intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN

Chia sẻ: Hoàng Hiếu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:106

660
lượt xem
160
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong chương trình bồi dưỡng, đào tạo“ Chỉ huy nổ mìn” và “ Thợ mìn ” có nội dung: Công tác khoan-nổ mìn. Đây là một lĩnh vực kỹ thuật rất đặc biệt với những kiến thức khoa học cơ bản, chuyên môn sâu khá phức tạp và đòi hỏi công việc thực hành rất nghiêm ngặt. Do thời lượng môn học rất ngắn, trình độ chuyên môn cũng như điều kiện công tác của học viên có sự khác biệt nhiều nên khó có một Giáo trình nào thỏa mãn được. Tài liệu này được biên sọan nhằm bổ sung cho...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN

  1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Lời nói đầu Trong chương trình bồi dưỡng, đào tạo“ Chỉ huy nổ mìn” và “ Thợ mìn ” có nội dung:  C ô ng   t á c  khoan­n ổ m ì n.   Đây là một lĩnh vực kỹ thuật rất đặc biệt với những kiến thức khoa học cơ   bản, chuyên môn sâu khá phức tạp và đòi hỏi công việc thực hành rất nghiêm ngặt. Do thời lượng môn học rất ngắn, trình độ  chuyên môn cũng như  điều kiện công tác của học   viên có sự khác biệt nhiều nên khó có một Giáo trình nào thỏa mãn được. Tài liệu này được biên sọan nhằm bổ sung cho các Tài liệu tập huấn, đào tạo hiện có. Do đó, chúng tôi chỉ giới hạn nội dung trong phương pháp Khai thác mỏ lộ thiên với khóang   sản là đá xây dựng, puzơlan, … khá phổ biến ở phía Nam. Trên cơ sở yêu cầu khóa học, chúng tôi lấy “ Chương 8: Công tác khoan lỗ mìn”   và “   Chương 9: Công tác nổ mìn” trong Cẩm nang Công nghệ và thiết bị mỏ- NXB KH và KT năm 2006 ( Quyển 1; từ trang 142 đến trang 249 ) và cuốn “Phá vỡ đất đá bằng phương pháp khoan-nổ mìn” của Nguyễn Đình Ấu-Nhữ Văn Bách- NXB Giáo dục 1998…  làm lý thuyết cơ bản. Nội dung bài giảng có tính sơ lược, khái quát, gợi mở. Chỉ đi sâu một số vấn đề kỹ thuật hiện   đang áp dụng phổ biến trong thực tế; các văn bản Pháp luật có liên quan mới ban hành và một số   vấn đề an tòan, môi trường. Bổ sung bằng hinh ảnh, video clip công tác nạp nổ mìn thực tế. Với kinh nghiệm trên 25 năm giảng dạy, đào tạo các bậc học tại chức; bồi dưỡng cán bộ trong   ngành mỏ và trực tiếp làm việc tại các đơn vị khai thác mỏ, được sự hỗ trợ của các Thầy, các bạn   đồng nghiệp, các doanh nghiệp mỏ…nên chúng tôi cố  gắng lựa chọn các kiến thức, thông tin mới   cặp nhật bám sát với nội dung đề cương. Trong 10 năm gần  đây, chúng tôi  đã  trực tiếp thiết kế, chỉ  huy và  thi công nổ  mìn an tòan,   hiệu quả  ( kết hợp nghiên cứu, chụp  ảnh, quay Video… ) với số  lượng khỏang trên 2.000 tấn   thuốc nổ tại các tỉnh Đồng Nai; Bình Dương; Bà Rịa­Vũng Tàu; Ninh Thuận; Kiên Giang…Trực   tiếp tham gia 03 đề tài khoa học cấp Tỉnh về lĩnh vực công nghệ nổ mìn tại Đồng Nai; Bà Rịa­Vũng   Tàu và một số Hội nghị tòan quốc, Hội thảo về VLNCN  nên cũng có một số kinh nghiệm. Hy vọng tài liệu này  sẽ gợi mở, định hướng để học viên tìm hiểu thêm qua các tài liệu, sách   vở, Internet, các hãng chế tạo, nhà cung cấp vật liệu, thiết bị, dịch vụ có liên quan.  Chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót cũng như không thể đáp ứng hết các yêu   cầu của học viên. Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 1/106
  2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Rất mong  được góp ý, trao đổi và chia xẻ kiến thức, để cùng tiến bộ; học tập, sản xuất tốt   hơn, an tòan và hiệu quả hơn trong lĩnh vực sử dụng VLNCN nói riêng, khai thác mỏ nói chung. Xin trân trọng giới thiệu tài liệu và cám ơn. Tháng 4/2011 ­ Người biên sọan Kỹ sư khai thác mỏ hầm lò: Trương Văn Chi Di động: 0918 444 368 hoặc 0908 944 368                                E­mail: viettri24hl@yahoo.com Phần I: NGƯỜI CHỈ HUY NỔ MÌN 1.1. Định nghĩa: Trong QCVN 02: 2008/BCT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an tòan trong bảo quản, vận chuyển, sử dụng và tiêu hủy vật liệu nổ công nghiệp thì tại mục 11, Điều 3 có định nghĩa: “ Chỉ huy nổ mìn”: Là người đủ điều kiện về trình độ và kinh nghiệm theo quy định pháp luật quản lý VLNCN, chịu trách nhiệm hướng dẫn, điều hành, giám sát toàn bộ công việc bảo quản, vận chuyển, sử dụng VLNCN tại khu vực nổ mìn và thực hiện các biện pháp xử lý, ngăn chặn cần thiết để đảm bảo quá trình nổ mìn an toàn, hiệu quả, không xảy ra thất thoát VLNCN”. Sau đó Theo Mục 18, Điều 3 – Nghị định của Chính phủ số 39/2009/NĐ-CP về vật liệu nổ công nghiệp do T.T Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 23/4/2009 và có hiệu lực thi hành từ 22/6/2009 , định nghĩa: “Chỉ huy nổ mìn” là người đủ điều kiện về trình độ và kinh nghiệm, chịu trách nhiệm hướng dẫn, điều hành, giám sát toàn bộ hoạt động liên quan đến sử dụng vật liệu nổ công nghiệp tại khu vực nổ mìn. Tiếp theo, Bộ Công thương ban hành Thông tư để triển khai áp dụng Nghị định trên. Theo THÔNG TƯ Số: 23/2009/TT-BCT của Bộ Công thương v/v: “ QUY ĐỊNH CHI TIẾT MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 39/2009/NĐ-CP NGÀY 23 THÁNG 4 NĂM 2009 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ VẬT LIỆU NỔ CÔNG NGHIỆP” do Bộ trưởng Vũ Huy Hòang ký ngày 11/8/2009 và có hiệu lực thi hành từ 30/9/2009, thì: “ Điều 6. Điều kiện về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người liên quan trực tiếp đến sử dụng VLNCN 1. Người Chỉ huy nổ mìn phải được lãnh đạo tổ chức sử dụng VLNCN ký quyết định bổ nhiệm và phải đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Tốt nghiệp từ trung cấp trở lên một trong các ngành khai thác mỏ, địa chất; xây dựng công trình giao thông, thủy lợi; vũ khí đạn, công nghệ hóa thuốc phóng, thuốc nổ Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 2/106
  3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN và có thời gian làm việc trong lĩnh vực sử dụng VLNCN ít nhất 01 (một) năm đối với trình độ đại học, cao đẳng và 02 (hai) năm đối với trình độ trung cấp kỹ thuật; b) Trường hợp tốt nghiệp trung cấp trở lên các ngành kỹ thuật khác, người Chỉ huy nổ mìn phải có thời gian làm việc trong lĩnh vực sử dụng VLNCN ít nhất 02 (hai) năm đối với trình độ đại học, cao đẳng; 03 (ba) năm đối với trình độ trung cấp kỹ thuật, phải học tập bổ sung kiến thức về kỹ thuật nổ mìn và quy phạm, quy chuẩn an toàn trong khai thác khoáng sản, dầu khí hoặc thi công công trình xây dựng t ương ứng với lĩnh vực có sử dụng VLNCN; c) Đối với các tổ chức kinh tế thành lập theo Luật Hợp tác xã có hoạt đ ộng khai thác theo phương pháp thủ công, trường hợp không có người Chỉ huy nổ mìn đáp ứng các yêu cầu nêu trên, cho phép bổ nhiệm tạm thời người Chỉ huy nổ mìn là thợ mìn đã được đào tạo, cấp chứng chỉ ở các trường dạy nghề ngành khai thác mỏ, có thời gian làm việc trong lĩnh vực sử dụng VLNCN ít nhất 03 (ba) năm và đ ược học tập bổ sung kiến thức về quy phạm, quy chuẩn an toàn trong khai thác khoáng sản hoặc thi công công trình xây dựng tương ứng với lĩnh vực có sử dụng VLNCN. Sau 03 (ba) năm, kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực, người Chỉ huy nổ mìn phải đáp ứng được các điều kiện quy định tại điểm a hoặc b của khoản này. 2. Thợ mìn hoặc người lao động làm công việc có liên quan trực tiếp đến VLNCN phải được đào tạo và có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí, chức trách đảm nhiệm thỏa mãn các yêu cầu tại Phụ lục C, QCVN 02:2008/BCT. 3. Cơ quan cấp Giấy phép sử dụng VLNCN có trách nhiệm thẩm tra về kiến thức học tập bổ sung của Chỉ huy nổ mìn quy định tại điểm b hoặc c khoản 1, Điều này trước khi cấp Giấy phép sử dụng VLNCN ”. Như vậy trách nhiệm, quyền hạn và yêu cầu trình độ chuyên môn nghiệp vụ đối với người Chỉ huy nổ mìn của đơn vị sử dụng VLNCN rất rõ ràng, cụ thể và chi tiết. Trong thực tế thi công nạp-nổ mìn có rất nhiều vấn đề phát sinh đòi hỏi sự linh họat, trình độ chuyên môn, bản lĩnh tự tin và quyết đóan, dám chịu trách nhiệm…của người Chỉ huy nổ mìn. Yêu cầu tinh thần, kỹ năng làm việc theo đội nhóm ( Team Work ) rất cao. Do đó, việc học tập, trao đổi rút kinh nghiệm thường xuyên nâng cao trình đ ộ kỹ thuật, nắm bắt kịp thời sự phát triển khoa học, công nghệ cũng như vật liệu mới và cặp nhật các Văn bản pháp luật Nhà nước cùng các Quy định của địa phương có liên quan lĩnh vực sử dụng VLNCN là cần thiết và hữu ích. Các cán bộ kỹ thuật khai thác mỏ cũng như Chỉ huy nổ mìn là những người lãnh đạo chuyên môn trực tiếp và xu hướng sẽ nắm giữ các cương vị quản lý cấp cao h ơn của đơn vị, Doanh nghiệp khai thác mỏ có sử dụng VLNCN, nên cũng cần nắm bắt các vấn đề chung, rộng hơn có liên quan. Đồng thời phải tích cực thực hành, bám sát th ực tế, nghiên cứu vận dụng và điều chỉnh công tác bảo đảm an tòan tuyệt đối, hiệu quả cao nhất, không vi phạm Pháp luật. 1.2. Hội kỹ thuật nổ mìn Việt Nam Do tính chất đặc thù của công việc và sự phát triển ngành khai thác mỏ dẫn đến việc sản xuất, kinh doanh, sử dụng VLNCN ở Việt Nam nói chung gia tăng nhanh. Cần thiết phải có Hội nghề nghiệp. Ngày 16/10/2010, tại Hà Nội, Hội Kỹ thuật nổ mìn Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 3/106
  4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Việt Nam tổ chức đại hội thành lập hội với sự tham gia của hơn 100 đại biểu, hội viên từ các bộ, ngành liên quan, các trường đại học, công ty, nhà máy, đơn vị nghiên cứu, sản xuất và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp. Hội là nơi cung cấp và thu thập thông tin về kỹ thuật chuyên ngành nổ mìn, tham mưu và tư vấn cho các cơ quan chức năng Nhà nước về sản xuất, vận chuyển và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phục vụ tốt hơn cho kinh tế đất nước. Hội có tư cách pháp nhân, con dấu, biểu tượng và tài khoản riêng. Cơ quan ngôn luận của hội là Tạp chí kỹ thuật nổ mìn Việt Nam. Đại hội bầu ra Ban chấp hành gồm 21 người, Ban kiểm tra gồm 5 người, trong đó giáo sư-tiến sỹ Nhữ Văn Bách được cử giữ chức Chủ tịch hội.  Xem Video Clip phát biểu của Mr. Đỗ Quang Vinh- Cục tr ưởng c ục k ỹ thu ật an tòan và môi trường-Bộ Công thương và Đại tá Đỗ Văn S ơn-C ục tr ưởng c ục c ảnh sát PCCC và cức nạn cứu hộ-Bộ Công An tại Hội nghị VLNCN tòan qu ốc 10/2009 t ại Nha Trang. Phần II: TRÁI ĐẤT 2.1: Hệ mặt trời - Solar System Hệ mặt trời (cũng được gọi là Thái Dương Hệ)- là một hệ hành tinh có Mặt Trời ở trung tâm và các thiên thể nằm trong phạm vi lực hấp dẫn của Mặt Trời, tất cả chúng được hình thành từ sự suy sụp của một đám mây phân tử khổng lồ cách đây gần 4,6 tỷ năm.Đa phần các thiên thể quay quanh Mặt Trời, và khối lượng tập trung chủ yếu vào 8 hành tinh có quỹ đạo gần tròn và mặt phẳng quỹ đạo gần trùng khít với nhau gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Hình 1+ 2: Vị trí và quỹ đạo của Trái đất trong hệ Mặt trời Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 4/106
  5. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Bốn hành tinh nhỏ vòng trong gồm: Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất và Sao Hỏa - người ta cũng còn gọi chúng là các hành tinh đá do chúng có thành phần chủ yếu từ đá và kim loại. Bốn hành tinh khí khổng lồ vòng ngoài có khối lượng lớn hơn rất nhiều so với 4 hành tinh vòng trong. Hai hành tinh lớn nhất, Sao Mộc và Sao Thổ có thành phần chủ yếu từ heli và hiđrô; và hai hành tinh nằm ngoài cùng, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương có thành phần chính từ băng, như nước, amoniac và mêtan, và đôi khi người ta lại phân loại chúng thành các hành tinh băng đá khổng lồ. Có sáu hành tinh và ba hành tinh lùn có các vệ tinh tự nhiên quay quanh. Các vệ tinh này được gọi là "mặt trăng" theo tên gọi của Mặt Trăng của Trái Đất. Mỗi hành tinh vòng ngoài còn có các vành đai hành tinh chứa bụi, hạt và vật thể nhỏ quay xung quanh. Đơn vị thiên văn là một đơn vị độ dài qui ước được dùng trong thiên văn học để đo các khoảng cách trong không gian. Độ dài của đơn vị này là khoảng cách trung bình từ Trái Đất đến Mặt Trời, nghĩa là khoảng 150 triệu km ( chính xác là 149.597.870,691 km). Đơn vị thiên văn thường được viết tắt như UA hoặc ua (tiếng Pháp: unité astronomique), hay AU hoặc au (tiếng Anh: astronomical unit). Như vậy, Hệ Mặt Trời có 9 hành tinh và 31 vệ tinh quay quanh các hành tinh; r ất nhiều tiểu hành tinh ( khỏang 1600 tiểu hành tinh, kích thước lớn nhất gần 800 km ) và vô vàn sao chổi ( phần trung tâm là các mảnh vụn đá cứng, bao quanh là các khí b ụi và nó có thể phát quang ); một khối lượng khổng lồ các mảnh đá tr ời ( thiên th ạch ) và nhiều bụi nhỏ; khí. Các hành tinh chuyển động quanh mặt trời theo Định luật Kê-pơ-le I và II. Hình 3: Hệ Ngân hà - Hệ Mặt Trời nằm trong hệ Sông Ngân ( Ngân Hà ) - Hình 3. - Hệ Sông Ngân nằm trong hệ Sông Trời ( Thiên Hà) – Hình 4. Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 5/106
  6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN - Hệ Thiên Hà nằm trong hệ Siêu Sông Trời ( Siêu Thiên Hà ) – Hình 5. Hình 4: Hệ Thiên Hà Hình 5 : Các Quần tụ Thiên Hà lại họp lại trở thành Siêu Thiên Hà. 2.2: Hình dạng và kích thước trái đất: Trái Đất là hành tinh lớn nhất và có mật độ lớn nhất trong số các hành tinh vòng trong, cũng là hành tinh duy nhất mà chúng ta biết còn có các hoạt động đ ịa chất gần đây, và là hành tinh duy nhất trong vũ trụ được biết đến là nơi có sự sống tồn tại. Trái Đất cũng là hành tinh đá duy nhất có thủy quyển lỏng, và cũng là hành tinh duy nhất nơi có quá trình kiến tạo mảng đã được quan sát. Bầu khí quyển của Trái Đất cũng khác căn bản so với các hành tinh khác với thành phần phân tử ôxy tự do thiết yếu cho sự sống chiếm tới 21% trong bầu khí quyển. Trái Đất có một vệ tinh tự nhiên là Mặt Trăng, nó là vệ tinh tự nhiên lớn nhất trong số các vệ tinh của các hành tinh đá trong hệ Mặt Trời. Trái đất đã tồn tại được 4,6 tỉ năm tuổi ( xác định bằng phương pháp phân rã phóng xạ ) và là một ngôi nhà chung cho 6 tỉ người sống cùng hàng triệu loài sinh vật khác. Khoảng cách đến Mặt Trời: 1AU-150 triệu km. Diện tích bề mặt là 510,1 x 106 km2. Thể tích trái đất là 1.083.320 x 106 km3. Sức nặng có thể dự tính khoảng 6 x 1021 tấn. Tỉ trọng: 5.52 Năm hồi quy: 365,25 ngày. Chu kì tự quay: 23h56 phút. Nhiệt độ: -34 độ C đến 54 độ C Trái Đất còn được biết tên với các tên như "thế giới", "hành tinh xanh", "viên bi xanh "hay "Địa Cầu". Người ta hy vọng Trái đất còn có thể "sống" được hơn 1,5 tỉ năm nữa. Hình 6: Kích thước tương đối Trái Đấ t Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 6/106
  7. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Geoid (Mặt đất tự nhiên) b a O Ellip soid a: Bán trục lớn b: Bán trục nhỏ (Mặt toán học) Hình 7: Hình dạng và kích thước Trái đất Tác giả Nước Độ dẹt Năm a (m) b (m) Đalamber Pháp 1800 6 375 653 6 356 564 1:334 Đức Bessel 1841 6 377 397 6 356 079 1:299.2 Clark Anh 1880 6 378 249 6 356 515 1:293.5 Gdanov Nga 1893 6 377 717 6 356 433 1:299.6 Mỹ Hayford 1909 6 378 388 6 356 912 1:297 Krasovski Liên-xô 1940 6 378 245 6 356 863 1:298.3 Quốc Tế 1984 WGS-84 6 378137 6 356 752 1:298.3 Bảng 1: Hiện nay ở Việt Nam sử dụng Ellipsoid WGS-84. Hình dạng của Trái Đất rất gần với hình phỏng cầu là hình cầu bị nén dọc theo hướng từ địa cực tới chỗ phình ra ở xích đạo. Phần phình ra này là kết quả của quá trình tự quay và khiến cho độ dài đường kính tại đường xích đạo dài hơn 43 km so với độ dài đường kính tính từ cực tới cực. Độ dài đường kính trung bình của hình phỏng cầu tham chiếu vào khoảng 12.745 km, xấp xỉ với 40.000 km/π, mét được định nghĩa bằng 1/10.000.000 khoảng cách từ xích đạo đến cực Bắc đo qua Paris, Pháp. Nơi có độ lệch (độ cao hoặc độ sâu) lớn nhất so với bề mặt Trái Đất là đỉnh Everest (8.848 m trên mực nước biển) và rãnh Mariana (10.911 dưới mực nước biển). Đỉnh Everest là ngọn núi cao nhất thế giới, nằm len lỏi trong số những đỉnh núi bị tuyết bao phủ quanh năm của dãy Himalaya, cũng là nơi có số đỉnh núi cao trên 8.000m nhiều nhất thế giới. Nằm ở miền Nam Trung Á, dãy núi Himalaya hình thành nên vùng biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng, đồng thời trải dài qua Bhutan, Nepal, Pakistan và một phần lãnh thổ Afghanistan. Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 7/106
  8. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Hình 8 : Đỉnh Everest cao 8.848 m. Hình 9: Dãy Himalaya dài 3.800 km. Hình 10: Trục tự quay của Trái Đất nghiêng so với mặt phẳng hoàng đạo góc x ấp x ỉ 23,5° Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 8/106
  9. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Diện tích bề mặt Trái Đất được bao phủ bởi nước ở dạng lỏng chiếm 70,8%, và phần còn lại được phân thành 7 châu lục, bao gồm: châu Á (chiếm 29,5% diện tích đất liền của Trái Đất), châu Phi (20,5%), Bắc Mỹ (16,5%), Nam Mỹ (12%), Nam Cực (9%), châu Âu (9%), châu Úc (5%). Định nghĩa các châu lục này chủ yếu mang tính chất văn hoá bởi vì có những châu lục không bị dải nước nào chia cắt cả như châu Á và châu Âu chẳng hạn. Về mặt đ ịa lý, chỉ có 4 châu lục bị nước chia cắt: châu Á - Âu - Phi (chiếm 57% diện tích đất liền), châu Mỹ (28,5%), châu Nam Cực (9%) và châu Úc (5%). 0,5% còn lại là các hòn đ ảo chủ yếu rải rác trong phạm vi châu Đại Dương, ở giữa và Nam Thái Bình Dương. Một ngày trên Trái Đất được chia thành 24h, nhưng thực chất Trái Đất mất 23h56'4s để tự quay quanh mình, như vậy là có 3'56s bị lệch. Khoảng thời gian này sẽ đượcc cộng dồn vào một vòng quay Trái Đất quanh quỹ đạo của nó. Một năm Trái Đất là khoảng thời gian Trái Đất cần để đi đủ một vòng quanh Mặt Trời. Khoảng thời gian này có thể sai khác đôi chút theo từng năm, nhưng trung bình là khoảng 365,25 ngày. 2.3: Khí quyển Trái Đất: Xung quanh Trái đất có một vỏ không khí dày khỏang 60km được gọi là khí quyển- atmosphere. Khí quyển Trái Đất là lớp các chất khí bao quanh Trái Đất và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của Trái Đất. Hình 11: Khí quyển Trái đất Nó gồm có nitơ (78,1% theo thể tích) và ôxy (20,9%), với một lượng nhỏ agon (0,9%), điôxít cacbon (dao động, khoảng 0,035%), hơi nước và một số chất khí khác. Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 9/106
  10. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Bầu khí quyển bảo vệ cuộc sống trên Trái Đất bằng cách hấp thụ các bức xạ tia cực tím của mặt trời và tạo ra sự thay đổi về nhiệt độ giữa ngày và đêm. Bầu khí quyển không có ranh giới rõ ràng với khoảng không vũ trụ nhưng mật độ không khí của bầu khí quyển giảm dần theo độ cao. Ba phần tư khối lượng khí quyển nằm trong khoảng 11 km đầu tiên của bề mặt hành tinh. Tại Mỹ, những người có thể lên tới độ cao trên 50 dặm (80,5 km) được coi là những nhà du hành vũ trụ. Độ cao 120 km (75 dặm hay 400.000 ft) được coi là ranh giới do ở đó các hiệu ứng khí quyển có thể nhận thấy được khi quay trở lại. Đường Cacman, tại độ cao 100 km (62 dặm), cũng được sử dụng như là ranh giới giữa khí quyển Trái Đất và khoảng không vũ trụ. Nhiệt độ của khí quyển Trái Đất biến đổi theo độ cao so với mực nước biển; mối quan hệ toán học giữa nhiệt độ và độ cao so với mực nước biển biến đổi giữa các tầng khác nhau của khí quyển: - Tầng đối lưu: từ bề mặt trái đất tới độ cao 7-17 km, phụ thuộc theo vĩ độ (ở 2 vùng cực là 7-10km) và các yếu tố thời tiết, nhiệt độ giảm dần theo độ cao đạt đến -50°C. Không khí trong tầng đối lưu chuyển động theo chiều thẳng đứng và nằm ngang rất mạnh làm cho nước thay đổi cả 3 trạng thái, gây ra hàng loạt quá trình thay đổi vật lý. Những hiện tượng mưa, mưa đá, gió, tuyết, sương giá, sương mù,... đều diễn ra ở tầng đối lưu. - Tầng bình lưu: từ độ cao trên tầng đối lưu đến khoảng 50 km, nhiệt độ tăng theo độ cao đạt đến 0°C. Ở đây không khí loãng, nước và bụi rất ít, không khí chuyển động theo chiều ngang là chính, rất ổn định. Tầng này tập trung phần lớn các khí tạo hiệu ứng nhà kính và lớp Ôzôn ( O3 ) có tác dụng ổn định nhiệt độ cho trái đất và bảo vệ con người cùng các sinh vật tránh tác hại của tia cực tím do ánh sáng mặt trời chiếu xuống Trái đất. - Tầng trung lưu: từ khoảng 50 km đến 80-85 km, nhiệt độ giảm theo độ cao đạt đến -75°C. Phần đỉnh tầng có một ít hơi nước, thỉnh thoảng có một vài vệt mây bạc gọi là mây dạ quang. - Tầng điện li: từ 80–85 km đến khoảng 640 km, nhiệt độ tăng theo độ cao có thể lên đến 2.000°C hoặc hơn. Ôxy và nitơ ở tầng này ở trạng thái ion, vì thế gọi là tầng điện li. Sóng vô tuyến phát ra từ một nơi nào đó trên vùng bề mặt Trái đất phải qua sự phản xạ của tầng điện li mới truyền đến các nơi trên thế giới. Tại đây, do bức xạ môi trường, nhiều phản ứng hóa học xảy ra đối với ôxy, nitơ, hơi nước, CO2...chúng bị phân tách thành các nguyên tử và sau đó ion hóa thành các ion như NO+, O+, O2+, NO3-, NO2-...và nhiều hạt bị ion hóa phát xạ sóng điện từ khi hấp thụ các tia mặt trời vùng tử ngoại xa. Hình 12 : Sơ đồ các tầng khí quyển của Trái Đất Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 10/106
  11. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN - Tầng ngoài: từ 500–1.000 km đến 10.000 km, nhiệt độ tăng theo độ cao có thể lên đến 2.500°C. Đây là vùng quá độ giữa khí quyển Trái Đất với khoảng không vũ trụ. Vì không khí ở đây rất loãng, nhiệt độ lại rất cao, một số phân tử và nguyên tử chuyển động với tốc độ cao cố "vùng vẫy" thoát ra khỏi sự trói buộc của sức hút Trái đất lao ra khoảng không vũ trụ. Do đó tầng này còn gọi là tầng thoát ly. Tuy nhiêt, các nhiệt kế, nếu có thể, lại chỉ các nhiệt độ thấp dưới 0°C do mật độ khí là cực kỳ thấp nên s ự truyền nhiệt ở mức độ có thể đo đạc được là rất khó xảy ra. 2.4: Hiệu ứng nhà kính: Nhiệt độ bề mặt trái đất được tạo nên do sự cân bằng giữa năng l ượng mặt trời đến bề mặt trái đất và năng lượng bức xạ của trái đất vào khoảng không gian giữa các hành tinh. Năng lượng mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ dàng xuyên qua cửa sổ khí quyển. Trong khi đó, bức xạ của trái đất với nhiệt độ bề mặt trung bình +16 oC là sóng dài có năng lượng thấp, dễ dàng bị khí quyển giữ lại. Các tác nhân gây ra s ự hấp thụ bức xạ sóng dài trong khí quyển là khí CO2, bụi, hơi nước, khí mêtan, khí CFC v.v... "Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa trái đất với không gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đ ất. Hiện tượng này diễn ra theo cơ chế tương tự như nhà kính trồng cây và được gọi là Hiệu ứng nhà kính". 2.5: Cấu trúc của Trái đất: Công việc nghiên cứu bên trong Trái đất gặp phải nhiều yếu tố rất khó khăn. Đ ể tìm hiểu được, các nhà địa chất học đã dùng những phương pháp nghiên cứu gián tiếp để có thể suy đoán được cấu trúc, lớp vỏ của Trái đất cũng như thành phần và trạng thái bên trong Trái đất. Một trong những phương pháp thường dùng là địa chấn. Hình 13 : Bề mặt trái đất thuở hồng hoang Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 11/106
  12. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Nghiên cứu sự thay đổi của sóng địa chấn lan truyền trong lòng Trái Đất, người ta đã biết được Trái Đất có cấu trúc gồm nhiều lớp. Hình 14 : Cấu tạo của lớp vỏ Trái đất. (sửa tiếng việt từ ảnh của Colin Rose) 2.5.1: Lớp vỏ Trái Đất Vỏ Trái Đất cấu tạo chủ yếu bằng những vật chất cứng rắn, độ dày dao động từ 5 km (ở đại dương) đến 70 km (ở lục địa). Vỏ Trái Đất chỉ chiếm khoảng 15% về thể tích và khoảng 1% về trọng lượng của Trái Đất nhưng có vai trò rất quan trọng đối với thiên nhiên và đời sống con người. Căn cứ vào sự khác nhau về thành phần cấu tạo, độ dày… vỏ Trái Đất lại chia thành hai kiểu chính: vỏ lục địa và vỏ đại dương. Vỏ lục địa là phần cứng chiếm ¼ diện tích vỏ trái đất gọi là Thạch quyển – lithosphere. Tập hợp nước của các biển, đại dương ( chiếm ¾ diện tích vỏ trái đất ), ao hồ, sông ngòi, vùng băng tuyết …được gọi là thủy quyển – hydrosphere. Vỏ Trái Đất được cấu tạo bởi các tầng đá khác nhau. Trên cùng là tầng đá trầm tích do các vật liệu vụn, nhỏ bị nén chặt tạo thành. Tầng này không liên tục và có nơi mỏng nơi dày. Tầng granit gồm các loại đá nhẹ tạo nên như đá granit và các loại đá có tính chất tương Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 12/106
  13. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN tự như đá granit… được hình thành do vật chất nóng chảy ở dưới sâu của vỏ Trái Đất đông đặc lại. Lớp vỏ lục địa được cấu tạo chủ yếu bằng granit. Tầng badan gồm các loại đá nặng hơn như đá badan và các loại đá có tính chất tương tự như đá badan… được hình thành do vật chất nóng chảy phun trào lên mặt đất rồi đông đặc lại. Lớp vỏ đại dương cấu tạo chủ yếu bằng badan. Bắt đầu từ 1970, sau hơn 10 năm, Liên Xô đã khoan được lỗ sâu nhất vào vỏ trái đất trên bán đảo Kôla, gần Na-uy, đạt đến 12.262 m, và hiện nay Nga đang xem xét mở lại lỗ khoan này. 2.5.2: Lớp Manti Dưới vỏ Trái Đất cho tới độ sâu 2.900 km là lớp Manti (còn được gọi là bao Manti). Lớp này gồm hai tầng chính. Càng vào sâu, nhiệt độ và áp suất càng lớn nên trạng thái vật chất của bao Manti có sự thay đổi, quánh dẻo ở tầng trên và rắn ở tầng dưới. Vỏ Trái Đất và phần trên cùng của lớp Manti (đến độ sâu khoảng 100 km) vật chất ở trạng thái cứng, người ta thường gộp vào và gọi chung là thạch quyển. Thạch quyển di chuyển trên một lớp mềm, quánh dẻo - quyển mềm của bao Manti, như các mảng nổi trên mặt nước. Quyển mềm của bao Manti có ý nghĩa lớn đối với vỏ Trái Đất. Đây là nơi tích tụ và tiêu hao nguồn năng lượng bên trong, sinh ra các hoạt động kiến tạo làm thay đổi cấu trúc bề mặt Trái Đất như hình thành những dạng địa hình khác nhau, các hiện tượng động đất, núi lửa… 2.5.3: Nhân Trái Đất Nhân Trái Đất là lớp trong cùng, dày khoảng 3470 km. Ở đây, nhiệt độ và áp suất lớn hơn so với các lớp khác. Hình 15: Nhân Trái Đất Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 13/106
  14. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Từ 2900 km đến 5100 km là nhân ngoài, nhiệt độ vào khoảng 5000oC, áp suất từ 1,3 triệu đến 3,1 triệu atm, vật chất tồn tại trong trạng thái lỏng. Từ 5100 km đến 6370 km là nhân trong, áp suất từ 3 triệu đến 3,5 triệu atm, vật chất ở trạng thái rắn. Thành phần vật chất chủ yếu của nhân Trái Đất là những kim loại nặng như niken (Ni), sắt (Fe) nên nhân Trái Đất còn được gọi là nhân Nife. 2.5.4: Từ trường của trái đất Từ trường của Trái Đất có hình dạng gần giống như một lưỡng cực từ, với các cực từ gần trùng với các địa cực của Trái Đất. Theo thuyết dynamo, từ trường Trái Đất được tạo ra trong vùng lõi ngoài nóng chảy của Trái Đất, nơi mà nhiệt lượng tạo ra các chuyển động đối lưu của các vật chất dẫn điện, tạo ra dòng điện. Các dòng điện này đến lượt mình tạo ra từ trường. Các chuyển động đối lưu trong lõi rất lộn xộn, chuyển hướng theo chu kỳ. Hình 16 : Hướng các đường sức từ của Trái đất Trong khi đang tiến hành thí nghiệm để tìm hiểu áp lực bên trong Trái đất ảnh hưởng thế nào đối với lõi sắt, các nhà nghiên cứu thuộc Phòng thí nghiệm Lawrence Livermore, Mỹ, đã khám phá ra một điều ngạc nhiên: Lõi sắt của Trái đất thực ra đ ơn giản hơn nhiều so với mọi người vẫn nghĩ. Chỉ có một dạng cấu trúc của nguyên tử sắt. Đó là cấu trúc tinh thể giống như kim cương. Trong 20 năm qua, giới khoa học cho rằng có ít nhất 2 dạng nguyên tử sắt. Với việc khám phá ra cấu trúc của lõi sắt, nhóm nghiên cứu hy vọng có thể hiểu rõ hơn nhiệt độ và áp lực ở đó. Trước đó, họ đã khẳng định lõi Trái đất bắt đầu tan chảy ở nhiệt độ thấp hơn so với mọi người vẫn nghĩ. TS Neil Holmes, một thành viên của nhóm nghiên cứu cho biết: ""Khám phá này làm cho toàn bộ vấn đề trở nên đơn giản hơn. Nó cho phép chúng tôi tập trung vào việc xác định nhiệt độ và những đặc tính khác của sắt"". Lõi Trái đất có vai trò quan trọng bởi nó tạo ra trường điện từ của Trái đất. Trường điện từ này đang suy yếu. Hiện tượng này đang gây tác động trong không gian, chẳng hạn như gây trục trặc cho các vệ tinh mà trường điện từ bảo vệ chúng khỏi bức xạ Mặt trời cũng như bức xạ khác trong không gian. Ngoài ra, giới khoa học còn muốn tìm hiểu liệu các cực từ có đang chuẩn bị lật nhào, cực Bắc trở thành Nam và ngược lại. Hiện tượng này đã xảy ra nhiều lần trước đây trong lịch sử Trái đất. Từ trường tạo từ quyển làm lệch hướng các điện tử của gió Mặt Trời. "Sốc hình cung" hướng về phía Mặt Trời nằm ở khoảng cách gấp 13 lần bán kính Trái Đất. Sự va chạm giữa từ trường Trái Đất và gió Mặt Trời tạo ra vành đai bức xạ Van Allen, một Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 14/106
  15. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN cặp những vùng tích điện dạng vòng cung đồng tâm hình đế hoa. Khi thể plasma xâm nhập vào bầu khí quyển của Trái Đất ở các cực, chúng tạo ra cực quang. Hình 17 +18: Hình ảnh cực quang ở Bắc cực và Nam cực. 2.6: Sinh quyển – biosphere Sinh quyển chính là lớp vỏ sống của trái đất, một hệ thống động vô cùng phức tạp với số lượng lớn các yếu tố ngẫu nhiên và nhiều quá trình mang đặc điểm xác suất. Hình 19: Sơ đồ Sinh quyển Trong thành phần của sinh quyển có tầng đối lưu của khí quyển, toàn bộ thuỷ quyển, một phần của thạch quyển cho tới các lớp nhiệt độ 100oC. Như vậy, sinh quyển là toàn bộ thế giới sinh vật cùng với các yếu tố của môi trường bao quanh chúng trên trái đất, bao gồm cả các hoạt động của sinh vật đã, đang và sẽ tồn tại trên vỏ trái đất. Trong sự hình thành sinh quyển, có sự tham gia tích cực của các yếu tố bên ngoài như năng lượng mặt trời, sự nâng lên và Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 15/106
  16. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN hạ xuống của vỏ trái đất, các quá trình tạo núi, băng hà v.v... Các cơ chế xác định tính thống nhất và sự toàn vẹn của sinh quyển là sự di truyền và tiến hoá của thế giới sinh vật, vòng tuần hoàn sinh địa hoá của các nguyên tố hoá học, vòng tuần hoàn nước tự nhiên. Sinh quyển tồn tại trên trái đất trong mối cân bằng động với các hệ tự nhiên khác. Hình 20: Sơ đồ tuần hòan của nguyên tố carbon ( C ) trên trái đất. Hình 21: Hướng chính các dòng năng lượng và sự tuần hòan trong Sinh quyển. 2.7: Trí quyển – noosphere Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 16/106
  17. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Hình 22 + 23: Hình vẽ biểu tượng cho Trí quyển Trí quyển phát triển từ sinh quyển. Với sự phát triển của xã hội loài người, sinh quyển chuyển thành trí quyển, vì khi đã nắm vững những quy luật của tự nhiên và khi khoa học và kĩ thuật phát triển, thì loài người càng có điều kiện cải tạo tự nhiên phù hợp với những nhu cầu của mình. Do đó, trí quyển cũng có xu hướng ngày càng mở rộng vì con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên cả về chiều rộng và chiều sâu. Những thành tựu mới nhất của khoa học-kỹ thuật, công nghệ cho thấy rằng trí quy ển đang thay đổi một cách nhanh chóng, sâu sắc và phạm vi tác động của nó không có giới hạn, kể cả phạm vi ngòai hệ mặt trời. 2.8: Khái niệm về môi trường - Environment: Môi trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con. Môi trường của một hệ thống đang xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó. Một định nghĩa rõ ràng hơn như: Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 17/106
  18. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng. Hình 24: Khí thải vẫn quá mức báo động Tùy theo mục đích và đối tượng nghiên cứu mà khái niệm môi trường được cụ thể hóa cho từng trường hợp. - Riêng đối với con người thì môi trường sống gồm môi trường thiên nhiên và môi trường nhân tạo. Trong môi trường nhân tạo thì cộng đồng con người tạo nên các mối quan hệ, các hình thái tổ chức kinh tế-xã hội; các thể chế…gọi là môi trường xã hội. - Môi trường sinh thái là tổng hợp các điều kiện bên ngòai có ảnh hưởng t ới s ự tồn tại và quá trình phát triển, tiến hóa của các hệ sinh thái động, thực vật. - Trong khoa học máy tính, môi trường có nghĩa chung là các dữ liệu, tiến trình hay thiết bị mặc dù không được đặt tên gọi một cách rõ ràng như là các tham số của ngành khoa học tính toán, nhưng có thể ảnh hưởng tới đầu ra của nó. - Sự phát triển của khoa học-kỹ thuật và công nghệ tạo ra một môi trường kỹ thuật. Một mặt nó cải thiệt chất lượng môi trường sống, thúc đẩy quá trình phát triển của lòai người, nhưng mặt khác lại làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá hủy sự đa dạng sinh học, sa mạc hóa đất đai canh tác, gây ô nhiễm đất, nước và không khí, gia tăng bệnh tật... Khi đánh giá tác động cụ thể của con người vào môi trường thiên nhiên, người ta còn phân biệt nó thành môi trường đất; môi trường nước và môi trường không khí. Hình 25 : Hãy bảo vệ hành tinh xanh. 2.9: Tài nguyên - Resourcer Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người Tài nguyên có thể là: -Tài nguyên thiên nhiên -Tài nguyên xã hội. -Tài nguyên tái tạo, tài nguyên không tái tạo. -Tài nguyên nước, tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên năng lượng, tài nguyên khí hậu cảnh quan, di sản văn hoá kiến trúc, tri thức khoa học và thông tin. Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 18/106
  19. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Tài nguyên tái tạo được là những tài nguyên dựa vào nguồn năng lượng được cung cấp hầu như liên tục và vô tận từ vũ trụ vào trái đất. Nói cách khác nó là những tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục nếu được quản lý khai thác hợp lý: năng lượng mặt trời; năng lượng nước; gió; tài nguyên sinh học.. Tài nguyên không tái tạo được tồn tại một cách hữu hạn, sẽ mất đi hoặc hòan tòan biến đổi, không còn giữ được các thuộc tính ban đầu sau quá trình sử dụng: các l ọai khóang sản; nhiên liệu khóang; các thông tin di truyền bị mai một không giữ lại cho đời sau… Hình 26: Turbin gió Người ta dự báo nguồn tài nguyên khóang sản và nhiên liệu khóang trên thế giới chỉ đủ cho con người dùng trong khỏang 25 ÷ 100 năm nữa. 2.10: Phát triển bền vững – Durable development Vấn đề khai thác tài nguyên khoáng sản trên thế giới trong một vài thập niên gần đây đã và đang trở nên nóng bỏng hơn khi mà những tác đ ộng khôn l ường v ề môi sinh và môi trường của quá trình khai thác khoáng sản ngày càng tăng lên và mang đ ến những hậu quả to lớn cho xã hội. Không chỉ vậy, một vấn đ ề l ớn đã nổi lên: Nhi ều quốc gia rất giàu tài nguyên khoáng sản song ngành công nghiệp này sau nhiều thập kỷ được đầu tư phát triển lớn nhưng đã không mang lại sự thịnh vượng cần có cho đ ất nước của họ. Càng khai thác tài nguyên để xuất khẩu thì sự phân hóa và bất công xã hội ngày càng tăng; bên cạnh đó là môi trường tự nhiên ngày càng bị tàn phá và ô nhiễm nghiêm trọng. Giới khoa học trên thế giới khi dày công nghiên cứu về tình trạng này đã gọi rằng đây chính là “Lời nguyền tài nguyên”, sự trả giá cho việc đi theo con đường bóc lột thiên nhiên để phục vụ mục tiêu thịnh vượng mà không đạt được. Lời nguyên tài nguyên trong con mắt của giới nghiên cứu với ẩn ý rằng: “của trời cho mà không biết làm lợi; tư tưởng ỷ lại, “ngồi mát ăn bát vàng” khi có trong tay quá nhiều của cải ”trời cho”, hay là “sự linh ứng của quy luật thiên nhiên”...; nhưng thực chất của câu chuyện này chính là sự yếu kém của một nền quản trị quốc gia thiếu minh bạch. Trước những tiêu chuẩn mới về xã hội phát triển bền vững trên toàn cầu, nhiều quốc gia đang tìm mọi cách để thoát khỏi lời nguyên tài nguyên, tìm cách đ ảo ngược tình thế nhưng xem ra sự thành công thì vẫn chưa thấy đâu còn những xáo tr ộn xã hội thì lại nảy sinh... Gần đây, với sự khởi xướng của một số nước phát triển, Sáng kiến minh bạch trong công nghiệp khai khoáng ( EITI -Extractive Industries Transparency Initiative) đã được đưa ra và nhận được sự đồng thuận của rất nhiều các quốc gia, tập đoàn khai khoáng đa quốc gia và các tổ chức nghiên cứu và xã hội dân sự. EITI đang đ ược xem như là một giải pháp tổng hợp mang tính toàn cầu để thiết lập nên một chuẩn mực mới cho vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia trên thế giới, ngăn chặn “sự linh ứng của quy luật thiên nhiên”... Ở Việt Nam những năm gần đây vấn đề khai thác khoáng sản và những tác đ ộng tiêu cực đến môi sinh và môi trường cũng như bài toán kinh tế tài nguyên đang được đặt ra rất cấp thiết, được sự quan tâm lớn của toàn xã hội. Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 19/106
  20. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÔNG TÁC KHOAN - NỔ MÌN Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. Hình 27+28: Mô hình sự pháttriển bền vững Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: " Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED - World Commission on Environment and Development (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ : Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có s ự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường. Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường. Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi là Hội nghị Rio+10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo cũng như các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc gia đã tổng kết lại kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và đưa ra các quyết sách liên quan tới các vấn đề về nước, năng lượng, sức khỏe, nông nghiệp và sự đa dạng sinh thái. Những mục tiêu này bao gồm xóa nghèo đói, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và Giảng viên: Việt Tri T.P Hồ Chí Minh -4/2011 Trang 20/106
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2