ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT
KHOA LUẬT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
SVTH: VŨ MINH HIẾU
MSSV: K165031950
TP. HCM, NĂM 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT
KHOA LUẬT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
SVTH: VŨ MINH HIẾU
MSSV: K165031950
TP.HCM, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “ thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn
thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế “ là công trình nghiên cứu của bản thân. Những
phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận án đã được nêu rõ trong phần tài liệu tham
khảo. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm, mọi kỉ luật của khoa và nhà trường đề ra.
TP.Hồ Chí Minh , ngày... tháng... năm...
Vũ Minh Hiếu
LỜI CẢM ƠN
“Lời đầu tiên, em xin trân trọng cảm ơn thầy đã hướng dẫn em là TS. Nguyễn Đình
Huy, thầy đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận
văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy,cô khoa Luật của trường Đại học Kinh Tế -Luật đã
tận tình giảng dạy cho em tận tình trong thời gian em theo học tại trường.
Do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều thiếu sót và hạn
chế, kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp ý kiến của quý thầy, cô để bài luận văn của
em hoàn thiện thêm.
Em xin chân thành cảm ơn!”
DANH MỰC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký
Cụm từ đầy đủ
TT
hiệu
BLDS 2015
Bộ luật Dân sự năm 2015
BLTTDS 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Luật HN&GĐ 2014
Luật Hôn nhân&gia đình 2014
PLTK
Pháp lệnh thừa kế
SL
Sắc lệnh
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TANDCC
Tòa án nhân dân cấp cao
UBND
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu ........................................................................................... 2
3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................................. 4
4.Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 4
5.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ................................................... 4
6.Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn ....................................................... 5
7.Kết cấu của luận văn ............................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ....................... 6
1.1 Khái niệm chung ............................................................................................... 6
1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế .............................................................................. 6
Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. ....... 6
1.1.2 Di sản thừa kế ................................................................................................. 7
1.1.3. Người để lại di sản thừa kế ........................................................................... 8
1.1.4. Người thừa kế ................................................................................................ 8
1.2 Diện và hàng thừa kế ......................................................................................... 9
1.2.1 Khái quát chung về diện và hàng thừa kế ...................................................... 9
1.2.2 Cơ sở xác định diện và hàng thừa kế ........................................................... 12
1.3 Diện thừa kế theo pháp luật Việt Nam ............................................................ 13
1.3.1 Diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân ............................................................ 14
1.3.2 Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống ........................................................ 18
1.3.3 Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng ........................................................ 25
1.4 Hàng thừa kế theo pháp luật ............................................................................ 30
1.4.1 Hàng thừa kế thứ nhất .................................................................................. 33
1.4.2 Hàng thừa kế thứ 2 ....................................................................................... 36
1.4.3 Hàng thừa kế thứ 3 ....................................................................................... 37
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 40
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ ...................................................... 41
2.1.Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế ................................................................................................................... 41
2.1.1:Thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế những năm gần đây ............... 41
2.1.2 Nguyên nhân của thực trạng những vướng mắc khi xử lý vụ án về diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam .................................................................. 45
2.1.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật- Một số điểm hạn chế ........................ 48
2.1.4 Kiến nghị hoàn thiện .................................................................................... 51
2.2 So sánh diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt nam với quy định của một số nước trên thế giới ........................................................................ 53
2.2.1 Diện và hàng thừa kế của Nhật Bản ............................................................. 53
2.2.2 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật cộng hòa Pháp ................................... 55
2.2.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Nga .................................................... 56
2.2.4 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Iran .................................................... 58
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quyền thừa kế ra đời là một trong những phương thức pháp lý để bảo toàn và gia tăng
tích lũy của cải trong xã hội. Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài
sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Điều này không chỉ có tác
dụng kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo động lực đẩy mạnh
niềm say mê, kích thích sự quản lý năng động của mỗi con người tạo ra khối tài sản của
mình. Khi một người chết đi, tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và được phân chia cho
các thế hệ con cháu, sự dịch chuyển di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về
quyền sở hữu. Pháp luật công nhận quyền thừa kế đã đáp ứng phần nào mong ước của con
người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế trên thế giới nói chung và pháp luật
thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã không ngừng phát triển và hoàn thiện chế định này.
Tại Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên ngay
những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm đến ban hành
pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần đầu tiên được quy định
trong chương "Điền sản" của Bộ Luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá
trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước ta, các quy định này đã được ghi nhận,
mở rộng, phát triển và được thực hiện trên thực tế tại các Điều 19 Hiến Pháp 1959 "Nhà
nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến
Pháp 1980 "Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến Pháp1992,
Hiến Pháp 2013... và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, Bộ Luật Dân Sự 2005
và sau đó là BLDS 2015.Bộ luật đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Việt Nam
nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng.
Bộ Luật Dân Sự 2015 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá những quy
định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực
tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế một cách có hiệu quả
nhất.
Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên phức
tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự áp dụng pháp luật không
2
thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn,
thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có
từ lâu đời của dân tộc Việt Nam ta. Đặc biệt hơn, một trong những khó khăn vướng mắc lớn
nhất khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp về thừa kế chính là vấn
đề xác định làm sao cho đúng về diện và hàng thừa kế. Trong vấn đề thừa kế theo pháp luật,
nó là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của
những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá chặt chẽ
nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc phục, bởi vậy em đã chọn đề tài “Thực tiễn áp
dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về diện
và hàng thừa kế” để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo pháp luật là một đòi hỏi tất yếu,
khách quan cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế.
2.Tình hình nghiên cứu Hiện nay, các đề tài nghiên cứu về thừa kế tương đối nhiều và ở các cấp độ khác nhau
như khóa luận cử nhân, luận văn cao học và các luận án tiến sĩ. Ngoài ra, còn một số bài viết
trong các tạp chí luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, tạp chí dân chủ và pháp luật của
Bộ Tư pháp, tạp chí Tòa án nhân dân…
+ Các luận án tiến sĩ:
- Phùng Trung Tập: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945
đến nay”. Luận án nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thừa kế theo pháp luật
Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Nội dung chủ yếu của luận án làm rõ các điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật về diện và hàng thừa
kế trong pháp luật dân sự Việt Nam.
- Phạm Văn Tuyết: “Thừa kế theo di chúc bộ luật dân sự Việt Nam”. Đề tài nghiên
cứu những vấn đề như: khái niệm về di chúc, quyền của người lập di chúc, các điều kiện có
hiệu lực của di chúc.
+Luận văn cao học:
- Nguyễn Thị Vĩnh: “Thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam”. Nội dung chủ
yếu gồm các vấn đề sau: khái niệm thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế, thừa kế thế
vị, các trường hợp thừa kế theo pháp luật.
3
- Nguyễn Thị Hồng Bắc: “Một số vấn đề thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt
Nam”. Đề tài nghiên cứu có tính sơ lược về lịch sử của thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam,
một số nguyên tắc chủ yếu của thừa kế, các trường hợp thừa kế theo pháp luật, căn cứ phân
chia hàng thừa kế.
+ Các công trình nghiên cứu khác:
- Viện khoa học pháp lý: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”. Các
tập bình luận phân tích nội dung cơ bản của qui định trong BLDS 1995 nói cung và các quy
định về thừa kế nói riêng.
- Việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật:” Những vấn đề cơ bản về BLDS Việt
Nam”. Đây là số tạp chí chuyên đề về BLDS (số 5/1995). Trong đó có chuyên đề về chế
định thừa kế trong BLDS. Chuyên đề này nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của điều chỉnh
pháp luật về thừa kế, căn cứ khoa học để phân chia các hàng thừa kế.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, số tạp chí chuyên đề về BLDS (1996). Trong đó có bài
viết về những điểm mới của di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS so với pháp lệnh
thừa kế 1990
- Tòa án nhân dân tối cao: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân”. Đây là công trình nghiên
cứu về thừa kế, nội dung chủ yếu của đề tài là các vấn đề thực tiễn xét xử của tòa án trong
việc giải quyết tranh chấp về thừa kế.
- Nguyễn Ngọc Điện: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong BLDS”. Tác giả so sánh pháp
luật về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển và so với chế định thừa kế trong bộ
luật dân sự Pháp.
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều nhà khoa
học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa
học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam". Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác
phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế".
Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát
cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ
thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài " Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự
Việt Nam ", tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và
hàng thừa kế được quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra
4
một số kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định về nội
dung này trong luật.
Đây thực sự là những công trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này hoặc đề cập đến những vấn đề mang tính khái
quát chung về chế định thừa kế qua các thời kỳ hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một quan hệ
thừa kế nhất định chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vấn đề thừa kế theo
pháp luật hiện hành. Thừa kế theo pháp luật nói chung hay diện và hàng thừa kế theo pháp
luật nói riêng không phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi từng ngày từng giờ của các quan
hệ xã hội, quan hệ tài sản đòi hỏi phải có những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Do
đó, việc nghiên cứu kịp thời để có hướng đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề
này cho phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết.
3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định của pháp
luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ tham khảo toàn bộ
các quy định pháp luật của nước ta về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn trong lịch
sử theo sự phát triển của đất nước, trong các sách chuyên khảo, đặc biệt là các quy định
trong Bộ Luật Dân Sự 2015, so sánh với các quy định của một số nước trên thế giới về diện
và hàng thừa kế qua đó có cái nhìn về diện và hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành một
cách tổng quát hơn, cụ thể hơn.
4.Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.
5.Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của diện và hàng thừa
kế theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước.
Trên cơ sở đó, xác định đúng, chính xác những người thuộc diện thừa kế và thứ tự hưởng
ưu tiên theo quy định của BLDS năm 2015.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn tại khi áp dụng
quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị mang
5
tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn các quy định
về thừa kế
6.Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thừa kế.
Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung này một cách toàn diện, bao quát,
nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế.
Đề tài luận văn này không phải là đề tài nghiên cứu mới. Đã có những tác giả chọn để
làm công trình nghiên cứu riêng của mình ở nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên khi chọn đề
tài nghiên cứu này tôi đã nghiên cứu một cách chi tiết về từng diện và từng hàng thừa kế gắn
với từng quy định của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, tôi đã so
sánh với các quy định của một số nước về diện và hàng thừa kế qua đó làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật hiện hành và tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế để đề
xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 2 chương:
Chương 1: lý luận chung về diện và hàng thừa kế
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện pháp luật về diện
và hàng thừa kế
6
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
1.1 Khái niệm chung
1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế
Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự
bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết hợp
hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một
trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết phải làm sáng tỏ
nội dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì "Thừa kế
là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống" hay theo Từ điển Luật học
của Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp thì thừa kế được giải thích là "Sự dịch chuyển tài
sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế luôn gắn với sở hữu.
Khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã tồn tại
như một tất yếu khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào quan hệ sở hữu. Nếu sở hữu
là yếu tố quyết định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy trì và củng cố quan hệ sở hữu.
Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã chỉ ra rằng quan hệ thừa
kế xuất hiện như một tất yếu khách quan cùng với quan hệ sở hữu. Khi thừa kế tài sản chưa có
sự can thiệp của Nhà nước thì thừa kế đơn thuần chỉ là quan hệ xã hội mang tính kinh tế. Khi
Nhà nước ra đời, thông qua các quy phạm pháp luật, Nhà nước đã điều chỉnh, tác động đến
quá trình dịch chuyển tài sản nói trên bao gồm cả quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng
di sản của các chủ thể được gọi chung là quyền thừa kế. Như vậy, khác với thừa kế xuất hiện ngay
từ thời kỳ sơ khai, khi xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, khái niệm quyền thừa kế chỉ xuất
hiện khi có sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế có thể
được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá
trình dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn sống. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế có
thể được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc
có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó khi còn sống (bằng
di chúc) hoặc theo điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định (thừa kế theo pháp luật).
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, tôn
trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển thành kết quả đó cho những người
thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện
7
để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các
chủ thể trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc đã
thành niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu cho
mọi cá nhân trong xã hội.
Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người còn
sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá nhân gắn bó chặt chẽ với
quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược
lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự
của tất cả các nước trên thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương
thức bảo đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
Thừa kế theo pháp luật về bản chất vừa bảo vệ quyền đương nhiên của người có tài sản
được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết
thống, gia đình hay thân thuộc với người đã chết có tài sản để lại.
1.1.2 Di sản thừa kế
Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại"
Điều 612 BLDS năm 2015 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác". Di sản được Điều 612
BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có tầm khái quát cao, không dùng
phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những quy định trước đây.
Như vậy, di sản là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã
chết cũng như các quyền về tài sản của người đó bao gồm: Tư liệu sinh hoạt; Tiền, vàng,
bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức hoặc dùng làm của cải để dành, tiền
tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền thưởng chưa lĩnh; Nhà ở thuộc sở hữu của người chết;
Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết; Tài liệu, dụng cụ máy móc của người
làm công tác nghiên cứu; Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên
đất đó; Các quyền về tài sản đó là quyền đòi nợ đồ vật đã cho mượn, cho thuê, chuộc lại tài
sản đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi thường thiệt hại về tài sản, hưởng
những quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,
quyền tác giả đối với tác phẩm.
8
Tóm lại, di sản được Điều 612 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và có
tính khái quát cao. Điều này thể hiện trình độ và kỹ thuật lập pháp của nước ta đã đạt được
một kết quả nhất định.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề khác trong
quan hệ thừa kế mà chỉ được quy định trong một điều luật nên khi nghiên cứu cũng như khi
xét xử phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các quy phạm pháp luật khác liên quan
trực tiếp đến việc xác định và phân chia di sản.
Bởi vậy, việc xác định quyền sở hữu của một người để từ đó xác định di sản khi người
đó chết còn gặp nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
1.1.3. Người để lại di sản thừa kế
Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật Việt Nam ghi
nhận và bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi cá nhân đối với những thu nhập hợp
pháp của họ. do đó bất kỳ cá nhân nào cũng có quyền quyết định đối với các loại tài sản
thuộc quyền sở hữu riêng của mình. Vì thế cá nhân có quyền lập di chúc cho người khác
hưởng tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình sau khi mình chết, nếu không có di chúc
thì tài sản này được chia theo pháp luật.
Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không thể là các pháp nhân
hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với những mục đích và nhiệm vụ
khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức đó nhằm để phục vụ cho các hoạt động kinh
doanh của chính pháp nhân, tổ chức. Khi các pháp nhân, tổ chức đó đình chỉ hoạt động của
mình (phá sản, giải thể...) tài sản của các pháp nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy
định của pháp luật. Các pháp nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người
được hưởng di sản theo di chúc.
1.1.4. Người thừa kế
Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp
luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức nhưng người thừa kế theo pháp
luật thì chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ hôn nhân, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối với
người để lại di sản. Giữa người để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ pháp
lý với nhau. Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời họ phải
có trách nhiệm với những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.
Điều 613 BLDS năm 2015 quy định:
9
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế”1.
• Trường hợp người không được quyền hưởng di sản:
Là những trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật bị tước quyền
hưởng di sản vì họ không xứng đáng được hưởng quyền đó. Khoản 1 Điều 621 BLDS năm
2015 quy định những trường hợp không được quyền hưởng di sản.
Mặc dù những trường hợp nói trên là những trường hợp không được quyền hưởng di
sản nhưng khoản 2 Điều 621 BLDS 2015 quy định những người đó vẫn được hưởng di sản
"nếu người để lại di sản biết những hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng
thừa kế theo di chúc".
Việc không cho hưởng quyền nhận di sản được thực hiện sau khi mở thừa kế. Trong
thực tế xảy ra trường hợp làm giả mạo giấy tờ về người thừa kế khác từ chối nhận di sản
thừa kế để cho người đó được hưởng nhiều hơn. Giấy tờ này không có giá trị pháp lý nhưng
pháp luật không quy định trường hợp này là trường hợp không được hưởng quyền nhận di
sản. Đây là một vấn đề mà các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật
hơn nữa.
1.2 Diện và hàng thừa kế
1.2.1 Khái quát chung về diện và hàng thừa kế
* Diện thừa kế
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế, tuy nhiên
vấn đề này lại chưa thực sự được các nhà làm luật quan tâm quy định cụ thể, chi tiết trong
luật. Khái niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp
lý. Còn luật thực định từ trước đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này.
BLDS 1995, 2005 cũng như BLDS năm 2015 chưa có nội dung nào quy định về khái niệm
diện thừa kế là gì và diện thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề cần được khắc phục
trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
1 BLDS 2015
10
Theo giáo trình Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội diện thừa kế được hiểu là
"phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật"2.
Nhìn chung, khái niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện
thừa kế.
Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Mà pháp luật phụ
thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội. Vì thế ở mỗi một
chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật lại được
quy định ở diện rộng hẹp khác nhau.
Tiếp cận và tìm hiểu những quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới về
diện thừa kế cho thấy mặc dù có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
nhưng nhìn chung dù ở chế độ xã hội nào những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
đều có đặc điểm chung là những người thân thích gần gũi với người để lại di sản thừa kế và
do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối.
Pháp luật của Nhật và các nước Nam Mỹ quy định diện thừa kế bao gồm các con của
người chết; cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người chết; bà con xa, gần khác.
Một số nước như Đức, áo, Thụy Sĩ quy định: Bà con bậc trên, thế hệ trên của người
chết như: cha, mẹ, cố, cụ; bà con bậc dưới, thế hệ dưới của người chết như con, cháu.
Điều 1629 Bộ luật thương mại Thái Lan quy định diện thừa kế là: Con cái; bố, mẹ;
anh, chị, em cùng huyết thống; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà;
chú, bác, cô, dì; người vợ (hoặc người chồng còn sống).
Ở nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh
nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Địa vị của người vợ trong
quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong những
quan hệ xã hội thông thường và ngay cả trong quan hệ thừa kế.
Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật thừa kế
dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: "Đàn bà ngang
quyền với đàn ông về mọi phương diện", trong đó người vợ có quyền thừa kế như những
người con khác khi chồng chết trước. Đặc biệt, khi sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm
2 Giáo trình Luật dân sự- Đại học Luật Hà Nội , tr.266
11
1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật theo tinh thần của Điều 10 và Điều 11 bao
gồm: con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản.
Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta kể từ năm 1945 đến
nay luôn được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng
giữa người để lại di sản và người thừa kế.
Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của người chết
thì giữa họ phải có mới quan hệ nhất định khi người để lại di sản còn sống. Mối quan hệ này
là sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của người này và nghĩa vụ của người kia hoặc là bổn phận
và trách nhiệm giữa họ khi người để lại di sản còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn
từ sâu xa của giá trị đạo đức truyền thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một chế độ xã
hội nhất định.
Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô
ruột, dì ruột chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân còn sống có quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời điểm mở thừa
kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế được
xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của
người để lại di sản.
* Hàng thừa kế
Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người thuộc
diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng
di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật
phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế.
Những nhóm người được pháp luật xếp trong cùng một hàng được hưởng phần di sản
bằng nhau được gọi là hàng thừa kế. Không phải tất cả những người thuộc diện được hưởng
thừa kế đều được hưởng phần di sản như nhau, mà tùy thuộc vào mức độ quan hệ với người
để lại di sản, pháp luật phân những người thuộc diện được hưởng thừa kế thành các hàng
12
thừa kế khác nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn
ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di
sản hoặc từ chối nhận di sản.
Nghiên cứu và phân tích một số các quy định về hàng thừa kế theo pháp luật của một
số nước trên thế giới cho thấy việc xác định hàng thừa kế ở mỗi nước có khác nhau nhưng
cũng như diện thừa kế, việc quy định hàng thừa kế cũng đều dựa trên quan hệ huyết thống,
hôn nhân và nuôi dưỡng.
Khái niệm hàng thừa kế là gì cũng không được quy định cụ thể trong hệ thống pháp
luật của Việt Nam và cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm chính xác, đầy đủ thể hiện
rõ nội dung của hàng thừa kế
Điều 651 BLDS năm 2015 quy định những người thừa kế theo pháp luật được sắp xếp
theo ba hàng thừa kế sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng thừa kế cũng được sắp xếp dựa
trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất
và hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với người để lại di
sản, giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi
thỏa mãn các điều kiện phải giám hộ cho nhau nhất định. Những người thừa kế ở hàng thứ
ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống
nhưng giữa họ không có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau.
1.2.2 Cơ sở xác định diện và hàng thừa kế
Qua từng giai đoạn phát triển, quy định về diện thừa kế có nhiều điểm chung và có những
quy định về phạm vi rộng hẹp khác nhau. Trước hết, cần xem xét khái niệm về diện thừa kế.
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế. Tuy nhiên, khái
niệm về diện thừa kế mới chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý chứ
13
chưa được ghi nhận dưới góc độ quy định của pháp luật nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau. Trong Giáo trình Luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra khái niệm về
diện thừa kế như sau: "Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng
di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật".
Khái niệm về diện thừa kế còn có thể được hiểu là "phạm vi những người có thể được
hưởng di sản do người chết để lại được xác định theo một trong ba quan hệ (quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng) với người để lại di sản". Nhìn chung các khái
niệm nêu trên đã phản ánh khá đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế. Tuy
nhiên, khái niệm thứ hai về diện thừa kế là hợp lý, cụ thể hơn và tác giả đồng tình với quan
điểm này bởi không phải cá nhân nào trong diện thừa kế cũng có quyền hưởng di sản thừa kế.
Phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển
của xã hội cũng như quy định pháp luật của mỗi chế độ nhất định.
Như đã đề cập ở trên về tiến trình phát triển pháp luật về thừa kế theo pháp luật, ở
nước ta, trước năm 1945, dưới chế độ cũ, đặc biệt là dưới chế độ thực dân phong kiến, bản chất
của giai cấp thống trị với tư tưởng trọng nam khinh nữ hết sức nặng nề đã có sự ảnh hưởng sâu
sắc đến việc xác định diện thừa kế. Theo đó, diện thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết
thống nội tộc, địa vị của người vợ trong quan hệ thừa kế bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các
con và có sự phân biệt giữa vợ cả và vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết trước.
Kể từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam và trong quá trình đổi mới, phát
triển, pháp luật thừa kế ở nước ta đã xóa bỏ những tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam,
khinh nữ và mở rộng diện thừa kế. Theo đó, người thừa kế theo pháp luật phải có một trong
ba mối quan hệ sau đây với người để lại di sản: quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân
hoặc quan hệ nuôi dưỡng.
1.3 Diện thừa kế theo pháp luật Việt Nam
Pháp luật dân sự hiện hành quy định chế định thừa kế bao gồm hai hình thức là thừa
kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Diện và hàng thừa kế là một trong những vấn đề
chính yếu và chỉ được đặt ra trong hình thức thừa kế theo pháp luật. Quy định này xuất phát
từ bản chất của hình thức thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc, có thể
để lại di sản cho bất kỳ ai nên không cần phải xác định diện và hàng thừa kế.
BLDS Việt Nam hiện hành quy định diện và hàng thừa kế dựa trên ba cơ sở: quan hệ
huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.
14
1.3.1 Diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân
Quan hệ hôn nhân là quan hệ khởi nguồn và bắt đầu để tạo ra các gia đình - Các tế bào
của xã hội. Vì vậy, quan hệ hôn nhân luôn được pháp luật coi trọng và bảo vệ. Quan hệ hôn
nhân được thiết lập trên cơ sở có sự kết hôn giữa nam và nữ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó
giữa hai người với nhau về tình cảm mà còn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người
trong đó có quyền thừa kế. Pháp luật ghi nhận và bảo vệ cho vợ chồng thuộc diện thừa kế
theo pháp luật của nhau nhằm mục đích duy trì quan hệ tình cảm đồng thời tạo cơ sở để tiếp
tục duy trì cuộc sống gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với
sự phát triển của xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên những sợi dây liên kết của
hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn nhân có thể xem là quan hệ nền
tảng. Quan hệ hôn nhân là một trong những căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo
pháp luật.
Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo những quy định của pháp luật,
đặc biệt là Luật HN&GĐ. Theo Luật HN&GĐ năm 2014, nam nữ kết hôn phải tuân theo
các quy định về điều kiện kết hôn, không vi phạm những điều cấm, và tiến hành đúng trình
tự, thủ tục luật định. Khi kết hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng phát sinh và được
pháp luật bảo vệ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà
còn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người, ngoài ra hai bên còn có quan hệ tài sản,
Vợ chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo qui định tại khoản 1 Điều 651 BLDS năm
2015 có quy định.
Trước năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến, quan hệ hôn nhân không được coi
là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa vợ và chồng. Trong quan hệ gia đình thì quan hệ hôn
nhân bị xem nhẹ. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ đã ảnh hưởng sâu sắc tới chế định thừa kế.
Thừa kế di sản trong thời kỳ này được coi như là một trong những phương tiện để duy trì và
bảo vệ khối tài sản của nội tộc và ưu tiên cho những người trong nội tộc của người để lại di
sản được thừa hưởng. Người phụ nữ nói chung và người vợ trong gia đình không có sự bình
đẳng với người đàn ông, người chồng về quan hệ sở hữu tài sản trong gia đình, quyền để lại
thừa kế và quyền thừa kế ruộng đất. Địa vị người vợ trong quan hệ gia đình bị đẩy xuống
bậc thứ yếu so với các con và so với người chồng trong mọi quan hệ xã hội. Người vợ không
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chồng. Điều này phản ánh quan hệ hôn nhân
không ràng buộc bất cứ bổn phận, trách nhiệm nào của chồng đối với người vợ. Điều 32 của
15
bộ Hoàng Việt luật lệ phản ánh rõ sự bất bình đẳng trong quan hệ hôn nhân giữa vợ và
chồng. Nội dung của điều luật này cho thấy sau khi kết hôn người chồng là chủ toàn bộ khối
tài sản của vợ chồng bao gồm cả những tài sản do người vợ đem về nhà chồng. Nếu vợ chết
trước người chồng tiếp tục quản lý, sử dụng khối tài sản đó với tư cách là chủ sở hữu. Nếu
người chồng chết trước, người vợ không được quyền thừa kế, mà chỉ tiếp tục được hưởng
hoa lợi, lợi tức trên tài sản của người chồng để lại và có nghĩa vụ trả nợ cho chồng, kể cả
trong trường hợp khoản nợ đó lớn hơn giá trị di sản của người chồng để lại.3
Đến thời kỳ Pháp thuộc, quan hệ hôn nhân có được xem xét đến, tuy nhiên chỉ dừng lại
ở một khía cạnh nhỏ. Theo quy định tại Bộ Dân luật Bắc kỳ thì người vợ chính thất của người
quá cố được hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp bên chồng không còn người thân thuộc,
trong khi đó người vợ thứ lại không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chồng, chỉ được ở
lại nhà chồng, hưởng lương thực và tiền chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Điều này cho thấy
quan hệ hôn nhân không có tính ràng buộc.
Như vậy, thời kỳ trước năm 1945 diện thừa kế theo pháp luật được quy định chủ yếu
dựa vào quan hệ huyết thống nội tộc mà không quan tâm đến quan hệ hôn nhân. Quan hệ
hôn nhân chỉ mang lại lợi ích về quyền thừa kế cho người đàn ông nhưng không phải là cơ
sở xác lập quyền thừa kế cho người đàn bà. Sau năm 1945, pháp luật thừa kế của nước ta đã
có những thay đổi to lớn, trái ngược hoàn toàn với bản chất pháp luật thừa kế của chế độ cũ.
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã ghi nhận "Đàn
bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện". Đây là cơ sở pháp lý quan trọng xóa bỏ
những quy định thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng của chế độ
HN&GĐ phong kiến để từ đó xây dựng chế độ hôn nhân mới dân chủ và tiến bộ. Mặc dù không
quy định cụ thể về quyền thừa kế của người vợ hoặc chồng trong trường hợp một bên chết trước
nhưng trên cơ sở của Điều 9 có thể hiểu trong quan hệ thừa kế theo pháp luật, người vợ và người
chồng thuộc diện thừa kế của nhau.
Sắc lệnh số 97/SL đã chính thức ghi nhận quan hệ hôn nhân trở thành một trong các căn
cứ để xác định diện thừa kế, trong đó đã khẳng định vợ, chồng thuộc diện thừa kế theo pháp
luật của nhau. Nguyên tắc này được tiếp tục kế thừa và cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật
sau này như Luật HN&GĐ năm 1959, Thông tư số 81, Luật HN&GĐ năm 1986, Pháp lệnh
3 Hoàng Việt luật lệ năm 1812
16
thừa kế năm 1990, Luật HN&GĐ năm 2014 và BLDS năm 2015. Tại Điều 17 Luật HN&GĐ
năm 2014 quy định: " Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi
mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định
trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại khoản 1 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt Nam
năm 2014 thì "hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn". Vợ và chồng thuộc
diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa
kế của người vợ hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan
hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc hưởng di sản của nhau được
bảo đảm bằng các quy định của pháp luật. Để có thể được pháp luật thừa nhận là quan hệ
hôn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện và thủ tục do pháp luật quy
định. Hôn nhân hợp pháp phải đảm bảo cả về mặt nội dung lẫn hình thức nghĩa là phải đảm
bảo các điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn. Tại khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt
Nam năm 2014 quy định: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy
định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Để được đăng ký kết hôn, hai
bên nam, nữ phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi kết hôn, ý chí tự nguyện, không mất năng
lực hành vi dân sự và không thuộc các trường hợp cấm kết hôn quy định tại các điểm a, b,
c, d khoản 2 điều 5 luật HN&GĐ 2014.
Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng chứng của cuộc hôn nhân hợp pháp. Từ
thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận các bên có quyền và nghĩa vụ
đối với nhau. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là cơ sở pháp lý để các bên yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho mình trong quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp Giấy chứng nhận kết hôn
được cấp không đúng thẩm quyền sẽ không làm phát sinh giá trị pháp lý, hai bên nam nữ
không được coi là vợ chồng và do đó, không thuộc diện thừa kế của nhau.
Trên thực tế, có một số trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan nên vẫn tồn
tại những quan hệ hôn nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng lại vi phạm thủ tục
đăng ký kết hôn. Nguyên nhân bắt nguồn từ điều kiện lịch sử, đất nước ta trải qua nhiều
năm chiến tranh, nảy sinh nhiều trường hợp nam, nữ mới chỉ được gia đình tổ chức lễ cưới
theo tập quán mà chưa tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn; do ảnh hưởng của những tập tục
lạc hậu, dẫn tới ý thức của người dân còn rất hạn chế, chỉ tôn trọng nghi thức cưới theo tập
17
quán mà không đăng ký kết hôn theo luật định, nhất là ở các khu vực nông thôn, miền núi, các
vùng dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo. Câu hỏi được đặt ra là liệu những trường hợp này
có được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp hay không.
Trong thực tế vẫn có không ít trường hợp kết hôn không có đăng ký. Việc này tuy có
vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật, nếu việc kết hôn
không trái với điều 8. Trong những trường hợp này, nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn,
Tòa án không hủy việc kết hôn theo Điều 10 mà xử như việc xin ly hôn theo Điều 56. Quy
định về việc thừa nhận hôn nhân thực tế như trên không chỉ góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của hai bên nam, nữ, đặc biệt là bảo vệ lợi ích của người phụ nữ và trẻ em
mà còn nhằm giải quyết những vướng mắc trong các giao dịch do hai bên vợ chồng thực hiện
với bên thứ ba. Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng
không đăng ký kết hôn, đã sống chung với nhau hàng chục năm, có tài sản chung hoặc con cái
chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương
sự, nhất là đối với phụ nữ. Theo khoản 2 điều 11 luật HN&GĐ 2014 có quy định:”
Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này
và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó.
Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của Luật này”.
Như vậy, trong trường hợp hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mặc dù không
tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn nhưng đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn, được Tòa án thừa
nhận là trường hợp hôn nhân thực tế thì vợ chồng vẫn thuộc diện thừa kế theo pháp luật của
nhau và còn là người được thừa kế tài sản của nhau không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Việc thừa nhận hôn nhân thực tế chỉ mang tính tạm thời để giải quyết thấu tình đạt lý những
trường hợp do hoàn cảnh khách quan mang lại.
Hiện nay, khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, hôn nhân thực tế không được thừa
nhận nữa. Vì vậy, việc hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn sẽ không làm phát sinh quan hệ vợ chồng nên không thuộc diện thừa kế theo pháp luật
của nhau. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân để đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng, Vậy trong trường
hợp vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại, sau đó một bên chết thì
18
bên kia có được quyền hưởng thừa kế di sản của người đã chết không? Theo khoản 1 Điều
655 BLDS năm 2015 thì "Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân
còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. Quy định
này hoàn toàn phù hợp với bản chất của quan hệ hôn nhân và phù hợp với thực tiễn đời
sống bởi việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không dẫn tới hệ quả chấm dứt
quan hệ vợ chồng, do đó, vẫn phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật giữa vợ, chồng với
nhau. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 655 BLDS năm 2015 thì quyền thừa kế của nhau
giữa vợ và chồng vẫn phát sinh kể cả trong trường hợp một bên chết trước tại thời điểm mà
vợ, chồng đang xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước, sau
đó bên kia kết hôn với người khác thì vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật của người
chồng hoặc người vợ đã chết.
Đây là quy định rất tiến bộ của pháp luật hiện hành phù hợp với đời sống xã hội cũng
như nếp sống văn hóa hiện nay. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của
xã hội. Đánh giá cao tầm quan trọng của quan hệ hôn nhân, Đảng và Nhà nước ta đã có
những đường lối, chủ trương để phát triển và bảo vệ gia đình bền vững, thể chế hóa thành
các quy phạm pháp luật để ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng. Pháp
luật đã ghi nhận vợ chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau một mặt xuất phát từ
quan hệ gắn bó tình cảm cùng xây dựng gia đình giữa vợ và chồng, mặt khác tạo cơ sở vật
chất để người còn sống tiếp tục gánh vác, duy trì cuộc sống gia đình.
1.3.2 Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống
Cha ông ta từ ngày xưa đã xem trọng tình cảm gia đình, tổ tiên nên mới có câu ca
dao"Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng nông sâu". Quả
đúng như vậy, từ trước tới nay, người Việt Nam đều rất coi trọng phong tục thờ cúng tổ tiên, việc
hưởng thừa kế không chỉ đơn thuần là việc chuyển dịch tài sản từ người đã chết cho người còn
sống mà còn bao hàm ý nghĩa tình cảm, tín ngưỡng. Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể
hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên
cuộc sống cho cháu con. Nếu như con cháu chính là sự nối tiếp trong dòng chảy của huyết thống
qua các thế hệ thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu.
Chính vì lẽ đó, một người được coi là đã chết chưa hẳn đã là chấm dứt hoàn toàn các mối liên hệ
19
mà một phần con người đó vẫn còn hiện hữu trong con cháu, trong những di sản mà người đó để
lại.
Ở Việt Nam từ xa đến nay đều có tục lệ thờ cúng tổ tiên, việc hưởng thừa kế không chỉ
đơn thuần là việc sử dụng tài sản để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, mà còn hàm chứa cả ý nghĩa
tình cảm và tín ngưỡng. Các tài sản của người chết để lại sẽ trở thành di sản, các di sản ấy
nếu là nhà đất thì trong nhiều trường hợp, được đánh giá không chỉ bằng giá trị kinh tế hiện
thời ở thời điểm họ chết hoặc thời điểm phân chia thừa kế trên thực tế mà bằng con số các
thế hệ của những gia đình đã nối tiếp nhau sinh tồn trong đó tạo nên sự phát triển mạnh mẽ
của dòng họ. Mỗi cá nhân trở thành một mắt xích trong dòng chảy của huyết thống, của lịch
sử mỗi dòng họ cho nên những tài sản đó không chỉ biểu hiện của vật chất đơn thuần, mà
đối với nhiều người nó còn gắn liền với những kỷ niệm, những tình cảm thiêng liêng giữa
người còn sống với người đã khuất. Nếu như con cháu chính là sự hóa thân của bố mẹ, ông
bà, là sự kéo dài nhân thân của mỗi người thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế
chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu.
Vì vậy, một người coi là đã chết nhưng chết chưa hẳn là đã chấm dứt mà một phần
con người đó còn hiện hữu, tồn tại trong con cháu, trong những di sản mà họ để lại. Chính
vì lẽ đó, pháp luật thừa kế của Việt Nam từ xưa đến nay đều lầy quan hệ huyết thống là một
trong những căn cứ xác định diện thừa kế theo pháp luật Dưới chế độ phong kiến, với ý thức
bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột của mình, giai cấp thống trị xem quyền
tư hữu là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem
như một phương tiện để duy trì và bảo vệ khối tài sản cho những người có cùng quan hệ
huyết thống. Đến thời kỳ thực dân đô hộ, quan hệ huyết thống vẫn được coi là căn cứ đầu
tiên và quan trọng nhất để xác định diện thừa kế theo luật. Các con đẻ, con nuôi, các cháu,
cha mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh chị em ruột của người để lại di sản là những người thuộc
diện thừa kế đầu tiên. Chỉ khi nào không còn thân thuộc bên họ nội khi đó di sản thuộc về
bên họ ngoại.
Quy định này phản ánh quan hệ huyết thống được các nhà làm luật thời kỳ này đặt lên
hàng đầu khi xác định diện thừa kế. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có
cùng dòng máu về trực hệ hoặc bàng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ. Trong xã hội
phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp, tự cung tự cấp là chính nên cần nhiều nhân công cùng hợp tác sản xuất. Tập quán
20
nhiều thế hệ chung sống dưới một mái nhà đã hình thành từ đó để đáp ứng nhu cầu sản xuất
và tiêu dùng. Bên cạnh đó, trong xã hội phong kiến, tài sản của cá nhân chủ yếu là đất đai,
do đó, thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem như một phương tiện để duy trì, bảo vệ và
phát triển khối tài sản cho những người có cùng quan hệ huyết thống.
Đến thời kỳ thực dân đô hộ, diện thừa kế theo pháp luật dựa trên cơ sở quan hệ huyết
thống vẫn giữ nguyên vị trí quan trọng hàng đầu. Theo đó, các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha
mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh chị em ruột của người để lại di sản là những người thuộc diện
thừa kế đầu tiên và di sản chỉ thuộc về bên họ ngoại khi không còn thân thuộc bên họ nội. Ngay
sau khi giành được độc lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản trong đó có quy định về
vấn đề thừa kế. Theo đó, trong những năm đầu dưới chế độ mới, diện thừa kế được xác định
trên hai cơ sở là quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân.
Tuy nhiên, đối tượng thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống ban đầu được quy định
khá hẹp. Căn cứ theo quy định tại sắc lệnh số 97/SL thì diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống
chỉ có con, cháu. Đến Thông tư 1742, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống được mở rộng, bao
gồm các con đẻ, cháu chắt, cha mẹ của người để lại di sản. Tiếp đó, tại Thông tư số 594 ngày
27/8/1968 của TANDTC, diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống tiếp tục được mở rộng, bao
gồm con đẻ, bố mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, anh chị em ruột. Đến Thông tư số 81 đã quy định cụ thể,
mở rộng hơn nữa những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật trong đó bao gồm cả những
người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản. Phạm vi những người
thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống trực hệ bao gồm cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại,
các con đẻ, các cháu nội ngoại của người chết. Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định
từ quan hệ huyết thống bàng hệ bao gồm anh chị em ruột. Pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990 ra
đời trên cơ sở kế thừa các quy định trước đó và bổ sung những quy định mới để phù hợp với tình
hình xã hội lúc bấy giờ. Theo đó, ngoài những đối tượng được quy định tại Thông tư số 81, diện
thừa kế theo quan hệ huyết thống còn bao gồm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ
và bàng hệ khác đó là cụ nội, ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những
người mà người để lại di sản là cô, dì, chú, bác, cậu ruột.
Việc mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống của
BLDS 2005 là hoàn toàn chính xác và hợp lý. Không có lý do gì mà quy định ông bà nội
ngoại, cụ nội, cụ ngoại thuộc diện thừa kế của cháu chắt mà cháu chắt lại không thuộc diện
thừa kế của ông, bà nội ngoại, cụ nội, cụ ngoại. Vì vậy, việc bổ sung cháu chắt vào diện thừa
21
kế theo pháp luật là kịp thời và cần thiết. Kế thừa và phát huy những thay đổi quan trọng
của pháp luật thừa kế về diện và hàng thừa kế của pháp luật Việt Nam từ những năm 45 đến
nay, gần nhất là BLDS 1995 và 2005.BLDS 2015 ra đời có nhiệm vụ hoàn thiện những
vướng mắc còn tồn đọng dựa trên thực tế về thừa kế nói riêng và diện thừa kế nói chung. Lễ
giáo và truyền thống đạo đức của người Việt Nam vốn rất coi trọng dòng dõi cũng như tổ
tiên đã sinh ra mình.
Do đó quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng, cơ bản quy định diện thừa kế theo pháp
luật. Sự ổn định và bền vững trong quan hệ của các thành viên trong gia đình, dòng tộc và
để bảo vệ hiệu quả hơn quyền thừa kế của công dân nên quan hệ huyết thống luôn luôn là
căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo quy định của pháp luật. Để tạo điều kiện
thắt chặt mối quan hệ của những người ruột thịt, tạo sợi dây tình cảm giữa những người thân
trong gia đình đồng thời khuyến khích mọi người thực hiện tốt các quy định của pháp luật
nên các nhà làm luật đã xây dựng diện thừa kế dựa trên cơ sở huyết thống. Mặt khác, pháp
luật nước ta coi gia đình là tế bào của xã hội, việc tạo cho gia đình đầm ấm hạnh phúc sẽ
góp phần làm xã hội ổn định và việc bảo vệ các mối quan hệ trong gia đình cũng là củng cố
nền móng của xã hội. Theo mức độ quan hệ với người để lại di sản, BLDS năm 2015 phân
những người thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các hàng thừa kế khác nhau.
Trên cơ sở quan hệ huyết thống, diện thừa kế cho đến nay đã được mở rộng ra rất nhiều
so với trước đây. Từ chỗ diện thừa kế chỉ được xác định dựa trên cơ sở huyết thống xuôi,
con thuộc diện thừa kế của bố mẹ sau đó mở rộng đến bố mẹ thuộc diện thừa kế theo pháp
luật của con, ông bà nội ngoại thuộc diện thừa kế của các cháu và ngược lại, cụ nội, cụ ngoại
thuộc diện thừa kế của các chắt và ngược lại, anh chị em ruột thuộc diện thừa kế của nhau,
cô, dì, chú bác, cậu ruột thuộc diện thừa kế của cháu ruột và ngược lại.
Trong những mối quan hệ huyết thống được quyền hưởng thừa kế theo pháp luật đã
nêu ở trên, trước hết phải kể đến mối quan hệ thiêng liêng, cao cả nhất, đó là mối quan hệ
giữa con và cha mẹ. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức
hôn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai, con
gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không đều thuộc
diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Trước hết, nếu xét về mối quan hệ giữa
cha mẹ đẻ với con đẻ, từ cổ xưa cho đến ngày nay đều quy định con cái được thừa kế tài sản
do cha mẹ để lại.
22
Pháp luật thời kỳ phong kiến mặc dù có sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa con trai
và con gái nhưng lại rất coi trọng yếu tố huyết thống, dòng tộc và điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội theo nguyên tắc, lễ giáo phong kiến. Luật Hồng Đức quy định con gái được xếp
vào hàng thừa kế, con trai và con gái đều được chia phần thừa kế như nhau, nhưng phần đất
hương hỏa bao giờ cũng giao cho con trai trưởng giữ, không có con trai trưởng được giao
cho con gái trưởng, người con gái trưởng chỉ được hưởng đất hương hỏa một đời mình, sau
đó phải trả lại cho nội tộc để đảm bảo dòng chảy liên tục về huyết thống, đất hương hỏa bao
giờ cũng thuộc về dòng họ nội. Điều 388 Luật Hồng Đức quy định: "Cha mẹ mất cả, có
ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh chị em tự chia nhau thì lấy một phần hai mươi
số ruộng đất làm hương hỏa giao cho con trai trưởng giữ, không có con trai trưởng thì giao
cho con gái trưởng"
Đến thời kỳ thực dân đô hộ, quyền thừa kế của con cái đối với tài sản của bố mẹ để lại
vẫn được pháp thừa nhận. Điều 332 Dân luật Trung kỳ quy định:
“Người nào khi còn sống mà không chia tài sản của mình và cũng không lập chúc thư,
đến khi mệnh một thời di sản của người ấy, nếu có con thời để lại cho con. Khi người mệnh
một trước kia không chia tài sản của mình và cũng không lập chúc thư mà nói rõ ràng cho
đứa con nào, thời con trai, con gái đều được chia tài sản ấy mỗi người một phần bằng nhau”
Nội dung của quy định này phản ánh con cái được hưởng tài sản của bố mẹ không phân
biệt con trai, con gái. Trường hợp bố mẹ không để lại di chúc phân chia thì con trai hay gái
đều được hưởng bằng nhau. Quy định về việc con được hưởng di sản của cha mẹ tiếp tục
được kế thừa và phát triển trong các văn bản pháp luật sau này của chế độ mới. Pháp luật về
hôn nhân và gia đình của chế độ mới luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con
xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ đối với con.
Sắc lệnh số 97 chính thức quy định diện thừa kế theo pháp luật bao gồm con cháu, vợ hay
chồng của người để lại di sản. Và các văn bản được ban hành tiếp theo để điều chỉnh quan
hệ thừa kế như Thông tư số 81; PLTK ngày 30/8/1990; BLDS năm 1995, BLDS năm 2005
và hiện nay là BLDS 2015 đều quy định con thuộc diện thừa kế theo pháp luật của bố mẹ.
Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha đẻ,
mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong
giá thú hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không đều thuộc diện diện
thừa kế của cha mẹ. Tuy nhiên, việc xác định cha mẹ cho con hiện nay vẫn là một vấn đề
23
phức tạp và khó khăn. Nhưng điều này lại hết sức cần thiết vì đó là việc xác định huyết thống
giữa cha mẹ và con, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ các quyền nhân thân và quyền tài
sản của công dân, trong đó có quyền thừa kế tài sản nếu có tranh chấp xảy ra.
Theo quy định của Luật HN&GĐ con trai, con gái đều có quyền thừa kế như nhau
trong việc nhận di sản của bố mẹ để lại. Con đẻ gồm có con chung và con riêng. Con riêng
lại gồm có con trong giá thú và con ngoài giá thú.
"Con chung" trước đây pháp luật nước ta gọi bằng thuật ngữ "con chính thức" là
người con được sinh ra từ hôn nhân hợp pháp. Về mặt nguyên tắc, các trường hợp sau đây
được coi là con chung của vợ chồng:
- Con sinh ra sau khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến khi chấm dứt quan hệ hôn
nhân do Tòa án công nhận và quyết định theo yêu cầu của vợ chồng hoặc cả hai bên vợ
chồng.
- Con sinh ra sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai bên vợ chồng nhưng người vợ đã có thai
trong thời kỳ hôn nhân
- Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn nhưng được cả vợ và chồng thừa nhận4.Về
nguyên tắc con chung đương nhiên là người thừa kế theo pháp luật của bố mẹ khi bố mẹ qua
đời.
- "Con ngoài giá thú" là thuật ngữ để chỉ những người con được sinh ra không phải từ
hôn nhân hợp pháp và là đứa trẻ không được người cha thừa nhận. Nói cách khác, con ngoài
giá thú là con mà cha mẹ không phải là vợ chồng hoặc cha mẹ chung sống với nhau như vợ
chồng nhưng việc đăng ký kết hôn chưa được UBND xã, phường, thị trấn công nhận và ghi
vào sổ đăng ký kết hôn.
BLDS năm 1995 chỉ quy định trường hợp con của người để lại di sản chết trước người
để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản bố mẹ cháu khi còn sống được hưởng. Vì vậy,
trong thực tiễn áp dụng đã đặt ra vấn đề trường hợp con của người để lại di sản chết cùng
một thời điểm với người để lại di sản giải quyết ra sao? Có áp dụng thừa kế thế vị được
không? Xung quanh vấn đề này còn có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau, thậm chí trái
4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Hà Nội.
24
ngược nhau. Vì thế, để có sự thống nhất khi áp dụng pháp luật cũng như việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật BLDS năm 2015 đã có sự điều chỉnh, bổ sung kịp thời này.
Theo quy định tại Điều 651 BLDS năm 2015 anh chị em ruột thuộc diện thừa kế theo
pháp luật của nhau còn anh chị em nuôi không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.
Các nhà làm luật căn cứ vào quan hệ huyết thống để quy định trường hợp anh chị em ruột
được thừa kế di sản của nhau. Giữa anh chị em nuôi không có quan hệ huyết thống gì nên
không thuộc trường hợp điều chỉnh của quy định này.
Việc mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống của
BLDS năm 2015 so với các văn bản trước đó là hoàn toàn cần thiết và hợp lý bởi nó tuân theo
quy tắc quyền thừa kế lẫn nhau giữa các chủ thể trong mối quan hệ huyết thống. Như vậy,
xuôi theo dòng phát triển của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ cho đến nay, phạm vi các đối
tượng thuộc diện thừa kế theo pháp luật xác định trên cơ sở quan hệ huyết thống theo quy định
tại BLDS năm 2015 là đầy đủ và mở rộng nhất. Quy định này không chỉ thắt chặt hơn tình cảm
gia đình giữa các thế hệ mà còn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của mỗi cá nhân luôn
muốn dành tài sản của mình sau khi chết cho những người gắn bó yêu thương, gần gũi với họ
nhất.
Hiện nay, quy định về việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp
khoa học, chẳng hạn như bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là rất phù hợp với thực
tiễn đời sống, vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa đảm bảo được quyền lợi của những người liên
quan. Việc xác định cha, mẹ, con không những là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của
cha, mẹ và con đối với nhau trong quan hệ nhân thân mà còn là cơ sở để xác định diện thừa kế
giữa cha, mẹ và con khi một trong các bên chết.
Tóm lại, nhằm củng cố hơn nữa sự ổn định và bền vững trong quan hệ của các thành
viên trong gia đình, dòng tộc và để bảo vệ hiệu quả hơn quyền thừa kế của công dân nên
quan hệ huyết thống luôn luôn là căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo quy định
của pháp luật. Để tạo điều kiện thắt chặt mối quan hệ của những người ruột thịt, tạo sợi dây
tình cảm giữa những người thân trong gia đình đồng thời khuyến khích mọi người thực hiện
tốt các quy định của pháp luật nên các nhà làm luật đã xây dựng diện thừa kế dựa trên cơ sở
huyết thống. Mặt khác, pháp luật nước ta coi gia đình là tế bào của xã hội, việc tạo cho gia
đình đầm ấm hạnh phúc sẽ góp phần làm xã hội ổn định và việc bảo vệ các mối quan hệ
trong gia đình cũng là củng cố nền móng của xã hội. Theo mức độ quan hệ với người để lại
25
di sản, BLDS năm 2015 phân những người thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các
hàng thừa kế khác nhau.
1.3.3 Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng
Theo quy định của pháp luật hiện hành, diện thừa kế được xác định trên cơ sở quan hệ
nuôi dưỡng bao gồm quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Bên cạnh đó, pháp
luật còn quy định một trường hợp ngoại lệ đặc biệt, đó là trường hợp con riêng với bố dượng,
mẹ kế nếu đáp ứng điều kiện nhất định. Như vậy, có thể khái quát quan hệ nuôi dưỡng là sự thể
hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định
của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật con nuôi thuộc diện thừa thừa kế theo pháp luật của bố
mẹ nuôi và ngược lại. Bên cạnh đó, con riêng của vợ, của chồng với cha kế, mẹ kế trong một
số trường hợp cũng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Những trường hợp nêu trên
không bị ràng buộc với nhau bởi quan hệ hôn nhân hay quan hệ huyết thống. Vậy các nhà
làm luật căn cứ vào đâu để đưa ra những quy định như vậy? Cơ sở để xác lập quan hệ thừa
kế theo pháp luật giữa họ với nhau là quan hệ nuôi dưỡng. Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể
hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định
của pháp luật. Khác với quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi không phải xác định trên cơ sở huyết thống mà được xác định trên cơ sở pháp lý. Những
quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ thừa kế giữa con nuôi với cha mẹ nuôi lại được xác
định như giữa cha mẹ đẻ với con đẻ. Con nuôi thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cha mẹ
nuôi. Trước 1959, theo quy định của Dân luật Trung kỳ và Dân luật Bắc Kỳ người con nuôi
có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ. Người con nuôi không chỉ có quyền thừa kế theo luật
của cha mẹ nuôi mà còn có quyền thừa kế theo pháp luật của cha mẹ đẻ và của những người
khác cùng huyết thống.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật đều quy định con nuôi và cha mẹ nuôi được
thừa kế theo pháp luật của nhau, con nuôi được coi như con đẻ và xếp cùng hàng thừa kế
với con đẻ. Quy định quyền thừa kế đối với con nuôi là cơ sở để đảm bảo cho trẻ em là con
nuôi được hưởng quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và thể hiện sự quan tâm của xã hội
đối với các thế hệ tương lai. Quan hệ nuôi dưỡng đi từ trách nhiệm, bổn phận đến lòng nhân
ái của người làm cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi, góp phần xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp
hơn, là cơ sở không thể thiếu để xác định diện thừa kế theo quy định của pháp luật
26
Trước hết xét đến quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Theo quy định tại Điều 653
BLDS năm 2015 thì "Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và 653 của Bộ luật này". Trước đó, ngay từ Luật
Hồng Đức đã ghi nhận con nuôi có quyền thừa kế của cha mẹ nuôi "Con nuôi mà có văn tự là
con nuôi và ghi trong giấy rằng sau sẽ chia điền sản cho, khi cha mẹ nuôi chết không có chúc
thư, điền sản đem chia cho con đẻ và con nuôi…5. Câu hỏi được đặt ra là sự kiện nào xác lập
mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi? Đó chính là sự kiện nuôi con nuôi. Pháp luật Việt
Nam quy định khá chặt chẽ việc nhận con nuôi nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất của người được
nhận làm con nuôi. Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm
2000 và gần đây nhất là Luật HN&GĐ 2014 đều có những quy định về điều kiện nhận nuôi
con nuôi, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nhận nuôi con nuôi. Đặc biệt, những
quy định này đã được kế thừa và phát triển, ghi nhận đầy đủ, cụ thể hơn trong văn bản pháp lý
chuyên sâu, đó là sự ra đời của Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi
con nuôi đã giải thích: "Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người
nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi". Việc nhận nuôi con nuôi dựa trên ý chí chủ
quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi.
Theo nguyên tắc chung thì "Người được nhận làm con nuôi phải dưới 16 tuổi. Một người
chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng"6. Quy định
này không có sự khác biệt đáng kể so với Luật HN&GĐ năm 2014. Vấn đề được đặt ra là liệu
quy định trên chỉ giới hạn trường hợp hai người là vợ chồng thì cả hai phải đồng ý nhận nuôi con
nuôi hay một bên vợ, chồng vẫn có thể nhận nuôi con nuôi? Khi đó, hậu quả pháp lý sẽ như thế
nào, người được nhận làm con nuôi và một bên vợ (chồng) nhận con nuôi có thuộc diện thừa
kế của nhau hay người con nuôi đó thuộc diện thừa kế của cả hai vợ chồng và ngược lại? Theo
quy định của pháp luật thì chỉ hai trường hợp "một người độc thân" hoặc "cả hai người là vợ
chồng” mới có quyền nhận con nuôi nên trong trường hợp một bên vợ (chồng) muốn nhận nuôi
con nuôi nhưng bên kia không đồng ý thì quan hệ nuôi con nuôi sẽ không được xác lập. Quy
định như vậy là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi vì lợi ích tốt
nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc,
5 Viện sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý,Hà Nội,Điều 380. 6 Khoản 3,điều 8, Luật Nuôi con nuôi 2010.
27
giáo dục trong môi trường gia đình đầm ấm.
Người nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 14 Luật Nuôi
con nuôi năm 2010, cụ thể là:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con nuôi.
- Có tư cách đạo đức tốt.
- Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên hoặc đang chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở
chữa bệnh
Ý chí tự nguyện của người nhận nuôi con nuôi phải phù hợp với mục đích của việc nhận
nuôi con nuôi. Việc nhận nuôi con nuôi phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và ghi vào sổ hộ tịch. Theo quy định tại Điều 9 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, thẩm quyền
đăng ký nuôi con nuôi ở cấp cơ sở hay trung ương phụ thuộc vào tính chất lãnh thổ, cụ thể là:
- Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được giới thiệu làm
con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết
định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi
con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài.
Việc nuôi con nuôi hợp pháp sẽ dẫn tới hệ quả:
Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền,
nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi
cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan7.
Như vậy, pháp luật chỉ thừa nhận và xác định quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ nuôi
và con nuôi trong trường hợp nhận con nuôi không trái với luân thường đạo lý, đạo đức xã
7 Khoản 1,điều 24, Luật Nuôi con nuôi 2010
28
hội. Nếu việc nhận nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao động dùng con nuôi vào
mục đích xấu xa phạm pháp sẽ không được chấp nhận. Điều kiện quan trọng để việc nhận
con nuôi là hợp pháp là phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Nhưng trên thực tế, xảy ra
nhiều trường hợp do trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân còn hạn chế nên mặc dù đã
xác lập quan hệ cha mẹ nuôi với con nuôi rất gắn bó nhưng lại không đi đăng ký tại UBND
có thẩm quyền. Vậy những trường hợp này giải quyết thế nào?
Giải quyết vấn đề hôn nhân thực tế được Nhà nước ban hành những văn bản pháp luật
điều chỉnh theo sát với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nhưng vấn đề con nuôi thực
tế chưa được các nhà làm luật quan tâm điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển
và hoàn thiện hệ thống pháp Luật HN&GĐ của Việt Nam. Trong thực tế có những trường
hợp nhân dân chưa hiểu pháp luật cho nên chưa xin chính quyền công nhận và đăng ký vào
sổ hộ tịch việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, việc nuôi con nuôi là ngay thẳng, cha
mẹ đẻ của đứa trẻ hoàn toàn tự nguyện, việc nuôi dưỡng đứa trẻ được đảm bảo, thì coi là
con nuôi thực tế “
Về nguyên tắc một người có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi nhưng một
người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của hai người là vợ chồng. Trong trường
hợp người nhận con nuôi là người chưa có vợ, có chồng hoặc góa vợ, góa chồng việc xác
lập quan hệ cha mẹ nuôi không có gì vướng mắc và người con nuôi đó sẽ là người thừa kế
theo pháp luật đối với di sản của cha nuôi, hoặc mẹ nuôi. Trong trường hợp người chưa có
vợ, có chồng hoặc đã góa vợ, góa chồng đã nhận con nuôi và sau đó lại thiết lập quan hệ hôn
nhân hợp pháp với người khác thì người con nuôi có phải là con nuôi chung của cả hai vợ
chồng hay không hay chỉ là con nuôi riêng của vợ hoặc chồng? Và họ có trở thành người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cả hai vợ chồng đó không? Vấn đề này chưa có quy
phạm pháp luật nào điều chỉnh. Đây cũng là vấn đề các nhà làm luật cần quan tâm nghiên
cứu. Nhưng theo nguyên tắc suy đoán, việc thừa kế của người con nuôi của vợ, hoặc chồng
cũng sẽ như những người con riêng của vợ, hoặc chồng nên họ sẽ không thuộc diện thừa kế
của cả hai vợ chồng đó mà chỉ là người thừa kế của người đã nhận họ là con nuôi trước khi
kết hôn mà thôi.
Từ cơ sở pháp lý nêu trên, con nuôi thực tế được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như
con nuôi có thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Điều này đồng nghĩa với
việc con nuôi thực tế và người nuôi thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.
29
Quan hệ thừa kế được xác định dựa trên cơ sở quan hệ nuôi dưỡng còn bao gồm quan
hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế. Theo quy định tại Điều 79 Luật HN&GĐ năm 2014
thì bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
riêng cùng sống chung với mình và ngược lại, con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi
dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình. Mặc dù giữa con riêng và bố dượng
mẹ kế không có mối quan hệ sinh thành nhưng giữa họ đã thể hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì họ được thừa kế theo pháp luật của nhau. Vấn đề này đã
được ghi nhận cụ thể tại Điều 654 BLDS năm 2015: "Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau
và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này". Trước
đó, Thông tư số 81 cho đến Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và BLDS năm 1995 đều quy định con
riêng và bố dượng, mẹ kế thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi một bên chết trước
nếu giữa họ đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Như
vậy, trải qua các thời kỳ, pháp luật về thừa kế chỉ thừa nhận con riêng và bố dượng, mẹ kế
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi và chỉ khi đáp ứng điều kiện chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Quy định này còn mang tính chủ quan, chung chung. Việc
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như thế nào sẽ được coi là như cha con, mẹ con? Pháp luật không
đặt ra tiêu chí cụ thể nào dẫn đến việc áp dụng tùy nghi, không thống nhất trên thực tế giữa
các Tòa khác nhau đối với cùng một sự việc. Do đó cần phải có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để trước
hết bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của con riêng, bố dượng, mẹ kế đồng thời tạo
cơ sở pháp lý cho việc áp dụng thống nhất, tránh tranh chấp có thể xảy ra hoặc bị kéo dài. Việc
quy định về quyền thừa kế theo pháp luật giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế phù hợp với
đạo đức xã hội và truyền thống chan chứa lòng nhân ái của người Việt Nam.
Tóm lại, ngoài ba quan hệ: hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản
thì không có bất cứ quan hệ nào khác để xác định diện thừa kế theo pháp luật.
Theo pháp luật về thừa kế của một số quốc gia trên thế giới như pháp luật dân sự Pháp,
Thái Lan, Nhật Bản, Liên bang Nga, quan hệ huyết thống trực hệ theo ngành dọc luôn được
bảo vệ và ưu tiên hàng đầu, xuất phát từ nguyên tắc "chảy xuôi" từ thế hệ trước xuống thế hệ
sau. Quyền hưởng thừa kế của những người có quan hệ hôn nhân hay quan hệ nuôi dưỡng với
người để lại di sản được xếp ở vị trí thứ yếu. Pháp luật dân sự Pháp còn phân biệt cả giữa anh
em đồng huyết (cùng cha, cùng mẹ) với anh em cùng cha khác mẹ (hoặc cùng mẹ khác cha)
30
trong việc hưởng thừa kế. Trong khi đó, pháp luật thừa kế của Việt Nam, xuất phát từ quan
niệm trọng tình nghĩa vợ chồng, coi con nuôi cũng như con đẻ, con trong giá thú cũng như
con ngoài giá thú nên dù là người có quan hệ hôn nhân hay quan hệ nuôi dưỡng với người để
lại di sản vẫn được xem xét ngang bằng với những người có quan hệ huyết thống. Thiết nghĩ
không phải ngẫu nhiên mà quan hệ huyết thống trực hệ được pháp luật thừa kế của các quốc
gia coi trọng hơn bởi mục đích của thừa kế là duy trì và phát triển khối tài sản, bảo vệ sự trường
tồn của gia đình. Do đó, để thực hiện tối ưu mục đích này, không ai khác ngoài các con đẻ của
người để lại di sản là những người có điều kiện nhất trong việc tiếp nối và duy trì di sản và cứ
thế truyền lại cho đời sau. Pháp luật thừa kế Việt Nam nên chăng cần điều chỉnh lại những
người được thừa kế dựa trên quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng ở một hàng thừa kế khác không
phải là hàng thừa kế thứ nhất.
Thực tế ngày nay, không chỉ có việc nhận nuôi con nuôi trong nước mà hàng năm vẫn
có khá nhiều trẻ em Việt Nam đi làm con nuôi ở các quốc gia khác. Vấn đề thừa kế càng trở
nên phức tạp hơn khi quan hệ thừa kế đã vượt qua phạm lãnh thổ và sự khác biệt về quan
niệm, phong tục truyền thống của các nước đặc biệt là các nước phương Tây. Để giải quyết
triệt để vấn đề này pháp luật cần bổ sung thêm những quy định cụ thể về vấn đề con nuôi
trong nước cũng như việc ký kết, tham gia các công ước, hiệp định quốc tế về nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài, để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em Việt Nam.
Tóm lại, các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng là những
quan hệ tình cảm có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật nước ta dựa vào ba
quan hệ này để xác định diện thừa kế theo pháp luật. Và hiện nay những quy định của BLDS
năm 2015 về diện thừa kế ngày càng hoàn chỉnh theo hướng ngày càng mở rộng phạm vi
người có quyền hưởng di sản. Đây là sự mở rộng cần thiết nhằm đảm bảo sự bền vững của
quan hệ hôn nhân, sự phát triển mạnh mẽ của dòng họ, và duy trì được những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
1.4 Hàng thừa kế theo pháp luật
Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người thuộc
diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng
di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật
phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế.
31
Những nhóm người được pháp luật xếp trong cùng một hàng được hưởng phần di sản
bằng nhau được gọi là hàng thừa kế. Không phải tất cả những người thuộc diện được hưởng
thừa kế đều được hưởng phần di sản như nhau, mà tùy thuộc vào mức độ quan hệ với người
để lại di sản, pháp luật phân những người thuộc diện được hưởng thừa kế thành các hàng
thừa kế khác nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không
còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng
di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Như đã phân tích, pháp luật thừa kế của một số quốc gia trong khu vực cũng như trên
thế giới có những quy định khác nhau về hàng thừa kế theo pháp luật. Pháp luật thừa kế của
Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Cộng hòa Liên bang Nga đều quy định các con của người để lại
di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất mà không bao gồm cha, mẹ của người để lại di sản. Một đặc
điểm chung nữa trong quy định về thừa kế theo pháp luật của các quốc gia này là đều quy
định hàng thừa kế xen kẽ với bậc thừa kế, thừa kế theo bậc được thực hiện khi người thuộc
hàng thừa kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì các con (các cháu) của người đó được hưởng di sản.
Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan phân chia làm 6 hàng thừa kế theo thứ tự: Con
cái; Bố mẹ; Anh, chị, em đồng huyết thống; Anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ
khác cha; Ông, bà; Chú, bác, cô, dì. Pháp luật thừa kế Thái Lan có quy định quyền thừa kế
di sản của nhau giữa vợ và chồng nhưng lại không ghi nhận cụ thể trong một hàng thừa kế
nhất định nào mà phụ thuộc vào các hàng và bậc thừa kế theo quan hệ huyết thống nội tộc của
người để lại di sản.
Trong khi đó, BLDS của Nhật Bản lại chia làm 3 hàng thừa kế theo thứ tự: Con (cháu)
trực hệ (hàng 1); những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên (hàng 2); anh, chị, em
ruột của người để lại di sản (hàng 3). Pháp luật thừa kế Nhật Bản quy định về hàng và bậc
thừa kế có cơ cấu về số người được ưu tiên hưởng di sản theo quan hệ huyết thống trực hệ bề
trên và trực hệ bề dưới của người để lại di sản. Khác với pháp luật thừa kế ở nước ta, pháp
luật dân sự Nhật Bản có sự phân biệt trong việc phân chia di sản giữa những người cùng
hàng thừa kế: trường hợp vợ (chồng) và các con là người thừa kế thì các con được hưởng 2/3
và vợ (chồng) chỉ được hưởng 1/3; trường hợp vợ (chồng) và người thân trực hệ bề dưới là
những người thừa kế thì mỗi bên được hưởng ½; trường hợp vợ (chồng) và anh, chị, em ruột
là những người thừa kế thì vợ (chồng) được hưởng 2/3.
32
Bộ luật Dân sự Pháp chia thành 4 hàng và 6 bậc thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất cũng chỉ
giới hạn trong phạm vi "con và ti thuộc của con", vợ, chồng hay cha, mẹ không thuộc hàng
thừa kế này. Pháp luật dân sự Pháp quy định về các hàng thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ
huyết thống. Người vợ (chồng) cũng có quyền hưởng di sản với những mức khác nhau tùy
thuộc vào việc họ thừa kế cùng với người thân thích nào của người để lại di sản.
Pháp luật của các quốc gia nêu trên có những quy định khác nhau về số lượng hàng
thừa kế cũng như những người thuộc cùng một hàng thừa xuất phát từ nhiều nguyên nhân
trong đó có nguyên nhân xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện lịch sử, quan niệm
khác nhau về gia đình, nghĩa vụ của các cá nhân trong quan hệ gia đình. Bên cạnh đó còn bị
chi phối bởi truyền thống văn hóa, phong tục tập quán. Nhưng nhìn chung, pháp luật về thừa
kế của các quốc gia nói trên đều coi trọng quan hệ huyết thống hơn cả và việc dịch chuyển di
sản đều được thực hiện theo nguyên tắc "dòng chảy xuôi" nên cha mẹ không bao giờ được xếp
vào hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản của con khi con chết, cũng như vợ, chồng không
thuộc hàng thừa kế thứ nhất khi một bên chết. Tất cả di sản của người chết dồn hết cho con
của họ được hưởng, chỉ khi nào họ không có con hưởng thừa kế, di sản mới được chuyển
dịch cho cha, mẹ theo "dòng chảy ngược".
Pháp luật về thừa kế của Việt Nam quy định 3 hàng thừa kế và những người thuộc cùng
một hàng thừa kế bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan
hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Với số lượng hàng thừa kế được giới hạn rất ít và những
người thuộc cùng hàng thừa kế thuộc nhiều mối quan hệ khác nhau với người để lại di sản,
dường như chưa tạo ra được sự công bằng cũng như chưa phù hợp với nguyên tắc di sản được
chuyển cho người có quan hệ gần gũi nhất với người để lại di sản theo "dòng chảy xuôi, cha
truyền con nối".
Nguyên tắc chia di sản thừa kế, trước hết sẽ chia di sản cho những người thừa kế ở
hàng trước, theo thứ tự ưu tiên chia trước, chia hết và chia đều bằng nhau cho những người
ở hàng thừa kế thứ nhất. Nếu không có ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, không có
quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản, thì di sản
mới được chuyển xuống và chia đều cho những người ở hàng thừa kế thứ hai. Tương tự như
vậy đối với hàng thừa kế thứ ba. Theo quy định hiện hành của pháp luật thừa kế Việt Nam,
việc phân nhóm những người thừa kế về từng hàng thừa kế sẽ phụ thuộc vào mức độ thân thích,
gần gũi với người để lại di sản xét trên cả quan hệ huyết thống (trước hết là quan hệ huyết thống
33
trực hệ), quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.
Để có cái nhìn toàn diện hơn về hàng thừa kế ở Việt Nam theo quy định của pháp luật
hiện hành, tác giả xin phân tích cụ thể từng hàng thừa kế đồng thời xen kẽ những nhận xét
nhằm hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật.
1.4.1 Hàng thừa kế thứ nhất
Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật quy định rất khác nhau về hàng thừa
kế. Giai đoạn trước năm 1945, tư tưởng phong kiến, lễ giáo hủ tục hà khắc đã ảnh hưởng
trực tiếp đến tư tưởng lập pháp thời kỳ này. Hàng thừa kế theo pháp luật và người thừa kế
theo trật tự hàng cũng bị những tư tưởng phong kiến chi phối mạnh mẽ.
Quy định về hàng thừa kế cũng như phạm vi những người trong cùng một hàng thừa
kế có sự khác nhau ở mỗi thời kỳ. Trước năm 1945, dưới chế độ thực dân, phong kiến, pháp
luật về thừa kế quy định về hàng thừa kế trước hết là bảo vệ quyền hưởng di sản của những
người trong quan hệ huyết thống nội tộc với người để lại di sản và nhằm củng cố gia đình theo
ý thức hệ phong kiến. Bộ luật Hồng Đức quy định hai hàng thừa kế trong đó các con là hàng
thừa kế thứ nhất. Đến Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931, diện những người thừa kế không được
chia thành hàng cụ thể mà quy định thành năm thứ tự ưu tiên hưởng di sản trong đó thứ tự đầu
tiên là con cái của người để lại di sản (bao gồm con đẻ, con nuôi). Sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công, đất nước ta đã có nhiều đổi mới, trong đó bao gồm cả hệ thống pháp luật.
Những ngày đầu xây dựng đất nước, Sắc lệnh số 97 ra đời quy định chỉ có một hàng thừa kế là
vợ góa, chồng góa, các con của người để lại di sản. Những quy định về hàng thừa kế trong
các văn bản ở những giai đoạn sau này như Pháp lệnh thừa kế năm 1990, BLDS năm 1995 đều
có xu hướng mở rộng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người thân thích, gần
gũi nhất với người để lại di sản.
Bộ luật Dân sự hiện hành quy định ba hàng thừa kế theo pháp luật tại Điều 651. Theo
đó, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết. Những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất dựa trên cả ba mối
quan hệ bao gồm quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Trong đó,
những người ở bề trên gồm có: ông, bà; ngang bậc gồm có: vợ, chồng và bề dưới bao gồm:
các con. Theo quy định của pháp luật hiện hành, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất
đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau, là giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau
khi thỏa mãn các điều kiện luật định.
34
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là mối quan hệ mang tính đối nhau, nghĩa là bên này
chết thì bên kia thuộc hàng thừa kế thứ nhất và ngược lại. Căn cứ để xác định quan hệ thừa
kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân như với các điều kiện như được phân tích tại mục
quan hệ hôn nhân ở trên.
Theo quy định tại Điều 651 BLDS năm 2015 thì con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi của người
chết để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác lập quan hệ
nuôi con nuôi có thể được thực hiện theo nhiều cách thức với nhiều mục đích khác nhau và
chỉ những trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch
(theo Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986) hoặc có đăng ký việc nuôi con
nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (theo Luật HN&GĐ năm 2014, Luật Nuôi con nuôi
2010) mới phát sinh quan hệ cha mẹ và con trước pháp luật. Hệ thống pháp luật hiện hành của
nước ta không công nhận quan hệ nuôi dưỡng thực tế (quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội).
Đó là trường hợp nhận con nuôi nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Việc nuôi con nuôi trong thực tiễn đời sống xã hội có thể bắt nguồn từ
phong tục tập quán, chẳng hạn như tục nối nòi ở một số vùng miền núi dân tộc thiểu số như
dân tộc Ê Đê. Người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ nên việc nói nòi theo dòng họ mẹ, để dòng họ
mẹ không bị tuyệt tự là một điều quan trọng. Vì vậy, quyền thừa kế cũng được xác định theo
dòng họ mẹ nên trong trường hợp một người phụ nữ không có con thì "phải tìm nuôi lấy một
đứa con của người chị hay của người em gái mình, không có đứa này thì phải tìm một đứa
khác trong cùng một họ với mình" và khi đó, người con được thừa kế mọi của cải của người
phụ nữ để lại8. Người Mường, Thái, Dao, Mông đều có phong tục nhận nuôi con nuôi. Các
gia đình dân tộc Mường, Thái mà không có con, họ thường nhận một người con của người
anh hay người em làm con nuôi và coi như con đẻ của mình.
Những quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán như vậy có thể vì lợi ích của
người nuôi, của gia đình dòng họ người nhận nuôi nhiều hơn vì lợi ích của con nuôi. Phong
tục tập quán này đã tồn tại từ lâu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và đến nay vẫn còn tồn tại.
Việc nuôi con nuôi cũng có thể tồn tại dưới dạng danh nghĩa hoặc với mục đích để lấy phúc.
Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là việc các bên nhận nhau là cha mẹ nuôi và con nuôi xuất phát
từ tình cảm và không gắn với quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, không nhằm mục đích
8 Điều 106 Luật tục Ê- Đê.
35
hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực tế. Các bên có thể đối xử, xưng hô là cha mẹ
và con nhưng không ràng buộc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế.
Nuôi con nuôi để lấy phúc cũng là trường hợp khá phổ biến xuất phát từ quan niệm nhận một
đứa trẻ về nuôi, coi như con của mình để làm phúc, như thế sẽ có thể giảm bớt tai họa, những
điều không may mắn cho gia đình. Những trường hợp nuôi con nuôi trên có đặc điểm chung
là đều không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, không phải các
hình thức nuôi con nuôi đó đều là nuôi con nuôi thực tế. Nuôi con nuôi thực tế phải thỏa
mãn các dấu hiệu sau: giữa người nhận nuôi và con nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha
mẹ và con, đã thật sự coi nhau và đối xử với nhau như cha mẹ và con; người nhận nuôi và
người được nhận nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo qui định của pháp luật về độ
tuổi, tư cách đạo đức, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng; các bên đã cùng chung sống, gắn bó với
nhau trong tình cảm cha mẹ và con, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
đối với nhau. Quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên đã được xác lập trên thực tế được họ
hàng và những người xung quanh công nhận, việc nhận nuôi không trái với mục đích của
việc nuôi con nuôi và đạo đức xã hội.
Những cơ sở để xác định hàng thừa kế thứ nhất tại các văn bản pháp luật trước đây tiếp
tục được kế thừa và phát triển tại các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế sau này.
Theo quan hệ huyết thống ở hàng thừa kế thứ nhất có cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ được hưởng di
sản của nhau. Theo quan hệ hôn nhân thì vợ chồng được hưởng di sản của nhau. Theo quan
hệ nuôi dưỡng thì con nuôi, cha mẹ nuôi được hưởng di sản của nhau.
Hàng thừa kế thứ nhất thể hiện quyền ưu tiên hưởng di sản thừa kế theo pháp luật trong
số những người thuộc diện được hưởng. Những người được chỉ định trong hàng thừa kế thứ
nhất có mối quan hệ gần gũi hơn cả với người để lại di sản
Trình tự hưởng di sản thừa kế theo hàng luôn được thực hiện theo nguyên tắc chia di
sản thừa kế theo luật. Ngược lại, nếu quy định những người có quyền thừa kế theo pháp luật
hưởng những phần di sản không đều nhau sẽ phá vỡ nguyên tắc hưởng di sản theo trình tự
hàng thừa kế. Khi đó những phức tạp vốn có của quan hệ thừa kế càng thêm phức tạp, khó
giải quyết và việc hưởng di sản theo trình tự hàng thừa kế sẽ không còn ý nghĩa. Tuy nhiên,
trong đời sống thực tế còn tồn tại những vấn đề phức tạp đó là trường hợp người chồng chết,
người vợ gặp phải hoàn cảnh khó khăn trong đời sống và nuôi dạy con cái thì người vợ có
quyền hưởng toàn bộ di sản hay không trong khi vẫn còn người cùng hàng thừa kế là bố mẹ
36
chồng? Luật không quy định người vợ hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp này. Theo
nguyên tắc, vợ hoặc chồng chỉ được hưởng toàn bộ di sản của nhau khi không còn cha mẹ
và các con của người chết. Quy định của pháp luật thừa kế ở nước ta hiện nay là hợp lý, phù
hợp với nguyên tắc chia thừa kế theo hàng. Những người thừa kế trong một hàng không thể
được hưởng thừa kế nhiều hơn hoặc ít hơn.
Tóm lại, có thể nhận thấy rằng, việc quy định những người ở hàng thừa kế thứ nhất
bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết là
phù hợp với đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam. Hơn nữa, quy định này còn được
xây dựng trên nền tảng gia đình hiện đại, đó là sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình
để cùng xây dựng một cuộc sống đảm bảo cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, vợ chồng có bổn
phận và trách nhiệm cùng nhau duy trì cuộc sống gia đình và nuôi dạy con cái. Con cái có
nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc bố mẹ lúc đau yếu là những nét văn hóa mang tính nhân văn
tốt đẹp trong gia đình Việt Nam ngày nay.
1.4.2 Hàng thừa kế thứ 2
Hàng thừa kế thứ hai được xác định căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 651
BLDS năm 2015 bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Như vậy, những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai dựa trên mối quan hệ huyết thống.
Ông nội, bà nội là người sinh ra cha của cháu. Ông ngoại, bà ngoại là người sinh ra mẹ
của cháu. Ông bà nội ngoại là những người thân thích thuộc bề trên của người để lại di sản,
có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt
cho con cháu. Do đó, nếu ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại còn sống vào thời điểm người
cháu chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai của người cháu đó. Ngược lại,
trong trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại chết thì cháu ruột là người thừa kế theo pháp luật
ở hàng thứ hai. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nét đẹp đặc thù trong văn hóa Việt Nam:
"kính trên, nhường dưới, ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền".
Hàng thừa kế thứ hai còn bao gồm anh, chị, em ruột của người chết. Quan hệ thừa kế
này được hình thành theo một căn cứ duy nhất là quan hệ huyết thống, bao gồm những người
có quan hệ huyết thống trực hệ cùng một đời. Từ Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, BLDS năm 1995,
BLDS năm 2005 đến BLDS 2015, đều quy định như nhau về anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết thuộc hàng thừa kế thứ hai theo pháp luật, được hưởng di sản của người chết khi
37
không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất.
Nếu anh hoặc chị hoặc cả anh chị chết thì em ruột sẽ là người thuộc hàng thừa kế thứ hai
đối với di sản của anh, chị đã chết và ngược lại. Như đã chỉ ra ở trên, con nuôi không đương
nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ của người nuôi nên giữa con nuôi và con đẻ không
phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau.
Những người thừa kế ở hàng thứ hai cũng là hàng ưu tiên hưởng di sản thừa kế so với
người thuộc hàng thừa kế thứ ba. Tuy nhiên, những người này được ưu tiên hưởng di sản
trong trường hợp ở hàng thứ nhất không có ai hưởng di sản theo luật định hoặc có những
người thừa kế từ chối hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, hoặc trường hợp không
được hưởng thừa kế thì những người thuộc hàng thừa kế thứ hai mới được hưởng di sản. Sở
dĩ như vậy vì ông, bà, anh chị em, cháu không thể là người thừa kế ưu tiên hoặc cùng hàng
so với con, cha, mẹ, vợ, chồng của người chết vì mức độ gần gũi, thân thuộc không thể bằng
những người này nếu xét trên phương diện hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng.
Những người thừa kế thuộc hàng thứ hai được hưởng di sản như nhau theo pháp luật.
Quy định này có sự dung hòa khá cao giữa quan niệm kinh tế và quan niệm đạo đức về cơ
sở của quyền thừa kế. Di sản của người chết để lại cho người thân thuộc trực hệ thuộc bề
trên, một phần để lại cho người thuộc bề dưới và cùng bậc với mình. Nếu chỉ để lại cho
người cao tuổi hơn thì người này sẽ sống được bao lâu để duy trì khối tài sản. Vì vậy, luật
quy định để lại di sản cho lớp người trẻ hơn nhằm phát huy giá trị kinh tế của di sản trên
thực tế.
Như vậy, giữa những người thừa kế ở hàng thứ hai là những người có mối quan hệ
thân thuộc đối với người chết, trong đó có những người thuộc bề trên, có những người cùng
bậc, có những người là bề dưới của người để lại di sản. Việc quy định ông, bà, anh, chị, em
ruột, cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thuộc
hàng thừa kế thứ hai của người để lại di sản sự phù hợp với nguyên tắc của pháp luật thừa
kế dựa trên quan hệ huyết thống nuôi dưỡng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của họ đối với
nhau cả khi còn sống cũng như khi họ chết đi
1.4.3 Hàng thừa kế thứ 3
Hàng thừa kế thứ ba được quy định để dự liệu trường hợp cả hai hàng trên không còn
người thừa kế. Quy định như vậy nhằm đảm bảo sự nối tiếp về quyền sở hữu tài sản trong dòng
họ, đảm bảo quyền lợi của những người thân thích, gần gũi với người để lại di sản. Những
38
người thừa kế ở hàng thứ ba được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015, bao
gồm "cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết;
cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại". Có thể nhận thấy, những người ở hàng thừa kế
thứ ba gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên - dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống. Cụ nội là
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của cha đẻ. Cụ ngoại là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại của mẹ đẻ. Khi người để lại di sản (chắt) chết thì cụ là người thuộc hàng thừa kế thứ ba
của chắt và ngược lại.
So sánh với quy định tương ứng trong BLDS năm 1995, cũng giống như trường hợp
giữa ông bà và cháu, BLDS năm 1995 không xếp chắt là hàng thừa kế thứ ba của cụ nội, cụ
ngoại. Đến BLDS năm 2005 và BLDS 2015 đã có sự bổ sung, khắc phục những hạn chế của
những qui định trước đó, ghi nhận chắt thuộc hàng thừa kế thứ ba của cụ nội, cụ ngoại.
Bác ruột là anh ruột hoặc chị ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của người chết để lại di sản.
Chú ruột là em trai ruột của cha đẻ của người chết để lại di sản. Cậu ruột là em trai ruột của
mẹ đẻ của người chết để lại di sản. Cô ruột là em gái ruột của cha đẻ của người chết để lại di
sản. Dì ruột là em gái ruột của mẹ đẻ của người chết để lại di sản.
Như chúng ta đã biết, trong thực tiễn cuộc sống, cách xưng hô trong gia đình người Việt
Nam rất phong phú và tinh tế, có tôn ti trật tự, thể hiện nét đặc trưng của mỗi vùng miền. Bậc
bề trên của cha mẹ nói chung gọi là là ông bà tổ tiên. Nếu như ở miền Bắc gọi là "cụ" thì ở
miền Trung lại có cách xưng hô là "ông bà cố". Trong mối quan hệ cha mẹ con cái, anh chị em:
cả ba miền Bắc Trung, Nam đều gọi là "cha, ba", ở miền Bắc còn gọi là "bố", miền Nam còn
gọi là "tía", ở miền Trung một vài nơi còn gọi cha bằng chú; cả ba miền đều gọi là "mẹ", ở
miền Bắc thời xưa thường xưng hô là "u, bu", ở miền Nam gọi là "má", miền Trung là "mạ".
Trong mối quan hệ anh chị em của cha mẹ: anh ruột của cha gọi là bác, em trai ruột của cha
gọi là chú, chị ruột của cha gọi là "bác" ở miền Bắc và "cô, o" ở miền Trung, Nam; em gái
ruột của cha gọi là "cô" ở miền Bắc và xưng là "o" ở miền Trung; anh trai ruột của mẹ, ở
miền Bắc gọi là "bác" còn ở miền Trung, Nam lại gọi là "cậu"; chị gái ruột của mẹ, người
miền Bắc gọi là "bác" trong khi người miền Trung, Nam gọi là "dì"; em gái ruột của mẹ đều
được gọi là "dì" ở cả ba miền. Mặc dù cách xưng hô ở các vùng miền có sự khác nhau nhưng
đều chỉ chung một chủ thể và do đó phải tuân thủ theo quy định chung của pháp luật.
Quan hệ thừa kế giữa những người này và người để lại di sản hình thành trên cơ sở mối
39
quan hệ huyết thống bàng hệ giữa hai đời liền kề nhau. Như vậy, khi chia thừa kế theo pháp
luật, những người thừa kế trong cùng một hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau và
theo thứ tự ưu tiên tuyệt đối giữa các hàng.
Tuy nhiên, trên thực tế xét theo trình tự hàng thừa kế và thứ tự ưu tiên, rất hiếm trường
hợp những người ở hàng thứ ba được hưởng thừa kế và việc lập hồ sơ đối với hàng thừa kế
thứ ba gặp nhiều khó khăn so với việc lập hồ sơ đối với hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai. Lý
do là bởi hàng thừa kế thứ ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau,
cả bên nội và bên ngoại của người để lại di sản. Do đó, để xác minh liệt kê, tập hợp được đầy
đủ những người thuộc hàng thừa kế thứ ba không phải là đơn giản và rất dễ xảy ra tình trạng
bỏ sót.
Hàng thừa kế thứ ba được quy định để đảm bảo sự nối tiếp về quyền sở hữu tài sản
trong dòng họ, đảm bảo quyền lợi của một số người thân gần gũi của người chết có di sản
để lại. Nhưng không phải tất cả các văn bản pháp luật về thừa kế ở Việt Nam từ trước đến
nay đều quy định về hàng thừa kế này. Tùy từng giai đoạn phát triển của đất nước mà có sự
thừa nhận khác nhau về hàng thừa kế này.
Việc quy định mở rộng hàng thừa kế đã đảm bảo quyền lợi cho những người có quan
hệ họ hàng với người có di sản để lại khi chết và phù hợp với ý chí của người để lại di sản,
là hoàn toàn phù hợp với quyền lợi của các thành viên trong gia đình, củng cố, phát huy tình
đoàn kết yêu thương, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong gia đình và trong họ hàng.
Với việc ra đời kế thừa ý chí của các văn bản pháp luật trước đó, BLDS 2015 đã hoàn
thiện được hàng thừa kế 1 cách hoàn chỉnh và phù hợp nhất. Phát huy truyền thống gia đình,
uống nước nhớ nguồn, lá rụng về cội của dân tộc Việt Nam ta.
40
Kết luận chương 1
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác
nhau, thừa kế (bao gồm hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật) luôn
được coi là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Thừa kế theo pháp
luật là sự dịch chuyển di sản của người đã chết cho người còn sống theo điều kiện, trình tự
hàng thừa kế. Nội dung chính để xác định những người thừa kế theo pháp luật chính là việc
xác định diện và hàng thừa kế. Theo đó, pháp luật hiện hành quy định diện thừa kế dựa trên
quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với
người để lại di sản. Điểm đặc biệt và tiến bộ là không có sự phân biệt giữa con trai, con gái,
con trong giá thú hay con ngoài giá thú, tất cả đều được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp.
Trên cơ sở diện thừa kế, pháp luật còn quy định cụ thể về hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên dựa
trên tính chất gần gũi với người để lại di sản. Những qui định này không những bảo vệ được
quyền thừa kế của công dân mà còn thể hiện chủ trương đường lối phù hợp với thực tiễn đời
sống xã hội.
41
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
2.1.Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa
kế
2.1.1:Thực trạng giải quyết tranh chấp về thừa kế những năm gần đây
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày càng đa dạng của các
quan hệ xã hội, các tranh chấp về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng ở
nước ta có xu hướng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội dung, đặc biệt là các tranh chấp
thừa kế nhà ở, quyền sử dụng đất bởi đây là loại tài sản có giá trị lớn và có liên quan mật
thiết tới chính sách đất đai của Nhà nước. Thực tiễn giải quyết các trường hợp tranh chấp
thừa kế, Tòa án các cấp đã gặp phải không ít khó khăn.
Chế định thừa kế trong BLDS năm 2015 được đánh giá là ngày một hoàn thiện, nhiều
nội dung mới được luật hóa từng bước đáp ứng yêu cầu xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành
các quy định pháp luật về thừa kế vẫn còn những vướng mắc, có nhiều quan điểm, cách hiểu
trái ngược nhau về các quy định dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Bên cạnh
đó, một số quy định về thừa kế đã không được xây dựng đầy đủ trên nền tảng văn hóa, phong
tục, tập quán của Việt Nam, dẫn đến phát sinh nhiều bất cập trong thực tiễn áp dụng.
Theo thống kê số lượng vụ án giải quyết tranh chấp thừa kế của TANDTC từ năm 2010
– 2019 cho thấy tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp thừa kế trong những năm gần
đây (từ năm 2010 đến 2019) diễn biến rất phức tạp, tăng giảm thất thường, tỉ lệ vụ án phải
giải quyết ngày một nhiều hơn tuy nhiên tỉ lệ tổng các vụ án được giải quyết các vụ án không
tăng, số vụ án còn tồn đọng nhiều. Trong các năm gần đây, tốc độ giải quyết tranh chấp thừa
kế có chiều hướng giảm. Có nhiều nguyên nhân khác nhau như án tranh chấp thừa kế ngày
càng phức tạp, số lượng người thuộc diện thừa kế đông, cư trú ở nhiều địa phương khác
nhau, thậm chí ở nước ngoài, việc lấy ý kiến của họ gặp rất nhiều khó khăn; thái độ không
chấp hành pháp luật của một số đương sự có tính chất quyết liệt hơn, khó thỏa thuận hơn.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả nhận thấy trên thực tế chủ thể tranh chấp di sản thừa kế
tuyệt đại đa số là các cá nhân, đối tượng tranh chấp chủ yếu là quyền sử dụng đất và các tài
sản trên đất như nhà ở, cây lâu năm một số khác là tiền, vàng, đồ dùng sinh hoạt cá nhân…
42
Việc tranh chấp thừa kế yếu tố tình cảm gia đình được đề cao nên tranh chấp thừa kế
thường được giải quyết trong phạm vi gia đình, chỉ tới khi tranh chấp đó tới đỉnh điểm không
thể tự thỏa thuận, hòa giải với nhau buộc những cá nhân, tổ chức được thừa kế và những
người có liên quan khác mới gửi đơn lên yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bên cạnh đó, việc các văn bản hướng dẫn còn thiếu, không đồng bộ có ảnh hưởng lớn
đến việc áp dụng vào giải quyết các vụ án cụ thể (những qui định liên quan đến di sản là
quyền sử dụng đất, liên quan đến diện hưởng thừa kế là con nuôi, con riêng...). Do vậy, mặc
dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng việc xét xử các vụ án tranh chấp thừa kế của Tòa án có tỉ
lệ giải quyết án chưa cao, còn chậm, còn có vụ án bị kéo dài.
Theo quy định tại Điều 649 Bộ luật dân sự 2015 thì: “Thừa kế theo pháp luật là thừa
kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Theo nguyên tắc
phân chia di sản theo trình tự hàng, người thừa kế ở hàng thứ nhất có quyền hưởng di sản
trước tiên so với các hàng thừa kế sau. Thừa kế theo hàng là thừa kế theo trật tự hàng gần
hơn loại hàng xa hơn. Thừa kế theo trật tự hàng mang tính chất tuyệt đối.
Những vụ án cụ thể liên quan đến diện và hàng thừa kế
Vụ án thứ nhất: Tranh chấp chia thừa kế tại tổ 35, cụm 5, phường Xuân La, quận Tây
Hồ, Hà Nội.9
Nội dung án sơ thẩm
Cụ Nguyễn Đình Tân và chết năm 1949 có vợ là cụ Trịnh thị Hợi chết năm 1986.
Hai cụ có 6 người con, gồm:
1. Bà Nguyễn Thị Chung chết năm 1998 có chồng là ông Diễm và có 6 người con
là anh Chiểu, anh Hoài, chị Hân, anh Hoán, chị Thạch và anh Hãn. Trong đó có anh Hãn
chết năm 1996, có vợ là chị Phạm Thị An và con là Nguyễn Minh Nghĩa.
2. Ông Nguyễn Đình Trọng.
3. Ông Nguyễn Đình Thảo.
4. Bà Nguyễn Thị Kính.
5. Bà Nguyễn Thị Hiếu.
9 bản án số 35/ DSPT ngày 02/02/2005 của TAND thành phố Hà Nội đã sửa án sơ thẩm số 11/ DSST ngày 16/8 và 19/8/2004 của TAND quận Tây Hồ.
43
6. Ông Nguyễn Đình Hùng.
Về di sản: Cụ Tân, cụ Hợi có một khối tài sản gồm 01 nhà xây gạch, lợp ngói 5 gian
trên diện tích đất 563 m2 tại tổ 35, cụm 5, phường Xuân La, quận Tây Hồ, Hà Nội, hiện do
ông Trọng đang quản lý, sử dụng.
Ngày 03/3/2003 ông Thảo, ông Hùng có đơn xin chia thừa kế di sản của cụ Tân, cụ
Hợi ( bố, mẹ của hai ông) để lại.
Tại bản án số 11/ DSST ngày 16/8 và 19/8/2004 của TAND quận Tây Hồ đã xử:
Chấp nhận đơn kiện xin chia thừa kế của ông Thảo, ông Hùng.
Xác nhận hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tân, cụ Hợi gồm: ông Thảo, ông Hùng, ông
Trọng, bà Kính, bà Hiếu, bà Chung.
Bà Chung chết năm 1998 nên chồng là ông Diễm và các con là anh Chiểu, anh Hoài,
anh Hoán, chị Hân, chị Thạch và anh Hãn là hàng thừa kế thứ nhất hưởng kỷ phần thừa kế
của bà Chung.
Anh Hãn chết năm 1996 nên chị An là vợ và con là cháu Nghĩa là hàng thừa kế thứ
nhất hưởng kỷ phần thừa kế của anh Hãn.
Trên cơ sở diện và hàng thừa kế xác định như đã nêu trên, quyết định của bản án sơ
thẩm đã phân chia di sản thừa kế của cụ Tân, cụ Hợi để lại cho các đồng thừa kế căn cứ vào
kỷ phần mỗi người được hưởng.
Không đồng ý với quyết định bản án sơ thẩm, ông Thảo, ông Hùng, ông Trọng cùng
có đơn và nộp dự phí kháng cáo theo qui định của pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: Về diện và hàng thừa kế,
cấp sơ thẩm căn cứ vào quan hệ huyết thống xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tân, cụ
Hợi gồm ông Thảo, ông Hùng, ông Trọng, bà Kính, bà Hiếu, bà Chung là có căn cứ, đúng
pháp luật.
Bà Chung chết năm 1998, cấp sơ thẩm căn cứ vào quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết
thống xác định hàng thừa kế thứ nhất của bà Chung gồm ông Diễm (chồng bà Chung) và
các con của bà Chung là anh Chiểu, anh Hoài, anh Hoán, chị Hân, chị Thạch và anh Hãn là
có căn cứ và đúng pháp luật.
Anh Hãn chết năm 1996, cấp sơ thẩm xác định hàng thừa kế thứ nhất của anh Hãn gồm
vợ anh Hãn là chị An và con là cháu Nghĩa. Cấp phúc thẩm nhận định, do anh Hãn chết năm
1996 bà Chung chết năm 1998 (con chết trước mẹ), căn cứ Điều 677 BLDS năm 2005 qui
44
định về thừa kế thế vị, chỉ có cháu Nghĩa con của anh Hãn là người được hưởng di sản của
bà Chung. Chị An không thuộc diện hưởng thừa kế trong trường hợp trên.
Tại án số 35/ DSPT ngày 02/02/2005 của TAND thành phố Hà Nội đã sửa án sơ thẩm
số 11/ DSST ngày 16/8 và 19/8/2004 của TAND quận Tây Hồ trong đó có nội dung chị An
không thuộc diện hưởng thừa kế trong vụ án này.
* Nhận xét: Diện hưởng thừa kế theo quan hệ huyết thống là một trong những căn cứ
quan trọng, cơ bản nhất để xác định người được hưởng di sản thừa kế của người chết để lại.
Thừa kế thế vị là sự phản ánh sâu sắc nhất về diện thừa kế theo quan hệ huyết thống, chỉ có
cháu chắt của người chết mới có quyền hưởng thừa kế của họ trong trường hợp người sinh
ra người cháu, chắt đó chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản.
Vụ án thứ hai: Tranh chấp chia thừa kế nhà đất tại 34 Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội10
Nội dung án sơ thẩm
Cụ Trần Gia Tĩnh có vợ cả là cụ Dương Thị Chi và vợ hai là cụ Lê Thị Chinh.
Cụ Tĩnh, cụ Chi có 6 người con là bà Trang, bà Trại, bà Dinh, ông Cơ, ông Quảng, bà
Phượng.
Cụ Tĩnh, cụ Chinh có 3 người con là ông Võ, ông Hùng, ông Tiến.
Cụ Tĩnh, cụ Chi, cụ Chinh có di sản gồm: Nhà 34 Hàng Gai, nhà 23 và 42 ngõ chợ
Khâm Thiên, nhà 120 ngõ Văn Chương, Hà Nội.
Cụ Tĩnh chết năm 1955, cụ Chi chết năm 1940, cụ Chinh chết năm 1990 đều không có
di chúc.
Tháng 11/2004 bà Trại nộp đơn xin chia thừa kế di sản của cụ Tĩnh, cụ Chi, cụ Chinh
tại TAND quận Hoàn Kiếm theo qui định của pháp luật.
Tại bản án số 21/ DSST 12/6/2005 của TAND quận Hoàn Kiếm đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu xin chia thừa kế của bà Trại. Di sản của cụ Tĩnh, cụ Chi, cụ Chinh
được chia theo pháp luật. Các con của cụ Tĩnh, cụ Chi, cụ Chinh là bà Trang, bà Trại, bà
Dinh, ông Cơ, ông Quảng, bà Phượng, ông Võ, ông Hùng, ông Tiến thuộc hàng thừa kế thứ
nhất, được hưởng di sản của các cụ để lại.
10 bản án số 21/ DSST 12/6/2005 của TAND quận Hoàn Kiếm
45
Do ông Cơ chết năm 1992 và vợ của ông Cơ cũng đã chết trước ông Cơ, nên kỷ phần
của ông Cơ được hưởng từ di sản của cụ Tĩnh, cụ Chi, cấp sơ thẩm đã chia cho các con của
ông Cơ được hưởng. Trong số những người con của ông Cơ có chị Phương chết năm 1997,
kỷ phần của chị Phương được hưởng từ kỷ phần của ông Cơ, cấp sơ thẩm chia cho hai con
của chị là Nga, Hiền.
Quyết định của bản án sơ thẩm bị kháng cáo theo qui định của pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm, anh Đồng chồng chị Phương hiện đang cư trú tại tỉnh Vĩnh Long,
có đơn đề nghị cấp phúc thẩm xem xét bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và xin
được tham gia từ giai đoạn sơ thẩm để có điều kiện trình bày nguyện vọng và quan điểm của
mình.
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ có đủ căn cứ xác
định: anh Đồng là chồng hợp pháp của chị Phương, thuộc diện hưởng thừa kế di sản của chị
Phương cùng các con là Nga và Hiền. Việc tòa án cấp sơ thẩm không đưa anh Đồng tham
gia giải quyết vụ án, là bỏ sót người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của anh Đồng. Anh Đồng có nguyện
vọng được tham gia giải quyết vụ án từ giai đoạn sơ thẩm là hoàn toàn chính đáng, phù hợp
với qui định của pháp luật.
Vì lẽ trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao
hồ sơ vụ án về Tòa án quận Hoàn Kiếm để điều tra xét xử lại theo trình tự sơ thẩm, với thành
phần hội đồng xét xử khác.
* Nhận xét: Quan hệ vợ chồng (quan hệ hôn nhân) đang tồn tại, nếu một người (vợ
hoặc người chồng) chết, người còn sống (chồng hoặc vợ) sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối
với di sản của người chết để lại. Quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng được pháp luật bảo
vệ.
2.1.2 Nguyên nhân của thực trạng những vướng mắc khi xử lý vụ án về diện và hàng thừa
kế theo pháp luật Việt Nam
Thứ nhất: Trình độ hiểu biết về pháp luật của nhân dân còn thấp, đặc biệt là trong quan
hệ thừa kế tài sản nói riêng và thừa kế quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất nói riêng. Nhiều
nơi chịu nhiều ảnh hưởng của các phong tục tập quán lạc hậu. Nhà cửa, đất đai (di sản của
người chết) thường do người con trai trưởng quản lý. Trong suy nghĩ của mọi người, người
con trưởng đương nhiên sẽ thừa kế tất cả đất đai, nhà cửa do cha mẹ để lại; những người con
46
gái đã lập gia đình hoặc chưa lập gia đình thường không biết họ là người đứng cùng hàng
thừa kế với người anh trai hoặc em trai và cùng được hưởng phần di sản như nhau. Chưa kể
đến việc người con nuôi được hưởng di sản của bố, mẹ nuôi; người con riêng có thể được
hưởng di sản của cha dượng, mẹ kế. Sau một thời gian rất dài họ mới hiểu được phần nào
vấn đề này và mới khởi kiện yêu cầu phân chia thừa kế. Lúc này giá trị nhà, đất đã thay đổi
rất nhiều so với thời điểm mở thừa kế.
Hơn nữa, trong khoảng thời gian này, rất nhiều trường hợp thừa kế đang sử dụng quyền
sử dụng nhà, đất (thuộc di sản) đã sửa chữa, cải tạo, làm mới, thậm chí đã chuyển nhượng
một phần di sản đó. Nên việc xác định giá trị di sản phân chia di sản, đánh giá công sức, xác
định người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gặp rất nhiều khó khăn, thời gian giải quyết vụ
án bị kéo dài.
Thứ hai: Nguyên nhân từ các chủ thể trong quan hệ thừa kế, Người dân còn e ngại vào
việc tham gia tố tụng dân sự, do thời gian tố tụng kéo dài, tốn kém về tiền bạc ảnh hưởng
tới thời gian làm việc, sinh hoạt công dân. Mặt khác các tranh chấp về thừa kế nói chung và
thừa kế theo pháp luật nói riêng không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà còn gây thiệt hại sâu
sắc về tình cảm của các thành viên trong gia đình do truyền thống của nhân dân ta từ trước
tới nay rất tôn trọng truyền thống đạo đức tình cảm gia đình do vậy các tranh chấp thường
được giải quyết bằng yếu tố tình cảm. Qúa trình đang xử lý do yêu cầu các đương sự nên vụ
việc cũng làm kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, xuất phát từ công tác điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ. Việc thu thập chứng
cứ gặp nhiều khó khăn do những vụ án tranh chấp thừa kế thường liên quan đến rất nhiều thế
hệ có thể cư trú ở nhiều nơi khác nhau, tài sản cũng phong phú đa dạng và phát sinh từ nhiều
nguồn khác nhau. Đặc biệt, các vụ án tranh chấp về thừa kế có yếu tố nước ngoài thường khá
phức tạp về cả chủ thể và đối tượng tranh chấp, nên khó tránh khỏi tình trạng bị kéo dài. Mặt
khác, theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, nghĩa vụ chứng minh và cung cấp
chứng cứ thuộc về đương sự, Tòa án chỉ tiến hành điều tra xác minh khi cần thiết. Tuy nhiên,
khi giải quyết các vụ án cụ thể, Tòa án thường phải tự điều tra, thu thập chứng cứ để xây
dựng hồ sơ vụ án. Bản thân các đương sự trong nhiều trường hợp, vì nhiều lý do khác nhau
không tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án điều tra mà còn có những hành vi gây cản trở làm
cho việc giải quyết vụ án càng khó khăn, phức tạp hơn.
Thứ tư, liên quan đến nhận thức của người dân về pháp luật thừa kế còn hạn chế. Cũng
47
như nhận thức về pháp luật nói chung của người Việt Nam, nhận thức pháp luật về thừa kế
của người dân còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn
nhiều khó khăn. Nhiều địa phương vẫn còn chịu ảnh hưởng của các phong tục tập quán lạc
hậu. Xuất phát từ nhận thức pháp luật còn hạn chế, người dân không nhận thấy được tranh
chấp về thừa kế có nguy cơ xảy ra nên chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc kê khai tài
sản hoặc lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi qua đời. Điều này dẫn đến việc xác
định tài sản gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như trường hợp tài sản ở nhiều nơi.
Thứ năm: Trong điều kiện tác động của nền kinh tế thị trường, con người ngày càng
coi trọng giá trị của đồng tiền hơn. Điều đó tác động tới các quan hệ thừa kế liên quan đến
di sản có giá trị lớn: nhà, đất, số vốn dùng trong kinh doanh, đầu tư...Nên khi tòa án các cấp
đưa vụ án ra xét xử, quyết định của bản án có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của những
người thừa kế, do đó không tránh khỏi hiện tượng phần lớn các đương sự tìm cách chống
đối, nhằm mục đích làm thay đổi quyết định của bản án hoặc kéo dài thời gian giải quyết vụ
án. Trong khi chế tài áp dụng giải quyết các tranh chấp dân sự còn đơn giản thì hiện tượng
nêu trên cũng tạo thêm sự phức tạp, kéo dài trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế. Ngoài
ra hiện nay đối tượng di sản thừa kế không chỉ dưng lại ở tài sản là nhà, đất mà sẽ mở rộng
ở nhiều đối tượng tài sản có giá trị khác (trị giá vốn đầu tư, kinh doanh cổ phiếu, trái
phiếu...),hơn nữa kinh tế ngày càng phát triển một phần sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến mối
quan hệ nuôi con nuôi, mối quan hệ giữa con riêng với bố mẹ, mẹ kế. Làm cho các mối quan
hệ này phong phú thêm, nhưng cũng nãy sinh nhiều sự phức tạp mới. Điều này cũng góp
phần làm cho các loại án tranh chấp về quyền thừa kế tăng thêm, phức tạp hơn.
Thứ sáu: Hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ thừa kế nói chung, diện và hàng
thừa kế nói riêng còn tương đối “mỏng”, tồn tại khá nhiều các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực này nhưng không có văn bản kịp thời hướng dẫn điều chỉnh, điều đó tạo cho các
cấp Tòa án gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Các quy
định của pháp luật về thừa kế có tính ổn định không cao của pháp luật dân sự, chế độ tài sản
ở Việt nam chưa minh bạch đặc biệt là pháp luật đất đai, dẫn đến đường lối giải quyết các
tranh chấp không ổn định, mỗi lần pháp luật có thay đổi lớn gây ra những lúng túng trong
việc áp dụng, đặc biệt trong quan điểm giải quyết các của các ngành, các thẩm phán... Do
vậy không ít bản án bị cai, sửa, hủy gây kéo dài thời gian giải quyết các tốn kém tiền bạc
của nhân dân. Nhiều thẩm phán đã kiến nghị để áp dụng thống nhất và tránh những tranh
48
chấp xảy ra trên thực tế, cần phải có sự hướng dẫn cụ thể về việc con riêng và bố dượng, mẹ
kế có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con là như thế nào? Cụ thể là
hướng dẫn về phạm vi chăm sóc, nuôi dưỡng; thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng; độ tuổi... Sự
hướng dẫn cụ thể về một số tiêu chí xác định quan hệ “như cha con, mẹ con” sẽ là cơ sở để
các thẩm phán vận dụng, tránh việc xem xét mối quan hệ theo ý chí chủ quan và đôi khi
không đáp ứng các quyền lợi của cá bên trong quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng,
mẹ kế.
Thứ bảy: Việc áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn còn thiếu thống nhất,
thiếu tính linh hoạt, mềm dẻo. Có cơ quan này thì áp dụng cứng nhắc yêu cầu các tài liệu
một cách dập khuôn, máy móc làm ảnh hưởng tới các quyền lợi của đương sự. Bên cạnh đó
trình độ hiểu biết pháp luật của các cơ quan áp dụng pháp luật chất lượng còn kém, đặc biệt
là các quận, huyện vùng sâu vùng xa, chưa bắt kịp với nhu cầu thực tế phát sinh. Do vậy ảnh
hưởng trực tiếp tới thu thập, đánh giá chứng cứ cũng như việc áp dụng các văn bản pháp luật
còn thiếu chặt chẽ, sâu sắc và thiếu thống nhất giữa các cơ quan chuyên môn, việc giải quyết
vụ án thiếu tính thuyết phục ảnh hưởng tới thời gian giải quyết của các vụ án kéo dài.
2.1.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật- Một số điểm hạn chế
Về các hàng thừa kế theo quy định tại điều 651 BLDS, còn tồn tại một số vấn đề mà ta cần
phải xem xét sau:
– Thứ nhất, về phạm vi những người thừa kế theo hàng: Nếu xét theo đời từ trên xuống
theo quan hệ huyết thống trực hệ thì có các cụ nội của người để lại di sản là bậc trên và bâc
thấp nhất có các chắt của người để lại di sản. Như vậy, đã có 06 đời theo quan hệ huyết
thống thuộc hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Sáu đời có quan hệ huyết
thống trực hệ, nếu xét về quan hệ huyết thống theo thời gian trung bình của thế hệ này đến
thế hệ kia theo cách tính trung bình khoảng từ mười năm đến hai mươi năm thì tổng số năm
của 06 đời thấp nhất là 100 năm và cao nhất là 120 năm. Cách dự liệu của pháp luật về những
người thừa kế theo trình tự hàng là tương đối hiện thực và phù hợp với quy luật tự nhiên của
cuộc sống con người. Theo cách tính huyết thống bàng hệ thì có chú, bác, cô, dì, cậu ruột
của người để lại di sản; có anh, chị, em của người để lại di sản và có các con của anh, chị,
em ruột của người để lại di sản.
– Thứ hai, xét về cơ cấu người trong một hàng thừa kế.
49
+ Tại hàng thừa kế thứ nhất: Bề trên có cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người để
lại di sản; ngang bậc có vợ chồng bề dưới có các con đẻ, con nuôi của người chết. Tại hàng
thừa kế thứ nhất gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ với người để lại di sản bề
trên và bề dưới; có quan hệ hôn nhân giữa vợ hoặc chồng của người chết. Những người này
có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau và là diện đương nhiên của nhau theo quy định của
pháp luật. Xét về bản chất của pháp luật thừa kế thì những người được quy định tại hàng
thừa kế thứ nhất là phù hợp. Tuy nhiên vợ chồng có quyền thừa kế theo pháp luật của nhau
tại hàng thừa kế thứ nhất không hẳn là không có những quan điểm khác nhau. Có quan điểm
cho rằng không nên xếp vợ hoặc chồng của người để lại di sản vào hàng thừa kế thứ nhất
của nhau. Vì thừa kế có bản chất là để lại cho các con, các cháu của người chết được hưởng,
còn vợ hoặc chồng của người này đã có một nửa tài sản với tư cách là đồng sở hữu chung
hợp nhất được chia rồi. Tuy vậy, pháp luật quy định vợ và chồng có quyền thừa kế di sản
của nhau nhằm xác định quan hệ bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ nhân thân và tài sản.
Địa vị pháp lý của người vợ và người chồng được đặt ngang với quan hệ huyết thống. Đây
là một cuộc cách mạng xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ và mất bình đẳng trong quan hệ
vợ chồng. Dù nhiều quan điểm khác nhau xung quanh việc vợ chồng có quyền thừa kế di
sản tại hàng thừa kế thứ nhất tính đến thời điểm hiên nay là phù hợp.
Vì vợ và chồng có quan hệ hôn nhân, là đại diện đương nhiên của nhau và còn có nghĩa
vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp một bên không có khả năng lao động. Vợ
và chồng là những người có quan hệ thân thiết nhất, theo đó họ co nghĩa vụ theo luật định
đối với nhau và có quyền thừa kế di sản của nhau là hợp lý.
+ Tại hàng thừa kế thứ hai, gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên và
bề dưới với người để lại di sản là ông, bà nội, ngoại. Những người có quan hệ huyết thống
bàng hệ là anh, chị, em ruột của người để lại di sản.
Theo quy định trên pháp luật đã quan tâm đến về cơ cấu địa vị pháp lý của chủ thể trong
quan hệ thừa kế theo hàng, vì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại được thừa kế của cháu
ruột, và ngược lại cháu ruột được thừa kế của ông bà trong cùng một hàng. Quy định đối
xứng như vậy đã làm rắc rối thêm cho việc giải quyết liên quan đến việc hưởng di sản thừa
kế theo hàng thừa kế thứ hai. Bởi vì, cháu đã được thừa kế thế vị tại điều 677 BLDS, do vậy
không nên quy định các cháu nội, ngoại của người để lại di sản trong hàng thừa kế thứ hai.
Nếu quy định như pháp luật hiện hành thì cháu là một chủ thể được ưu tiên hưởng di sản
50
thừa kế nếu không thừa kế thế vị thì thừa kế theo hàng khi có đủ các điều kiện nhận di sản
theo hàng thừa kế thứ hai hoặc thừa kế thế vị của ông bà nội, ngoại.
+Tại hàng thừa kế thứ ba, cũng theo phép đối xứng như hàng thừa kế thứ hai các cụ nội,
ngoại được thừa kế theo hàng thừa kế thứ ba của chắt, theo đó chắt cũng được thừa kế thứ
ba của người chết mà người chết là cụ nội, ngoại. Chắt được quy định thừa kế thế vị theo
quy định tại điều 677 BLDS, không nên quy định chắt được thừa kế theo hàng thừa kế thứ
ba. Bởi vì, theo logic chắt được hưởng thừa kế thế vị là một cách hưởng di sản theo quy
định của pháp luật lợi ích của chắt được bảo đảm trong quan hệ thừa kế thế vị, là hưởng di
sản có điều kiện cha, mẹ chắt chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản mà
không phải tuân theo nguyên tắc hàng thừa kế
Thứ ba, hàng thừa kế thứ hai cháu chỉ được thừa kế của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại khi ở hàng thừa kế thứ nhất có một người thừa kế là cha đẻ (mẹ đẻ) bị mất quyền
hưởng di sản hoặc có nhiều người thừa kế nhưng tất cả đều không có quyền hưởng di sản
hoặc không nhận di sản, thì cháu cùng với anh chị em ruột của người chết sẽ được hưởng di
sản của ông bà. Trên thực tế trường hợp này rất khó xảy ra. Mặt khác, quan hệ giữa cháu nội
với ông nội, bà nội là quan hệ huyết thống trực hệ và nếu xét về quan hệ gia đình truyền
thống thì giữa ông nội, bà nội và cháu nội là một gia đình, cháu phải nuôi dưỡng thờ cúng
ông bà, cho nên cháu cần được hưởng di sản trước anh chị em ruột của người chết. Trường
hợp không có cháu hoặc chắt thì anh chị em ruột được hưởng di sản của người chết.
Thứ tư, theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 thì cháu ở
hàng thứ hai chỉ được nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi hàng thứ nhất
có một người thừa kế duy nhất còn. Trường hợp này nếu cha đẻ, mẹ đẻ của cháu không nhận
hoặc không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thì di sản chia cho
người thừa kế hàng thứ hai là cháu. Ngược lại, nếu hàng thứ nhất nhiều người thừa kế trong
đó có một người là cha hoặc mẹ cháu không nhận di sản, không có quyền nhận di sản… Thì
phần di sản lẽ ra cha mẹ cháu được hưởng sẽ chia cho những người thừa kế cùng hàng là cô,
dì, chú, bác ruột của cháu. Trường hợp này vô hình chung những người thừa kế hàng thứ
nhất được hưởng nhiều hơn một suất theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo quyền lợi của
các cháu, pháp luật nên cho phép cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu không
được hưởng.
51
Thứ năm, khoản 3 Điều 651 Bộ luật dân sự quy định những người thừa kế hàng sau
chỉ được hưởng di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết…Quy định này
mâu thuẫn với Điều 652 là cháu thừa kế thế vị khi bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, vì vậy nếu cháu thế vị thì hàng thứ hai hoặc thứ ba
không được hưởng di sản.
2.1.4 Kiến nghị hoàn thiện
Hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật
nói riêng không chỉ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người có quyền hưởng
thừa kế cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba nói chung, mà còn tạo hành
lang pháp lý cần thiết cho Tòa án giải quyết các tranh chấp phát sinh. Trên tinh thần đó, việc
hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật cần phải đảm bảo những yêu
cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải đảm bảo được sự phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay, phát huy được tính tích cực của quy điṇ h về
thừa kế theo pháp luật. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tế mở đó đã tạo ra nhiều thay đổi trong đời
sống xã hội đồng thời cũng tạo ra khó khăn, thách thức mới. Để cho các quan hệ thừa kế theo
pháp luật nói chung và thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài nói riêng diễn ra một cách
thuận lợi, để quyền và lợi ích của những người thừa kế được đảm bảo trong cơ chế mới, thì
hệ thống pháp luật về thừa kế phải thường xuyên được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, xích lại gần với thông lệ, chuẩn mực chung
của pháp luật quốc tế.
Thứ hai, phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Pháp luật về
thừa kế hiện hành ở Việt Nam hiện nay chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới của đất nước và
xu thế hội nhập đời sống kinh tế quốc tế. Nhiều qui định của pháp luật còn chưa cụ thể, chưa
rõ ràng, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất quán trong cách hiểu
cũng như giải quyết tranh chấp làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp về thừa kế
của công dân. Quy định về thừa kế theo pháp luật không chỉ được điều chỉnh bằng BLDS
mà còn liên quan đến các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật HN&GĐ, Luật Nuôi
con nuôi, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng cũng
như đảm bảo được quyền lợi chính đáng của công dân trong quan hệ thừa kế, cần phải có sự
thống nhất nội dung giữa BLDS và các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn.
52
Thứ ba, phải đảm bảo tính khả thi của các quy phạm pháp luật trên thực tế. Đây là yêu
cầu rất quan trọng được đặt ra trong suốt quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy phạm pháp
luật. Những qui định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật phải có khả năng đi vào cuộc
sống, phản ánh chính xác, kịp thời những vấn đề đặt ra từ thực tiễn chứ không thể chỉ dừng lại
trên giấy tờ. Sẽ là vô nghĩa và gây ra những tốn kém không cần thiết cả về thời gian, công
sức, chi phí khi văn bản được ban hành xa rời thực tế.
Thứ tư, Đối với thừa kế theo pháp luật nên cấu trúc lại điều 651 về thừa kế theo pháp
luật.
Nên chia điểm b điều 651 thành 2 hàng (hàng 2 và 3) thừa kế.
Hàng thứ nhất gồm: cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi người chết.
Hàng thứ hai gồm: cháu gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Hàng
thứ ba gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột của
người chết.
Hàng thứ tư gồm cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột,
dì ruột của người chết; cháu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là
cụ nội, cụ ngoại.
Xét về quan hệ huyết thống trực hệ thì cháu ruột với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại gần gũi hơn quan hệ anh, chị, em ruột với nhau. Về quan hê nuôi dưỡng, cháu có nghĩa
vụ nuôi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại nếu không có người nuôi dưỡng. Mặt khác, theo
tập quán thì cháu phải thờ cũng ông, bà. Vì những lẽ trên, quy định cháu ở hàng thứ hai là
phù hợp.
Trường hợp không xếp cháu là hàng thứ hai thì không nên quy định về thừa kế thế vị
như Điều 677 sẽ hạn chế quyền lợi của các cháu khi mà bố hoặc mẹ từ chối, không có quyền
nhận di sản của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại, thì cháu không hưởng di sản của
ông nội, bà nội, hoặc ông ngoại, bà ngoại.Vì vậy nên quy định là trường hợp bố hoặc mẹ từ
chối, không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại thì các con
của người từ chối nhận di sản (cháu) sẽ hưởng di sản của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà
ngoại.
53
2.2 So sánh diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt nam với quy định
của một số nước trên thế giới
2.2.1 Diện và hàng thừa kế của Nhật Bản
Luật dân sự Nhật Bản theo hệ thống pháp luật quy định tại (điều 967 và điều 984)
- Hình thức di chúc: Di chúc viết tay không công chứng, di chúc viết tay có công
chứng, di chúc bí mật và di chúc theo thể thức khác.
• Di chúc theo pháp luật:
- Hàng thừa kế: Nhật bản có 3 hàng thừa kế:
Hàng thứ 1: Con của người chết, cháu người chết (nếu người thừa kế chết trước người
để lại di chúc, hoặc mất quyền hưởng di chúc
Hàng thứ 2: Là người cùng huyết thống thuộc trực hệ tôn(huyết thống bề trên)
Hàng thứ 3: Anh chị em ruột của người chết
Từ đó cho thấy rằng vợ (chồng) người chết không liệt vào hàng thừa kế nào nếu trên.
Theo điều 890-BLDS Nhật bản:” Vợ chồng của người để lại thừa kế trở thành người thừa
kế trong mọi trường hợp. Trong trường hợp có bất cứ người nào trở thành người thừa kế phù
hợp với các qui định của ba điều trên thì trật tự thừa kế của vợ(chồng) sẽ ngang hàng với
người đó
- Điều 900-BLDS Nhật Bản thì việc chia thừa kế cùng hàng nếu có từ hai người thừa
kế cùng hàng trở lên sẽ được qui định như sau: Khi vợ chồng, con cái là những người thừa
kế cùng hàng thì vợ chồng được 1/3, con cái được 2/3. Khi vợ chồng và người thân trực hệ
phía dưới là người thừa kế thì mỗi người được một nửa. Khi vợ chồng và anh chị em ruột là
người thừa kế thì vợ chồng được 2/3 còn anh chị em ruột được 1/3.
- Nếu có nhiều con cái hoặc người thân trực hệ bề trên hoặc nhiều anh chị em ruột thì
các phần chia thừa kế sẽ bằng nhau.
- Diện thừa kế : Qua hàng thừa kế thì có thể đánh giá diện thừa kế có 3 diện: Theo
huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng.
- BLDS Nhật bản đã nêu rõ con của người để lại di sản là người thừa kế ngoài ra theo
điều này còn nói rõ nếu con của người để lại di sản chết trước, bị mất quyền thừa kế trước
thời điểm mở thừa kế do bị rơi vào các qui định ở điều 891 (Qui định về những người không
được hưởng thừa kế) hoặc do quyết định của Tòa án thì con cái của người đó được hưởng
thừa kế thay.
54
- Qui định này có điểm tương đồng với qui định về thừa kế thế vị ở nước ta là con được
hưởng di sản thừa kế của cha nếu cha chết trước, nhưng cũng có điểm khác là đối với những
người không được quyền hưởng thừa kế thì con cháu của người đó vẫn được hưởng.
• So sánh với pháp luật Việt nam:
Về mối quan hệ hôn nhân. Khác với luật Việt Nam, trong bộ luật dân sự Nhật bản ta
có thể thấy rõ vợ (chồng) của người chết không được liệt vào hàng nào trong ba hàng thừa
kế nêu trên. Theo điều 890-BLDS Nhật bản:” Vợ chồng của người để lại thừa kế trở thành
người thừa kế trong mọi trường hợp” Trong trường hợp có bất cứ người nào trở thành người
thừa kế phù hợp với các qui định của ba điều trên thì trật tự thừa kế của vợ (chồng) sẽ ngang
hàng với người đó. Theo điều này thì nếu người thừa kế là các con của người chết thì người
vợ (chồng) sẽ được tính là người thừa kế cùng hàng các con. Nếu người chết không có con
thì vợ (chồng) sẽ được tính cùng hàng với những người thân trực hệ theo qui định hoặc cùng
hàng với anh chị em ruột. Điểm thứ ba là sự khác biệt về qui định về chia thừa kế giữa những
người cùng hàng. Ở Việt Nam những người cùng hàng được chia di sản ngang bằng nhau
nhưng theo điều 900-BLDS Nhật Bản thì việc chia thừa kế cùng hàng nếu có từ hai người
thừa kế cùng hàng trở lên sẽ được qui định như sau: Khi vợ chồng, con cái là những người
thừa kế cùng hàng thì vợ chồng được 1/3, con cái được 2/3. Khi vợ chồng và người thân trực
hệ phía dưới là người thừa kế thì mỗi người được một nửa. Khi vợ chồng và anh chị em ruột
là người thừa kế thì vợ chồng được 2/3 còn anh chị em ruột được 1/3. Nếu có nhiều con cái
hoặc người thân trực hệ bề trên hoặc nhiều anh chị em ruột thì các phần chia thừa kế sẽ bằng
nhau.
Như vậy ta có thể thấy rõ dù trong bất kì trường hợp nào nếu người vợ chồng còn sống
thì họ sẽ được nhận một phần tài sản tương đối lớn so với những người khác. Chứng tỏ pháp
luật Nhật Bản coi trọng mối quan hệ hôn nhân hơn Việt Nam rất nhiều điều này khiến cho
mối quan hệ vợ chồng càng trở nên thiêng liêng. Cũng theo điều 900 này thì phần của con
không hợp pháp sẽ bằng ½ phần của con hợp pháp, anh chị em cùng cha khác mẹ cùng mẹ
khác cha sẽ bằng ½ anh chị em cùng cha cùng mẹ đối với người thừa kế. Đây cũng là một
điểm đáng lưu ý vì theo luật Việt nam chỉ có anh chị em ruột được quyền hưởng thừa kế của
nhau, anh chị em nuôi dù hợp pháp cũng không được hưởng. Anh chị em ngoài giá thú dù
không hợp pháp theo pháp luật vẫn được hưởng thừa kế.
55
2.2.2 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật cộng hòa Pháp
*Diện thừa kế
Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản được xác định trên cơ sở
quan hệ huyết thống, quan hệ vợ chồng giữa người thừa kế và người để lại di sản. So với
pháp luật thừa kế của Việt Nam thì diện thừa kế được xác định trên ba cơ sở là quan hệ huyết
thống, quan hệ vợ chồng và quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế và người để lại di sản,
mặt khác pháp luật Pháp quy định về diện thừa kế chủ yếu là thừa kế dựa trên quan hệ huyết
thống.
• Hàng thừa kế
Trên cơ sở diện thừa kế, bộ luật dân sự cộng hòa Pháp chia thành các hàng thừa kế:
Hàng thừa kế thứ nhất: Những người bề dưới (con của người chết, không phân biệt độ
tuổi, giới tính, không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ)
Hàng thừa kế thứ hai: Những người thừa kế phía trên. Nếu như không có những người
thừa kế trực hệ phía dưới thì những người thừa kế trực hệ phía trên sẽ thừa kế di sản theo
nguyên tắc người ở bậc gần nhất sẽ loại trừ người ở bậc xa hơn và mỗi người hưởng một
suất bằng nhau.
Trong dòng trực hệ có bao nhiêu đời giữa mọi người là có bấy nhiêu bậc: con đối với
cha là bậc một, cháu đối với ông bà là bậc hai và ngược lại (điều 737-BLDS cộng hòa Pháp).
Trong dòng bàng hệ các bậc cũng tính theo các đời: Từ một người trong các thân thuộc
đến ông tổ chung và không tính ông tổ chung rồi từ ông tổ chung đến người kia: anh em là
bậc hai, chú cháu là bậc ba (điều 738-BLDS cộng hòa Pháp).
Hàng thừa kế thứ ba: Anh chị em của người chết hoặc các con của người đó (trường
hợp bố, mẹ, con của người chết không còn vào thời điểm mở thừa kế hoặc người chết không
có con thì anh chị em hoặc các con của những người đó được hưởng thừa kế (điều 750-
BLDS cộng hoà Pháp).
Hàng thừa kế thứ tư: vợ, chồng người chết; vợ, chồng mà bản án xử ly thân chưa có
hiệu lực pháp luật. Khi người chết không còn người thân trực hệ và không còn một anh chị
em hay cháu nữa thì vợ chồng mới được quyền thừa kế. Chứng tỏ quyền thừa kế của vợ
chồng không được coi trọng khác hẳn với ở Việt Nam, vì theo pháp luật Việt Nam vợ chồng
của người chết thuộc hàng thừa kế thứ nhất, có sự khác biệt về luật pháp này là do sự khác
nhau giữa quan niệm đạo đức, giữa lối sống đạo đức của người phương đông với lối sống
56
phóng khoáng của người phương tây. (Điều 765-BLDS cộng hòa Pháp: "Khi người chết
không còn thân thuộc đến bậc có thể thừa kế hoặc chỉ để lại những thân thuộc bàng hệ không
phải là anh chị em hoặc ti thuộc của anh, chị, em, tài sản thừa kế đương nhiên hoàn toàn
thuộc về vợ chồng không ly hôn còn sống và không có bản án xử ly thân đã có hiệu lực pháp
luật") .
• So sánh với pháp luật Việt Nam:
Nếu như ở Việt nam, những người thừa kế cùng hàng được chia phần như nhau thì ở
Pháp lại có một số điểm khác biệt. Điều 733-BLDS cộng hoà Pháp qui định di sản phải được
chia làm hai phần cho bên nội và ngoại của người chết rồi mới chia cho những người thừa
kế tùy theo bên nội. Như vậy ví dụ nếu bên nội còn một người thừa kế, bên ngoại ba người
thì người thừa kế bên nội sẽ nhận được phần di sản bằng ba người bên ngoại. Con cái được
hưởng phần thừa kế của cả hai bên nội ngoại. Đối với con cái cùng mẹ khác cha hoặc cùng
cha khác mẹ thì họ được hưởng phần tùy theo họ của mình. Về quyền thừa kế của vợ (chồng),
theo điều 765-BLDS cộng hòa Pháp: "Khi người chết không còn thân thuộc đến bậc có thể
thừa kế hoặc chỉ để lại những thân thuộc bàng hệ không phải là anh chị em hoặc ti thuộc của
anh, chị, em, tài sản thừa kế đương nhiên hoàn toàn thuộc về vợ chồng không ly hôn còn
sống và không có bản án xử ly thân đã có hiệu lực pháp luật". Theo điều này thì khi người
chết không còn người thân trực hệ và không còn một anh chị em hay cháu nữa thì vợ chồng
mới được quyền thừa kế. Chứng tỏ quyền thừa kế của vợ chồng không được coi trọng khác
hẳn với ở Việt Nam và càng khác xa so với Nhật. Sự khác biệt về luật pháp này có lẽ do sự
khác nhau giữa quan niệm đạo đức, giữa lối sống đạo đức của người phương đông với lối
sống phóng khoáng của người phương tây.
2.2.3 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Nga
Ở nước Nga cũng như Việt Nam, chế định về thừa kế được chia thành thừa kế theo
pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Trước hết, ta xem xét trên phương diện thừa kế theo pháp luật. Nga là nước đầu tiên
bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó việc nghiên cứu pháp luật của Nga là rất phù
hợp cho việc phát triển pháp luật Việt Nam.
• Hàng thừa kế
Bộ luật dân sự Nga chia diện những người thừa kế ra 7 hàng với các qui định tương
đối giống với Việt Nam (điều 1141-BLDS Nga): Hàng trên thừa kế trước, hàng dưới thừa
57
kế sau; nhưng điều này vẫn có khác so với pháp luật thừa kế ở Việt Nam. Vì theo khoản 1
điều 651 BLDS 2015 thì chia diện những người thừa kế ra 3 hàng. Theo pháp luật nước Nga
thì tại các điều 1142, điều 1143, điều 1144 thì những người thừa kế sau chỉ được hưởng thừa
kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước hưởng di sản thừa kế (giống khoản 2 điều 651
BLDS 2015 của Việt Nam).
Những người thừa kế cùng hàng được chia phần bằng nhau (điều 1146 BLDS Liên
Bang Nga), cũng áp dụng các qui định về thừa kế thế vị đối với các hàng thừa kế. (điều 1146
BLDS Liên Bang Nga), đồng thời khi quy định về thừa kế thế vị thì pháp luật nước nga quy
định người thừa kế hợp pháp bị tước quyền thừa kế thì không được thừa kế thế vị (khoản 2
điều 1446 BLDS Liên Bang Nga). Ba hàng thừa kế đầu bao gồm những người theo trình tự
ưu tiên hưởng di sản tương tự như điều 651 của nước ta (điều1142-1144). Những hàng thừa
kế sau họ áp dụng phương pháp tính bậc tương tự như của nước cộng hòa Pháp để xác định
mối quan hệ thân thuộc của những người thân thích khác đối với người chết.
Qua đó họ xác định những người thừa kế ở ba hàng sau bao gồm: (điều 1145-BLDS
Nga. Hàng thừa kế thứ 4 bao gồm những thân thích bậc 3. Hàng thừa kế thứ 5 bao gồm
những thân thích bậc 4. Hàng thừa kế thứ 6 bao gồm những thân thích bậc 5. Hàng thừa kế
thứ bảy là những người không có mối quan hệ huyết thống với người chết là: Con riêng, bố
dượng, mẹ kế.
Pháp luật Nga cũng có những qui định về trường hợp nuôi con nuôi nhưng khác với
Việt Nam, luật pháp Nga không công nhận quyền thừa kế của con nuôi đối với cha mẹ nuôi
và ngược lại (khoản 2 điều 1147).
Diện thừa kế
theo pháp luật VN dựa trên 3 quan hệ là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và
quan hệ nuôi dưỡng. Và theo pháp luật Nga thì diện thừa kế cũng tương tự như VN. Đặc
biệt trong chế định thừa kế theo pháp luật của Liên Bang Nga còn quy định về người nhận
di sản (người hưởng thừa kế) là trẻ em (điều 1147) và người tàn tật (điều 1148).
• So sánh với pháp luật Việt Nam:
Như vậy, thông qua việc tìm hiểu về chế định thừa kế theo pháp luật các nước trong
đó có nước Nga để đối chiếu, so sánh với pháp luật Việt Nam chúng ta nhận thấu chế định
thừa kế giữa 2 nước có một số điểm tương đồng nhưng phần lớn là khác nhau. Sở dĩ có sự
khác nhau như vậy là vì 2 nước Việt Nam và Nga là 2 nước có chế độ chính trị khác nhau là
58
Xã Hội Chủ Nghĩa và Tư Bản Chủ Nghĩa. Do đó pháp luật chịu ảnh hưởng bởi chế độ chính
trị là điều tất yếu.
2.2.4 Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Iran
Iran là nước mà phần đông dân số theo đạo Hồi, một đạo không mấy phổ biến ở nước
ta. Do đó pháp luật thừa kế của Iran cũng có nhiều điểm giống và khác biệt so với pháp luật
thừa kế Việt Nam.
Trước hết là căn cứ xác định quyền thừa kế. Như các nước Pháp, Nhật, Iran cũng xác
định quyền thừa kế dựa theo hai mối quan hệ chính là quan hệ huyết thống và quan hệ hôn
nhân theo điều 861-BLDS của nước cộng hòa Hồi giáo Iran (The civil code of the Islamic
repuclic of Iran).
Thứ hai là các quy định về diện và hàng thừa kế: Xét theo mối quan hệ huyết thống,
luật pháp Iran cũng chia ra làm 3 hàng thừa kế ( điều 862):
- Hàng thứ nhất: Cha mẹ và con của người chết
- Hàng thứ hai: Ông bà, anh chị em và con gái của anh chị em người chết ( cháu ruột)
- Hàng thứ ba: Cô, dì, chú ,bác và con cái của họ
Điều 864 – BLDS Iran:” Một ví dụ về những người thừa kế theo quan hệ hôn nhân là
vợ chồng hoặc những người vợ, chồng còn sống của người chết “ .
So sánh với pháp luật Việt Nam
Vậy là đối với hàng thừa kế cả ba hàng thừa kế theo luật của Iran đều khác biệt với luật
Việt Nam. Hàng thứ nhất chỉ có cha mẹ và con chứ không có vợ hoặc chồng của người chết.
Cháu ruột được đưa lên thừa kế ở hàng thứ hai khác với qui định ở hàng thứ ba của nước ta.
Hàng thứ ba của luật Iran chỉ có cô dì chú bác và con cái họ mà không có trường hợp cụ và
chắt. Ở đây ta có thể thấy luật pháp Iran có một điểm khá kì lạ đó là nếu bác chết thì cháu
ruột được hưởng thừa kế ở hàng thứ hai nhưng khi cháu chết bác lại được thừa kế ở hàng
thứ ba và anh em họ cũng được hưởng quyền thừa kế ở hàng thứ ba của nhau chứ không như
ở Việt Nam anh em họ chỉ có thể hưởng thừa kế trong trường họp thừa kế thế vị. Theo luật
Iran, vợ chồng được xét vào diện thừa kế nhưng lại không thuộc các hàng thừa kế trên mà
thuộc các qui định thừa kế về mối quan hệ hôn nhân.
59
KẾT LUẬN
Tuy còn những hạn chế nhất định nhưng có thể khẳng định rằng: Pháp luật thừa kế
được ban hành đã phản ánh mức độ phát triển của công tác lập pháp ở nước ta phát triển phù
hợp với giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa được thành lập năm 1945 đến khi pháp luật về thừa kế được sửa đổi và ban hành
trong BLDS năm 2005, tiếp sau đó là BLDS 2015. Chúng ta đã có một văn bản pháp luật có
chứa đựng các quy phạm pháp luật tương đối tổng hợp, toàn diện và thống nhất để điều
chỉnh quan hệ thừa kế nói chung và quan hệ thừa kế theo pháp luật nói riêng ở nước ta. Pháp
lệnh thừa kế không phủ định mà còn có tính kế thừa, củng cố và phát triển các nguyên tắc
cơ bản về thừa kế đã được quy định tại BLDS năm 1995. Hơn nữa, đó còn là hệ quả của sự
vận động trong tiến trình hoàn thiện thêm một bước pháp luật thừa kế ở Việt Nam. Pháp luật
thừa kế đã đóng vai trò lịch sử quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta. Quy định về
diện thừa kế và ba hàng thừa kế rõ rang minh bạch là một bước tiến quan trọng trong quá
trình lập pháp ở nước ta dưới chế độ XHCN luôn bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của
người thừa kế có quan hệ huyết thống với người để lại di sản. Nhìn lại cả quá trình xây dựng
và phát triển pháp luật thừa kế nói chung là quá trình hoàn thiện những quy định về hàng và
diện thừa kế nói riêng, để có thể nhận định rằng các hàng thừa kế do pháp luật Việt Nam
quy định đã cơ bản phù hợp với sự phát triển của các quan hệ xã hội trong giai đoạn hiện
nay nhưng vẫn giữ được những sắc thái riêng về vấn đề thừa kế tài sản của công dân Việt
Nam là bảo vệ quyền thừa kế của những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân
và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.Danh mục văn bản pháp luật:
1. Bộ luật dân sự 2005
2. Bộ luật dân sự 2015
3. Bộ luật dân sự 1995
4. Bộ luật dân sự Liên Bang Nga
5. Bộ luật dân sự Nhật bản
6. Bộ luật dân sự Cộng Hòa Pháp
7. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
8. Bộ luật dân sự Iran
9. Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan (1995), Nxb chính trị quốc gia, Hà
Nội
10. Bộ dân luật Bắc kì 1931
11. Bộ dân luật Trung kì 1936
12. Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995.
13. Bộ Tư pháp (1956), Thông tư số 1742-BNC ngày 18/9 quy định một số vấn đề về
thừa kế, Hà Nội.
14. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
15. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946.
16. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959
17. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986
18.Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
19.Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
20.Luật nuôi con nuôi 2010
II. Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt
21. Chính phủ (1950) Sắc lệnh số 97/ SL của Chủ tịch nước ngày 22/5 sửa đổi
một số quy lệ và chế định trong Dân luật.
22. Nguyễn Mạnh Bách (1993), Chế độ hôn sản và thừa kế trong luật Việt Nam,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Trần Hữu Biền và Đinh Văn Thanh (1995), Hỏi đáp về pháp luật thừa kế,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Trường Đại học Luật Hà Nội, (1998), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
25. Hoàng Việt luật lệ 1812
26. Trường Đại học Luật Hà Nội, (2000), Quốc triều Hình luật, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội, (2001), Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.