intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối liên hệ giữa số hài với gradient chuẩn hóa toàn phần cực đại trong việc xác định độ sâu tới nguồn theo tài liệu trọng lực

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Triều | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

76
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết giới thiệu cách tiếp cận mới chọn số hài N dựa trên mối liên hệ của nó với gradient chuẩn hóa toàn phần cực đại. Phương pháp này sẽ được tính thử nghiệm trên một số mô hình và được áp dụng và so sánh trên một số tuyến địa chấn đã minh giải.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối liên hệ giữa số hài với gradient chuẩn hóa toàn phần cực đại trong việc xác định độ sâu tới nguồn theo tài liệu trọng lực

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/324889430<br /> <br /> Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14<br /> Article · January 2014<br /> DOI: 10.15625/1859-3097/14/4A/6037<br /> <br /> CITATIONS<br /> <br /> READS<br /> <br /> 0<br /> <br /> 18<br /> <br /> 3 authors, including:<br /> Tran van Kha<br /> institute of marine geology and geophysics<br /> 2 PUBLICATIONS   0 CITATIONS   <br /> SEE PROFILE<br /> <br /> Some of the authors of this publication are also working on these related projects:<br /> <br /> study structural based on intergrate gravity data View project<br /> <br /> All content following this page was uploaded by Tran van Kha on 02 May 2018.<br /> The user has requested enhancement of the downloaded file.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 4A; 2014: 112-117<br /> DOI: 10.15625/1859-3097/14/4A/6037<br /> http://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst<br /> <br /> MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỐ HÀI VỚI GRADIENT CHUẨN HÓA<br /> TOÀN PHẦN CỰC ĐẠI TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH ĐỘ SÂU<br /> TỚI NGUỒN THEO TÀI LIỆU TRỌNG LỰC<br /> Trần Văn Khá*, Hoàng Văn Vượng, Nguyễn Kim Dũng<br /> Viện Địa chất và Địa vật lý biển-Viện Địa chất và Địa vật lý biển<br /> *<br /> E-mail: tranvkha2000@yahoo.com<br /> Ngày nhận bài: 5-10-2014<br /> <br /> TÓM TẮT: Phương pháp gradient chuẩn hóa toàn phần (NFG) được áp dụng để xác định vị<br /> trí, các điểm đặc biệt như tâm, mép trên của vật thể. Phương pháp này sử dụng khai triển trường<br /> thế theo chuỗi Fourier dạng hàm sine cho bài toán hạ trường, việc lựa chọn số hài N sẽ liên quan<br /> trực tiếp đến xác định độ sâu của tâm nguồn. Trong bài báo này các tác giả sẽ giới thiệu một cách<br /> tiếp cận mới chọn số hài N dựa trên mối liên hệ của nó với gradient chuẩn hóa toàn phần cực đại.<br /> Phương pháp này sẽ được tính thử nghiệm trên một số mô hình và được áp dụng và so sánh trên<br /> một số tuyến địa chấn đã minh giải.<br /> Từ khóa: Dị thường trọng lực, gradient chuẩn hóa toàn phần.<br /> <br /> gian dưới theo chuỗi Fourier. Việc lựa chọn số<br /> hài N (hệ số khai triển Fourier) là rất quan<br /> trọng, nó liên hệ trực tiếp tới hiệu quả và độ<br /> chính xác khi xác định độ sâu tới điểm đặc biệt<br /> của dị thường địa vật lý (mép trên, tâm của vật<br /> thể, các phá hủy kiến tạo ...). Một số tác giả<br /> cũng đã đề cập tới vấn đề này như Hamid<br /> Aghajani, Ali Moradzadeh, Zeng Hualin [14,<br /> 15]. Bài báo này tiến hành nghiên cứu và xác<br /> lập mối liên hệ giữa hệ số N và các giá trị NFG<br /> cực đại với độ sâu tới nguồn thông qua một số<br /> nghiên cứu trên mô hình. Từ những nhận định<br /> về hiệu quả của phương pháp tính sẽ tiến hành<br /> áp dụng thử nghiệm trên một số tuyến có kết<br /> quả minh giải theo tài liệu địa chấn.<br /> <br /> MỞ ĐẦU<br /> Phương pháp tính và ứng dụng giá trị<br /> gradient chuẩn hóa toàn phần trong công tác xử<br /> lý và phân tích và minh giải tài liệu địa vật lý<br /> đã được công bố trong công trình của các tác<br /> giả: Berezkin V. M., và Buketov (1965);<br /> Berezkin V. M., (1967) [1, 2] với mục đích xác<br /> định và khoanh vùng dị thường địa vật lý và<br /> tìm kiếm trực tiếp dầu khí. Lý thuyết và các<br /> phương pháp tính của phương pháp NFG cũng<br /> đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài<br /> nước phát triển và hoàn thiện thêm như Aydın<br /> [3-5], Xiao, Y., và nnk (1984); Xiao, Y.,<br /> (1981); Zeng H., và nnk (2002); Bülent Oruc,<br /> (2012); Hakan Karsli, Yusuf Bayrak, (2010);<br /> Karsli, H., (2001); Sindrgi, P., và nnk (2008);<br /> Trần Tuấn Dũng (2004) [6-13]. Nội dung cơ<br /> bản của phương pháp này dựa trên lý thuyết<br /> khai triển giải tích trường thế xuống nửa không<br /> GH  x, z  <br /> <br /> 112<br /> <br /> G  x, y <br /> <br /> GCP  Z <br /> 1<br /> M<br /> <br /> CƠ SỞ LÝ THUYẾT PHƯƠNG PHÁP<br /> NFG 2D<br /> Phương pháp NFG 2D được Berekzin đề<br /> xuất vào năm 1960 có dạng:<br /> <br /> Vx2  x, z   Vz2  x, z <br /> M<br /> <br /> <br /> <br /> i0<br /> <br /> Vx2  x, z   Vz2  x, z <br /> <br /> (1)<br /> <br /> Mối liên hệ giữa số hài với gradient chuẩn …<br /> Ở đây GH(x,z) là NFG tại vị trí (x, z) trên<br /> mặt cắt. Vx và Vz là các đạo hàm bậc nhất<br /> tương ứng, G(x,z) là đạo hàm toàn phần,<br /> GCP(Z) là giá trị bình phương trung bình của<br /> đạo hàm toàn phần theo độ sâu z, M là số<br /> điểm đo trên bề mặt. Tác giả Berezkin, V. M.,<br /> đã đề xuất khai triển trường thế trọng lực theo<br /> chuỗi sine với điều kiện hai đầu g(1) = 0,<br /> g(M) = 0. Giá trị:<br /> <br />  n x e Lnz<br /> B<br /> n sin<br /> n 1<br /> L<br /> <br /> <br /> <br /> V  x, z  <br /> <br /> N<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> (2)<br /> <br /> Trong đó: L là chiều dài của tuyến đo; N là số<br /> hài cần lựa chọn; Bn là hệ số khai triển Fourier<br /> được tính theo tích phân đường dạng:<br /> Bn  2<br /> L<br /> <br /> L<br /> <br />  V  x,0 sin  Ln x  dx<br /> 0<br /> <br /> (3)<br /> <br /> Các đạo hàm được xác định bởi các phương<br /> trình (4) và (5) sau đây:<br /> Vx  x, z   <br /> L<br /> Vz  x, z   <br /> L<br /> <br />  n x e Lnz<br /> nB<br /> n cos<br /> n 1<br /> L<br />  nz<br /> N<br /> nBn sin  n x e L<br /> n 1<br /> L<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> N<br /> <br />  <br />  <br /> <br /> (4)<br /> (5)<br /> <br /> Để giảm bớt nhiễu do các tần số cao và<br /> hiệu ứng Gibbs trong khai triển trường xuống<br /> nửa không gian dưới tác giả Berezkin, V. M.,<br /> (1967) đã đề xuất hàm làm trơn:<br /> <br />   <br /> <br />  sin  n<br /> N<br /> Qn  <br /> <br /> n<br /> <br />  N<br /> <br /> <br /> <br /> (6)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> µ là chỉ số bậc có thể được lựa chọn từ 0 ÷ 3,<br /> trong các nghiên cứu cấu trúc thông thường<br /> người ta sử dụng µ=2.<br /> Vậy phương trình (4) và (5) có thể viết lại<br /> dưới dạng:<br /> <br />   <br /> <br /> n<br />  nz  sin<br /> N<br /> N<br /> Vx  x, z    n 1 nBn cos  n x e L <br /> L<br /> L<br />  n<br />  N<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> (7)<br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> <br />    (8)<br /> <br /> n<br />  nz  sin<br /> N<br /> N<br /> Vz  x, z    n 1 nBn sin  n x e L <br /> L<br /> L<br />  n<br />  N<br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> LỰA CHỌN HỆ SỐ HÀI N TỐI ƯU<br /> TRONG XÁC ĐỊNH ĐỘ SÂU TỚI NGUỒN<br /> TRÊN MÔ HÌNH LÝ<br /> Để có thể tìm được số hài N tối ưu nhất, sẽ<br /> tính với tất cả các số hài tương ứng với các<br /> NFG cực đại và số hài N mà tại đó NFG là lớn<br /> nhất sẽ được lựa chọn cho việc xác định vị trí<br /> cũng như độ sâu tới mô hình. Nghiên cứu này<br /> sẽ xác định hệ số hài tối ưu trên hai mô hình.<br /> Mô hình 1: là một hình hộp chữ nhật nằm<br /> ngang với một chiều kéo dài ra vô tận nằm gần<br /> bề mặt quan sát (bảng 1).<br /> Mô hình 2: cũng là một hình hộp chữ nhật<br /> nằm ngang và cũng có một chiều kéo dài ra vô<br /> tận nằm sâu hơn (bảng1).<br /> Mục đích lựa chọn hai loại mô hình này là<br /> chúng tôi muốn thử xem với với hai mô hình<br /> nằm độ sâu khác nhau, một nằm nông và một<br /> nằm sâu thì việc lựa chọn hệ số hài N theo cách<br /> trên có hiệu quả hay không.<br /> <br /> Bảng 1. Tham số của hai mô hình<br /> STT<br /> Mô hình 1<br /> Mô hình 2<br /> <br /> M(số điểm)<br /> 50<br /> 100<br /> <br /> ∆X (km)<br /> 0,1<br /> 1<br /> <br /> X1 (km)<br /> 2,3<br /> 45<br /> <br /> X2 (km)<br /> 2,7<br /> 49<br /> <br /> Z1 (km)<br /> 0,1<br /> 2<br /> <br /> Z2 (km)<br /> 0,5<br /> 7<br /> <br /> 3<br /> <br /> δ (g/cm )<br /> -0,47<br /> 0,13<br /> <br /> Chú thích: M là số điểm quan sát trên bề mặt; ∆X là khoảng cách giữa các điểm; X1, X2 lần lượt là<br /> vị trí biên trái và biên phải của mô hình; Z1, Z2 là độ sâu tới mép trên và dưới của mô hình; δ là<br /> mật độ dư của mô hình.<br /> <br /> Dị thường trọng lực của mô hình 1 và mô<br /> hình 2 gây ra trên mặt quan sát (hình 1, hình 2)<br /> <br /> được tính bởi công thức sau [16]:<br /> <br />  <br /> <br /> g  x, y, z   2 G    1  x ln  x 2  z 2   z arctan x <br /> 2<br /> z <br /> <br /> (9)<br /> <br /> 113<br /> <br /> Trần Văn Khá, Hoàng Văn Vượng, …<br /> <br /> Hình 1. Dị thường trọng lực mô hình 1<br /> Hình 5. Gradient chuẩn hóa toàn phần tính<br /> trên mô hình 1 với các hệ số N<br /> được chọn 25, 30, 35<br /> <br /> Hình 2. Dị thường trọng lực mô hình 2<br /> Hệ số hài N liên hệ với NFG cực đại của<br /> mô hình 1 và mô hình 2 được thể hiện trên<br /> hình 3 và hình 4.<br /> <br /> Hình 6. Gradient chuẩn hóa toàn phần được<br /> tính trên mô hình 2 với các hệ số N<br /> được chọn 55, 61, 70<br /> <br /> Hình 3. Mối liên hệ giữa N và NFG cực đại<br /> trên mô hình 1: N = 30<br /> <br /> Dựa trên mối liên hệ giữa N và NFG cực<br /> đại trên mô hình 1 (hình 3) tác giả đã lựa chọn<br /> ba hệ số hài khác nhau N = 25, 30, 35 (hình 5).<br /> Việc lựa chọn này nhằm mục đích để đánh giá<br /> hiệu quả của hệ số hài N tối ưu đã được xác<br /> định so với các hài lân cận. Kết quả tính toán<br /> cho thấy với N = 30 hình 5b dị thường NFG đạt<br /> cực đại ở độ sâu gần trùng với tâm mô hình 1<br /> nhất. Trên hình 5a với N=25, vị trí tâm của dị<br /> thường NFG nằm sâu hơn so với mô hình.<br /> Hình 5c có thể thấy rằng: mặc dù với N=35 tâm<br /> của mô hình trùng với tâm của dị thường NFG<br /> nhưng lại thấy xuất hiện một cực trị ảo xuất<br /> hiện ngay dưới vị trí của mô hình (hiệu ứng<br /> bóng). Hiện tượng này có thể được lý giải là:<br /> trong quá trình hạ trường theo khai triển<br /> Fourier, khi hệ số N tăng thì đồng thời xuất<br /> hiện tín hiệu nhiễu có bước sóng ngắn dẫn tới<br /> xuất hiện những cực trị giả trong mặt cắt mô<br /> hình tính toán NFG.<br /> <br /> Hình 4. Mối liên hệ giữa N và NFG cực đại<br /> trên mô hình 2: N = 61<br /> <br /> Trên hình 6: các mặt cắt NFG được tính<br /> toán và xây dựng với các hệ số hài N = 55, 61,<br /> <br /> 114<br /> <br /> Mối liên hệ giữa số hài với gradient chuẩn …<br /> 70. Kết quả cho thấy là với N = 61 là cho kết<br /> quả NFG phù hợp nhất so với các số hài khác.<br /> ÁP DỤNG THỬ NGHIỆM TRÊN TÀI<br /> LIỆU THỰC TẾ<br /> Trong công trình này chúng tôi đã sử dụng<br /> số liệu trọng lực đồng bộ trên tuyến địa chấn<br /> <br /> AA’ (tuyến đo thuộc dự án Xác định ranh giới<br /> ngoài thềm lục địa Việt Nam) nằm trọn vẹn<br /> trong vùng trũng sâu Biển Đông để tiến hành thử<br /> nghiệm phương pháp lựa chọn hệ số hài N như<br /> đã trình bầy trên. Mục đích là xác định độ sâu<br /> tới các ranh giới địa chấn, vị trí dị thường liên<br /> quan tới hình ảnh núi ngầm trên băng địa chấn.<br /> <br /> Bảng 2. Các tham số đo trọng lực trên tuyến AA’<br /> Tên tuyến<br /> AA’<br /> <br /> M(số điểm)<br /> 106<br /> <br /> ∆X (km)<br /> 0,5<br /> <br /> Tọa độ điểm đầu<br /> φ = 112,945; λ = 11,514<br /> <br /> Tọa độ điểm cuối<br /> φ = 113,295; λ = 11,846<br /> <br /> Hình 7. Vị trí tuyến AA’<br /> <br /> Hình 8. Sự thay đổi của NFG cực đại với N<br /> <br /> Hình 9. Mặt cắt địa chấn tuyến AA’ (đẳng thời)<br /> <br /> Từ đồ thị (hình 8) về phân bố số hài và cực<br /> trị NFG, N được chọn là 20 là tối ưu nhất để<br /> tính toán. Kết quả thu được (hình 10) cho thấy<br /> rằng chuỗi các cực trị trên mặt cắt NFG phản<br /> ánh khá tốt bề mặt móng (đường màu đỏ được<br /> tính toán và chuyển đổi từ đẳng thời sang độ<br /> sâu theo địa chấn).<br /> <br /> Thực tế đã cho thấy rằng việc lựa chọn N<br /> trên cơ sở mối liên hệ N và NFG cực đại là<br /> hoàn toàn phù hợp. Với cách tiếp cận mới này<br /> cho phép lựa chọn số hài tính toán hợp lý dựa<br /> trên một tập hợp hữu hạn số hài N tương ứng<br /> với các cực đại NFG. Đặc biệt khi ứng dụng<br /> trên các mặt cắt có cấu trúc dị thường trọng lực,<br /> 115<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2