
ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
371
MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG:
MÔ HÌNH NÀO CHO VIỆT NAM?
Hồ Đức Tiến
Học viện Ngân hàng – Phân viện Phú Yên
Tóm tắt
Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững là mục tiêu mà bất kỳ quốc gia nào cũng đang
theo đuổi, nhưng thách thức đi kèm cũng không hề nhỏ nếu chính sách là sai lầm sẽ mang lại
hậu quả vô cùng to lớn. Việt Nam là một trong những quốc gia thành công với mục tiêu của
mình khi tăng trưởng kinh tế đạt khá trong hơn 20 năm qua, tuy nhiên những năm gần đây mô
hình tăng trưởng kinh với ưu tiên phát triển công nghiệp đã bộc lộ những hạn chế, tốc độ
tăng trưởng chậm lại, kinh tế các khu vực của đất nước phát triển mất cân đối... Bài viết này
nhằm đề xuất mô hình tăng trưởng mới với yếu tố cốt lỗi là chính sách đầu tư mục tiêu trong
giai đoạn 2021-2030, góp phần đưa kinh tế Việt Nam tiến tới tăng trưởng bền vững, gia tăng
thu nhập cho người dân và tối ưu hoá lĩnh vực sản xuất mà các địa phương có thế mạnh.
Từ khoá: Chính sách đầu tư mục tiêu, mô hình cân bằng tổng thể, tăng trưởng kinh tế
AN APPROPRIATE MODEL FOR SUSTAINABLE ECONOMIC GROWTH IN
VIETNAM
Abtracts
A rapid and sustainable economic growth is not only a desirable target but also a
large challenge for every nation because the consequence in case of wrong policies is so
tremendous. In term of economic growth, Vietnam is one of successful countries because of
the decent growth rate over the past 20 years. However, the economic growth model that
priorities industry in recent years has shown many shortcomings, including a slowdown in
growth rate and the increasing imbalance among the development of different economic
sectors. This paper proposes a new economic growth model, in which the core factor is the
targeted investment policy in the period of 2021 – 2030, contributing to the sustaibable
growth of Vietnam’s econmomy, enhancing individuals’ income as well as optimizing the
strengths of each geographical area.
Keywords: Target investment policy, Computable General Equilibrium (CGE),
economic growth

372
ICYREB 2021 | CHỦ ĐỀ 1: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TOÀN CẦU HÓA
1. Giới thiệu
Tăng trưởng kinh tế nhanh và thoát bẫy thu nhập trung bình là mục tiêu ưu tiên hàng
đầu của Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam đã áp dụng mô hình “nền kinh tế
kép” cho một số vùng địa lý và khu vực kinh tế được ưu tiên và có trình độ phát triển cao hơn
so với phần còn lại của đất nước. Các khu vực, lĩnh vực ưu tiên này được kỳ vọng sẽ dẫn dắt
quá trình tăng trưởng và hỗ trợ các khu vực, lĩnh vực khác đạt được sự thịnh vượng chung.
Mô hình kinh tế kép tập trung vào quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa trong hơn 20 năm
qua. Kết quả là, một số khu vực địa lý đã thu hút được nhiều đầu tư hơn và đang tăng với tốc
độ chóng mặt. Một số doanh nghiệp có khả năng tiếp cận tốt hơn với các nguồn lực (ví dụ:
doanh nghiệp nhà nước và công ty tư nhân quy mô lớn có kết nối xã hội rộng rãi) và họ có
nhiều lợi thế hơn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Mô hình nền kinh tế kép ở
Việt Nam, mặc dù cho thấy một số thành công ban đầu, nhưng cũng gặp phải nhiều vấn đề
đáng kể (Dapice, 2003; Pincus, 2016). Đất nước phát triển kinh tế xã hội không đồng đều,
một số vùng thì phát triển năng động, một số vùng còn lạc hậu, thụ động. Tăng trưởng kinh tế
chủ yếu phụ thuộc bởi khai thác tài nguyên thiên nhiên và tăng trưởng kiểu tận diệt đã gây ra
các vấn đề về môi trường. Sự đóng góp của lao động chất lượng cao và khoa học còn hạn chế.
Khoảng cách về thu nhập và phúc lợi xã hội giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng địa lý
ngày càng lớn. Kết quả là kinh tế tăng trưởng chậm lại mà không có dấu hiệu cải thiện, trong
khi các chỉ số kinh tế vĩ mô không ổn định với thâm hụt ngân sách lớn và nợ công ngày càng
tăng (Busch, 2017). Kết quả này phù hợp với các bài học quốc tế rằng mô hình kinh tế kép,
trong hầu hết các trường hợp, sẽ bẫy một quốc gia trong vòng thu nhập trung bình. Ngoài ra,
mô hình kinh tế kép, với hậu quả là sự phát triển không đồng đều, có thể là nguyên nhân cơ
bản dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội và môi trường hoặc thậm chí là bất ổn chính trị. Để
giải quyết thách thức này, Việt Nam cần phải đi theo một mô hình tăng trưởng kinh tế mới
trong thập kỷ tới 2021-2030.
Mục tiêu của mô hình mới là giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững
trên các phương diện: tăng trưởng GDP cao; cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ chiếm ưu thế so với nông nghiệp; không chấp nhận tăng trưởng kinh tế bằng mọi
giá mà ưu tiên sự hiệu quả và có chọn lọc. Để làm được những điều này, tác giả xin đề xuất
mô hình “Nền kinh tế phát triển bao trùm” trong đó chính sách chủ đạo là ưu tiên đầu tư vào
các lĩnh vực có lợi thế kinh tế ở từng vùng của đất nước (gọi tắt là chính sách đầu tư mục
tiêu). Trước đây, một số nghiên cứu đã được thực hiện để ước tính tác động của một chính
sách cụ thể ở Việt Nam (Giesecke và cộng sự, 2013; Baker và cộng sự, 2014). Tuy nhiên, các
khung phân tích được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây là chung chung, không được
xây dựng cho trường hợp của Việt Nam và do đó, chúng không thể tính đến một số bối cảnh
cụ thể nhưng thiết yếu của đất nước. Nghiên cứu này xây dựng một khuôn khổ mô hình có
tính đến các điều kiện cụ thể của từng quốc gia và đánh giá tác động của chính sách đầu tư
mục tiêu trong các kịch bản tăng trưởng được xem xét.

ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
373
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
Phát triển kinh tế bền vững là sự gia tăng nhanh chóng của GDP, an toàn và có chất
lượng về mọi mặt của nền kinh tế (như quy mô sản lượng, sự phù hợp trong cơ cấu kinh tế
…), các chủ thể trong xã hội có cơ hội tiếp cận các nguồn lực và chia sẻ nguồn tài nguyên
thiên nhiên một cách bình đẳng. Các chính sách ban hành không chỉ tập trung mang lại lợi ích
cho một số ít người mà phải tạo ra sự thịnh vượng cho tất cả mọi người (Đỗ Thị Kim Tiên,
2020)
Các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu đánh giá tác động của chính
sách theo một số cách tiếp cận. Các cách tiếp cận này có thể được phân thành hai nhóm lớn,
đó là các mô hình kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, tùy thuộc vào mục tiêu của chính sách và
nghiên cứu. Các mô hình kinh tế vi mô đã được sử dụng để đo lường tác động của chính sách
ở cấp hộ gia đình và doanh nghiệp với trọng tâm chính là các vấn đề phân phối. Đặc điểm nổi
bật nhất của các mô hình kinh tế vi mô là nó tính đến sự không đồng nhất giữa các tác nhân
như cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp (Labandeira và cộng sự, 2009). Một số ví dụ về mô
hình kinh tế vi mô là Hệ thống nhu cầu gần như lý tưởng và các khuôn khổ liên quan của nó
(Minot, 1998; Brännlund & Nordström, 2004; Verde & Tol, 2009; Nikodinoska & Schröder,
2016; Tiezzi & Verde, 2016; Renner et al., 2018 ), mô hình lựa chọn rời rạc (Dalyab và cộng
sự, 2008; Labeaga và cộng sự, 2008; Givord và cộng sự, 2018). Mặc dù các mô hình kinh tế
vi mô rất phổ biến trong việc đánh giá tác động phân bổ của một chính sách, nhưng chúng
thường không nắm bắt được tính đồng nhất của giá cả và các tác động trên toàn nền kinh tế
(Labandeira và cộng sự, 2009). Nhóm thứ hai, các mô hình kinh tế vĩ mô, thường được sử
dụng để dự báo và phân tích các chính sách ngắn hạn và trung hạn. Nhiều mô hình trong số
này dựa trên lý thuyết Keynes (Capros và cộng sự, 1990). Họ sử dụng dữ liệu tổng hợp, quốc
gia hoặc khu vực, bao gồm doanh thu của chính phủ, đầu tư, nợ và tài sản nước ngoài ròng để
xem xét các tác động của chính sách. Một số nghiên cứu đã xây dựng các mô hình kinh tế vĩ
mô kết hợp bối cảnh cụ thể kinh tế xã hội của một quốc gia để đánh giá các tác động chính
sách và hỗ trợ việc ra quyết định trong đời thực (ví dụ, Hilaire và cộng sự, 1990;
Christodoulakis & Kalyvitis, 1998; Garratt và cộng sự, 2003 ; Dreger & Marcellino, 2007;
Hassan & Shahzad, 2011; Hammersland & Træe, 2014). Ở một khía cạnh khác, các mô hình
kinh tế vĩ mô sử dụng các kỹ thuật kinh tế lượng trên chuỗi thời gian để dự báo và đánh giá
tác động chính sách. Phổ biến nhất của loại này là mô hình vector tự hồi quy (VAR) và Mô
hình cấu trúc vector tự hồi quy (SVAR). Với số lượng biến và tham số tương đối nhỏ, các mô
hình này có thể giải thích và dự đoán giá trị của các biến khác nhau bằng cách sử dụng dữ liệu
lịch sử. Mô hình VAR đơn giản hơn vì nó chỉ sử dụng thông tin có trong dữ liệu (Alvarez-De-
Toledo et al., 2008). Mô hình có thể được sử dụng để đánh giá tác động của chính sách tài
khóa và tiền tệ (Bagliano & Favero, 1998; De Castro, 2006; Jääskelä & Jennings, 2011).
Trong khi đó, mô hình SVAR cho phép sử dụng thông tin lý thuyết để xây dựng các mối quan
hệ đồng thời giữa các biến nội sinh trong mô hình (Alvarez-De Toledo et al., 2008). Nhiều

374
ICYREB 2021 | CHỦ ĐỀ 1: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TOÀN CẦU HÓA
nhà nghiên cứu đã áp dụng mô hình SVAR để đánh giá tác động ở quy mô quốc gia và khu
vực (van Aarle và cộng sự, 2003; Sousa & Zaghini, 2007; Mertens & Ravn, 2010; Afonso &
Sousa, 2011; Parkyn & Vehbi, 2014). Các nhánh của mô hình kinh tế vĩ mô cho phép các nhà
nghiên cứu đánh giá các tác động trên toàn nền kinh tế bao gồm, theo thứ tự tăng dần độ phức
tạp, mô hình Đầu vào - Đầu ra (IO), Ma trận Hoạch toán Xã hội (SAM) và mô hình cân bằng
tổng thể khả toán (CGE). Các mô hình IO tập trung vào sự tương tác của các lĩnh vực sản
xuất, thường ít đòi hỏi dữ liệu hơn vì hầu hết dữ liệu cần thiết có thể được cung cấp bởi các
văn phòng thống kê và chúng đã được sử dụng để đánh giá tác động chính sách (Midmore,
1993; Metcalf, 2007; Llop, 2008; Llop & Pié , 2008; Choi và cộng sự, 2010; Chen và cộng
sự, 2015; Choi và cộng sự, 2016; Rocco và cộng sự, 2020). Tuy nhiên, các mô hình IO có một
số hạn chế trong việc nắm bắt phản ứng của các công ty và doanh nghiệp đối với các yếu tố
bên ngoài trong quá trình sản xuất (Karkacier & Gokalp Goktolga, 2005), và mô hình này chỉ
thích hợp để phân tích ngắn hạn với ước tính giới hạn trên cho chính sách tác động (Feng và
cộng sự, 2018). SAM là một công thức mở rộng của mô hình IO bao gồm tất cả các lĩnh vực
của nền kinh tế, bao gồm sản xuất, tiêu thụ, thuế, thương mại quốc tế, thị trường hàng hóa.
SAM cung cấp một cái nhìn nhanh về dòng luân chuyển trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh
tế (Fathurrahman và cộng sự, 2017). SAM dùng để ước tính cách mà một chính sách tập trung
vào một lĩnh vực có thể tác động đến tất cả các lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế (Gallardo
& Mardones, 2013; Shigetomi và cộng sự, 2014; Verma & Pal, 2018; Morrissey và cộng sự,
2019). Tuy nhiên, kết quả của mô hình SAM cần được diễn giải cẩn thận do các giả định hạn
chế của nó như không thể thay đổi giá và nguồn lực không giới hạn. Computable General
Equilibrium – CGE là một trong những công cụ mạnh mẽ nhất để đánh giá các tác động và cú
sốc của chính sách đối với nền kinh tế. Mô hình CGE thường được sử dụng cho các phân tích
trung và dài hạn trong nhiều lĩnh vực bao gồm thương mại quốc tế, nông nghiệp, tài chính
công, chính sách cơ cấu và thậm chí cả phân phối thu nhập (Devarajan & Robinson, 2002).
Mô hình CGE xây dựng dựa trên giả định rằng, trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh,
người sản xuất căn cứ vào giá các yếu tố sản xuất và giá sản phẩm bán ra để xác định mức sản
lượng sản xuất (lượng cung) nhằm tối đa hoá lợi nhuận; người tiêu dùng căn cứ vào mức thu
nhập và giá mua từng loại hàng hoá trên thị trường để xác định mức tiêu dùng (lượng cầu) đối
với từng loại hàng hoá nhằm đạt được mức hữu dụng cao nhất. Giá cả của từng loại hàng hoá
được quyết định thông qua mối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đối với nền kinh tế mở mối
quan hệ giữa sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng, sự lựa chọn của người sản xuất và
người tiêu dùng không chỉ giới hạn trong phạm vi một nước mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn
của thị trường thế giới thông qua các hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ
quyết định cung và cầu ngoại tệ dẫn đến sự điều chỉnh tỷ giá trên thị trường ngoại hối. Trong
điều kiện tự do cạnh tranh, nền kinh tế sẽ tự vận hành và tự điều chỉnh để đạt đến điểm cân
bằng, tại đó lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế đạt được mức tối ưu nhất.
CGE ban đầu đã được sử dụng để dự đoán tác động của những thay đổi ngoại sinh từ
các chính sách mới hoặc các cú sốc không kiểm soát được đối với việc phân bổ lại nguồn lực

ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
375
giữa các khu vực khác nhau của nền kinh tế. Nhiều phiên bản đã được mở rộng từ mô hình
ban đầu này như mô hình đa khu vực, đa quốc gia, toàn cầu, mô hình động hoặc là sự kết hợp
của chúng (Garbaccio và cộng sự, 1999; Wendner, 2001; Bchir và cộng sự, 2003; Lemelin,
2008; Perera và cộng sự, 2014). Trong khi các mô hình CGE đa khu vực nắm bắt các tương
tác chi tiết hơn giữa các khu vực khác nhau trong một quốc gia, các mô hình CGE đa quốc gia
và toàn cầu cung cấp phân tích về nhiều nền kinh tế. Đối với Mô hình CGE động, nền kinh tế
không chỉ hướng đến cân bằng trong ngắn hạn mà còn dịch chuyển theo thời gian để hướng
đến cân bằng trong dài hạn.
2.2. Khung phân tích mô hình cân bằng tổng thể CGE động
Phát triển một mô hình CGE động của một quốc gia - đa khu vực để đánh giá định
lượng kết quả của chính sách đầu tư - mục tiêu trong thập kỷ 2021-2030. Như đã đề cập ở
trên, các nghiên cứu trước đây cho thấy mô hình CGE là một trong những công cụ mạnh nhất
trong kinh tế học để đánh giá tác động chính sách. Mô hình CGE có khả năng định lượng các
tác động trên toàn nền kinh tế trong nhiều lĩnh vực, bao gồm các chính sách phát triển, thương
mại quốc tế, tài chính công, khuyến nông và chính sách phân phối thu nhập (Devarajan và
Robinson, 2002). Nếu được kết hợp với dữ liệu đầy đủ và đáng tin cậy, các mô hình CGE có
thể cung cấp câu trả lời mạch lạc cho bất kỳ câu hỏi chính sách nào một cách có hệ thống
(Borges, 1986). Tuy nhiên, tính sẵn có và độ tin cậy của dữ liệu ở Việt Nam không phải lúc
nào cũng hỗ trợ phát triển mô hình CGE một cách tốt nhất. Dữ liệu rất ít và trong nhiều
trường hợp, không nhất quán nếu được kiểm tra kỹ từ các nguồn khác nhau. Có sự khác biệt
đáng kể trong dữ liệu do các cơ quan chính phủ khác nhau công bố và đặc biệt là dữ liệu do
chính quyền địa phương và trung ương công bố. Vì lý do này, tác giả phải sử dụng kiến thức
chuyên môn về mô hình hóa để khắc phục vấn đề chất lượng dữ liệu khi phát triển một mô
hình có thể giải quyết câu hỏi về chính sách. Mô hình CGE trong nghiên cứu này đặc biệt
được phát triển để thích ứng với bối cảnh thực tiễn ở Việt Nam. Mô hình khu vực hóa toàn bộ
nền kinh tế Việt Nam thành sáu khu vực địa lý theo thông lệ khu vực của Việt Nam. Như thể
hiện trong Hình 1, sáu khu vực địa lý rộng lớn này là (i) Vùng trung du và miền núi phía Bắc,
(ii) Đồng bằng sông Hồng, (iii) Duyên hải miền Trung, (iv) Tây Nguyên, (v) Đông Nam Bộ,
và (vi) Đồng bằng sông Mekong.