ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN KHANG
PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG CON ĐƯỜNG
TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L
HÀ NỘI, (2018)
1
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 4
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 5
3. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 6
II. PHẦN NỘI DUNG .................................................................................. 6
Chương 1 Những vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại và trọng tài thương mại ........................................................................................................ 6
1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp thương mại .................................... 6
1.1. Khái niệm................................................................................................. 6
1.2. Đặc điểm .................................................................................................. 7
2. Khái niệm và bản chất của trọng tài thương mại ................................... 9
2.1. Khái niệm................................................................................................. 9
2.2. Bản chất của trọng tài .......................................................................... 10
2.2.1. Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp ........... 10
2.2.2. Trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết tranh chấp ........ 11
3. Các hình thức tổ chức trọng tài .............................................................. 12
3.1. Trọng tài vụ việc ( trọng tài ad-hoc) ................................................... 13
3.2. Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế) ....................................... 14
4. Phân biệt trọng tài và tòa án ................................................................... 16
4.1. Tính chất pháp lý .................................................................................. 16
4.2. Thẩm quyền ........................................................................................... 16
4.3. Các giai đoạn tố tụng ............................................................................ 17
4.4. Điều kiện khởi kiện ............................................................................... 17
4.5. Nguyên tắc xét xử tập thể ..................................................................... 17
4.6. Tính công khai của hoạt động tố tụng ................................................ 18
4.7. Tính mềm dẻo, linh hoạt trong thủ tục tố tụng .................................. 18
2
5. Những ưu thế của giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài ........................................................................................................... 18
Chương 2. Các quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam 20
1. Những quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại .......................... 20
1.1. Hình thức thỏa thuận ........................................................................... 20
1.2. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu ............................................................... 21
2. Các nguyên tắc của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài23
2.1. Nguyên tắc thỏa thuận.......................................................................... 23
2.2. Nguyên tắc độc lập ................................................................................ 24
2.3. Nguyên tắc công bằng ........................................................................... 25
2.4. Tôn trọng sự thỏa thuận của các bên .................................................. 26
2.5. Nguyên tắc giải quyết một lần ............................................................. 27
3. Tiêu chuẩn trọng tài viên ........................................................................ 28
4. Thủ tục tố tụng trọng tài thương mại .................................................... 31
5. Hiệu lực phán quyết trọng tài thương mại ............................................ 33
6. Thi hành phán quyết trọng tài thương mại ........................................... 34
7. Sự hỗ trợ của tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài40
7.1. Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ ........................................................ 40
7.2. Tòa án hỗ trợ triệu tập người làm chứng ........................................... 42
7.3. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định của tòa án . 43
7.4. Tòa án công nhận và cho thi hành bản án của trọng tài nước ngoài45
Chương 3 Thực tiễn áp dụng luật trọng tài thương mại và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trọng tài thương mại tại Việt Nam ............. 46
1. Thực tiến áp dụng luật trọng tài thương mại tại Việt Nam và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới..................................................... 46
1.1. Thực tiễn áp dụng luật trọng tài thương mại tại Việt Nam ............. 46
1.1.1. Trọng tài viên ..................................................................................... 46
1.1.2. Vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với trọng tài ................ 47
1.1.3. Phạm vi điều chỉnh của Luật TTTM ............................................... 47
3
1.2. Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại tại Việt Nam ............................................................................... 49
1.2.1. Tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của các trọng tài viên nước ngoài và luật sư nước ngoài trong tố tụng trọngtài ........................... 49
1.2.2. Cần có tòa chuyên trách với đội ngũ thẩm phán chuyên sâu về lĩnh vực trọng tài .................................................................................................... 50
1.2.3. Tăng cường năng lực của đội ngũ Trọng tài viên, đẩy mạnh đào tạo luật trọngtài .................................................................................................... 51
1.2.4. Cho phép công bố một phần phán quyết trọng tài nếu các bên tranh chấp không phảnđối ....................................................................................... 52
1.2.5. Xây dựng các chương trình hợp tác quốctế ...................................... 53
1.2.6. Tăng cường năng lực tổ chức và hoạt động của các tổ chức trọngtài 54
1.2.7. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa Bộ tư pháp với Tòa án và cơ quan thi hành án dânsự .................................................... 54
1.2.8. Đảm bảo việc tuân thủ Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài .................................................... 55
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đang ngày càng phát
triển. Giao dịch thương mại ngày càng phổ biến và đa dạng cũng là lúc tranh chấp
thương mại xảy ra nhiều hơn. Thật vậy, các bên khi tham gia các giao dịch thương
mại đã rất cẩn trọng để tránh xảy ra tranh chấp nhưng không thể chắc chắn rằng nó
không xảy ra.
Vì vậy, việc các thương nhân dự trù trước cho mình những phương án giải
quyết khi có tranh chấp xảy ra là vô cùng cần thiết. Đi cùng đó là nhu cầu đa dạng 4
hóa những biện pháp giải quyết tranh chấp. Trong số đó giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại là phương pháp ngày càng được nhiều thương nhân
trên toàn thế giới sử dụng. Và thực tiễn đã chứng minh, trọng tài thương mại sẽ
giúp rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí, đơn giản hóa thủ tục, bảo đảm được bí
mật kinh doanh,... cho thương nhân.
Tuy nhiên, nhiều thương nhân Việt Nam còn chưa đánh giá đúng vai trò và
tầm quan trọng của phương pháp trọng tài thương mại, nên khi ký kết thường
không chú ý đến việc thỏa thuận phương thức trọng tài hoặc bỏ qua nó. Bên cạnh
đó, pháp luật về trọng tài thương mại còn nhiều thiếu sót, khó hiểu dẫn đến việc
áp dụng chưa hiệu quả.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài : “Pháp luật giải quyết tranh chấp thương
mại bằng con đường trọng tài ở Việt Nam”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các quy phạm pháp luật về tranh chấp
thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Phạm vi nghiên cứu: khóa luận chỉ nghiên cứu trong phạm vi các quy phạm
pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại của Việt Nam
3. Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận đi sâu nghiên cứu phương pháp giải quyết tranh chấp thương mại
bằng con đường trọng tài thương mại. Cụ thể khóa luận sẽ phân tích, làm rõ: khái
niệm, đặc điểm của tranh chấp thương mại, cũng như phương pháp giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại và quy định của Luật Việt Nam về trọng tài
thương mại. Trên cơ sở đó, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật tại Việt Nam
và một số quốc gia trên thế giới để đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
5
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những yêu cầu và mục đích đề tài đề ra, trong quá trình nghiên
cứu, khóa luận dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac
Lênin; bên cạnh đó có sử dụng các phương pháp khác như phân tích – tổng hợp,
phương pháp luật học so sánh và phương pháp thu thập thông tin…
5. Kết cấu khóa luận
Với những nội dung như trên, kết cấu khóa luận sẽ gồm 3 chương:
Chương 1 Những vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại và trọng tài thương
mại
Chương 2 Các quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam
Chương 3 Thực tiễn áp dụng luật trọng tài thương mại và kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại tại Việt Nam
II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 Những vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại và trọng tài
thương mại
1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp thương mại
1.1. Khái niệm
Theo từ điển Black’s Law tranh chấp là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng về các
yêu cầu hay quyền lợi, sự đòi hỏi về yêu cầu hay quyền lợi từ một bên được đáp
lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược từ bên kia.
Vậy, tranh chấp trong hoạt động thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng
giữa các bên tham gia quan hệ thương mại mà chủ yếu là liên quan đến việc thực
hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng.
6
Tranh chấp thương mại thường có các yếu tố sau: có quan hệ thương mại tồn
tại giữa các bên tranh chấp; có sự vi phạm nghĩa vụ của một bên làm ảnh hưởng
tới quyền và lợi ích của bên kia và sự bất đồng quan điểm của các bên về sự vi
phạm hoặc việc xử lý hậu quả phát sinh từ vi phạm. Tranh chấp này thường có
yếu tố tài sản, gắn liền với lợi ích của các bên tranh chấp và phát sinh trực tiếp từ
quan hệ hợp đồng, vì vậy các bên luôn có quyền tự định đoạt và giải quyết theo
nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận.
1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Mâu thuẫn được
hiểu là trạng thái xung đột, đối xứng nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh
chấp. Quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là
điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại, các bên
vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề ra. Do
đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu. Các quan hệ thương mại có bản chất là các
quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh
tế của các bên. Thông thường, những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm: Mua bán hàng hoá;
cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi; thuê, cho thuê, thuê mua;
xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt,
đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường
hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác. Tranh chấp về quyền
sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có
mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa
7
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Thứ hai, những tranh chấp phải phát sinh từ hoạt động thương mại. Căn cứ
phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp
luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi
phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi
phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Tranh
chấp thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác.
Thứ ba, các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh
giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau. Ngoài thương
nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những trường hợp nhất
định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ
thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch bên không có mục đích sinh
lợi chọn áp dụng luật thương mại. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích
sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động
thương mại thuần túy, nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng
luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh
chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp thương
mại. Một quy tắc được pháp luật của Pháp và nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết
loại tranh chấp này đó là căn cứ vào bị đơn là thương nhân hay không phải là
thương nhân. Nếu bị đơn là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi dân sự)
có thể chọn Tòa Thương mại hoặc Tòa Dân sự để giải quyết vụ tranh chấp. Trường
8
hợp nguyên đơn chọn Tòa Thương mại thì các quy định khắt khe hơn của luật
thương mại được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp. Ngược lại, bị đơn không
phải là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi thương mại) chỉ có quyền
kiện ra Tòa Dân sự và luật dân sự được áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp mà
các quy định của luật thương mại không thể áp dụng cho đối phương không phải
là thương nhân. Dựa trên những căn cứ pháp lý khác nhau như: Phạm vi lãnh thổ,
số lượng các bên tranh chấp, căn cứ vào lĩnh vực tranh chấp, quá trình thực hiện,
thời điểm phát sinh tranh chấp, tranh chấp thương mại được chia thành các loại
tranh chấp khác nhau. Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu
khách quan của nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi
hỏi cần phải được giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong
hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.
2. Khái niệm và bản chất của trọng tài thương mại
2.1. Khái niệm
Phương pháp trọng tài đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phổ quát trong cộng
đồng thương nhân trên toàn thế giới. Với tầm quan trọng đó, trọng tài thương mại
được nghiên cứu trên nhiều mặt khác nhau trong khoa học pháp lý. Cách tiếp cận
chủ yếu của hệ thống các quy phạm pháp luật về trọng tài của các quốc gia là coi
nó là một phương thức giải quyết tranh chấp.
Theo Luật mẫu UNCITRAL quy định : “ Trọng tài nghĩa là mọi hình thức
của trọng tài có hoặc không có sự giám sát của tổ chức”
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ ( AAA ) quy định : Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan
9
xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các
bên tranh chấp phải thi hành”
Theo từ điển Black’s Law : “Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp theo
đó bên thứ ba trung lập (trọng tài viên) ra phán quyết sau khi tất cả các bên tranh
chấp đã trình bày ý kiến, quan điểm của mình về vụ việc. Trong trường hợp trọng
tài tự nguyện, các bên tranh chấp là người chọn lựa trọng tài viên và trọng tài viên
này là người có quyền ra phán quyết. Phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành
dối với các bên tranh chấp.”
Tại Việt Nam, theo quy định của khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại
năm 2010 (“Luật TTTM”): “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh
chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”.
Bên cạnh đó, trọng tài với cách tiếp cận là một cơ quan giải quyết tranh chấp
cũng được giới luật học công nhận. Theo từ điển tiếng Việt thì : “Trọng tài là
người được các bên đối lập cử ra giải quyết, phân xử các vụ tranh chấp kinh tế”
Như vậy, tuy có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về trọng tài thương mại,
nhưng chung lại vẫn theo hai phương diện. Thứ nhất, trọng tài thương mại là một
cơ quan giải quyêt tranh chấp. Thứ hai, trọng tài thương mại là một phương pháp
giải quyết tranh chấp.
2.2. Bản chất của trọng tài
2.2.1. Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp
Trọng tài thương mại là một cơ quan giải quyết tranh chấp hay cơ quan tài
phán trong hoạt động thương mại. Với những quốc gia kinh tế phát triển, trọng tài
giống như một cơ quan tài phán độc lập và tồn tại song song với cơ quan tòa án.
Thương mại suy cho cùng vẫn dựa trên nền tảng dân sự, vì vậy pháp luật sẽ tôn
trọng quyền thỏa thuận của các bên, khi có tranh chấp các bên sẽ được quyền chọn
10
trọng tài hay tòa án làm cơ quan giải quyết. Trọng tài thương mại có một số đặc
trưng sau:
Thứ nhất, trọng tài thương mại là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp được
thành lập ra để giải quyết tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực thương mại; một ngoại
lệ khác, trọng tài vụ việc thì trọng tài là một tổ chức được lập ra để giải quyết
tranh chấp của các bên và tự chấm dứt khi giải quyết xong tranh chấp. Trọng tài
thương mại tồn tại song song và không do cơ quan nhà nước lập nên sẽ tự hoạt
động với ngân sách của mình. Từ đó, những trọng tài viên hoạt động trong tổ chức
cũng không được nhà nước chi trả lương.
Thứ hai, trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi
các bên thỏa thận. Nếu không có hỏa thuận của các bên (trước hoặc sau tranh
chấp) hoặc sự thỏa thuận vô hiệu thì trọng tài thương mại không có thẩm quyền
giải quyết. Vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể nói chính các bên chủ thể là người
trao quyền tài phán cho tổ chức trọng tài.
Thứ ba, vì không phải do cơ quan nhà nước lập ra nên những phán quyết
của trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, trọng tài được trao
quyền bởi các bên đương sự nên phán quyết sẽ mang tính tài phán của cơ quan có
thẩm quyền xét xử, vừa mang ý chí của các bên. Từ đó, phán quyết này cũng chỉ
có giá trị áp dụng đối với hai bên và khi một trong hai bên không thực hiện thì sẽ
không có cơ quan cưỡng chế thi hành (Tòa án thì có cơ quan thi hành án để buộc
thi hành).
Vậy, trọng tài thương mại là một cơ quan tài phán, tồn tại độc lập, song
song với Tòa án và có thẩm quyền tài phán khi được các bên lựa chọn.
2.2.2. Trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết tranh chấp
11
Khi có tranh chấp xảy ra trong kinh doanh thương mại, có nhiều phương
pháp thương nhân có thể lựa chọn như: thỏa thuận, hòa giải, trọng tài thương mại
và tòa án. Nhưng trọng tài và tòa án không những không mâu thuẫn mà còn bổ
trợ cho nhau, để phương pháp trọng tài thương mại được thực thi một cách triệt
để thì cần có sự hỗ trợ cuối cùng của tòa án. Trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp, trong đó các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải
quyết tranh chấp cho trọng tài; bằng việc dựa trên những tình tiết khách quan,
trọng tài sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng và quyết đình này có giá trị bắt buộc thi
hành đối với các bên. Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp, trọng tài
thương mại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đây là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên
thứ ba, có thể là một tổ chức hoặc cá nhân. Họ được các bên thỏa thuận lựa chọn
để đứng ra giải quyết tranh chấp, độc lập giữa các bên và đưa ra phán quyết buộc
các bên phải áp dụng
Thứ hai, trọng tài tuy là một phương thức ngoài tòa án nhưng cũng có
những thủ tục tố tụng chặt chẽ. Khi thành lập và hoạt động, các tổ chức trọng tài
thường trực sẽ có quy định riêng về thủ tục mà các trọng tài khi giải quyết tranh
chấp phải tuân theo. Còn đối với trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận quy
trình riêng và tất cả các bên (bao gồm cả trọng tài viên) phải thuân thủ đúng thủ
tục đã đặt ra.
Thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng tài
mang tính chung thẩm, vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên thỏa thuận về luật
áp dụng, trình tự tố tụng, trọng tài viên...) vừa mang tính tài phán (có giá trị bắt
buộc thi hành).
3. Các hình thức tổ chức trọng tài
12
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được biết đến
với hai hình thức là trọng tài thường trực (trọng tài quy chế) và trọng tài vụ việc
(trọng tài ad-hoc).
3.1. Trọng tài vụ việc ( trọng tài ad-hoc)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các
bên đương sự để giải quyết tranh chấp và tự giải thể khi hoàn thành công việc.
Tính chất vụ việc của hình thức này được thể hiện bởi một số đặc điểm sau :
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được các bên thỏa thuận khi có tranh chấp
xảy ra và tự giải thể khi xong việc.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có một bộ máy điều hành cụ thể, không
có danh sách trọng tài riêng và không có trụ sở chính. Trọng tài viên được các bên
lựa chọn có thể nằm trong bất kỳ tổ chức trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng, quy trình tố tụng dành
riêng cho mình mà thường là do các bên thỏa thuận lựa chọn. Các bên có thể lựa
chọn những quy trình giải quyết tranh chấp của những tổ chức uy tín trong nước
hoặc trên thế giới để trọng tài vụ việc áp dụng và đưa ra phán quyết
Vậy nên, khi tiến hành xét xử, trọng tài viên không bị lệ thuộc vào quy tắc
tố tụng nào, nhưng vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc chung như khách quan,
không trái luật và đạo đức xã hội. Và ngay cả bản thân các trọng tài viên được lựa
chọn cũng không hề bị giới hạn trong phạm vi nào, miễn sao việc thỏa thuận lựa
chọn đó không vi phạm pháp luật hiện hành.
Phương thức trọng tài vụ việc chỉ được nước ta ghi nhận khi Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003 ra đời. Với sự linh hoạt của mình, trọng tài vụ việc
làm tăng quyền tự định đoạt, giảm chi phí tố tụng và thời gian giải quyết vụ việc
cho các bên đương sự. Bên cạnh đó, trọng tài vụ việc sẽ bị phụ thuộc vào thiện
13
chí của các bên. Trong quá trình tố tụng, nếu một bên không thiện chí thì nguy cơ
bị trì hoãn là rất cao. Mặt khác, sẽ không có tổ chức nào hỗ trợ và giám sát quá
trình tố tụng mà chủ yếu phụ thuộc vào khả năng của trọng tài viên tham gia giải
quyết tranh chấp.
3.2. Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế)
Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường
xuyên, có điều lệ, quy tắc tố tụng riêng. Hình thức này được tổ chức dưới một số
dạng như : trung tâm trọng tài, hiệp hội trọng tài. Một số tổ chức trọng tài nổi
tiếng trên thế giới có thể kể đến như : Tòa án trọng tài quốc tế (IAC), Hiệp hội
trọng tài Mỹ (AAA), Trọng tài quốc tế Singapore, Trọng tài quốc tế Hồng Kong
và ở Việt Nam thì có Trọng tài quốc tế Việt Nam – VIAC. Hình thức phổ biến
nhất vẫn là trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài có một số đặc trưng như:
Thứ nhất, trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân và độc lập với nhau.
Giữa các bên không tồn tài quan hệ phân cấp hành chính theo cả chiều ngang và
chiều dọc.
Thứ hai, trung tâm trọng tài không nằm trong hệ thống và chỉ chịu sự quản
lý của cơ quan nhà nước. Nó được hình thành do các trọng tài viên, sau đó được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Trung tâm trọng tài hoạt động theo
nguyên tắc tự trang trải kinh phí hoạt động dựa vào nguồn vốn, nguồn thu từ các
vụ giải quyết tranh chấp. Nhà nước chỉ quản lý các trung tâm trọng tài bằng việc
tạo ra những hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung tâm trọng
tài; cấp , thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt
động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc
không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định
trọng tài...
14
Thứ ba, bộ máy của tổ chức trọng tài đơn giản. Bao gồm: Ban điều hành gồm
có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư
ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử. Và các trọng tài viên
trong danh sách của trung tâm.
Thứ tư, trung tâm trọng tài tự quyết định về một lĩnh vực hoạt động và có
quy tắc tố tụng riêng. Cụ thể:
- Trung tâm trọng tài tự xây dựng quy tắc tố tụng riêng và thường dựa trên
cơ sở là một số bản quy tắc về trọng tài hoặc một số công ước có liên
quan.
- Mỗi trung tâm trọng tài với tư cách là một pháp nhân sẽ có điều lệ riêng.
Cùng với quy tắc tố tụng, khi giải quyết tranh chấp trọng tài viên chỉ cần
tuân thủ điều lệ, quy tắc tố tụng và không vi phạm pháp luật hiện hành,
đạo đức xã hội.
- Mỗi trung tâm trọng tài sẽ tự chọn cho mình một lĩnh vực hoạt động phụ
thuộc vào năng lực của những trọng tài viên, bên cạnh đó hoàn toàn có
thể thay đổi dưới sự chấp nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Cuối cùng, quá trình giải quyết tranh chấp của tổ chức được tiến hành bởi
các trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia
giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của trung
tâm. Vậy nên, hoạt động xét xử của trung tâm trong tài chỉ được tiến hành bởi các
trọng tài viên của chính trung tâm.
Ưu điểm lớn nhất của trọng tài thường trực so với trọng tài vụ việc là có một
quy tắc tố tụng riêng biệt. Các bên đương sự có thể tìm hiểu và chọn cho mình
phương thức tố tụng sao cho có lợi nhất cho mình. Bên cạnh đó, các trung tâm
trọng tài thường có sự hỗ trợ của các chuyên gia trong quá trình giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, trọng tài thường trực cũng có hạn chế, lớn nhất là tốn kém nhiều 15
chi phí vì ngoài việc phải trả chi phí thù lao cho trọng tài viên, các bên còn phải
trả thêm các chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các trung tâm trọng
tài. Và thời gian sẽ bị kéo dài bởi trình tự thủ tục tố tụng.
4. Phân biệt trọng tài và tòa án
4.1. Tính chất pháp lý
Giữa Tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất pháp lý. Tòa án
là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình tố
tụng, Tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy
trì trật tự công cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Ngược
lại, trọng tài mang đậm tính chất phi chính phủ. Tính phi chính phủ này thể hiện
ở chỗ, các trung tâm trọng tài không do Nhà nước quyết định thành lập mà do các
trọng tài viên thỏa thuận xin phép Nhà nước để được thành lập. Trung tâm trọng
tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp và không nằm trong cơ cấu thiết chế của bộ máy
Nhà nước. Đối với trọng tài vụ việc, trọng tài cũng hoàn toàn do các bên tự thành
lập và không phải là cơ quan nhà nước. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa Tòa
án và trọng tài đã quyết định sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng Tòa án và tố
tụng trọng tài, ví dụ như tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
4.2. Thẩm quyền
Thẩm quyền theo vụ việc: dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, Tòa án có
thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài. Tòa án có thẩm quyền giải quyết hầu như
tất cả các loại tranh chấp phát sinh trong cuộc sống như kinh doanh thương mại,
thừa kế, hôn nhân gia đình, trách nhiệm ngoài hợp đồng, v.v. Tòa án cũng có thể
giải quyết những việc dân sự không phải là tranh chấp. Trong khi đó, trọng tài chỉ
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại.
16
Thẩm quyền theo lãnh thổ: Đối với Tòa án, không phải vụ tranh chấp trong
kinh doanh nào cũng được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được Tòa án thụ lý
giải quyết khi được chuyển đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại, trong
tố tụng trọng tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ. Các bên tranh
chấp có quyền lựa chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết cho mình theo
ý muốn và sự tín nhiệm của họ. Khi tranh chấp đã được các bên thỏa thuận đưa ra
trung tâm trọng tài nào giải quyết thì trung tâm đó có quyền thụ lý tranh chấp.
Như vậy, về thẩm quyền lãnh thổ thì trọng tài linh động hơn Tòa án.
4.3. Các giai đoạn tố tụng
Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ xét xử một lần các tranh chấp thương
mại. Phán quyết của trọng tài là quyết định chung thẩm, có hiệu lực thi hành ngay,
không bị kháng cáo, kháng nghị. Trong khi đó, trong tố tụng Tòa án có nhiều cấp
xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp phán quyết của Tòa án
còn có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Chính vì thủ
tục tố tụng Tòa án phải thông qua nhiều giai đoạn xét xử khác nhau đôi khi có thể
dẫn tới việc kéo dài thời gian xét xử, đây là điều mà các nhà kinh doanh không
mong muốn.
4.4. Điều kiện khởi kiện
Đối với tố tụng trọng tài, khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp chỉ
có thể đưa vụ tranh chấp ra trung tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa
thuận trước về việc này. Điều này có nghĩa là: sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện
quyết định quyền khởi kiện của đương sự. Đây là điều mà không có trong tố tụng
Tòa án: bất kỳ bên nào bị thiệt hại do hành vi vi phạm của bên còn lại đều có thể
yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp (trừ khi các bên đã thỏa thuận trọng tài).
4.5. Nguyên tắc xét xử tập thể
17
Tố tụng trọng tài không có nguyên tắc xét xử tập thể như trong tố tụng Tòa
án. Việc chọn một hay nhiều trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình là
quyền của các bên tranh chấp, pháp luật không can thiệp.
4.6. Tính công khai của hoạt động tố tụng
Trong tố tụng Tòa án, hầu hết các phiên tòa đều được tiến hành công khai,
các bản án thường được công bố rộng rãi trước công chúng. Điều này dẫn đến khó
khăn khi bảo vệ các thông tin bí mật. Trong khi đó, trong tố tụng trọng tài, mọi
tình tiết và kết quả đều không được công bố công khai nếu không được sự chấp
thuận của các bên. Pháp luật không bắt buộc các phiên họp xét xử trọng tài phải
tiến hành công khai. Ngoài ra, quyết định của trọng tài cũng như những căn cứ để
trọng tài ra quyết định sẽ không được công bố công khai trừ khi các bên có yêu
cầu.
4.7. Tính mềm dẻo, linh hoạt trong thủ tục tố tụng
Tố tụng trọng tài là một thủ tục hết sức mềm dẻo và linh hoạt. Các thủ tục tố
tụng đơn giản, thuận tiện, đảm bảo thời cơ kinh doanh của các bên tranh chấp, ví
dụ: trong tố tụng trọng tài các bên có thể chọn tổ chức trọng tài, chọn trọng tài
viên mà mình tín nhiệm, các bên cũng có thể chọn địa điểm để tiến hành trọng tài
mà thấy là thuận tiện, thậm chí các bên có thể thỏa thuận với nhau lập ra quy tắc
tố tụng áp dụng cho vụ kiện. Trong khi đó, tố tụng Tòa án bị ràng buộc bởi các
quy tắc tố tụng nghiêm ngặt, phải tuân thủ các yêu cầu nhiều khi mang tính nghi
thức, luật áp dụng được coi là bất di bất dịch.
5. Những ưu thế của giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường
trọng tài
Với cách thức tổ chức, hoạt động của mình, phương thức trọng tài thương
mại có những ưu điểm vượt trội sau:
18
Thứ nhất, khác với tố tụng tòa án được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự
áp dụng để giải quyết tất cả các vụ việc trong lĩnh vực dân sự nói chung, thủ tục
trọng tài áp dụng cho các tranh chấp trong hoạt động thương mại đơn giản hơn,
các bên có thể chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp giúp đẩy
nhanh thời gian giải quyết tranh chấp; thủ tục trọng tài không trải qua nhiều cấp
xét xử như ở toà án, cho nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho các bên
đương sự.
Thứ hai, các bên đương sự được quyền lựa chọn trọng tài viên giải quyết
tranh chấp, cho phép họ lựa chọn được các chuyên gia có chuyên môn và kinh
nghiệm thực tế về vấn đề tranh chấp, có uy tín trong nghành nghề đảm bảo chất
lượng giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, tính bảo mật thông tin được coi trọng, trọng tài tôn trọng tính bảo
mật thông tin cho toàn bộ quá trình, phiên họp trọng tài cũng được thực hiện không
công khai (khác với nguyên tắc Tòa án xét xử công khai trong tố tụng tòa án). Vậy
nên, các bên trong tranh chấp có thể đảm bảo được uy tín của mình trên thương
trường. Ngày nay, tính bảo mật ngày càng được doanh nghiệp chú ý trong bối
cảnh các vấn đề tài chính của doanh hiện nay rất nhạy cảm với các thông tin liên
quan tới doanh nghiệp (đặc biệt là với các công ty đã niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán).
Thứ tư, thẩm quyền của hội đồng trọng tài được thiết lập dựa trên sự tự
nguyện thỏa thuận của các bên mà không phụ thuộc vào quyền lực nhà nước. Mềm
dẻo hơn, linh hoạt hơn (cho phép sử dụng nhiều ngôn ngữ) phù hợp để giải quyết
các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Thứ năm, phán quyết của trọng tài có đặc điểm giống như bản án của tòa án
đó chính là mang tính chung thẩm và bắt buộc các bên phải thi hành. Tại Việt
Nam, phán quyết trọng tài VIAC có thể được đưa thẳng tới cơ quan thi hành án 19
(Cục thi hành án dân sự) để được cưỡng chế thi hành; phán quyết trọng tài VIAC
cũng có thể được cho công nhận và thi hành tại hơn 150 quốc gia và vùng lãnh
thổ là thành viên Công ước NewYork về công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài.
Chương 2: Các quy định pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam
1. Những quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại
Thỏa thuận trọng tài thương mại là thỏa thuận bằng văn bản, các bên ký đưa
tất cả hoặc một phần tranh chấp đã có hoặc sẽ có khả năng tranh chấp ra giải quyết
bằng hình thức trọng tài. Trái ngược với tòa án giải quyết mọi tranh chấp phát
sinh trừ khi có thỏa thuận khác của các bên đương sự. Và thỏa thuận là điều kiện
tiên quyết để đưa tranh chấp ra giải quyết bằng phương pháp trọng tài thương mại.
1.1. Hình thức thỏa thuận
Trong hầu hết các trường hợp thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới
hình thức văn bản. Điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một
chứng cứ xác thực việc các bên muốn giải quyết bằng hình thức trọng tài. Pháp
luật của hầu hết các nước đều quy định thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản,
tuy nhiên điều khoản trọng tài cũng có thể bằng miệng, nhưng rất ít.
Ở Việt Nam, Theo Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại, thoả thuận
trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây
cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex,
thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa
các bên;
20
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi
chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa
thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương
tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại
của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Thông thường, có hai cách để thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài:
Thứ nhất, trước khi có tranh chấp, các bên dự đoán trước và sẽ thỏa thuận
hình thức trọng tài ngay từ đầu. Thỏa thuận này sẽ được ghi vào hợp đồng xác lập
mối quan hệ giữa các bên. Vì điều khoản này chỉ mang tính dự liệu nên thường
ngắn gọn, sau này khi xảy ra tranh chấp các bên sẽ bàn sâu hơn
Thứ hai, khi có tranh chấp, các bên thỏa thuận dùng phương pháp trọng tài
để giải quyết tranh chấp của mình. Thỏa thuận này sẽ được lập thành một văn bản
riêng (theo quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại ) và coi như
gắn liền với hợp đồng chính. Tuy nhiên, trên thực tế hình thức thỏa thuận trọng
tài này thường ít được sử dụng vì sau khi xảy ra tranh chấp, các bên khó lòng mà
ngồi lại để thỏa thuận mà thường tìm đến cơ quan tòa án để giải quyết.
1.2. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có liên quan chặt chẽ đến các điều kiện luật
định về năng lực chủ thể tham gia thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền trọng tài, ý chí
tự nguyện của các chủ thể và hình thức của thỏa thuận. Một thỏa thuận trọng tài
có hiệu lực khi đáp ứng được đủ các điều kiện trên theo luật định hay những thỏa
thuận trọng tài vô hiệu khi không đáp ứng đủ những điều kiện đó.
21
Thứ nhất, điều kiện về năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể là vấn đề đầu
tiên và là tiền đề nên rất cần được quan tâm khi tiến hành đàm phán thỏa thuận
trọng tài vì một trong hai bên không có năng lực chủ thể sẽ khiến điều khoản này
vô hiệu. Đối với mỗi chủ thể, sẽ có những quy phạm pháp luật khác nhau để điều
chỉnh sao cho phù hợp với từng loại chủ thể riêng biệt. Chủ thể gồm: cá nhân,
pháp nhân và cơ quan nhà nước và đều có pháp luật riêng để điều chỉnh. Ví dụ:
theo Khoản 1 Điều 16 Bộ Luật Dân sự 2015: “Năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự” và theo Điều
86 Bộ Luật dân sự 2015: “1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả
năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự
của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác; 2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ
thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành
lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký;3. Năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.”
Thứ hai, điều kiện về thẩm quyền của trọng tài. Với nguyên tắc tôn trọng
sự thỏa thuận của các bên và tính ưu việt của mình, trọng tài ngày càng được sử
dụng nhiều hơn khi xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tranh chấp nào cũng
có thể sử dụng phương pháp trọng tài thương mại ngay cả khi các bên đã nhất trí.
Điều đó xảy ra khi pháp luật có quy định cấm sử dụng phương pháp trọng tài
thương mại. Ví dụ : Trong thương mại quốc tế, Việt Nam đã tuyên bố bảo lưu
đối với Công ước New York 1958 tại quyết định số 453 QĐ/CTN của Chủ tịch
nước ngày 17/07/1995, không cho phép thỏa thuận trọng tài đối với tất cả các vấn
đề liên quan đến trật tự công cộng. Các vấn đề phổ biến mà không được áp dụng
trọng tài như : vấn đề liên quan đến nhân thân (năng lực chủ thể, ly hôn...), các
22
hợp đồng ký kết do lừa đảo hoặc vô đạo đức; tranh chấp về phát minh, nhãn hàng
hóa...
Thứ ba, điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài. Điều kiện về hình
thức là điều kiện cơ bản nhất, đó là sự thể hiện ra bên ngoài của các bên đương sự
khi đã thống nhất ý chí. Như đã phân tích tại mục 1.1, hầu hết các quốc gia đều
yêu cầu thỏa thuận trọng tài phải được ký kết bằng văn bản, quy định này đã trở
thành tập quán quốc tế chung bởi chỉ có thể xác lập bằng văn bản mới tạo ra sự
tin tưởng cho các bên, đồng thời là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên khi
phát sinh tranh chấp. Vi phạm về hình thức là một trong những nguyên nhân làm
cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc phán quyết của trọng tài không được công
nhận.
Thứ tư, điều kiện về ý chí tự nguyện của chủ thể. Suy cho cùng, thỏa thuận
trọng tài là một loại hợp đồng, trong đó ý chí tự nguyện của chủ thể đóng vai trò
là một nguyên tắc quan trọng trong quá trình xác lập. Vì vậy, thỏa thuận sẽ không
có hiệu lực nếu như không có sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể. Trong trường
hợp một bên chứng minh được họ bị ép buộc, lừa dối hoặc nhầm lẫn khi ký thỏa
thuận trọng tài và yêu cầu tòa án tuyên hủy thỏa thuận thì được chấp thuận.
Vậy nên, thỏa thuận trọng tài là một yếu tố không thể thiếu trong tố tụng
trọng tài thương mại. Thỏa thuận này sẽ loại trừ thẩm quyền xét xử của tòa án
trong đa số các trường hợp. Và có tác dụng ràng buộc các bên bởi nó được xác
lập trên cơ sở ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các bên. Từ đó, nếu không
có thỏa thuận trọng tài sẽ không có giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng
tài.
2. Các nguyên tắc của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
2.1. Nguyên tắc thỏa thuận
23
Luật tư nói chung và luật thương mại nói riêng, việc ý chí của các bên luôn
được đặt lên hàng đầu (miễn sao không vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến đạo
đức xã hội ….) trong chế định trọng tài thương mại cũng không ngoại lệ. Các bên
tự mình thỏa thuận, thống nhất ý chí sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết
tranh chấp hay trọng tài chỉ có thẩm quyền khi các bên trao cho. Sự thỏa thuận
chỉ được xem là có hiệu lực khi một trong hai bên không bị lừa dối, nhầm lẫn.
Vậy nên, để đi đến giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì thỏa thuận
chính là tiền đề.
2.2. Nguyên tắc độc lập
Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng
họ đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kì sự kiện
hoặc chi tiết nào có thể có khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Theo
quy định tại Điều 20 Luật trọng tài thương mại năm 2010, trọng tài viên phải đàm
bảo những điều kiện tối thiểu (phân tích rõ hơn ở mục 3). Tất cả những quy định
trên đều nhằm đảm bảo nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan trọng
việc giải quyết tranh chấp thương mại. Khi tham giải giải quyết tranh chấp thương
mại, trọng tài viên phải thật sự là người thứ ba độc lập, vô tư, không liên quan đến
các bên có tranh chấp cũng như không có bất kì lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh
chấp đó. Trọng tài viên phải từ chối giải quyết tranh chấp, các bên có quyền yêu
cầu thay đổi Trọng tài viên giải quyết tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
- Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên;
- Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp;
- Có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan;
24
- Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi
đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp
thuận bằng văn bản.
Kể từ khi được chọn hoặc được chỉ định, Trọng tài viên phải thông báo
bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những
tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình. Nếu trọng tài viên
không vô tư, không khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp , vi phạm
nghĩa vụ của trọng tài viên (trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của
phán quyết trọng tài) thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng tài viên này sẽ
bị hủy (Điều 68 Luật trọng tài thương mại năm 2010). Trọng tài viên là người
được các bên có tranh chấp lựa chọn giải quyết tranh chấp cho họ. Để giải quyết
tranh chấp một cách công bằng, hợp lí, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
các bên , trọng tài viên phải tuân theo các quy định của pháp luật. Trong nhà nước
pháp quyền mọi người sống và làm việc theo pháp luật, bản thân pháp luật đã hàm
chứa yếu tố công bằng và văn minh. Nhà nước luôn kêu gọi, đề ra khẩu hiệu “sống
và làm việc theo pháp luật” để từ đó mọi người nghiêm chỉnh chấp hành nhưng
không phải lúc nào và ở đâu người dân cũng đều thực hiện đúng theo pháp luật.
Khi giải quyết các tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài, trọng tài viên phải
tuân theo các quy định của pháp luật vì nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp
luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có
quyền yêu cầu thay đổi trọng tài.
2.3. Nguyên tắc công bằng
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của mình Theo khoản 3 Điều 4 Luật trọng tài thương mại thì “Các
bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách
25
nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”. Theo
nguyên tắc này thì giữa các bên có tranh chấp thương mại khi tham gia vào giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì đều có quyền và nghĩa vụ pháp lí
ngang nhau. Họ được đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương
diện trong quá trình giải quyết. Các bên có thể lựa chọn trung tâm trọng tài, hình
thức trọng tài, trọng tài viên…Và giữa các bên có thể thỏa thuận với nhau về nhiều
vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp. Khi các bên tham gia vào quá
trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thì Hội đồng trọng tài phải
tôn trọng và có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình. Nếu không sẽ dẫn tới hậu quả là quyết định của Hội đồng trọng tài sẽ
bị Tòa án hủy theo yêu cầu của các bên
2.4. Tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng
trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh (khoản 2 Điều 3 Luật trọng
tài thương mại năm 2010). Như vậy, các bên có thể thuận thỏa thuận trọng tài
trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Một trong những ưu điểm của
việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là các bên có tranh chấp được đảm
bảo tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương diện trong quá trình giải quyết
với điều kiện các thảo thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến
thủ tục giải quyết mà trọng tài viên phải tôn trọng , nếu không sẽ dẫn đến hậu quả
là quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
Quyền hạn của hội đồng trọng tài là do các bên giao cho họ. Các bên thỏa thuận
chọn trung tâm trọng tài nào và hình thức trọng tài nào thì chỉ có trung tâm trọng
tài và hình thức trọng tài đó có thẩm quyền giải quyết. Các bên lựa chọn trọng tài
viên nào thì trọng tài viên đó có thẩm quyền giải quyết. Nếu các bên thỏa thuận
26
vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết thì chỉ có trọng tài viên
duy nhất đó có quyền giải quyết. Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết
vụ tranh chấp. Chỉ khi không có thỏa thuận của các bên về địa điểm giải quyết thì
hội đồng trọng tài mới quyết định. Các bên còn có quyền thỏa thuận thời gian mở
phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Chủ tịch hội đồng trọng tài chỉ có quyền quyết
định thời gian mở phiên họp giải quyết nếu các bên không có thỏa thuận khác.
2.5. Nguyên tắc giải quyết một lần
Theo khoản 5 Điều 4 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “ Phán quyết
trọng tài là chung thẩm” hay giải quyết một lần. Đây là nguyên tắc quan trọng để
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại
là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến nhất, với nhiều
ưu điểm nổi bật như thời gian xử lý nhanh, nội dung tranh chấp được giữ bí mật,
phán quyết của trọng tài là chung thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị. Điều
này có nghĩa là ngay sau khi hội đồng trọng tài công bố quyết định trọng tài, các
bên phải thi hành quyết định trọng tài, trừ trường hợp một trong các bên làm đơn
yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài. Trong việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài, các bên có nhiều quyền định đoạt về việc được tự do lựa chọn trọng tài,
quy tắc tố tụng, luật áp dụng, địa điểm, ngôn ngữ, thời gian tiến hành tố tụng trọng
tài, quốc tịch của trọng tài viên. Thẩm quyền của trọng tài thương mại bao gồm
tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh
giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại và tranh chấp khác
giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài thương mại...
với hai hình thức hoạt động là trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc. Cũng theo
quy định của Luật trọng tài thương mại, Tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài
khi có đơn yêu cầu của một bên. Một trong các căn cứ khiến phán quyết trọng tài
bị hủy là chứng cứ giả mạo; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
27
khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của
phán quyết trọng tài.
3. Tiêu chuẩn trọng tài viên
Pháp luật các nước thế giới và Việt Nam khá thống nhất về định nghĩa trọng
tài viên. Theo khoản 5 điều 3 quy định : “Trọng tài viên là người được các bên
lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh
chấp theo quy định của Luật này.” Để trở thành trọng tài viên, cá nhân phải đáp
ứng đủ những điều kiện tối thiểu và trong một số trường hợp người đáp ứng đủ
điều kiện tối thiểu này không thể trở thành trọng tài viên.
Theo pháp luật nước ngoài, nhiều nước không quy định điều kiện đối với
trọng tài viên. Ví dụ như “Luật trọng tài thương mại của Thụy Điển không có bất
kỳ quy định nào về điều kiện cần phải đáp ứng để trở thành trọng tài viên mà chỉ
quy định về các trường hợp không được làm trọng tài viên : không có năng lực
hành vi, đã từng là thẩm phán giải quyết tranh chấp đó; và một số trường hợp
không đảm bảo khách quan, trung thực nếu làm trọng tài viên. Luật trọng tài
thương mại của Nhật bản quy định các bên có thể khước từ trọng tài viên khi
người đó không có năng lực pháp lý, điếc, câm hay bị tước hỏ hoặc bị treo các
quyền dân sự (khoản 3, Điều 792). Điều 20 của các quy tắc trọng tài của Hiệp
hội trọng tài Nhật Bản cũng chỉ đưa ra một quy định có tính nguyên tắc: “Không
ai có quyền lợi trong vụ việc xét xử trọng tài được làm trọng tài viên...”. Ở Hoa
Kỳ, Luật trọng tài thương mại thống nhất không quy định về vấn đề tiêu chuẩn
trọng tài viên và quốc tịch của trọng tài viên, vì vậy các luật sư, thương nhân và
những người khác đều có thể được chỉ định làm trọng tài viên theo sự lựa chọn
của các bên. Ở cộng hòa Liên bang Đức, việc chỉ định trọng tài viên được quy
định tại điều 1035 ZPO. Về cơ bản, bất kỳ cá nhân nào cũng có thể làm trọng tài
viên. Điều kiện duy nhất đòi hỏi đối với trọng tài viên là năng lực hành vi của
28
người đó không bị hạn chế. Trọng tài viên không đòi hỏi phải có kiến thức về pháp
lý, đặc biệt cũng không đòi hỏi phải có năng lực như thẩm phán. Nhưng trong
thực tế, đại đa số những người làm trọng tài viên ở Đức lại đã qua đào tạo pháp
lý. Ngoài những đòi hỏi ít ỏi được quy định trong pháp luật, các bên đương sự có
thể thỏa thuận một số tiêu chuẩn trọng tài viên phải đáp ứng.” (trích Sách chuyên
khảo về Trọng tài thương mại - TS Đỗ Văn Đại )
Theo pháp luật Việt Nam, điều 20 Luật Trọng tài thương mại quy định :
“1. Những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự;
b) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở
lên;
c) Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều
kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này,
cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên.”
Thứ nhất, tiêu chuẩn cá nhân có năng lực hành vi. Theo suy đoán chủ quan,
chủ thể luật trọng tài thương mại 2010 nhắc đến là cá nhân bởi lẽ pháp luật hiện
hành không ghi nhận năng lực hành vi dân sự đối với các chủ thể khác như pháp
nhân.
Thứ hai, trình độ đại học và kinh nghiệm thực tế. Tiêu chí này đã tồn tài từ
pháp lệnh trọng tài thương mại và còn đến ngày nay. Điểm b, khoản 1, điều 20
Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định : “Có trình độ đại học và đã qua thực
tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên”. Nếu tìm hiểu không kỹ, nhiều
người sẽ hiểu lầm điều luật trên đang hướng đến trình độ đại học Luật ( cử nhân
luật). Nhưng thực tế đã chứng minh, với điều kiện là bằng đại học tức là cử nhân
luật vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của đương sự. Bở lẽ, trọng tài thương
29
mại giải quyết các tranh chấp trong rất nhiều lĩnh vực liên quan đến nhiều chủ
thể và những người được lựa chọn làm trọng tài viên phải là các chuyên gia rất
giỏi trên rất nhiều lĩnh vực, ví dụ như địa chất, hóa học, lý học... Vậy nên, Luật
Trọng tài thương mại quy định như vậy là rất hợp lý.
Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ cũng là một điều đáng để lưu tâm. Vì trong
thời kỳ kinh tế hội nhập, việc thương nhân Việt Nam làm việc với thương nhân
nước ngoài không còn là hiếm và cũng là để nâng cao chuyên môn thông qua trao
đổi với đồng nghiêp nước ngoài. Vậy tại sao nó lại không được ghi nhận trong
điều kiện của trọng tài viên. Theo suy đoán cá nhân, có thể do có nhiều loại hình
trọng tài (trọng tài vụ việc, trọng tài trong nước, trọng tài nước ngoài, trọng tài
thường trực ...) nên nhà làm luật đã không đưa vào.
Thứ ba, trường hợp đặc biệt. Khoản 1, điều 20 Luật Trọng tài thương mại
quy định : “Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao
và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm
b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên”. Đây là một quy định
mới, so với pháp lệnh trọng tài thương mại. Với quy định này, cá nhân không
nhất thiết phải có trình độ đại học và công tác trong ngành đã học để trở thành
trọng tài viên. Quy định này rất hợp lý, vì bằng cách này hay cách khác một chủ
thể không cần phải có bằng đại học nhưng hoàn toàn có thể có nhiều kiến thức
liên quan đến tranh chấp thương mại.
Bên cạnh những tiêu chuẩn cơ bản, trọng tài viên phải không nằm trong
những trường hợp bị cấm sau : Theo khoản 2, điều 20 Luật Trọng tài thương mại
quy định: “ Những người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây không được làm Trọng tài viên:
30
a) Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công
chức thuộc Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan
thi hành án;
b) Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp
hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích.”
Đối với điểm a, khoản 2 Luật Trọng tài thương mại chỉ cấm với những
người đang giữ chức vụ trên, mà không cấm những người đã về hưu hoặc không
còn giữ chức vụ nữa. Đây là một quy định hoàn toàn hợp lý vì: Một, những người
đã làm những chức trên thường có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực họ làm
việc; Hai, để tránh sự không khách quan của trọng tài viên khi tham gia giải quyết
tranh chấp.
Đối với điểm b, khoản 2 Luật Trọng tài thương mại có một số điểm đáng
phải lưu tâm. Một nguyên tắc bất di bất dịch của luật hình sự không chỉ tại Việt
Nam mà trên toàn thế giới đó là: một người chỉ được coi là có tội khi có một bản
án có hiệu lực của tòa án. Vì vậy, việc bị can, bị cáo bị hạn chế việc làm trọng tài
thương mại cũng là một sự bất công đối với họ.
4. Thủ tục tố tụng trọng tài thương mại
Thủ tục tố tụng trọng tài là một trong những nội dung thỏa thuận giữa các
bên. Như đã phân tích ở trên, các bên có thể tự mình đưa ra những quy tắc riêng
của mình nhưng thông thường sẽ chọn một trong những quy tắc tố tụng của các
trung tâm trọng tài. Thủ tục tố tụng trọng tài thường có một số trình tự, thủ tục
chính như sau:
Thứ nhất, nộp đơn kiện, thường đơn kiện do nguyên đơn đệ trình phải chứa
những nội dung nhất định theo quy định của pháp luật về trọng tài hoặc trong bản
quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài được lựa chọn. Luật mẫu về trọng tài của
31
UNCITRAL quy định đơn kiện phải làm rõ một số vấn đề như : tên và địa chỉ của
các bên, yêu cầu của nguyên đơn, căn cứ pháp lý, hợp đồng có phát sinh tranh
chấp và phương pháp giải quyết tranh chấp... Sau khi nhận được đơn khởi kiện,
bị đơn sẽ trả lời đơn khởi kiện bằng văn bản: bào chữa, đưa ra quan điểm về
phương pháp trọng tài...
Thứ hai, chọn và chỉ định trọng tài viên. Trên cơ sở số trọng tài và tiêu
chuẩn của trọng tài viên đã được xác định trong điều khoản của trọng tài, các bên
sẽ tiến hành lựa chọn trọng tài viên. Thông thường có hai cách để chọn, nếu trong
hợp đồng quy định chỉ cần một trọng tài viên thì nguyên đơn đưa ra một danh
sách ít nhất 5 trọng tài viên cho bị đơn chọn; nếu điều khoản trọng tài quy định
cần ba trọng tài viên thì thường mỗi bên chọn ra một trọng tài viên, sau đó hai
người sẽ chọn ra người còn lại. Trong trường hợp không thống nhất được việc lựa
chọn trọng tài viên, các bên sẽ lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giúp họ chỉ định
trọng tài viên. Các trọng tài viên được chọn có quyền và nghĩa vụ tự khước từ
hoặc chỉ một hay các bên khước từ nếu thấy có các mối liên hệ nhất định đối với
vụ tranh chấp hoặc với các bên tranh chấp.
Thứ ba, chuẩn bị xét xử. Đây là giai đoạn để các bên tranh chấp cũng như
trọng tài viên tiến hành các hoạt động chính: điều tra, nghiên cứu hồ sơ và tổ chức
các cuộc gặp gỡ giữa trọng tài viên và các bên tranh chấp. Trọng tài viên, theo
sáng kiến của các bên, có thể nghe nhân chứng, giám định viên trình bày về những
vấn đề có liên quan đến tranh chấp, hoặc trong một số trường hợp có thể cần đến
sự hỗ trợ của tòa án vì các lệnh của trọng tài thì thường không có giá trị bắt buộc
đối với những người thứ ba. Pháp luật của một số nước không cho phép trọng tài
viên được gặp gỡ các bên trước khi xét xử.
Thứ tư, trong phần lớn các vụ việc, giải quyết bằng trọng tài thương mại
quốc tế, phiên họp xét xử là thời điểm đầu tiên mà các bên tranh chấp và trọng tài
32
viên thực sự gặp nhau, do vậy đây là cơ hội để từng bên trình bày tất cả các tài
liệu, chứng cứ của mình và kiểm tra các lập luận, chứng cứ của phía bên kia. Để
đảm bảo bí mật kinh doanh, các phiên họp không tiến hành công khai và chỉ có
các bên tranh chấp, đại diện của họ và các trọng tài viên tham dự. Các trọng tài
viên đóng vai trò tích cực trong việc điều khiển, yêu cầu các bên đưa ra những
chứng cứ, lập luận cần thiết để làm rõ vụ việc. Hai nguyên tắc quan trọng để đảm
bảo giá trị của phán quyết trọng tài là: các bên phải có được cơ hội đầy đủ để trình
bày vấn đề của mình, các bên phải được đối xử công bằng.
Cuối cùng, ra phán quyết của trọng tài. Sau khi kết thúc phiên họp xét xử,
trọng tài viên chuẩn bị ra phán quyết dựa trên các căn cứ: Luật áp dụng cho hợp
đồng, các điều khoản hợp đồng, tập quán và thông lệ thương mại quốc tế. Phán
quyết được thực hiện theo nguyên tắc đa số, theo thông lệ quốc tế, phán quyết
phải được thể hiện bằng văn bản viết, có nêu rõ lý do giải quyết từng vấn đề. Phán
quyết trọng tài bằng văn bản phải ghi rõ ngày, tháng, có hữ ký của trọng tài viên
Trong trường hợp quyết định theo đa số thì phải có chữ ký của trọng tài viên biểu
quyết tán thành. Ngôn ngữ của phán quyết phải tuân theo quy định của nước nơi
trọng tài tiến hành. Phán quyết của trọng tài phải được hoàn thành trong một thời
hạn nhất định và gửi cho các bên để đảm bảo tính nhanh chóng, dứt điểm của quá
trình trọng tài. Thời hạn này do các bên thỏa thuận, do trung tâm trọng tài hoặc
do luật tố tụng áp dụng cho trọng tài quy định. Theo quy tắc trọng tài của Hoa Kỳ
thời hạn này là 30 ngày sau khi kết thúc xét xử.
5. Hiệu lực phán quyết trọng tài thương mại
Theo khoản 5 điều 61 Luật Trong tài thương mại, phán quyết trọng tài có
hiệu lực kể từ ngày ban hành, có nghĩa là đối với các bên, phán quyết có hiệu lực
thi hành kể từ ngày công bố. Đối với cơ quan nhà nước, phán quyết trọng tài cũng
có hiệu lực thi hành ngay. Do đó, bên được thi hành có quyền yêu cầu cơ quan thi
33
hành án thi hành phán quyết trọng tài mà không cần thông qua thủ tục công nhận,
cho thi hành như phán quyết của trọng tài nước ngoài. Cụ thể, theo khoản 1 điều
66 Luật Trọng tài thương mại, hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên
phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy
phán quyết trọng tài thì theo quy định tài điều 69 của Luật này, bên được thi hành
phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Đây là một biện pháp bảo đảm quyết
định của trọng tài sẽ được thi hành bởi cơ quan thi hành án trong trường hợp bên
phải thi hành không tự nguyện thi hành. Đối với phán quyết của trọng tài vụ việc,
bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký.
6. Thi hành phán quyết trọng tài thương mại
Phán quyết trọng tài của Việt Nam được thi hành như các bản án, quyết
định của tòa án Việt Nam. Phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự. Điều đó không có nghĩa là thủ tục thi hành phán
quyết trọng tài chỉ căn cứ vào các quy định trong Luật thi hành án dân sự. Chúng
ta cần kết hợp với những quy định trong luật trọng tài thương mại về vấn đề này.
Chẳng hạn, chúng ta cần xác định cơ quan thi hành phán quyết trọng tài trên cơ
sở của điều 8 Luật trọng tài thương mại theo đó “cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương nơi hội đồng trọng tài ra phán quyết. Với quy định
trên thì cơ quan có thẩm quyền thi hành là cơ quan thi hành án cấp tỉnh. Về thẩm
quyền theo lãnh thổ, đó là cơ quan “nơi hội đồng trọng tài ra phán quyết”. Quy
định sau này là rất khỏ hiểu: nếu nơi hội đồng trọng tài ra phán quyết là Hải Phòng
thì tại sao lại không yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự ngoài Hải Phòng? Sẽ là
thuyết phục khi chúng ta ghi nhận cả thẩm quyền của cơ quan thi hành dân sự
34
ngoài nơi phán quyết được ban hành như nơi người phải thi hành phán quyết có
tài sản hay điều kiện khác để thi hành phán quyết trọng tài.
Hiện nay, thừa phát lại có thẩm quyền thi hành bản án, quyết định của tòa
án. Tuy nhiên, Điều 34 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động
của thừa phát lại không có quy định về khả năng thừa phát lại thi hành phán quyết
trọng tài. Do đó, trong quy định hiện hành, dường như chỉ có cơ quan thi hành án
mới có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.
Đối với việc thi hành bản án, các quy định pháp luật về việc thi hành phán
quyết trọng tài vẫn còn có nhiều điểm bất cập, có thể kể đến một số bất cập như
sau:
Thứ nhất, về chủ thể yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài: Theo quy định tại
Khoản 1 Điều 31 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 thì quyền yêu cầu thi
hành án thuộc về “đương sự” bao gồm người được thi hành án và người phải thi
hành án. Trong khi đó Luật TTTM năm 2010 chỉ quy định bên được thi hành phán
quyết có quyền làm đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài. Do đó trong trường
hợp bên phải thi hành phán quyết muốn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài khi
bên được thi hành phán quyết chưa yêu cầu thì hiện nay pháp luật vẫn chưa có
quy định cụ thể.
Thứ hai, về thủ tục tiếp nhận và thụ lý phán quyết, quyết định của Trọng
tài: Theo Khoản 1 Điều 66 Luật TTTM năm 2010, nếu hết thời hạn thi hành phán
quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng
không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật TTTM
năm 2010, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ
quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Tuy nhiên vấn đề đặt
ra là ngày phán quyết của Hội đồng Trọng tài có hiệu lực không phải là ngày phán
quyết của Hội đồng trọng tài được đưa ra thi hành tại cơ quan THADS có thẩm 35
quyền. Hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài được xác định căn cứ theo Điều
61 và Điều 66 Luật TTTM năm 2010. Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 61
Luật TTTM năm 2010 thì trong phán quyết trọng tài có nội dung “Thời hạn thi
hành phán quyết”. Vì vậy, để xác định điều kiện tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành
án, cơ quan THADS phải căn cứ vào nội dung này để xác định hai vấn đề: Một là
đã hết thời hạn thi hành phán quyết; Hai là bên phải thi hành phán quyết có yêu
cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài hay không, từ đó cơ quan THADS mới có
căn cứ để tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án và thụ lý giải quyết vụ việc.
Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm
đơn yêu cầu Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau
khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật TTTM. Điều 62
Luật TTTM năm 2010 quy định: Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành
phán quyết trọng tài, bên yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc phải gửi
đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài tới Tòa án có thẩm quyền. Sau khi nhận
được đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài thì Tòa án thực hiện việc đăng ký hoặc
từ chối đăng ký phán quyết. Vì vậy, để có thể tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án,
cơ quan THADS phải yêu cầu đương sự chứng minh việc phán quyết trọng tài đã
được đăng ký tại Tòa án.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác nhận tình trạng pháp lý của phán quyết
trọng tài gặp nhiều khó khăn. Để yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài, người yêu
cầu thi hành phải chứng minh phán quyết trọng tài đó không bị Tòa án tuyên hủy.
Nhiều trường hợp các đương sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xác nhận phán
quyết trọng tài không bị tuyên hủy đều không nhận được câu trả lời từ phía Tòa
án, dẫn tới hồ sơ thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự bị chậm hoặc không được
tiếp nhận do không xác nhận được tình trạng pháp lý của phán quyết. Hơn nữa,
việc xác định tình trạng pháp lý của phán quyết trọng tài là trách nhiệm của cơ
36
quan thi hành án dân sự hay đương sự còn chưa được quy định rõ dẫn tới khó
khăn trong công tác thụ lý thi hành án.
Liên quan đến vấn đề này, tại Kiến nghị số 1680/PTM - VP ngày
14/07/2017 của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam về việc thi hành phán quyết
trọng tài thì một trong những bất cập khi nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết
trọng tài là việc Cơ quan THADS yêu cầu đương sự phải cung cấp giấy xác nhận
của Tòa án về việc thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Trong
khi Tòa án lại không có bất kỳ quy trình hay thủ tục nào để cấp Giấy xác nhận
này, việc cấp giấy hoàn toàn phụ thuộc vào thực tiễn của mỗi Tòa án. Việc thi
hành phán quyết trọng tài bị phụ thuộc vào việc Tòa án cấp giấy xác nhận đã hạn
chế quyền và lợi ích chính đáng của bên được thi hành. Mặt khác, thủ tục xin xác
nhận của Tòa án là một thủ tục hành chính độc lập, phải thực hiện trước khi nộp
hồ sơ đến cơ quan THADS, dẫn đến quy trình yêu cầu thi hành phán quyết trọng
tài bị tăng gấp đôi về thủ tục.
Đồng thời Kiến nghị cũng nêu ra bất cập về quy định bên yêu cầu THA
phải có bằng chứng về việc phán quyết trọng tài đã có giá trị thi hành. Thực tế,
bên yêu cầu thi hành án sẽ rất khó để biết thông tin Tòa án có đang thụ lý, giải
quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hay không. Trong khi bên phải thi
hành phán quyết trọng tài là chủ thể nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và
Tòa án có thẩm quyền xem xét hủy phán quyết trọng tài lại có thể dễ dàng cung
cấp thông tin. Do đó, quy định việc lấy thông tin từ bên phải thi hành phán quyết
trọng tài hoặc Tòa án sẽ là hợp lý hơn. Có thể thấy, các kiến nghị nói trên đã phản
ánh đúng phần nào những bất cập trong việc thụ lý yêu cầu thi hành PQTT hiện
nay.
Thứ ba, về thời hiệu thi hành phán quyết Trọng tài. Theo pháp luật về thi
hành án dân sự (Điều 30 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 và Điều 4 Nghị
37
định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật THADS) thì thời hiệu yêu cầu thi hành án là 5 năm kể từ
ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trường hợp thời hạn thực hiện
nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 5 năm được tính từ
ngày nghĩa vụ đến hạn. Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời
hạn 5 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Theo khoản 5 Điều 61 Luật TTTM thì phán quyết trọng tài là chung thẩm
và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 66 Luật TTTM năm
2010 lại quy định: Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành
có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành
phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62
của Luật TTTM, và thời hạn đăng ký là 1 năm kể từ ngày ban hành phán quyết.
Vấn đề đặt ra là thời hiệu yêu cầu thi hành án được tính bắt đầu từ thời điểm nào
là chính xác: kể từ ngày có phán quyết trọng tài hay từ khi phán quyết đó được
đăng ký tại tòa án? Có thể thấy, sự không thống nhất giữa các quy định pháp luật
nói trên đã khiến cho thời hiệu thi hành phán quyết trọng tài vụ việc chỉ còn chưa
được 4 năm kể từ ngày phán quyết trọng tài có hiệu lực chứ không phải 5 năm.
Do đó cần có quy định cụ thể hơn về vấn đề này.
Thứ tư, về thẩm quyền thi hành phán quyết, quyết định của Trọng tài. Theo
Điều 8 Luật TTTM năm 2010, cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán
quyết trọng tài là cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi
Hội đồng Trọng tài ra phán quyết. Trên thực tế các trung tâm trọng tài thường tập
trung tại các thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ chí Minh. Theo đó các
phán quyết trọng tài chủ yếu được ban hành tại các trung tâm trọng tài đặt tại hai
thành phố này. Theo số liệu thống kê tại Báo cáo số 74/BC-BTP, trong 4 năm (từ
năm 2011 đến 31/12/2015) các trung tâm trọng tài đã ban hành 1.831 phán quyết
38
trọng tài, riêng trong năm 2015, các trung tâm trọng tài đã giải quyết được 1.255
vụ tăng 389 vụ việc so với năm 2014. Trong đó, VIAC đã thụ lý, giải quyết 226
vụ, trung bình gần 60 vụ/năm; Trung tâm Trọng tài thương mại thành phố Hồ Chí
Minh (TRACENT) thụ lý, giải quyết 291 vụ, trung bình hơn 70 vụ/năm. Các trung
tâm trọng tài khác chỉ giải quyết từ 5 đến 10 vụ/năm.
Các doanh nghiệp thường có hoạt động kinh doanh tại khắp các tỉnh, thành
phố trên cả nước, việc quy định cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán
quyết trọng tài là cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi
Hội đồng Trọng tài ra phán quyết có thể dẫn tới khó khăn cho các doanh nghiệp
không có trụ sở kinh doanh tại hai thành phố này khi nộp đơn yêu cầu thi hành
phán quyết.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 55 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm
2014 thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải uỷ thác thi hành án cho cơ
quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú
hoặc có trụ sở. Như vậy, cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết có thể lại phải ủy thác thi hành án đến
nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở, dẫn đến thời
gian tổ chức thi hành án bị kéo dài.
Do đó cần xem xét nên mở rộng phạm vi cơ quan thi hành án có thẩm quyền
thi hành phán quyết trọng tài, bao gồm cả cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương nơi bên phải thi hành phán quyết có tài sản hoặc có
trụ sở chính. Quy định như vậy sẽ góp phần giảm tải cho các cơ quan THADS nơi
tập trung nhiều vụ việc Trọng tài thương mại và cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho bên được thi hành phán quyết trọng tài.
Thứ năm, việc yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài. Việc yêu cầu hủy phán
quyết Trọng tài được quy định tại Chương XI Luật TTTM năm 2010 (Từ Điều 39
68 đến Điều 72) và Điều 14 Nghị Quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật TTTM năm 2010, trong đó quy định cụ thể về căn cứ, trình tự thủ
tục yêu cầu và xem xét hủy Phán quyết trọng tài. Tuy nhiên lại thiếu các quy định
ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp một bên yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài nhưng không được Tòa án công nhận và việc kéo dài thời gian thi hành phán
quyết gây ra thiệt hại đối với bên được thi hành phán quyết. Điều này dẫn đến bên
phải thi hành phán quyết trọng tài thường tìm mọi cách để đưa ra yêu cầu phản
đối để phán quyết bị bác bỏ, dẫn đến tốn kém thời gian và chi phí cho bên được
thi hành phán quyết. Do đó cần quy định chặt chẽ hơn nữa về việc yêu cầu hủy
phán quyết trọng tài và có những quy định ràng buộc trách nhiệm đối với bên yêu
cầu hủy phán quyết nhằm hạn chế tối đa việc lợi dụng quyền yêu cầu hủy Phán
quyết Trọng tài để kéo dài thời gian thi hành án.
7. Sự hỗ trợ của tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
7.1. Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ
Luật Trọng tài thương mại quy định hai nguyên tắc cơ bản trong thu thập chứng
cứ. Một mặt, các bên có quyền và nghĩa vụ cung cấp cho Hội đồng trọng tài các
chưng cứ chứng minh tình tiết liên quan đến các vấn đề tranh chấp. Mặt khác, hội
đồng trọng tài cũng có thẩm quyền: Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, yêu
cầu người làm chứng cung cấp thông tin và tài liệu liên quan đến việc giải quyết
tranh chấp; tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, yêu cầu đánh giá
hoặc định giá tài sản tranh chấp để có căn cứ giải quyết tranh chấp hoặc trưng cầu
ý kiến chuyên gia. Trong trường hợp trọng tài hoặc các bên đã thực hiện tất cả
những biện pháp nhưng không tự mình thu thập được các chứng cứ trên đây thì
có quyền đề nghị Tòa án yêu cầu các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác lưu giữu
chứng cứ cung cấp cho Tòa án ( Điều 46 Luật Trọng tài thương mại ) Văn bản đề
40
nghị tòa án phải xác định vấn đề tranh chấp hiện đang được trọng tài giải quyết,
chứng cứ cần thu thập, lý do tại sao chưa thu thập được chứng cứ, tên và địa chỉ
cơ quan, tổ chức hay cá nhân hiện đang quản lý và lưu giữ chứng cứ cần thu thập
( Điều 46 Luật trọng tài thương mại ). Văn bản đề nghị phải được gửi kèm với
đơn khởi kiện trọng tài, thỏa thuận trọng tài, tài liệu liên quan và tài liệu, chứng
cứ chứng minh việc không thu thập được chứng cứ đó. Tòa án có thẩm quyền phải
xử lý yêu cầu thu thập chứng cứ đó như sau:
- Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu, chánh án
phải phân công một thẩm phán xem xét và giải quyết yêu cầu
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, thẩm phán
xử lý yêu cầu phải gửi thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhận hiện quản lý, lưu giữ chứng cứ để yêu cầu cung cấp chứng cứ đó
cho Tòa án.
- Thẩm quyền cũng phải gửi thông báo đó đến Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp để Viện kiểm sát thực hiện chức năng và nhiệm cụ của mình theo luật
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của tòa án, cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân hiện đang quản lý, giữ chứng cứ phải nộp
chứng cứ lên tòa án
- Hết thời hạn này mà cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân không thể giao nộp
chứng cứ, thì phải thông báo cho tòa án bằng văn bản về lý do không giao
nộp.
- Khi hết thời hạn này, nếu chứng cứ không được giao nộp, tòa án phải
thông báo ngay cho hội đồng trọng tài và người yêu cầu được biết, đồng
thời thông báo bằng văn bản cho cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền để
xử lý theo quy định của pháp luật
41
- Cơ quan , tổ chức hoặc cá nhân không tuân thủ yêu cầu của toàn án mà
không có lý do chính đáng thì sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật tùy theo bản chất và mức
độ nghiêm trọng của vi phạm
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng cứ từ cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp, tòa án phải thông báo cho Hội đồng
trọng tài và người yêu cầu để giao nhận chứng cứ.
7.2. Tòa án hỗ trợ triệu tập người làm chứng
Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên và xét thấy cần thiết, hội đồng trọng
tài có quyền yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp.
Khi họi đồng trọng tài đã triệu tập người làm chứng hợp lệ nhưng người làm chứng
vắng mặt mà không có lý do chính đáng và sự vắng mặt của người làm chứng cản
trở việc giải quyết tranh chấp, thì hội đồng trọng tài có thể gửi văn bản đề nghị
Tòa án ra quyết định triệu tập người làm chứng đó có mặt tại phiên họp của hội
đồng trọng tài. Yêu cầu triệu tập người làm chứng phải ghi rõ những thông tin sau
: Nội dung vụ việc hiện đang được trọng tài giải quyết; họ tên và địa chỉ người
làm chứng; lý do triệu tập người làm chứng và thời gian, địa điểm người làm
chứng cần có mặt.
Văn bản đề nghị triệu tập người làm chứng phải gửi kèm theo bản sao đơn
khởi kiện, thỏa thuận trọng tài, tài liệu khác có liên quan và tài liệu, chứng cứ
chứng minh việc triệu tập hợp lệ những người làm chứng không có mặt tại phiên
trọng tài mà không có lý do chính đáng và sự vắng mặt của người làm hứng cản
trở việc giải quyết tranh chấp. Tòa án có thẩm quyền phải xử lý yêu cầu người
làm chứng như sau:
42
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn
bản của hội đồng trọng tài, chánh án tòa án có thẩm quyền phân công một
thẩm phám xem xét và giải quyết yêu cầu đó
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, thẩm phán
phải ra quyết định triệu tập người làm chứng. Tòa án chỉ triệu tập người
làm chứng khi có đủ chứng cứ cho thấy rằng hội đồng trọng tài đã triệu
tập người làm chứng hợp lệ nhưng người làm chứng không có mặt và
không đưa ra lý do chính đáng cho sự vắng mặt của mình và sự vắng mặt
của người làm chứng cần cản trở việc giải quyết tranh chấp
- Tòa án phải gửi ngay quyết định triệu tập cho Hội đồng trọng tài, người
làm chứng và Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện chức năng và nhiệm
vụ của mình theo luật.
7.3. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định của tòa án
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là bất kỳ biện pháp tạm thời nào mà qua đó, sau
khi trọng tài thụ lý đến trước khi ban hành phán quyết cuối cùng đối với tranh
chấp, Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án yêu cầu một bên bảo toàn chứng cứ, bảo vệ
tài sản, duy trì tình trạnh hiện tại chờ kết quả của tố tụng trọng tài. Biện pháp khẩn
cấp tạm thời mà hội đồng trọng tài có thể áp dụng bao gồm các loại sau:
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
- Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện hoặc một số hành vi
nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố
tụng trọng tài
- Kê biên tài sản đang tranh chấp
- Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một
hoặc tất cả các bên tranh chấp
- Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên
43
- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
Trước khi xem xét đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tòa án
phải kiểm tra thỏa thuận của các bên xem: các bên có quyền yêu cầu Tòa án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không; biện pháp khẩn cấp tạm thời nào đã
được thỏa thuận hay áp dụng trong tố tụng trọng tài và tòa án nào có thẩm quyền
ra quyết định. Theo điều 48 điều 53 Luật Trọng tài thương mại, chỉ các bên trong
tố tụng trọng tài được quyền yêu cầu Tòa án ban hành quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tam thời để hỗ trợ tố tụng trọng tài. Các bên không được phép yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Yêu cầu tòa án ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời phải cung cấp: thông tin được quy định tại điều Điều
50 Luật Trọng tài thương mại và chứng cứ chứng minh sự cần thiết áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Theo Điều 91, điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự, người
yêu cầu phải cung cấp đầy đủ chứng cứ chứng minh nhu cầu: thu thập hoặc bảo
vệ chứng cứ liên quan đến tranh chấp, bảo đảm thi hành phán quyết trong tương
lai, tránh những thiệt hại không thể khắc phục được. Yêu cầu trên đây khác nhau
phụ thuộc vào bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời được yêu cầu áp dụng.
Chứng cứ phải chứng minh tình tiết mà người yêu cầu dựa vào đó để yêu cầu áp
dụng biện pháp tạm thời, bao gồm những tình tiết quan trọng mà tòa án phải biết.
Khi xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thẩm phán phải đề nghị người
yêu cầu xác nhận rằng họ chưa yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời được quy định tại điều 49 Luật Trọng tài thương mại. Đồng thời, tòa
án phải kiểm tra, xem xét những tài liệu gửi kèm đơn để xác định xem liệu họ đã
có yêu cầu tòa án hay hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn
cấp tạm thời hay chưa. Trong trường hợp biện pháp mà các bên yêu cầu không
thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài thì không cần thiết phải xác minh như
44
trên. Lưu ý, khi xem xét yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Thẩm phán
phải tránh việc xem xét trước nội dung vụ tranh chấp.
Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biên pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự
bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài. Tòa án chỉ xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chứ không giải
quyết nội dung tranh chấp. Việc xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời phải căn cứ vào Điều 7 Luật Trọng tài thương mại. Trừ khi các bên thỏa
thuận khác, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp
dụng sẽ có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Địa điểm này có thể
khác với địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
7.4. Tòa án công nhận và cho thi hành bản án của trọng tài nước ngoài
Công nhận phán quyết của trọng tài là thủ tục biến các phán quyết của trọng
tài thành một bộ phận của pháp luật quốc gia, theo đó phán quyết được Hội đồng
trọng tài ban hành có hiệu lực thi hành như bản án do tòa án quốc gia ban hành.
Một phán quyết của trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam sẽ có hiệu lực pháp lý như bất kỳ bản án, quyết định dân sự nào của Tòa an
Việt Nam có hiệu lực thi hành (Điều 472 Bộ Luật tố tụng dân sự). Việc công nhận
phán quyết của trọng tài nước ngoài là một việc làm tất yếu để thi hành nó. Việc
thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện trên
cơ sở quyết định của Tòa án có thẩm quyền về công nhận và cho thi hành (Điều
427 Bộ luật tố tụng dân sự ). Thủ tục xem xét việc công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, phù
hợp với công ước NewYork mà Việt Nam tham gia. Khi tòa án được yêu cầu công
nhận phán quyết trọng tài, Tòa án không chỉ được yêu cầu công nhận hiệu lực
pháp lý và tác động của phán quyết, mà còn phải đảm bảo phán quyết đó được thi
hành thông qua việc sử dụng các chế tài pháp lý sẵn có. Bộ Luật tố tụng dân sự
45
quy định rằng phán quyết được công nhận sẽ thi hành theo thủ tục thi hành án dân
sự ( Điều 427 Bộ Luật tố tụng dân sự )
Chương 3 Thực tiễn áp dụng luật trọng tài thương mại và kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động trọng tài thương mại tại Việt Nam
1. Thực tiến áp dụng luật trọng tài thương mại tại Việt Nam và kinh
nghiệm của một số quốc gia trên thế giới
1.1. Thực tiễn áp dụng luật trọng tài thương mại tại Việt Nam
1.1.1. Trọng tài viên
Có một nhận định được các học giả uy tín thế giới ủng hộ đó là “chất lượng
của trọng tài viên tương đương với chất lượng của tố tụng trọng tài” và về điểm
này, các Trọng tài viên hiện nay tại Việt Nam đa phần đều là những tên tuổi có
uy tín, là những chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên,
để có một quá trình tố tụng trọng tài thật sự hiệu quả, nhanh chóng, các trọng tài
viên còn cần kinh nghiệm điều hành quá trình tố tụng cũng như nắm vững trình
tự tố tụng trọng tài. Việc tố tụng trọng tài phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc bảo
mật khiến cho các trọng tài viên không thể tìm hiểu kinh nghiệm qua các vụ kiện
trọng tài khác mà mình không được tham gia, trong khi hiện nay không có nhiều
những diễn đàn trong nước cũng như quốc tế để các Trọng tài viên trao đổi những
đúc kết thực tiễn của mình với nhau và tìm tòi thêm về cách xử lý của trọng tài
viên, chuyên gia quốc tế.
46
Đội ngũ luật sư chuyên về trọng tài cũng ngày càng được cải thiện cả về
lượng và chất. Mặc dù vậy so với nhu cầu ngày một cao của doanh nghiệp và tính
đến sự phát triển trong tương lai của hoạt động trọng tài, Việt Nam cần nhiều hơn
nữa những luật sư có thể đại diện cho doanh nghiệp trong nước tham gia tranh
tụng tại các trung tâm trọng tài quốc tế. Chưa nhắc tới rào cản ngôn ngữ, tác giả
nhận thấy hiện nay đội ngũ luật sư về trọng tài đôi khi vẫn bị ảnh hưởng bởi thói
quen khi tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án, từ đó không khai thác hết những ưu
điểm vốn có của tố tụng trọng tài.
1.1.2. Vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với trọng tài
Một trong những nội dung cơ bản của Luật trọng tài thương mại so với pháp
lệnh trọng tài năm 2003 là ngoài việc trao cho Hội đồng trọng tài quyền thu thập
chứng cứ, triệu tập người làm chứng, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật
trọng tài và sau đó là Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao còn phân định rõ vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án Việt Nam đối
với hoạt động trọng tài.
Tuy nhiên, trên thực tế, do một số thẩm phán còn thiếu kinh nghiệm trong
việc giải quyết các vụ việc trọng tài này mà còn không ít bất cập đã xảy ra như áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng,
áp dụng biện pháp khẩn cấp đối với bên thứ ba không bị ràng buộc bởi thỏa thuận
trọng tài, hay thụ lý giải quyết vụ tranh chấp kể cả khi đã có thỏa thuận trọng tài
giữa các bên. Điều này đã gây ra nhiều lo ngại đối với các bên tranh chấp, đặc biệt
là các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia tố tụng trọng tài tại Việt Nam.
1.1.3. Phạm vi điều chỉnh của Luật TTTM
Về phạm vi điều chỉnh của Luật TTTM chưa được quy định một cách rõ
ràng. Mà theo đó, tại Điều 1 Luật TTTM quy định: “Luật này quy định về thẩm
47
quyền của Trọng tài thương mại, các hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, Trọng
tài viên; trình tự, thủ tục trọng tài; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên
trong tố tụng trọng tài; thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức
và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán quyết trọng
tài”. Từ nội dung quy định này thực tế dẫn tới có hai quan điểm nhận thức khác
nhau về phạm vi điều chỉnh của Luật gây khó khăn cho việc xác định thẩm quyền
của Trọng tài. Quan điểm thứ nhất, Luật TTTM chỉ áp dụng đối với các quyết
định của Trọng tài trong nước. Quan điểm thứ hai, Luật này cũng có thể được áp
dụng cả đối với các quyết định của Trọng tài nước ngoài trong quá trình giải quyết
tranh chấp nếu quyết định được tuyên tại Việt Nam hoặc địa điểm giải quyết vụ
tranh chấp tại Việt Nam, ngoại trừ việc công nhận, cho thi hành phán quyết cuối
cùng của Trọng tài giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp. Quan điểm thứ hai được
nhiều người công nhận vì theo quy định tại khoản 2 Điều 342 BLTTDS năm 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011) có quy định: “Quyết định của Trọng tài nước ngoài
là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam
của Trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp
phát sinh từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao động.” Tuy nhiên,
có thể thấy quy định này chưa thật sự phù hợp với Công ước New York năm 1958
và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế. Theo thông lệ quốc tế, tiêu chí cơ bản
để xác định một quyết định của trọng tài nước ngoài hay không là nơi ra quyết
định trọng tài. Khoản 1 Điều I Công ước New York quy định: “Công ước này sẽ
áp dụng đối với việc công nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài được
tuyên ở một quốc gia không phải là quốc gia nơi quyết định trọng tài được xin
công nhận và cho thi hành”. Thông lệ này bắt nguồn từ một nguyên tắc được thừa
nhận rộng rãi trong pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế, đó là, luật
điều chỉnh tố tụng trọng tài (bao gồm cả các quy định pháp luật liên quan đến hình
48
thức và hiệu lực của phán quyết trọng tài) là luật pháp của quốc gia sở tại (lex
arbitri), bất kể quốc tịch của Trọng tài viên và Hội đồng trọng tài, trừ phi luật pháp
của quốc gia đó cho phép việc áp dụng pháp luật của quốc gia khác
1.2. Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài
thương mại tại Việt Nam
1.2.1. Tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của các trọng tài viên
nước ngoài và luật sư nước ngoài trong tố tụng trọngtài
Như đã trình bày ở trên, hiện nay có 17 trọng tài viên nước ngoài đã được
đăng ký trong danh sách trọng tài viên tại Bộ Tư Pháp không kể các TTV nước
ngoài không có tên trong danh sách TTV của VIAC đã trực tiếp tham gia giải
quyết tranh chấp tại VIAC theo sự lựa chọn của các bên tranh chấp. Cũng theo
thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, số lượng các vụ tranh chấp
có yêu tố nước ngoài chiếm khoảng 51% tổng số vụ việc được giải quyết tại
trung tâm này. Hơn nữa, trong nhiều vụ việc, luật áp dụng để giải quyết tranh
chấp là pháp luật nước ngoài. Vì vậy, sự tham gia của các trọng tài viên nước
ngoài và luật sư nước ngoài vào tố tụng trọng tài là điều thiết yếu.
Do đó, Bộ Tư pháp nên có các chính sách nhằm tạo điều kiện và khuyến
khích sự tham gia của các trọng tài viên nước ngoài và luật sư nước ngoài trong
tố tụng trọng tài như: ban hành văn bản chính thức cho phép luật sư nước ngoài
được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự tại trọng tài. Các trung tâm trọng tài cũng cần tích cực hơn nữa tuyên truyền
và quảng bá hình ảnh trung tâm của mình, tích cực tham gia các diễn đàn
chuyên môn quốc tế, chủ động liên lạc với các trọng tài viên nước ngoài có
danh tiếng để mời họ tham gia danh sách trọng tài viên của trung tâm. Đây là 49
điều cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của trọng tài trong nước, tạo môi trường
cạnh tranh và giúp cho các trọng tài viên và luật sư học hỏi kinh nghiệm của
các đồng nghiệp nướcngoài.
1.2.2. Cần có tòa chuyên trách với đội ngũ thẩm phán chuyên sâu về lĩnh
vực trọng tài
Trên thực tế, các yêu cầu về trọng tài thường được giải quyết tại tòa án
của một số tỉnh thành lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh..v...v
Trong khi đó, nhiều tòa án địa phương khác lại rất ít khi giải quyết các vụ việc
liên quan đến trọng tài thương mại và do đó, còn gặp nhiều khó khăn, bối rối
trong việc áp dụng pháp luật trọng tài. Vì vậy, việc phân công cho Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam như thể hiện tại Điều 414
của Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự 19 ngày 19 tháng 8 năm 2015 là hết sức
đúng đắn để tránh tình trạng hiểu và áp dụng sai pháp luật, đồng thời tăng
cường hiệu quả quản lý đối với việc giải quyết các yêu cầu liên quan đến trọng
tài thươngmại.
Ngoài ra, phù hợp với Điều 2.720 của Nghị định 63/2011/NĐ-CP, Bộ tư
pháp và Tòa án nhân dân tối cao có thể tổ chức và hướng dẫn việc bồi dưỡng,
đào tạo một đội ngũ thẩm phán có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực trọng tài
như dự án do Ngân hàng thế giới tài trợ hiện nay. Từ đó, đảm bảo chất lượng
xét xử, tạo tiền đề cho việc sử dụng án lệ như một nguồn của pháp luật theo
như quy định trong Dự thảo ngày 19 tháng 8 năm 2015 của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
50
1.2.3. Tăng cường năng lực của đội ngũ Trọng tài viên, đẩy mạnh đào
tạo luật trọngtài
Việc hội đồng trọng tài có thể điều hành quá trình tố tụng và ra một phán
quyết khiến các bên tranh chấp “tâm phục” sẽ nhanh chóng nâng cao hình ảnh,
sức hấp dẫn của trọng tài – để các bên sau khi tham gia tố tụng sẽ không đắn
đo cân nhắc khi đưa điều khoản trọng tài vào những hợp đồng khác đang được
đàm phán. Cần cần sớm triển khai thực hiện Điều 22 của Luật trọng tài thương
mại về việc thành lập một Hiệp hội trọng tài quốc gia là tổ chức tập hợp trọng
tài viên của tất cả các trung tâm trọng tài ở Việt Nam. Hiệp hội trọng tài sẽ
đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng nên quy tắc đạo đức nghề nghiệp
(quy tắc hành xử - code of conduct) của Trọng tài viên, quy tắc xung đột lợi
ích để đảm bảo tính độc lập và khách quan của Trọng tài viên, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ tố tụng trọng tài cũng như là chia sẻ kinh nghiệm thực
tiễn tố tụng trọng tài trong nước và quốc tế. Hiệp hội trọng tài có thể là đầu mối
kết hợp với các tổ chức đào tạo (Học viện tư pháp, các trường đào tạo luật, vv.)
và các trung tâm trọng tài để nâng cao trình độ của đội ngũ trọng tài viên đáp
ứng các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốctế.
Việc đẩy mạnh đào tạo luật trọng tài sẽ hướng đến những mục tiêu lâu dài
hơn, nhằm tạo ra một thế hệ học giả có thể viết ra những nghiên cứu chuyên
sâu về trọng tài thương mại phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam hay một thế hệ
luật sư có thể trợ giúp doanh nghiệp khi tham gia tố tụng trọng tài quốc tế -
việc không nhận được những tư vấn chính xác cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
tâm lý của doanh nghiệp khi quyết định có nên tham gia tố tụng trọng tài hay
không, và nên chuẩn bị như thế nào khi có tranh chấp xuyên quốc gia. Do đó,
51
Bộ tư pháp nên cân nhắc bổ sung môn học Luật trọng tài như là một môn học
độc lập trong chương trình đào tạo bậc đại học Luật - ít nhất là đối với các
khoa/tổ bộ môn về luật kinh tế/thương mại hay luật quốc tế. Đây cũng là đề
xuất của Hội luật gia Việt Nam khi xây dựng dự thảo chỉ thị của Thủ tướng
chính phủ về việc thực hiện Luật trọng tài thương mại nhưng vẫn chưa được
chấpnhận.
Ngoài ra, hiện nay có khá nhiều khóa học đào tạo ngắn hạn kĩ năng và
kiến thức cần thiết cho các trọng tài viên, luật sư và chuyên gia về trọng tài của
các tổ chức trọng tài quốc tế hàng đầu như các khóa học của Viện trọng tài
London (CIarb), Học viện trọng tài Paris (Arbitration Academy), Phòng
thương mại quốc tế (ICC), Hội đồng quốc tế về trọng tài thương mại (Young
ICCA). Các trung tâm trọng tài, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
hay Liên đoàn luật sư hoàn toàn có thể chủ động liên lạc với các trung tâm này
để tổ chức.
1.2.4. Cho phép công bố một phần phán quyết trọng tài nếu các bên
tranh chấp không phảnđối
Hiện nay, một số trung tâm trọng tài quốc tế danh tiếng trong khu vực như
Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông (HKIAC) và Trung tâm trọng tài quốc
tế Singapore (SIAC)25 đều cho phép công khai một phần, trích dẫn hoặc tóm
tắt của phán quyết trọng tài đã lược bỏ tên của các bên tranh chấp nếu không
có bên nào phản đối. Điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng xét xử tại các trung
tâm trọng tài, tạo điều kiện để các trọng tài viên học hỏi lẫn nhau và phục vụ
cho mục đích nghiên cứu các vấn đề pháp lý có liên quan. Hơn nữa, việc lược
bỏ thông tin cá nhân của các bên tranh chấp và vẫn tôn trọng quyền quyết định
của các bên về việc có công bố phán quyết trọng tài hay không sẽ vẫn đảm bảo
52
được nguyên tắc về tính bảo mật của trọng tài quy định tại Điều 4.4 của Luật
trọng tài thương mại26. Do đó, các trung tâm trọng tài có thể cân nhắc để cho
phép việc công bố một phần hoặc đầy đủ phán quyết trọng tài hoặc tóm tắt
phán quyết với một số điều kiện nhất định như đã nêu trên. Điều này cũng phù
hợp với xu hướng hiện nay là sử dụng án lệ như một nguồn của pháp luật được
quy định tài Điều 21 của Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự ngày 19 tháng 8 năm
2015.
1.2.5. Xây dựng các chương trình hợp tác quốc tế
Ngoài việc tổ chức các hội thảo trong nước có sự tham gia của các chuyên
gia quốc tế, chúng tôi cho rằng đã đến lúc khuyến khích các cơ quan, trung tâm
trọng tài, trọng tài viên tham gia vào những diễn đàn quốc tế, ví dụ như:
- Bộ tư pháp nên sớm có đề xuất với Chính phủ để cử đại diện tham gia
Nhóm làm việc số II về Trọng tài và Hòa giải của Ủy ban Luật thương
mại quốc tế của Liên Hiệp Quốc (UNCITRAL) để tiếp cận với sự phát
triển mới nhất của Luật trọng tài và hòa giải quốctế.
- Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam – VCCI (cùng Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt nam – VIAC) cử đại diện tham gia Ủy ban quốc
gia của Phòng thương mại quốc tế (ICC) để có quyền đề cử Trọng tài
viên trong các vụ việc thuộc thẩm quyền tài phán của Tòa trọng tàiICC.
- Khuyến khích các Trọng tài viên Việt Nam tham gia các tổ chức xã hội
nghề nghiệp của Trọng tài viên quốc tế như Viện trọng tài Luân đôn
(CIArb) của Anh, Viện trọng tài Singapore, Hội đồng Trọng tài thương
mại quốc tế (ICCA), vv để Trọng tài viên có điều kiện tự tăng cường
năng lực chuyênmôn.
53
1.2.6. Tăng cường năng lực tổ chức và hoạt động của các tổ chức
trọngtài
Ngoài việc khắc phục hạn chế cố hữu của các trung tâm trọng tài Việt
Nam về cơ sở vật chất và trình độ của đội ngũ trọng tài viên thì các trung tâm
trọng tài nên đổi mới bộ máy tổ chức theo hướng tăng cường năng lực quản
trị, thu hút sự tham gia của các chuyên gia trọng tài hàng đầu của Việt Nam
và quốc tế vào việc thực hiện: (i) các chức năng tố tụng trọng tài theo luật định
(chỉ định Trọng tài viên, thành lập hội đồng trọng tài, vv.) cũng như (ii) chức
năng tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, phát triển thị trường, vv. của một tổ
chức cung cấp dịch vụ tài phántư.
Các trung tâm trọng tài Việt Nam cũng cần chủ động hơn nữa trong việc
quảng bá hình ảnh của mình đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như thị
trường quốc tế thông qua việc tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm, tuần lễ trọng
tài, công bố các số liệu về giải quyết tranh chấp tại trung tâm, minh bạch về
chức năng và nhiệm vụ của các phòng. Ban, bộ phận chuyên trách của trung
tâm.
1.2.7. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa Bộ tư pháp
với Tòa án và cơ quan thi hành án dânsự
Để thống nhất nhận thức chung về trọng tài cũng như là thực hiện giải
pháp nâng cao sức hấp dẫn của trọng tài cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan chức năng và Tòa án. Vì vậy, việc tổ chức các hội thảo liên ngành giữa
Bộ tư pháp, Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự, các trung tâm trọng tài về thực
tiễn thi hành LTTTM là hết sức cần thiết. Một số nội dung trước mắt cần tập
trung phối hợp, thống nhất có thể là:
54
(i)Tôntrọngtínhđộclậpcủatổchứctrọngtài,
(ii) tập huấn, phổ biến và nâng cao kiến thức cho thẩm phán về LTTTM và Nghị
quyết 01/2014 và
(iii) đưa ra những chính sách rõ ràng khuyến khích sự phát triển của Trọng tài,
nhằm tạo một môi trường pháp lý thân thiện với trọng tài.
1.2.8. Đảm bảo việc tuân thủ Công ước New York 1958 về công nhận và
chothi hành quyết định trọng tài nướcngoài
Khi một phán quyết trọng tài bị từ chối công nhận và cho thi hành, doanh
nghiệp nước ngoài không mất niềm tin vào trọng tài - họ mất niềm tin vào môi
trường đầu tư tại Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà việc đảm bảo tuân thủ
Công ước New York 1958 được đặt ra nhiều lần như là một giải pháp cải thiện
môi trường đầu tư tại Hội thảo mới đây của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam.
Thậm chí, việc không công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài theo cam
kết tại Công ước New York có thể dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc như bị
khởi kiện ra Tòa án Nhân quyền quốc tế, phổ biến hơn là ra những Hội đồng
trọng tài đầu tư quốc tế với trị giá bồi thường khổng lồ 29. Hơn nữa, phán quyết
của một nước bị từ chối công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bởi lý do
không hợp lý cũng có thể dẫn đến việc phán quyết của trọng tài Việt Nam bị
từ chối công nhận và cho thi hành tại quốc gia đó trên cơ sở có đi có lại. Vì
vậy, song song với việc đảm bảo khả năng thi hành của phán quyết trọng tài
trong nước theo quy định của Luật trọng tài thương mại, việc hoàn thiện hơn
nữa pháp luật theo đúng quy định của Công ước New York 1958 và khuyến
khích, đảm bảo khả năng thi hành của phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt
Nam và xây dựng một môi trường pháp lý thân thiện với trọng tài cũng cần hết
sức chú trọng.
55
1.2.9. Hoàn thiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Các văn bản hướng thi hành Luật TTTM hiện hành nên giải thích theo hướng
mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài, tôn trọng tự do ý chí thỏa thuận
giữa các bên tranh chấp. Cụ thể, nên quy định thẩm quyền của trọng tài theo
phương pháp loại trừ, mở rộng thẩm quyền của trọng tài ra cả một số tranh chấp
liên quan đến quyền nhân thân, quan hệ hôn nhân và gia đình, thừa kế theo quy
định của luật dân sự , điều này là hoàn toàn phù hợp trong điều kiện nước ta
ngày càng hội nhập với thế giới thì không có lý do vì pháp luật của nước ta lại
không phù hợp với luật chung của thế giới. Ví dụ, như Luật Trọng tài của
Singapo, trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự trừ lĩnh
vực hình sự và tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình.
1.2.10. Hoàn thiện quy định của pháp luật trọng tài về thỏa thuận
trọng tài vô hiệu.
Luật TTTM cần được xem xét bổ sung quy định về thủ tục yêu cầu Tòa án
xem xét quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề vô hiệu của thỏa thuận trọng
tài. Cụ thể, trong thời gian Tòa án xem xét để ra quyết định thỏa thuận trọng tài
có vô hiệu không, Hội đồng trọng tài nên tạm dừng tố tụng, vì trong thời gian
này dù có tiến hành tố tụng thì các bên cũng khó đạt được kết quả như mong đợi
vì một trong các bên đã không thiết tha với giải quyết tranh chấp bằng phương
thức trọng tài, điều này được chứng minh họ đã yêu cầu Tòa án xem xét tuyên
thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Hơn nữa, dù có đạt được kết quả giải quyết tranh
chấp trong thời gian này đi chăng nữa, mà sau đó, Tòa án tuyên thỏa thuận trọng
tài đó là vô hiệu thì đương nhiên phán quyết của trọng tài sẽ không có giá trị thi
hành trên thực tế và kể từ đó các bên tranh chấp chuẩn bị tâm thế đưa vụ việc 56
tranh chấp ra Tòa án để giải quyết.
1.2.11. Hoàn thiện một số quy định về Trọng tài viên
Thứ nhất, nâng cao chất lượng song hành với phát triển số lương Trọng tài
viên theo hướng giỏi về trình độ chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp, giàu kinh
nghiệm thực tiễn, các thương nhân có thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực
thương mại, muốn trở thành Trọng tài viên buộc phải tham gia khóa bồi dưỡng
nghiệp vụ trọng tài với thời gian từ 4 đến 6 tháng.
Thứ hai, các tiêu chuẩn chuyên môn về Trọng tài viên nên được loại bỏ ra
khỏi Luật TTTM, thay vào đó để nâng cao chất lượng chuyên môn của Trọng tài
viên, Nhà nước có thể quy định thực hiện bằng các biện pháp khác.
1.2.12. Hoàn thiện quy định về tọng tài vụ việc
Thứ nhất, Luật TTTM cần quy định rõ thời gian thành lập Hội đồng trọng
tài vụ việc trong trường hợp có khiếu định quyết định chỉ định Trọng tài viên
cho bị đơn, việc quy định trong thời hạn bao lâu hai Trọng tài viên phải bầu Chủ
tịch Hội đồng trọng tài sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án có
ý nghĩa hết sức quan trọng về tính hợp pháp liên tục của tố tụng trọng tài, vì nếu
hai Trọng tài viên tự mình không thể bầu được Chủ tịch Hội đồng trọng tài thì
các bên phải đề nghị Tòa án có thẩm chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài theo
quy định tại khoản 3 Điều 41 Luật TTTM. Cụ thể kiến nghị bổ sung như sau:
“Trường hợp có khiếu nại về quyết định chỉ định Trọng tài viên cho các bên, thì
trong 15 ngày kể từ ngày Tòa án có thẩm quyền ban hành văn bản giải quyết
khiếu nại, hai Trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài để giải quyết
vụ tranh chấp.”
57
Thứ hai, Luật TTTM cần trao cho Hội đồng trọng tài vụ việc các thẩm quyền
liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng trọng tài, cụ thể, bổ sung: “Hội đồng trọng
tài vụ việc được quyền quyết định trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp nếu
các bên không tự thỏa thuận được.” còn nếu sự thay đổi thủ tục tố tụng giữa các
bên về địa điểm, ngôn ngữ giải quyết tranh chấp đều hợp pháp, thì đề nghị bổ
sung quy định sau: “Mọi sự thay đổi về thủ tục, trình tự tố tụng trọng tài trước
và sau khi xảy ra tranh chấp đều được lập thành văn bản và do Hội đồng trọng
tài quyết định sự thay đổi.”
Thứ ba, cần có hướng dẫn cụ thể việc áp dụng quy định: “Chủ tịch Hội đồng
trọng tài phải thực hiện việc đóng gói và lưu trữ hồ sơ vụ kiện trong thời gian 05
năm và có trách nhiệm cung cấp cho TAND có thẩm quyền khi có yêu cầu.”
58
KẾT LUẬN
Trong thời đại kinh tế ngày càng phát triển, sự giao thương nhân ngày càng
tăng đi cùng đó là gia tăng về tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp không chỉ
dừng lại ở kết quả mà còn phải đảm bảo về thời gian, chi phí cho các thương nhân.
Với những ưu việt đã được phân tích ở trên, phương pháp trọng tài đã đáp ứng
được những yêu cầu ngày càng cao của thương nhân.
Từ việc nghiên cứu phương pháp trọng tài, đề tài đã chỉ được ra những ưu,
nhược điểm của bản thân phương pháp và đồng thời chỉ ra những hạn chế của
pháp luật hiện hành. Trọng tài thương mại giúp cho các bên rút ngắn được thời
gian, thủ tục, tiết kiệm chi phí và tự mình kiểm soát được sự minh bạch của kết
quả. Nhưng cũng có nhược điểm trong việc bảo đảm phán quyết được thi hành,
quy định về trọng tài viên... Mặc khác, ở Việt Nam, việc thương nhân tin dùng
phương pháp vẫn chưa nhiều và pháp luật điều chỉnh nó cũng chưa được hoàn
chỉnh. Vì vậy, cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho phương pháp trọng tài để
hiệu quả áp dụng ngày càng ưu việt, từ đó đem lại sự thuận lợi cho các thương
nhân khi tham gia các giao dịch thương mại trong nước và ngoài nước.
59
Danhmụctàiliệuthamkhảo:
1. LuậtThươngmạiViệt Nam
2. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam 2010
3. Sách chuyên khảo Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại, tác giả: TS
Đỗ Văn Đại và TS Trần Hoàng Hải.
4. Sổtayphápluậtvềtrọngtàivàhòagiải
5. Những nguyên tắc của trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam, luận
văn ThS Tạ Thị Minh Loan, 2007
6. Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại, luận văn ThS Tống
Thị Lan Hương, 2011
7. Về pháp luật trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay, luận văn ThS Nguyễn
Thị Thu Thủy, 2003