đề Khoa học xét xử của Viện khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao.
36. Hoàng Thị Kim Anh (2014), “Luật phá sản 2004, những hạn chế, bất cập và
giải pháp hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ Luật học.
37. “Luật phá sản mới của Việt Nam- Một số vấn đề liên quan đến chính sách
Quản tài viên”, tài liệu do nhóm chuyên gia cao cấp về pháp luật phá sản của
Tập đoàn tài chính Thế giới (IFC) soạn thảo tháng 1/2014;
TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI:
38. Barry E. Adler (1992), Bankruptcy and Risk Allocation, 77 Cornell L.
Rev.439, p. 440;
39. Beck’sche Textausgaben (1999), Insolvenzgesetze, C.H.Beck’che
Verlasbuchhandlung, Munchen.
48
40. Douglas G. Baird (1987), Loss Distribution, Forum Shopping, and
Bankruptcy: A Reply to Warren, 54 U. Chi. L. Rev.815.
41. Donald R. Korobkin (1991), Rehabilitating Values: A Jurisprudence of
Bankruptcy, 91 Colum. L. Rev.773-774.
42. Elizabeth Warren (1987), Bankruptcy Policy, 54 U. Chi. L. Rev.775;
43. Kevin A. Kordana and Posner Eric A. (1999), A Positive Theory of Chapter
11, 74 N. Y. L. Rev.161;
44. Konrad Zweigert, Hein Kotz (1996), Einfuhrung in die Rechtsvergleichung,
J.C.B Mohr (Paul Siebeck) Tubingen.
45. Haarmeyer/Wutzke/Forster(2001), Handbuch zur Insolvenzordnung, NXB
C.H.Beck, Munchen.
46. Thomas H.Jackson (1982), Bankruptcy, Non-Bankruptcy Entitlement, and the
Creditors' Bargain, 91 Yale L. J. 857;
TÀI LIỆU KHÁC:
47. http://www.baomoi.com
48. http://www.dantri.com.vn
49. http://www.doingbusiness.org/data/exploreeconomies/vietnam/
50. http://www.wikipedia.org
49
Sau đây là một số biểu mẫu liên quan đến đăng ký hành nghề, xin cấp chứng chỉ
hành nghề, danh sách quản tài viên… theo quy định pháp luật.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Ảnh
TP-QTV-01
(Ban hành kèm theo Nghị định số ....../2014/NĐ-CP)
3x4
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CẤP CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ QUẢN TÀI VIÊN
Kính gửi: ....................................................
Tên tôi là: .............................................. ………................Nam/Nữ...........................
Ngày sinh:................/............./.............Nơi sinh:……………………….......….......... Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:..................................................................................
.......................................................................................................................................
Chỗ ở hiện nay: ............................................................................................................
Điện thoại: ...................................................... Email: .................................................
Chứng minh nhân dân số:...............................Ngày cấp: .........../........./.......................
Nơi cấp:.........................................................................................................................
Dân tộc:..........................................................Tôn giáo:................................................
Là luật sư, kiểm toán viên, người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, tài chính, ngân
hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo:..........................
50
QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA BẢN THÂN (Ghi rõ từ khi tốt nghiệp phổ thông trung học)
Làm gì Ở đâu Ghi chú
Từ ngày tháng năm đến ngày tháng năm
Tỉnh (thành phố), ngày tháng
n ă m
Người khai (Ký và ghi rõ họ tên) KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT (ghi rõ hình thức khen thưởng, kỷ luật) ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... Tôi đề nghị được cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên. Tôi xin cam đoan tuân thủ các nguyên tắc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên do pháp luật quy định. Hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên gồm có: 1............................................................... 2............................................................... 3............................................................... 4................................................................ 5................................................................
51
TP-QTV-02
Ảnh
(Ban hành kèm theo Nghị định số ....../2014/NĐ-CP)
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
3x4
ĐƠN ĐỀ NGHỊ CẤP CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ QUẢN TÀI VIÊN
Kính gửi: ....................................................
Tỉnh (thành phố), ngày tháng
n ă m
Tên tôi là: .............................................. ……………........Nam/Nữ............................ Ngày sinh:................/............./.............Nơi sinh:…………………....……………… Quốc tịch: ..................................................................................................................... Chỗ ở hiện nay: ............................................................................................................ Điện thoại: ......................................................... Email: ............................................ Hộ chiếu số:.............................Ngày cấp: .................../......................../....................... Nơi cấp:.......................................................................................................................... Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam/Chứng chỉ kiểm toán viên số: ..............................Ngày cấp: ............/.........../................... Đang làm việc tại tổ chức hành nghề luật sư/doanh nghiệp kiểm toán: Tên:.......................................Địa chỉ trụ sở:............................................................ Điện thoại: ............................... Email: ......................Fax: ................................... Tôi đề nghị được cấp Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên. Tôi xin cam đoan tuân thủ các nguyên tắc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên do pháp luật quy định. Hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề quản tài viên gồm có: 1............................................................... 2............................................................... 3............................................................... 4................................................................ 5................................................................ Người khai (Ký và ghi rõ họ tên)
52
TP-QTV-03
Ảnh
(Ban hành kèm theo Nghị định số ....../2014/NĐ-CP)
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
3x4
ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CÔNG NHẬN CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ QUẢN TÀI
VIÊN/CÔNG
NHẬN LÀ QUẢN TÀI VIÊN
Kính gửi: ....................................................
Tên tôi là: ....................................... ……………...........Nam/Nữ.............................
Ngày sinh:........../.........../.............Nơi sinh:……………...........Quốc tịch: ................
Chỗ ở hiện nay: ............................................................................................................
Điện thoại: .............................................. Email: ......................................................
Hộ chiếu số:.......................Ngày cấp: ......../........../............Nơi cấp:.......................
Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam/Chứng chỉ kiểm toán viên số:
..............................Ngày cấp: ............/.........../...................
Đang làm việc tại tổ chức hành nghề luật sư/doanh nghiệp kiểm toán:
Tên:...............................................................................................................................
Địa chỉ trụ sở:.............................................................................................................
Điện thoại: ........................... Email: ....................................Fax: ...............................
Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước
ngoài cấp/Giấy tờ chứng nhận là Quản tài viên theo quy định của pháp luật nước
ngoài số:............................Ngày cấp: ........../........../.......Nơi cấp:...............................
Tôi đề nghị công nhận Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền của nước ngoài cấp/công nhận là Quản tài viên theo quy định của pháp
luật về phá sản Việt Nam.
Tôi xin cam đoan tuân thủ các nguyên tắc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản, thực
hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên do pháp luật quy định.
53
Hồ sơ đề nghị công nhận gồm có:
1............................................................... Tỉnh (thành phố), ngày tháng
2............................................................... n
3............................................................... ă
4................................................................ m
5................................................................ Người khai
(Ký và ghi rõ họ tên)
54
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TP-QTV-04
(Ban hành kèm theo Nghị định số ....../2014/NĐ-CP)
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
GIẤY ĐỀ NGHỊ ĐĂNG KÝ
HÀNH NGHỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN VỚI TƯ CÁCH CÁ NHÂN
Kính gửi: ....……………………………...........…
Tên tôi là: .......................Nam/Nữ:..............Ngày sinh:............/............/...............
Chứng chỉ hành nghề Quản tài viên số:………................. do Bộ Tư phápcấp ngày:
............./........../..….......
Đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản với tư cách cá nhân
với các nội dung sau đây:
1. Họ và tên (ghi bằng chữ in hoa):……………..............………................…………
Tên giao dịch (nếu có):……………………………………………………...………
Điện thoại:......………Fax:……………........……Email:……......................………
Chứng minh nhân dân số: ……….…..………….Ngày cấp: .…..…/…..…./…….…..
Nơi cấp:…………................................................................................
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
.......................................................................................................................................
Chỗ ở hiện nay:
………………………………………………………….............……………............
………....……………………………………………………………………………
Trụ sở Văn phòng và địa chỉ giao dịch:
………….......................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Điện thoại:…………...…Fax: ……………..……Email:………………..………
2. Lĩnh vực hành nghề: Theo quy định của Luật phá sản.
Tôi xin cam đoan nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
do pháp luật quy định.
Tỉnh (thành phố), ngày tháng năm
Ký, ghi rõ họ tên
55
Tên doanh nghiệp quản CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TP-QTV-05
(Ban hành kèm theo Nghị định số ....../2014/NĐ-CP)
lý, thanh lý tài sản Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
GIẤY ĐỀ NGHỊ
ĐĂNG KÝ HÀNH NGHỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH
NGHIỆP QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN1
Kính gửi: .................…………………………………
1. Tên gọi đầy đủ của doanh nghiệp:......................................................................
Tên giao dịch:
.…………………………….....................................................……………………….
2. Địa chỉ trụ sở:………………...................................…………….........................
Điện thoại: ..........Fax:……...........………Email:……........………Website:………
3. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp:
Họ và tên: ………………….............Nam/Nữ…....Ngày sinh: ....…../…....…./……
Chứng minh nhân dân số:..………………...Ngày cấp:...….../..…../……….............
Nơi cấp:……………………………..................................…....................................
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
..……………………....................................................………..................................
……………………………………………………………….......................................
Đăng ký hành nghề quản lý, thanh lý tài sản với các nội dung sau đây:
1. Tên doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (tên gọi ghi bằng chữ in hoa):
.......................................................................................................................................
Tên giao dịch (nếu có): ...............................................................................................
Tên viết tắt (nếu có): ...................................................................................................
Tên tiếng Anh (nếu có): ............................................................................................... 1 Đơn này được áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay đổi thành viên hợp danh quy định tại khoản 4 Điều 11.
56
2. Chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân quản lý, thanh lý tài sản:
Họ và tên: …………….............Nam/Nữ:………Ngày sinh: …......./…......./…........
Chứng minh nhân dân số: ………………….……Ngày cấp:…..…/……..../…........
Nơi cấp:…………........................................................................................................
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
.......................................................................................................................................
Chỗ ở hiện nay:
………………………………………………………………………….............…....
………………………………………………………………………………………
Chứng chỉ hành nghề quản tài viên số:……..............Ngày cấp…...../....…./………....
3. Thành viên hợp danh đối với Công ty hợp danh quản lý, thanh lý tài sản:
a. Họ và tên: …………………....Nam/Nữ:………Ngày sinh: …......./…......./…........
Chứng minh nhân dân số: ………….....……Ngày cấp: …...……/……..../….....…...
Nơi cấp:…………........................................................................................................
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
....
Chỗ ở hiện nay:
………………………………………………………………………….............…....
………………………………………………………………………………………C
hứng chỉ hành nghề quản tài viên số:………..............Ngày cấp…...../....…./………
b. Họ và tên: ………………....Nam/Nữ:………Ngày sinh: …......./…......./…........
Chứng minh nhân dân số: ……………………Ngày cấp: …...……/……..../…........
Nơi cấp:…………............................................................
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
.......................................................................................................................................
Chỗ ở hiện nay:
………………………………………………………………………….............…....
………………………………………………………………………………………
Chứng chỉ hành nghề quản tài viên số:..........…...Ngày cấp…..../....…./…............
57
4. Tổng giám đốc hoặc Giám đốc đối với Công ty hợp danh quản lý, thanh lý tài
sản:
Họ và tên: ………………....Nam/Nữ:………Ngày sinh: …......./…......./…............
Chứng minh nhân dân số: ……………………Ngày cấp: …...……/……..../…......
Nơi cấp:…………......................................................................................................
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:
.......................................................................................................................................
Chỗ ở hiện nay:
………………………………………………………………………….............…....
………………………………………………………………………………………
Chứng chỉ hành nghề quản tài viên số:……...........Ngày cấp…...../....…./…………
5. Danh sách những người hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong doanh nghiệp
tư nhân, công ty hợp danh (nếu có):
Stt Họ tên Năm Chứng chỉ hành nghề Địa chỉ, số điện thoại
sinh quản tài viên (ghi rõ liên hệ
số, ngày cấp)
6. Lĩnh vực hành nghề: Theo quy định của Luật phá sản.
Tôi/chúng tôi xin cam đoan nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật và thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ do pháp luật quy định.
Tỉnh (thành phố), ngày tháng năm
Ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu
58
SỞ TƯ PHÁP TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TP-QTV-06
(Ban hành kèm theo Nghị định số ....../2014/NĐ-CP)
TRUNG ƯƠNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
DANH SÁCH
QUẢN TÀI VIÊN, DOANH NGHIỆP HÀNH NGHỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN
I. QUẢN TÀI VIÊN HÀNH NGHỀ VỚI TƯ CÁCH CÁ NHÂN
TT Họ và tên Năm Chứng chỉ hành nghề Trụ sở Văn phòng/địa chỉ giao dịch, số Ghi chú
sinh Quản tài viên điện thoại, fax email
(Ghi rõ số, ngày cấp)
1
2
II. DOANH NGHIỆP HÀNH NGHỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN
TT Tên doanh Giấy chứng nhận đăng Địa chỉ trụ sở,số Họ, tên, năm sinh Quản tài viên hành Ghi chú
nghiệp ký doanh nghiệp số, điện thoại, fax nghề trong doanh nghiệp
(Ghi rõ số, ngày cấp Chứng chỉ hành nghề ngày cấp email,
Quản tài viên)
1
2
59
BỘ TƯ PHÁP CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TP-QTV-07
(Ban hành kèm theo Nghị định số ....../2014/NĐ-CP)
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
DANH SÁCH
QUẢN TÀI VIÊN, DOANH NGHIỆP HÀNH NGHỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN
I. QUẢN TÀI VIÊN HÀNH NGHỀ VỚI TƯ CÁCH CÁ NHÂN
TT Họ và tên Năm Chứng chỉ hành nghề Trụ sở Văn phòng/địa chỉ giao dịch, số Ghi chú
sinh Quản tài viên điện thoại, fax email
(Ghi rõ số, ngày cấp)
1
2
II. DOANH NGHIỆP HÀNH NGHỀ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN
TT Tên doanh Giấy chứng nhận đăng Địa chỉ trụ sở,số Họ, tên, năm sinh Quản tài viên hành Ghi chú
nghiệp ký doanh nghiệp số, điện thoại, fax email nghề trong doanh nghiệp
(Ghi rõ số, ngày cấp Chứng chỉ hành nghề ngày cấp
Quản tài viên)
1
2
60
TP-QTV-08
(Ban hành kèm theo Nghị định số ....../2014/NĐ-CP)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Nguyên tắc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản
Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
CHỨNG CHỈ
2. Tuân theo Quy tắc đạo đức nghề
nghiệp quản tài viên.
HÀNH NGHỀ QUẢN TÀI VIÊN
3. Bảo đảm tính độc lập về chuyên môn,
nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch,
khách quan.
4. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hoạt động hành nghề.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ TƯ PHÁP
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Biểu tượng
CHỨNG CHỈ HÀNH NGHỀ QUẢN TÀI VIÊN
Bộ Tư pháp
Số: /TP/QTV-CCHN
Cấp cho ông (bà):
Ảnh
……………………………………………
3 x 4
Năm sinh:………………………………..
Quê quán (Quốc tịch):………………...
Chữ ký
Hà Nội, ngày tháng năm
Được hành nghề quản lý, thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
(Ký, họ tên, đóng dấu)
61