
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây đất nước ta đang chuyển mình hoạt động
theo cơ chế mới công cuộc "Công nghiệp hoá - hiện đại hoá" đất nước đang
trong thời gian gấp rút hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội. Vì vậy cùng với
sự ra đời của những chính sách và chế độ mới thích hợp của Nhà nước. Bộ
mặt của đất nước đang đổi thay từng ngày, từng giờ trong sự thay đổi này có
một phần đóng góp không nhỏ là của ngành công nghiệp nói chung và ngành
cơ bản nói riêng.
Đối với các doanh nghiệp mà nhiệm vụ kinh doanh chính là sản xuất ra
sản phẩm để cung cấp cho xã hội thì việc đánh giá hiệu quả kinh doanh chủ
yếu thông qua chi phí và tính giá thành. Chi phí là giai đoạn khởi đầu của quá
trình sản xuất kinh doanh. Thông qua chi phí và giá thành thì doanh nghiệp có
thể biết được số vốn bỏ ra và biểu hiện dưới hình thức là lợi nhuận. Giúp co
doanh nghiệp quyết định các phương án đầu tư, các phương án tiết kiệm tối
đa các khoản chi phí nhằm mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp mà
còn cung cấp những số liệu quan trọng để doanh nghiệp căn cứ vào đó thực
hiện quyền và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Từ ý nghĩa thiết thực của kế toán chi phí và tính giá thành vốn dĩ đã là
một phần cơ bản của công tác kế táon lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với
công ty phát triển đô thị Sơn La. Tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm
là cơ sở để giám sát các hoạt động để từ đó khắc phục những tồn tại, phát huy
những tiềm năng mới đảm bảo cho công ty tồn tại và phát triển trong cơ chế
hạch toán kinh doanh của nền kinh tế thị trường đồng thời là cơ sở để Nhà
nước kiểm soát vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên. Qua thời gian thực tập
tại công ty Phát triển đô thị Sơn La, được sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn
Cô Dương Hải Oanh và cô Nhung phòng tài vụ - kế toán trưởng công ty đã
nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2
với đề tài: "Công tác tập hợp chi phí sản xuất tính giá thành sản phẩm xây
lặp tại công ty phát triển đô thị Sơn La".
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3
phần sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về công tác kế toán tập hợp chi
phí tính giá thành sản phẩm xây lắp tại các doanh nghiệp kinh doanh xây
lắp.
Phần II: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản
xuất tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty Đô thị phát triển Sơn La
Phần III: Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán
tập hợp chi phí tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty Phát triển đô
thị Sơn La.
Trong quá trình nghiên cứu mặc dù em đã cố gắng và được sự giúp đỡ
nhiệt tình của cô giáo Dương Hải Oanh, cô Nhung cùng nhân viên phòng kế
toán của công ty. Do thời gian và trình độ có hạn nhất là bước dầu tiếp cận
với thực tế nên bài của em còn nhiều hạn chế và thiết xót em rất mong nhận
được sự giúp đỡ, tiếp thu những ý kiến đóng góp bổ sung nhằm hoàn thiện
hơn nữa về công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm của mình.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thành viên trong công ty.
Nhất là cô Nhung phòng tài vụ- kế toán của công ty đã giúp đỡ em hoàn thành
đề tài này.
Sơn La, ngày….tháng….năm 2006
Sinh viên
Nguyễn Thị Phượng

3
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN
TẬP HỢP CHI PHÍ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH XÂY LẮP.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP ẢNH HƯỞNG TỚI CÔNG TÁC
HOẠCH TOÁN KẾ TOÁN
* Sản phẩm của ngành xây lắp có những đặc điểm sau
- Sản phẩm xây lắp là những công trình, hạng mục công trình, vật kiến
trúc… có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc thời gian thi
công lâu dài và phân tâm… Mặt khác có rất nhiều phương thức kỹ thuật thi
công khác nhau dẫn đến giá trị công trình khác nhau. Vì vậy đòi hỏi việc quản
lý hạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết phải được hạch toán, giá thành sản
xuất phải được hạch toán, quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán và lấy
dự toán làm thước đo.
- Sản phẩm xây lắp hoàn thành không thể nhập kho mà được tiêu thụ
sử dụng ngay theo giá dự toán hoặc giá thầu đã được thoả thuận với chủ đầu
tư từ trước. Do vậy tính chất hàng hoá của sản phẩm không được thể hiện rõ.
- Thời gian sử dụng sản phẩm lâu dài đòi hỏi chất lượng công trình phải
đảm bảo đặc điểm này đòi hỏi công tác kế toán phải được tổ chức tốt sao cho
chất lượng sản phẩm như dự toán phải được tổ chức tốt kế toán tạo điều kiện
cho việc bàn giao công trình ghi nhận doanh thu và thu hồi vốn.
Từ những đặc điểm riêng của sản phẩm xây lắp tổ chức sản xuất tại
doanh nghiệp xây lắp cũng có những nét riêng.
* Hoạt động xây lắp được diễn ra với tính chất của công việc không ổn
định luôn biến đổi theo địa điểm công trình và điều kiện thi công.
Do vậy phải luôn thay đổi lựa chọn phương án thi công thích hợp để
đảm bảo chất lượng và tiến độ.
* Chu kỳ sản xuất xây lắp kéo dài làm cho nguồn đầu tư ứ đọng, do vậy
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư này sẽ gặp rủi ro ngẫu
nhiên theo thời gian như:
Hao mòn vô hình, điều kiện tự nhiên.
* Quá trình sản xuất diễn ra trên 1 phạm vi hẹp với số lượng công nhân
và vật liệu lớn, đòi hỏi công tác tổ chức xây lắp sắp xếp hợp lý, có sự phối
hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các bộ phận vào các giai đoạn công việc.
* Sản xuất xây lắp diễn ra ngoài trời nên chịu ảnh hưởng lớn của điều
kiện tự nhiên điểm này đòi hỏi kế hoạch thi công phải được vạch ra theo một
tiến độ thích hợp để tránh các thiệt hại có thể xảy ra.
Từ những đặc điểm trên trong các đơn vị sản xuất kinh doanh xây lắp
công tác kế toán bắt buộc phải đảm bảo yêu cầu phản ánh chung của một đơn
vị sản xuất là ghi chép, tính toán đầy đủ các ghi chép giá thành sản phẩm thực
hiện phù hợp với ngành nghề, đúng chức năng, cung cấp thông tin và các số
liệu chính xác phục vụ quản lý doanh nghiệp.

4
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
XÂY LẮP
1. Khái niệm chi phí sản xuất và khái niệm giá thành sản phẩm xây
lắp
- Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với bất kỳ
phương thức nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao của các yếu tố cơ
bản tạo nên quá trình sản xuất tư liệu lao động, đối tượng lao động, và sức
lao động, ngành xây lắp có đặc điểm riêng so với các ngành sản xuất vật chất
khác nhưng để tạo ra sản phẩm cũng cần phải có tư liệu lao động (gồm các
loại máy móc thiết bị, các loại tài sản cố định…) đối tượng lao động (các
nguyên vật liệu, các thiết bị đưa đi lắp đặt) và sức lao động của con người, sự
kết hợp của 3 yếu tố này trong quá trình sản xuất hình thành nên 3 loại chi phí
về sử dụng tư liệu lao động, chi phí về đối tượng và chi phí về lao động sống
trong điều kiện sản xuất.
Hàng hoá và chi phí này được biểu hiện dưới dạng giá trị còn lại gọi là
chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí lao động
sống và lao động vật hoá, mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động
sản xuất trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm) như vậy chỉ được tính
vào chi phí về tài sản và lao động có liên quan về khối lượng sản phẩm sản
xuất ra trong kỳ.
Như vậy giá thành sản phẩm xây lắp là quá trình thống nhất bao gồm
hai mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất.
Chi phí sản xuất phản ánh tất cả những kết quả chi phí phát sinh trong
kỳ, kỳ trước kết chuyển sang và chi phí trích trước có liên quan đến kết quả
sản phẩm hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chi tiêu giá thành sản phẩm
+ Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao
phí về lao động sống, lao động vật hoá liên quan đến khối lượng hoàn thành
trong kỳ.
+ Cũng như bất kỳ các ngành sản xuất kinh doanh khác giá thành của
sản phẩm xây lắp cũng được thực hiện với hai chức năng chủ yếu: đó là bù
đắp chi phí và tái sản xuất mở rộng.
Số tiền thu về khi bàn giao công trình phải đủ để bù đắp toàn bộ chi
phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra từ khởi công đến khi tiêu thụ mặt khác cơ chế
thị trường mục đích và nguyên tắc kinh doanh là ngày càng đầu tư phát triển
quy mô muốn vậy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải đem lại lợi
nhuận.
2. Mối quan hệ chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
- Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là 2 mặt thống
nhất của quá trình xây lắp do đó chúng.
Giống nhau: Về chất đều là biểu hiện bằng tiền của các hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà các doanh nghiệp bỏ ra, tuy nhiên giữa
chúng lại có sự.

5
Khác nhau về cơ bản nếu nói chi phí sản xuất là tổng hợp tất cả những
khoản chi phí phát sinh trong kỳ thì gía thành lại là sự tổng hợp tất cả những
khoản chi phí gắn liền với việc sản xuất và hoàn thành một khối lượng công
việc xây lắp nhất định để nghiệm thu bàn giao giá thành không bao gồm chi
phí dở dang đầu kỳ, chi phí đã trích trước, những thực tế chưa chi và những
khoản chi phí trước phân bổ cho kỳ này.
Việc tập hợp chi phí đầy đủ đúng đắn sẽ tạo cơ sở cho công tác tính giá
thành chính xác đó là hai bước công việc kế tiếp của quy trình.
Công thức:
Tổng giá thành; sản phẩm = Giá trị sản phẩm; DD định kỳ +
Tổng chi phí; phát sinh trong kỳ - Giá trị; sản phẩm; dở cuối kỳ
3. Đặc điểm và yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm xây lắp
a. Đặc điểm
Xuất phát từ quy định về lập dự toán chu trình xây dựng cơ bản là phải
lập theo từng hạng mục công trình phải phân tích theo từng khoản mục chi phí
cũng như địa điểm tại đơn vị nhận thầu. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp có các đặc điểm sau:
- Kế toán chi phí nhất thiết phải được phân tích theo từng khoản mục
chi phí, từng hạng mục công trình, từng công trình cụ thể, qua đó thường
xuyên so sánh kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí xem xét nguyên nhân
vượt hụt dự toán chi phí và đánh giá hiệu quả kinh doanh.
- Đối tượng kế toán chi phí có thể là công trình hạng mục công trình,
các đơn đặt hàng các giai đoạn của hạng mục hay nhóm hạng mục. Vì thế lập
dự toán chi phí và tính giá thành theo từng hạng mục giai đoạn của hạng mục.
- Giá thành công trình xây lắp thiết bị không bao gồm những chi phí do
doanh nghiệp xây lắp bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Bởi vậy khi
nhận thiết bị do đơn vị chủ đầu tư bàn giao để lắp đặt giá các thiết bị được ghi
vào cá bên nợ tài khoản 002.
Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật kết
cấu và giá trị thiết bị kèm theo như các thiết bị vệ sinh, thông gió.
b. Yêu cầu của công tác quản lý đối với chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Trong nhóm các ngành trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội,
xây dựng cơ bản nói chung, xây lắp nói riêng là một ngành sản xuất vật chất
độc lập có chức năng cải tạo lại tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân.
Với đặc điểm đặc thù sản phẩm xây lắp do vậy việc tổ chức quản lý chỉ
đạo sản xuất thì công càng có nét riêng biệt của nó. Cụ thể hơn việc quản lý
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp luôn
phải được quan tâm chú trọng để làm sao quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn đầu tư nhằm:
- Đảm bảo đúng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong
từng thời kỳ theo hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh