
Mấy vấn đề về sách giáo khoa lớp
10 thí điểm (phần Văn học Dân gian)
Chủ trương đổi mới sách giáo khoa và vấn đề dạy, học văn ở nhà
trường phổ thông của Bộ Giáo dục và đào tạo đã được khởi động từ thập

niên 80 của thế kỉ trước. Việc chia ra hai bộ sách giáo khoa (phía bắc, phía
nam) chưa kịp rút kinh nghiệm để điều chỉnh thì bị nhập lại(1), rồi tách ra
hai bộ như bây giờ, luẩn quẩn mãi cho đến nay vẫn ở dạng thí điểm, có
thể vẫn chưa đến hồi kết thúc. Quanh vấn đề này đã từng rộ lên nhiều ý
kiến trái ngược nhau lắm khi gay gắt, tạo nên không khí đối lập trong giáo
giới và dư luận xã hội. Dù sao đấy cũng là tín hiệu đáng mừng thể hiện
khuynh hướng dân chủ xã hội hóa giáo dục buổi đầu, ẩn chứa khá nhiều
thách đố. Bên cạnh những ý kiến phá phách có chủ đích thường nhân
danh bảo vệ đường lối giáo dục và những ý kiến do không hiểu vấn đề
nhưng có nhiệt tình đổi mới dù được đăng tải trên các phương tiện truyền
thông vẫn không ít ý kiến xây dựng bổ ích. Điều đáng mừng là những ý
kiến đối thoại như thế, ngày một cởi mở hơn và mong rằng nó sẽ góp
phần hòan thiện thêm chương trình, nội dung sách giáo khoa trong tiến
trình đổi mới của nền giáo dục nước ta trong thời đại hội nhập. Trên ý
nghĩa đó, bài viết này xin nêu một vài ý kiến nhỏ để các nhà biên soạn
sách giáo khoa tham khảo thêm.
Những mặt tích cực trong sách giáo khoa mới, cần chờ thêm thời
gian cọ xát với thực tế để khẳng định, ở đây xin không bàn thêm mà đi
thẳng vào những vấn đề thấy chưa ổn. Đúng hơn là chúng tôi muốn phản
biện để mong làm sáng tỏ thêm những điều mà bản thân và một số đồng
nghiệp chưa rõ, cũng như nhằm hoàn thiện và khẳng định mặt tích cực
mà sách giáo khoa (mới) đạt được.
1. Điều đầu tiên cần đề cập là việc chọn tác phẩm văn học dân gian
trong sách giáo khoa 10 đã thể hiện khá nhất quán quan điểm mặt trận và
tính chất học thuật vốn là hai phương diện khác nhau. Vì vậy, sự có mặt
của các thể loại phong phú hơn bộ sách giáo khoa trước đây và cấu trúc
bài học theo dạng tích hợp là nét nổi bật không thể phủ nhận được. Đặc

biệt, chương trình rất kiên định trong việc cơ cấu các tác phẩm đại diện
cho văn học vùng miền và các dân tộc ít người. Điều đó, có thể đảm bảo
đường lối hòa hợp dân tộc, thể hiện tính đa dạng, thống nhất trong văn
hóa dân gian Việt Nam nói chung, đáp ứng được nguyên tắc định hướng
giáo dục chính trị ở nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, vấn đề mặt trận và
tính phổ thông, đại chúng là hai phạm trù khác nhau, đòi hỏi sự cân nhắc,
tính toán thật khoa học. Theo chúng tôi, đối với sách giáo khoa, tiêu chí
hàng đầu là tính phổ thông(2). Đã nói đến phổ thông là phải nói đến đối
tượng số đông và mặt bằng dân trí, tập quán văn hóa, những biểu hiện
gần gũi, quen thuộc mang tính phổ quát. Tính phổ thông liên quan đến
trình độ dân trí, biến động theo thời gian. Thậm chí, đối với một quốc gia
đa dân tộc, tính phổ thông bao giờ cũng dựa trên một dân tộc chủ thể chi
phối mọi hoạt động chính trị văn hóa xã hội. Tùy theo tình hình chính trị xã
hội, đặc điểm văn hóa lịch sử của mỗi dân tộc và từng thời đại để có cơ
cấu hợp lý. Mấy mươi năm trước, sự hiểu biết thế giới về mặt bằng phổ
thông rất hạn chế. Dường như ngoài Liên Xô, Trung Quốc và các nước
trong hệ thống XHCN, học sinh phổ thông không biết gì hơn. Ngày nay
tầm nhìn mở rộng, việc tiếp cận phương Tây, các nước Trung Đông đã trở
thành tri thức thông dụng. Mối quan hệ hiểu biết giữa các cộng đồng dân
tộc anh em trong lãnh thổ Việt Nam ngày một gần gũi hơn do có điều kiện
giao tiếp. Tuy nhiên, nhìn chung mặt bằng dân trí của nhân dân ta giữa
các dân tộc và vùng miền vẫn có độ chênh khác nhau. Vì vậy vào thập
niên 40-50 của thế kỷ trước, tri thức văn chương chuyển tải trong sách
giáo khoa đòi hỏi giản dị, dễ hiểu. Sang thập niên 60-80, mặt bằng đó thay
đổi, chương trình văn cao hơn, được uốn nắn để hợp với thời đại cách
mạng vũ bão của dân tộc. Và nay, mặt bằng phổ thông ấy lại được thay
đổi. Sự thay đổi chuẩn này sẽ còn được tiếp diễn trong tương lai. Như
vậy, việc xác lập mặt bằng ấy sao cho phổ thông đại chúng, tránh nặng nề
bác học là nhiệm vụ, theo chúng tôi, đặt ra cho đợt cải cách sách giáo
khoa lần này. Từ đó, chúng tôi muốn đề cập đến việc chọn tác phẩm đòi

hỏi phải đảm bảo mặt bằng sự hiểu biết chung của trình độ nhân dân hiện
nay.
Một tác phẩm đưa vào sách giáo khoa đòi hỏi phải thông dụng, vùng
miền nào cũng biết, phù hợp với khả năng nhận thức và suy luận của đối
tượng. Vì vậy xin đi vào trường hợp trích đoạn Xúy Vân giả dại đã từng
gây ít nhiều phản cảm cho người dạy và học. Đây vẫn chưa bàn đến việc
vở chèo này có quen thuộc với mọi vùng miền đất nước hay không mà chỉ
đề cập đến cách nhận thức của học sinh. Giả dụ, học sinh chất vấn: Một
người phụ nữ bỏ chồng để chạy theo lời rủ rê của kẻ khác, dân gian
thường phê phán đấy là hành động Bỏ mồi bắt bóng. Để thực hiện mưu
đồ này, Xúy Vân phải giả điên tức là thực hiện hành vi giả dối để gia đình
giải thoát cho mình là hành động đáng phê phán. (Kiểu chất vấn này từng
xảy ra với nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố). Điều
đó có lý. Mặt khác, việc từ chối gia đình chồng của Xúy Vân không phải do
nguyên nhân bị hắt hủi mà từ mặc cảm tự ti vì không “môn đăng hộ đối”.
Khách quan mà nói tư tưởng này không điển hình. Người nông dân dưới
xã hội cũ luôn khao khát giấc mơ đổi đời kiểu Tấm (Tấm Cám). Cho nên
chẳng qua đấy là hành vi ngụy biện cho cảm xúc nông nổi, hành động đầy
bản năng để cuối cùng dẫn đến thất bại. Điên trước là điên giả, là giải
pháp thoát thân.Điên sau là điên thật, là hệ quả của sự dại dột. Vậy định
hướng của bài giảng ở chỗ nào? Trong sách có một vế câu hỏi yêu cầu
học sinh tìm xem Xúy Vân điên thật hay điên giả để làm gì(3)? Cho dù bài
học khai thác diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật để cảm thông số
phận nghiệt ngã của cô gái trong hôn nhân dưới chế độ cũ, vẫn không thể
không đề cập đến nhận thức xa hơn. Ở đây có thể hiểu là hai định hướng
giáo dục: một bài học cho kẻ dại dột, nông nổi, hai là cảm thông cho sự
dại khờ, cả tin. Cả hai khuynh hướng này trong lĩnh vực hôn nhân liệu
giúp ích gì cho các em học sinh đầu cấp? Nếu ghép với tác phẩm Tiễn dặn
người yêu sẽ thấy liều lượng tác phẩm dồn cho đề tài hôn nhân bất hạnh

khá nhiều. Đối với các em nên chăng? Hình như đây là sự gán ghép sở
thích người lớn cho các em thì đúng hơn. Trong hệ thống chèo truyền
thống ở đồng bằng Bắc Bộ, Xuý Vân giả dại rất được ưa thích. Người lớn
tìm thấy bài học đạo lý, cách xử thế, nhưng chủ yếu là bị hấp dẫn bởi diễn
biến phức tạp trong nội tâm nhân vật và nghệ thuật diễn xuất điêu luyện
giả điên của diễn viên. Còn sự thật không học được gì ở trò giả điên này
cả. Cái hay và sở thích mọi thời đại đều có lý do của nó. Ngay cả Tiễn dặn
người yêusở dĩ được người Thái mê vì cách hành xử của nhân vật phù
hợp với một xã hội mới bước vào chế độ phong kiến sơ kỳ, ít nhiều còn
rơi rớt lại tinh thần tự do, dân chủ của thời đại trước đó. Cho nên cách
hành xử của người Thái bộc lộ khát vọng tự do có phần phóng túng là
điều dễ hiểu (không riêng gì người Thái, các dân tộc ít người khác đều có
tính cách này). Trong lúc nếu lâm vào hoàn cảnh tương tự, người Việt
thường thiên về nhẫn chịu do thói quen tuân thủ nguyên tắc sống theo
chuẩn mực đạo đức chặt chẽ hơn. Ngày nay, ý nghĩa những lời khuyên
như: “Giấy rách phải giữ lấy lề” vẫn còn nguyên giá trị giáo huấn. Dù hoàn
cảnh thế nào cũng phải giữ mình trong sạch và đức hạnh. Đây là điểm
khác biệt cơ bản giữa truyền thống giáo dục phương Đông và phương
Tây. Một bên cổ xúy cho sự nổi loạn, tháo cũi sổ lồng, tự do cá nhân, một
bên tìm kiếm hạnh phúc trong sự thỏa hiệp mang tính bảo thủ. Bởi vậy
môtíp nhẫn chịu, thỏa hiệp rất đặc trưng, thường gắn với mẫu nhân vật
phụ nữ trong văn học cổ và văn học dân gian chúng ta. Có khá nhiều điển
hình như vậy trong các truyện Nôm như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải
Ngọc Hoa. Trong lúc đó môtíp phản kháng của cô gái trong Tiễn dặn
người yêu, Xuý Vân, Thị Mầu trong Quan Âm Thị Kính chỉ loé lên như một
khát vọng tự do và có ý nghĩa như sự gợi mở cho xu hướng chưa thành
hình, định tính trong ứng xử văn hoá truyền thống của dân tộc. Nó thiên
về giả định hơn là giá trị hiện thực. Đặc điểm này khá phổ biến trong cổ
tích. Đó là những hành động phi lý được hình thành trên sự bế tắc và ước
mơ của một xã hội truyền thống đầy bảo thủ. Rõ ràng đó không phải là lối