intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số khó khăn trong hoạt động báo cáo tự nguyện phản ứng có hại của thuốc của cán bộ y tế tại 16 bệnh viện năm 2014

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

76
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết khảo sát một số khó khăn trong hoạt động báo cáo tự nguyện phản ứng có hại của thuốc (ADR) của cán bộ y tế (CBYT) tại bệnh viện (BV). Phương pháp: mô tả cắt ngang, tiến hành phỏng vấn (theo bộ câu hỏi có cấu trúc) 01 CBYT (bác sỹ hoặc điều dưỡng) tại mỗi khoa lâm sàng và 01 dược sỹ tại khoa dược có tham gia hoạt động báo cáo ADR tại mỗi BV nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số khó khăn trong hoạt động báo cáo tự nguyện phản ứng có hại của thuốc của cán bộ y tế tại 16 bệnh viện năm 2014

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2015<br /> <br /> MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG HOẠT ĐỘNG<br /> BÁO CÁO TỰ NGUYỆN PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC<br /> CỦA CÁN BỘ Y TẾ TẠI 16 BỆNH VIỆN NĂM 2014<br /> Nguyễn Thị Thanh Hương*; Nguyễn Thị Phương Thúy*; Nguyễn Thị Hà*<br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: khảo sát một số khó khăn trong hoạt động báo cáo tự nguyện phản ứng có hại của<br /> thuốc (ADR) của cán bộ y tế (CBYT) tại bệnh viện (BV). Phương pháp: mô tả cắt ngang, tiến hành<br /> phỏng vấn (theo bộ câu hỏi có cấu trúc) 01 CBYT (bác sỹ hoặc điều dưỡng) tại mỗi khoa lâm<br /> sàng và 01 dược sỹ tại khoa dược có tham gia hoạt động báo cáo ADR tại mỗi BV nghiên cứu.<br /> Kết quả: nghiên cứu đã phỏng vấn 414 CBYT tại 16 BV. Hình thức báo cáo được sử dụng phổ<br /> biến nhất là báo cáo trên giấy (90,1%). Bệnh nhân (BN) sử dụng nhiều thuốc cùng một lúc là<br /> yếu tố gây khó khăn lớn nhất với CBYT trong việc phát hiện ADR (91,1%). Biểu hiện của ADR<br /> giống biểu hiện của bệnh, không chắc chắn về ADR và thiếu thông tin thuốc là khó khăn lớn<br /> nhất đối với CBYT trong hoạt động báo cáo ADR (lần lượt là 59,2%, 58,9% và 27,3%). Kết luận:<br /> một số khó khăn chính gặp phải trong hoạt động báo cáo ADR của CBYT tại BV: phát hiện<br /> ADR với BN sử dụng nhiều thuốc cùng một lúc, biểu hiện của ADR giống biểu hiện của bệnh,<br /> không chắc chắn về ADR và thiếu thông tin thuốc.<br /> * Từ khóa: Phản ứng có hại của thuốc; Báo cáo phản ứng có hại của thuốc; Báo cáo tự<br /> nguyện; Khó khăn.<br /> <br /> Difficulties in Spontaneous Reporting of Adverse Drug Reactions<br /> in 16 Hospitals in 2014<br /> Summary<br /> Objectives: To study difficulties of sponteanous reporting activities related to adverse drug<br /> reactions (ADR) in 16 hospitals. Methods: Cross-sectional study, interview health professionals<br /> in clinical departments (physicians or nurses), pharmacists in pharmacy department who have<br /> been involved in reporting ADR in 16 surveyed hospitals. Results: Our study showed that ADRs<br /> were commonly detected by physicians (83.6%) while pharmacists and nurses were mainly<br /> responsible for reporting ADRs (77.8% and 76.7%, respectively). ADRs were the most frequently<br /> reported on paper (90.1%). Among difficulties, comedications/coprescriptions were the most<br /> difficult for health professionals in dectecting ADR (91.1%). For reporting ADRs, the most significant<br /> difficulties includes the uncertainties in distinguishing ADRs from syndroms/progression of<br /> baseline disease (59.2%), the uncertainty about ADRs (58.9%) and the lack of drug information<br /> (27.3%). Conclusion: The main difficulties relevant to ADR reporting in the surveyed hospitals were:<br /> comedications/coprescriptions, the uncertainties of distinguishing ADRs from syndroms/progression<br /> of baseline disease, the uncertainties about ADRs and the lack of drug information.<br /> * Key words: Adverse drug reactions; Adverse drug reactions report; Spontaneous reporting;<br /> Difficulty.<br /> * Trường Đại học Dược Hà Nội<br /> Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thị Thanh Hương (thanhuong.duochn@gmail.com)<br /> Ngày nhận bài: 20/07/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 19/11/2015<br /> Ngày bài báo được đăng: 04/12/2015<br /> <br /> 71<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2015<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Báo cáo tự nguyện phản ứng có hại<br /> của thuốc là hoạt động cơ bản nhất của<br /> cảnh giác dược, được triển khai tại hầu<br /> hết các quốc gia trên thế giới hiện nay.<br /> Số lượng, chất lượng của báo cáo ADR<br /> là một yếu tố then chốt để đánh giá chính<br /> xác nguy cơ của thuốc. Các báo cáo kém<br /> chất lượng với thông tin thiếu hụt hoặc<br /> sai lệch dẫn đến các kết luận sai lầm [1].<br /> Mặc dù được xem là biện pháp hữu hiệu<br /> nhất để phát hiện sớm ADR, hoạt động<br /> báo cáo ADR còn gặp nhiều bất cập.<br /> Nghiên cứu của Vallano cho thấy rào cản<br /> chính đối với hoạt động báo cáo tự nguyện<br /> là quá tải công việc và không có thời gian<br /> báo cáo, không biết đơn vị thông tin thuốc<br /> và trung tâm cảnh giác dược, không chắc<br /> chắn khi chẩn đoán ADR và e ngại các<br /> vấn đề xung đột có thể xảy ra [3]. Nghiên<br /> cứu sâu về nhận thức của CBYT, theo<br /> phân tích hồi quan hệ thống của Gonzalez,<br /> các rào cản chính gồm: không nhận thức<br /> được những gì cần báo cáo và chỉ báo<br /> cáo ADR trình độ (75%); không đủ bằng<br /> chứng kết luận ADR hoặc lo sợ do sai sót<br /> nghiêm trọng (95%); thiếu thời gian hoặc<br /> không sẵn có mẫu báo cáo (77%); không<br /> tự tin về điều trị (67%); nghĩ rằng các<br /> thuốc phải an toàn mới được cấp phép<br /> đăng ký (47%) [4].<br /> CBYT là nhân tố quan trọng quyết định<br /> đến số lượng và chất lượng báo cáo ADR<br /> [1]. Nghiên cứu này nhằm: Tìm hiểu một<br /> số khó khăn trong hoạt động báo cáo<br /> ADR của CBYT tại BV.<br /> 72<br /> <br /> ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đối tƣợng nghiên cứu.<br /> Bác sỹ, dược sỹ, điều dưỡng tại 16 BV<br /> nghiên cứu.<br /> * Địa điểm nghiên cứu:<br /> 16 BV trên toàn quốc được lựa chọn<br /> gồm: BV Bạch Mai, BV Hữu Nghị, BV Đa<br /> khoa TW Thái Nguyên, BV Đa khoa Thanh<br /> Hóa, BV Đa khoa Quảng Ninh, BV TW<br /> Huế, BV Đà Nẵng, BV Chợ Rẫy, BV Hùng<br /> Vương, BV Phạm Ngọc Thạch, BV Nhân<br /> dân Gia Định, BV Nhi đồng 1, BV Đồng<br /> Nai, BV Đồng Tháp, BV Đa khoa Trung<br /> tâm An Giang, BV TW Cần Thơ.<br /> * Thời gian nghiên cứu: từ tháng 9 - 2014<br /> đến 12 - 2014.<br /> 2. Phƣơng pháp nghiên cứu.<br /> * Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang.<br /> Lựa chọn mỗi khoa lâm sàng và khoa<br /> dược 01 CBYT tham gia hoạt động ADR<br /> của BV để phỏng vấn theo bộ câu hỏi có<br /> cấu trúc. Tổng số CBYT đã phỏng vấn<br /> 414 cán bộ gồm 177 bác sỹ, 219 điều<br /> dưỡng và 18 dược sỹ.<br /> Nội dung nghiên cứu: đối tượng tham<br /> gia vào hoạt động liên quan đến ADR;<br /> các hình thức báo cáo; khó khăn liên<br /> quan đến phát hiện ADR; khó khăn trong<br /> việc báo cáo ADR.<br /> * Phương pháp xử lý số liệu:<br /> Số liệu thu thập được làm sạch và<br /> nhập bằng phần mềm Epidata 3.1. Xử lý<br /> số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0.<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2015<br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br /> 1. Thông tin về CBYT đƣợc phỏng vấn.<br /> Bảng 1: Số lượng và tỷ lệ CBYT tham gia vào hoạt động liên quan đến ADR theo<br /> trình độ chuyên môn.<br /> Tham gia hoạt động<br /> Phát hiện ADR<br /> <br /> Theo dõi ADR<br /> Đánh giá, xử trí ADR<br /> <br /> Báo cáo ADR<br /> <br /> Quản lý sổ ADR<br /> <br /> Bác sỹ<br /> <br /> Dƣợc sỹ<br /> <br /> Điều dƣỡng<br /> <br /> Tổng<br /> <br /> (n = 177) n (%)<br /> <br /> (n = 18) n (%)<br /> <br /> (n = 219) n (%)<br /> <br /> (n = 414) n (%)<br /> <br /> 148<br /> <br /> 5<br /> <br /> 144<br /> <br /> 297<br /> <br /> (83,6)<br /> <br /> (27,8)<br /> <br /> (65,8)<br /> <br /> (71,7)<br /> <br /> 125<br /> <br /> 11<br /> <br /> 143<br /> <br /> 279<br /> <br /> (70,6)<br /> <br /> (61,1)<br /> <br /> (65,3)<br /> <br /> (67,4)<br /> <br /> 117<br /> <br /> 5<br /> <br /> 62<br /> <br /> 184<br /> <br /> (66,1)<br /> <br /> (27,8)<br /> <br /> (28,3)<br /> <br /> (44,4)<br /> <br /> 104<br /> <br /> 14<br /> <br /> 168<br /> <br /> 286<br /> <br /> (58,8)<br /> <br /> (77,8)<br /> <br /> (76,7)<br /> <br /> (69,1)<br /> <br /> 24<br /> <br /> 12<br /> <br /> 138<br /> <br /> 174<br /> <br /> (13,6)<br /> <br /> (66,7)<br /> <br /> (63,0)<br /> <br /> (42,0)<br /> <br /> Phân loại theo trình độ chuyên môn của CBYT được phỏng vấn cho thấy bác sỹ<br /> tham gia nhiều nhất vào hoạt động phát hiện ADR (83,6%); dược sỹ và điều dưỡng<br /> tham gia nhiều nhất vào hoạt động báo cáo ADR lần lượt là 77,8% và 76,7%.<br /> 2. Hình thức báo cáo của CBYT<br /> tại BV.<br /> Hiện nay, trong hệ thống báo cáo tự<br /> nguyện có 3 hình thức báo cáo ADR gồm<br /> báo cáo giấy, báo cáo qua điện thoại và<br /> báo cáo qua internet. Kết quả phỏng vấn<br /> cho thấy cả 3 hình thức này đã được các<br /> CBYT sử dụng.<br /> Phổ biến nhất là hình thức báo cáo<br /> trên giấy (373 cán bộ = 90,1%), tiếp theo<br /> báo cáo qua điện thoại (105 cán bộ =<br /> 25,4%). Hình thức báo cáo qua internet là<br /> hình thức chưa được phổ biến (34 cán bộ<br /> = 8,2%), do hình thức này đòi hỏi đầu tư<br /> nhất định về trang thiết bị. Thực tế có<br /> <br /> nhiều CBYT thực hiện đồng thời cả hai<br /> hình thức báo cáo là điện thoại và báo<br /> cáo giấy. 11/16 BV báo cáo ADR qua<br /> internet với 18 điều dưỡng, 14 bác sỹ và<br /> 2 dược sỹ.<br /> 3. Một số khó khăn liên quan đến<br /> hoạt động báo cáo ADR.<br /> * Liên quan đến phát hiện ADR:<br /> 377 CBYT (91,1%) được phỏng vấn<br /> cho rằng BN sử dụng nhiều thuốc cùng<br /> một lúc là yếu tố gây khó khăn trong phát<br /> hiện ADR. 245 CBYT (59,2%) cho rằng biểu<br /> hiện ADR giống với biểu hiện của bệnh,<br /> là yếu tố khó khăn đứng thứ hai liên quan<br /> đến việc phát hiện ADR. 198 CBYT (47,8%)<br /> 73<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2015<br /> <br /> trả lời ADR xuất hiện muộn; chẩn đoán<br /> không xác định gặp ở 154 CBYT (37,2%);<br /> 61 CBYT (14,7%) trả lời phỏng vấn BV<br /> không có đủ cơ sở vật chất để xét<br /> nghiệm; 28 CBYT (6,4%) gặp những khó<br /> khăn khác.<br /> * Liên quan đến báo cáo ADR:<br /> - Về hệ thống cảnh giác dược, tổ chức<br /> của hệ thống:<br /> Trong tổng số 414 CBYT được phỏng<br /> vấn, 32,1% người cho rằng hệ thống<br /> cảnh giác dược và tổ chức của hệ thống<br /> không gây bất kỳ khó khăn nào đối với<br /> hoạt động báo cáo ADR.<br /> Khó khăn lớn nhất trong công tác báo<br /> cáo ADR từ phía hệ thống cảnh giác<br /> dược, tổ chức của hệ thống đối với CBYT<br /> được phỏng vấn là thiếu thông tin thuốc<br /> và không có cơ chế phản hồi cho người<br /> báo cáo (lần lượt 27,3% và 26,8%).<br /> * Tỷ lệ CBYT gặp khó khăn trong báo<br /> cáo ADR từ phía hệ thống cảnh giác dược<br /> (n = 414):<br /> Trở ngại tiếp theo liên quan đến hệ thống<br /> cảnh giác dược được CBYT phản ánh là<br /> khó khăn khi liên lạc với Trung tâm DI &<br /> ADR Quốc gia phía Nam (70 CBYT = 16,9%)<br /> và mẫu báo cáo phức tạp (61 CBYT =<br /> 14,7%). Bên cạnh đó, 40 CBYT (9,7%) có<br /> ý kiến rằng khó khăn khi liên lạc với đơn<br /> vị thông tin thuốc tại BV như “khi ADR<br /> diễn ra ngoài giờ hành chính”.<br /> Ngoài những khó khăn trên, 13 CBYT<br /> (3,1%) được phỏng vấn còn đưa ra 13 ý<br /> kiến khác liên quan đến hệ thống cảnh<br /> giác dược với nội dung cụ thể như: “việc<br /> phản hồi báo cáo chậm”, hay “chỉ phản<br /> 74<br /> <br /> hồi bằng thư cảm ơn”. Về phía BV, tình<br /> trạng “thiếu nhân sự tại các khoa và BV”<br /> hoặc “sự phối hợp giữa các bên chưa rõ”<br /> cũng là những vấn đề bất cập trong công<br /> tác báo cáo ADR.<br /> - Về phía CBYT:<br /> Trong tổng số 414 người được hỏi,<br /> 15% CBYT phản ánh không có khó khăn<br /> gì khi báo cáo ADR.<br /> 244 CBYT (58,9%) trả lời khó khăn lớn<br /> nhất không chắc chắn về ADR, kết quả<br /> này phù hợp với nghiên cứu của Vallano<br /> [3].<br /> Ngoài ra, CBYT phải đối mặt với một<br /> số yếu tố liên quan đến cá nhân như:<br /> quên không báo cáo (98 CBYT = 23,7%),<br /> không có thời gian (77 CBYT = 18,6%),<br /> e ngại về quy kết trách nhiệm trước pháp<br /> luật (61 CBYT = 14,7%). Trong đó, tỷ lệ<br /> CBYT tại BV đa khoa trung ương không<br /> có thời gian báo cáo (10,1%), quên không<br /> báo cáo (12,1%) đều cao hơn so với BV<br /> đa khoa tỉnh (4,6%;7,7%), BV chuyên khoa<br /> (3,9%; 3,9%). Bên cạnh đó, vẫn còn có<br /> 6,3% (26 CBYT) không thấy lợi ích của<br /> hoạt động báo cáo ADR và 9,7% (40 CBYT)<br /> cho rằng trong trường hợp ADR không<br /> nghiêm trọng không cần thiết phải báo cáo.<br /> Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với kết<br /> quả nghiên cứu của Gonzalez [4]. 3 CBYT<br /> (0,7%) còn gặp những khó khăn khác.<br /> KẾT LUẬN<br /> Một số khó khăn trong hoạt động báo<br /> cáo ADR của CBYT tại BV gồm: BN sử<br /> dụng nhiều thuốc cùng một lúc (91,1%) là<br /> khó khăn lớn nhất trong phát hiện ADR;<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2015<br /> <br /> các yếu tố khó khăn chính đối với CBYT<br /> trong báo cáo ADR là biểu hiện của ADR<br /> giống biểu hiện của bệnh (59,2%); không<br /> chắc chắn về ADR (58,9%), thiếu thông<br /> tin thuốc (27,3%) và không có cơ chế phản<br /> hồi cho người báo cáo (26,8%).<br /> <br /> 1. Nguyen Hoang Anh. Pharmacovigilance<br /> practice in Vietnam: Current situation and<br /> perspectives. Pharmacovigilance - Sharing<br /> practice from Pharmaceutical company meeting.<br /> Hanoi. November, 15, 2011.<br /> <br /> KIẾN NGHỊ<br /> <br /> 2. World Health Organization. Pharmacovigilance:<br /> ensuring the safe use of medicines. 2004.<br /> <br /> Cần tổ chức thường xuyên các lớp<br /> đào tạo về công tác cảnh giác dược cho<br /> CBYT trong BV, đặc biệt kiến thức về<br /> phát hiện sớm ADR, xác định ADR liên<br /> quan đến thuốc.<br /> Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa bác<br /> sỹ, dược sỹ và điều dưỡng trong hoạt<br /> động báo cáo ADR. Về phía Trung tâm DI<br /> & ADR, cần có cơ chế phản hồi cho người<br /> báo cáo.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> 3. Cereza G Vallano A, Pedros C et al.<br /> Difficulties and solutions for spontaneous<br /> reporting of adverse drug reactions in the<br /> hospital. Br J Clin Pharmacol. 2005, 60,<br /> pp.635-638.<br /> 4. Herdeiro MT Gonzalez G, Fiqueiras A.<br /> Determinants of under-reporting of adverse<br /> drug reactions: a systematic review. Drug Saf.<br /> 2009, 32 (1), pp.19-31.<br /> 5. World Health Organization. Pharmacovigilance:<br /> ensuring the safe use of medicines. 2004.<br /> <br /> 75<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2