
LUẬN VĂN:
Mở rộng cho vay đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại NHTM
cổ phần Quân đội

lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ,đặc biệt khi nước ta gia nhập WTO thì cần
phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Để có được năng lực cạnh tranh ấy cần
có sự nỗ lực của Nhà nước của các tổ chức kinh tế và của toàn dân. Có thể khẳng định
rằng, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng
định được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế, hàng năm khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh đóng góp khoảng 60% - 65% vào GDP, 40% - 45% cho ngân sách nhà nước
và thu hút hơn 80% lao động cho xã hội.
Vai trò và vị trí quan trọng của DNNQD đòi hỏi phải có cơ chế và chính sách thích
hợp tạo điều kiện cho DNNQD phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của mình.
Trên thực tế, trong những năm gần đây nhận thức được tiềm năng to lớn của DNNQD các
NHTM đã đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này tạo điều kiện cho
doanh nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng góp phần vào sự
phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy em đã lựa chọn đề tài “Mở rộng cho vay
đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại NHTM cổ phần Quân đội ” với mong muốn
góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc tìm ra các giải pháp để mở rộng cho vay
đối với DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội .
2. Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề được thực hiện với mục đích:
Một là: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung nhất về DNNQD và tín dụng
Ngân hàng đối với DNNQD.
Hai là: Phân tích thực trạng cho vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT
Quận Thanh Xuân, từ đó rút ra những kết quả đạt được, tồn tại và những nguyên nhân của
những tồn tại đó.
Ba là: Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với
DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đề tài lấy hoạt động cho vay đối với DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội làm đối
tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu chuyên đề là tín dụng DNNQD tại NHTM cổ phần Quân đội lấy thực
tế từ năm 2005 -2007 để chứng minh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin để nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Kết hợp với phương pháp điều tra khảo sát, phân tích - tổng hợp, thống kê để đánh giá
tình hình thực tế.
Sử dụng các bảng, biểu đồ để chứng minh, rút ra kết luận.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về DNNQD và vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với
DNNQD.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNQD tại NHTM cổ phần Quân
đội .
Chương 3: Giải pháp chủ yếu để mở rộng cho vay đối với DNNQD ttại NHTM cổ
phần Quân đội .
Chương 1.Cơ sở lý luận về
DOANH NGHIệP NGOàI QUốC DOANH và
vai trò của tín dụng ngân hàng đối với
DOANH NGHIệP NGOàI QUốC DOANH

1.1. DNNQD trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm và vai trò của DNNQD trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam.
1.1.1.1. Khái niệm về DNNQD:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh.
DNNQD là một bộ phận của nền kinh tế, lấy sở hữu tư nhân làm nền tảng, được tồn
tại lâu dài, được bình đẳng trước pháp luật và có tính sinh lợi hợp pháp chủ động trong mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật.
Xuất pháp từ hình thức sở hữu của DNNQD, Nhà nước không cấp vốn hoạt động
cũng như không tái cấp vốn mà vốn hoạt động của DNNQD là vốn do tư nhân bỏ ra hay
một nhóm các thành viên là các tổ chức, cá nhân góp lại. Số tiền này nhiều hay ít phụ
thuộc vào qui mô ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật
(đựơc quy định trong luật doanh nghiệp). Mặt khác, trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình, DNNQD phải chịu trách nhiệm hữu hạn, vô hạn hay hỗn hợp cả vô hạn và hữu
hạn. Điều đó tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng loại hình sản xuất kinh doanh của DNNQD
mà các cá nhân, tổ chức tham gia trong đó.
1.1.1.2. Phân loại DNNQD:
- Nếu căn cứ vào mức độ trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì
DNNQD: Bao gồm các doanh nghiệp chiụ trách nhiệm hữu hạn (công ty TNHH, công ty
cổ phần, …), các doanh nghiệp chịu trách nhiệm hỗn hợp (công ty hợp vốn đơn giản là
công ty trong đó có một thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn còn các thành viên
góp vốn khác chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đóng góp mà thôi).
Nếu chia theo tính chất sở hữu vốn DNNQD: bao gồm các loại hình doanh nghiệp sở
hữu một chủ (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH 1 thành viên), sở hữu nhiều chủ (công
ty cổ phần, công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên,..).

Tuy nhiên dù phân loại theo hình thức nào thì DNNQD cũng bao gồm các loại hình
sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, nhóm công ty,công ty hợp
danh.
1.1.1.3. Đặc điểm của DNNQD ở Việt Nam:
Thứ nhất: Quy mô vốn nhỏ bé:
Các DNNQD dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên nguồn vốn mang tính
chất nhỏ hẹp, mặt khác thâm niên tồn tại chưa lâu nên chưa có điều kiện để tích luỹ vốn.
Nguồn vốn hoạt động chủ yếu là đi vay từ bạn bè, vay tư nhân, vay Ngân hàng và các
TCTD khác. Song do uy tín của các DNNQD chưa cao nên việc vay vốn gặp rất nhiều khó
khăn, mặc dù đã có nhiều văn bản của chính phủ, NHNN quy định về việc mở rộng cho
vay đối với khu vực này
Thứ hai: Trình độ kỹ thuật công nghệ chưa theo kịp với thế giới:
Do quy mô vốn hạn chế cùng với việc thiếu thông tin về công nghệ, sự hạn chế trong
việc áp dụng công nghệ tiên tiến dẫn đến trình độ công nghệ của các DNNQD nhìn chung
là không đồng bộ. Hầu hết là các thiết bị đều cũ kỹ, lạc hậu, phần lớn là máy cũ tân trang
lại, tuổi của các máy móc thiết vào khoảng 20 tuổi.
Thứ ba: Hoạt động kinh doanh chứa nhiều rủi ro.
Do tính năng động tự chủ cao, trong quá trình cạnh tranh, các DNNQD dễ đi đến hoạt
động mạo hiểm, dễ xảy ra rủi ro. Vì vậy, nếu thiếu sự điều tiết, hướng dẫn của các cơ quan
chức năng các DNNQD có thể bỏ qua những quy định, nguyên tắc do Nhà nước đề ra, để
chạy theo lợi ích trước mắt, gây hiệu quả xấu cho nền kinh tế xã hội.
Thứ tư: Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là sản xuất tiêu dùng và dịch vụ.
Kinh tế ngoài quốc doanh thường sản xuất tiêu cùng và cung ứng dịch vụ hoặc trong
lưu thông hàng hoá, vì vây đây là những ngành không đòi hỏi một lượng vốn quá lớn. Hơn
nữa lại là lĩnh vực hoạt động có vòng quay vốn nhanh, tỷ suất lợi nhuận cao phù hợp với
đặc thù của các DNNQD. Điều này có ưu điểm là nhanh chóng tạo cho nền kinh tế một
khối lượng hàng hoá dịch vụ lớn, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội. Song ngược
lại khi những nhược điểm của DNNQD thể hiện dễ gây ra những khủng hoảng lớn, rối
loạn trong khâu sản xuất và lưu thông hàng hoá, ảnh hưởng đến sự ổn định của đồng tiền.