
Mít giúp tỉnh rượu
Mít có tên khoa học là Artocarpus heterophyllus Lam., thuộc họ dâu
tằm (Moraceae). Cây gỗ cao 12 - 15 m đến 20 m. Lá hình trái xoan nguyên
hay chia thùy về một phía, dài 10 - 20 cm. Cụm hoa đực (dái mít) và cái đính
trên thân cây hoặc trên các cành già. Quả to hình trái xoan hay thuôn, dài tới
60 cm và nặng tới 20 - 30 kg hay hơn nữa. Quả mít chín có màu lục vàng, là
một loại quả kép gồm nhiều quả bế bao bởi một bao hoa nạc trên một đế hoa
chung. Mỗi hốc trên đế hoa là một hạt (thực ra là quả bế) bao bởi một lớp nạc
mềm màu vàng (tức là bao hoa).

Phân bố và sinh thái: Mít có nguồn gốc ở miền nam Ấn Độ và Malaysia,
hiện được trồng khắp nước ta, trong các vườn gia đình, quanh khu dân cư, trên
nương rẫy.
Chế biến làm thực phẩm: Nhân dân ta dùng quả mít còn non để luộc ăn,
xào, nấu canh hoặc muối dưa chua; xơ mít tham gia vào thành phần một loại dưa
muối chua gọi là nhút (có vùng làm nhút nổi tiếng như nhút Thanh Chương ở
Nghệ An); xơ mít chín cũng dùng muối nén ăn được như dưa chua dùng để ăn
chấm mắm hoặc nấu canh chua. Chọn quả mít dai chín, bóc lấy múi ăn. Lấy dao
cắt những xơ mập, vàng, bỏ xơ nhỏ trắng, rồi cho vào liễn sành, đổ nước vào xâm
xấp, thêm một nhúm muối ngâm 3 ngày, xơ mít lên men, ngửi có mùi thơm nồng
của mít, nước có vị chua thanh thanh, dìu dịu là được. Vớt xơ mít bỏ vào nồi, cho
nước lã vào vừa đủ, bắc lên bếp đun sôi.
Canh xơ mít nấu với cá nheo hay cá trê mới ngon, nếu không có thì nấu với
cá lóc. Khi nồi canh đã nấu sôi kỹ để xơ mít chín gần nhừ, nếm nước xem có đủ
độ chua chưa, nếu chưa đủ vị chua chua thanh thanh thì cho thêm nước chua ngâm
xơ mít vào, nêm thêm mắm, muối cho vừa khẩu vị, bỏ cá đã làm sạch, cắt khúc
vào nồi canh và nấu tiếp cho đến lúc xơ mít mềm nhừ là được. Thêm gia vị hành
lá, mùi tàu. Múc canh ra chén, cho thêm tiêu, ớt. Canh có màu đẹp, vị ngọt, chua
chua, ăn ngon cơm. Cá múc ra đĩa riêng, chấm với nước mắm ớt tùy theo khẩu vị.

Quả mít chín có các múi to, thơm ngọt, dùng để ăn tươi, làm nước sinh tố,
ăn luộc hoặc phơi khô làm rau ăn, làm mứt khô hay ngâm trong xirô để tráng
miệng. Người ta đã xác định được tỷ lệ phần trăm của các thành phần chủ yếu
trong phần ăn được của mít: nước 72,3, protein 1,7, lipid 0,3, đường tổng số 23,7.
Trong 100 g ăn được, có calcium 27 g, phosphor 38 mg, sắt 0,6 mg, natrium 2 mg,
kalium 407 mg và các vitamin: tương đương caroten 235 UI, B1 0,09, B2 0,11, P
0,7 và C 9 mg. Cứ 100 g mít sẽ cung cấp cho cơ thể 94 calo.
Hạt mít non cũng ăn được, có thể luộc, nướng hay rang chín, phơi khô làm
bột; bột này có khi được trộn với bột đậu tương để làm đậu phụ. Lá mít dùng nuôi
gia súc, có tác dụng kích thích sự tiết sữa.

Sử dụng làm thuốc: Ăn mít khỏi khát, giã rượu. Uống rượu say mà ăn mít
thì tỉnh rượu lại ngay. Hạt mít luộc gây trung tiện, làm cho dễ tiêu. Ăn mít chín
với hạt mít luộc vừa ngọt, vừa bùi, khỏi lo đầy bụng, lâu tiêu.
-Phụ nữ đẻ ít sữa, dùng lá mít tươi 40 g sắc uống. Có thể thêm hạt cây gạo
(sao vàng) 15 g sắc với lá mít tươi, ngày uống 3 lần, mỗi lần 75 - 100 ml.
Còn có bài thuốc kinh nghiệm giúp bồi bổ khí huyết và thông sữa cho sản
phụ: quả mít non gọt bỏ vỏ 100 g, lá sung có tật 100 g, hạt bầu bỏ vỏ sao vàng 100
g, đu đủ non gọt bỏ vỏ 50 g, hạt bắp 10 g; đem nấu nhừ với 1 cái chân giò heo và
100 g gạo nếp, ngày ăn 2 lần.
- Ăn không tiêu, tiêu chảy, dùng lá mít 20 g sao vàng sắc uống. Có thể thêm
nam mộc hương 12 g, ngày uống 2 lần, mỗi lần 30 - 50 ml.
- Để làm thuốc an thần và trị cao huyết áp, dùng lá mít và vỏ cây mít, mỗi
thứ 20 g, sắc uống 2 lần trong ngày, mỗi lần 50 ml. Quả mít non hoặc dái mít cũng
được dùng hầm với chân giò heo và nếp cho phụ nữ sinh đẻ ăn cho nhiều sữa. Dái
mít được dùng chữa sa dạ con. Hạt mít còn được dùng chữa ho. Nhựa mít dùng
đắp rút mủ mụn nhọt và trừ giun.
Gần gũi với cây mít, còn có cây mít tố nữ, tên khoa học là Artocarpus
integer (Thunb.) Merr. (A. champeden (Lour.) Stokes), có múi dính vào cùi và dễ
tách rời khỏi bì, nạc dày và thơm, cũng dùng ăn như mít.

TS. Võ Văn Chi

